You are on page 1of 19

-----------VỘI VÀNG----------

_____________________________________________________XUÂN DIỆU_____________

Nhận định về nhà thơ Xuân Diệu, trong cuốn Thi nhân Việt Nam, nhà phê bình nghiên
cứu Hoài Thanh có viết : Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rạt rào chưa từng thấy ở chốn
non nước lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm cảnh trời, say đắm tình yêu, sống vội vàng, quấn
quýt, muốn tận hưởng cuộc sống ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều
nồng nàn, tha thiết. Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, người đem cho thơ
mới một cặp mắt xanh non biếc rờn, một thế giới quan, quan niệm thẩm mĩ hoàn toàn mới mẻ
và một triết lí nhân sinh tích cực, hiện đại. Bài thơ Vội vàng (1938), in trong tập thơ đầu tay Thơ
thơ – một tác phẩm tiêu biểu hơn cả phong cách nghệ thuật và hồn thơ Xuân Diệu trước Cách
mạng.

Vội vàng là một trong những thi phẩm xuất sắc nhất của Xuân Diệu trước Cách mạng.
Tác phẩm được coi là một bản tuyên ngôn mới mẻ và tích cực về lẽ sống của thi nhân. Nhan đề
bài thơ biểu hiện tập trung chủ đề tư tưởng xuyên bài thơ. Vội vàng trước hết chỉ trạng thái hối
hả, vội vã, cuống quýt của con người trước dòng chảy thời gian. Vội vàng cho thấy rõ ý thức sâu
sắc của nhà thơ về sự trôi chảy quá nhanh chóng, một đi không trở lại của thời gian. Vội vàng
cũng thể hiện sự lo sợ, tiếc nuối khi thời gian trôi đang lấy mất đi bao vẻ đẹp của cuộc đời trần
thế. Vội vàng còn biểu hiện hồn thơ ham sống đến mãnh liệt, bồng bột, một thái độ sống gắn bó
sâu sắc, yêu thiết tha cuộc đời trần thế, đồng thời cho thấy một quan niệm sống đúng đắn, tích
cực, mạnh mẽ, sâu sắc và có ý nghĩa đến từng giây phút của cuộc đời.

13 câu đầu đã thể hiện tình yêu cuộc sống trần thế, mãnh liệt và thiết tha. Trước hết,
4 câu đầu là lời giãi bày khát vọng của thi nhân. Nếu như nói Huy Cận là nhà thơ của nỗi
khắc khoải không gian thì Xuân Diệu lại được coi là nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian. Ngay từ
4 dòng đầu có ý nghĩa như khổ đề từ của bài thơ, Xuân Diệu đã bộc lộ 1 khát vọng mãnh liệt
thiết tha: đó là muốn níu giữ thời gian bằng mọi phương cách:

Tôi muốn tắt nắng đi


Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi

Điệp khúc “Tôi muốn” được lặp lại 2 lần trong khổ, từ đó khẳng định khao khát mãnh liệt
của một cái tôi đầy cá tính: muốn được tắt nắng, buộc gió để màu không phai, hương không bay
để gìn giữ vĩnh viễn vẻ đẹp đầy hương sắc đất trời. Cái tôi chủ quan của thi nhân lại muốn đoạt
quyền điều hành của tạo hóa để níu giữ thời gian cho sự sống và cái đẹp mãi trường tồn trên thế
gian. Ước muốn ấy đẹp lãng mạn và đầy táo bạo nhưng cũng đầy phi lý và không tưởng. Từ đó
phản chiếu một hồn thơ trẻ trung, một trái tim yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt, đắm say. Nghệ
thuật điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc, thể thơ ngũ ngôn gợi nhịp điệu gấp gáp, giục giã cùng
giọng thơ sôi nổi, nồng nàn đã giúp giãi bày trọn vẹn khát vọng sống mãnh liệt và tình yêu cuộc
sống thiết tha của thi nhân.

7 câu thơ tiếp đã cho thấy những khám phá thiên đường trần thế.

Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

Của yến anh này đây khúc si tình

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa

Tháng Giêng ngon như một cặp mồi gần

Trong 4 câu đầu, thi nhân vì quá yêu cuộc sống mà sợ thời gian trôi mau, sợ cái đẹp phai
tàn nên khát khao níu giữ thời gian bằng mọi cách. Nhưng cũng hiểu rằng điều đó là không
tưởng nên thi nhân đã tìm đến một phương thức thực tế khác: thi nhân nhanh chóng bày bữa tiệc
mùa xuân lên mặt đất để tận hưởng và mời gọi mọi người cùng thưởng thức. 7 câu thơ tiếp theo
là tiếng reo vui của thi nhân khám phá ra cả 1 thiên đường trần thế.
4 câu tiếp là thế giới quan mới mẻ đã giúp thi nhân khám phá ra cả một thiên
đường cõi thế. Thế giới xưa cũ ngàn đời bỗng trở nên mới mẻ, hấp dẫn diệu kì trong thơ Xuân
Diệu, là bởi thi sĩ đã thoát khỏi thi pháp ước lệ cổ điển và nhìn thế giới bằng một thế giới quan
hoàn toàn mới mẻ mà Hoài Thanh gọi là cặp mắt non xanh biếc rờn. Cốt lõi làm nên điều mới
mẻ chính là thi nhân đã nhìn qua lăng kính của tình yêu và tuổi trẻ. Chính vì thế thi nhân đã
khám phá thấy cả 1 thiên đường cõi thế ngập tràn xuân sắc, xuân tình:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

Của yến anh này đây khúc si tình

Thơ Xuân Diệu biểu hiện những giá trị nhân sinh tích cực. Trong khi không ít nhà thơ
mới lựa chọn thái độ thoát ly hiện thực, tìm kiếm vẻ đẹp ở những thế giới xa xôi, không tưởng
như cõi bồng lai tiên cảnh:

Trời cao xanh ngắt. Ô kìa!

Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai

(Tiếng sáo thiên thai – Thế Lữ)

Họ trốn tránh thực tại trong vũ trụ xa xăm, bí ẩn:

Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh

Một vì sao trơ trọi cuối trời xa

Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh

Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo

(Những sợi tơ lòng – Chế Lan Viên)


Thế nhưng Xuân Diệu đã đốt cảnh Bồng Lai, xua ai nấy về hạ giới và thể hiện một tình
yêu say đắm, một sự gắn bó sâu sắc với cuộc đời trần thế:

Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn

Làm dây da quấn quýt cả mình xuân

Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần

Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất

(Thanh niên)

Với Xuân Diệu, thiên đường không ở đâu xa xôi mà có ngay trên mặt đất này, giữa cuộc sống
trần gian của con người.

Qua lăng kính của tuổi trẻ, Xuân Diệu nhìn thấy một thế giới tràn ngập xuân sắc, đầy ắp
sự sống và cái đẹp, tràn ngập màu sắc, hương vị, âm thanh. Cõi thiên đường ấy được thi sĩ
chiêm ngưỡng bằng đôi mắt say sưa, bằng tráu ti say đắm với khát khao chiếm lĩnh, tận hưởng.
Xuân Diệu đã sử dụng một hệ thống hình ảnh liệt kê: ong bướm, hoa lá, đồng nội, cành tơ, yến
anh,… để vẽ lên một bức tranh xuân tuyệt đẹp với muôn loài hòa hợp. Thế giới của thảo mộc
tươi non sinh động, thế giới của chim muông ấm áp, hữu tình. Tất cả đều đang ở độ ban đầu,
tươi mới, hấp dẫn và tràn đầy sức sống.“Đồng nội xanh rì” gợi vẻ đẹp mênh mông, căng tràn
nhựa sống, đầy sắc hoa của thiên nhiên. “Cành tơ phơ phất” không chỉ gợi độ tươi non mơn
mởn mà còn gợi lên sự mong manh của thiên nhiên. Những tháng ngày làm mật của ong bướm
hóa “tuần tháng mật” ngọt ngào của tình yêu đôi lứa. “Khúc tình si” là những tiếng hót ríu rít
véo von của chim muông thể hiện sự say đắm của lứa đôi và tình yêu ngọt ngào.

Qua lăng kính của tình yêu, cõi thiên đường trong thơ Xuân Diệu còn là một thế giơi tràn
ngập xuân tình. Xuân trong thơ Xuân Diệu không chỉ là thiên nhiên mà còn như người tình, bởi
thi sĩ luôn nhìn thiên nhiên bằng cặp mắt tình yêu đôi lứa. Điều ngọt ngào trong thiên đường ấy
là tất cả đều có đôi lứa, quấn quýt, say sưa trong hạnh phúc từng loài: ong bướm sống giữa tuần
tháng mật ngọt ngào, yến anh say đắm trong khúc tình si lứa đôi, hoa lá cỏ cây đang giữa độ
xuân thì, quyến luyến, hòa hợp với nhau.
Các sự vật trong bức tranh mùa xuân đều được miêu tả theo từng cặp : ong - bướm, hoa -
đồng nội, lá - cành . Điệp từ của gắn kết các sự vật với nhau trong một mối quan hệ sở hữu bền
chặt, ấm áp. Trong cõi thiên đường ấy không có gì tồn tại đơn lẻ, tất cả đều thuộc về nhau, là
của nhau. Thế giới tự nhiên trong thơ Xuân Diệu như cũng có linh hồn, tâm trạng, biết quấn
quýt, rạo rực yêu đương. Thi nhân đã thổi hồn mình, một tâm hồn khát khao, thiết tha yêu đời
vào bức tranh khiến cõi thiên đường không xa lạ mà gần gũi thân quen, ấm áp yêu thương.

Nghệ thuật diễn đạt của nhà thơ với điệp ngữ này đây được lặp lại trong cả các dòng thơ
tạo thành điệp khúc liệt kê nhằm phơi bày vẻ đẹp giàu có, phong phú, bất tận của hương sắc
cuộc đời, từ đó điệp khúc ấy còn thúc giục, kêu gọi mọi người hãy yêu, tận huởng và gắn bó hết
mình với cuộc sống trần thế tươi đẹp này. Ngoài ra, điệp ngữ này cùng với nhịp điệu dồn dập,
gấp gáp, giọng thơ giống như tiếng reo vui ngỡ ngàng của một hồn thơ trẻ rung, nồng nhiệt,
đang vui sướng, đắm sây, ngất ngây trước vẻ đẹp kì diệu của trần gian.

