You are on page 1of 14

MÔN HỌC: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ,

TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ


BÀI TẬP THÁNG THỨ NHẤT (VẤN ĐỀ CHUNG)
GIẢNG VIÊN: ĐẶNG THÁI BÌNH

DANH SÁCH NHÓM 1

STT HỌ TÊN MSSV


1 Nguyễn Trung Hiếu 2153801013092
2 Võ Hoàng Hải 2153801014066
3 Nguyễn Đại Nghĩa 2153801014161
4 Võ Bá Đăng Quang 2153801014205
5 Hồ Thị Thảo Vy 2153801014297
6 Nguyễn Thanh Vũ 2153801015280
BÀI TẬP THẢO LUẬN
TÓM TẮT CÁC QUYẾT ĐỊNH VÀ BẢN ÁN
Quyết định số 272/2018/QĐST-DS ngày 27/4/2018 của Tòa án nhân dân Quận
9 TP. Hồ Chí Minh
- Bà Bùi Thị T (nguyên đơn) muốn yêu cầu Tòa án nhân dân quận 9 tuyên bố rằng
chồng mình là ông Trần Văn C đã chết do ông C đã bỏ nhà từ cuối năm 1985
đến hiện tại là 27/4/2018 vẫn không có tin tức gì về ông C mặc dù trước đó đã tổ
chức tìm kiếm và nhắn tin lên Đài tiếng nói Việt Nam.
- Tòa án quyết định: Chấp nhận yêu cầu của bà Bùi Thị T. Tuyên bố ông C là đã
chết vào ngày 01/01/1986 và quan hệ về hôn nhân, gia đình và các quan hệ khác
của ông Trần Văn C được giải quyết như đối với người đã chết; còn quan hệ về
tài sản của ông C thì được giải quyết theo quy định pháp luật và thừa kế.

Quyết định số 04/2018/QĐST-DS ngày 19/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện
Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa
- Anh Quản Bá Đ (nguyên đơn) muốn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn
tỉnh Thanh Hóa tuyên bố rằng chị gái mình là chị Quản Bá K(sinh năm 1969) đã
chết do chị K đã bỏ nhà đi 1992 cho đến thời điểm hiện tại là ngày 02 tháng 07
năm 2018 mà không có bất cứ thông tin gì về chị K dù gia đình anh đã tìm kiếm
và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng nhiều lần. Ngày 19 tháng 11
năm 2018, sau khi thụ lý vụ việc trên thì Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn đã
xác nhận bằng việc thông báo tìm kiếm nhưng quá hạn vẫn chưa có thông tin về
chị K.
- Quyết định sơ thẩm của Tóa án: Chấp nhận đơn yêu cầu của anh Quản Bá Đ:
tuyên bố chị gái anh là Quản Bá K là đã chết vào ngày 19/11/2018( ngày làm
căn cứ phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ về nhân thân, về tài sản, về hôn
nhân gia đình, về thừa kế của chị Quản Thị K.

Quyết định số 94/2019/QĐST-VDS ngày 15/11/2019 của Toà án nhân dân TP.
Hà Nội
- Bà Phạm Thị K (nguyên đơn) muốn yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội
tuyên bố rằng cha đẻ của mình là ông Phạm Ngọc C đã chết do đã bỏ nhà từ
1997 đến 28/08/2019 mà vẫn chưa có thông tin gì về cụ C, trước đó gia đình đã
nhiều lần tìm kiếm và có thông báo trên Bào và truyền hình nhưng vẫn không có
tin tức gì. Thời điểm cụ C rời khỏi nhà trong tình trạng sức khỏe tốt, không mâu
thuẫn gì với ai trong gia đình và cụ bị mắc bệnh huyết áp cao. Tòa án xét từ lời
khai từ bên Bảo hiểm xã hội thì cụ đã không còn nhận trợ phí tiền bảo hiểm từ
tháng 04/1997. Sau khi thụ lý vụ việc Tòa án đã quyết định ra thông báo trên các

1
cổng thông tin và từ các phương tiện thông tin đại chúng của quốc gia nhưng
vẫn không có thông tin xác thực cụ đã sống hay chết.
- Quyết định sơ thẩm của Tòa án: Chấp nhận đơn yêu cầu của Bà Phạm Thị K:
tuyên bố rằng cụ Phạm Văn C sinh năm 1927 và đã chết kể từ ngày 01/05/1997.

