You are on page 1of 7

TÀI LIỆU ĐỌC TUẦN 5

3.2 Xây dựng và sử dụng các công cụ đánh giá


3.2.1. Câu hỏi
“Câu hỏi là dạng cấu trúc ngôn ngữ, diễn đạt một nhu cầu, một đòi hỏi hay một
mệnh lệnh cần được giải quyết” (Trần Bá Hoành1, 1997).
Câu hỏi là công cụ được dùng trong phương pháp hỏi - đáp, và kiểm tra viết
(dạng tự luận hoặc trắc nghiệm)…Ngoài ra, câu hỏi còn là thành phần của một số
công cụ đánh giá theo những mục đích riêng biệt, ví dụ: công cụ bảng hỏi ngắn gồm
các câu hỏi để kiểm tra kiến thức nền; công cụ thẻ kiểm tra gồm các câu hỏi để đánh
giá kiến thức của HS trước, trong, sau mỗi bài học/chủ đề; công cụ bảng KWL/KWLH
gồm hệ thống câu hỏi để khởi động hoặc định hướng hoạt động học cho một bài
học/chủ đề (K: những gì các em đã biết?, W: những gì các em muốn biết?, L: những
gì các em đã học?, H: tiếp theo các em sẽ làm như thế nào?).
Dưới đây sẽ trình bày hai loại câu hỏi tự luận và trắc nghiệm khách quan. Việc
sử dụng các câu hỏi này để đánh giá, đo lường các mức nhận thức sẽ cũng được đề
cập.

a) Câu hỏi tự luận


Câu hỏi tự luận có ưu thế để đo lường, đánh giá những khả năng nhận thức ở
những mức cao phân tích, tổng hợp, đánh giá, sáng tạo. Câu hỏi tự luận còn giúp đánh
giá về hoạt động ngôn ngữ (kĩ năng trình bày, cách diễn đạt) và các thao tác tư duy
bậc cao (so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa, phê phán, ...).
Dưới đây là một số loại câu hỏi tự luận.
- Câu tự luận mở rộng: là loại câu hỏi có phạm vi trả lời rộng và khái quát. HS
tự do biểu đạt ý tưởng và kiến thức.
Ví dụ 1: Hãy trình bày quan điểm của em về việc xử phạt vi phạm giao thông khi
uống rượu bia.
Ví dụ 2: Có người nói công thức của tình bạn: “Một muỗng của sự chia sẻ, hai
muỗng của sự quan tâm, một muỗng cho sự tha thứ, trộn tất cả những thứ này lại với
nhau... sẽ tạo nên người bạn mãi mãi”. Hãy bình luận về câu nói này. Hãy đưa ra một
công thức của riêng mình và dùng kinh nghiệm, sự trải nghiệm của mình để thuyết
phục mọi người. Thời gian làm bài: 40 phút.
Với câu tự luận ở Ví dụ 2, thí sinh hoàn toàn tự do trong việc thể hiện quan
điểm, tự do trong việc lựa chọn thông tin để đưa vào phần trả lời, tự do sắp xếp các ý,