Ở ba câu sau, thi nhân đã thể hiện một quan niệm thẩm mĩ mới mẻ: lấy con người
làm chuẩn mực cái đẹp được biểu hiện qua cái nhìn độc đáo :

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa

Tháng Giêng ngon như một cặp mồi gần

Trong thi ca trung đại, các nhà thơ cổ điển lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của cái đẹp. Vẻ
đẹp con người thường được đem ra so sánh với hình ảnh thiên nhiên :

Làn thu thuỷ, nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh

(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

Xuân Diệu - "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, người đã “thoát xác" trọn vẹn
khỏi tính chất ước lệ của thi pháp trung đại để xác lập trong thế giới nghệ thuật của mình 1
thước đo thẩm mỹ hoàn toàn mới mẻ : không phải thiên nhiên mà con người mới là chuẩn mực
của mọi vẻ đẹp thế gian, đặc biệt là con người ở giữa tuổi trẻ và tình yêu. Bởi với XD, con
người trần thế là tuyệt tác kì diệu nhất của tạo hóa. Vì thế, vẻ đẹp thiên nhiên giờ đây lại được
XD so sánh với hình ảnh con người:

Rặng liều đìu hiu đứng chịu tang

Tóc buôn buông xuống lệ ngàn hàng

(Đây mùa thu tới)

Lá liễu dài 1 một nét mi

(Nhị hồ)

Trong 3 câu thơ trên quan niệm thẩm mĩ mới mẻ đã giúp nhà thơ sáng tạo được những
hình ảnh thơ, những liên tưởng đẹp độc đáo chưa từng có. Trước hết, ánh sáng trong trẻo, dịu
mát của buổi bình minh mùa xuân được thi nhân so sánh với vẻ đẹp của ánh sáng trong cặp mắt
giai nhân:

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Chỉ bằng một liên tưởng đặc sắc, nhà thơ đã vẽ lên trước mắt chúng ta 1 khung cảnh sớm xuân
rạng rỡ đẹp như ánh sáng tỏa ra từ đôi mắt giai nhân sau 1 giấc ngủ dài.

Trân trọng, nâng niu từng phút giây quý giá của cuộc sống, với XD cuộc đời thật đẹp và
ý nghĩa, mỗi ngày sống là 1 ngày vui, 1 ngày ngập tràn hạnh phúc. Chính vì thế, nhà thơ viết :

Mỗi buổi sớm thân vui hăng gõ cửa

Câu thơ gợi liên tưởng đặc sắc. Mỗi ngày mới đến như có 1 vị thần ban phước lành đem niềm
vui đến cho khắp cõi nhân gian và lòng người hồi hộp đón đợi một niềm vui lớn lao, kì diệu.
Câu thơ ngập tràn niềm vui sướng, hạnh phúc hân hoan của một tâm hồn trẻ trung tràn đầy tình
yêu cuộc đời đến mức không chịu bỏ lỡ một thơi khắc tươi đẹp nào của cuộc đời.

Đặc biệt câu thơ Tháng giêng ngon như một cặp môi gần là một sáng tạo nghệ thuật đẹp
độc đáo hơn cả. Câu thơ bộc lộ biệt tài của Xuân Diệu: khả năng hữu hình hoả, cụ thể hoá
những thứ vô hình, trừu tượng. Tháng giêng - tháng khởi đầu mùa xuân khoảng thời gian ngọt
ngào, tươi đẹp nhất trong năm lại được ví như làn môi tươi thắm đang gần kề. Cách so sánh vô
cùng táo bạo và đầy bất ngờ củ XD khiến cho mùa xuân hóa thành nỗi khát khao, say đắm trog
tình yêu của con người. Với từ ngon, câu thơ còn sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác
rất tinh tế khiến cho mùa xuân cuộc đời hiện lên đẹp tuyệt diệu, ngọt nào và đầy quyến rũ. Vẻ
đẹp của mùa xuân không chr được cảm nhận bằng thị giác, vị giác mà còn được cảm nhận bằng
những cảm giác, những rung độn tinh tế, kì diệu trong tâm hồn của thi nhân.

Với thủ pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, điệp từ, ngữ, cấu trúc, nghệ thuật ẩn dụ
chuyển đổi cảm giác, đoạn thơ không chỉ khắc hoạ khung cảnh tuyệt đẹp của đất trời vào xuân,
vẻ đẹp đầy hương sắc của cuộc đời mà còn cho thấy vẻ đẹp kì diệu trong tâm hồn thi nhân 1
tâm hồn trẻ, trung, sôi nổi, tràn đầy sức sống và tình yêu cuộc sống. Chính tình yêu say đắm với
cuộc đời đã giúp cho thị nhân khám phá thấy ngay trên mặt đất này 1 thiên đường ngọt ngào,
hạnh phúc.

Đặc biệt, 2 câu cuối đã bộc lộ rõ triết lí nhân sinh mới mẻ, tích cực của nhà thơ :

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân

Xuân Diệu là 1 hồn thơ yêu sống đến cuồng nhiệt nhưng cũng vô cùng nhạy cảm trước sự
trôi của thời gian. Dòng thơ thứ nhất ngắt thành 2 câu ngắn: Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng
nửa. Cấu trúc đặc biệt này diễn tả những cảm nhận của thi nhân về sự ngắn ngủi của niềm hạnh
phúc và sự hối hả, gấp gáp của thời gian. Tâm trạng thi nhân vì thế đan xen nhiều cung bậc cảm
xúc: vừa vui sướng, hạnh phúc, vừa vội vàng, nuối tiếc.

