You are on page 1of 39

MỤC LỤC

1. Nguyên tắc xây dựng và triển khai chính phủ điện tử..................................................2
1.1. Nguyên tắc 1: Tập trung nhiều hơn vào “Chính phủ”, ít hơn vào “Điện tử”.....................2
1.2. Nguyên tắc 2: Tập trung vào nhiều hơn vào công dân, ít hơn vào thiết bị...........................3
1.3. Nguyên tắc 3: Tập trung vào cải cách quy trình, không tập trung vào “phiên dịch” quy
trình 3
1.4. Nguyên tắc 4: Tập trung nhiều hơn vào phần mềm, ít hơn vào phần cứng.........................4
1.5. Nguyên tắc 5: Làm dự án thí điểm trước khi triển khai diện rộng.........................................6
1.6. Nguyên tắc 6: Tập trung nhiều hơn vào con người, ít hơn vào các hệ thống......................8
1.7. Các nguyên tắc khác................................................................................................................................... 9
2. Các bước xây dựng và triển khai chính phủ điện tử.....................................................9
2.1. Xây dựng mục tiêu chính phủ điện tử....................................................................................................... 9
2.2. Phân tích tình huống chính phủ điện...................................................................................................... 10
2.3. Xây dựng chiến lược chính phủ điện tử................................................................................................. 11
2.4. Triển khai, kiểm soát chiến lược chính phủ điện tử..........................................................................13
3. Tài sản cốt lõi và năng lực cốt lõi cho chính phủ điện tử............................................15
3.1. Tài sản cốt lõi và năng lực cốt lõi........................................................................................................ 15
3.2. Xác định tài sản và tài sản cốt lõi liên quan đến chính phủ điện tử......................................16
3.3. Xác định năng lực và năng lực cốt lõi liên quan đến chính phủ điện tử.............................16
3.4. Phát triển năng lực cốt lõi và tài sản cốt lõi cho chính phủ điện tử......................................18
3.5. Phân tích và quản lý tài sản cốt lõi và năng lực cốt lõi...............................................................19
4. Truyền thông Marketing chính phủ điện tử.................................................................20
4.1. Mục đích..........................................................................................................................20
4.2. Yêu cầu........................................................................................................................................................... 21
4.3. Nội dung tuyên truyền............................................................................................................................. 21
4.4. Marketing ra công chúng bên ngoài.................................................................................................. 21
5. Đánh giá triển khai chính phủ điện tử..........................................................................25
5.1. Đánh giá của quốc tế về xây dựng chính phủ điện tử ở Việt Nam.......................................25
5.2. Các chỉ tiêu đánh giá triển khai Chính phủ điện tử.....................................................................28
7.2. Một số giải pháp tiếp tục đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử ở Việt Nam trong thời
gian tới.......................................................................................................................................................................... 37
1. Nguyên tắc xây dựng và triển khai chính phủ điện tử
1.1. Nguyên tắc 1: Tập trung nhiều hơn vào “Chính phủ”, ít hơn vào “Điện tử”
So sánh quản trị điện tử và chính phủ điện tử:
Chính phủ điện tử có thể được định nghĩa là sự tích hợp của công nghệ thông tin và
truyền thông, trong hành chính công, tức là cho các quy trình, hoạt động và cấu trúc khác
nhau của chính phủ với mục đích tăng cường tính minh bạch, hiệu quả, trách nhiệm và sự
tham gia của người dân. Nó tạo điều kiện:
 Mức độ hiệu quả và hiệu quả cao hơn trong các hoạt động và quy trình của chính phủ.
 Nâng cao chất lượng dịch vụ công cộng
 Đơn giản hóa các quy trình hành chính
 Cải thiện truy cập thông tin
 Tăng sự giao tiếp giữa các cơ quan chính phủ.
 Tăng cường hỗ trợ cho chính sách công
 Cho phép chính phủ liền mạch
Về quản trị điện tử, quản trị điện tử hiểu ngắn gọn là dùng để sử dụng công nghệ thông
tin và truyền thông (CNTT-TT) để cung cấp dịch vụ của chính phủ, phổ biến thông tin, hoạt
động truyền thông và kết hợp hệ thống và dịch vụ độc lập giữa các mô hình, quy trình và
tương tác khác nhau cấu trúc tổng thể.
Quản trị điện tử là một công cụ, cung cấp các dịch vụ chính phủ khác nhau cho công dân
một cách thuận tiện, chẳng hạn như:
 Cung cấp dịch vụ chính phủ tốt hơn
 Cải thiện tương tác với các nhóm khác nhau
 Trao quyền công dân thông qua tiếp cận thông tin
 Quản lý chính phủ hiệu quả
Theo Chính phủ điện tử, việc ứng dụng CNTT vào hoạt động của chính phủ, như một
công cụ để làm cho chính phủ tốt hơn. Mặt khác, Quản trị điện tử ngụ ý việc sử dụng CNTT
trong việc chuyển đổi và hỗ trợ các chức năng và cấu trúc của hệ thống.
Trong khi Chính phủ điện tử là một hệ thống, Quản trị điện tử là một chức năng.
Chính phủ điện tử là một giao thức truyền thông một chiều. Ngược lại, Quản trị điện tử
là một giao thức truyền thông hai chiều.
Công nghệ kỹ thuật số có thể đa dạng và hấp dẫn. Một biểu mẫu và một báo cáo chắc
chắn trông ấn tượng hơn trên màn hình máy tính, nhưng đằng sau những biểu mẫu và báo cáo
có thể ẩn chứa một vài lớp của bộ máy hành chính quan liêu có khả năng chống lại một số
hoặc tất cả các nguyên tắc quản trị khoa học. Nói cách khác, cần phải bảo vệ chống lại quan
liêu điện tử khi nói về chính phủ điện tử. Điều quan trọng, do đó, là tập trung vào “chính
phủ” và sử dụng từ "điện tử" cho thích hợp. Quá nhấn mạnh vào từ "điện tử" là một trong
những lý do thất bại của đa số các dự án chính phủ điện tử. Một cuộc khảo sát được thực hiện
bởi tổ chức “Egov4dev” năm 2002 cho thấy chỉ có 15% các dự án chính phủ điện tử ở các
nước đang phát triển là thực sự thành công, trong khi có 50% là thất bại một phần và 35% là
thất bại hoàn toàn.
Không thể bắt đầu với những câu hỏi mang tính tự tin như: "Làm thế nào chúng ta thay
thế hệ thống hiện có bằng một hệ thống điện tử?". Đó là giả định cho rằng bất cứ cái gì là
điện tử đều tốt hơn so với quá trình thủ công hoặc phi điện tử. Một giả định như vậy thường
có thể dẫn đến nhiều “điện tử” mà không mang lại lợi ích cho “chính phủ”.
Thực hiện chính phủ điện tử là sẽ tốt nếu bắt đầu tin tưởng sớm vào nó và hiểu rằng công
nghệ thông tin chỉ là một phương tiện, mặc dù rất quan trọng, nhưng không phải là bản thân
mục đích hướng tới. Lời khẳng định này cần được nêu ra nhằm cảnh báo việc sử dụng các
nguồn lực công khan hiếm để mua sắm các tài sản công nghệ thông tin đắt tiền mà không tạo
nên một sự khác biệt cho công dân hoặc chính phủ. Cần hiểu rằng đạt được mục đích cuối
cùng mới là điều quan trọng.
1.2. Nguyên tắc 2: Tập trung vào nhiều hơn vào công dân, ít hơn vào thiết bị
Cần hiểu sự khác biệt cơ bản giữa tin học hóa và chính phủ điện tử:
 Tin học hóa tìm cách thay thế các quy trình hiện có bằng các phó bản
(counterparts) điện tử của chúng.
 Chính phủ điện tử nhìn vào nhu cầu của người dân và áp dụng các hệ thống có thể
đáp ứng những nhu cầu đó một cách chính xác.
Đó là sự khác biệt giữa tiếp cận lấy máy tính làm trung tâm và tiếp cận lấy công dân làm
trung tâm. Các quy chiếu là hoàn toàn khác nhau. Tính tiện lợi và chi phí - hiệu quả là hai
trục XY trong cách tiếp cận lấy người dân làm trung tâm. Máy tính và mạng là hai trục XY
trong tiếp cận lấy hệ thống làm trung tâm. Điều này không làm giảm vai trò của máy tính và
mạng trong thực hành chính phủ điện tử mà nó chỉ nhấn mạnh sự cần thiết phải chọn đúng vị
trí để bắt đầu tìm kiếm mọi thứ.