Quyết định số 02/2020/QĐST-DS ngày 13/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện
C, tỉnh A (huyện Cần Đước, tỉnh Long An)
- Ông Đ H (nguyên đơn) muốn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện C hủy quyết định
Tại quyết định số: 01/2015/QĐVDS-ST ngày 20/5/2015 Tòa án nhân dân huyện
C đã tuyên bố Đ H đã chết. Năm 2008, do mâu thuẫn với vợ mà ông đã không
còn sống với gia đình và bị Tòa án tuyên bố chết vào ngày 20/5/2015 nhưng vào
ngày 20/11/2019 ông C đã trở về sinh sống tại A, xã L, huyện C. Dựa vào xác
nhận người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Bà N T là ông Đ H vẫn còn sống
và hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết trước đó cùng với sự xác
nhận của UBND xã L ngày 09/02/2019 rằng ông Đ H vẫn còn sống sau khi Tòa
án thụ lý vụ việc trên.
- Quyết định sơ thẩm của Tòa án:
Chấp nhận đơn yêu cầu của Ông Đ H về việc yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên
bố một người là đã chết.
Hủy bỏ quyết định yêu cầu tuyên bố một người là đã chết đối với Ông Đ H, sinh
năm: 1968. Địa chỉ: A, xã L, huyện C, tỉnh A.
Ông Đ H được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để xác lập lại các thủ tục
về nhân thân và hộ tịch.

TÓM TẮT BẢN ÁN 02/2021


- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thế Th - Bị đơn: Ông Nguyễn Thăng L.
Tranh chấp: hợp đồng thuê quyền sử dụng đất.
Lý do: Ngày 13/9/2018, Tổ hợp tác X xã N ký hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
của ông Nguyễn Thế Th để xây dựng kho cất trữ cà phê sau thu hoạch. Đến
ngày 11/01/2019, ông nhận được Thông báo số: 01/TB-THT của Tổ hợp tác việc
hợp đồng thuê đất bị chấm dứt theo Điều 420 của BLDSnăm 2015 nên đã làm
đơn kiện và yêu cầu bồi thường.
- Quyết định toà Sơ thẩm: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông
Th, căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 420, Điều 422, Điều 428 của Bộ
luật Dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ quốc hội.

2
- Quyết định toà Phúc thẩm: Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Thế
Th.
Hủy Bản án dân sự sơ thẩm. Việc xác minh, thu thập chứng cứ của cấp sơ thẩm
là chưa đầy đủ, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; cấp phúc thẩm không thể
khắc phục được. Do đó, cần chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Thế Th và
quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ
sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại theo quy định của pháp luật.

3
 Đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự
1.1. Những quan hệ nào thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự?
Theo Điều 1 BLDS 2015: “Bộ luật này quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý
về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của
cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý
chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân
sự).”
1.2. Quan hệ giữa A và B trên có thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005
và BLDS 2015 không? Vì sao?
 Tình huống: A đe dọa để ép B xác lập một giao dịch dân sự.
Quan hệ giữa A và B thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005 và BLDS 2015, cụ
thể tại:
- Điều 132 BLDS 2005 quy định về “Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe
dọa”.
- Điều 127 BLDS 2015 quy định về “Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe
dọa, cưỡng ép”.
 Tuyên bố cá nhân đã chết
2.1. Những điểm giống và khác nhau giữa tuyên bố một người mất tích và
tuyên bố một người là đã chết

