You are on page 1of 19

================== Hệ thống pháp luật – Ý thức pháp luật – Pháp chế XHCN

HỆ THỐNG PHÁP LUẬT - Ý THỨC PHÁP LUẬT


PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I. HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
1. Khái niệm hệ thống pháp luật
Hệ thống là một khái niệm được sử dụng để chỉ sự vật và hiện tượng có cấu trúc
thống nhất, hoàn chỉnh, được sắp xếp theo những nguyên tắc, những mối liên hệ nhất
định, đồng thời cũng chịu chi phối bởi một số quy luật chung. Hệ thống là khái niệm
được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau và là cơ sở cho hoạt động hệ
thống hóa các hiện tượng, sự vật của tự nhiên và xã hội.
Vì sao cần phải có tính hệ thống?
- Cũng như bất kỳ hiện tượng xã hội nào, pháp luật cũng đòi hỏi phải có tính
chính xác, tính khái quát cao, đồng thời phải bảo đảm tính cụ thể, tính phù hợp của nó
khi chiếu vào những tình huống cụ thể xảy ra trong từng lĩnh vực của đời sống. Chính
vì vậy, pháp luật đòi hỏi có tính hệ thống cao - Pháp luật của một quốc gia phải là một
hệ thống.
- Các quy phạm pháp luật tồn tại trong những mối liên hệ nhất định và cùng chịu
chi phối bởi các điều kiện vật chất và tinh thần của đời sống xã hội, chúng tạo nên một
hệ thống hoàn chỉnh - hệ thống pháp luật.
Khái niệm hệ thống pháp luật là một khái niệm chung bao gồm cả hai mặt của
một chỉnh thể pháp luật thống nhất: hệ thống cấu trúc bên trong của pháp luật và hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật (hệ thống nguồn của pháp luật).
Hệ thống pháp luật: là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại
thống nhất với nhau, được phân định thành các chế định luật, các ngành luật và được
thể hiện trong các văn bản do Nhà nước ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình
thức luật định.
Hệ thống cấu trúc pháp luật: là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ
nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các chế định luật, các ngành luật.
Hệ thống cấu trúc có 3 thành tố cơ bản ở 3 cấp độ khác nhau:
Quy phạm pháp luật là thành tố nhỏ nhất, là tế bào trong hệ thống cấu trúc
pháp luật, nó vừa có tính khái quát, vừa có tính cụ thể. (?) Khái quát: quy tắc xử sự
chung, áp dụng trên diện rộng, trong thời gian dài. (?) Cụ thể: là hình mẫu, chuẩn mực
điều chỉnh quan hệ xã hội trong trường hợp cụ thể đã được dự liệu.
Chế định luật, một số quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội
giống nhau, gắn bó với nhau hợp thành một chế định luật. Chế định luật là tổng thể
những quy phạm pháp luật điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội có mối liên kết bền
vững, có nội dung và tính chất đồng nhất. Chế định luật mang tính chất nhóm, mỗi
chế định mang một đặc trưng riêng, nhưng giữa các chế định luật cũng có những mối
quan hệ nội tại thống nhất và không tồn tại biệt lập. Các chế định luật hợp thành
ngành luật. Ví dụ: Chế định pháp luật về hợp đồng lao động bao gồm các quy phạm
pháp luật quy định về các nguyên tắc, điều kiện xác lập một hợp đồng có hiệu lực, quy
định về thực hiện hợp đồng và chấm dứt quan hệ hợp đồng...
Ngành luật là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội
giống nhau về tính chất trong một lĩnh vực nhất định, với phương pháp điều chỉnh đặc
===================================================================== 1
================== Hệ thống pháp luật – Ý thức pháp luật – Pháp chế XHCN
trưng. Mỗi nhóm quan hệ xã hội có đặc tính thống nhất khách quan có một ngành luật
điều chỉnh, được gọi là đối tượng điều chỉnh của ngành luật. Các quan hệ xã hội thuộc
đối tượng điều chỉnh của một ngành luật được chia thành các nhóm nhỏ mà tương ứng
với nó là các chế định luật. Ví dụ, Luật hôn nhân gia đình Việt Nam có các chế định
về kết hôn, ly hôn, nhận con nuôi, hôn nhân với người nước ngoài... và các quy định
mang tính chất nguyên tắc của quan hệ hôn nhân gia đình ở Việt Nam.
Ba khái niệm hệ thống luật, ngành luật, chế định luật đều được hợp thành bởi các
quy phạm pháp luật, tùy thuộc theo mối liên kết và phạm vi liên kết. Ngành luật và
chế định luật thống nhất với nhau cùng tồn tại trong một hệ thống. Tuy vậy, giữa
chúng cũng có những điểm khác nhau:
- Ngành luật có phạm vi điều chỉnh rộng hơn bao gồm các chế định luật.
- Mức độ liên kết các chế định trong ngành luật không chặt chẽ bằng sự liên kết
các nhóm quy phạm pháp luật trong một chế định luật.
- Người ta có thể bỏ đi một vài chế định luật trong một ngành luật, thì ngành
luật không được hoàn chỉnh nhưng nó có thể vẫn tồn tại. Nhưng nếu bỏ đi
một vài quy phạm hay nhóm quy phạm trong một chế định thì chế định đó có
thể bị thay đổi hoặc chấm dứt sự tồn tại.
Việc phân định hệ thống luật thành ngành luật và chế định luật có ý nghĩa về
thực tiễn rất lớn. Tuy nhiên, việc xác định đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều
chỉnh của một ngành luật là phức tạp và chỉ là tương đối, song vấn đề này lại hết sức
có ý nghĩa đối với khoa học pháp lý và là nhiệm vụ của khoa học pháp lý. Phân định
ngành luật là nhằm điều chỉnh pháp luật có hiệu quả các quan hệ xã hội theo những
lĩnh vực, thông qua việc áp dụng quy phạm pháp luật và phương pháp điều chỉnh thích
hợp. Việc chia nhỏ ngành luật thành các chế định luật, ngoài mục đích trên, còn nhằm
tạo ra những khái niệm pháp lý hoàn chỉnh, có tính ổn định để thúc đẩy công tác xây
dựng pháp luật.
2. Căn cứ xác định ngành luật, chế định luật
Trong khoa học pháp lý xã hội chủ nghĩa tồn tại ba tiêu chuẩn để phân chia hệ
thống pháp luật thành các ngành luật và chế định luật:
Căn cứ theo đối tượng điều chỉnh, Ngành luật và chế định luật tồn tại một cách
khách quan, do nhóm quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh quy định. Bởi vậy,
căn cứ theo đối tượng điều chỉnh để phân định hệ thống pháp luật thành ngành luật và
chế định luật là chủ yếu nhất.
Căn cứ theo phương pháp điều chỉnh, Trong thực tế, để xác định một quan hệ
xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành luật, cần phải kết hợp với phương pháp
điều chỉnh. Mỗi ngành luật, xuất phát từ tính chất của nhóm quan hệ xã hội thuộc đối
tượng điều chỉnh, có những phương pháp điều chỉnh phù hợp. Phương pháp điều
chỉnh của ngành luật là biện pháp mà quy phạm pháp luật sử dụng tác động vào các
quan hệ xã hội để bảo đảm cho các quy định của quy phạm được thực hiện trong thực
tế. Chẳng hạn, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động kinh tế, pháp
luật chủ yếu dựa vào phương pháp bình đẳng, thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh.
Tuy nhiên, phương pháp điều chỉnh không kết hợp với đối tượng điều chỉnh thì
không thể để xác định một số ngành luật, chế định luật được; bởi vì, có nhiều ngành
===================================================================== 2
================== Hệ thống pháp luật – Ý thức pháp luật – Pháp chế XHCN
luật cùng có một phương pháp điều chỉnh chung. Phương pháp điều chỉnh tuy không
có ý nghĩa quyết định trong việc phân định ngành luật, nhưng không ít trường hợp
phải kết hợp giữa đối tượng điều chỉnh với phương pháp điều chỉnh mới có khả năng
phân định các ngành luật được.
II. HỆ THỐNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC TA
Khái niệm: "Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành, theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự
chung, được Nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.”
Do tầm quan trọng của văn bản quy phạm pháp luật đối với đời sống xã hội, đối
với nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, để thống nhất việc ban hành văn bản quy phạm
pháp luật trong các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các Tổ chức xã hội được ủy
quyền, ngày 12/11/1996, Quốc hội khóa IX nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã thông qua Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Luật này có hiệu lực
từ ngày 01/01/1997.