1
Trần Bá Hoành (1997), Đánh giá trong giáo dục, NXB Giáo dục.
và tự do lựa chọn từ ngữ và cách diễn đạt để trình bày câu trả lời. Loại câu hỏi tự luận
mở rất phù hợp để khuyến khích người học phát triển năng lực sáng tạo.
- Câu tự luận đóng (có giới hạn và cấu trúc): là câu hỏi có phạm vi trả lời hẹp và
cụ thể. Nói cách khác, kiến thức cần kiểm tra được giới hạn trong phạm vi hẹp, câu
hỏi có một đáp án duy nhất hoặc các đáp án cụ thể được xác định trước (đóng). Bài
kiểm tra với loại câu hỏi này thường có nhiều câu hỏi hơn bài tự luận mở. Nó đề cập
tới những vấn đề cụ thể, nội dung hẹp hơn nên đỡ mơ hồ hơn đối với người trả lời, do
đó, việc chấm điểm dễ hơn và có độ tin cậy cao hơn.
Ví dụ 1: Hãy trình bày mối nguy hiểm và mức xử phạt đối với việc uống rượu
bia khi lái xe.
Ví dụ 3: Viết một bài luận ngắn khoảng 2 trang, so sánh hai khái niệm “vị tha”
và “ích kỷ”. Bài luận cần liên hệ với (a) một bối cảnh hoặc tình huống cụ thể mà một
người có tính “vị tha” hay “ích kỷ” gặp phải; và (b) những người mà họ gặp. Bài luận
của em sẽ được chấm điểm dựa trên mức độ rõ ràng của việc giải thích điểm giống và
khác nhau giữa hai khái niệm trên, và cách liên hệ với (a) bối cảnh, tình huống, và (b)
những người cụ thể. Thời gian làm bài: 40 phút.
Với câu tự luận ở Ví dụ 3, HS được yêu cầu viết bài luận có độ dài giới hạn 2
trang và nội dung giới hạn ở việc so sánh. Các yêu cầu cụ thể hơn về nội dung cũng
được đưa ra, thể hiện của việc liên hệ với trải nghiệm thực tế của người học. Ngoài ra,
đầu bài cũng nêu những tiêu chí chấm điểm quan trọng: mức độ rõ ràng, giải thích
điểm giống và khác nhau, cách liên hệ…
- Một số lưu ý khi viết câu hỏi tự luận:
+ Câu hỏi tự luận dù ở dạng mở hay đóng đều phải thỏa mãn các tiêu chí đánh
giá theo mục tiêu dạy học. Nói cách khác, việc đặt câu hỏi tự luận phải đảm bảo yêu
cầu thí sinh thể hiện năng lực như mục tiêu dạy học đã đặt ra.
+ Nên lựa chọn câu hỏi tự luận để đánh giá theo những mục tiêu dạy học mà
nếu đánh giá bằng câu hỏi trắc nghiệm khách quan thì sẽ có nhiều hạn chế, (ví dụ mục
tiêu là: đánh giá năng lực nhận thức bậc cao như phân tích, đánh giá, sáng tạo). Đặc
biệt, với câu tự luận mở, chỉ nên khai thác để đánh giá năng lực đánh giá, và sáng tạo.
Nếu viết câu hỏi tự luận đóng, cần sử dụng động từ phù hợp với động từ đã sử
dụng ở để mô tả mục tiêu dạy học.
+ Yêu cầu của câu hỏi cần được làm rõ tới người học thông qua văn phong rõ
ràng và ngắn gọn. Trong câu hỏi, cần sử dụng những động từ chỉ hành động cụ thể để
giúp HS hiểu mình sẽ phải làm gì khi đọc câu hỏi đó, ví dụ: hãy mô tả/giải thích/so
sánh, nêu ưu điểm và nhược điểm,… Tránh dùng những động từ mơ hồ, trừu tượng
như “vận dụng”, vì HS có thể không biết cần làm gì khi được yêu cầu “vận dụng”.
Với một số mục tiêu đánh giá kỳ vọng về số lượng lập luận hay vấn đề mà HS cần
trình bày, câu hỏi cũng cần nêu rõ số lượng này. Với câu hỏi tự luận đóng, GV nên
cùng HS xây dựng bài làm mẫu, hoặc các tiêu chí đánh giá để HS hiểu rõ câu hỏi hơn
và việc chấm điểm cũng sẽ khách quan hơn.
+ Với câu hỏi tự luận, nên cân nhắc việc cho phép HS lựa chọn câu hỏi giữa
