Professional Documents
Culture Documents
Giao dịch G2C trong Chính phủ điện tử
Giao dịch G2C trong Chính phủ điện tử
Chúng ta thấy xuất hiện một từ khóa tương đối phức tạp trong phân đoạn trên mà
rõ ràng cần phải cắt nghĩa đầy đủ. Đó là cụm từ “dịch vụ công”. Cụ thể, tại nghị định
32/2019/ND-CP về sử dụng ngân sách Nhà nước để cung cấp dịch vụ và sản phẩm công,
khái niệm dịch vụ công được miêu tả như sau:
“Là dịch vụ thiết yếu đối với đời sống kinh tế – xã hội của đất nước, cộng
đồng dân cư hoặc bảo đảm quốc phòng, an ninh mà Nhà nước phải tổ chức thực
hiện”
Như vậy có thể hiểu tổng quan rằng dịch vụ công là một chức năng của nhà nước,
bao gồm việc cung cấp những hàng hóa, sản phẩm dưới bất kỳ hình thức nào vì lợi ích
công cộng. Như đã nhắc đến ở trên, G2C trong CPDT đã thu hẹp của cụm từ “công cộng”
thành “công dân”: Nhà nước cung cấp những sản phẩm, hàng hóa vì lợi ích của công dân
đối với giao dịch G2C.
Những ví dụ thực tế của Giao dịch G2C có thể kể đến như việc phổ biến thông tin
tới công chúng, các dịch vụ công cơ bản như gia hạn giấy phép, cấp giấy khai sinh/ khai
tử, đăng kí kết hôn và kê khai biểu mẫu nộp thuế cũng như hỗ trợ công dân đối với cá
dịch vụ cơ bản như giáo dục, chăm sóc y tế, thông tin bệnh viện, thư viện và rất nhiều
dịch vụ khác.
Ví dụ về giao dịch trên G2C: Cổng giao diện Công dân điện tử của Chính phủ
Singapore. Thông qua cổng giao diện Công dân điện tử của Chính phủ Singapore
(www.ecitizen.gov.sg), người dân Singapore có thể truy cập tới 1.600 dịch vụ bao gồm từ
kinh doanh, y tế, giáo dục, giải trí đến việc làm và gia đình. Trong đó, 1.300 dịch vụ điện
tử đã được giao dịch trực tuyến giữa người dân với chính phủ. Cổng giao diện Công dân
điện tử được chia theo từng danh mục dựa trên nhu cầu thực tế cuộc sống của từng cá
nhân, trong đó từng bộ và ủy ban luật pháp cung cấp dịch vụ điện tử thông qua cùng một
cổng. Qua đó, người dân Singapore có thể truy cập một cửa đến các dịch vụ của chính
phủ: Điều này giúp cho họ không phải đi qua một rừng các thủ tục hành chính. Một vài
dịch vụ điện tử thông dụng nhất thường được cung cấp là: nộp đơn xin mua nhà, tìm
kiếm thông tin về các trường học, tìm kiếm việc làm, phát triển nghề nghiệp và đăng ký
bầu cử. Tới tháng 6 năm 2002, khoảng 77% dịch vụ công đã trở nên khả thi để có thể
cung cấp trực tuyến.
- Dịch vụ hành chính công: Đây là loại dịch vụ gắn liền với chức năng quản lý nhà
nước nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân. Người dân được hưởng những dịch vụ này
không theo quan hệ cung cầu, ngang giá trên thị trường, mà thông qua việc đóng cho cơ
quan hành chính nhà nước. Phần lệ phí này mang tính chất hỗ trợ cho ngân sách nhà
nước.
- Dịch vụ sự nghiệp công: Bao gồm các hoạt động cung cấp phúc lợi xã hội thiết
yếu cho người dân như giáo dục, văn hóa, khoa học, chăm sóc sức khỏe, thể dục thể
thao, bảo hiểm, an sinh xã hội, ... Xu hướng chung hiện nay trên thế giới là nhà nước chỉ
thực hiện những dịch vụ công nào mà xã hội không thể làm được hoặc không muốn làm
nên nhà nước đã chuyển giao một phần việc cung ứng loại dịch vụ công này cho khu vực
tư nhân và các tổ chức xã hội.
- Dịch vụ công ích: Là các hoạt động cung cấp các hàng hóa, dịch vụ cơ bản, thiết
yếu cho người dân và cộng đồng như: Vệ sinh môi trường, xử lý rác thải, cấp nước sạch,
vận tải công cộng đô thị, phòng chống thiên tai... chủ yếu do các doanh nghiệp nhà nước
thực hiện. Có một số hoạt động ở địa bàn cơ sở do khu vực tư nhân đứng ra đảm nhiệm
như vệ sinh môi trường, thu gom vận chuyển rác thải ở một số đô thị nhỏ, cung ứng nước
sạch ở một số vùng nông thôn...