Đã có khá nhiều tình huống mà trong đó các công dân phải đứng xếp hàng khá đông
trước các “”cửa sổ”” tại cơ quan công quyền trước khi tin học hóa . Tuy nhiên sau khi tin học
hoá, họ vẫn phải tiếp tục xếp hàng khá đông. Có lẽ tin học hoá chỉ nhanh hơn một chút. Các
dự án này đã đạt được lợi ích về mặt hiệu quả và tiện lợi của các đại diện chính phủ ngồi
đằng sau cửa sổ và điều chắc chắn là việc lưu giữ hồ sơ kế toán sẽ tốt hơn. Tuy nhiên, họ đã
thực hiện được rất ít sự khác biệt cho công dân trong việc giảm chi phí, thời gian và tăng sự
tiện lợi trong việc cung cấp các dịch vụ tương tự, chưa nói tới một tập hợp các dịch vụ giá trị
gia tăng mới.
Các hệ thống tin học hóa đã và tiếp tục đóng vai trò của chúng trong sự phát triển các
khái niệm về chính phủ điện tử. Ở giai đoạn phát triển hiện nay, không cần thiết, thậm chí
không mong muốn bắt đầu với các khuôn khổ cũ kỹ đã tồn tại gắn liền với mục đích không
còn phù hợp. Nên quên hoặc “không cần học hỏi” những vấn đề tin học hóa, và nên bắt đầu
nói chuyện bằng ngôn ngữ của chính phủ điện tử tập trung vào công dân.
Tin học hóa trong các cơ quan chính phủ trước kia xảy ra trong bối cảnh chỉ có máy tính
điện tử, chưa có Internet. Đã thực hiện được một số công việc khá tốt, thiết kế lại mẫu tờ khai
thuế, nhận được các tờ khai trên giấy ký bằng bút mực, nhập vào máy tính khách và xử lý
trên máy chủ, tháng này qua tháng khác. Đã làm được rất ít để giảm bớt sự nhàm chán của
người nộp thuế. Ngày hôm nay, có thể thiết kế hệ thống theo một cách hoàn toàn khác. Có lẽ
có thể nói rằng trong một thập kỷ tới kể từ bây giờ, làn sóng cải cách công nghệ tiếp theo sẽ
buộc chúng ta phải thay đổi căn bản cách nhìn đối với nhiều vấn đề quản lý.
1.3. Nguyên tắc 3: Tập trung vào cải cách quy trình, không tập trung vào “phiên
dịch” quy trình
Trong điều kiện có hay không có sự can thiệp của công nghệ, việc xem xét kỹ càng các
quy trình hiện có trong hệ thống chính phủ nhằm cải thiện chúng luôn mang ý nghĩa quan
trọng.
Mục tiêu cuối cùng của công việc này, hay còn gọi là tái cấu trúc quy trình kinh doanh
(Business Process Engineering - BPR), là đi đến một cấu hình hoàn toàn khác của các quá
trình thành phần tạo nên một hệ thống mà các kinh nghiệm người dùng là hoàn toàn khác
nhau. Công nghệ có thể làm được rất nhiều điều. Mục đích là khai thác sức mạnh của công
nghệ trong việc xác định các quy trình chính phủ một cách sáng tạo.
Mặc dù sự ra đời của máy tính hoặc tin học hóa có thể làm nên một số khác biệt, ý tưởng
quan trọng nhất là tạo nên sự khác biệt đáng kể trong cách thức chính phủ phục vụ công dân.
Điều này đòi hỏi phải thực hiện một “bài tập tầm nhìn”. Việc tìm kiếm các phương pháp và
các hệ thống thiết kế để chuyển đổi “trực tiếp” (inline) thành “trực tuyến” (online) nên trở
thành phương châm hành động của chính phủ điện tử. Câu hỏi đặt ra, tuy nhiên, là có bao
nhiêu sự chuyển đổi và bao nhiêu sự thay đổi mà hệ thống chính phủ có thể chịu đựng được.
Các tổ chức được hình thành từ các cá nhân, mỗi người trong đó có cấp độ năng lực, hiểu
biết và khả năng hấp thụ sự thay đổi nhất định. Vì vậy, trong khi kế hoạch tổng thể nên đạt
được sự chuyển đổi căn bản, việc triển khai phải được tiến hành trong các giải pháp mà hệ
thống có thể dễ dàng tiếp thu và điều chỉnh. Không có đơn thuốc duy nhất cho một phân kỳ
như vậy của quá trình chuyển đổi. Chúng ta phải quyết định tốc độ phụ thuộc vào sự đánh giá
đúng đắn về văn hóa tổ chức và tính năng động của sự thay đổi trong các quá trình.
Chính phủ là một tổ chức của các tổ chức. Quá trình chuyển đổi một số lượng lớn cơ
quan đồng thời có thể không chỉ đưa hệ thống đến sự căng thẳng đáng kể, mà còn tạo ra một
nguy cơ tiềm ẩn đối với quá trình triển khai chính phủ điện tử. Quy mô của chương trình
chính phủ điện tử và mức độ chuyển đổi là những lĩnh vực cần phải được xử lý cẩn thận.
Một phát hiện quan trọng trong nghiên cứu các quá trình quản trị cho thấy phần lớn các
hệ thống chính phủ chỉ bao gồm một số quá trình rời rạc, được xác định rõ. Đó là:
 Đăng ký các cá nhân và doanh nghiệp cho các mục đích khác nhau theo luật định;
 Thanh toán lệ phí, thuế, thuế và tiền phạt cho chính phủ;
 Nhận các khoản trợ cấp, lợi ích xã hội, thanh toán theo hợp đồng từ chính phủ;
 Làm và nộp hồ sơ khai thuế, báo cáo theo luật định, khiếu nại và khiếu kiện;
 Các đơn đăng ký và các yêu cầu về lợi ích, giấy phép, xin nhập học;
 Tìm kiếm thông tin.
Tất cả các quá trình nói trên xuất phát từ quan điểm của công dân hoặc doanh nghiệp và
chiếm phần lớn các tương tác C2G (Công dân - Chính phủ) và B2G (Doanh nghiệp - Chính
phủ).
Tương tự như vậy, có một số quy trình rời rạc, được xác định rõ nằm ở hậu diện các cơ
quan chính phủ. Đó là:
 Xác định danh tính của công dân, doanh nghiệp và tài sản;
 Đánh giá đủ điều kiện cấp phép, giấy phép, lợi ích, tuyển sinh;
 Kế toán thu chi;
 Báo cáo hiệu suất;
 Cung cấp thông tin.
Nếu một nhiệm vụ đã được thực hiện nhằm tiêu chuẩn hóa và chuyển đổi các quá trình
nói trên bằng việc áp dụng thực hành tốt nhất toàn cầu được địa phương hóa và nhằm xây
dựng tiêu chuẩn, các ứng dụng (thành phần) dựa trên công nghệ thông tin - truyền thông, với
cái nhìn, cảm nhận và chức năng thống nhất, sẽ có thể sử dụng lại các quá trình thành phần
này để xây dựng các hệ thống lớn. Điều này sẽ cho phép một sự chuyển biến lớn của quá
trình xảy ra một cách âm thầm khi xây dựng chính phủ.
1.4. Nguyên tắc 4: Tập trung nhiều hơn vào phần mềm, ít hơn vào phần cứng
Một trong những lý do chính cho sự thất bại của các dự án chính phủ điện tử là việc nhấn
mạnh quá mức vào mua sắm phần cứng và thiết lập các mạng thông tin đắt tiền ngay cả trước
khi các phần mềm ứng dụng được thiết kế và phát triển. Thông thường, các dự án chính phủ
điện tử có xu hướng định hướng phần cứng chứ không định hướng phần mềm. Điều này xảy
ra một phần là do sự lo lắng của các nhà quản lý dự án trong việc thể hiện "tiến bộ vật chất và
tài chính", phớt lờ "tiến bộ chức năng". Các phần mềm ứng dụng là trái tim của một dự án
chính phủ điện tử. Nó xử lý và cung cấp nội dung theo yêu cầu của các cơ quan khác nhau
trong hệ thống thông tin. Thông thường, chi phí phát triển phần mềm ứng dụng chỉ chiếm
khoảng 20% tổng chi phí của một dự án chính phủ điện tử. Tuy nhiên, việc thiết kế, phát
triển, thử nghiệm và triển khai các phần mềm ứng dụng tiêu thụ gần 60% thời gian vòng đời
dự án. Giai đoạn này của dự án có thể khá tẻ nhạt và gây phiền nhiễu cho các nhà quản lý dự
án. Họ có xu hướng trở nên thiếu kiên nhẫn và do đó nghiêng về tiến hành mua sắm phần
cứng cho một triển khai quy mô lớn.
Phần cứng thường trở nên lạc hậu ở thời điểm các phần mềm sẵn sàng cho việc triển
khai, cần phải nâng cấp phần cứng ngay trước khi dự án được khởi động hoặc ngay sau khi
khởi động. Nội dung là chìa khóa, phiên bản phần mềm của những tiện ích hay dịch vụ mà
một dự án chính phủ điện tử dự định cung cấp cho khách hàng. Nó là sự kết tinh của một dự
án chính phủ điện tử theo định hướng chuyển đổi, lấy công dân làm trung tâm. Vòng đời phát
triển nội dung có các giai đoạn điển hình sau đây:
1. Xác định rõ ràng các mục tiêu và lợi ích dự kiến của dự án.
2. Nghiên cứu hệ thống, bao gồm:
 Nghiên cứu các quá trình hiện có, mức độ dịch vụ, các hạn chế.