Căn cứ vào thứ bậc hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản quy
phạm pháp luật được chia thành văn bản luật và văn bản dưới luật. Quốc hội là cơ
quan cao nhất của quyền lực nhà nước, có quyền lập hiến và lập pháp.
Các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành là các văn bản luật và
có hiệu lực tối cao.
Các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan có thẩm quyền khác ban hành
đều là các văn bản dưới luật. Các văn bản dưới luật phải tôn trọng tính hiệu lực tối
cao của văn bản luật, phải dựa trên các nguyên tắc, các quy định của văn bản luật và
không được trái với các văn bản luật. Hiệu lực của các văn bản dưới luật thấp hơn các
văn bản luật và phụ thuộc vào thẩm quyền cơ quan ban hành ra chúng.
Căn cứ theo loại cơ quan có thẩm quyền ban hành, văn bản quy phạm pháp luật
của nhà nước ta được quy định trong luật gồm các loại:
1. Văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của Quốc hội ban hành
1.1. Hiến pháp
Hiến pháp của nhà nước ta thể chế hóa đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam,
thể hiện tập trung lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Hiến pháp là
luật cao nhất, cơ bản nhất của một nhà nước. Chỉ có Quốc hội mới có quyền xây dựng
Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, theo trình tự thủ tục do Hiến pháp quy định. Hiến
pháp của nước ta hiện nay là Hiến pháp năm 1992 được Quốc hội khóa X sửa đổi, bổ
sung năm 2002.
Tính cao nhất của Hiến pháp được giải thích bởi hiệu lực của nó. Quy định của
quy phạm Hiến pháp phủ định những quy định của bất cứ văn bản quy phạm pháp luật
nào trái với Hiến pháp. Những văn bản quy phạm pháp luật khác, nếu có những quy
định không phù hợp với Hiến pháp bị coi là không hợp hiến (vi hiến), và do đó không
có hiệu lực. Tính cao nhất còn thể hiện ở thủ tục thông qua Hiến pháp. Khi xây dựng
và sửa đổi Hiến pháp phải theo nguyên tắc biểu quyết đa số đặc biệt, phải được hai
phần ba tổng số Đại biểu Quốc hội nhất trí.

===================================================================== 3
================== Hệ thống pháp luật – Ý thức pháp luật – Pháp chế XHCN
Là luật cơ bản, quy phạm của Hiến pháp điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội cơ
bản trong các lĩnh vực: chế độ kinh tế, chế độ chính trị, chính sách văn hóa xã hội,
quốc phòng, an ninh, chính sách đối ngoại của nhà nước các nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Bộ máy nhà nước, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân..., thể chế
mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ và Nhà nước quản lý. Tính cơ bản
của Hiến pháp còn thể hiện ở chỗ, Hiến pháp đề ra những vấn đề lớn, có tính nguyên
tắc, lâu dài, làm cơ sở để ban hành các văn bản luật, pháp lệnh và các văn bản quy
phạm pháp luật của nhà nước cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của xã hội.
1.2. Luật (Đạo luật, Bộ luật)
Luật là một loại văn bản quy phạm pháp luật có giá trị sau Hiến pháp, do Quốc
hội ban hành nhằm cụ thể hóa những vấn đề quy định trong Hiến pháp trên các lĩnh
của đời sống xã hội. Ví dụ Bộ luật Dân sự năm 1996, Bộ luật Hình sự năm 1999, Luật
Doanh nghiệp năm 1999, Luật Hợp tác xã năm 1997... Khi xây dựng và sửa đổi luật
phải theo nguyên tắc biểu quyết đa số thường, quá một nửa tổng số Đại biểu Quốc hội
nhất trí. Trình tự và thủ tục ban hành Luật được quy định trong Hiến pháp và Luật ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật năm 1996.
Luật và bộ luật có vai trò nòng cốt trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
của nhà nước ta, vừa là văn bản cụ thể hóa Hiến pháp, bảo đảm cho Hiến pháp được
thực hiện, vừa là cơ sở để cho các cơ quan nhà nước ban hành các văn bản khác (văn
bản dưới luật) để thực hiện quản lý nhà nước ở các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảm
bảo nguyên tắc Quốc hội là cơ quan lập pháp của nhà nước, đòi hỏi phải tăng cường
sự hiện diện của các luật và bộ luật trong hệ thống pháp luật.
1.3. Nghị quyết của Quốc hội
Nghị quyết của Quốc hội là văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội ban
hành để quyết định những vấn đề về Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội; chính sách
dân tộc, tôn giáo; công tác đối ngoại; quốc phòng an ninh; dự toán, phân bổ, điều
chỉnh, phê chuẩn và quyết toán ngân sách; chế độ làm việc của Quốc hội, Đại biểu
Quốc hội và những vấn đề khác thuộc thẩm quyền.
2. Văn bản thuộc thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành
2.1. Pháp lệnh
Pháp lệnh là loại văn bản quy định những vấn đề được Quốc hội giao cho Ủy ban
Thường vụ Quốc hội ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội do chưa ban hành
được luật để kịp thời quản lý xã hội. Pháp lệnh còn có mục đích chuẩn bị điều kiện
cho việc ban hành luật. Pháp lệnh ban hành sau một thời gian được thể nghiệm trong
thực tế, khi có điều kiện sẽ được Quốc hội xem xét, quyết định ban thành luật. Trong
số các văn bản dưới luật, Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội là văn bản dưới
luật có hiệu lực cao nhất, nhưng có hiệu lực sau Hiến pháp và Luật.
2.2. Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Là loại văn bản do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành để giải thích Hiến
pháp, Luật và Pháp lệnh; giám sát việc thi hành Hiến pháp, các văn bản khác của
Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án
nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giám sát và hướng dẫn hoạt động
của Hội đồng nhân dân các cấp; quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; tổng động
===================================================================== 4
================== Hệ thống pháp luật – Ý thức pháp luật – Pháp chế XHCN
viên cục bộ; ban hành tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc từng địa phương; và
quyết định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Do tầm quan trọng của văn bản thuộc thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định thủ tục, trình tự ban hành
chúng rất cụ thể, chặt chẽ. Quy định cụ thể các bước tiến hành, trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội có liên quan đến từng văn bản cụ thể trong việc soạn
thảo, thông qua và công bố.
3. Văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương ban hành
Các cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương có quyền và nghĩa vụ ban hành các
văn bản pháp quy quy định cụ thể việc thi hành các văn bản của Quốc hội và Ủy ban
Thường vụ Quốc hội. Những văn bản thuộc loại này gồm:
3.1. Lệnh và Quyết định của Chủ tịch nước
Chủ tịch nước ban hành Lệnh để công bố Hiến pháp và Luật, ban hành Lệnh và
Quyết định để thực hiện các nhiệm vụ trong thẩm quyền của mình như quyết định phê
chuẩn các Điều ước Quốc tế, Quyết định khen thưởng... Số lượng các văn bản quy
phạm pháp luật rất ít và hiếm, và chủ yếu, Chủ tịch nước ban hành các văn bản pháp
luật cá biệt trong các trường hợp cụ thể nhưng có hiệu lực lâu dài.
3.2. Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ, Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng
Đây là nhóm các văn bản quy phạm pháp luật hết sức quan trọng trong hệ thống
pháp luật của Nhà nước ta hiện nay, trong điều kiện pháp luật chưa hoàn thiện và
đồng bộ. Mục đích ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của Cơ quan hành pháp
(Chính phủ) là cụ thể hóa các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội và Ủy ban
thường vụ Quốc hội, để triển khai thực hiện trên thực tế. Mặt khác, trong quá trình
thực hiện chức năng quản lý nhà nước, Chính phủ và Thủ tướng còn có thể ban hành
các văn bản quy phạm để kịp thời điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội mới phát sinh,
chưa được điều chỉnh bằng các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn.
+ Nghị quyết của Chính phủ được ban hành để quyết định các chính sách cụ thể
trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý hành chính nhà nước của Chính phủ, như
xây dựng và kiện toàn của Bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở,
hướng dẫn kiểm tra Ủy ban nhân dân cấp dưới thực hiện các văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên; đảm bảo thi hành Hiến pháp và pháp luật; thực hiện các chính sách xã
hội, dân tộc, tôn giáo, quyết định các chủ trương chính sách về ngân sách, tiền tệ,
quốc phòng và an ninh...
