You are on page 1of 4

1

Nội dung 5: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về vấn đề dân tộc. Đặc điểm
quan hệ dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay.

Bài làm:

Mở bài

Dân tộc được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng, dân tộc là khái niệm dùng để chỉ toàn
bộ dân cư của một nước (quốc gia dân tộc). Đây là một cộng đồng người hình thành trong
lịch sử có những điểm chung: chung một lãnh thổ quốc gia, có quốc ngữ - ngôn ngữ
chung cho quốc gia đó, chung một nền kinh tế - chính trị nhất định, có sự thống nhất về
truyền thống văn hóa, lịch sử, và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình dựng
nước và giữ nước. Ví dụ, dân tộc Việt Nam, dân tộc Ấn Độ,… Theo nghĩa hẹp, dân tộc
được hiểu là các cộng đồng tộc người cùng sống trong một quốc gia nhiều dân tộc. Những
cộng đồng người này có chung một số đặc điểm như: có chung ngôn ngữ (bao gồm cả
ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết), có chung lịch sử nguồn gốc, có chung nét văn hóa đặc sắc
của dân tộc mình, có ý thức tự giác tộc người,… Chẳng hạn như dân tộc Việt Nam có 54
cộng đồng tộc người cùng chung sống. Hai cách hiểu trên về khái niệm dân tộc, tuy
không đồng nhất nhưng lại gắn bó mật thiết với nhau, không tách rời nhau. Dân tộc quốc
gia bao hàm dân tộc tộc người. Dân tộc tộc người là bộ phận hình thành dân tộc quốc gia.

Nghiên cứu sự vận động và quan hệ dân tộc dưới chủ nghĩa tư bản, V.I.Lenin đã chỉ ra hai
xu hướng vận động khách quan của các dân tộc. Xu hướng thứ nhất, ở các quốc gia gồm
nhiều cộng đồng dân cư có nguồn gốc tộc người khác nhau, do sự thức tỉnh, sự trưởng
thành về ý thức dân tộc và quyền sống, nên các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành
lập các cộng đồng dân tộc độc lập. Xu hướng này nổi trội ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa
tư bản, trong phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa muốn thoát
khỏi sự áp bức, bóc lột của các nước thực dân, đế quốc. Xu hướng thứ hai, các dân tộc
trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau.
Xu hướng này nổi lên trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành chủ nghĩa đế
quốc; do sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học công nghệ, giao lưu kinh tế và
văn hóa trong xã hội tư bản chủ nghĩa thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau. Hai xu
hướng này là hai xu hướng tiến bộ với những biểu hiện rất đa dạng, phong phú trong cả
phạm vi một quốc gia và phạm vi quốc tế. Tuy nhiên, trong điều kiện của chủ nghĩa đế
quốc nó gặp nhiều khó khăn, trở ngại bởi những lí do sau. Một là, nguyện vọng của các
dân tộc được sống độc lập, tự do bị chính sách xâm lược của chủ nghĩa đế quốc xóa bỏ.
Hai là, việc liên hiệp, xích lại với nhau giữa các dân tộc trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng
bị chủ nghĩa đế quốc xóa bỏ, thay vào đó là quan hệ bất bình đẳng, đó là dân tộc này tìm
cách thống trị các dân tộc khác. Vì vậy, để hai xu hướng này vận động không gặp trở
2

ngại, chỉ có thể: xóa bỏ chủ nghĩa đế quốc; thực hiện tốt các nguyên tắc tiến bộ như thực
hiện quyền bình đẳng dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết và liên hiệp công nhân
các dân tộc lại.

Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới,
thực tiễn cách mạng Nga, kết hợp phân tích hai xu hướng khách quan trong sự phát triển
dân tộc; V.I.Lenin đã khái quát Cương lĩnh dân tộc như sau: “Các dân tộc hoàn toàn bình
đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại.” Một là:
Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng. Các dân tộc dù lớn hay nhỏ, ở trình độ phát triển cao
hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không có một dân tộc nào được giữ
đặc quyền, đặc lợi và có quyền đi áp bức, bóc lột các dân tộc khác. Các dân tộc hoàn toàn
bình đẳng phải được thể hiện trong luật pháp của mỗi nước và luật pháp quốc tế, và quan
trọng hơn phải được thực hiện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với một quốc gia
nhiều dân tộc, sự khắc phục trình độ phát triển chênh lệch về kinh tế, văn hóa do lịch sử
để lại có ý nghĩa cơ bản. Trên phạm vi thế giới, thực hiện quyền bình đẳng giữa các quốc
gia dân tộc đòi hỏi phải chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa sôvanh nước
lớn, chống sự áp đặt đối với các nước chậm phát triển về mọi mặt. Thực hiện quyền bình
đẳng là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác hữu
nghị giữa các dân tộc. Hai là: Các dân tộc được quyền tự quyết. Đó là quyền làm chủ đối
với vận mệnh của dân tộc mình, tự quyết định chế độ chính trị - xã hội và con đường phát
triển của dân tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm cả quyền tự do tách ra thành lập một
quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc và quyền tự nguyện liên hiệp với các
dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng. Tuy nhiên, khi xem xét quyền dân tộc tự quyết của dân
tộc phải xuất phát từ thực tiễn và phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân.
Ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ, phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động; đồng thời, chống lại các phong trào dân tộc tự quyết giả hiệu
vì lợi ích và mưu đồ của một nhóm người nào đó. Ba là: Liên hiệp công nhân tất cả dân
tộc. Liên hiệp công nhân của tất cả các dân tộc phản ánh bản chất quốc tế của phong trào
công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai
cấp. Đó là cơ sở vững chắc đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành
thắng lợi, từ đó, đảm bảo cho các nội dung trên của cương lĩnh dân tộc có thể thực hiện
đầy đủ. Vì vậy, nội dung này vừa là nội dung chủ yếu vừa là giải pháp quan trọng nhất để
liên kết các nội dung của Cương lĩnh dân tộc của Đảng Cộng sản thành một chỉnh thể.
Khẩu hiệu mà C.Mác và Ph. Ăngghen nêu ra: “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại” đã được
V.I. Lênin phát triển thành: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lenin là cơ sở lý luận quan trọng để Đảng Cộng
sản vận dụng trong quá trình đấu tranh giành độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
3