Tuyên bố mất tích Tuyên bố chết


Điều kiện - Khi một người biệt tích 02 năm liền trở - Người có quyền, lợi ích liên quan
lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tu
pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định bố một người là đã chết trong trường
của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng sau đây:
vẫn không có tin tức xác thực về việc a) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết đ
người đó còn sống hay đã chết thì theo tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu
yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên pháp luật mà vẫn không có tin tức
quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó thực là còn sống;
mất tích.
b) Biệt tích trong chiến tranh sau
Lưu ý: Thời hạn 02 năm được tính từ năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc
ngày biết được tin tức cuối cùng về vẫn không có tin tức xác thực là
người đó; nếu không xác định được ngày sống;
có tin tức cuối cùng thì thời hạn này
c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai
được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp
sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc t
theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu
hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn khôn

4
không xác định được ngày, tháng có tin tin tức xác thực là còn sống, trừ trư
tức cuối cùng thì thời hạn này được tính hợp pháp luật có quy định khác;
từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm d) Biệt tích 05 năm liền trở lên và kh
có tin tức cuối cùng. có tin tức xác thực là còn sống; thời
này được tính theo quy định tại khoả
Điều 68 của BLDS 2015

Hậu quả - Trường hợp vợ hoặc chồng của người - Khi quyết định của Tòa án tuyên
pháp lý bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án một người là đã chết có hiệu lực p
giải quyết cho ly hôn theo quy định của luật thì quan hệ về hôn nhân, gia đìn
pháp luật về hôn nhân và gia đình. các quan hệ nhân thân khác của ngườ
- Người đang quản lý tài sản của người được giải quyết như đối với ngườ
vắng mặt tại nơi cư trú quy định tại Điều chết.
65 của Bộ luật này tiếp tục quản lý tài - Quan hệ tài sản của người bị Tòa
sản của người đó khi người đó bị Tòa án tuyên bố là đã chết được giải quyết
tuyên bố mất tích và có các quyền, nghĩa đối với người đã chết; tài sản của ng
vụ quy định tại Điều 66 và Điều 67 của đó được giải quyết theo quy định
Bộ luật này. pháp luật về thừa kế.
Trường hợp Tòa án giải quyết cho vợ
hoặc chồng của người bị tuyên bố mất
tích ly hôn thì tài sản của người mất tích
được giao cho con thành niên hoặc cha,
mẹ của người mất tích quản lý; nếu
không có những người này thì giao cho
người thân thích của người mất tích quản
lý; nếu không có người thân thích thì
Tòa án chỉ định người khác quản lý tài
sản.

Huỷ bỏ Điều 70 BLDS 2015 Điều 73 BLDS 2015


tuyên bố

5
2.2. Một người biệt tích và không có tin tức xác thực là còn sống trong thời
hạn bao lâu thì có thể bị Tòa án tuyên bố là đã chết?
Căn cứ theo khoản 1 Điều 68 BLDS 2015 quy định: “Thời hạn 02 năm được tính từ
ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin
tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng
có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì
thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối
cùng.”
Như vậy, nếu trong thời hạn 2 năm theo quy định của BLDS 2015, một người biệt
tích và không có tin tức xác thực là còn sống thì có thể bị Toà án tuy bố là đã chết.
2.3. Trong các vụ việc trên (quyết định năm 2018 và 2019), cá nhân bị tuyên
bố chết biệt tích từ thời điểm nào? Vì sao?
- Căn cứ Quyết định số 272/2018/QĐST-DS ngày 27/4/2018 của Tòa án nhân dân
Quận 9 TP. Hồ Chí Minh, ông C bị tuyên bố là đã chết vào ngày 1/1/1986, người
nhà của ông C xác định là ông C đã bỏ đi vào năm 1985, tuy nhiên, Công an
phường Phước Bình, Quận 9 không xác định được ngày, tháng ông C vắng mặt tại
địa phương, nên theo Điều 68 BLDS 2015, nếu không xác định được ngày, tháng
có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo
năm có tin tức cuối cùng.
- Căn cứ Quyết định số 04/2018/QĐST-DS ngày 19/11/2018 của Tòa án nhân dân
huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa, chị Quản Thị K bị tuyên bố chết ngày
19/11/2018 vì chị K đã biệt tích 5 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là
chị K còn sống, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo
quy định của pháp luật.
- Căn cứ Quyết định số 94/2019/QĐST-VDS ngày 15/11/2019 của Toà án nhân dân
TP. Hà Nội, cụ C bị tuyên bố chết ngày 1/5/1997 vì cụ C đã biệt tích 5 năm liền
trở lên và không có tin tức xác thực là cụ C còn sống, mặc dù đã áp dụng đầy đủ
các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật, và tin tức cuối
cùng về cụ C là tháng 4/1997, theo Điều 68 BLDS 2015 thì nếu không xác định
được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của
tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng nên Toà án đã xác nhận cụ C chết ngày
1/5/1997.

