Professional Documents
Culture Documents
HungSon4 06
HungSon4 06
1. Mở đầu
Trong thực tế xây dựng ngày nay có nhiều công trình có mái dốc lớn, hố đào sâu. Do mật độ xây
dựng, xây chen, do giá thành công trình, không cho phép mở rộng mái dốc xây dựng nên tường chắn
đứng đang được sử dụng rộng rãi. Đặc biệt là tường chắn mềm do ưu điêm về công nghệ, giá thành
và tiến độ thi công.
Neo kết hợp với tường chắn mềm, làm phân bố lại mô men trong tường nên giảm kích thước
tường, tiếp nhận áp lực ngang từ tường truyền vào khối đất ổn định phía sau. Neo cho phép không
phải đào đất sau tường chắn, cho phép thi công từ trên xuống giảm khối lượng chống đỡ. Tuy nhiên
để tăng hiệu quả việc sử dụng neo cho các tường chắn có neo thì chúng ta cần nghiên cứu bố trí neo
một cách hợp lí. Nội dung bài báo này dựa trên các tính toán bằng phương pháp phần tử hữu hạn
cho một trường hợp tường chắn cụ thể từ đó đưa ra phương pháp đánh giá về sự bố trí hợp lí của
các neo trong tường chắn mềm.
1. Cơ chế làm việc của neo
Tường
Mặt trượt D
tiềm năng
Bề mặt
tường D
1.60
1.50
Hệ số ổn định Fs
1.40
1.30
1.20
1.10
1.00
0 10 20 30 40 50
Góc nghiêng của thanh neo (độ)
Ở đây hệ số ổn định Fs của công trình được xác định theo phương pháp “giảm và c”, giá trị
của Fs được xác định thông qua biểu thức (2) dưới đây:
tg c
Fs (2)
tg red c red
Trong đó: và c lần lượt là góc ma sát trong và lực dính đơn vị thực của đất, còn red và cred
lần lượt là các giá trị góc ma sát trong và lực dính đơn vị tương ứng với khi công trình ở trạng thái
giới hạn.
Từ đồ thị trên hình 3, chúng ta nhận thấy hệ số ổn định của công trình đạt được lớn nhất khi góc
nghiêng của thanh neo so với phương ngang là 35 độ. Kết quả này tương đối phù hợp với các tài liệu
chỉ dẫn đã được công bố ở nước ngoài rằng góc nghiêng đặt neo nên lựa chọn trong khoảng từ 15
đến 40 độ, [1,2].
Sau khi có được góc nghiêng hợp lí ở phần tính toán trên, chúng ta sẽ cố định giá trị góc
nghiêng này và tính toán cho các trường hợp đặt đầu neo ở các độ sâu khác nhau. Trong tính toán
này chúng ta chú ý giữ khoảng cách sau mặt trượt tiềm năng của đỉnh bầu neo không đổi là 2m,
khoảng cách này thường được khuyến cáo lựa chọn hoặc 1,5m hoặc 0,2H hay lớn hơn (xem hình 1),
[4].
Hình 4 dưới đây thể hiện quan hệ giữa vị trí đặt đầu neo và hệ số ổn định của công trình. Theo
các kết quả thu được ở hình 4 thì vị trí đặt đầu neo có ảnh hưởng rõ rệt tới ổn định của công trình và
từ đó chúng ta xác định được vị trí đặt đầu neo hợp lí.
Các kết quả tính toán cho biết được là đối với công trình của chúng ta, cách bố trí hợp lí neo
là đặt đầu neo ở độ sâu khoảng 3m và nghiêng góc 35 độ so với phương nằm ngang.
1.54
1.52
Hệ số ổn định Fs
1.5
1.48
1.46
1.44
1.42
1.4
1 2 3 4 5 6
Độ sâu đặt đầu neo (m)
4. Kết luận
Hiện nay trong khi tính toán thiết kế neo và hệ neo cho tường chắn mềm, ngoài các phương pháp
truyền thống được sử dụng thì các phần mềm tính toán đã được ứng dụng. Việc sử dụng các phần
mềm địa kỹ thuật mạnh đã cho phép các nhà thiết kế tính toán được nhanh hơn, cho ra kết quả sát
thực hơn và đặc biệt nhờ ưu điểm là có thể sử lý kết quả nhanh và trực quan nên các phần mềm đã
cho phép các nhà thiết kế tính toán được nhiều trường hợp, từ đó có thể chọn ra được phương án
hợp lý nhất. Trên tinh thần như vậy trong bài báo này, các tác giả đã sử dụng phần mềm Plaxis – là
một phần mềm địa kỹ thuật mạnh tính toán cụ thể cho một bài toán và từ đó đưa ra một phương án
neo hợp lí. Các tác giả hi vọng đây cũng là một phương pháp tiếp cận có thể dùng cho các nhà thiết
kế tham khảo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. NGUYỄN BÁ KẾ. Thiết kế và thi công hố móng sâu. Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội, 2002.
2. BS 8081: 1998. Neo trong đất (Tiêu chuẩn Anh). Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội, 2001.
3. Vermeer P.A., Brinkgreve R.B.J. (Eds), PLAXIS - finite element code for soil and rock analyses. Plaxis
user's Manual v.7.Balkema/ Rotterdam/ Brookfiled/ 1998.
4. Geotechnical Engineering Circular No.4- Ground Anchors and Anchored systems. FHWA-IF-99-
015, Washington, DC 20590, June 1999.
5. VŨ QUANG TRUNG. Bố trí hợp lí neo cho tường chắn có neo. Luận văn Thạc sỹ kỹ thuật, ĐHXD –
Hà nội, 2006.