You are on page 1of 15

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?

Hoàng Phủ Ngọc Tường

“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” ban đầu có tên là “Hương ơi, e phải mày
chăng?” là bài bút ký do nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường viết ở Huế vào ngày 4
tháng 1 năm 1981, và được in trong tập sách cùng tên vào năm 1986. Một phần bài
bút ký này đã được đưa vào giảng dạy trong hệ thống giáo dục ở Việt Nam (chương
trình Ngữ văn lớp 12) và được đánh giá là một đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ
về sông Hương.

I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM


1. Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường

Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937, tại thành phố Huế,
nhưng quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Hoàng Phủ Ngọc Tường được người đời biết tới là nhà văn của những dòng
sông. Bởi nếu sông miệt mài chảy về biển lớn không ngơi nghỉ thì Hoàng Phủ Ngọc
Tường miệt mài sáng tác không ngơi nghỉ để đóng góp cho đời những áng văn thơ
hay. Các tác phẩm chính làm nên tên tuổi của Hoàng Phủ Ngọc Tường bao gồm:
“Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu” (1971), “Rất nhiều ánh lửa” (1979), “Ai đã đặt tên
cho dòng sông?” (1986), “Bản di chúc của cỏ lau” (1984), “Ngọn núi ảo ảnh” (1999),

Hoàng Phủ Ngọc Tường gây ấn tượng với độc giả bởi phong cách văn học độc
đáo. Ông là nhà văn chuyên viết về kí và là “một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất
nước ta hiện nay”. Nét đặc sắc trong sáng tác của Hoàng Phủ là ở sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều
được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý... Tất
cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.

2. Tác phẩm
a. Thể loại

Kí là thể loại đặc trưng của văn học dùng để ghi chép, tái hiện những sự việc,
hoàn cảnh mang tính chân thật. Giá trị cơ bản của kí là đưa đến cho người đọc những
hình ảnh sống động và cụ thể nhất về đối tượng.

b. Hoàn cảnh sáng tác

Bài kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" in trong tập bút kí cùng tên. Tập sách
gồm tám bài kí, viết ngay sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, đang bừng bừng cảm
hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhưng ở Hoàng Phủ Ngọc Tường lòng
yêu nước, tinh thần dân tộc thường gắn với tình yêu thiên nhiên và truyền thống văn
hóa sâu sắc.

c. Ý nghĩa nhan đề

Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã dẫn dắt người đọc đến với cội
nguồn tên gọi của dòng Hương thơ mộng. Bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
đã lý giải tên dòng sông bằng một huyền thoại mỹ lệ của người dân làng Thành
Chung. Lấy tên nhan đề cho bài bút ký dưới hình thức của một câu hỏi nhằm mục đích
dẫn dắt, gợi mở người đọc về nguồn gốc tên gọi của dòng sông, nói lên những khát
vọng, niềm tự hào của con người khi muốn mang cái đẹp, tiếng thơm để gây dựng,
vun đắp cho văn hóa, lịch sử của xứ Huế. Cùng với đó, nhan đề “Ai đã đặt tên cho
dòng sông?” cũng thể hiện được niềm biết ơn đối với những con người đã khai phá
vùng đất này, bộc lộ niềm tự hào về vẻ đẹp của đất nước.
d. Tóm tắt tác phẩm

Bài bút kí đã ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương gắn liền với xứ hú mơ mộng đã đi
vào lòng người và với truyền thống lịch sử xứ Huế.

Lúc ở thượng nguồn, sông Hương có vẻ đẹp mãnh liệt và hoang dại, có nhiều
ghềnh thác đáy vực bí ẩn. Có thể xem sông Hương như bản trường ca của rừng già.

Lúc về đồng bằng, sông Hương thơ mộng làm say đắm lòng người. Hai bên bờ
sông Hương chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên. Dòng sông mềm như tấm lùa uốn
cong, cảnh đẹp như bức tranh có đường nét, hình khối trôi đi giũa hai dãy đồi sừng
sửng như thành quách, cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo. Sông
Hương có vẻ đẹp đa màu biến ảo: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím.