Ngay trong tiếng reo vui Tôi sung sướng khi khám phá được vẻ đẹp của thiên đường trần
thế đã thảng thốt một nỗi lo âu, hụt hẫng. Dấu chấm giữa dòng thơ như một dấu lặng đột ngột,
thể hiện sự đau đớn, nghẹn ngào của thi nhân khi niềm vui không trọn vẹn, khi nỗi lo sợ thời
gian sẽ cướp đi vẻ đẹp của cuộc sống khiến cho thi nhân vội vàng, cuống quýt.

Nhận thức ấy đã dẫn Xuân Diệu đến 1 nhân sinh quan hoàn toàn mới mẻ: Tôi không chờ
nắng hạ mới hoài xuân. Xuân Diệu khác đời, khác người ở chỗ: thông thường, con người nhớ
tiếc tuổi trẻ - mùa xuân cuộc đời khi nó đã qua đi. Nhưng Xuân Diệu lại nhớ tiếc cái mùa đẹp đẽ
ấy ngay khi đang sống giữa nó. Điều ấy đưa thi nhân đến 1 quan niệm sống tích cực: sống đón
trước thời gian. Qua đó, Xuân Diệu muốn nhắn gửi đến tất cả chúng ta: ngay hôm nay, ngay
giây phút này, con người hãy sống hết mình, sống có ý nghĩa để không hoài phí từng phút giây
tươi đẹp của thanh xuân, những tháng ngày đẹp đẽ của đời người.

16 câu tiếp bộc lộ niềm băn khoăn, trăn trở của thi nhân về sự ngắn ngủi của tuổi
xuân, sự hữu hạn của đời người và xót xa, tiếc nuối trước sự trôi chảy quả nhanh chóng
của thời gian. Đoạn thơ bộc lộ niềm băn khoăn, trăn trở của thi nhân về sự ngắn ngủi của tuổi
xuân, sự hữu hạn của đời người và xót xa tiếc nuối trước sự trôi chảy quá nhanh của thời gian.
Toàn bộ đoạn thơ cho thấy những quan niệm hết sức tích cực, mới mẻ về thời gian, xuất phát từ
sự thức tỉnh sâu sắc ý thức cả trong nhà thơ. Đoạn thơ cũng góp phần làm rõ ý nghĩa nhan đề và
lý giải cho cội nguồn triết lý nhân sinh tích cực, hiện đại trong thơ Xuân Diệu.

Trước hết ở 9 câu thơ đầu, sự thức tỉnh của ý thức cá nhân khiến nhà thơ nhận thức
thấy quy luật nghiệt ngã của thời gian:

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian;

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.

Xuân Diệu đã đưa ra cách cảm nhận mới mẻ, hiện đại về thời gian khác hẳn quan niệm
của thi ca trung đại. Thời gian khách thể, thời gian tự nhiên thì muôn đời vẫn thế, nhưng mỗi
thời đại, mỗi cá nhân lại có cách cảm nhận khác nhau. Thi nhân xưa quan niệm thời gian là một
tuần hoàn bất biến, là luân hồi, vĩnh viễn. Con người là một phần của tự nhiên, vũ trụ, tồn tại
vĩnh hằng trong vòng luân hồi cùng vũ trụ. Vì thế thi nhân trung đại ung dung, tự tại, không sợ
tuổi già và cái chết :

Sinh lão bệnh tử

Tự cổ thường niên

(Diệu Nhân ni sư)

Nhưng thi nhân thơ mới, đặc biệt là Xuân Diệu dứt khoát không chấp nhận, đồng nhất
thời gian vũ trụ với thời gian đời người, không cho rằng thời gian là tuần hoàn vĩnh viễn mà
quan niệm thời gian và tuyến tính, là mất mát, một đi không trở lại.

Cái bay không đợi cái trôi

Từ tôi phút trước sang tôi phút này

(Đi thuyền)

Cách cảm nhận ấy dẫn Xuân Diệu đến một phát hiện tưởng như phi lý, nghịch lý :

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

Với Xuân Diệu thời gian luôn trôi chảy, không có gì là tồn tại vĩnh cửu, mỗi khoảnh khắc
thời gian đến là đi, trôi là mất. Xuân Diệu nhìn thấy sự phai tàn, mất mát của sự vật ở ngay thời
điểm nó đang tồn tại, thậm chí chưa đi qua.

Ở 2 câu thơ, nghệ thuật nghệ thuật điệp cấu trúc điệp từ xuân 4 lần liên tiếp kết hợp với
kiểu câu định nghĩa, điện giải cùng với lỗi diễn đạt có tính chất khái quát, đối lập, bỏ qua giai
đoạn giữa, đương tới - đương qua, còn non - sẽ già đã diễn tả sự trôi chảy quá nhanh chóng,
bước đi vùn vụt của thời gian đời người. Từ xuân trong câu thơ có hai hàm nghĩa. Về nghĩa tả
thực, nó chỉ mùa xuân của tự nhiên, đất trời, vũ trụ. Nhưng từ xuân chủ yếu mang ý nghĩa ẩn dụ
để chỉ mùa xuân cuộc đời, tuổi trẻ của con người.
Nếu như thi nhân xưa gắn thời gian tới sinh mệnh vũ trụ vĩnh hằng, vĩnh cửu thì Xuân
Diệu lại gắn thời gian với sinh mệnh cá nhân hữu hạn. Thời gian không trôi đi một mình mà
cuốn theo nó cả sự sống quý giá của con người, đặc biệt là tuổi trẻ:

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

Lòng tôi rộng nhưng lượng mới cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Xuân Diệu ý thức sâu sắc về sự hữu hạn của đời người, nhất là sự ngắn ngủi của tuổi trẻ -
mùa xuân cuộc đời. Nhà thơ đã có sự nhận về thời gian trong mối liên hệ sâu sắc với tuổi trẻ.
Xuân Diệu đã lấy khoảng thời gian quý giá nhất của đời người là tuổi trẻ làm thước đo thời gian
cuộc đời và nhận thấy trong dòng thời gian đang trôi nhanh vùn vụt, kiếp người thật mong
manh và ngắn ngủi. Ý thức ấy khiến lời thơ thấm đẫm nỗi đau đớn, tiếc nuối, xót xa của thi
nhân.

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời

Câu thơ Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Xuân Diệu đưa ra 1 cái nhìn đối lập với ý
thơ nổi tiếng của Mãn Giác Thiền sư:

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

Được dịch là:

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một nhành mai


Đại thi hào Nguyễn Du trong kiệt tác Truyện Kiều cũng từng đưa ra quan niệm về sự
tuần hoàn của thời gian :

Sen tàn cúc lại nở hoa

Đêm dài ngày ngắn đông đà sang xuân

Thi nhân xưa sở dĩ có cái nhìn ung dung, bình thản trước thời gian là bởi thời gian ấy nằm ngoài
cá thể con người, nó thuộc về vũ trụ bất biến và luân hồi vĩnh viễn. Nhưng Xuân Diệu, với sự
thức tỉnh sâu sắc ý thức cá nhân đã phủ nhận quan niệm ấy : Mùa xuân đất trời có thể tuần hoàn
trở lại, nhưng mùa xuân cuộc đời - tuổi trẻ con người thì chẳng 2 lần thắm lại. Mà với XD - nhà
thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ thì “xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”.

Sự tương phản giữa lòng tôi rộng và lượng trời cứ chật là sự tương phản giữa khát khao
được sống mãi trong tuổi trẻ của thi nhân với quy luật tự nhiên vũ trụ không cho dài thời trẻ của
nhân gian. Trong câu thơ còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi, nhà thơ đưa ra sự đối lập tương
phản giữa cái còn và cái mất, giữa trời đất, tượng trưng cho vũ trụ bao la, vĩnh hằng, vô hạn với
cái tôi cá nhân nhỏ bé, đơn độc, hữu hạn của nhà thơ. Chính vì thế, lời thợ thấm thía nỗi xót xa,
đau đớn, tiếc nuối ngập tràn của thi nhân.

7 câu thơ cuối, nhà thơ cảm nhận đầy mất mát về thời gian. Đoạn thơ tiếp theo diễn tả
những cảm nhận bi kịch về sự sống đang mất mát dần dưới tác động của thời gian. Đến đây
mạch thơ hoàn toàn chuyển, hình ảnh và giọng điệu thơ biến đổi khác hẳn phần đầu. Do ý thức
sâu sắc về sự trôi chảy quá nhanh chóng, 1 đi không trở lại của thời gian, nên cảm nhận về thời
gian của Xuân Diệu đầy tính mất mát:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,

Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt....

Con gió xinh thì thào trong lá biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi ?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,


Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa ?

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…

Thời gian không trôi đi một mình mà còn cuốn theo dòng chảy của nó biết bao sự sống và
cái đẹp. Bằng sự sáng tạo trong sử dụng từ ngữ, hình ảnh nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác,
nhà thơ đã hữu hình hóa những cảm xúc vô hình, trừu tượng để diễn tả sâu sắc tâm trạng đau
xót, tiếc nuối của con người.

Trước hết, hình ảnh thơ thay đổi, chuyển sang 1 trạng thái hoàn toàn khác. Nếu như
ở phía trên, thi nhân phơi bày 1 thiên đường mùa xuân ngọt ngào, tràn trề sức sống, vạn vật đều
có đôi, hạnh phúc ngọt ngào thì đến đây thiên đường mùa xuân hạnh phúc vụt biến đi, không
thể nào cứu vãn, không cách gì níu giữ. Vẫn là khung cảnh mùa xuân với gió xinh, lá biếc, chim
muông, nhưng tất cả đã biến đổi. Nếu như ở phần trên phơi bày một thiên đường mùa xuân ngọt
ngào tràn trề sức sống, vạn vật đều có đôi ấm áp hạnh phúc thì đến đây thiên đường hạnh phúc
vụt biến đi như 1 ảo ảnh, để thay vào đó là 1 thế giới hiện thực tàn nhẫn với những phai tàn, li
biệt, mất mát không thể nào cứu vãn :

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt

Dòng thời gian vô hình được cảm nhận bằng cả khứu giác và vị giác để thấy được cả mùi,
cả vị của sự chia phôi, tiễn biệt. Nỗi đau của thi nhân trước sự mất mát, phai tàn của cái đẹp và
sự sống như thấm đẫm mọi thời gian, không gian, bao phủ mọi sự vật. Mỗi khoảnh khắc trôi
qua là 1 sự mất mát, chia lìa. Mỗi sự vật trong vũ trụ bao la đang từng giây, từng phút ngậm
ngùi, tiễn biệt phần đời đẹp đẽ nhất của mình, chia ly với tuổi trẻ và sự sống của chính mình :

"Con gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa".