Đối với mô hình G2C, một trong những cách nhà nước phục vụ người dân là qua
dịch vụ công trực tuyến. Thường thì trong đó, dịch vụ hành chính công chiếm tỉ trọng chủ
yếu với những văn bản pháp luật, thủ tục giải quyết được đính kèm trên trang web; tuy
nhiên, theo Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai thì bên cạnh hành chính công,
những “dịch vụ khác” như cung cấp định danh điện tử, hỗ trợ người lao động tìm việc
làm, ... cũng được tính là “dịch vụ công trực tuyến”.
II. Các ứng dụng thực tiễn trong giao dịch G2C
1. Định nghĩa ICT là gì?
Chính phủ điện tử gắn liền với việc ứng dụng ICT ở nhiều cấp độ. Vậy thì, câu hỏi
cần phải đặt ra là: “ICT cụ thể có nghĩa là gì và bao gồm những gì?”.
ICT là từ viết tắt của Information & Communication Technologies, có thể dịch ra
tiếng Việt là Công nghệ thông tin và Truyền thông. Cụm từ này ám chỉ tất cả những thiết
bị, hệ thống hay ứng dụng cho phép mọi người tạo, sử dụng và thao tác với thông tin.
Nhiều người coi đây như là sự mở rộng đối với khái niệm IT (Công nghệ thông tin) vì nó
bao gồm cả phạm trù công nghệ truyền thông. Tức là, không chỉ có máy tính và mạng
máy tính, những phương tiện khác như điện thoại, thiết bị xử lý âm thanh, radio hay thậm
chí vệ tinh satellite,... cũng được coi là ICT.
Từ đó ta có thể đưa ra kết luận: CPĐT với ICT được cụ thể hóa là việc ứng dụng
bất cứ thiết bị nào trong năng lực có thể, để qua đó tương tác với các đối tượng như
người dân, tổ chức, doanh nghiệp trong thế giới số.
3. Các kênh giao tiếp giữa chính phủ Việt Nam với người dân
3.1. Cổng dịch vụ công quốc gia/ Cổng dịch vụ công địa phương
Cổng dịch vụ công quốc gia là kênh giao tiếp điện tử quan trọng giữa người dân,
doanh nghiệp và cơ quan nhà nước, đồng thời là nơi để người dân, doanh nghiệp tương
tác với Chính phủ trên môi trường điện tử. Trong trường hợp này chúng ta tập trung vào
đối tượng “người dân” (citizens).
2 lợi ích cốt lõi của cổng dịch vụ công quốc gia:
● Đối với những thông tin và văn bản có liên quan xoay quanh thủ tục hành chính,
Cổng dịch vụ công Quốc gia có đầy đủ, chính xác và kịp thời tất cả những tài liệu từ Bộ,
ngành và địa phương trên trang web của mình; đảm bảo người dân tiếp cận nhanh, gọn
và hiệu quả để phục vụ cho việc lập hồ sơ và xử lý hành chính sau này. Đây được coi là
điểm tích cực, ưu việt đầu tiên của Cổng. Ta có thể hình dung nó giống như một thư viện
khổng lồ với đầy đủ những cuốn sách, cô đọng hệ thống văn bản luật cần thiết. Giả dụ
bạn cần đăng ký biến động quyền sử dụng đất; không chắc chắn bạn có thể lập hồ sơ và
gửi đi hoàn toàn trực tuyến qua Cổng (trực tiếp thực hiện dịch vụ công trực tuyến), tuy
nhiên có thể khẳng định những tài liệu về hệ thống luật đất đai và luật khác có liên quan
đều nằm trên trang web đó và bạn có thể truy cập được.
● Đối với dịch vụ công có thể thực hiện trực tuyến, trực tiếp qua cổng, khoảng 30%
trên tổng số dịch vụ công quốc gia nằm trên cổng. Những dịch vụ này đều nằm ở mức độ
3 và 4.