Lúc qua thành phố Huế, sông Hương trôi đi thực chậm chảy lặng lờ như điệu
slow. Sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Trên sông
vọng lại tiếng hát trong một khoang thuyền nào đó. Sông Hương mang vẻ đẹp vừa trữ
tình, vừa trầm mặc gắn liền với lịch sử bi tráng của dân tộc mà trên thế giới không có
dòng sông nào như thế. Và trước về với biển sông hương lưu luyến tình cảm với thành
phố Huế ví như nỗi vấn vươn của nàng Kiều với Kim Trọng.

II. TÌM HIỂU CHI TIẾT

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã thể hiện được vẻ đẹp của sông Hương từ cảnh
sắc thiên nhiên cho đến bề dày lịch sử, văn hóa và tâm hồn con người vùng đất cố đô.
Qua đó tác giả ca ngợi dòng sông Hương và bộc lộ tình yêu tha thiết, sâu lắng với xứ
Huế. Nó gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương xứ sở và niềm khao khát
khám phá những vùng đất mới lạ. Tác phẩm được viết dưới dạng bút kí, thiên về thể
loại tùy bút đã thể hiện những nét đặc sắc về nghệ thuật trong lối viết kí của Hoàng
Phủ Ngọc Tường. Cách viết của ông tài hoa, phong phú bởi những liên tưởng ẩn dụ,
so sánh, nhân hóa bất ngờ và thú vị. Ông đã dệt nên những trang văn đẹp bởi kho từ
vựng phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, kết hợp linh hoạt giữa kể và tả làm nổi
bật vẻ đẹp của Hương giang, vẻ đẹp riêng của xứ Huế.

Dòng Hương giang được nhìn nhận qua nhiều góc độ khác nhau mà ở đây nhà văn
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã kể ra ở nhiều góc độ như lịch sử, địa lý, văn hóa, văn
chương. Đất nước Việt Nam với sông nước hữu tình, hoa trái quanh năm đã thêu dệt
nên một áng văn tuyệt đẹp. Sông Hương, xứ Huế là nguồn cảm hứng say mê bất tận
với tâm hồn người nghệ sĩ. Không phải ngẫu nhiên mà ở phần đầu của tác phẩm,
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi
thường nghe nói đến, hình như chỉ có sông Hương là thuộc về một thành phố duy
nhất.”

Xứ Huế mộng mơ, nên thơ, nên hoạ từ lâu đã trở thành một điểm đến thân thuộc
của những người nghệ sĩ, những nhà thơ, nhà văn với bao niềm say đắm. Ta không
khó để bắt gặp nét Huế trong các khúc ca dao, dân ca; bắt gặp “Hương Giang nhất
phiến nguyệt” trong thơ Nguyễn Du; hay gần hơn là nơi thôn Vĩ với thi nhân họ Hàn;
… Dù khác nhau về thời đại, về thể loại hay bút pháp nghệ thuật nhưng tất cả đã cùng
nhau tô điểm thêm cho sắc nước hương trời nơi Huế, làm nên một Huế rất thơ và cũng
rất tình. Và chắc chắn, khi nhắc đến những tác phẩm nghệ thuật viết về xứ Huế, ta
không thể không kể đến bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của nhà văn Hoàng Phủ
Ngọc Tường – một con người đã “trầm cả tâm hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với
đất trời, sông nước xứ Huế”. Bằng việc miêu tả vẻ đẹp của dòng sông Hương dưới
phương diện địa lí, lịch sử và văn hoá, Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bài kí đã tỏ bày
tình yêu nước tha thiết theo một cách rất riêng, đầy trữ tình, mê đắm và tài hoa.

1. Sông Hương dưới góc nhìn địa lí


a. Sông Hương nơi thượng nguồn
Thủy trình của sông Hương từ góc nhìn địa lí được nhà văn miêu tả qua các chặng
từ thượng nguồn về đến châu thổ rồi từ đó Sông Hương vào với Thành phố Huế và
chảy ra biển cả. Nói đến sông Hương, xứ Huế người ta thường nghĩ đến sự êm đềm,
phẳng lặng của dòng sông trong cảnh thanh bình. Nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
không dừng lại ở ngắm nhìn “khuôn mặt kinh thành” của nó mà ngược dòng cảm xúc
để trở về với thượng nguồn của nó để khai phá vẻ đẹp bí ẩn của dòng sông. Giữa lòng
Trường Sơn hùng vĩ, Sông Hương hiện ra trong vẻ đẹp man dại đầy cá tính, mạnh mẽ
phóng khoáng nhưng vẫn giữ được nét dịu dàng đắm say. Nhà văn đã so sánh Sông
Hương như một “bản trường ca của rừng già” gợi ra một con sông với chiều dài hùng
vĩ và có dòng chảy mãnh liệt. Rừng già là hình ảnh hoang sơ, bí ẩn và mênh mông
trong đó mang các sắc thái với nhiều tiết tấu trầm bổng: “rầm rộ giữa những bóng cây
đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực
bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu
đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.

Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh kết hợp với tính từ gợi tả đã thể hiện rất
rõ sức mạnh man dại mang vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ. Người đọc từ đó có thể
khám phá ra nét tính cách mới mẻ, độc đáo của sông Hương mà không chỉ ngắm nhìn
bộ mặt kinh thành của nó. Trường Sơn đã hun đúc cho “cô gái Digan” ấy một bản lĩnh
gan góc lạ thường, tính cách mạnh mẽ, tâm hồn trong sáng trẻ trung nhưng cũng rất
hoang dại. Bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ ấy, Hương giang dường như vẫn giữ được nét
duyên dáng của dòng sông khi Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành người họa sĩ phối
màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng với màu xanh mênh mang của rừng già, sông nước.
Bằng cảm quan thẩm Mỹ tinh tế, tác giả đã có những liên tưởng bất ngờ và thú vị khi
biến sông Hương trở thành một sinh thể có hồn, có cá tính, có cuộc sống riêng với
dòng chảy hoang dại thu hút mọi ánh nhìn.

b. Sông Hương ở ngoại vi thành phố


Khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ. “với
cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm
của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném
chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”. Sông Hương giờ đây đã
mang vẻ đẹp kinh thành mà người ta vẫn thường thấy để phù hợp với xứ Huế. Từ cô
gái Digan man dại, phóng khoáng nhà văn đã nâng tầm cho sông Hương trở thành
người mẹ của vùng văn hóa xứ sở đất đế đô. Một người mẹ từng trải, trí tuệ, dịu dàng.
Cái dịu dàng mà người ta thường mong sau những thác ghềnh, trí tuệ ở những con
người từng trải, bản lĩnh.

Qua những hình ảnh so sánh, liên tưởng, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tái hiện thành
công vẻ đẹp của sông Hương ở khúc thượng nguồn, đó là những phát hiện độc đáo và
đầy bất ngờ của tác giả. Bút kí cuốn hút người đọc ở sự việc lạ, tri thức mới và cách
viết hay. Thường người ta chỉ nghĩ đến sông Hương với vẻ đẹp dịu dàng, êm đềm
nhưng có mấy ai biết rằng “Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình trong dãy
Trường Sơn hùng vĩ”. Rồi nhiều thế kỉ qua đi, sông Hương như một người con gái đẹp
nằm ngủ mơ màng ở cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại và đợi chờ người tình trong
mộng của mình là xứ Huế đến để đánh thức.

Trước khi trở thành người tình chung thủy của cố đô, Sông hương đã trải qua một
cuộc hành trình đầy thử thách trong cái nhìn tinh tế, lãng mạn của nhà văn. Khi được
Huế đánh thức, sông Hương bắt đầu cuộc hành trình của mình, đó là một cuộc tìm
kiếm có ý thức. Nó chuyển dòng đột ngột theo hướng Nam Bắc rồi sang Tây Bắc,
vòng giữa những khúc quanh đột ngột và uốn mình theo những đường cong thật mềm
để vẽ một cánh cung thật tròn rồi ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Ta bắt
gặp ở đây hàng loạt những động từ gợi cảm cùng với nghệ thuật kể kết hợp tả đã thể
hiện vẻ đẹp duyên dáng của sông Hương khi về Châu Thổ.
Ở ngoại vi của Thành phố Huế, sông Hương thay đổi tính cách của mình, nó uốn
mình thành những đường cong mà người ta thường thấy “dòng sông mềm như tấm
lụa”, có khi lại trầm mặc, có lúc lại xôn xao rạo rực. Phải là một con người gắn bó đến
mức máu thịt và am tường sâu sắc, có năng lực khám phá cái đẹp của sông Hương thì
mới có được những câu văn độc đáo và cách so sánh, ví von đầy trữ tình như thế.
Sông Hương chảy qua những thành trì lăng tẩm của vua chúa thời trước được phong
kín trong lòng những rừng thông u tịch, sông Hương giờ đây mang một vẻ kiêu hãnh,
trầm mặc, vẻ đẹp sang trọng và đầy bí ẩn và chứa đựng vẻ kiêu hãnh của một vùng
thượng lưu.