 Phân tích so sánh với các thực hành quốc gia/quốc tế tốt nhất.
 Đánh giá phạm vi cho việc chuyển đổi các quy trình hiện có.
 Đánh giá các trạng thái sẵn sàng của các tổ chức đối với sự thay đổi.
3. Đi đến quyết định "làm hay mua"
4. Đặc tả các yêu cầu chức năng (Functional Requirement Specification- FRS), bao
gồm:
 Tương tác với các chuyên gia thuộc các lĩnh vực chuyên môn;
 Tương tác với các khách hàng cuối cùng - các nhóm công dân hoặc các
doanh nhân để làm rõ những thể loại và yêu cầu chất lượng các dịch vụ mà
họ cần;
 Thiết kế các định dạng cho đầu vào và đầu ra và củng cố thêm logic quá
trình.
5. Đặc tả yêu cầu hệ thống (System Requirement Specification - SRS), bao gồm:
 Thiết kế kiến trúc hệ thống;
 Thiết kế các đặc tả cho phần mềm hệ thống;
 Xác định năng lực phần cứng và mạng cần có; và
 Thiết kế các màn hình và cơ sở dữ liệu.
6. Phát triển các phần mềm ứng dụng thông qua một kiến trúc hướng dịch vụ
(Service-Oriented Architecture -SOA).
7. Thử nghiệm với dữ liệu mẫu và gỡ lỗi.
8. Khởi hành nhẹ dự án tại các địa điểm thí điểm.
9. Phản hồi người dùng và xem xét.
10. Số hóa các dữ liệu hoặc di chuyển dữ liệu cũ sang hệ thống mới.
Phải mất 9 tháng đến 1 năm cho chu trình phát triển ứng dụng của một dự án chính phủ
điện tử toàn tổ chức điển hình. Cách làm tắt có thể tỏ ra nguy hiểm và tốn kém.
Sau đây là những yếu tố thành công quan trọng cho một chu trình phát triển ứng dụng:
1. Nắm bắt nhu cầu khách hàng một cách chính xác và cấu hình chúng trong một kiến trúc
hướng dịch vụ;
2. Sự tham gia của các nhân viên cơ quan trong quá trình thiết kế và phát triển.
3. Việc quyết định “Làm hay mua”;
4. Thiết kế kiến trúc công nghệ và chức năng của giải pháp;
5. Sự tương thích của các tiêu chuẩn mở tương tác;
6. Thiết kế giao diện thân thiện người dùng sử dụng ngôn ngữ địa phương.
Tóm lại, sự quan tâm và chăm sóc thích đáng trong việc thiết kế và phát triển phần mềm ứng
dụng hoặc nội dung là rất quan trọng đối với sự thành công của chính phủ điện tử trong việc
cung cấp các dịch vụ một cách thân thiện và bền vững.
1.5. Nguyên tắc 5: Làm dự án thí điểm trước khi triển khai diện rộng
Chính phủ điện tử không phải là một sản phẩm sẵn có để sử dụng (off - the - shelf). Có
một số yếu tố kinh tế - xã hội, tổ chức và công nghệ rất quan trọng cho sự thành công của nó.
Các yêu cầu đổi mới, cải cách quy trình và quản lý sự thay đổi trong một dự án chính phủ có
nhiều khắt khe hơn so với trong một dự án cơ sở hạ tầng, phúc lợi thông thường. Hồ sơ theo
dõi các dự án chính phủ điện tử cho thấy một tỷ lệ thành công khá thấp, khoảng 15%. Nguy
cơ thất bại hoặc không bền vững trong trung và dài hạn là rất cao. Điều này dẫn đến kết luận
là phải tiến hành thận trọng việc thực hiện các dự án chính phủ điện tử. "Kế hoạch lớn, bắt
đầu nhỏ, cân đo nhanh" là cách tiếp cận thích hợp.
Các khái niệm về “thí điểm” và “nguyên mẫu” là khá quan trọng trong bối cảnh này.
Phương pháp nguyên mẫu được sử dụng trong thử nghiệm một ứng dụng hoàn toàn sáng tạo
liên quan đến công nghệ mới, phương pháp thí điểm thường theo sau. Triển khai thực hiện
một dự án thí điểm trước khi lên kế hoạch triển khai quy mô lớn mang lại những lợi ích sau:
 Gỡ lỗi kỹ hơn:
Mặc dù chu trình phát triển phần mềm bao gồm cả “'gỡ lỗi” (hoặc phát hiện và loại bỏ
các lỗi lập trình logic), vẫn gặp khoảng 25% “lỗi” khi sản phẩm được đưa vào thử nghiệm
trong một lĩnh vực thực tế đời sống. Vấn đề ở đây là tuy nghiên cứu hệ thống đã sâu, người ta
không thể tưởng tượng được mọi tình huống phát sinh trong thực tế đời sống và cung cấp
chúng cho phần mềm. Vấn đề càng nghiêm trọng hơn khi phải giải quyết các quy trình chính
phủ phức tạp, và các quá trình sáng tạo mới - kết quả của tái cấu trúc quy trình kinh doanh
(BPR). Tuân thủ con đường thí điểm sẽ mang lại lợi ích từ việc khu trú các tác dụng phụ, ví
dụ sự nhầm lẫn của người sử dụng, sự mất niềm tin vào hệ thống mới, thiệt hại tài chính hoặc
sai sót trong cung cấp dịch vụ do các các lỗi logic phần mềm, v.v. giữ cho các khu vực thí
điểm nằm trong điều kiện kiểm soát được.
 Một sản phẩm sáng tạo hơn:
Cũng như trong trường hợp một vài “lỗi” không được nhắc tới xuất hiện trong thời gian
triển khai thí điểm, một số lượng lớn các đề xuất cải tiến và đổi mới nhận được, chủ yếu từ
người dùng (nhân viên) và khách hàng trong giai đoạn thí điểm.
Những đề nghị của người dùng nội bộ (nhân viên) ở giai đoạn này là sâu sắc và thực tế
hơn khi họ xuất phát từ kinh nghiệm thực tế xử lý hệ thống thực hiện một dịch vụ cụ thể,
trong cả hai hệ thống truyền thống và mới. Mặt khác, những đề nghị của các nhân viên trong
giai đoạn thiết kế và phát triển được dựa chủ yếu vào trí tưởng tượng của họ về những gì
công nghệ có thể làm và việc cung cấp dịch vụ mới nên như thế nào. Các phản hồi người
dùng/khách hàng trong giai đoạn thí điểm góp phần cải thiện khoảng 40% trong logic kinh
doanh của dự án chính phủ điện tử đổi mới.
Điều chỉnh sớm hướng đi hoặc quyết định “đi tiếp/không đi tiếp”: Có rất nhiều điều
không thể cân nhắc trong một dự án chính phủ điện tử, chẳng hạn như:
 Các dịch vụ được lập kế hoạch có thực sự cần thiết?
 Logic kinh doanh mới có thực sự tham gia vào tái cấu trúc quá trình kinh doanh, có
được nắm bắt đúng trong phần mềm?
 Các phần cứng, phần mềm và mạng có hoạt động hài hòa không hoặc còn có sự
không tương thích?
 Hiệu suất và thời gian đáp ứng thực tế có thỏa đáng không?
 Kinh nghiệm người sử dụng có thỏa mãn không?
 Chi phí cho mỗi giao dịch như thế nào và là nó có nằm trong giới hạn chấp nhận được
khi quy mô dự án được vận hành đầy đủ để có ý nghĩa kinh tế hay không?
Câu trả lời cho các câu hỏi trên sẽ cung cấp cho các nhà quản lý dự án cơ hội thực hiện
đánh giá sơ bộ liệu các dự án có khả năng: (a) thành công trong việc cung cấp những lợi ích
dành cho nhóm đối tượng, hoặc (b) chỉ một phần thành công, hoặc (c) thất bại. Điều này sẽ
cho phép quyết định “đi tiếp hay không đi tiếp” trước khi các quỹ lớn cam kết triển khai toàn
bộ dự án. Trong trường hợp đánh giá cho thấy khả năng thành công một phần, có thể thiết kế
các điều chỉnh thích hợp cần thiết để đảm bảo rằng dự án sẽ hoàn toàn thành công khi triển
khai đầy đủ.
Cách tiếp cận thí điểm sẽ, do đó, sẽ cải thiện đáng kể các cơ hội thành công và khả năng
hoàn vốn đầu tư của dự án chính phủ điện tử.