Ngoài 2 đặc điểm kể trên, Cổng dịch vụ công trực tuyến còn có những ưu điểm sau:
● Đăng ký và được cấp ngay một tài khoản của Cổng dịch vụ công Quốc gia để
đăng nhập. Cùng với tài khoản đăng ký đó, người dùng có thể sử dụng để truy cập hệ
thống dịch vụ Công của Sở, ngành, địa phương. Ngoài ra, công dân cũng không phải cập
nhật các trường thông tin, tài liệu đã được lưu trữ trong tài khoản Cổng Dịch vụ công
Quốc gia. Ví dụ đăng nhập vào cổng của tỉnh Đak Lắk:
● Cho phép theo dõi toàn bộ quá trình giải quyết thủ tục hành chính. Người dân
tra cứu theo một trong 2 cách sau : không đăng nhập hoặc đăng nhập. Nếu
đăng nhập, trạng thái hồ sơ sẽ được hiển thị đầy đủ hơn, đi kèm với đó là
những thông tin khác như tên cán bộ xử lý, số hồ sơ đã hoàn thành,...
● Sử dụng tài khoản của các ngân hàng, trung gian thanh toán để thanh toán trực
tuyến phí, lệ phí thực hiện thủ tục hành chính; dịch vụ công (với những dịch vụ
công được thực hiện ở cấp độ 4)
● Đánh giá sự hài lòng trong giải quyết thủ tục hành chính;
Hướng dẫn đăng ký tài khoản Dịch vụ công Quốc gia cho công dân Việt Nam:
Bước 1: Đăng nhập trang chủ Cổng thông tin dịch vụ công quốc gia Tại đây và chọn
Đăng ký cổng dịch vụ công
Ngoài ra, cũng có ứng dụng về bảo hiểm như VSSID (được thiết lập bởi cơ quan
Bảo hiểm xã hội của Việt Nam) với nhiệm vụ cung cấp bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế
điện tử. Có thể hình dung rằng nếu bạn đến cơ sở khám chữa bệnh công cộng, như
trước kia có yêu cầu phải trình cho phía bác sĩ thẻ BHYT dạng giấy nhưng bây giờ bạn có
thể đăng nhập vào ứng dụng, xuất trình thẻ điện tử để thay thế.
3.2.2 VnEID
VnEID là phần mềm được tạo lập bởi Bộ Công An. Đây là ứng dụng định danh điện
tử chính thức của quốc gia. Định danh điện tử có thể hiểu đơn giản là việc xác thực,
chứng minh thành công danh tính của công dân thông qua phương tiện điện tử (máy tính,
điện thoại,…) mà không cần sử dụng chứng từ vật lý.
Về mức độ ứng dụng, tài khoản định danh điện tử chia làm 2 cấp độ:
● Mức độ 1 gồm có ảnh chân dung và thông tin cá nhân của chủ tài khoản. Chủ tài
khoản có thể sử dụng tính năng giải quyết dịch vụ công trực tuyến trong:
o Thông báo lưu trú
o Đăng ký thường trú, tạm trú
o Khai báo tạm vắng...
● Mức độ 2 bên cạnh ảnh chân dung, thông tin cá nhân còn có thêm thông tin sinh
trắc học là vân tay của công dân. Khi có tài khoản mức độ 2, công dân được sử dụng các
tiện ích đã tích hợp các loại giấy tờ như:
o Giấy phép lái xe
o Bảo hiểm y tế
o Đăng ký xe
o Đồng thời có thể thanh toán nhiều loại hóa đơn điện tử như tiền điện,
nước, chuyển tiền...
Các bước Đăng ký tài khoản định danh điện tử mức độ 1 và 2 trên ứng dụng VneID:
* Bước 1: Tải ứng dụng
Thực hiện việc tải ứng dụng Định danh điện tử quốc gia (VNeID) trên App Store
hoặc Google Play về điện thoại.
* Bước 2: Đăng ký
Sau khi tải ứng dụng, chọn vào mục “Đăng ký” góc phải phía dưới màn hình.
Thực hiện nhập các thông tin bao gồm:
- Số định danh cá nhân;
- Số điện thoại.
Và nhấn vào ô “Đăng ký”.
*Bước 3: Quét mã QR và kiểm tra thông tin đăng ký
Trong bước 3 này, hệ thống sẽ gửi yêu cầu sử dụng camera và quét mã QR trên
căn cước của bạn.
Hệ thống sẽ hiện lên các thông tin cá nhân và bạn cần kiểm tra bao gồm:
- Số định danh cá nhân;
- Số điện thoại;
- Họ và tên khai sinh;
- Giới tính;
- Ngày tháng năm sinh;
- Nơi thường trú;
- Số nhà, phố, tổ dân phố/thôn/đội;
Nếu các thông tin đều chính xác thì chọn vào ô “Đăng ký”
*Bước 4: Nhập mã OTP và thiết lập mật khẩu
Nếu các thông tin đều trùng khớp và chính xác thì hệ thống sẽ gửi mã OTP qua tin
nhắn SMS để kích hoạt đăng ký tài khoản và tạo mật khẩu đăng nhập.