Dòng sông đã vượt qua bao gian truân, trắc trở cuối cùng cũng như một người đi
xa tìm đúng lối về, nó náo nức bồi hồi giữa quê hương, xứ sở, không còn vẻ băn
khoăn, trầm mặc hay kiếm tìm điều gì nữa. Giáp mặt thành phố ở Cồn Dã Viên, nó
uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến làm cho “dòng sông mềm hẳn đi, như một
tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.”

So sánh là một thủ pháp nổi trội của Hoàng Phủ Ngọc Tường nhưng ông luôn biết
làm mới nó bằng cách ví von với tiếng “vâng” của người con gái trong tình yêu còn
bao e lệ, e ấp, đó là nét kín đáo, dịu dàng trong giọng nói Huế ngọt ngào, thân thương.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có những phát hiện mới mẻ từ những gì đặc trưng nhất
của Sông Hương trong lòng xứ Huế. Cách diễn đạt hết sức gợi cảm, tinh tế khi nhìn từ
phía xa, cầu Tràng Tiền in bóng xuống dòng sông mà ngỡ như một “vành trăng non”.
Tác giả vừa vẽ lên dáng mềm mại, cong cong, thanh mảnh của cây cầu, vừa hòa sắc
lấp lánh của dòng sông trong không gian thơ mộng, êm đềm. Cây cầu như một tín hiệu
mà nhìn từ xa như đang vẫy gọi sông Hương hòa làm một cùng Huế. Sông Hương là
người con gái đang yêu gặp được người tình trong mộng của mình, đó là một cuộc hội
ngộ của tình yêu. Huế là một đô thị cổ trải dọc hai bờ sông để che chở và gắn bó cho
“người con gái của mình”, còn sông Hương được chia ra làm nhiều nhánh, tỏa nước ra
khắp các ngõ ngách trong thành phố như ôm trọn lấy tình yêu của đời mình.
c. Sông Hương khi chảy trong lòng thành phố

Con sông khi nằm trong Huế, vận tốc của dòng nước như giảm hẳn, “cơ hồ chỉ là
một mặt hồ yên tĩnh”. Tác giả gọi đó là “một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”.
Càng yêu quý điệu nhảy lặng lờ của dòng sông, tác giả càng muốn so sánh nó với
những dòng sông lớn nổi tiếng trên Thế giới như Sông Xen của Paris, Sông Đa-nuýp
của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Le-nin-grat…chảy băng băng như một chuyến tàu tốc
hành. Nhà văn còn đưa vào đó chi tiết phong tục, lễ hội và biến chúng thành hình
tượng nghệ thuật. Để miêu tả dòng sông, ông mượn lại tư tưởng của nhà triết gia
người Hy Lạp Hê-ra-clit: “không ai tắm hai lần trên một dòng sông” để tô đậm vẻ đẹp
lặng lờ của nó mà có lần ta bắt gặp trong dòng sông của nhà thơ Thu Bồn:

“Con sông dùng dằng, con sông không chảy

Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”

Sông Hương đã đến lúc phải rời xa Huế để đổ ra biển nhưng nó bỗng “ngập
ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một
nỗi lòng”. Rời khỏi kinh thành, con Sông chếch về hướng chính Bắc, ôm lấy đảo Cồn
Hến quanh năm mơ màng sương khói, lưu luyến ra đi trên màu xanh mướt của thôn
vườn Vĩ Dạ. Sông Hương đột ngột chuyển dòng để gặp lại thành phố như muốn nói
lời thề trước khi về với biển cả. Cảnh chia tay rất lạ và tự nhiên nhưng rất giống với
con người: Có cử chỉ bịn rịn, có tâm trạng lưu luyến, có địa điểm chia tay, có lời thề
tiễn biệt nhắn nhủ.