Thơ Xuân Diệu luôn có những cảm nhận đầy mất mát, chia ly trước quy luật nghiệt ngã
của thời gian :

Hoa nở để mà tàn

Trăng tròn để mà khuyết

Bèo gần để chia tan

Người gần để ly biệt

Vì thế giọng điệu thơ cũng chuyển đổi sang một cung bậc khác. Tiếng reo vui náo nức
ở phần đầu đã chuyển sang giọng điệu u hoài, buồn bã. Thi nhân đã dùng hàng loạt từ ngữ giàu
sắc thái biểu cảm để diễn tả nỗi lo âu, thấp thỏm, sự nuối tiếc ngập tràn như : Rớm vị chia phôi,
than thầm tiễn biệt, thì thào, hờn, đứt, sợ.... Và đỉnh điểm của tâm trạng ấy là tiếng than tuyệt
vọng: Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...

Câu thơ sử dụng cấu trúc ngắt câu giữa dòng để chia dòng thơ thành hai câu ngắn với
thán từ Ôi ở giữa cùng với việc sử dụng lặp lại cụm từ chẳng bao giờ như càng xoáy sâu vào
nỗi đau xót nghẹn ngào, tiếc nuối, vô vọng của thi nhân khi phải nhìn thời gian chảy trôi vùn
vụt chứa đựng bao thứ tươi đẹp mà không cách nào níu giữ.

Cách cảm nhận đầy tính mất mát về thời gian như vậy, xét đến cùng là do sự thức tỉnh
sâu sắc ý thức cá nhân, khát khao được sống có ý nghĩa, nâng niu trân trọng từng phút giây quý
báu của cuộc đời ở thi nhân.

Trong phần đầu bài thơ, thi nhân đã bày tỏ khát vọng muốn được níu giữ, khuất phục thời
gian bằng mọi cách, muốn được đi ngược lại với quy luật của tự nhiên, đoạt quyền điều hành
của tạo hóa để sắp xếp vũ trụ theo ý muốn, để cái đẹp mãi trường tồn nhưng thi nhân cũng hiểu
điều đó là không tưởng nên đến 10 câu thơ cuối là triết lí sống tích cực, hiện đại của nhà
thơ:

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,

Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Mạch cảm xúc của bài thơ có sự chuyển đổi liên tục từ vui sướng hạnh phúc ngập tràn
khi phát hiện ra cả 1 thiên đường trần thế, đến băn khoăn, nuối tiếc trước sự trôi chảy quá nhanh
chóng của thời gian và đau đớn, tuyệt vọng khi cùng với thời gian bao vẻ đẹp đang mất đi, bao
sự sống đang phai tàn. Tưởng như thi nhân đã hoàn toàn bất lực và tuyệt vọng khi cất tiếng than
đứt ruột: Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa! Nhưng với tình yêu cuộc sống đắm say, mãnh
liệt, thi nhân đã không chấp nhận đầu hàng quy luật, khuất phục trước thời gian, mà đã tự tìm ra
cho mình 1 thái độ ứng xử tích cực trước thời gian, 1 triết lý sống hiện đại để chống chọi và
chiến thắng thời gian.

Đoạn cuối cùng làm nổi bật tính chất trữ tình - chính luận, sự đan xen giữa mạch luận lý
chặt chẽ, sắc sảo, logic với mạch cảm xúc nồng nàn, sôi nổi, đắm say của bài thơ. 10 câu cuối
của bài thơ thi nhân đã tìm ra 1 giải pháp, 1 phương thức thực tế hơn để gìn giữ thời gian : đó là
triết lý sống vội vàng.

Trước hết, triết lí sống vội vàng của thi nhân hướng tới 1 lối sống tốc độ: sống vội
vàng, hối hả, chạy đua với thời gian, sống đón trước thời gian. Thông thường con người ta tiếc
nhớ mùa xuân, tuổi trẻ cuộc đời của mình khi nó đã đi qua thì Xuân Diệu lại khác đời, khác
người ở chỗ ông tiếc nhớ cái mùa đẹp đẽ ấy ngay khi đang sống giữa nó. ông không chờ nắng
hạ mới Hoài xuân, tận hưởng cuộc đời tươi đẹp khi "mùa chưa ngả chiều hôm", khi tình yêu
chưa phai tàn. Chính vì thế, nhà thơ giục giã, hối thúc mình và mọi người sống vội vàng, cuống
quýt: Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm.

Đây là giọng điệu đặc trưng trong nhiều bài thơ của XD :

Mau với chứ, vội vàng lên với chứ

Em, em ơi! Tình non sắp già rồi

Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai

Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn

(Giục giã)

Bên cạnh đó, triết lý sống vội vàng của thị nhân còn hướng tới 1 lối sống cường độ:
sống mạnh mẽ, sâu sắc, mãnh liệt, đón nhận cuộc sống bằng mọi giác quan :

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Ta đã từng bắt gặp tuyên ngôn ấy của XD trong bài thơ Thanh niên :

Sống toàn tim! Toàn trí! Sống toàn hồn!

Sống toàn thân! Và thức nhọn giác quan.