*Bước 5: Đăng ký tài khoản định danh điện tử mức 1
Sau khi đăng nhập, người dùng chọn vào mục “Đăng ký tài khoản định danh điện tử
mức 1 (thực hiện trực tuyến)”
*Bước 6: Sử dụng tính năng NFC
Trong giao diện mục “Đăng ký tài khoản định danh điện tử mức 1 (thực hiện trực
tuyến)” chọn vào ô “Bắt đầu”
Sau khi đọc các nội dung cần lưu ý khi sử dụng tính năng NFC thì nhấn vào ô “Tôi
đã hiểu” và thực hiện theo hướng dẫn của hệ thống.
4.2. Đăng ký tài khoản định danh điện tử mức độ 2 trực tiếp tại cơ quan Công an
(đã có căn cước công dân gắn chip hoặc làm thủ tục cấp, đổi, cấp lại CCCD gắn chip)
* Bước 1: Công dân thông báo với cán bộ về việc làm hồ sơ cấp tài khoản định
danh điện tử. Thông tin đăng ký bao gồm: số điện thoại, địa chỉ hòm thư điện tử (email).
Công dân có thể cung cấp thêm các thông tin về người phụ thuộc cùng giấy tờ kèm
theo (nếu công dân có nhu cầu tích hợp các thông tin này vào hồ sơ đăng ký cấp tài
khoản định danh điện tử).
Trường hợp công dân có nhu cầu đăng ký tích hợp các thông tin hiển thị trên ứng
dụng định danh điện tử quốc gia các loại giấy tờ như giấy phép lái xe, đăng ký xe, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế… thì mang thêm các loại giấy tờ gốc để đối chiếu.
* Bước 2: Công dân thực hiện làm hồ sơ cấp, đổi, cấp lại CCCD gắn chip điện tử
bao gồm thông tin nhân thân/thân nhân cùng thông tin sinh trắc.
* Bước 3: Cán bộ tiếp tục xử lý hồ sơ cấp, đổi, cấp lại CCCD gắn chip theo đúng
quy trình cấp CCCD.
* Bước 4: Công dân kiểm tra, đối chiếu thông tin nhân thân, thông tin các loại giấy
tờ đăng ký tích hợp và ký xác nhận trên phiếu đăng ký định danh điện tử, phiếu thu nhận
thông tin căn cước công dân.
Quy định pháp luật cho tài khoản định danh điện tử của VneID:
Đặc biệt, nội dung Nghị định 59/2022 có hiệu lực vào ngày 20/10/2022 quy định tài
khoản định danh điện tử mức 2 sẽ có giá trị như Căn cước công dân (CCCD) gắn chip.
Hãy hình dung rằng từ trước đến giờ bạn cần Căn cước Công dân (CCCD) hoặc Chứng
minh Nhân dân (CMND) dạng vật lý để thực hiện những giao dịch quan trọng; tuy nhiên
từ bây giờ, tài khoản định danh điện tử của VnEID trên thiết bị di động của bạn có thể
thay thế công việc của những loại thẻ này. Ví dụ, mua một chiếc điện thoại tại cửa hàng
có hóa đơn và phiếu bảo hành sửa chữa, thông thường nhân viên sẽ yêu cầu khách hàng
xuất trình CCCD vật lý nhưng giờ đây, bạn có thể mở ứng dụng VneID, đưa cho họ xem
và hoàn tất giao dịch.
Tài khoản định danh sẽ có cùng mã số với căn cước công dân nên ta không cần
phải lo lắng về trường hợp rối loạn định danh, không đồng bộ và nhất quán trong cơ sở
dữ liệu nhà nước về dân cư; bên cạnh số tài khoản đó, bạn cũng cần thiết lập mật khẩu
cho riêng mình.
Một điểm đặc biệt khác chính là ứng dụng cho phép người dân khiếu nại, tố giác
hành vi phạm pháp ở chế độ nặc danh. Nói cách khác, bạn có thể yên tâm phản ánh
những điều sai trái, vi phạm pháp luật mà không lo sợ nguy cơ bị tấn công, trả đũa. Đây
chính là một bước tiến trong tham vọng khuyến khích người dân xây dựng, đóng góp trực
tiếp trong lĩnh vực hành pháp thông qua Chính phủ điện tử.