+ Nghị định của Chính phủ được ban hành để quy định chi tiết thi hành Luật,
Pháp lệnh, Nghị quyết của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội, Lệnh, Quyết định
của Chủ tịch nước. Quy định tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ của các Bộ, cơ
quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc thẩm quyền thành lập của Chính phủ. Nghị định
còn được ban hành để quy định những vấn đề cần thiết nhưng chưa đủ điều kiện ban
hành Luật hay Pháp lệnh. Việc ban hành các Nghị định với tư cách là văn bản quy
phạm pháp luật có hiệu lực cao nhất điều chỉnh một số quan hệ xã hội này phải được
sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội, và trên nguyên tắc Chính phủ làm việc
theo chế độ tập thể.

===================================================================== 5
================== Hệ thống pháp luật – Ý thức pháp luật – Pháp chế XHCN
+ Quyết định của Thủ tướng được ban hành để quyết định các chủ trương, biện
pháp lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước
từ Trung ương đến địa phương, quy định chế độ làm việc của các thành viên Chính
phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của
Chính phủ.
+ Chỉ thị của Thủ tướng quy định các biện pháp chỉ đạo, phối hợp hoạt động
của các thành viên Chính phủ; đôn đốc kiểm tra hoạt động của các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện các chủ
trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết của Chính phủ.
Các văn bản quy phạm pháp luật Quyết định và Chỉ thị được Thủ tướng ban
hành trong vai trò là người đứng đầu Chính phủ, thủ trưởng của cơ quan quản lý hành
chính nhà nước.
3.3. Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ,
và các thành viên khác của Chính phủ: Các Bộ, cơ quan ngang Bộ hoạt động theo
nguyên tắc thủ trưởng, người đứng đầu các cơ quan này có thẩm quyền ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật dưới hình thức Quyết định, Chỉ thị, Thông tư .
+ Hình thức Quyết định được ban hành để quy định về tổ chức, hoạt động của các
cơ quan, đơn vị trực thuộc; quy định các tiêu chuẩn, quy trình và định mức kinh tế - kỹ
thuật ngành, lĩnh vực do cơ quan phụ trách; quy định các biện pháp để thực hiện chức
năng quản lý ngành, lĩnh vực và các nhiệm vụ do Chính phủ giao.
+ Hình thức Chỉ thị được sử dụng để quy định các biện pháp chỉ đạo, đôn đốc,
phối hợp và kiểm tra hoạt động của các cơ quan, đơn vị thuộc ngành, đôn đốc và kiểm
tra việc thực hiện văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên và của chính
cơ quan mình tại các đơn vị trực thuộc.
+ Hình thức Thông tư: Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành
Thông tư để hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý
cao hơn thuộc phạm vi ngành, lĩnh vực mà Bộ quản lý. Bên cạnh đó còn có Thông tư
liên tịch để phối hợp hoạt động giữa các bộ ngành và các cơ quan nhà nước khác như
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các cơ quan trung ương của
các tổ chức chính trị-xã hội.
Bên cạnh đó còn có các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan tư pháp,
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết để hướng dẫn Tòa
án nhân dân các cấp áp dụng thống nhất pháp luật và tổng kết kinh nghiêm xét xử,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành các Quyết định, Chỉ thị , Thông
tư để quy định các vấn đề thuộc thẩm quyền của Viện trưởng.
4. Văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp
Để triển khai việc thi hành các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội và cơ quan nhà nước cấp trên, Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân các cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản pháp quy có hiệu lực trong
phạm vi địa phương do các cơ quan đó quản lý. Bao gồm:
4.1. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp
Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan đại diện của nhân dân tại địa phương, có
quyền ra Nghị quyết để điều chỉnh các vấn đề xã hội, các quan hệ xã hội quan trọng tại
===================================================================== 6
================== Hệ thống pháp luật – Ý thức pháp luật – Pháp chế XHCN
địa phương trong phạm vi thẩm quyền được giao. Hội đồng nhân dân căn cứ vào các quy
định trong các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên ra các
Nghị quyết thi hành tại địa phương. Nội dung Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp
dưới không được trái với Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp trên hoặc trái với Quyết
định, Chỉ thị của Ủy ban nhân dân cấp trên (Điều 120- Hiến pháp 1992)
4.2. Quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân các cấp ban hành
Ủy ban nhân dân các cấp do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra để quản lý các
lĩnh vực của địa phương, phải chấp hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp
và những quy định thể hiện trong các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng
thời, chỉ đạo việc thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp
dưới. Theo các quyền hạn luật định, Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền ra các
Quyết định, Chỉ thị trong công tác thực hiện chức năng quản lý nhà nước của mình.
Bằng việc ban hành các Quyết định, Chỉ thị, Ủy ban nhân dân các cấp có quyền
bãi bỏ, sửa đổi những Quyết định, Chỉ thị không phù hợp của Ủy ban nhân dân cấp
dưới và các cơ quan ngành chuyên môn thuộc quyền tại địa phương. Bên cạnh đó, Ủy
ban nhân dân có quyền đình chỉ việc thi hành những những Nghị quyết không thích
đáng của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp và đề nghị Hội đồng nhân dân cấp
mình sửa đổi, bãi bỏ các Nghị quyết ấy.
III. HIỆU LỰC CỦA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Tiếng Việt là ngôn ngữ dùng trong các văn bản quy phạm pháp luật của nhà
nước ta. Khi xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật cần phải bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp, phải tôn trọng nguyên tắc hiệu lực tối cao của Hiến pháp và Luật. Văn
kiện luật không được trái với Hiến pháp; các văn kiện pháp quy khác (dưới luật)
không được trái với luật. Đồng thời, trật tự trên dưới của toàn hệ thống, cả văn bản
luật và văn bản dưới luật phải thống nhất, không mâu thuẫn nhau. Trình tự ban hành,
nội dung, tên gọi từng loại văn bản phải tuân theo quy định của Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành sẽ có hiệu lực
trên thực tế. Để các văn bản quy phạm pháp luật đi vào cuộc sống, phát huy vai trò tác
động và điều chỉnh có hiệu quả của chúng đối với các quan hệ xã hội theo đúng mục
đích đã đặt ra, cần phải xác định rõ hiệu lực của chúng. Hiệu lực của văn bản quy
phạm pháp luật là giới hạn các quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi văn bản quy phạm
đó. Phụ thuộc vào thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tính chất và
mục đích của mỗi loại văn bản, hay từng văn bản cụ thể, hiệu lực của chúng có những
giới hạn khác nhau.
Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được thể hiện trên ba mặt: thời gian,
không gian và đối tượng điều chỉnh.
1. Hiệu lực theo thời gian
Hiệu lực thời gian xác định giá trị áp dụng bắt buộc của quy phạm pháp luật
trong một văn bản ở một khoảng thời gian nhất định. Hiệu lực thời gian được xác định
từ thời điểm phát sinh cho đến khi chấm dứt sự tác động của văn bản đó. Liên quan
đến hiệu lực về thời gian của văn bản quy phạm pháp luật chúng ta phải xem xét về
thời điểm phát sinh và chấm dứt hiệu lực; trường hợp ngưng hiệu lực, và hiệu lực hồi
tố của văn bản.
===================================================================== 7
================== Hệ thống pháp luật – Ý thức pháp luật – Pháp chế XHCN
Thời điểm phát sinh hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được xác định
khác nhau, thông thường, thời điểm này được ghi rõ trong văn bản hoặc được xác định
theo quy định của pháp luật. Luật ban hành văn bản của nhà nước ta quy định về thời
điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật như sau:
1. Luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội có hiệu lực kể từ ngày Chủ tịch nước ký lệnh công bố, trừ trường hợp văn bản
đó quy định ngày có hiệu lực khác.
2. Văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước có hiệu lực kể từ ngày đăng
Công báo, trừ trường hợp văn bản đó quy định ngày có hiệu lực khác.
3. Văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
và các văn bản quy phạm pháp luật liên tịch có hiệu lực sau mười lăm ngày, kể từ ngày
đăng Công báo hoặc có hiệu lực muộn hơn nếu được quy định tại văn bản đó. Đối với
văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định các biện
pháp thi hành trong tình trạng khẩn cấp, thì văn bản có thể quy định ngày có hiệu lực sớm
hơn.''