Câu thơ Ta muốn ôm có cấu trúc và vị trí đặc biệt trong bài thơ. Câu thơ với 3 tiếng ngắn
gọn, đứng tách riêng thành 1 câu độc lập, đặt ở giữa dòng như một hiệu lệnh khẩn trương, thúc
giục để bắt đầu lời tuyên bố dõng dạc, mạnh mẽ về lẽ sống, triết lý sống vội vàng của một cái
tôi đầy khát khao chiếm lĩnh.

Điệp khúc ta muốn ấy tiếp tục được lặp lại trong hầu hết đầu mỗi dòng thơ, để giãi bày,
khẳng định 1 khát vọng sống mãnh liệt của 1 cái tôi yêu sống đến vồ vập, đắm say. Ở phần đầu
bài thơ, thi nhân xưng tội với mong muốn bộc bạch tâm sự với tư cách cá nhân. Đến đây thi sĩ
lại xưng ta để bày tỏ, khẳng định 1 tư thế mới. Vẫn là cái tôi cá nhân nhưng từ ta đã khẳng định
một tư thế kiêu hãnh, rộng mở, một khát khao mãnh liệt, một tư thế đối diện với toàn bộ vũ trụ
bao la, tư thế chiếm lĩnh toàn thể trần gian tươi đẹp này :

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

7 câu cuối, nghệ thuật diễn đạt cùng với cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh góp phần làm nổi
bật khát vọng sống mạnh mẽ, niềm khát khao tận hưởng gắn liền với 1 triết lí nhân sinh tích
cực, hiện đại của thị nhân:

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Thi nhân sử dụng 1 hệ thống hình ảnh liệt kê vừa cụ thể, hữu hình, vừa biến ảo, khó nắm
bắt như : mây đưa, gió lượn, cánh bướm, non nước, có rạng, hương thơm, ánh sáng, thanh sắc...
để vẽ lên 1 bức tranh xuân hồng tươi tắn, rạng rỡ, xôn xao sự sống, đầy ắp niềm vui, hạnh phúc.
Tất cả những sự sống trần gian tươi đẹp ấy đều đang ở độ mới mẻ, non tơ, tinh khôi và
tràn trề sự sống : mới bắt đầu mơn mởn. thiên nhiên ấy được nhìn qua lăng kính của tình yêu và
tuổi trẻ, đặc biệt là ánh mắt say mê của trái tim yêu say đắm khiến cho cảnh vật đẹp tinh tế,
thiên đường trần thế một lần nữa xuất hiện trở lại cùng với tâm hồn trẻ trung, sôi nổi đang rộng
mở đón nhận vẻ đẹp thế gian của nhà thơ.

Nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc được sử dụng liên tiếp trong đoạn thơ. Điệp ngữ ta
muốn được lặp lại 5 lần, điệp từ và, điệp từ cho được sử dụng 3 lần không chỉ tạo tính nhạc,
nhịp điệu cho lời thơ mà còn tạo nên tiết tấu gấp gáp, vội vã, giọng điệu sôi nổi, vồ vập, diễn tả
niềm khao khát manh liệt của 1 cái tôi vội vàng, cuống quýt, muốn tận hưởng trọn vẹn sự sống
vô biên của vũ trụ, vẻ đẹp vô tận của cõi đời.

Trong đó động từ và lặp lại liên tiếp trong một dòng thơ Và non nước, và cây, và cỏ rạng
đã liệt kê, phơi bày sự giàu có vô tận, sự phô diễn thừa thãi của vẻ đẹp bữa tiệc trần gian, đồng
thời lột tả sâu sắc sự khát thèm vô tận của thi nhân muốn được tận hưởng nhiều thêm nữa, nhiều
thêm mãi vẻ đẹp của cuộc đời.

Còn điệp từ cho được sử dụng liên tiếp trong 2 dòng thơ gắn liền với các trạng ngữ chếnh
choáng, no nê, đã đầy đã cực tả được khát khao cháy bỏng của một tâm hồn yêu sống đến mãnh
liệt, say mê và những cảm xúc vui sướng, mãn nguyện, hạnh phúc ngập tràn của thi nhân khi
được tận hưởng bữa tiệc trần gian, được đắm mình trong men say, mật ngọt và vẻ đẹp kỳ diệu
của thời tươi, của thanh sắc cuộc đời.

Đặc biệt, diễn tả tình yêu cuộc sống đắm say và khát khao tận hưởng mãnh liệt, nhà thơ
huy động mọi giác quan và sáng tạo 1 hệ thống động từ mạnh tăng cấp: ôm, riết, say, thâư và
cuối cùng là cắn. Nếu ôm diễn tả niềm khát khao chiếm lĩnh, thì đến riết cảm xúc đã cuồng
nhiệt hơn, đến say thì trạng thái đã chuyển thành đê mê, đắm đuối và thâu lại là khát khao được
chiếm lĩnh tuyệt đối, thâu tóm trọn vẹn cả non nước, cỏ cây vạn vật trong vũ trụ bao la này.

Câu kết là đỉnh điểm hội tụ toàn bộ cảm xúc, khát khao và tình yêu say đắm với cuộc đời
của thi nhân:

Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi


Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác gợi liên tưởng độc đáo. Mùa xuân căng tràn nhựa sống
giống như 1 trái chín ngọt ngào, tươi thắm đang ngào ngạt hương thơm và căng mọng mật ngọt
quyến rũ, mời gọi con người thưởng thức, tận hưởng.