Đánh giá của người dân sau khi đã tải và sử dụng VneID:
Trên Google Play, phản hồi của người dân về ứng dụng trong thời gian gần đây có
tính chất tương đối tiêu cực. Hầu hết vấn đề theo trải nghiệm của họ nằm trong khâu
đăng ký tài khoản, cụ thể là quét mã QR và chụp ảnh nhận diện khuôn mặt. Nhiều chủ
bình luận cho biết thiết bị của họ không thể quét mã như bình thường hay gặp thông báo
khi chụp hình lúc thì đủ sáng, lúc thì thiếu sáng; không thể bước đến khâu tiếp theo hay bị
mất mật khẩu và thủ tục thay mới khó khăn,...
3. 3 Sử dụng Web 2.0
Web 2.0 là một phương pháp Internet mới nhằm thúc đẩy trao đổi thông tin và hợp
tác giữa mọi người trên mạng thông qua Ứng dụng web và mô hình của nó lấy người
dùng làm trung tâm. Các trang web điển hình web 2.0 là: cộng đồng trực tuyến, ứng dụng
trực tuyến, trang mạng xã hội, blog, Wikis, v.v.
Sử dụng dịch vụ Web 2.0 (tức là Blog, Wiki, Twitter và Facebook, Instagram, Zalo...)
trong G2C:
Sử dụng mạng xã hội để mở rộng và kết nối thông tin giữa các cơ quan chính
quyền với người dân đang là xu hướng được nhiều quốc gia áp dụng. Thời gian gần đây
tại Việt Nam, sự xuất hiện của những đường dây nóng về y tế, giáo dục, giao thông, cải
cách hành chính,... hay trang mạng xã hội của một số cơ quan, tổ chức nhà nước nhằm
tiếp nhận phản hồi, góp ý của người dân đã được dư luận đánh giá cao. Chính từ kênh
kết nối này, nhiều sự việc được chính quyền biết đến và giải quyết kịp thời, hợp lòng dân.
Ở nước ta, một số cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, cũng đang nỗ
lực kết nối với người dân thông qua mạng xã hội. Từ tháng 10-2015, Chính phủ đã lập
hai tài khoản Facebook là “Thông tin Chính phủ” và “Diễn đàn Cạnh tranh quốc gia” với kỳ
vọng giúp người dân tiếp cận kịp thời các văn bản, quy phạm pháp luật mới ban hành;
thông tin thời sự chính trị, kinh tế - xã hội,...; hoạt động của lãnh đạo Đảng, Nhà nước...
Việc làm này không chỉ đáp ứng nhu cầu thông tin của người dân, mà còn khuyến khích
người dân đồng hành cùng Chính phủ, góp phần thiết thực định hướng dư luận trên
mạng xã hội. Đây cũng được coi là kênh giám sát dư luận xã hội hiệu quả, từ đó các cơ
quan ban hành chính sách lắng nghe và có những điều chỉnh phù hợp với thực tế đời
sống, nguyện vọng của nhân dân.
Không chỉ Chính phủ nỗ lực mở rộng các kênh giao tiếp, đưa thông tin đến người
dân, mà hiện nay nhiều cấp, ngành ở địa phương cũng tận dụng những ưu thế của mạng
xã hội để giải quyết công việc và kết nối thông tin đến mọi tầng lớp nhân dân, ví dụ các
tỉnh thành phố đã hợp tác với Zalo để khai thác những tiện ích của mạng này để triển khai
thêm kênh giải quyết thủ tục hành chính cho người dân như: tra cứu tiến độ giải quyết hồ
sơ, gửi tin nhắn thông báo tiến độ giải quyết hồ sơ, biên nhận điện tử ZMS, thu thập ý
kiến phản hồi của công dân...
Một nhân tố quan trọng cho việc thực hiện thành công ứng dụng Web 2.0 là độ tin
cậy. Các nhóm trong back office có hợp tác ổn định, có thể tạo vòng ảo, độ tin cậy là kết
quả của việc hợp tác. Để giới thiệu các ứng dụng Web 2.0, các tổ chức chính phủ phải
thúc đẩy bằng một chiến lược chính trị mạnh mẽ để tăng cường hợp tác và để tăng kết
nối giữa những nhà chính trị và người dân. Chiến lược này nên thực hiện từ dưới lên, nơi
mà việc bắt đầu được thực hiện không có sự tán thành và không có nhận thức về trách
nhiệm một cách chính thống.
Web 2.0 đẩy mạnh tương tác giữa người dân với chính phủ, gia tăng sức mạnh của
người dân để tham gia và thu hút những thay đổi chúng sẽ xảy ra trong chính phủ và xã
hội. Một vài chiến lược Web 2.0 dựa vào lấy lại dữ liệu công. Dữ liệu công khai rộng rãi
cho việc sử dụng lại là một nhân tố quan trọng để khuyến khích sự chấp nhận của các
ứng dụng Web 2.0.