các câu hỏi tương đương nhau. Câu hỏi tự luận vốn có hạn chế là không bao quát
được toàn bộ nội dung chương trình học., Do đó, việc cho phép HS lựa chọn câu hỏi
càng bộc lộ sự không bao quát này. Hơn nữa, mỗi thí sinh có thể có hứng thú với câu
hỏi này hơn là câu hỏi khác, việc cho thí sinh lựa chọn câu hỏi sẽ có thể làm cho việc
đánh giá trở nên thiếu công bằng.
+ Cân nhắc để giao đủ thời gian làm bài cho mỗi câu hỏi. Trên đề kiểm tra
nên ghi rõ khuyến nghị thời gian làm bài và độ dài phần trả lời câu hỏi (nếu có thể).
Cần tính toán để thí sinh có đủ thời gian đọc đề bài, suy nghĩ và viết câu trả lời.
Không nên có quá nhiều câu hỏi tự luận trong một đề kiểm tra.
+ Công việc chấm điểm bài tự luận có thể bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố gây
thiên kiến như: chính tả, cách hành văn, chữ VIẾT, cách lấy ví dụ, hiểu biết của người
chấm điểm về thí sinh… Để giảm thiểu sự ảnh hưởng này, việc chấm điểm cần tập
trung vào mục tiêu dạy học mà chúng ta cần đánh giá, sử dụng các tiêu chí đánh giá
đã thống nhất từ trước. Với câu hỏi tự luận đóng, có thể xây dựng tiêu chí đánh giá và
thang điểm trên một bài trả lời mẫu. Đồng thời, nên dọc phách bài kiểm tra trước khi
chấm điểm. Tiến hành chấm điểm toàn bộ bài làm của một câu hỏi (ở tất cả các bài
kiểm tra) trước khi chuyển sang câu tiếp theo. Với những bài kiểm tra mang ý nghĩa
quan trọng đối với thí sinh, nên có 2-3 người chấm điểm cùng đánh giá một bài kiểm
tra.
c) Các câu hỏi đánh giá các mức nhận thức
Như đã đề cập ở phần lưu ý về câu hỏi tự luận, khi viết câu hỏi, cần sử dụng
những động từ chỉ hành động cụ thể để HS hiểu mình phải làm gì khi đọc câu hỏi đó.
Quan trọng hơn, những động từ này (trong cả hai loại câu hỏi tự luận và trắc nghiệm)
phải giúp quan sát, đo lường, đánh giá được các mức nhận thức. Ví dụ: hãy nêu/trình
bày/chỉ ra (mức biết); hãy phân tích/giải thích/so sánh (mức hiểu), hãy thực hiện/thiết
kế/tạo lập (mức vận dụng). Lưu ý rằng cùng một động từ, tùy vào ngữ cảnh có thể
được sử dụng để đánh giá các mức nhận thức khác nhau. Ví dụ “Hãy trình bày các
loại hình đánh giá” (mức biết); “Hãy trình bày ý nghĩa của các loại hình đánh giá”
(mức hiểu).
Trong dạy học phát triển phẩm chất, năng lực, những động trên đây rất quan
trọng. “Phẩm chất” và “năng lực” vốn trừu tượng, không “nhìn thấy, sờ vào” được,
cho nên phải đánh giá thông qua các biểu hiện của chúng, tức là phải sử dụng các
động từ có thể quan sát, đo lường, đánh giá được để mô tả các biểu hiện này (và để
so sánh với yêu cầu cần đạt khi đánh giá).
Dưới đây sẽ trình bày tóm tắt các loại câu hỏi dùng để đánh giá các mức nhận
thức về các khía cạnh: mục tiêu, tác dụng và cách sử dụng.
- Câu hỏi "biết/ nhớ”
+ Mục tiêu: Câu hỏi "nhớ" nhằm kiểm tra trí nhớ của HS về các dữ kiện, số
liệu, tên người hoặc địa phương, các định nghĩa, định luật, quy tắc, khái niệm,…
+ Tác dụng đối với HS: Giúp HS ôn lại được những gì đã biết, đã trải qua.
+ Cách thức sử dụng: Khi đặt câu hỏi GV có thể sử dụng các từ, cụm từ sau
đây: Ai…? Cái gì…? Ở đâu…? Thế nào…? Khi nào…? Hãy định nghĩa…; Hãy mô