Những động từ ôm, riết, say, thâu mới chỉ là những cảm nhận bình thường, không khiến
thi nhân thấy đủ đầy, thỏa mãn nên thi nhân muốn được cắn vào xuân hồng để được tận hưởng,
thấm hút, ngấm sâu vào trong tâm hồn, thể xác của mình hương vị ngọt ngào, chất men say đắm
của mùa xuân, vẻ đẹp kì diệu của sự sống.

Nhà thơ sử dụng hàng loạt ẩn dụ chuyển đổi cảm giác để hữu hình hóa, cụ thể hóa vẻ đẹp
thiên nhiên, đất trời. Bên cạnh đó, nghệ thuật điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc, biện pháp liệt kê
kết hợp với giọng điệu sôi nổi, gấp gáp, hối hả đã làm bật dòng cảm xúc trào dâng mãnh liệt và
diễn tả trọn vẹn tình yêu cuộc sống đắm say, nồng nhiệt trong tâm hồn thi nhân.

Về nội dung tư tưởng, Vội vàng là tiếng nói của 1 tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đắm
say, cuồng nhiệt. Qua bài thơ, Xuân Diệu phát biểu 1 quan niệm nhân sinh tích cực, mới mẻ
chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống. cốt lõi của quan niệm ấy bắt nguồn từ sự thức tỉnh ý
thức sâu sắc về thời gian, về sự hữu hạn của đời người và tuổi xuân.

Thi nhân vì yêu cuộc sống mà khám phá thấy cuộc đời trần thế đẹp như một cõi thiên
đường. Nhưng đồng thời cũng nhận thấy đời người là hữu hạn, tuổi xuân ngắn ngủi, thời gian
có thể cướp đi tất cả. Cách duy nhất để giữ gìn cuộc sống, chạy đua với thời gian là phải sống
vội vàng.

Tác phẩm gửi đến người đọc những thông điệp nhân văn sâu sắc có ý nghĩa muôn đời :
con người cần phải biết nâng niu cái đẹp và sự sống, cần phải biết quý trọng tuổi xuân và từng
phút giây quý giá của cuộc đời. Vội vàng (không phải là sống gấp, sống hưởng thụ mà) là lời
nhắc nhở, kêu gọi con người biết tận dụng thời gian quý báu của cuộc đời để có thể sống được
nhiều nhất, dài nhất trong một khoảng thời gian ngắn nhất, để làm được nhiều hơn những điều
có ích, có ý nghĩa, đem lại giá trị cho bản thân và cuộc đời.

Về nghệ thuật biểu đạt, bài thơ tiếp nhận tích cực ảnh hưởng của thơ ca phương Tây,
đặc biệt thơ tượng trưng, thơ lãng mạn Pháp. Bài thơ có nhiều sáng tạo độc đáo trong ngôn từ,
diễn đạt, hình ảnh thơ tân kì chưa từng có. Thể thơ tự do với chủ yếu là thơ 8 chữ với cách gieo
vần, ngắt nhịp tự do, linh hoạt. Các biện pháp nghệ thuật đặc sắc : điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu
trúc, liệt kê, so sánh, nhân hóa, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác cùng với nghệ thuật phối vần, phối
âm, phối thanh bằng trắc uyển chuyển, linh hoạt để tạo nên những câu thơ giàu tính nhạc, tính
gợi hình, gợi cảm. Cú pháp hiện đại, mới mẻ, sử dụng lôi ngắt câu. Bài thơ còn sự đan xen giữa
chất chính luận - trữ tình, giữa mạch luận lí - cảm xúc khiến lời thơ vừa khúc chiết, chặt chẽ,
giàu triết lý ,lại vừa dạt dào cảm xúc, đậm chất trữ tình.

Có thể nói, với Vội vàng cùng nhiều bài thơ khác đã cho thấy Xuân Diệu là nhà thơ mới
nhất trong các nhà thơ mới, Xuân Diệu mới trong tư tưởng, trong cách thể hiện. Bài thơ không
chỉ bộc lộ một thế giới quan, 1 quan niệm thẩm mĩ mới mà còn cho thấy một triết lý nhân sinh
tích cực, hiện đại chưa từng có. Trong khi Thơ Mới, âm hưởng chính là nỗi buồn, tâm trạng
chính là thoát ly, thì Xuân Diệu lại khám phá niềm vui, vẻ đẹp cõi trần từ chính cuộc sống bế
tắc, phiền muộn mà con người đang lẩn trốn. Điều ấy chỉ có thể tìm thấy ở một trái tim mạnh
mẽ, yêu sống đến đam mê và gắn bó thiết tha với cuộc đời. Đây chính là cội rễ sâu xa hình
thành nên triết lý nhân sinh mới mẻ, tích cực và đầy nhân văn trong thơ Xuân Diệu.

VỘI VÀNG CÓ 3 ĐỀ

ĐỀ 1: 13 CÂU ĐẦU: TÌNH YÊU CUỘC SỐNG TRẦN THẾ MÃNH

LIỆT

ĐỀ 2: 16 CÂU TIẾP: NIỀM BĂN KHOĂN, TIẾC NUỐI TRƯỚC

DÒNG CHẢY THỜI GIAN

ĐỀ 3: 10 CÂU CUỐI: TRIẾT LÍ SỐNG TÍCH CỰC HIỆN ĐẠI

ĐẾN KHI KIỂM TRA TỰ TÁCH RA ĐỂ VIẾT

You might also like