Phạm vi thí điểm của một dự án chính phủ điện tử phải được xác định một cách cẩn thận,
bởi vì sự thành công và thất bại của toàn bộ dự án phụ thuộc vào nó. Các hướng dẫn sau rất
hữu ích trong vấn đề này:
- Kích cỡ của dự án thí điểm:
Quy mô của dự án thí điểm phải đủ lớn để tạo ra kết quả, dựa trên trên việc các kết luận
đáng tin cậy nào có thể được rút ra từ sự sự thành công hay thất bại của dự án và/hoặc các
điều chỉnh phương hướng nào có thể được áp dụng. Các dự án thí điểm phải mở rộng tới các
đơn vị lãnh thổ của đại diện các tổ chức nằm ở các cấp độ khác nhau trong hệ thống phân cấp
tổ chức. Thông thường, quy mô của dự án thí điểm vào khoảng 5% vùng lãnh thổ hoặc các
các đơn vị có quyền tài phán của tổ chức.
- Chức năng của dự án thí điểm: các hệ thống chính phủ điện tử bao gồm một hệ
thống cốt lõi, một lớp ứng dụng và lớp trình diễn. Cốt lõi bao gồm hệ điều hành (OS), máy
chủ cơ sở dữ liệu, máy chủ ứng dụng và an ninh. Lớp ứng dụng bao gồm một tập hợp các
chương trình có chứa logic kinh doanh và hoạt động như một trung gian giữa lõi và lớp trình
diễn. Lớp trình diễn cho phép người dùng tương tác với hệ thống bằng cách chuyển các yêu
cầu đến lõi và đảm bảo các dịch vụ mong muốn.
 Một mô hình kinh doanh tin cậy hơn
Sự phát triển của chính phủ điện tử chưa đạt tới giai đoạn mà có thể mang lại cho người
nào đó một ưu tiên, một khả năng kinh tế và tính bền vững của một dự án cụ thể hoặc một
sáng kiến từ các dữ liệu thực nghiệm. Trong hoàn cảnh này, các dự án thí điểm cho những dữ
liệu đáng tin cậy hơn về các yếu tố như tổng vốn đầu tư cần thiết cho triển khai, chi phí định
kỳ, khối lượng giao dịch có thể, chi phí cho mỗi giao dịch, lợi tức đầu tư (ROI), v.v. Điều này
đặc biệt quan trọng trong bối cảnh xu hướng ngày càng tăng trong việc thực hiện các dự án
chính phủ điện tử trên cơ sở hợp tác công - tư, hay mô hình PPP. Các đối tác khu vực tư nhân
sẽ cần phải được đảm bảo về một ROI rõ ràng trước khi đầu tư tiếp tục triển khai dự án.
Tóm lại, việc áp dụng phương pháp tiếp cận dự án thí điểm cho phép chúng ta đánh giá
các yếu tố nhất định chính xác hơn. Các yếu tố này chưa rõ ràng ở giai đoạn dự án được hình
thành, như (a) sự có thể thành công hay thất bại của các dự án chính phủ điện tử, (b) tính
đúng đắn của logic kinh doanh và kiến trúc công nghệ được chấp nhận, (c) các khoản đầu tư
cần thiết cho việc triển khai, và (d) các mô hình kinh doanh. Dự án thí điểm cũng cho phép
chúng ta áp dụng chỉnh sửa đường hướng triển khai.
Phương pháp luận triển khai liên quan đến dự án thí điểm đầu tiên và triển khai rộng sau
đó đặt ra một số vấn đề với các nhà quản lý dự án trên góc độ các quá trình mua sắm thích
hợp có thể áp dụng.
1.6. Nguyên tắc 6: Tập trung nhiều hơn vào con người, ít hơn vào các hệ thống
Cuối cùng, những lợi ích của chính phủ điện tử sẽ được chuyển giao bởi con người - đó
có thể nằm ở tiền diện hoặc hậu diện của các cơ quan chính phủ. Công nghệ thông tin có thể
làm giảm đáng kể sự can thiệp của con người, nhưng không thể loại bỏ hoàn toàn. Các nhân
viên của tổ chức đóng một vai trò quan trọng trong sự thành công của một dự án chính phủ
điện tử. Nếu không có cam kết của họ, dự án có thể bị đổ vỡ một khi nào đó với cách thức
nào đó. Những góc độ con người quan trọng cho sự thành công của một dự án chính phủ điện
tử là: sự tham gia, thay đổi tư duy, năng lực và sở hữu.
Chúng ta đã đề cập đến tầm quan trọng của sự tham gia của các nhân viên trong một tổ
chức trong bối cảnh thiết kế và phát triển nội dung đáp ứng các mục tiêu của dự án và thân
thiện người dùng. Điều này áp dụng như nhau cho tất cả các giai đoạn khác trong thực hiện
một dự án chính phủ điện tử. Một nỗ lực có ý thức phải được thực hiện bởi các nhà quản lý
dự án, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của dự án, để tạo ra một ý thức tham gia mạnh mẽ của
nhân viên ở các cấp cơ bản khác nhau trong tổ chức.
Thay đổi tư duy là điều quan trọng tiếp theo đối với mỗi người. Nếu nhân viên cảm thấy
rằng dự án là không hữu ích cho tổ chức hoặc khách hàng của họ, sự tiến bộ sẽ chậm chạp và
dự án sẽ trở nên không thích hợp trong một khoảng thời gian. Xu hướng bình thường ở con
người là chống lại sự thay đổi, nhận thức về mối đe dọa đến sự tồn tại và mất đi quyền lực
hoặc cơ hội, đặc quyền đặc lợi, và nỗi sợ hãi về sự không rõ ràng là những nguyên nhân
thông thường nhất cản trở thay đổi tư duy. Một nửa chiến thắng nằm trong trong tâm trí của
các nhà ra quyết định quan trọng và các nhà quản lý tổ chức!
Xây dựng năng lực là chiến dịch tiếp theo trên mặt trận con người. Chính phủ điện tử,
bởi bản chất của nó, được kỳ vọng sẽ mang lại sự thay đổi trong các quá trình lâu dài, nhiều
thuật ngữ mới, tên thiết bị mới trước đó chưa từng nghe tới. Phân tích nhu cầu đào tạo, tiến
hành đào tạo, hội thảo và các chuyến đi thực địa tại các dự án tương tự được thực hiện ở các
nơi khác là một số trong những kỹ thuật được sử dụng để xây dựng năng lực.
Sự tham gia, quản lý sự thay đổi và xây dựng năng lực trong quyền làm chủ dự án được
chuyển cho những người thực hiện dự án, trở thành một phần của văn hóa tổ chức và đôi khi
tạo ra một nền văn hóa tổ chức mới. Giai đoạn này đảm bảo tính bền vững của dự án.
Việc chuyển giao các quyền lợi của chính phủ điện tử cho công dân xảy ra nhất thiết phải
thông qua con người và, do vậy, nên tập trung vào việc chuẩn bị con người trở thành người
chuyển giao các lợi ích, hơn là việc tạo ra một môi trường nơi mà các tiện ích của công nghệ
thông tin được cho là chiếm vị trí trung tâm.
Sáu quy tắc quan trọng trình bày ở trên được xây dựng thông qua việc đối sánh hai khái
niệm hoặc vấn đề với nhau. Đây chỉ là cách thức để đạt được mục đích một cách mạnh mẽ
hơn. Đó là đặt con ngựa trước xe và đưa ra các ưu tiên tương đối giữa hai tập hợp hoạt động
chính phủ điện tử. Không nên cho rằng các hệ thống máy tính và các vấn đề công nghệ sẽ
được coi là nền tảng khi triển khai chính phủ điện tử.
1.7. Các nguyên tắc khác
Bên cạnh 6 nguyên tắc nêu trên, chúng ta có thể kể đến một vài nguyên tắc sau:
 Tập trung nhiều hơn vào mã nguồn mở, ít hơn vào mã nguồn đóng
 Chính phủ điện tử là chính phủ nối mại không phải chính phủ hợp nhất
 Chính phủ điện tử cung cấp dịch vụ công đa kênh
 ….
2. Các bước xây dựng và triển khai chính phủ điện tử
Chính phủ các nước có các chiến lược khác nhau để xây dựng Chính phủ điện tử. Một số
nước lập ra các kế hoạch dài hạn trên mọi lĩnh vực, một số lại tập trung vào một vài lĩnh vực
khi bắt đầu dự án xây dựng Chính phủ điện tử. Tuy nhiên, hầu hết các nước đang xây dựng
thành công Chính phủ điện tử chọn cách chia dự án phát triển Chính phủ điện tử làm 3 giai
đoạn nhỏ. Các giai đoạn này không phụ thuộc lẫn nhau, tức là không cần phải giai đoạn này
hoàn thành thì giai đoạn kia mới bắt đầu.
2.1. Xây dựng mục tiêu chính phủ điện tử
Để xây dựng mục tiêu CPĐT, đầu tiên phải xây dựng tầm nhìn CPĐT.