Các ứng dụng Web 2.0 được sử dụng trong chính phủ không chỉ cho các vấn đề
mềm, như mối quan hệ công chúng và thông báo dịch vụ công. Chúng cũng được sử
dụng trong các nhiệm vụ nội bộ như các dịch vụ thông minh, xem lại các chính sách, và
quá trình ra quyết định. Các ứng dụng Web 2.0 trong chính phủ được sử dụng rộng rãi sẽ
có ảnh hưởng rõ rệt. Một lĩnh vực đặc biệt chịu ảnh hưởng này là việc tham gia vào chính
trị, đặc biệt các chiến dịch tranh cử.
3.4. Sử dụng dịch vụ di động
Các dịch vụ di động có thể đặc biệt kích thích sự tham gia của người dân vào các
vấn đề cộng đồng địa phương và được áp dụng như một kênh để gửi khiếu nại, đề xuất,
v.v thông qua việc sử dụng Internet trên điện thoại di động bất cứ lúc nào và ở bất kỳ đâu,
giúp người dân có thể dễ dàng thực hiện các yêu cầu của mình.
Công dân có thể cài đặt app dịch vụ công trên thiết bị của mình để sử dụng các dịch
vụ công trực tuyến theo nhu cầu của mình.
3.5. KIOSK
Kiosk tra cứu thông tin là hệ thống máy giúp người dân tham khảo thông tin thủ tục
hành chính và tra cứu tình hình thực hiện các dịch vụ công tại đơn vị. Qua đó, cơ quan
chức năng đảm bảo mục tiêu nâng cao hiệu suất, chất lượng phục đối với người dân,
giúp thuận tiện hóa quá trình làm thủ tục hành chính tại các đơn vị.
Kiosk tại Bệnh viện hoặc tại phòng giao dịch 1 cửa
3.6. E-mail
Các công nghệ mạng hiện đại - đặc biệt là thư điện tử và World Wide Web – mang
lại tiềm năng tăng cường đáng kể thông tin liên lạc giữa các cơ quan chính phủ và khách
hàng là công dân của họ. Bởi vì phần lớn giao tiếp giữa các chính phủ và công dân liên
quan đến việc truyền tải thông tin.
Sử dụng E-mail khi thực hện dịch vụ công trực tuyến là kênh giúp công dân nhanh
chóng tiếp nhận các phản hồi về giải quyết các thủ tục hành chính, theo dõi quá trình thụ
lý hồ sơ của các cơ quan, tổ chức, từ đó đẩy nhanh tiến độ giải quyết các thủ tục hành
chính liên quan.
3.7. Phone/Fax
Khi thực hiện dịch vụ công trực tuyến, công dân có thắc mắc về quy trình và hồ sơ
xử lý dịch vụ có thể liên hệ đề nghị hỗ trợ thực hiện thủ tục hành chính, dịch vụ công qua
Tổng đài điện thoại với số Phone/Fax để nhận được hỗ trợ giải quyết.
Tại Việt Nam để đề nghị hỗ trợ thực hiện thủ tục hành chính, dịch vụ công, liên hệ
qua Tổng đài điện thoại 18001096.
.
5. Thái Lan
Thái Lan:
Chính phủ Thái Lan đã ra mắt một ứng dụng di động “tất cả trong một” - “Tang
Raat” cung cấp dịch vụ công và hoạt động như một kênh trực tuyến để tiếp nhận các
phản ánh và đề xuất của người dân.
Ứng dụng được tích hợp với chức năng "dịch vụ một cửa" – giải quyết tất cả dịch
vụ công của quốc gia, đồng thời cho phép người dân liên hệ trực tiếp với trung tâm khiếu
nại tại các tỉnh thành của họ hoặc đường dây nóng 1111 của trung tâm để khiếu nại.
Theo Anucha Nakasai, Bộ trưởng trực thuộc Văn phòng Thủ tướng Thái Lan, phát
triển ứng dụng di động này là một phần nằm trong chiến lược quốc gia 20 năm (2018 -
2037) nhằm cung cấp cho người dân Thái Lan các dịch vụ thiết yếu của chính phủ thông
qua dịch vụ một cửa.
Trong khi đó, tướng Akanit Muensawat, Chủ tịch Ủy ban Hành chính Nhà nước Thái
Lan cho biết việc ra mắt ứng dụng dịch vụ công (DVC) "tất cả trong một" thể hiện cam kết
của chính phủ trong việc cải thiện các dịch vụ và giúp người dân có thể tiếp cận một cách
dễ dàng hơn.