Lối liên tưởng của tác giả hết sức độc đáo và được nhân hóa lãng mạn, nhà văn
cho rằng đó là nỗi vương vấn và một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Nó cứ chùng
chình như muốn nói lời thề với Huế, lời thể thủy chung, son sắc. Sông Hương ra đi
trong cảm xúc bịn rịn, như một người tình chung thủy, như nàng Kiều trong đêm Tự
tình trở về tìm Kim Trọng nói lời thề: “Còn non, còn nước, còn dài.” Vẻ đẹp ấy chính
là vè đẹp thủy chung, đằm thắm của sông Hương.

Ở đây ta nhận ra ba thái độ chí tình: Chí tình của sông Hương với Huế, chí tình
của người Huế trong tình yêu và cuối cùng là tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường
với sông Hương, xứ Huế. Nếu như tách sông Hương ra khỏi xứ Huế, nó chỉ là một
dòng chảy vô thức chảy trôi giữa đôi bờ. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thổi hồn vào
sông Hương, gắn nó với cánh sắc Huế, con người Huế để rồi sông Hương mang một
cá tính riêng, phong phú và độc nhất: Có lúc như cô gái Digan phóng khoáng đầy man
dại, có lúc lại như người mẹ của vùng văn hóa xứ sở, hay lại là người thiếu nữ với vẻ
đẹp nhẹ nhàng, trầm lắng sâu sắc và kín đáo. Lẳng lơ nhưng rất mực chung tình, khéo
trang sức nhưng lại không phô trương.

2. Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử

Dưới lăng kính sử thi, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không quên tô đậm niềm vinh
quang mà sông Hương có được trong lịch sử lâu dài của dân tộc. Đó là dòng sông của
những chiến công hiển hách, của sử thi được viết dưới màu cỏ lá xanh biếc. Nó là bản
trường ca ghi dấu những kỉ niệm quang vinh, là chứng nhân lịch sử phải chịu nhiều
những mất mát, hy sinh cùng với các thế hệ nhân dân Huế. Từ hồi vua Hùng dựng
nước cho đến khi Nguyễn Trãi viết “Dư địa chí”, dòng sông mang tên Linh Giang -
Viễn Châu đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ Đại Việt. Đi qua thế kỉ trung đại, nó vẻ
vang soi bóng kinh thành Phú Xuân gắn với tên tuổi của người anh hùng áo vải
Nguyễn Huệ. Nó bầm da tím máu, sống hết lịch sử đau thương, bi tráng của thế kỉ 19
với máu của những cuộc khởi nghĩa. Sông Hương đi vào thời đại Cách Mạng tháng 8
với chiến công rung chuyển như tiếng trống của cuộc khởi nghĩa Mậu Thân 1968. Nó
oằn mình lên để hứng chịu những trận bom dội của không quân Hoa Kì tàn phá những
di sản của cố đô. Suy cho cùng, sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, là
biểu tượng của bề dày văn hóa Huế, là tình yêu bất tận của Hoàng Phủ Ngọc Tường-
Một nhà văn đã có hơn 40 năm gắn bó với nơi đây.
Trong cái nhìn đa diện và nhiều chiều của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương
hiện lên với vẻ đẹp có sức hấp dẫn mê hồn bởi nó gắn liền với phong tục tập quán ở
xứ Huế. Nhà văn dường như thấm thía rằng, tất cả mọi thứ rồi cũng sẽ bị lãng quên,
chỉ có văn hóa là tồn tại mãi mãi. Nhà văn đã từng tâm sự “Sông Hương là nỗi hoài
vọng về một cái đẹp nào đó chưa đạt tới” ý chính bởi điều đó ông khao khát khám phá
vẻ đẹp tiềm ẩn của sông Hương bằng cả tâm hồn mình. Từ góc nhìn văn hóa, nhà văn
đã gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế. Từ trong khoảnh khắc trùng lại của
sông nước, nhà văn liên tưởng đến hình ảnh người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya để
thấy được đây là nơi sinh thành ra nền âm nhạc kinh thành Huế, là cái nôi của nền âm
nhạc truyền thống. Đây là so sánh rất lạ và độc đáo nhưng vô cùng chính xác, nó thể
hiện cái nhìn đồng nhất hóa, nâng sông Hương lên trở thành cái đích thực của tâm
hồn. Lắng nghe âm thanh của dòng sông mà thấy được những thổn thức của cha ông,
đó là đại thi hào Nguyễn Du: “Bao năm lênh đênh trên quãng sông này với một phiến
trăng sầu và từ đó là những bản đàn đi suốt cuộc đời Kiều”. Không phải ngẫu nhiên
trong bài kí mà tác giả nhiều lần nhắc đến Truyện Kiều khi nói đến sông Hương. Đối
với người Việt Nam, Truyện kiều là một kiệt tác đại thành của dân tộc, và trong
truyện Kiều luôn soi bóng hình ảnh của dòng sông Hương. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã cảm nhận dòng sông âm nhạc ở nhiều không gian, thời gian và địa điểm
bằng sự quan sát và vốn kiến thức uyên bác. Ông đã làm sống dậy mảnh đất của nhã
nhạc cung đình Huế từ giai điệu âm vang của Hương giang, tới những bản nhạc nổi
tiếng như “Tứ đại cảnh”