Tầm nhìn cho Chính Phủ điện tử là tuyên bố cho mục tiêu dài hạn và trung hạn về tổng
quát của Chính phủ điện tử nhằm cung cấp một kim chỉ nam và hướng dẫn cho các hoạt động
của Chính phủ điện tử
Các yêu cầu đối với tầm nhìn Chính Phủ điện tử:
 Tuyên bố phải rõ ràng, đơn giản
 Tuyên bố rõ điều gì cần phải đạt được
 Xem xét đến nhu cầu và cơ hội
 Cần dựa trên các chiến lược của quốc gia
 Tham khảo ý kiến các bên liên quan
Ngoài tầm nhìn CPĐT, để xây dựng chiến lược CPĐT phải xây dựng một tuyên bố sứ
mệnh CPĐT. Sứ mệnh CPĐT khác với tầm nhìn ở chỗ nó không tập trung vào một trạng thái
ước nguyện tương lai của tổ chức, mà xác định một tuyên bố cốt lõi liên quan đến mục đích,
giá trị và chuẩn mực đạo đức của CPĐT.
Các mục tiêu chính phủ điện tử đưa ra hướng phát triển chính phủ điện tử, được xây
dựng dựa trên tầm nhìn và sứ mệnh CPĐT. Mục tiêu chiến lược CPĐT thường bao gồm:
 Phát triển kinh tế xã hội sử dụng ICT
 Cung cấp hiệu quả dịch vụ công chất lượng, dễ truy cập và chấp nhận được
 Hoàn thiện năng lực của Chính phủ trong quá trình quản lý và ra quyết định
 Thỏa mãn các bên liên quan bằng giải pháp hiệu quả, giảm chi phí
 Điều phối một chính sách minh bạch.
Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về CPĐT đã nêu rõ mục tiêu:
“Đẩy mạnh phát triển CPĐT, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà
nước, phục vụ người dân và DN ngày càng tốt hơn. Nâng vị trí của Việt Nam về CPĐT theo
xếp hạng của Liên hợp quốc. Công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước trên
môi trường mạng”.
Tiếp đó, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 về một số nhiệm
vụ, giải pháp trọng tâm phát triển CPĐT giai đoạn 2019-2020, định hướng đến 2025 cũng đã
xác định mục tiêu: “Hoàn thiện nền tảng CPĐT nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của bộ máy hành chính nhà nước và chất lượng phục vụ người dân, DN; phát triển CPĐT dựa
trên dữ liệu và dữ liệu mở hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số; bảo đảm an
toàn thông tin và an ninh mạng”.
Các mục tiêu cụ thể của chiến lược CPĐT là các mục tiêu đo lường được và gắn kết với
các chương trình và dự án. Các mục tiêu cụ thể xác định:
 Hành động cụ thể
 Quy mô hành động
 Nhiệm vụ của hành động
 Thời gian của hành động
2.2. Phân tích tình huống chính phủ điện
Phân tích tình huống là nội dung cơ bản trong phát triển chiến lược chính phủ điện tử, do
vậy cần phải đặc biệt chú ý.
Nội dung phân tích tình huống chính phủ điện tử thể hiện trong hình

Bảng các yếu tố của phân tích tình huống chính phủ điện tử
Phân tích tình huống bên trong bao gồm phân tích nội lực, năng lực, quy trình cũng như
các hoạt động và hành vi của các nhà cung cấp dịch vụ điện tử tương tự. Phân tích tình huống
bên ngoài đề cập đến việc phân tích hệ thống chính phủ điện tử từ góc độ vĩ mô và từ góc độ
vi mô. Trong khi môi trường vi mô đề cập đến việc điều tra nhu cầu của các bên liên quan và
hành vi của nhà cung cấp dịch vụ, thì cấp độ vĩ mô liên quan đến việc phân tích cấu trúc nhu
cầu và các điều kiện pháp lý.
Phân tích bên trong hướng đến năng lực và nguồn lực của tổ chức. Phân tích này cố gắng
xác định các nguồn lực và năng lực liên quan đến nhu cầu của bản thân tổ chức.
Trong bối cảnh này, các nguồn lực được hiểu là các yếu tố cần thiết để cung cấp các dịch
vụ điện tử tương ứng (ví dụ: con người, CNTT) và năng lực kết hợp các yếu tố đó cho phép
kết hợp giá trị gia tăng của các tài nguyên (ví dụ: kỹ năng, kiến thức cụ thể ). Ở đây, các năng
lực cốt lõi cần thiết cho việc cung cấp dịch vụ của một tổ chức có tầm quan trọng đặc biệt.
Trong bước tiếp theo của phân tích tình huống chính phủ điện tử, năng lực và nguồn lực
của các nhà cung cấp dịch vụ điện tử khác cần được nghiên cứu tương tự và tích hợp vào
phân tích. Các nhà cung cấp dịch vụ điện tử khác là các tổ chức tư nhân và công cộng cung
cấp các dịch vụ điện tử tương đương (ví dụ: nhà cung cấp cổng thông tin thành phố, nhà cung
cấp cộng đồng). Hành vi và hoạt động đáp ứng nhu cầu của người dùng của họ là điều tối
quan trọng để xác định các mục tiêu chiến lược riêng. Do đó, tất cả các nhà cung cấp dịch vụ
điện tử có liên quan cần được phân tích càng sâu càng tốt, lên quan tới mục tiêu, chiến lược
và năng lực của họ.
Kết quả của phân tích bên trong, bao gồm năng lực/nguồn lực và phân tích nhà cung cấp,
có thể được chuyển thành phân tích điểm mạnh/điểm yếu theo định hướng tổ chức, cho thấy
tác động kéo theo năng lực tiềm ẩn mà tổ chức chính phủ điện tử hiện tại có thể tạo ra trong
phạm vi ảnh hưởng của nó . Mục đích của phân tích điểm mạnh điểm yếu là xác định và đánh
giá những ưu điểm và nhược điểm hiện có so với các nhà cung cấp khác để đưa ra phạm vi
hành động hợp lý.
Liên quan đến phân tích nhu cầu, các nhu cầu, đòi hỏi và hành vi của các bên liên quan
phải được nghiên cứu vì chúng ảnh hưởng đến nhu cầu một cách cơ bản. Bước này nhằm tạo
ra sự minh bạch để đạt được cách tiếp cận hướng đến các bên liên quan, có tính đến các yêu
cầu cụ thể của họ. Khi xem xét phân tích môi trường, mục tiêu của nghiên cứu là xác định các
điều kiện có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến tổ chức. Các phát hiện về phân tích môi
trường và phân tích nhu cầu được tóm tắt trong phân tích cơ hội - rủi ro, phát hiện ra những
khả năng phát triển một tác động đẩy.
Cuối cùng, việc so sánh giữa phân tích cơ hội - rủi ro và phân tích điểm mạnh điểm yếu
cho phép đánh giá tình hình của tổ chức từ bên trong và từ bên ngoài. Thông tin này thiết lập
cơ sở hợp lý và toàn diện để lựa chọn các phương án chiến lược cơ bản cho hệ thống chính
phủ điện tử.
2.3. Xây dựng chiến lược chính phủ điện tử
Bước thứ ba của kế hoạch mục tiêu chính phủ điện tử là xây dựng chiến lược chính phủ
điện tử. Kết quả đạt được của các phân tích đã tiến hành trước đây liên quan đến tình hình
của tổ chức, cho phép xác định chiến lược chính phủ điện tử dự kiến. Với mục đích này, cần
phải nhận thức được các lựa chọn chính phủ điện tử chiến lược chung sẵn có - cách dịch vụ
điện tử có thể được cung cấp một tiếp cận chiến lược như thế nào nhằm đánh giá hợp lý và
xác định chiến lược cuối cùng trong các giai đoạn tiếp theo.
Theo Porter (1985), có những chiến lược thị trường và chiến lược cạnh tranh tổng quát
mà các tổ chức thành công luôn tuân theo. Chuyển sang môi trường chính phủ điện tử, điều
này có nghĩa là các nhà quản lý công nên xem xét chiến lược cung và cầu để đạt được kết quả
chính phủ điện tử thành công. Trong bối cảnh này, chiến lược cầu liên quan đến các quy trình
mà một tổ chức lựa chọn để thỏa mãn nhu cầu của các bên liên quan và chiến lược cung cấp
đề cập đến trọng tâm mà một tổ chức tập trung thực hiện nhằm đạt được lợi thế cạnh tranh.
Chiến lược nhu cầu chủ yếu liên quan tới vấn đề dịch vụ điện tử nào sẽ được cung cấp và
các bên liên quan nào sẽ được đề cập. Ngược lại, chiến lược cung cấp dịch vụ nhằm đạt được
lợi thế cạnh tranh thông qua việc đạt hiệu quả cao hơn các nhà cung cấp khác hoặc thông qua
sự khác biệt hoá các dịch vụ điện tử của họ so với các nhà cung cấp dịch vụ điện tử khác. Do
đó, sẽ là hợp lý khi thực hiện theo một trong ba lựa chọn chiến lược phù hợp, được tóm tắt
trong hình.