Trong thực tế, có những văn bản quy phạm, nếu áp dụng là không phù hợp,
không có tác dụng, có trường hợp có hại... thì văn bản có thể bị đình chỉ thi hành và
tạm thời ngưng hiệu lực cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Nếu quyết định xử lý không bị hủy bỏ thì văn bản lại tiếp tục có hiệu lực,
ngược lại, văn bản sẽ hết hiệu lực khi có quyết định hủy bỏ văn bản đó. Thời điểm
ngưng hiệu lực, tiếp tục có hiệu lực hoặc hủy bỏ hiệu lực phải được quy định rõ tại
quyết định đình chỉ thi hành và quyết định xử lý của cơ quan có thẩm quyền và phải
được đăng Công báo, đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng.
Về thời điểm hết hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật, Văn bản quy phạm
pháp luật mất hiệu lực một phần hay toàn bộ khi: 1)Hết thời hạn đã ghi trong văn bản;
2) Được thay thế bằng văn bản mới của chính cơ quan nhà nước ban hành ra văn bản
đó; 3)Bị bãi bỏ hoặc hủy bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành của văn bản hết hiệu lực cũng đồng thời
hết hiệu lực cùng văn bản đó, trừ trường hợp được giữ lại toàn bộ hoặc một phần vì
còn phù hợp với các quy định của văn bản mới.
Về nguyên tắc, văn bản quy phạm pháp luật chỉ có hiệu lực điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh sau thời điểm có hiệu lực, nó không có hiệu lực đối với các quan
hệ xã hội phát sinh trước đó. Trong một số trường hợp, nguyên tắc này là ngoại lệ, khi
đó, văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực hồi tố. Hồi tố là việc vận dụng các quy
phạm pháp luật trong văn bản mới được ban hành áp dụng cho vụ việc xảy ra trước
khi có văn bản đó. Hiệu lực hồi tố là giá trị bắt buộc của quy phạm trong một văn bản
pháp quy mới ban hành có hiệu lực trở về trước (gọi là hiệu lực trở về trước).
Pháp luật của nhà nước ta, về cơ bản, không áp dụng nguyên tắc hồi tố. Nhưng
với tính nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa, trong những trường hợp nhất định,
với những điều kiện nhất định vẫn có thể vận dụng. Đó là các trường hợp nếu áp dụng
nguyên tắc hồi tố mà có lợi cho chủ thể bị áp dụng, với điều kiện là phải có quy định
cụ thể trong văn bản. Điều 76, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định:
===================================================================== 8
================== Hệ thống pháp luật – Ý thức pháp luật – Pháp chế XHCN
1. Chỉ trong trường hợp cần thiết, văn bản quy phạm pháp luật mới được quy
định hiệu lực trở về trước;
2. Không được quy định hiệu lực trở về trước trong những trường hợp sau đây:
a) Quy định trách nhiệm mới đối với hành vi mà vào thời điêm thực hiện hành
vi pháp luật không quy định trách nhiệm đó; b)Quy định trách nhiệm pháp lý nặng
hơn.
2. Hiệu lực theo không gian
Hiệu lực theo không gian giới hạn tác động của một văn bản quy phạm pháp luật
được xác định theo lãnh thổ toàn quốc gia, theo một vùng hay một địa phương nhất
định. Một văn bản có hiệu lực trên một phạm vi lãnh thổ rộng hay hẹp phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như thẩm quyền của cơ quan ban hành ra nó, tính chất, mục đích và nội
dung được thể hiện trong văn bản đó.
Hiệu lực không gian của văn bản quy phạm pháp luật được xác định bằng hai
cách cơ bản: ghi rõ trong văn bản hoặc không ghi rõ trong văn bản. Đối với những văn
bản có ghi rõ về điều khoản phạm vi không gian áp dụng thì chúng sẽ phát huy tác
dụng trong phạm vi đó. Đối với những văn bản không ghi rõ điều khoản về phạm vi
không gian áp dụng thì phải dựa vào thẩm quyền của cơ quan nhà nước ban hành và
nội dung các quy phạm trong văn bản để xác định hiệu lực theo không gian.
Nhìn chung, những văn bản do cơ quan trung ương ban hành, nếu không xác
định rõ giới hạn không gian áp dụng, thì chúng có hiệu lực trên phạm vi cả nước. Tuy
nhiên phải xét nội dung văn bản đề cập đến lĩnh vực nào. Một văn bản của Chính phủ
chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội ở miền núi, hải đảo,... không thể áp dụng cho các
vùng khác trong cả nước được. Các văn bản pháp quy của Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban nhân dân các cấp chỉ có hiệu lực trong phạm vi địa phương cơ quan đó quản lý.
3. Hiệu lực theo đối tượng áp dụng
Đối tượng điều chỉnh của một văn bản quy phạm pháp luật là một lĩnh vực quan
hệ xã hội nhất định. Quy phạm pháp luật của văn bản sẽ tác động vào hành vi xử sự
của các chủ thể trong các quan hệ xã hội cụ thể, thuộc lĩnh vực đó. Về nguyên tắc, văn
bản quy phạm pháp luật có hiệu lực đối với tất cả mọi đối tượng nằm trong phạm vi
lãnh thổ mà văn bản đó có hiệu lực về thời gian và không gian. Các đối tượng chịu sự
điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam là công dân Việt Nam và người
nước ngoài, người không quốc tịch, trừ trường hợp luật của Việt Nam và Điều ước
quôc tế mà nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia có
quy định khác.
Nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật thường xác định rõ phạm vi chủ
thể. Nhưng cũng có những văn bản không quy định rõ. Vì vậy, khi xét đến hiệu lực
theo đối tượng chủ thể cần chú ý:
- Đối với những văn bản chung, thì đối tượng tác động là tất cả mọi công dân,
mọi tổ chức và cơ quan đang sống và hoạt động trên lãnh thổ thuộc thẩm quyền cơ
quan đã ban hành ra văn bản đó.
- Đối với những văn bản quy định về những lĩnh vực khác nhau, thì văn bản chỉ
có hiệu lực đối với một số chủ thể nhất định đang hoạt động trong lĩnh vực ngành
nghề đó mà thôi.
===================================================================== 9
================== Hệ thống pháp luật – Ý thức pháp luật – Pháp chế XHCN
Về hiệu lực không gian và đối tượng chủ thể áp dụng, Điều 79 - Luật ban hành
văn bản quy định:
1)Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước trung ương có hiệu lực
trong cả nước, và được áp dụng đối với mọi cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam, trừ
trường hơp văn bản có quy định khác;
2)Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân có hiệu
lực trong phạm vi địa phương mà cơ quan đó quản lý;
3)Văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực đối với cơ quan, tổ chức người nước
ngoài ở Việt Nam, trừ trường hợp luật Việt Nam hoặc Điều ước quốc tế mà Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
Để xác định hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật chúng ta phải xem xét kết
hợp cả hiệu lực theo thời gian, theo không gian và theo đối tượng áp dụng. Vấn đề này
hết sức có ý nghĩa để đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, cũng là điều kiện thiết lập
một trật tự thứ bậc hiệu lực nghiêm ngặt giữa các văn bản, đảm bảo hình thành một hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật có tính thống nhất cao. Trên thực tế, không phải là
không có việc áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã
hội khi nó không có hiệu lực đối với quan hệ xã hội đó.
Khi văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực, sẽ được áp dụng trên thực tế. Việc
áp dụng các văn bản này tuân theo một số yêu cầu sau:
1)Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng tính từ thời điểm có hiệu lực. Vì
vậy, chỉ có những hành vi nào xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực.
Trường hợp trong văn bản có quy định hiệu lực hồi tố thì theo quy định đó.
2)Trường hợp các văn bản có quy định khác nhau về cùng một vấn đề, thì áp
dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.
3)Trường hợp các văn bản pháp lụật cùng tên gọi về cùng một vấn đề do cùng
một cơ quan ban hành mà có quy định khác nhau thì áp dụng văn bản ban hành sau.
4)Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách
nhiệm pháp lý hoặc quy định pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra trước ngày văn
bản có hiệu lực thì áp dụng văn bản mới (theo hiệu lực hồi tố).
IV. CÁC NGÀNH LUẬT TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, chất lượng cao để điều
chỉnh các quan hệ xã hội là yêu cầu khách quan của bất cứ nhà nước xã hội chủ nghĩa
nào và là tư tưởng nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Tuy mức độ phát triển của các
ngành luật khác nhau, hiện nay, các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt nam đã
và đang hình thành, phát triển và hoàn thiện cùng với quá trình phát triển của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cho tới nay, hệ thống pháp luật Việt Nam bao gồm
các ngành luật cơ bản sau đây,
1. Luật Nhà nước (Luật Hiến pháp)
Luật Nhà nước là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ cơ bản
về tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội,
chế độ bầu cử, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, về quốc tịch...