“Trong như tiếng hạc bay qua

Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”

Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã không quên khắc họa một Hương giang với sức
mạnh trong thi ca kì diệu. Ta dễ dàng nhận thấy sông Hương không tự lặp lại mình
trong cảm hứng của những người nghệ sĩ vì nó là nguồn cảm hứng bất tận để bao thế
hệ lãng tử chìm mình vào sông Hương. Trong đôi mắt của Tản Đà, sông Hương xanh
biếc chuyển thành “dòng sông trắng, lá cây xanh”. Là dòng sông Trăng của Hàn Mặc
Tử, và từ một Linh giang đang mơ màng với bóng hoàng hôn bảng lảng trong nỗi
quan hoài vạn cổ của Bà Huyện Thanh Quan. Dòng sông còn trở thành “thanh kiếm
dựng trời xanh” trong những lời thơ hào hùng của Cao Bá Quát. Rồi nó trở thành sức
mạnh phục sinh trong tầm hồn của những người con gái trong thơ ca của Tố Hữu. Ta
nhận thấy sông Hương được thể hiện qua nhiều góc độ khác nhau mang vẻ đẹp dịu
dàng và trí tuệ nhờ cách viết tài hoa và đầy mê đắm của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

3. Sông Hương nhìn từ góc độ văn hóa


a. Nền âm nhạc cổ điển xứ Huế trên dòng sông Hương

Trong cái nhìn đa diện và nhiều chiều của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông
Hương hiện lên với vẻ đẹp có sức hấp dẫn mê hồn bởi nó gắn liền với phong tục tập
quán ở xứ Huế. Nhà văn dường như thấm thía rằng, tất cả mọi thứ rồi cũng sẽ bị lãng
quên, chỉ có văn hóa là tồn tại mãi mãi. Ông cũng từng tâm sự “Sông Hương là nỗi
hoài vọng về một cái đẹp nào đó chưa đạt tới”. Ý thức được điều đó cây bút Hoàng
Phủ luôn khao khát khám phá vẻ đẹp tiềm ẩn của sông Hương bằng cả tâm hồn mình.
Từ góc nhìn văn hóa, nhà văn đã gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế. Sông
Hương là cái nôi sinh thành nền âm nhạc kinh thành và không gian phát triển, tồn tại
của nền âm nhạc truyền thống suốt mấy thế kỉ qua.