2.4. Cho biết tầm quan trọng của việc xác định ngày chết của một cá nhân?
Nêu cơ sở pháp lý và ví dụ minh hoạ
- Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì việc xác định ngày chết chỉ
có ý nghĩa về mặt pháp lý, là thời điểm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các
6
quan hệ pháp luật khác có liên quan đến người bị tuyên bố là đã chết theo quy
định của pháp luật.
- Tại khoản 2 Điều 71 BLDS năm 2015 quy định: “Căn cứ vào các trường hợp quy
định tại khoản 1 Điều này, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã
chết.” Như vậy, tùy từng trường hợp, Tòa án cần căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể được quy định tại khoản 1 Điều 71 để xác định ngày chết của người bị  Tòa
án tuyên bố là đã chết theo. Quy định này đã phủ định việc xác định ngày chết của
người bị tuyên bố là đã chết là ngày quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật
theo quy định của BLDS năm 1995.1 Tuy nhiên, khoản 1 Điều 71 BLDS 2015 phù
hợp hơn về việc xác định ngày chết của cá nhan bị tuyên bố là đã chết. Bởi lẽ, nếu
Tòa án xác định ngày chết là ngày ngay sau ngày người bị biệt tích gặp tai nạn,
thiên tai hoặc ngay sau ngày kết thúc chiến tranh... thì về nguyên tắc được hiểu từ
thời điểm này quan hệ hôn nhân (nếu có) của họ đương nhiên chấm dứt từ thời
điểm kết thúc chiến tranh; hoặc từ ngày tai nạn, thảm họa, thiên tai đó chấm dứt
hoặc từ ngày không còn tin tức xác thực là còn sống. Những tài sản do người vợ,
hoặc chồng còn sống tạo ra sau thời điểm trên là tài sản riêng của người còn sống.
Như vậy sẽ xảy ra mâu thuẫn với trường hợp nếu sau thời điểm nêu trên, đương sự
(người có quyền, lợi ích liên quan) đề nghị Tòa án tuyên bố mất tích và sau đó
giải quyết việc ly hôn. Vì sau khi Tòa án tuyên bố một người đã mất tích thì vợ,
hoặc chồng họ mới thực hiện được thủ tục ly hôn và được Tòa án giải quyết cho
ly hôn theo khoản 2 Điều 68 BLDS. Kể từ thời điểm Tòa án cho ly hôn, thì người
vợ hoặc chồng còn sống mới được sở hữu riêng tài sản do mình làm ra. Những tài
sản mà người vợ hoặc chồng còn sống có được trong thời kỳ hôn nhân được coi là
tài sản chung vợ chồng với người được coi là tuyên bố mất tích.2

