You are on page 1of 5

1

Nội dung 4: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về bản chất, nguồn gốc, tính
chất của tôn giáo, các nguyên tắc cơ bản xử lý mối quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và tôn
giáo. Đặc điểm, tình hình tôn giáo và chính sách tôn giáo của Việt Nam hiện nay.

Bài làm:

MỞ BÀI

Đầu tiên là bản chất của tôn giáo. Theo chủ nghĩa Mác – Lenin, tôn giáo là một hình thái
ý thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan vào đầu óc
con người. Thông qua sự phản ánh đó, các lực lượng tự nhiên và xã hội trở thành siêu
nhiên, thần bí. Ở một cách tiếp cận khác, tôn giáo là một dạng tín ngưỡng được thể hiện
dưới những tiêu chí cơ bản sau: có hệ thống giáo lý làm cơ sở cho niềm tin, ý thức tôn
giáo; có hệ thống lễ nghi; có giáo luật; có hệ thống có sở thờ tự; có tổ chức, giáo hội. Chỉ
rõ bản chất của tôn giáo, chủ nghĩa Mác – Lenin khẳng định: “Tôn giáo là một hiện tượng
xã hội – văn hóa do con người tạo ra.” Họ tạo ra vì mục đích, lợi ích, phản ánh ước mơ,
suy nghĩ của họ, nhưng họ lại bị lệ thuộc vào tôn giáo, tuyệt đối hóa và phục tùng vô điều
kiện. Ở đây cần phân biệt tôn giáo với tín ngưỡng và mê tín dị đoan. Tín ngưỡng là hệ
thống những niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào các sự vật, hiện tượng, lực
lượng siêu nhiên nào đó để cầu mong sự che chở, giúp đỡ. Còn mê tín dị đoan là niềm tin
của con người vào các lực lượng siêu nhiên đến mức độ mê muội, cuồng tín, dẫn đến
những hành vi cục đoan, sai lệch quá mức, trái với các giá trị văn hóa, đạo đức, pháp luật,
ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội. Do đó, bên cạnh việc tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo
thì cũng cần phải lên án, chống lại những hành vi mê tín dị đoan.

Không phải tôn giáo tạo ra con người mà chính con người tạo ra tôn giáo. Chủ nghĩa Mác
Lenin đã đưa ra những yếu tố dẫn đến sự ra đời của tôn giáo. Một là nguồn gốc kinh tế -
xã hội. Trong xã hội công xã nguyên thủy, do trình độ của lực lượng sản xuất thấp kém
khiến con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước các sức mạnh tự phát của tự nhiên, do
đó con người gán cho tự nhiên những sức mạnh to lớn và thần thánh hóa những sức mạnh
đó. Khi xã hội xuất hiện các giai cấp đối kháng, áp bức giai cấp cũng là một nguyên nhân
làm cho con người hướng niềm tin vào thế giới siêu nhiên dưới hình thức tín ngưỡng, tôn
giáo. Kinh tế - xã hội luôn diễn ra sự tác động đến con người một cách may rủi, ngẫu
nhiên, cũng làm cho con người nảy sinh tín ngưỡng, tôn giáo. Hai là nguồn gốc nhận thức
của tôn giáo. Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, sự thiếu hiểu biết của con người, không lý
giải được các hiện tượng tự nhiên, xã hội, thì khi đó dẫn đến nảy sinh các quan điểm tôn
giáo. Con người có khả năng khái quát hóa hiện thực bằng các khái niệm, chẳng hạn như
“thiên đường”, “địa ngục”, phạm trù trừu tượng đến mức xa rời hiện thực, phản ánh sai
lệch hiện thực. Đó cũng là cơ sở nhận thức để hình thành các phạm trù, khái niệm, học
2

thuyết tôn giáo. Ba là nguồn gốc tâm lý. Sự sợ hãi trước những hiện tượng tự nhiên, xã
hội; hay những lúc ốm đau, bệnh tật; hay cả những may, rủi bất ngờ; hoặc tâm lý muốn
được bình yên khi làm việc lớn; đưa con người tìm đến với tôn giáo. Bên cạnh đó, những
tình cảm tích cực; lòng biết ơn; lòng kính trọng của con người cũng dẫn đến những hiện
tượng tín ngưỡng, tôn giáo. Việc tách thành các nguồn gốc trên chỉ có ý nghĩa tương đối,
và không tách biệt một cách rõ ràng. Chúng tác động đan xen lẫn nhau dẫn đến nảy sinh
tín ngưỡng, tôn giáo. Đặc biệt trong đó, yếu tố kinh tế - xã hội là yếu tố quyết định.