Luật nhà nước là ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật, đó là ngành luật
điều chỉnh những quan hệ xã hội quan trọng nhất của một quốc gia, tất cả các ngành luật
===================================================================== 10
================== Hệ thống pháp luật – Ý thức pháp luật – Pháp chế XHCN
khác đều được hình thành trên cơ sở những nguyên tắc của Luật nhà nước. Phương pháp
điều chỉnh của Luật nhà nước là phương pháp mang tính tổng hợp, trong đó phương pháp
chủ đạo là phương pháp mệnh lệnh, quyền uy. Luật Nhà nước còn gọi là Luật Hiến pháp,
nội dung cơ bản của Luật nhà nước bắt nguồn từ Hiến pháp, Hiến pháp là nguồn cơ bản
của Luật nhà nước.
2. Luật Hành chính
Luật Hành chính là một ngành Luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao
gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong
quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành của các cơ quan quản
lý hành chính nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Luật Hành chính quy
định những nguyên tắc, những hình thức và phương pháp quản lý hành chính nhà
nước, xác định quy chế pháp lý của các chủ thể quản lý nhà nước, điều chỉnh hoạt
động của công chức nhà nước, thủ tục hành chính và trách nhiệm hành chính.
Trong tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam có một hệ thống cơ quan thực hiện
chức năng hành pháp, tổ chức và triển khai thực hiện pháp luật trên thực tế đời sống
xã hội. Đó là hệ thống cơ quan hành chính từ trung ương tới địa phương gồm: Chính
phủ, các Bộ ngành và Ủy ban nhân dân các cấp. Luật Hành chính là ngành luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức hoạt động của khối cơ quan
quản lý hành chính này. Bao gồm:
 Những quan hệ phát sinh trong hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước
- nhóm quan hệ cơ bản trong đối tượng điều chỉnh của Luật Hành chính
 Những quan hệ có tính chất quản lý của các cơ quan nhà nước nhằm xây dựng
củng cố tổ chức bộ máy và chế độ công tác nội bộ của những cơ quan ấy.
 Những quan hệ có tính chất chấp hành và điều hành của một số đoàn thể quần
chúng và một số các nhân trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước
đối với những vấn đề cụ thể được pháp luật quy định.
Những quan hệ pháp luật hành chính mang tính chất mệnh lệnh - phục tùng,
không bình đẳng, giữa một bên là các cơ quan quản lý mang quyền lực nhà nước với
một bên là các cá nhân, tổ chức chịu sự quản lý hành chính, sự điều hành. Do đó,
phương pháp điều chỉnh của Luật Hành chính là phương pháp mệnh lệnh.
3. Luật Tài chính
Luật Tài chính là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động tài chính của nhà nước như việc lập dự toán,
phê chuẩn và sử dụng ngân sách nhà nước, hoạt động tín dụng, việc định và thu các
loại thuế và việc thanh toán qua Ngân hàng và các tổ chức tài chính khác. Các quy
phạm pháp luật tài chính đặt cơ sở cho việc xây dựng hệ thống tiền tệ, quy định việc
phát hành lưu thông các loại giấy bạc, việc kiểm tra cho vay tín dụng, quy định kỷ luật
trong hoạt động tài chính. Phương pháp điều chỉnh của Luật tài chính là phương pháp
mệnh lệnh.
4. Luật Dân sự
Luật dân sự là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản
mang tính chất hàng hóa - tiền tệ và một số quan hệ nhân thân không mang tính tài

===================================================================== 11
================== Hệ thống pháp luật – Ý thức pháp luật – Pháp chế XHCN
sản. Luật Dân sự gồm nhiều chế định cơ bản như chế định quyền sở hữu, hợp đồng
dân sự, chế định thừa kế, chế định quyền sở hữu trí tuệ, chế định quyền nhân thân...
Đặc điểm của quan hệ pháp luật dân sự là quan hệ hoàn toàn bình đẳng giữa các
chủ thể không mang quyền lực nhà nước và ngang bằng nhau trước pháp luật. Các
quan hệ này liên quan trực tiếp đến lợi ích của các bên tham gia. Do đó, phương pháp
điều chỉnh của Luật Dân sự là phương pháp bình đẳng ngang quyền, các bên tự thỏa
thuận, tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm với nhau trong khuôn khổ pháp luật. Nhà
nước chỉ can thiệp vào quan hệ pháp luật dân sự với tư cách là trọng tài để bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể hoặc khi lợi ích của nhà nước, lợi ích công
cộng bị xâm hại theo quy định của pháp luật mà thôi.
5. Luật Tố tụng dân sự
Luật Tố tụng dân sự là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
tố tụng phát sinh trong quá trình điều tra, giải quyết các vụ án dân sự, để bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của Nhà nước, của tập thể, và công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Khác với các ngành luật thực định khác như Luật Dân sự, Luật hành chính...,
luật tố tụng nói chung và luật Tố tụng dân sự nói riêng được gọi là luật hình thức. Gọi
luật tố tụng là luật hình thức bởi vì nó không quy định trực tiếp quyền và nghĩa vụ của
các bên trong một quan hệ pháp luật có tranh chấp phát sinh, mà nó chỉ quy định các
nguyên tắc và thủ tục giải quyết vụ án, quyền và nghĩa vụ của các đương sự và những
người có liên quan, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong quá trình giải quyết các vụ
án. Trên cơ sở quy phạm pháp luật thực định, Tòa án ra phán quyết xác định quyền và
nghĩa vụ của các bên.
Luật Tố tụng dân sự quy định về trình tự thủ tục và thẩm quyền của Tòa án dân
sự trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình. Đó là quá trình áp dụng
pháp luật thực định của Tòa án để phân xử quyền và nghĩa vụ của các bên. Xuất phát
từ bản chất của các quan hệ dân sự là quan hệ bình đẳng, cho nên, phương pháp điều
chỉnh của luật Tố tụng dân sự là phương pháp tôn trọng quyền tự định đoạt của các
bên đối với quyền lợi của họ trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự.
6. Luật Hôn nhân Gia đình
Quan hệ hôn nhân và gia đình cũng là nhóm quan hệ xã hội quan trọng chịu sự
điều chỉnh của pháp luật. Luật Hôn nhân Gia đình là tổng thể các quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội về nhân thân và về tài sản phát sinh do quan hệ kết hôn
và nhận nuôi con nuôi như các điều kiện, thủ tục kết hôn, ly hôn, nhân nuôi con nuôi;
quan hệ giữa vợ chồng, bố mẹ và con cái nhằm mục đích bảo vệ chế độ hôn nhân tự
nguyên tiến bộ, bình đẳng nam nữ, một vợ, một chồng, xây dựng gia đình hạnh phúc,
bảo vệ lợi ích bà mẹ và trẻ em, chăm sóc giáo dục con cái. Luật Hôn nhân gia đình có
nhiệm vụ bảo vệ chế độ hôn nhân và định hướng cho quan hệ hôn nhân tiến bộ phù
hợp với thuần phong mỹ tục, đạo đức, truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta. Phương
pháp điều chỉnh của Luật Hôn nhân gia đình là phương pháp bình đẳng và hòa giải.
7. Luật Đất đai
Luật Đất đai là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
hình thành trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất, trong đó đất đai là tư liệu sản xuất
===================================================================== 12
================== Hệ thống pháp luật – Ý thức pháp luật – Pháp chế XHCN
thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước quản lý theo quy hoạch và kế hoạch. Các nhóm
quan hệ pháp luật chủ yếu của Luật Đất đai gồm: +Các quan hệ phát sinh giữa Nhà
nước với người sử dụng đất như quan hệ giao đất cho các hộ gia đình, các cá nhân sử
dụng, các quan hệ thu hồi đất, các quan hệ giữa Nhà nước với người nước ngoài thuê
đất của Việt Nam, quan hệ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất... + Các quan hệ
giữa những người sử dụng đất với nhau trong quan hệ chuyển đổi đất thuộc quyền
được giao sử dụng, quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quan hệ thừa kế quyền
sử dụng đất..., nhóm quan hệ này còn được điều chỉnh bởi Luật dân sự Việt Nam.