2.5. Tòa án xác định ngày chết của các cá nhân bị tuyên bố chết là ngày nào?
Đoạn nào của các Quyết định trên (quyết định năm 2018 và 2019) cho
câu trả lời?
*Quyết định số 272/2018/QĐST-DS ngày 27/4/2018
Tòa án tuyên bố ngày chết của ông Trần Văn C là ngày 1/1/1986
1
Về việc xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết theo quy định của BLDS
năm 2015. (24/08/2021). Tapchitoaan.vn, from
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/ve-viec-xac-dinh-ngay-chet-cua-nguoi-bi-
tuyen-bo-la-da-chet-theo-quy-dinh-cua-blds-nam-2015, truy cậ p ngà y 08/04/2022.
2
Về việc xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết theo quy định của BLDS
năm 2015. (24/08/2021). Tapchitoaan.vn, from
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/ve-viec-xac-dinh-ngay-chet-cua-nguoi-bi-
tuyen-bo-la-da-chet-theo-quy-dinh-cua-blds-nam-2015, truy cậ p ngà y 08/04/2022.

7
Đoạn cho câu trả lời nằm ở phần Quyết Định phần 1: chấp nhận yêu cầu của bà
Bùi Thị T “Tuyên bố ông Trần Văn C; nơi cư trú cuối cũng: phường Phức Bình,
Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh là đã chết. Ngày chết của ông Trần Văn C là ngày
1/1/1986”
*Quyết định số 04/2018/QĐST-DS ngày 19/11/2018
Tòa án tuyên bố ngày chết của chị Quản Thị K là ngày 19/11/2018
Đoạn cho câu trả lời nằm ở phần Quyết định “Tuyên bố chị Quản Thị K – sinh năm
1969 đã chết ngày 19/11/2018”
*Quyết định số 94/2019/QĐST-DS ngày 15/11/2019
Tòa án tuyên bố ngày chết của cụ Phạm Văn C đã chết từ ngày 1/5/1997
Đoạn cho câu trả lời nằm ở QUYẾT ĐỊNH phần Tuyên bố “Tuyên bố cụ Phạm
Văn C, sinh năm 1927; Hộ khẩu thường trú: phường Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng,
thành phố Hà Nội, đã chết kể từ ngày 1/5/1997”

2.6. Đối với hoàn cảnh như trong các quyết định trên (quyết định năm 2018
và 2019), pháp luật nước ngoài xác định ngày chết là ngày nào?
Ngày chết của người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết được xác định là ngày đầu tiên
kế tiếp ngày kết thúc thời hạn của từng trường hợp nêu tại khoản 1 điều 71 (cụ thể
là: Ngày kết thúc thời hạn 3 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa
án có hiệu lực pháp luật (điểm a); ngày kết thúc thời hạn 5 năm, kể từ ngày chiến
tranh kết thúc (điểm b), ngày kết thúc thời hạn 2 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm
họa, thiên tai chấm dứt (điểm c), ngày kết thúc thời hạn 5 năm liền biệt tích (điểm
d) nhưng đây là pháp luật Việt Nam. Vì mỗi quốc gia đều có pháp luật xác định
ngày chết riêng biệt nên tùy vào pháp luật của từng quốc gia điều chỉnh để xác định.

2.7. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ngày chết trong các Quyết
định trên (quyết định năm 2018 và 2019).
Tuyên bố xác định ngày chết của Tòa án trong các quyết định trên (quyết định năm
2018 và năm 2019) là thỏa đáng, hợp lý và cẩn trọng vì việc xác định ngày chết sẽ
là tiền đề để Tòa án có thể làm rõ, tuyên xử quyền và nghĩa vụ cho người được
tuyên bố đã chết và những người còn sống có trách nhiệm nghĩa vụ và quyền liên
quan.