tả…; Hãy kể lại…
+ Ví dụ: Quá trình quang hợp xảy ra ở bào quan nào? Điều kiện xảy ra quá
trình quang hợp là gì?
Câu hỏi trên ẩn động từ có thể quan sát, đánh giá được ở mức biết, đó là:
“nêu/chỉ ra”: Hãy chỉ ra bào quan mà ở đó xảy quá trình quang hợp. Hãy nêu điều
kiện để xảy ra quá trình quang hợp.
- Câu hỏi "hiểu"
+ Mục tiêu: Câu hỏi "hiểu" nhằm kiểm tra HS cách liên hệ, kết nối các dữ
kiện, số liệu, các đặc điểm… khi tiếp nhận thông tin.
+ Tác dụng đối với HS: Giúp HS có khả năng phân tích được những yếu tố cơ
bản; so sánh được các yếu tố, các sự kiện… trong bài học.
+ Cách thức sử dụng: Khi đặt câu hỏi, GV có thể sử dụng các cụm từ sau
đây: Hãy so sánh…; Hãy liên hệ…; Vì sao…? Giải thích…?
+ Ví dụ: Hãy phân tích vai trò của quá trình quang hợp đối với thực vật và đối
với con người. Hãy so sánh quá trình nguyên phân và giảm phân.
Trong câu hỏi, động từ ở mô tả biểu hiện ở mức hiểu là “phân tích”.
- Câu hỏi "vận dụng"
+ Mục tiêu: Câu hỏi "vận dụng" nhằm kiểm tra khả năng áp dụng những
thông tin đã thu được (các dữ kiện, số liệu, các đặc điểm…) vào tình huống mới.
+ Tác dụng đối với HS: Giúp HS vận dụng được các kiến thức, KN đã học.
+ Cách thức sử dụng: Khi dạy học, GV cần tạo ra các tình huống mới, các bài
tập, các vấn đề giúp HS vận dụng các kiến thức đã học. GV có thể đưa ra nhiều câu trả
lời khác để HS lựa chọn một câu trả lời đúng. Chính việc so sánh các lời giải khác
nhau là một quá trình tích cực.
+ Ví dụ: Hãy đề xuất cách trang điểm và chăm sóc da đúng cách. Hãy chỉ ra
cơ sở khoa học của câu “nhai kĩ no lâu”.
Trong câu hỏi, động từ ở mô tả biểu hiện ở mức vận dụng là “đề xuất”. Mặt
khác, động từ “chỉ ra” được sử dụng để yêu cầu HS giải quyết vấn đề trong một tình
huống thực tiễn. Vậy động từ “chỉ ra” với ngữ cảnh cụ thể này sử dụng được để đánh
giá mức vận dụng.
- Câu hỏi "phân tích"
+ Mục tiêu: Câu hỏi "phân tích" nhằm kiểm tra khả năng phân tích nội dung
vấn đề, từ đó tìm ra mối liên hệ, hoặc chứng minh luận điểm, hoặc đi đến kết luận.
+ Tác dụng đối với HS: Giúp HS suy nghĩ, có khả năng tìm ra được các mối
quan hệ trong hiện tượng, sự kiện, tự diễn giải hoặc đưa ra kết luận riêng, do đó phát
triển được tư duy lôgic.
+ Cách thức sử dụng: Câu hỏi phân tích thường đòi hỏi HS phải trả lời: Tại
sao? (khi giải thích nguyên nhân). Em có nhận xét gì? (khi đi đến kết luận). Em có thể
luận cứ như thế nào? (khi chứng minh luận điểm). Câu hỏi phân tích thường có nhiều
lời giải.
+ Ví dụ: Hãy phân tích tình hình bảo vệ môi trường ở địa phương em. Hoặc:
Hãy phân tích tiềm năng sử dụng năng lượng sạch ở địa phương em.
Trong câu hỏi, động từ ở mô tả biểu hiện ở mức phân tích cũng chính là
“phân tích”.
- Câu hỏi "đánh giá"
+ Mục tiêu: Câu hỏi "đánh giá" nhằm kiểm tra khả năng đóng góp ý kiến, sự
phán đoán của HS trong việc nhận định, đánh giá các ý tưởng, sự kiện, hiện tượng…
dựa trên các tiêu chí đã đưa ra.
+ Tác dụng đối với HS: Thúc đẩy sự tìm tòi tri thức, sự xác định giá trị của
HS.
+ Cách thức sử dụng: Đưa ra các tình huống có vấn đề yêu cầu HS phải đưa
ra nhận xét, quan điểm, đánh giá cho các vấn đề đó.