Ông cũng nhấn mạnh thêm rằng, việc cung cấp toàn diện và liền mạch tất cả các
DVC cho người dân giống như một phương thức hiện thực hóa tham vọng chính phủ số
của Thái Lan để sẵn sàng cho một thế giới hậu đại dịch và những thách thức trong tương
lai.
Để hỗ trợ bệnh nhân COVID-19 có điều kiện chăm sóc và điều trị nhanh hơn, Bộ Y
tế Thái Lan đã cung cấp hình thức chẩn đoán và điều trị trực tuyến thông qua các ứng
dụng di động như “Good Doctor Technology” và “Mordee”. 2 ứng dụng này không chỉ
hướng dẫn người dân về cách phòng ngừa và điều trị COVID 19 mà còn mở rộng phạm
vi tư vấn đối với bất cứ vấn đề sức khỏe, bệnh tật nào mà người dân có thể mắc phải.
Bằng cách này, Cơ quan Y tế của Thái Lan có thể tiếp cận nhiều người hơn trong thời
gian ngắn hơn, đi kèm với chi phí nhỏ và hiệu quả hơn. Điều đáng nói ở đây là, dịch vụ y
tế thuộc loại hình dịch vụ công trong lĩnh vực sự nghiệp nhưng đã bắt đầu được cung
ứng trực tuyến như những dịch vụ hành chính công khác; qua đó cho thấy triển vọng tích
hợp nhiều loại hình dịch vụ khác nhau qua ứng dụng trên thiết bị cầm tay.
IV. Thực trạng trong dịch vụ công trực tuyến tại Việt Nam
1. Tâm lý truyền thống khi làm thủ tục hành chính
Một rào cản lớn để DVCTT thực sự hữu ích, đến được với người dân đó là tâm lý truyền
thống của người dân khi làm thủ tục hành chính. Thông thường, người dân vẫn có thói
quen đến trực tiếp cơ quan nhà nước để làm TTHC, với suy nghĩ "chắc chắn", và để
được hỏi, hướng dẫn cụ thể các loại hồ sơ, giấy tờ liên quan. Hầu hết người dân ít khi có
nhu cầu làm các TTHC, vì vậy khi có nhu cầu, họ thường đến thẳng cơ quan hành chính
(CQHC) để làm, và cảm thấy an tâm hơn khi đến trực tiếp trụ sở CQHC để được hướng
dẫn và thực hiện.
Nhận thức còn hạn chế và người dân vẫn chưa sẵn sàng trong triển khai chính phủ
điện tử. Số lượng người dân Việt Nam sử dụng Internet năm 2020 là 68,17 triệu người,
chiếm trên 70% dân số (được xếp vào các nước có độ phổ khá, so với yêu cầu trên 80%
của mức độ phủ cao). Tuy nhiên, để thích ứng với hoạt động của CPĐT thì vẫn còn một
bộ phận đáng kể người dân chưa sẵn sàng hoặc cảm thấy rất khó khăn, đặc biệt là với
nhóm người lớn tuổi. Khi được hỏi về vấn đề thực hiện dịch vụ công trực tuyến, ông
Nguyễn Văn Bảo, tổ dân phố Tân Sơn 1, phường Lương Sơn, thành phố Sông Công cho
biết: "Bản thân tôi cũng như nhiều người dân khác còn chưa hiểu về dịch vụ công trực
tuyến là gì, việc khai thác, sử dụng tiện ích của dịch vụ đó cụ thể như thế nào nên khi giải
quyết TTHC tôi vẫn thường đến trực tiếp Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả giải quyết
TTHC của phường hoặc thành phố để được cán bộ hướng dẫn trình tự các bước thực
hiện TTHC, điền hồ sơ thông tin hoặc các mẫu đơn, tờ khai nếu có". Nếu như ở
Singapore, họ có những trung tâm hỗ trợ người dân, đặc biệt là người lớn tuổi để sử
dụng CPĐT, thì ở nước ta, những cơ quan hành chính thông thường không có người
hướng dẫn, người đến làm thủ tục hành chính phải tự thân vận động hoặc hỏi người
xung quanh; còn CPĐT thì hầu như không có chương trình truyền thông hiệu quả nào
đến người dân.