 Chiến lược tập trung


Trong khuôn khổ của chiến lược tập trung, hệ thống chính phủ điện tử được đặt ra cho
một khu vực hoặc một hệ thống các dịch vụ điện tử cụ thể, trong đó tổ chức cố gắng đạt được
vị trí dẫn đầu trong lĩnh vực của mình. Hình thức chiến lược này cho phép đạt được hiệu quả
hoặc lợi thế khác biệt. Chiến lược tập trung có thể có ý nghĩa trong các môi trường phức tạp
và đổi mới nếu các năng lực cốt lõi của tổ chức tạo điều kiện cho vị trí dẫn đầu trong giai
đoạn giá trị tương ứng.
Lựa chọn chiến lược này có thể được xem như một bước chuyển tiếp đối với các cơ quan
công quyền nhanh chóng giải quyết các nhu cầu cụ thể của các bên liên quan để tạo ra lưu
lượng dịch vụ điện tử trên máy chủ của họ. Chiến lược này được nhiều doanh nghiệp Internet
sử dụng trong giai đoạn đầu. Một ví dụ nổi tiếng về trường hợp này là Google hoặc Yahoo,
trước tiên chỉ cung cấp một công cụ tìm kiếm để đạt được sự hiện diện trên thị trường trước
khi triển khai các dịch vụ điện tử khác, chẳng hạn như tin tức, email, tài chính hoặc dịch vụ
định vị.
 Chiến lược tích hợp
Chiến lược tích hợp - trái ngược với chiến lược tập trung – hướng tới mục tiêu mở rộng
phạm vi dịch vụ điện tử. Chiến lược này có thể được thực hiện thông qua sự phát triển độc
lập sử dụng nguồn lực bên trong, thuê ngoài hoặc kết hợp cả hai nhằm phát triển các dịch vụ
mới (mở rộng bên trong) hoặc mua lại các nhà cung cấp hiện tại (mở rộng bên ngoài).
Chiến lược này có thể được sử dụng để khai thác năng lực cốt lõi hiện có của tổ chức và
giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung cấp khác. Trong trường hợp chính phủ điện tử, chiến
lược tích hợp chủ yếu nhằm hội nhập theo chiều ngang, mở rộng phạm vi dịch vụ điện tử trên
các đối tượng hành chính khác nhau. Hiện nay, có thể nhận thấy sự phát triển mạnh mẽ và mở
rộng các dịch vụ điện tử công cộng từ các nhà cung cấp tư nhân và công cộng khác nhau.
Chiến lược mạng lưới
Bên cạnh chiến lược tập trung và tích hợp, chiến lược mạng là một lựa chọn chiến lược
bổ sung. Nguyên tắc cơ bản của các chiến lược mạng là sự hình thành của hai hoặc nhiều tổ
chức hợp tác làm việc cùng nhau trên một dịch vụ hoặc quy trình cụ thể. Các hình thức này
có thể được quan sát thấy theo chiều ngang, chiều dọc và chiều sâu. Các tổ chức hợp tác theo
chiều ngang được gọi là liên minh chiến lược, trong khi các tổ chức hợp tác theo chiều dọc và
chiều sâu được gọi là mạng lưới chiến lược. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, các tổ chức
vẫn độc lập về mặt pháp lý.
Chiến lược mạng lưới cho phép các tổ chức hưởng lợi từ cả chiến lược tập trung và tích
hợp. Thứ nhất, vì các đối tác mạng khác nhau có thể tập trung, phát triển và mang lại năng
lực cốt lõi của họ và thứ hai, bởi vì cấu trúc mạng lưới hỗ trợ sự tích hợp của các nhà cung
cấp dịch vụ chuyên môn hoá có kỹ năng cao hơn. Hơn nữa, chiến lược
mạng lưới cho phép các tổ chức bắt kịp tốc độ đổi mới ngày càng tăng do phát triển dịch
vụ hoặc sản phẩm có thể được đảm nhận bởi nhiều đối tác hợp tác với nhau.
Bên cạnh những cơ hội, chiến lược mạng lưới cũng mang theo những rủi ro, chẳng hạn
như mất bí quyết công nghệ, sự tự do hành động của các đối tác hoặc hành vị không thể đoán
trước của các tổ chức cạnh tranh. Ngoài ra, mạng lưới có xu hướng không ổn định, có thể dẫn
đến sự không chắc chắn giữa các tổ chức liên quan và có thể làm phức tạp sự hợp tác và hợp
tác giữa các đối tác về lâu dài.
Các chiến lược tổng hợp, tập trung, tích hợp và mạng lưới có nhiều lợi thế khác nhau,
nhưng cũng có thể làm nảy sinh các vấn đề và khó khăn nếu không được áp dụng một cách
hợp lý. Do đó, việc xác định và đánh giá các lựa chọn chiến lược cần phải dựa trên cơ sở
phân tích tình huống hiện tại, toàn diện và được tiến hành rất cẩn thận, có tính đến các yếu tố
bên trong và bên ngoài liên quan và phù hợp. Đây là công việc nền móng quan trọng cho việc
lựa chọn chiến lược chính phủ điện tử.
2.4. Triển khai, kiểm soát chiến lược chính phủ điện tử
Sau khi xây dựng chiến lược chính phủ điện tử, bước tiếp theo của kế hoạch mục tiêu
chính phủ điện tử là triển khai chiến lược chính phủ điện tử. Bước này nhằm thực hiện chiến
lược chính phủ điện tử đã xác định trước đó và theo đuổi các mục tiêu dự kiến của chiến lược
chính phủ điện tử. Hình sau minh họa các giai đoạn triển khai, kiểm soát chiến lược chính
phủ điện tử
 Giai đoạn lập kế hoạch
Giai đoạn lập kế hoạch nhằm xác định các mục tiêu chính của việc triển khai chiến lược
chính phủ điện tử. Ngoài đặc điểm kỹ thuật của tiến trình triển khai, dữ liệu về chi phí trong
các quyết định cụ thể liên quan đến ngân sách, thời hạn, lịch trình, nguồn lực và các mốc
quan trọng được đánh giá trong giai đoạn này.
Có nhiều công cụ khác nhau, như sơ đồ mạng hoặc lịch trình công việc chi tiết, để triển
khai các kế hoạch này. Do nỗ lực lập kế hoạch gắn liền với việc hiện thực hóa hoặc triển khai
các khái niệm chiến lược chính phủ điện tử, việc xử lý hiệu quả vấn đề này thường đòi hỏi sự
hỗ trợ đầy đủ về CNTT. Do đó, các nguồn lực tương ứng cũng phải được xem xét.
 Giai đoạn thực hiện
Trong giai đoạn này, các mục tiêu chiến lược và các phương pháp thực hiện tương ứng
cần được thông báo trước. Ví dụ, thông báo sớm về những vấn đề này có thể hỗ trợ sự chấp
nhận chiến lược chính phủ điện tử đang theo đuổi giữa các nhân viên hành chính công bị ảnh
hưởng.
Sau khi các cấu trúc cơ bản để thực hiện chiến lược đã được tạo ra, một nhóm dự án phải
được tập hợp lại với nhau được giao nhiệm vụ thực hiện các kế hoạch thực hiện chiến lược
chính phủ điện tử. Trong bối cảnh trực tuyến, tuyển dụng các chuyên gia kỹ thuật có đủ trình
độ chuyên môn về mạng, web và CNTT là một điều khoản bắt buộc. Do đó, nhóm dự án cần
bao gồm những người có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm và kỹ năng phù hợp về chính
phủ điện tử.
Quá trình cốt lõi của giai đoạn thực hiện là việc triển khai thực tế các kế hoạch thực hiện
chiến lược chính phủ điện tử trong các tổ chức khu vực công. Giai đoạn này của quá trình
phát triển chiến lược chính phủ điện tử phản ánh sự chuyển đổi từ giai đoạn lập kế hoạch
sang giai đoạn thực hiện.
 Giai đoạn kiểm soát
Trong giai đoạn này cần đánh giá việc thực hiện các mục tiêu dự kiến của chính phủ điện
tử. Kết quả thực hiện cũng như tiến độ dự án cần được đo lường, kiểm tra và phân tích rõ
nguyên nhân.
3. Tài sản cốt lõi và năng lực cốt lõi cho chính phủ điện tử
3.1. Tài sản cốt lõi và năng lực cốt lõi
Trong lý thuyết quản lý cổ điển, tài sản cốt lõi và năng lực cốt lõi đã mang lại cho các
công ty lợi thế cạnh tranh bền vững, dẫn đến việc đạt được lợi nhuận vượt trội trong dài hạn.