Tôn giáo cũng có những tính chất riêng của nó. Đầu tiên, tôn giáo là hiện tượng xã hội có
tính lịch sử. Tôn giáo chỉ xuất hiện khi loài người phát triển đến một trình độ lịch sử nhất
định và không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của con người, chẳng hạn như Phật
giáo bắt đầu xuất hiện vào thế kỷ 6 TCN. Tôn giáo ra đời, tồn tại và phát triển và biến đổi
cùng với những biến đổi của thời đại để thích nghi với nhiều chế độ chính trị - xã hội, ví
dụ như phong trào Cải cách tôn giáo. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin, tôn
giáo sẽ dần mất đi vị trí của nó trong xã hội khi những nguồn gốc sản sinh ra tôn giáo bị
loại bỏ. Tuy nhiên, đây sẽ là một quá trình lịch sử rất lâu dài. Tiếp theo, tôn giáo có tính
quần chúng. Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phổ biến ở tất cả các dân tộc, quốc gia,
châu lục. Tín quần chúng của tôn giáo không chỉ thể hiện qua số lượng tín đồ tôn giáo
luôn chiếm tỉ lệ rất đông đảo (gần ¾ dân số thế giới); mà còn thể hiện ở chỗ, các tôn giáo
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân. Thứ
ba là tính chính trị của tôn giáo. Trong xã hội chưa có giai cấp, tôn giáo chưa mang tính
chính trị. Khi xã hội đã phân chia giai cấp, tính chất chính trị của giai cấp xuất hiện; và ở
đó, tôn giáo bị các giai cấp thống trị lợi dụng để phục vụ lợi ích giai cấp mình, chống lại
các giai cấp lao động và tiến bộ xã hội. Nhiều tôn giáo ra đời là biểu hiện của sự phản
kháng của giai cấp lao động, để chống lại sự áp bức giai cấp. Ngoài ra, tôn giáo còn được
thể hiện ở tính nhân văn, bởi tôn giáo hướng con người đến niềm tin, hạnh phúc, những
điều tốt đẹp trong cuộc sống; song nó luôn phản ánh khát vọng của con người về một xã
hội tự do, bình đẳng, bác ái.

Tôn giáo vẫn còn tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khi giải quyết vấn đề
tôn giáo cần đảm bảo các nguyên tắc sau. Một là, cần khắc phục những ảnh hưởng tiêu
cực của tôn giáo trong đời sống xã hội bằng cách cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới,
xóa bỏ nguồn gốc xã hội nảy sinh niềm tin tôn giáo. Tôn giáo hướng con người sống tốt,
có đạo đức, mưu cầu hạnh phúc; mang đến khát vọng giải phóng con người, đến một xã
hội với nhiều điều tốt đẹp. Đó chính là điểm tương đồng giữa chủ nghĩa xã hội và tôn
giáo. Tuy nhiên, tôn giáo vẫn có những mặt tiêu cực: giải thích nguyên nhân của sự khổ
đau là do sự chi phối của lực lượng siêu nhiên; chủ trương giải phóng con người ở thế
giới không phải là thế giới hiện thực, trần gian mà ở một thế giới hư ảo khác như “thiên
3

đường” và “địa ngục”; con đường giải phóng là trông chờ vào một lực lượng siêu nhiên
hay đấng cứu thế. Do đó, tôn giáo kìm hãm khả năng vươn lên của con người, dẫn đến tư
tưởng, tâm lý trông chờ, ỷ lại một cách thụ động. Ở điểm này, giữa tôn giáo và chủ nghĩa
xã hội có sự khác biệt về thế giới quan, nhân sinh quan và con đường mưu cầu hạnh phúc
cho nhân loại. Tuy có sự đối lập như vậy, nhưng chủ nghĩa Mác – Lenin không chủ
trương cấm đoán hay can thiệp vào nội bộ của các tôn giáo; mà chỉ hướng vào giải quyết
những tiêu cực ấy, gắn liền với việc xóa bỏ nguồn gốc xã hội sinh ra nó bằng cách cải tạo
xã hội cũ, đồng thời xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn – chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản. Hai là, một khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần
chúng nhân dân, thì chính sách nhất quán của nhà nước xã hội chủ nghĩa là tôn trọng và
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Mọi người đều có
quyền theo hoặc không theo, có quyền theo tôn giáo này hoặc tôn giáo khác và đều được
bình đẳng trước pháp luật. Quyền này được pháp luật thừa nhận và bảo đảm thực hiện.
Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm đến quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo. Ba là, thực
hiện đoàn kết giữa những người theo với những người không theo tôn giáo, đoàn kết các
tôn giáo hợp pháp, chân chính, đoàn kết dân tộc để cùng nhau xây dựng và bảo vệ chủ
nghĩa xã hội. Đồng thời, chống lại các hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Bốn
là, phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng của tôn giáo trong quá trình giải quyết vấn đề
tôn giáo. Thực chất, đây là phân biệt tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn
tại trong bản thân tôn giáo và trong vấn đề tôn giáo. Mặt chính trị phản ánh mâu thuẫn đối
kháng về lợi ích giữa một bên là Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân
lao động (bao gồm có đạo và ko có đạo); và bên kia là các thế lực phản động lợi dụng tôn
giáo để chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản, Nhà nước xã
hội chủ nghĩa và nhân dân lao động. Giải quyết mâu thuẫn này chỉ có thể là dùng biện
pháp chuyên chính để giải quyết kịp thời và triệt để. Mặt tư tưởng phản ánh mâu thuẫn
không đối kháng, chỉ là sự khác biệt về nhận thức, tư tưởng giữa những người theo hoặc
ko theo tôn giáo, giữa những người theo tôn giáo khác nhau. Giải quyết sự khác biệt này
chỉ có thể là một quá trình lâu dài cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn – Xã
hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Năm là, phải có quan điểm lịch sử cụ thể
trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò,
tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ
của các giao hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác
biệt. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với
những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và đối với từng tôn giáo cụ thể.