2. Quy trình phức tạp khiến người dân ngại thao tác online
Đặc biệt, DVCTT thường không có quy trình đơn giản, dễ làm, dễ thao tác nên
không thu hút được người dân sử dụng hơn. Những thủ tục với nhiều quy trình phức tạp
khiến người dân bị rối, từ đó hạn chế sử dụng. Đây cũng chính là một vấn đề khiến việc
triển khai DVCTT mức độ 4 đối với việc cấp, đổi giấy phép lái xe chưa được mở rộng trên
toàn quốc sau thời gian thí điểm. Số lượng hồ sơ sơ cấp, đổi giấy phép lái xe trực tuyến
cấp độ 4 quá thấp. Theo Bộ Giao thông vận tải (GTVT), số lượng người dân tham gia
đăng ký, hoàn thiện hồ sơ và đổi giấy phép lái xe trực tuyến trên Cổng DVC quốc gia còn
thấp. Tính đến hết tháng 4/2021, số hồ sơ cấp, đổi thành công trên Cổng DVC quốc gia
chỉ có 10 hồ sơ. Một trong những nguyên nhân khiến số hồ sơ cấp, đổi giấy phép lái xe
trực tuyến mức độ 4 thấp là người dân phải thực hiện khá nhiều thao tác, như truy cập
vào cổng DVC, sau đó đăng ký, nhận mã xác thực qua điện thoại di động. Người dân
phải có số CMND hoặc CCCD cùng với số điện thoại chính chủ. Sau đó, còn phải tra cứu
dữ liệu vi phạm pháp luật giao thông đường bộ, tra cứu dữ liệu sức khỏe…. Thậm chí, dù
đã thanh toán trực tuyến lệ phí đổi giấy phép lái xe vào kho bạc, qua chức năng thanh
toán của hệ thống DVCTT. Tuy nhiên, nếu đăng ký không thành công do hồ sơ chưa hợp
lệ, việc hoàn trả lại tiền cũng mất nhiều thời gian. Những quy trình phức tạp như vậy sẽ
khiến người dân không mặn mà với DVCTT.
4. Các dịch công được cung cấp chủ yếu ở mức độ thấp
Các dịch vụ công chủ yếu được cung cấp ở mức độ thấp, hiện nay dịch vụ công mức độ
2 vẫn đang được sử dụng rộng rãi và vẫn chiếm số lượng rất lớn. Trong khi đó, các dịch
vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 đã tổ chức thông tin, tuyên truyền cho người dân
và doanh nghiệp nhưng số lượng hồ sơ tiếp nhận vẫn còn hạn chế, đặc biệt là dịch vụ
công trực tuyến mức độ 4 rất ít hồ sơ nộp và xử lý trực tuyến.
Hiện nay, theo thống kê tỉnh Thái Nguyên đang áp dụng 1.487 TTHC trên cả 03
cấp, cấp tỉnh 1.169 TTHC, cấp huyện 215 TTHC, cấp xã 103 TTHC. Trong số các TTHC
trên có hơn 300 TTHC đã được cung cấp ở mức độ 3,4. Tuy đã triển khai cung cấp dịch
vụ công một cách mạnh mẽ nhưng tỷ lệ người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức
độ 3,4 còn rất hạn chế. Thậm chí ở một số đơn vị từ khi triển khai dịch vụ công mức độ
3,4 cho đến nay chưa nhận được bất cứ hồ sơ TTHC nào tham gia trao đổi, giao dịch.
Chẳng hạn như tại Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, thời gian qua Sở đã triển khai 20
dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 giải quyết TTHC cho tổ chức và công dân, tuy nhiên
chưa có công dân nào nộp hồ sơ qua mạng. Theo bà Vũ Ngọc Lan, Phó Chánh Văn
phòng Sở thì đa phần người dân chưa mặn mà với dịch vụ công trực tuyến hoặc là không
biết về dịch vụ này nên vẫn trực tiếp đến Sở nộp hồ sơ TTHC. Đây cũng là thực trạng
chung của nhiều đơn vị, địa phương trên địa bàn.
6. Tồn tại thói quen chia sẻ thông tin định danh bừa bãi
Bộ Công an đã phản ánh tình trạng nhiều người có thói quen chia sẻ thông tin định
danh của mình một cách không cẩn thận, bừa bãi trên không gian mạng. Đó có thể là
Facebook, Messenger hay những diễn đàn, trang web khác nhau; thường thì thông tin
được đăng tải ở dạng mở, không giới hạn phạm vi người xem. Điều này dĩ nhiên mang lại
những rủi ro lớn cho chính bản thân công dân. Anh Ngô Minh Hiếu - thành viên Trung tâm
Giám sát An toàn An ninh mạng Quốc gia chia sẻ rằng hành động thiếu cẩn trọng như
trên có thể khiến cho công dân vướng vào những khoản tín dụng đen không mong muốn
do bị mạo danh; bị rao bán thông tin định danh trên những trang dark web hay đối tượng
xấu cố ý lập những tài khoản mạng xã hội, tài khoản dịch vụ phải trả tiền,... không mong
muốn.