Trong các nhóm quan hệ pháp luật đất đai nói trên, mỗi nhóm có những đặc
điểm riêng, dẫn đến phương pháp điều chỉnh của Luật Đất đai đối với mỗi nhóm quan
hệ là khác nhau, gồm phương pháp mệnh lệnh và phương pháp bình đẳng.
8. Luật Lao động
Lao động là một lĩnh vực hết sức thiết thực đối với bất kỳ một cá nhân nào.
Luật Lao động là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, gồm
tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa người
lao động và người sử dụng lao động và các quan hệ phát liên quan trực tiếp đến quan
hệ lao động. Các chế định cơ bản của Luật lao động gồm: Hợp đồng lao động, thỏa
ước lao động tập thể, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, kỷ luật lao động và trách
nhiệm vật chất, chế độ lao động đối với lao động nữ và người chưa thành niên, bảo
hiểm xã hội, địa vị pháp lý của Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ quyền lợi của
người lao động, quản lý nhà nước về lao động và thanh tra lao động.
Phương pháp điều chỉnh của Luật Lao động gồm: phương pháp bình đẳng thỏa
thuận, phương pháp mệnh lệnh, phương pháp có sự tham gia của tổ chức công đoàn.
9. Luật Kinh tế
Có nhiều ý kiến khác nhau về việc xác định Luật Kinh tế có là một ngành luật
độc lập hay chỉ là một chế định luật kinh tế trong ngành Luật dân sự? Theo quan niệm
truyền thống, với phương pháp bình đẳng tự nguyện, phương pháp hướng dẫn, kết hợp
với phương pháp quyền uy, Luật Kinh tế là tổng thể các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình các cơ quan quản lý nhà nước quản lý các
hoạt động kinh tế và các quan hệ giữa các đơn vị kinh tế với nhau trong quá trình tổ
chức hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các chế định pháp luật chủ yếu của Luật Kinh tế là địa vị pháp lý của các doanh
nghiệp, chế định hợp đồng kinh tế, phá sản doanh nghiệp và giải quyết tranh chấp kinh
tế. Cũng có ý kiến cho rằng cần phải tách pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế
thành một ngành luật riêng là ngành luật Tố tụng Kinh tế.
Trong điều kiện hiện nay, vấn đề xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế, ngành
Luật Kinh tế và giải quyết mối quan hệ giữa Luật kinh tế với các ngành luật khác đang
là một vấn đề mang tính khoa học và là nhiệm vụ của khoa học pháp lý nước ta.
10. Luật Hình sự
Luật Hình sự là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định những hành vi nguy
hiểm cho xã hội là Tội phạm, những hình phạt là trách nhiệm hình sự áp dụng đối với
người phạm tội, những nguyên tắc xác định tội danh và hình phạt.

===================================================================== 13
================== Hệ thống pháp luật – Ý thức pháp luật – Pháp chế XHCN
Đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự là những quan hệ xã hội phát sinh giữa
Nhà nước và người phạm tội. Người phạm tội là những người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị Luật Hình sự coi là Tội phạm, khi đó họ phải chịu trách nhiệm
chấp hành các biện pháp cưỡng chế, trừng phạt của Nhà nước. Còn Nhà nước, với tư
cách là chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự, có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ
an toàn và lợi ích của toàn xã hội, có quyền truy tố xét xử, buộc kẻ phạm tội phải chịu
những hình phạt nhất định phù hợp với tính chất và mức độ của tội phạm mà họ gây
ra. Các quy phạm pháp luật hình sự điều chỉnh các quan hệ pháp luật hình sự bằng
phương pháp quyền uy, đó là phương pháp sử dụng quyền lực nhà nước trong việc
điều chỉnh các quan hệ giữa Nhà nước và kẻ phạm tội.
11. Luật Tố tụng hình sự
Luật tố tụng hình sự là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định các nguyên
tắc, điều kiện, thủ tục giải quyết một vụ án hình sự, từ việc khởi tố, điều tra, kiểm sát
và xét xử một vụ án hình sự, quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng,
đến tổ chức cưỡng chế thi hành án. Đối tượng điều chỉnh của Luật tố tụng hình sự là
các quan hệ phát sinh trong quá trình tố tụng hình sự giữa các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tiến hành tố tụng với những người tham gia có liên quan.
Phương pháp điều chỉnh của Luật Tố tụng hình sự gồm phương pháp quyền uy
tác động đến quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với những người có liên
quan, người có nghĩa vụ tham gia tố tụng; và phương pháp phối hợp-chế ước tác động
đến quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau.
12. Luật Quốc tế hiện đại (Công pháp quốc tế - Public International Law)
Luật Quốc tế hiện đại là một ngành luật độc lập điều chỉnh quan hệ quốc tế phát
sinh giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập
và quyền tự quyết. Quan hệ giữa các chủ thể này được gọi là các quan hệ đối ngoại ở
tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, tôn giáo, chiến tranh và hòa
bình, liên minh, liên kết... Trong quá trình xác lập và thực hiện các quan hệ bang giao,
các quốc gia và các tổ chức quốc tế thường xác lập các văn kiện pháp lý quốc tế (còn
gọi là các Điều ước Quốc tế - International Treaty). Chỉ những quan hệ nào được ghi
nhận trong các điều ước quốc tế mới được gọi là các quan hệ pháp luật thuộc đối
tượng điều chỉnh của Luật Quốc tế hiện đại.
Bản thân Luật Quốc tế hiện đại có nhiều ngành luật cơ bản hoặc có tính chất là
các ngành luật truyền thống, hoặc là những ngành luật mới phát sinh.
13. Tư pháp Quốc tế (Private International Law)
Nếu như Luật Quốc tế hiện đại điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ
thể là các quốc gia, các tổ chức quốc tế, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự
quyết, thì Tư pháp quốc tế điều chỉnh các quan hệ mang tính chất dân sự thuần túy, đó
là các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, và tố tụng dân sự... có
yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài có thể là yếu tố chủ thể của quan hệ pháp luật,
có thể là sự kiện pháp lý hay nơi thực hiện các quan hệ nghĩa vụ... Nhìn chung các
quan hệ pháp luật có tính chất quốc tế là các quan hệ rất phức tạp có một cơ chế điều
chỉnh riêng. Các quan hệ này ngày càng đa dạng và phức tạp do xu hướng và thực tế
của toàn cầu hóa và khu vực hóa hiện nay.
===================================================================== 14
================== Hệ thống pháp luật – Ý thức pháp luật – Pháp chế XHCN
Việc phân chia các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam rất có ý nghĩa
và có nhiều quan điểm khác nhau chưa đi đến thống nhất. Do lịch sử lập pháp của Nhà
nước ta còn non trẻ, các quan hệ xã hội dần chuyển sang một tính chất mới phù hợp
với nền kinh tế thị trường, nên nhìn chung tất cả các ngành luật con chưa hoàn thiện
và ổn định. Đó là một thực tế mà Nhà nước Việt Nam đang cố gắng khắc phục. Trong
điều kiện nền kinh tế mới và sự phát triển đang diễn ra, một số ngành luật đang được
hình thành như Luật thương mại, Luật ngân hàng, Luật Bảo hiểm, ....
V. HỆ THỐNG HÓA PHÁP LUẬT
1. Khái niệm hệ thống hóa pháp luật
Hệ thống hóa pháp luật là nhiệm vụ quan trọng của nhà nước khi tiến hành xây
dựng pháp luật. Đó là hoạt động của cơ quan nhà nước nhằm sắp xếp các quy phạm
pháp luật, các văn bản pháp luật hiện hành theo một trật tự nhất định. Mục tiêu của
công tác hệ thống hóa pháp luật là nhằm tạo ra một hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật hoàn chỉnh.
Cần phân biệt hệ thống pháp luật với hệ thống hóa pháp luật. Hệ thống pháp
luật là cơ cấu bên trong của pháp luật, bao gồm các ngành luật, chế định luật, tồn tại
một cách khách quan; còn hệ thống hóa pháp luật khái niệm liên quan đến hình thức
bên ngoài của pháp luật, phản ánh tình trạng các nguồn của pháp luật, mối liên quan
giữa chúng trong một thể thống nhất - hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (Hiến
pháp, luật, pháp lệnh,...). Giữa hệ thống pháp luật và hệ thống hóa pháp luật tuy có sự
phân biệt nhưng chúng có mối quan hệ rất mật thiết với nhau. Hệ thống pháp luật là
cơ sở cho công việc hệ thống hóa pháp luật.