2.8. Cho biết căn cứ để hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết và
Tòa án tuyên hủy quyết định tuyên bố ông H đã chết trong quyết định
năm 2020 có phù hợp với quy định không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

8
Tòa án tuyên hủy quyết định tuyên bố ông H đã chết trong quyết định năm 2020
phù hợp với quy định vì dựa vào Điều 394 BLDS 2015: “Khi một người bị tuyên bố
là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì người đó hoặc
người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định hủy bỏ
quyết định tuyên bố một người là đã chết” nên quyết định của Tòa án là hoàn toàn
hợp lý.

2.9. Cho biết kinh nghiệm nước ngoài (ít nhất một hệ thống) điều chỉnh hệ
quả về tài sản và nhân thân khi có quyết định hủy bỏ quyết định tuyên
bố một cá nhân đã chết.
- Nếu thẩm phán thấy rằng một người liên quan đến một vụ án theo khoản (a) của
tiểu mục (I) của mục năm chưa chết, thì ông ta sẽ chỉ đạo thư ký của tòa án và
Tổng đăng ký để hủy bỏ bất kỳ mục nào trong bất kỳ điều khoản nào được thực
hiện theo tiểu mục (I) của phần mười. (2) Tùy thuộc vào bất kỳ hướng dẫn, tuyên
bố hoặc mệnh lệnh nào được đưa ra đối với tiểu mục (3), một hướng về tiểu mục
(I) sẽ không-a. hoặc (b) ảnh hưởng đến bất kỳ quyền nào mà bất kỳ người nào
khác có được sau đó:
- Với điều kiện là nếu tên của người có liên quan đã bị xóa khỏi danh sách cử tri về
bất kỳ ban hành nào chỉ trên cơ sở rằng lệnh theo khoản (a) của tiểu mục (I) của
phần năm đã được đưa ra, nó sẽ được được phục hồi.3

2.10. Đối với vụ việc được giải quyết trong quyết định năm 2020, bà T và ông
H có còn được coi là vợ chồng nữa không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Đối với vụ việc được giải quyết trong quyết định năm 2020, bà T và ông H không
còn được coi là vợ chồng. Vì theo khoản 2 điều 73 BLDS 2015 quy định: “Vợ hoặc
chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tòa án cho ly hôn theo quy định tại
khoản 2 Điều 68 của Bộ luật này thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp
luật”.

2.11. Nếu ông H có tài sản, quan hệ về tài sản trước đây của ông H được xử lý
như thế nào sau khi có quyết định năm 2020? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
“Trong quyết định năm 2020 vì ông H xác định không có tài sản nên không yêu cầu
giải quyết hậu quả pháp lý có liên quan đến quyết định tuyên bố một người đã
chết”. Câu hỏi ở đây là nếu ông H có tài sản thì tài sản của ông sẽ được xử lí theo
quy định của khoản 3 và khoản 4 Điều 73 BLDS2015 như sau:
3
https://ihl-databases.icrc.org

9
“3. Người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người đã
nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn.
Trường hợp người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết biết người này còn sống
mà cố tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế thì người đó phải hoàn trả toàn bộ tài sản
đã nhận, kể cả hoa lợi, lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
4. Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng được giải quyết theo quy định của Bộ luật này,
Luật hôn nhân và gia đình.”

 Tổ hợp tác
3.1. Những điểm mới của BLDS2015 so với BLDS2005 về tổ hợp tác và suy
nghĩ của anh/chị về những điểm mới này.
- Về chủ thể trong quan hệ dân sự của tổ hợp tác:
+ BLDS 2015 không quy định tổ hợp tác là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự,
chỉ cá nhân và pháp nhân mới là chủ thể, vì không là chủ thể nên cũng không có tư
cách pháp nhân. Do đó, việc xác lập giao dịch dân sự phải do người đại diện theo ủy
quyền thực hiện. Ở BLDS 2005 thì tổ hợp tác được xem là có tư cách pháp nhân
nếu có đủ điều kiện và đăng ký pháp lý theo quy định của pháp luật.
+ BLDS 2015 không quy định số thành viên tối thiểu của tổ hợp tác. Ở BLDS 2005
quy định từ 3 cá nhân trở lên và hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng
thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.