Từ những lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lenin về bản chất, nguồn gốc, tính chất và
các nguyên tắc cơ bản xử lý mối quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và tôn giáo, chúng ta có
thể vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, trước hết cần làm rõ đặc điểm cơ bản của tôn giáo
4

Việt Nam hiện nay. Thứ nhất, Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo. Hiện nay,
nước ta có 13 tôn giáo đã được công nhận tư cách pháp nhân và trên 40 tổ chức tôn giáo
đã được công nhận về mặt tổ chức. Các tổ chức tôn giáo có nhiều hình thức tồn tại khác
nhau, có tôn giáo du nhập từ bên ngoài, với những thời điểm, hoàn cảnh khác nhau. Thứ
hai, tôn giáo ở Việt Nam đa dạng, đan xen, chung sống hòa bình và không có xung đột,
chiến tranh tôn giáo. Mỗi tôn giáo ở Việt Nam có quá trình lịch sử tồn tại và phát triển
khác nhau, nên sự gắn bó với dân tộc cũng khác nhau. Tín đồ của các tôn giáo khác nhau
cùng chung sống hòa bình, tôn trọng niềm tin của nhau và chưa từng xảy ra xung đột tôn
giáo. Theo em, đây có lẽ là một trong những đặc điểm nổi bật nhất của tôn giáo Việt
Nam. Bởi lẽ… Thứ ba, tín đồ các tôn giáo Việt Nam phần lớn là nhân dân lao động, có
lòng yêu nước, tinh thần dân tộc. Đa số tín đồ các tôn giáo Việt Nam là những người lao
động mang trong mình tinh thần yêu nước, tôn trọng công lý, đi theo Đảng, đoàn kết tham
gia xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam với ước vọng sống “tốt đời, đẹp đạo”. Thứ tư,
hàng ngũ chức sắc các tôn giáo có vai trò, vị trí quan trọng trong giáo hội, có uy tín, ảnh
hưởng với tín đồ. Chức sắc tôn giáo là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo, có nếp
sống riêng theo giáo lý, giáo luật của tôn giáo. Chức năng của họ là truyền bá, thực hành
những giáo thuyết tôn giáo, quản lý tổ chức, duy trì, củng cố, phát triển tôn giáo, chuyên
chăm lo đến đời sống tâm linh của tín đồ. Thứ năm, các tôn giáo ở Việt Nam, không chỉ
các tôn giáo ngoại nhập, mà cả các tôn giáo nội sinh đều có quan hệ với các tôn giáo ở các
nước trên toàn thế giới.

Tình hình tôn giáo ở Việt Nam…

Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đưa ra những chính sách tôn giáo bao gồm những nội
dung cơ bản sau. Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đó là sự khẳng định mang tính khoa học và cách mạng của Đảng ta, khác với cách nhìn
nhận chủ quan khi cho rằng có thể bằng các biện pháp hành chính, hay khi trình độ dân trí
cao, đời sống vật chất được đảm bảo là có thể làm cho tín ngưỡng, tôn giáo mất đi; hoặc
duy tâm khi nhìn nhận tín ngưỡng, tôn giáo là hiện tượng bất biến, độc lập, thoát ly với
mọi cơ sở kinh tế - xã hội, thể chế chính trị. Hai là, Đảng và Nhà nước thực hiện nhất
quán chính sách đại đoàn kết dân tộc. Tăng cường đoàn kết giữa đồng bào theo các tôn
giáo khác nhau; giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, để cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Nghiêm cấm mọi hành vi trái pháp luật và chính sách của Nhà
nước, kích động chia rẽ, phân biệt đối xử, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia vì lý do tín
ngưỡng, tôn giáo. Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng. Từ đó giúp nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất đất
5

nước. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa vùng đồng bào theo các tôn giáo,
nhằm nâng cao tình độ, đời sống mọi mặt, giúp quần chúng nhân dân nhận thức đẩy đủ,
đúng đắn và nghiêm chỉnh thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước. Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, bao gồm hệ
thống tổ chức Đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị do Đảng lãnh đạo.
Củng cố toàn bộ tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách, tăng cường công tác
quản lý và đấu tranh với hoạt động gây ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích Tổ quốc và dân
tộc. Năm là vấn đề theo đạo và truyền đạo. Việc theo đạo, truyền đạo phải tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật; không được tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không ép
buộc người khác theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy
định Hiến pháp và pháp luật.

Kết bài

You might also like