Lợi thế cạnh tranh là khả năng mà doanh nghiệp có thể tạo ra giá trị của sản phẩm và
dịch vụ cao hơn cho khách hàng so với sản phẩm tương đương của đối thủ cạnh tranh. Hơn
nữa, lợi thế cạnh tranh trong khu vực tư nhân làm cho sản phẩm và dịch vụ tốt hơn, vượt trội
hơn từ đó nhu cầu sẽ tăng lên. Như Jack Welch, cựu CEO của General Electric đã nói: “Nếu
bạn không có lợi thế cạnh tranh, đừng cạnh tranh.”
Trong khu vực công cộng, khái niệm về lợi thế cạnh tranh cho phép tổ chức tương ứng
tạo ra các dịch vụ tốt hơn, ưu việt hơn và cung cấp các dịch vụ của mình đối với xã hội, xã
hội có giá trị cao hơn cho công chúng. Ngoài ra, lợi thế cạnh tranh trở thành một yếu tố quan
trọng đối với hành chính công vì những lý do khác nữa, chẳng hạn như yêu cầu về hiệu quả
của công chúng và chính phủ, dịch vụ chung, tiến hành các quá trình tư nhân hóa, duy trì và
tăng niềm tin của người dân vào chính phủ.
Trong trường hợp chính phủ điện tử, điều này đặc biệt quan trọng vì các nhà cung cấp
chính phủ phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ khu vực tư nhân (ví dụ: các cổng
thông tin dịch vụ du lịch hoặc thông tin thành phố do tư nhân quản lý) hoặc phải đối phó với
sự không hài lòng hoặc từ bỏ giao dịch của người dùng ( ví dụ: người dùng không muốn sử
dụng dịch vụ cung cấp dịch vụ điện tử nữa và có thể chuyển sang nhà cung cấp hoặc kênh
dịch vụ khác.)
Hơn nữa, bất lợi cạnh tranh địa phương sẽ dẫn đến việc cung cấp dịch vụ chính phủ điện
tử phải tập trung cao độ, dẫn đến giảm các hoạt động và nguồn lực của địa phương. Đồng
thời, chính phủ điện tử phải đối mặt với sự cạnh tranh trong nội bộ kênh vì nó sẽ có những lợi
ích so với chính phủ trạng thái cũ (ví dụ: các chuyến thăm trực tuyến của cơ quan hành chính
nhà nước để giải quyết các vấn đề hành chính) nhằm thu hút người sử dụng để cung cấp dịch
vụ trực tuyến.
Tóm lại, lợi thế cạnh tranh cũng rất quan trọng đối với khu vực công. Tuy nhiên, tính đến
tính chất của chính phủ điện tử, khái niệm này được gọi là lợi thế của chính phủ điện tử. Lợi
thế này có thể đạt được thông qua việc xác định và quản lý hiệu quả tài sản cốt lõi và năng
lực cốt lõi.
Tài sản cốt lõi là những tài sản hữu hình và vô hình đóng vai trò trung tâm trong việc
thiết lập và tiếp thị các dịch vụ trực tuyến của chính phủ điện tử. Trong trường hợp của các tổ
chức thuộc khu vực công, các tài sản này bao gồm nhân viên, dữ liệu, cơ sở hạ tầng công
nghệ.
Năng lực cốt lõi bổ sung cho các tài sản cốt lõi và mô tả khả năng của tổ chức khu vực
công, đặc biệt là khả năng của đội ngũ nhân viên và quản lý của tổ chức đó để kết hợp tài sản
của tổ chức với tài sản cốt lõi nhằm mang lại lợi ích cho người dùng. Ví dụ về năng lực cốt
lõi của các tổ chức khu vực công trong bối cảnh chính phủ điện tử là khả năng quản lý mối
quan hệ người dùng một cách nổi trội hoặc năng lực khác biệt về công nghệ và lập trình.
Nếu các tài sản cụ thể của tổ chức đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong chuỗi giá
trị của tổ chức thì chúng được gọi là tài sản cốt lõi. Tuy nhiên, tài sản chỉ có thể được xếp vào
loại tài sản cốt lõi nếu chúng có giá trị tạo ra khan hiếm trên thị trường và không dễ bắt chước
hoặc thay thế. Nếu không, chúng không thể tạo ra tiềm năng lợi thế bền vững của chính phủ
điện tử. Trên cơ sở này, có thể xác định bản chất tài sản và tài sản cốt lõi liên quan đến các tổ
chức khu vực công.
3.2. Xác định tài sản và tài sản cốt lõi liên quan đến chính phủ điện tử
Tài sản hữu hình và vô hình là nền tảng cho các hoạt động và khả năng cạnh tranh của
một tổ chức công. Tài sản cốt lõi liên quan đến tài sản cụ thể của tổ chức khu vực công được
tích lũy tại tổ chức và có giá trị nội tại đặc biệt cho quá trình tạo ra giá trị của tổ chức công.
Chúng tương đối khan hiếm và khó bắt chước hoặc thay thế. Các tài sản cốt lõi tạo nền tảng
cho lợi thế bền vững của chính phủ điện tử.
Tiếp cận dựa trên nguồn lực kế thừa những nguyên lý cơ bản của thị trường các yếu tố
sản xuất không hoàn hảo. Bối cảnh lý thuyết này là điều kiện tiên quyết cho sự không đồng
nhất về tài sản của các tổ chức, làm nền tảng cho phương pháp tiếp cận lý thuyết dựa trên
nguồn lực. Theo lý thuyết này, lợi nhuận trên trung bình chỉ có thể đạt được nếu giá trị của
một tài sản tổ chức có được vượt quá chi phí của nó.
Ngoài các thị trường yếu tố sản xuất không hoàn hảo, thường không có thị trường yếu tố
đặc biệt đối với các tài sản mang tính đặc biệt cao hoặc các tài sản vô hình của tổ chức. (Ví
dụ: niềm tin của người dân không thể mua được trên thị trường mà chỉ có thể xây dựng trong
quá trình cung cấp dịch vụ chất lượng cao lâu dài.) Những tài sản tích lũy nội bộ như vậy
thường có tầm quan trọng lớn hơn nhiều đối với sự thành công của tổ chức so với các yếu tố
thị trường có thể mua được. Vì những tài sản cốt lõi mang tính đặc thù tổ chức cao, rất khó
bắt chước và thay thế, chúng thường phản ánh tiềm năng khác biệt lớn nhất.
Các tài sản cốt lõi liên quan đến chính phủ điện tử của các tổ chức công, ví dụ các liên
minh và mạng riêng, dữ liệu hiện có và thu nhận được, đội ngũ nhân viên, nền tảng CNTT và
cơ sở hạ tầng công nghệ.
Bằng cách xây dựng các liên minh độc quyền với các nhà cung cấp tính năng độc đáo
của các dịch vụ trực tuyến để thu hút người dùng đến với nền tảng chính phủ điện tử và duy
trì họ sử dụng. Các tổ chức công cũng có khả năng tạo ra các liên minh và mạng lưới độc
quyền trong khu vực công mà các đối thủ cạnh tranh từ khu vực tư nhân khó có thể bắt
chước.
Hơn nữa, phần lớn các dữ liệu hiện có và thu nhận được trong các tổ chức công là
không trực tiếp có sẵn hoặc hoàn toàn không thể truy xuất được từ khác nguồn khác.
Do đó, ứng dụng thông minh của dữ liệu này có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh cho chính phủ
điện tử.
Các nhân viên của một tổ chức công là những người có liên quan đến bí quyết và
năng lực, rất cần thiết cho việc tạo ra giá trị. Vì kiến thức và chuyên môn tiềm ẩn của họ
hiếm khi có sẵn trên thị trường và khó bắt chước, nhân viên là tài sản cốt lõi của tổ chức
công.
Nền tảng CNTT là giao diện giữa những người dùng chính phủ điện tử và nhà cung cấp
cũng như cơ sở hạ tầng công nghệ cung cấp xương sống cho hoạt động của hệ thống
chính phủ điện tử là tài sản cốt lõi của các tổ chức công.
3.3. Xác định năng lực và năng lực cốt lõi liên quan đến chính phủ điện tử
Năng lực tạo thành nền tảng cho các hoạt động tập thể trong một tổ chức công và tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình tạo dịch vụ, trong đó tài sản và tài sản cốt lõi được kết hợp
vào các dịch vụ có giá trị.
Năng lực cốt lõi là tài sản vô hình, là nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh mà khó có thể
bắt chước, là yếu tố chủ chốt tạo ra lợi ích cho người tiêu dùng. Năng lực cốt lõi được hình
thành trải qua quá trình tích lũy và học hỏi tập thể, đặc điểm trong quá trình hợp tác, trao đổi
kiến thức và kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh và dùng kết hợp nhiều loại công nghệ
khác nhau.
Năng lực cốt lõi là một dạng năng lực đặc biệt, chúng tương đối khan hiếm và không cho
phép đối thủ bắt chước hoặc thay thế. Năng lực cốt lõi đóng góp đáng kể vào lợi ích mà
người dùng nhận thấy và cung cấp cho các tổ chức một lợi thế chính phủ điện tử bền vững.