- Về đại diện:
BLDS năm 2015, người đại diện là người được các thành viên khác ủy quyền,người
đại diện chỉ có quyền thực hiện giao dịch khi được các thành viên khác ủy quyền.
Còn theo BLDS 2005 người đại diện là tổ trưởng do các tổ viên cử ra.
- Suy nghĩ của về những điểm mới trên:
Những điểm mới này đã thể hiện sự tiến bộ hơn và khắc phục được nhiều hạn chế.
Đảm bảo thống nhất trong nhận thức, xây dựng BLDShoàn thiện hơn, rõ ràng hơn.

3.2. Trong Quyết định năm 2021, đoạn nào cho thấy giao dịch (hợp đồng
thuê quyền sử dụng đất) được xác lập giữa ông Th và bà H với Tổ hợp
tác?
“Ngày 13/9/2018, Tổ hợp tác X xã N (viết tắt là Tổ hợp tác) ký hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Thế Th, bà Bùi Thị H để thuê 500m 2 đất tọa lạc
tại thôn 06, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, mục đích xây dựng kho cất trữ cà phê
sau thu hoạch, diện tích đất cho thuê là một phần của thửa đất số 50, tờ bản đồ số

10
03, diện tích 12.103m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Y do Ủy ban
nhân dân huyện Đ cấp ngày 12/12/2006, đứng tên hộ ông Nguyễn Thế Th và bà Bùi
Thị H.”

3.3. Theo Tòa án, ai phía Tổ hợp tác là bên trong giao dịch (với ông Th và bà
H)? Hướng xác định như vậy của Tòa án có phù hợp với quy định
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo Toà án, ông Bùi Vĩnh H (Tổ trường tổ hợp tác) là bên trong giao dịch với ông
Th và bà H. Hướng xác định của Toà án là phù hợp với quy định vì chưa xác nhận
được ông H ký kết hợp đồng thuê đất có được các thành viên của Tổ hợp tác ủy
quyền hay không vì trong hồ sơ không có văn bản uỷ quyền của các thành viên Tổ
hợp tác. Căn cứ Theo quy định tại Điều 101 của BLDS năm 2015 thì chủ thể xác
lập, thực hiện giao dịch của Tổ hợp tác là tất cả các thành viên của Tổ hợp tác hoặc
các thành viên ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch và
việc ủy quyền phải được lập thành văn bản. Trường hợp thành viên của Tổ hợp tác
không được các thành viên khác ủy quyền làm người đại diện thì thành viên đó là
chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện.

3.4. Theo Tòa án, ai là Bị đơn và hướng xác định như vậy của Tòa án có
thuyết phục không ? Vì sao.
Theo Toà án, bị đơn là ông Bùi Vĩnh H. Hướng xác định của Toà án là hoàn toàn
thuyết phục vì ông H là người trực tiếp ký kết hợp đồng, còn các thành viên trong tổ
hợp tác tại thời điểm ký hợp đồng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tổ hợp
tác không có tư cách pháp nhân nên ông Bùi Vĩnh H không phải là người đại diện
cho Tổ hợp tác để ký kết hợp đồng.

11
Danh mục tham khảo:
- BLDS2015;
- BLDS2005;
- Quyết định số 272/2018/QĐST-DS ngày 27/4/2018 của Tòa án nhân dân Quận 9
TP. Hồ Chí Minh; Quyết định số 04/2018/QĐST-DS ngày 19/11/2018 của Tòa án
nhân dân huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa; Quyết định số 94/2019/QĐST-VDS
ngày 15/11/2019 của Toà án nhân dân TP. Hà Nội;
- Quyết định số 02/2020/QĐST-DS ngày 13/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện C,
tỉnh A (huyện Cần Đước, tỉnh Long An);
- Bản án số 02/2021/DS-PT ngày 11/1/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông.

12

You might also like