Hệ thống hóa pháp luật sẽ tạo được một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
hoàn thiện đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội
thường xuyên biến đổi. Thông qua hệ thống hóa pháp luật các văn bản quy phạm pháp
luật cũng như từng quy phạm cụ thể mất hiệu lực sẽ bị loại bỏ. Điều này rất quan
trọng đối với việc thực hiện pháp luật. Việc hệ thống hóa pháp luật tạo cho cơ quan
nhà nước có khả năng định hướng và giải quyết nhanh chóng các tình huống cụ thể.
Do kết quả của công tác hệ thống hóa pháp luật các bộ luật, pháp luật hiện hành được
sắp xếp theo một trật tự khoa học hơn, từng lĩnh vực rõ ràng, nên việc sử dụng chúng
trong quản lý, xét xử thuận lợi, dễ dàng hơn. Việc hệ thống hóa pháp luật có khả năng
loại trừ tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo của pháp luật, khắc phục được hiện tượng
pháp luật vừa thiếu lại vừa thừa...
2. Nguyên tắc, tiêu chí hệ thống hóa pháp luật
2.1. Nguyên tắc hệ thống hóa pháp luật
Quá trình hệ thống hóa pháp luật phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
a. Bảo đảm tính hiệu lực của các quy phạm pháp luật, các văn bản quy phạm
pháp luật. Mục đích của hệ thống hóa pháp luật là tạo ra một hệ thống pháp luật hoàn
thiện, bảo đảm cho chúng được thực hiện đầy đủ, triệt để và có hiệu lực thực tế. Do
đó, công tác hệ thống hóa pháp luật phải nhằm vào các chế định, các quy phạm pháp
luật còn có hiệu lực. Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình tiến hành hệ thống hóa
pháp luật phải rà xét kỹ càng các quy phạm, các văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu

===================================================================== 15
================== Hệ thống pháp luật – Ý thức pháp luật – Pháp chế XHCN
lực hay không. Các cơ quan ban hành tập hệ thống hóa phải chịu trách nhiệm đối với
tính chính xác về hiệu lực của quy phạm pháp luật trong tập hệ thống hóa đó.
b. Hệ thống hóa pháp luật phải dựa trên một phương pháp luận thống nhất. Lý
luận về sự phân định ngành luật, chế định luật là cơ sở, là phương pháp luận để tiến
hành hệ thống hóa pháp luật. Các quy phạm pháp luật tác động vào các quan hệ xã hội
cùng tính chất phải được sắp xếp theo các chế định, các ngành luật.
c. Công tác hệ thống hóa pháp luật phải đặt dưới sự quản lý nhà nước. Việc
quản lý nhà nước đối với công tác hệ thống hóa pháp luật là cần thiết. Nhà nước cần
có kế hoạch, kiểm tra chặt chẽ công tác hệ thống hóa pháp luật. Tình trạng ai cũng có
quyền hệ thống hóa pháp luật đã làm mất ý nghĩa của hệ thống hóa pháp luật.
2.2. Tiêu chí hệ thống hóa pháp luật
Hệ thống hóa pháp luật được tiến hành căn cứ theo hai tiêu chí: phạm vi, mức độ
hiệu lực của các quy phạm pháp luật và tính chất của các quan hệ xã hội mà pháp luật
điều chỉnh.
a.Theo phạm vi, mức độ hiệu lực của quy phạm pháp luật, theo tiêu chí này, công
tác hệ thống hóa pháp luật được tiến hành theo mức độ hiệu lực của văn bản từ cao
xuống thấp: Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh,...., Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân
các cấp.
b.Theo tính chất của quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh Theo tiêu chí này,
quá trình hệ thống hóa pháp luật, các quy phạm pháp luật sẽ được sắp xếp theo nhóm
quan hệ xã hội có cùng tính chất để hình thành các chế định, các ngành luật. Đây là
tiêu chí quan trọng nhất của hệ thống hóa pháp luật.
3. Hình thức hệ thống hóa pháp luật
Hệ thống hóa pháp luật được tiến hành dưới hai hình thức chủ yếu: Tập hợp hóa
và Pháp điển hóa.
Hình thức tập hợp hóa: Theo hình thức này, các văn bản pháp luật hoặc các
quy phạm pháp luật riêng biệt được sắp xếp theo một trật tự nhất định, hoặc theo cơ
quan ban hành, hoặc theo phạm vi hoạt đông của cơ quan nhà nước, hoặc theo cấp độ
hiệu lực pháp lý,... Hình thức hệ thống hóa pháp luật này không làm thay đổi nội dung
các quy phạm pháp luật, không bổ sung những quy định mới, chỉ loại bỏ những quy
phạm đã hết hiệu lực hoặc rõ ràng là mâu thuẫn với văn bản có hiệu lực pháp lý cao
hơn. Các cơ quan nhà nước đều có thể tiến hành việc hệ thống hóa pháp luật theo hình
thức tập hợp hóa.
Hình thức pháp điển hóa, Pháp điển hóa là hình thức hệ thống hóa của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Khác với tập hợp hóa, không phải bất cứ cơ quan nhà nước
nào cũng có quyền pháp điển hóa.
Theo hình thức này, không những quy phạm, văn bản đã có được sắp xếp theo
một trật tự nhất định mà còn loại bỏ những quy phạm lỗi thời, sửa đổi những quy
phạm chưa chính xác, bổ sung những quy định mới... Kết quả của pháp điển hóa là
một văn bản quy phạm pháp luật mới được ra đời. Thường là các Bộ luật tương ứng
với một ngành luật định. Khái niệm pháp điển hóa rất quan hệ gần với hoạt động xây
dựng pháp luật. Hai hình thức hệ thống hóa pháp luật nói trên có quan hệ mật thiết với

===================================================================== 16
================== Hệ thống pháp luật – Ý thức pháp luật – Pháp chế XHCN
nhau. Muốn pháp điển hóa tốt, phải làm tốt công tác tập hợp hóa. Trong thực tế, khi
tiến hành hệ thống hóa pháp luật phải kết hợp cả hai căn cứ một cách hài hòa.
VI. Ý THỨC PHÁP LUẬT
1. Khái niệm ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan niệm, quan điểm
thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật hiện
hành, pháp luật đã qua cũng như pháp luật cần có.
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, biểu hiện mối quan hệ của mọi
người đối với pháp luật. Ý thức pháp luật mang tính giai cấp, do tồn tại xã hội quyết
định và có mối quan hệ qua lại với tồn tại xã hội. Trong xã hội có giai cấp đối kháng
không thể có ý thức pháp luật thống nhất, ý thức pháp luật thống trị trong xã hội là ý
thức của giai cấp nắm chính quyền và được phản ánh đầy đủ nhất trong pháp luật.
Ý thức pháp luật là một yếu tố quan trọng trong cơ chế điều chỉnh bằng pháp luật
đối với quan hệ xã hội. Nếu không có ý thức pháp luật sẽ không có hành động tự giác
trong việc thực hiện pháp luật của con người đối với pháp luật. Ý thức pháp luật được
nâng cao thì các hiện tượng vi phạm pháp luật sẽ giảm xuống. Ý thức pháp luật có đặc
điểm:
Thứ nhất, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật chịu sự
quy định của tồn tại xã hội, nhưng nó có tính độc lập tương đối của nó. Tính độc lập
tương đối đó thể hiện: nó thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội; tồn tại xã hội cũ
mất đi, tồn tại xã hội mới xuất hiện, nhưng ý thức pháp luật ra đời trên tồn tại xã hội
cũ vẫn còn dai dẳng. Trong những điều kiện nhất định, ý thức pháp luật, đặc biệt là ý
thức pháp luật tiến bộ có thể biểu thị sự phát triển của thực tại, chẳng hạn ý thức pháp
luật vô sản tồn tại ngay trong xã hội tư bản. Hơn nữa, ý thức pháp luật còn có tính kế
thừa, ý thức pháp luật phản ánh tồn tại của một xã hội nào đó, song nó vẫn kết thừa
những yếu tố nhất định không thuộc vào ý thức pháp luật thời đó. Mặt khác ý thức
pháp luật tác động trở lại đối với tồn tại xã hội, với chính trị, đạo đức và các yếu tố
khác thuộc thượng tầng kiến trúc như nhà nước và pháp luật.