Từ những lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lenin về vấn đề dân tộc, chúng ta có thể
vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, trước hết cần làm rõ đặc điểm cơ bản về đặc điểm quan
hệ dân tộc của Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia đa tộc người với những đặc điểm nổi
bật sau đây. Về dân số, có sự chênh lệch về số dân giữa các tộc người. Việt Nam có 54
dân tộc, trong đó, người Kinh chiếm 85,7% dân số cả nước; 53 dân tộc thiểu số chiếm
14,3% dân số. Tỷ lệ số dân giữa các dân tộc cũng không đồng đều, có dân tộc hơn 1 triệu
người, nhưng cũng có dân tộc chỉ vài ba trăm. Về địa bàn cư trú, các dân tộc cư trú xen kẽ
nhau. Đặc điểm này tạo điều kiện thuận lợi mở rộng giao lưu giúp đỡ và tạo nên một nền
văn hóa thống nhất trong đa dạng. Tuy nhiên, việc nhiều tộc người sống xen kẽ cũng dễ
nảy sinh mâu thuẫn, xung đột, tạo kẽ hở để các thế lực thù địch tấn công. Về trình độ phát
triển, các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển không đều. Nước ta còn sự chênh
lệch khá lớn về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Trên phương diện kinh tế, một
số ít các dân tộc còn duy trì kinh tế chiếm đoạt, dựa vào tự nhiên; trong khi đại bộ phận
dân tộc Việt Nam đã tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trên phương diện
văn hóa, trình độ dân trí, chuyên môn kỹ thuật của nhiều dân tộc thiểu số còn thấp. Còn
trên phương diện xã hội, trình độ tổ chức đời sống, quan hệ xã hội của dân tộc thiểu số
khác nhau. Về tinh thần, các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời
trong cộng đồng dân tộc – quốc gia thống nhất. Được hình thành do quá trình cải biến tự
nhiên, nhu cầu hợp sức để cùng đấu tranh chống ngoại xâm, đoàn kết dân tộc trở thành
truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam quyết định mọi thắng lợi để giành độc lập
thống nhất Tổ quốc. Về bản sắc văn hóa, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, góp phần
tạo nên sự phong phú, đa dạng của nền văn hóa Việt Nam thống nhất. Việt Nam là một
quốc gia đa dân tộc. Việc có cùng chung một lịch sử dựng nước và giữ nước, sớm có ý
thức về độc lập dân tộc, nhưng vẫn có những sắc thái riêng trong văn hóa của mỗi dân tộc
đã góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Về đồng bào dân
tộc thiểu số,(vai trò, khó khăn,…) 53 dân tộc thiểu số Việt Nam cư trú trên ¾ diện tích
lãnh thổ và ở những vị trí trọng yếu của quốc gia cả về kinh tế, an ninh, quốc phòng, môi
trường sinh thái. Một số dân tộc có quan hệ dòng tộc với khác nước láng giềng và khu
vực. Tuy nhiên, dân tộc với số dân ít gặp nhiều khó khăn cho việc tổ chức cuộc sống, bảo
tồn tiếng nói và văn hóa dân tộc, duy trì và phát triển giống nòi. Đảng và Nhà nước có
những chính sách quan tâm đặc biệt đối với dân tộc ít người. ( thực trạng, số liệu, năm)

Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đưa ra những chính sách dân tộc toàn diện trên các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng. Về chính trị, thực hiện bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc. Từ đó, nâng cao
tính tích cực chính trị, nhận thức về tầm quan trọng của vấn đề dân tộc, thống nhất mục
tiêu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Về kinh tế, thực hiện chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi,
4

vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhằm phát huy tiềm năng phát triển, từng bước khắc phục
khoảng cách chênh lệch giữa các dân tộc. Thông qua các chương trình, dự án phát triển
kinh tế ở các vùng dân tộc thiểu số, thúc đây phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu,
vùng xa, biên giới, căn cứ địa cách mạng. Về văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc. Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, phát triển ngôn
ngữ, xây dựng đời sống văn hóa ở các cơ sở, nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân.
Đào tạo cán bộ văn hóa, xây dựng môi trường, thiết chế văn hóa phù hợp với dân tộc.
Đồng thời, mở rộng giao lưu văn hóa với các quốc gia, khu vực và trên thế giới. Đấu
tranh chống tệ nạn xã hội, diễn biến hòa bình hiện nay. Về xã hội, thực hiện chính sách xã
hội, đảm bảo an sinh xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Từng bước thực hiện bình
đẳng, công bằng xã hội thông qua chính sách phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm
nghèo, dân số, y tế, giáo dục. Phát huy vai trò của hệ thống chính trị - xã hội. Về an ninh
quốc phòng, tăng cường sức mạnh bảo vệ tổ quốc trên cơ sở đảm bảo ổn định chính trị,
thực hiện tốt an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Phối hợp chặt chẽ các lực lượng trên
từng địa bàn. Tăng cường quan hệ quân dân, tạo thế trận quốc phòng toàn dân. Chính sách
dân tộc củ Đảng và Nhà nước ta mang tính toàn diện, tính cách mạng và tiến bộ, đồng
thời mang tính nhân văn sâu sắc.

KẾT BÀI

You might also like