Từ trong khoảnh khắc trùng lại của sông nước, nhà văn liên tưởng sông Hương
đến hình ảnh “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Đây là so sánh rất lạ và độc đáo
nhưng vô cùng chính xác, nó thể hiện cái nhìn đồng nhất hóa, nâng sông Hương lên
trở thành cái đích thực của tâm hồn. Ai đã từng đến Huế và có dịp ngồi thuyền lênh
đênh trên sông Hương thưởng thức nhã nhạc cung đình Huế mới thấy hết được vẻ đẹp
của nền âm nhạc nơi đây và đặc biệt cảm nhận hết cái vẻ đẹp của Hương giang từ góc
độ này. Lúc ấy độc giả mới có thể biết được nỗi niềm xao xuyến khi lắng nghe “tiếng
nước rơi bán âm của những mái chèo khuya” – tiếng nước rơi trầm đục theo cách cảm
âm nhạc.
Khi miêu tả vẻ đẹp của dòng sông âm nhạc, Hoàng Phủ còn tinh tế, khéo léo
dẫn dắt người đọc tới câu chuyện về “một người nghệ nhân già chơi đàn hết nửa thế
kỉ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều”, đọc tới mấy câu thơ: “Trong như tiếng
hạc bay qua/ Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”, người nghệ nhân bỗng thốt lên: “Đó
chính là tứ đại cảnh!”. Để có được “Tứ đại cảnh” ấy thì trước đó đại thi hào dân tộc
Nguyễn Du đã có những trải nghiệm đầy cảm xúc. Nhà thơ đã “bao năm lênh đênh
trên quãng sông này với một phiến trăng sầu và từ đó là những bản đàn đi suốt cuộc
đời Kiều”. Không phải ngẫu nhiên trong bài kí mà tác giả nhiều lần nhắc đến “Truyện
Kiều” khi nói đến sông Hương. Đối với người Việt Nam, “Truyện Kiều” là một kiệt
tác đại thành của dân tộc, và trong “Truyện Kiều” luôn soi bóng hình ảnh của dòng
sông Hương. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cảm nhận dòng sông âm nhạc ở
nhiều không gian, thời gian và địa điểm bằng sự quan sát và vốn kiến thức uyên bác.
Ông đã làm sống dậy mảnh đất của nhã nhạc cung đình Huế từ giai điệu âm vang của
Hương giang. Nét buồn, nét mộng của sông Hương cũng là nguồn cảm hứng vô tận
cho bao bản tình ca êm đềm, xao xuyến lòng người. Và để viết ra những câu văn đắm
say như vậy, Hoàng Phủ Ngọc Tường chắc đã từng nghe vọng mấy câu hò Huế:

“Chiều chiều trước bến Văn Lâu

Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm

Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông

Thuyền ai thấp thoáng trên sông

Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.”

b. Sông Hương – dòng sông của thi ca

Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã không quên khắc họa một Hương giang với
sức mạnh trong thi ca kì diệu. Đã có biết bao “cố nhân” đến và trầm mình với sắc
nước của Hương giang để rồi tuôn trào những vần thơ thật đẹp. Hương giang chính là
nguồn cảm hứng bất tận của bao thi sĩ nhưng mỗi nhà cầm bút lại tìm cho mình một
cảm hứng riêng, độc đáo và mới mẻ. Hoàng Phủ với vốn văn chương uyên bác cùng
cái nhìn tinh tế và tư duy sâu sắc đã phát hiện ra Hương giang là dòng thi ca “không
bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”.

Vẻ đẹp phong phú và đa dạng của cô gái sông Hương trong thơ ca có phải
chăng xuất phát từ quy luật sáng tạo văn chương của người nghệ sĩ, như Marcel Proust
từng nói: “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc
đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Dù trong cùng một đề tài, đi tới
cùng một mảnh đất hay đắm mình cùng một dòng sông, mỗi người nghệ sĩ đều có một
nhãn quan mới. “Đôi mắt mới” chính là điều không thể thiếu ở một người làm văn
chương chân chính. Mặt khác qua những tìm hiểu về Hương giang dưới góc nhìn địa lí
ở phần đầu, ta cũng nhận thấy đầy là dòng sông với vẻ đẹp đầy biến ảo. Sông Hương
ở vùng thượng nguồn, ở ngoại vi thành phố hay trong lòng thành phố lại mang dáng
vẻ, tính cách riêng. Nếu nhìn sông Hương như một người con gái thì cô gái ấy cũng
phức tạp đến lạ kì. Có khi cô là cô gái Di – gan “phóng khoáng”, có khi cô là “người
gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng châu Hóa đầy hoa dại”, có khi cô trở thành
“người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Cô cũng yểu điệu trong màu áo “sớm xanh,
trưa vàng, chiều tím”. Và ở những khoảng thời gian khác nhau của lịch sử, người con
gái ấy lại mang trong mình những vai trò khác nhau. Vì lẽ đó Hương giang bước vào
văn chương với những bộ mặt rất khác nhau.