Thứ hai, ý thức pháp luật mang tính giai cấp. Thế giới quan pháp lý của một giai
cấp nhất định được quy định bởi vị trí của giai cấp đó trong xã hội. Mỗi quốc gia chỉ
có một hệ thống pháp luật nhưng lại tồn tại một số hệ thống ý thức pháp luật. Có ý
thức pháp luật của giai cấp thống trị, ý thức pháp luật của giai cấp bị trị, của tầng lớp
trung gian...Về nguyên tắc, chỉ có ý thức pháp luật của giai cấp thống trị mới được
phản ánh đầy đủ vào trong pháp luật.
2. Cấu trúc của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật cấu thành bởi ba yếu tố: yếu tố tư tưởng, yếu tố tâm lý và yếu tố
hành vi. Yếu tố tư tưởng biểu hiện sự hiểu biết pháp luật, trình độ giác ngộ, tin cậy
vào pháp luật. Khoa học và thực tiễn pháp lý cũng như hoạt động thực tế của cơ quan
bảo vệ pháp luật đã tạo điều kiện để hình thành yếu tố này. Yếu tố tâm lý bao gồm sự
nhạy cảm với pháp luật, tình cảm của con người đối với pháp luật. Nếu như yếu tố tư
tưởng của ý thức pháp luật là yếu tố thuộc phạm vi ý thức, thì yếu tố tâm lý thuộc
phạm vi tình cảm đối với pháp luật. Việc tác động bằng tình cảm của pháp luật đối với
con người là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng Nhà nước và các tổ chức chính trị -
===================================================================== 17
================== Hệ thống pháp luật – Ý thức pháp luật – Pháp chế XHCN
xã hội trong việc củng cố trật tự pháp luật, củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa. Yếu tố
hành vi, yếu tố này thể hiện hành vi của con người sẵn sàng thực hiện hay chống đối
lại pháp luật. Ý thức pháp luật phải được hình thành ở con người yếu tố hành vi luôn
luôn tuân thủ, chấp hành pháp luật.
Yếu tố thứ nhất là sự nhận thức của con người đối với pháp luật; yếu tố thứ hai là
thái độ, tâm lý, tình cảm của con người sau khi đã nhận thức được pháp luật; yếu tố
thứ ba là hành động của con người sau khi nhận thức được pháp luật, đồng ý hay phủ
định pháp luật để có hành động tương ứng. Ba yếu tố đó có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau tạo thành ý thức pháp luật. Việc giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật phải coi
trọng cả ba yếu tố, không thể xem nhẹ một yếu tố nào.
Pháp luật và Ý thức pháp luật là hai hiện tượng xã hội khác nhau nhưng có mối
quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng trực
tiếp để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đồng thời, ý thức pháp luật là nhân
tố thúc đẩy thực hiện pháp luật và đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật đúng đắn các
quy phạm pháp luật. Ngược lại, Pháp luật là cơ sở để củng cố, phát triển nâng cao ý
thức pháp luật. Việc nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật, kiên quyết xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật làm cho ý thức, tình cảm đối với pháp luật được hình thành và phát
triển một cách đúng đắn và rõ nét hơn. Việc giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức
pháp luật sẽ là điều kiện quan trọng để góp phần vào việc xây dựng một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh và tổ chức thực hiện pháp luật một cách có hiệu quả.
VII. PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Pháp chế xã hội chủ nghĩa được hiểu là một cơ chế đặc biệt của đời sống chính
trị - xã hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
nhân viên nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội, và mọi công dân đều phải tôn trọng
và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một cơ chế đặc biệt trong trong đời sống xã hội,
đó là một yếu tố kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chủ quan và khách quan có thể tác
động đến tất cả các yếu tố khác của cơ chế điều chỉnh pháp luật, mang lại tính hiệu
quả cao trong điều chỉnh pháp luật các quan hệ xã hội. Pháp chế là một phương thức
quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý xã hội bằng
pháp luật, biểu hiện yêu cầu trên hai lĩnh vực:
+ Nhà nước ban hành ra một hệ thống pháp luật luật hoàn chỉnh, đồng bộ và
phù hợp với thực tế và xu hướng. Thể hiện tính dân chủ thực sự rộng rãi và lợi ích của
mọi tầng lớp dân cư trong xã hội.
+ Tổ chức việc thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật một cách nghiêm chỉnh
triệt để trên thực tế đời sống xã hội. Các cơ quan nhà nước, các nhà chức trách, các
viên chức trong bộ máy nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội và thành viên của họ
cũng như mọi công dân đều phải tôn trọng pháp luật, thực hiện nghiêm chỉnh các yêu
cầu của pháp luật.
2. Những yêu cầu cơ bản của pháp chế xã hội chủ nghĩa
+ Tôn trọng tính hiệu lực tối cao của Hiến pháp và Luật: Hiến pháp và Luật là
những văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất do Quốc hội ban hành, trực tiếp thể hiện
===================================================================== 18
================== Hệ thống pháp luật – Ý thức pháp luật – Pháp chế XHCN
ý chí và lợi ích của nhân dân. Do đó việc áp dụng pháp luật, giải thích pháp luật phải
tôn trọng tính hiệu lực tối cao của các văn bản này, nhằm đảm bảo tính thống nhất của
hệ thống pháp luật, đồng thời đảm bảo việc áp dụng pháp luật đúng đắn và công bằng.
Vấn đề đặt ra đối với yêu cầu này là phải chú trọng việc hoàn thiện Hiến pháp và các
văn bản luật để làm cơ sở cho việc hoàn thiện và phát triển của toàn bộ hệ thống pháp
luật; đồng thời nhanh chóng cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp và Luật để đảm
bảo hiểu đúng và áp dụng thống nhất trên thực tế.
+ Đảm bảo tính pháp chế trên quy mô toàn quốc: là yêu cầu pháp luật phải được
thực hiện đúng đắn công bằng ở tất cả mọi địa phương, không có một biệt lệ nào.
Thực hiện yêu cầu này, chúng ta sớm xóa bỏ đi tư tưởng cục bộ, bản vị và chủ nghĩa
địa phương. Song bên cạnh đó cũng cần linh hoạt xem xét những điều kiện cụ thể của
từng nơi từng vùng để có được hiệu quả cao trong điều chỉnh pháp luật và quản lý xã
hội bằng pháp luật.
+ Các cơ quan xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật phải
hoạt động một cách tích cực, sáng tạo và có hiệu quả.
+ Gắn liền công tác pháp chế với văn hóa. Trình độ văn hóa nói chung và trình
độ văn hóa pháp lý nói riêng của các nhân viên nhà nước, nhân viên của các tổ chức
xã hội và của công dân có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình củng cố pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Trình độ văn hóa càng cao thì pháp chế càng vững mạnh. Do đó, văn hóa là cơ
sở quan trọng để củng cố nền pháp chế, cần phải chú trọng nâng cao văn hóa nói
chung và văn hóa pháp lý nói riêng cho mọi người dân trong xã hội.
Pháp luật và pháp chế là hai khái niệm khác nhau nhưng rất gần nhau và có
quan hệ khăng khít với nhau. Trên thực tế, khi có pháp chế tức là có pháp luật và pháp
luật được áp dụng một cách có hiệu quả; nhưng cũng có trường hợp, lĩnh vực có pháp
luật mà không có pháp chế, đó là biểu hiện không đưa được pháp luật vào thực tế đời
sống. Pháp chế là là một phạm trù thể hiện các chủ thể phải tôn trọng và thực hiện
pháp luật một cách triệt để. Pháp luật chỉ có thể phát huy được hiệu lực, điều chỉnh
một cách có hiệu quả các quan hệ xã hội khi dựa trên cơ sở vững chắc của nền pháp
chế. Ngược lại pháp chế chỉ có thể được củng cố và tăng cường khi có một hệ thống
pháp luật đồng bộ, phù hợp, được điều chỉnh kịp thời các quan hệ xã hội.
Đối với nhà nước ta hiện nay, pháp chế có một vị trí hết sức quan trọng và nó
đã trở thành nguyên tắc chỉ đạo trong mọi lĩnh vực của quản lý nhà nước, mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Điều 12- Hiến pháp 1992 quy định "Nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật và không ngừng nâng cao pháp chế xã hội chủ nghĩa" . Pháp chế
là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và
là nguyên tắc xử sự của mọi công dân. Củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghia là nâng cao ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa và là cơ sở cho pháp luật phát
huy hiệu lực trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.

===================================================================== 19

You might also like