+ Ví dụ 1: Theo em trong hai phương pháp đo thể tích bằng bình chia độ và
bằng bình tràn thì phương pháp nào cho kết quả chính xác hơn? (câu tự luận đóng)
+ Ví dụ 2: Theo em có nên phổ biến hoạt động nhân bản vô tính ở động vật?
(câu tự luận mở)
Trong cả hai câu hỏi, ẩn động từ “đánh giá” khi mô tả biểu hiện ở mức đánh
giá: Hãy đánh giá độ chính xác của hai phương pháp đo thể tích bằng bình chia độ và
bằng bình tràn, từ đó cho biết phương pháp nào cho kết quả tin cậy hơn. Em sẽ đánh
giá về những khía cạnh nào đối với việc phổ biến hoạt động nhân bản vô tính ở động
vật? (Các khía cạnh em có thể đánh giá là: đạo đức, đạo đức sinh học, sức khỏe, tuổi
thọ, chi phí, ...)
- Câu hỏi "sáng tạo"
+ Mục tiêu: Câu hỏi "sáng tạo" nhằm kiểm tra khả năng của HS có thể đưa ra
dự đoán, cách giải quyết vấn đề, các câu trả lời hoặc đề xuất có tính sáng tạo.
+ Tác dụng đối với HS: Kích thích sự sáng tạo của HS, hướng các em tìm ra
nhân tố mới, giải pháp mới…
+ Cách thức sử dụng: GV cần tạo ra những tình huống phức tạp, những câu
hỏi có vấn đề, khiến HS phải suy đoán, có thể tự do đưa ra những lời giải mang tính
sáng tạo riêng của mình.
+ Ví dụ 1: Hãy đề ra những biện pháp chống ô nhiễm tiếng ồn cho những gia
đình sống bên cạnh đường giao thông lớn có nhiều loại xe cộ qua lại.
Ví dụ 2: Hãy tìm cách xác định thể tích của vật thấm nước (những viên
phấn) bằng bình chia độ.
Trong cả hai câu hỏi, các động từ “đề ra”, “tìm cách xác định” gắn với ngữ
cảnh cụ thể để mô tả các biểu hiện của mức sáng tạo.
* Yêu cầu xây dựng câu hỏi
– Câu hỏi cần chính xác, hình thức đơn giản, diễn đạt rõ ràng giúp người học
đưa ra được câu trả lời đúng. Nếu câu hỏi đa nghĩa, phức hợp, sai ngữ pháp thì sẽ gây
khó khăn không cần thiết cho HS.
– Hệ thống câu hỏi được thiết kế phù hợp với tiến trình bài dạy, khả năng nhận
thức của đa số HS và theo các mức độ từ dễ đến khó, từ cụ thể đến khái quát, từ nhận
biết đến sáng tạo.
* Yêu cầu khi đặt câu hỏi
- GV đưa câu hỏi một cách rõ ràng, hấp dẫn; dành đủ thời gian cho HS suy nghĩ,
chỉ định một HS trả lời, yêu cầu cả lớp lắng nghe và sau đó phân tích câu trả lời; GV
đưa ra câu trả lời.
- GV cần nhận xét bằng lời về câu trả lời của HS nhằm điều chỉnh nhận thức,
hành vi của các em. Nhận xét tích cực bằng lời của GV, của bạn cùng lớp có tác dụng
nuôi dưỡng những suy nghĩ tích cực, tạo sự tự tin ở HS, giúp HS tự “cài đặt” lại suy
nghĩ, niềm tin tích cực cho chính mình.
Ví dụ, nhận xét về khả năng hợp tác trong nhóm của một HS như sau: Em đã
thực hiện tốt phần việc của cá nhân. Em nên tham gia thêm những việc chung của
nhóm như: viết báo cáo kết quả, hoặc thay mặt nhóm trình bày kết quả.

CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP


1. Biên soạn hệ thống câu hỏi đánh giá một bài học hoặc một chủ đề trong môn học
mà anh (chị) sẽ dạy học, trong đó có sử dụng câu hỏi tự luận mở rộng, câu hỏi tự luận
có giới hạn và có các câu hỏi tương ứng với các mức độ nhận thức khác nhau.
2. Hãy đưa ra một tình huống đánh giá mà ở đó GV đã không chú ý đến các yêu cầu
khi đặt câu hỏi cho HS và đề xuất cách xử lý tình huống đó.

You might also like