Trong đôi mắt của Tản Đà, sông Hương mang sắc màu biến ảo, từ tấm áo xanh
biếc Hương giang đột ngột chuyển thành áo trắng

“Dòng sông trắng lá cây xanh

Xuân giang xuân thụ cho mình nhớ ai”

Dưới cái nhìn của Cao Bá Quát sông Hương lại có vẻ đẹp thật hùng tráng:

“Muôn dãy non xanh ngát cánh đồng

Sông dài như kiếm dựng trời xanh”


Có khi Hương giang bảng lảng với “nỗi quan hoài vọng cổ” trong thơ Bà huyện
Thanh Quan. Và có lúc sông Hương mang trong mình “sức mạnh phục sinh tâm hồn”
trong lời thơ Tố Hữu. Những lúc ấy, tác giả “Từ ấy” thấy sông Hương rất Kiều, đến
độ say đắm lòng người:

“Cô gái thẫn thờ vê áo mỏng,

Nghiêng nghiêng vành nón dáng chờ ai

Ven bờ sông phẳng con đò mộng

Lả lướt đi về trong gió mai... “

Vẻ đẹp của Hương giang thật thơ, thật mê đắm. “Sông Hương hóa rượu ta đến
uống”. Và với mỗi thi sĩ, có hơi men nào ngây ngất như Hương giang. Sông Hương cứ
lặng lờ và tình tự như thế đi vào những tác phẩm nghệ thuật, đi vào lòng người. Đọc
tác phẩm xong, chắc hẵn những ai chưa từng một lần đến với Huế mộng mơ thì hình
ảnh dòng Hương giang vẫn sẽ in đậm trong tâm trí. Bằng ngòi bút đầy tinh tế và một
tình yêu Huế dạt dào, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã để lại một ấn tượng đậm nét trong
lòng người đọc về dòng sông Hương, về Huế. Đất nước ta vẫn luôn có những cảnh
đẹp, danh lam thắng cảnh nổi tiếng làm thổn thức biết bao trái tim. Chúng ta hãy cùng
nhau gìn giữ và tự hào về cảnh sắc thiên nhiên của đất nước mình, hãy tự hào là người
con đất Việt!

 Kết luận:

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã thể hiện được vẻ đẹp của sông Hương từ cảnh
sắc thiên nhiên cho đến bề dày lịch sử, văn hóa và tâm hồn con người vùng đất cố đô.
Qua đó tác giả ca ngợi dòng sông Hương và bộc lộ tình yêu tha thiết, sâu lắng với xứ
Huế. Nó gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương xứ sở và niềm khao khát
khám phá những vùng đất mới lạ. Tác phẩm được viết dưới dạng bút kí, thiên về thể
loại tùy bút đã thể hiện những nét đặc sắc về nghệ thuật trong lối viết kí của Hoàng
Phủ Ngọc Tường. Cách viết của ông tài hoa, phong phú bởi những liên tưởng ẩn dụ,
so sánh, nhân hóa bất ngờ và thú vị. Ông đã dệt nên những trang văn đẹp bởi kho từ
vựng phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, kết hợp linh hoạt giữa kể và tả làm nổi
bật vẻ đẹp của Hương giang, vẻ đẹp riêng của xứ Huế.

III. TỔNG KẾT


1. Nghệ thuật

- Chất trí tuệ, chất thơ kết hợp hài hòa, kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch
sử, địa lí… được thể hiện trong tác phẩm tạo nên một phong cách nghệ thuật đặc sắc

- Ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng
nhiều phép tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, liên tưởng… có sự kết hợp hài hòa
giữa cảm xúc và trí tuệ, chủ quan và khách quan…

2. Nội dung

- Bài kí ngợi ca dòng sông Hương và rộng hơn là vùng đất cố đô Huế đẹp thơ mộng
hữu tình, ca ngợi lịch sử vẻ vang của Huế, ca ngợi văn hóa và tâm hồn người Huế.

- Tác giả coi sông Hương là biểu tượng cho tất cả những gì là vẻ đẹp của cảnh và
người đất đế đô này.

- Bài kí chứng tỏ sự gắn bó máu thịt, tình yêu thiết tha với Huế và một vốn hiểu biết
sâu sắc về nền văn hóa đất cố đô của tác giả.

You might also like