Năng lực tự động hóa và xử lý dữ liệu cũng như năng lực sáng tạo nội dung có vai trò
quan trọng đối với việc triển khai và quản lý chính phủ điện tử. Năng lực sáng tạo nội dung
bao gồm các khả năng cần thiết để sản xuất thành công nội dung thông tin đáp ứng nhu cầu
người dùng. Một hệ thống chính phủ điện tử nổi trội đòi hỏi năng lực cộng tác vì việc cung
cấp dịch vụ toàn diện thường liên quan đến sự hợp tác giữa các tổ chức hoặc đơn vị tổ chức
khác nhau.
Năng lực thiết kế trải nghiệm đề cập đến khả năng tạo ra một trải nghiệm người dùng
hài lòng khi truy cập nền tảng trực tuyến.
Năng lực công nghệ và lập trình là những khả năng không thể thiếu đối với một chính
phủ điện tử vì chúng cần thiết để thiết lập, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng CNTT có liên
quan.
Để vận hành một hệ thống chính phủ điện tử thành công đòi hỏi phải có thông tin và gói
dịch vụ khác biệt cũng như năng lực phát triển dịch vụ vì những năng lực này ảnh hưởng
trực tiếp đến việc cung cấp dịch vụ, được thiết kế để đáp ứng nhu cầu của người dùng.
Cuối cùng, quản lý mối quan hệ người dùng là một năng lực cốt lõi quan trọng vì điều
này đòi hỏi các hoạt động thu hút người dùng tới hệ thống chính phủ điện tử và duy trì cơ sở
người dùng ngày càng tăng.
⇒ Hình ảnh dưới đây mô tả tóm tắt về các tài sản cốt lõi liên quan đến chính phủ điện tử
và năng lực cốt lõi trong khu vực công. Về tài sản cốt lõi bao gồm Liên minh và mạng độc
quyền, dữ liệu có sẵn và thu được, đội ngũ nhân viên, nền tảng CNTT, cơ sở hạ tầng công
nghệ. Về năng lực cốt lõi bao gồm tự động hóa và xử lý dữ liệu, cộng tác, sáng tạo nội dung,
thiết kế trải nghiệm, kết hợp thông tin và dịch vụ, công nghệ và lập trình, phát triển dịch vụ,
quản lý mối quan hệ người dùng.Tài sản cốt lõi và năng lực cốt lõi kết hợp lại đã hình thành
ra lợi thế của chính phủ điện tử.
3.4. Phát triển năng lực cốt lõi và tài sản cốt lõi cho chính phủ điện tử
Xây dựng hoặc tháo dỡ các tài sản cốt lõi hoặc năng lực cốt lõi là bắt buộc nếu các tổ
chức bị hạn chế trong việc thích ứng các điều kiện xung quanh thay đổi. Hoạt động này đòi
hỏi phải đánh giá thường xuyên các tài sản và năng lực của một tổ chức để quyết định xem
cái nào cần được phát triển hay bị suy thoái.
Các quá trình này có thể kiểm soát bởi ban quản lý của tổ chức thông qua việc xác định
các mục tiêu và chiến lược cụ thể hỗ trợ một tài sản hoặc năng lực phát triển. Ở đây, nhu cầu
và yêu cầu của người dùng chính phủ điện tử được coi là tiêu chuẩn cho việc đánh giá liên
tục hồ sơ năng lực cốt lõi và tài sản cốt lõi. Chu trình phát triển năng lực cốt lõi và tài sản
cốt lõi được minh họa ở hình dưới đây:
Phát triển và năng lực cốt lõi trong khu vực công để đáp ứng và hỗ trợ nhu cầu ngày càng
tăng về quản lý và thiết kế chương trình và dự án đặc biệt trong trường hợp các dự án CNTT
lớn và hỗ trợ thực thi thành công của chính phủ điện tử, khai thác và tận dụng các dự án
chính phủ điện tử và tiến tới trong chương trình hiện đại.
3.5. Phân tích và quản lý tài sản cốt lõi và năng lực cốt lõi
Việc phát triển các tài sản cốt lõi và năng lực cốt lõi đòi hỏi một quy trình phân tích và
quản lý có hệ thống vì quy trình này đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành các
khuyến nghị hành động nhằm đảm bảo sự thành công trong tương lai của tổ chức.
Đầu tiên, các tài sản cốt lõi và năng lực cốt lõi có tầm quan trọng chiến lược đối với
tổ chức cần được xác định. Tại đây, các kịch bản trong tương lai có thể được phân tích để
xác định thực trạng chuỗi giá trị gia tăng lúc bấy giờ đồng thời xác định các tài sản cốt lõi có
triển vọng và năng lực cốt lõi, tức là tính động được tính đến như một vấn đề quan trọng đối
với việc đảm bảo chính phủ điện tử, và do đó, nền tảng CNTT, cơ sở hạ tầng công nghệ, công
nghệ và lập trình cũng như phát triển dịch vụ là các tài sản cốt lõi và năng lực cốt lõi triển
vọng.
Như chúng ta vừa tìm hiểu ở mục 2 và 3 tài sản cốt lõi và năng lực cốt lõi liên quan đến
chính phủ điện tử thì chúng ta có thể xác định được là Tài sản cốt lõi liên quan đến tài sản cụ
thể của tổ chức khu vực công được tích lũy tại tổ chức và có giá trị nội tại đặc biệt cho quá
trình tạo ra giá trị của tổ chức công. Chúng tương đối khan hiếm và khó bắt chước hoặc thay
thế. Năng lực cốt lõi cũng tương đối khan hiếm và không cho phép đối thủ bắt chước hoặc
thay thế.
⇒ Chính những điều đó đã cho thấy năng lực cốt lõi và tài sản cốt lõi có tầm quan trọng
chiến lược đối với tổ chức cần xác định.
Thứ hai, trạng thái mục tiêu giả định đạt được so sánh với với tài sản cốt lõi hiện tại
và hồ sơ năng lực cốt lõi để xác định các lĩnh vực hành động có liên quan. Tại đây, cần
phân tích thị trường, phát triển được các kịch bản tương lai và phát triển các tài sản và năng
lực cốt lõi tương lai có liên quan. Ví dụ nếu một tổ chức công chưa có khả năng tiếp cận các
tài sản cốt lõi và năng lực cốt lõi cần thiết để giải quyết đầy đủ vấn đề tính động đã đề cập
trên đây thì những tài sản này cần được tích cực phát triển. Theo cách tương tự, các tài sản
cốt lõi hoặc năng lực cốt lõi có thể được thuê ngoài, giảm hoặc loại bỏ hoàn toàn nếu chúng
không còn phù hợp với chiến lược hoặc hoạt động nữa.
Cuối cùng, kết quả của mục tiêu và tình hình thực tế được tổng kết và rút ra chương
trình hành động tương ứng. Chẳng hạn, các tài sản cốt lõi và năng lực cốt lõi cho thấy tầm
quan trọng trong tương lai cao nhưng trạng thái hiện tại thấp cần được nhanh chóng xây
dựng, tăng cường đầu tư và quản lý tri thức.
Tuy nhiên, các tài sản cốt lõi và năng lực cốt lõi cho thấy một bức tranh hoàn toàn trái
ngược nhau ( tầm quan trọng trong tương lai thấp nhưng trạng thái hiện tại cao nên bị loại bỏ
và loại bỏ đầu tư.). Nếu các tài sản cốt lõi cụ thể và năng lực cốt lõi đã trở nên lỗi thời ( tầm
quan trọng trong tương lai thấp và trạng thái hiện tại thấp) chúng có thể được thuê ngoài hoặc
giảm thêm.
Tuy nhiên, nếu tài sản cốt lõi và năng lực cốt lõi cho thấy ý nghĩa cao trong tương lai và
tổ chức khu vực công đã đạt được trạng thái hiện tại cao, chúng nên được duy trì và nâng cao
bằng mọi cách.
Hình dưới đây sẽ trình bày tổng quan về các quá trình phân tích và quá trình chiến lược
hành động.

Sau khi thiết lập một phương hướng chiến lược hành động rõ ràng, các tài sản cốt lõi và
năng lực cốt lõi tương ứng có thể được phát triển một cách hệ thống hoặc tháo dỡ và do đó,
được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu chính phủ điện tử của các tổ chức công. Ngoài cách
nhìn quản trị chiến lược, công nghệ thông tin - truyền thông là động lực chính cho chính phủ
điện tử, đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống chính phủ điện tử.
4. Truyền thông Marketing chính phủ điện tử
4.1. Mục đích
Nâng cao nhận thức của người dân về Chính phủ điện tử, các tiện ích cũng như cách thực
hiện trực tuyến.
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu các sở, ban, ngành, Ủy ban nhân
dân các tỉnh, huyện, thị xã, thành phố; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, viên
chức giải quyết thủ tục hành chính; đẩy mạnh thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường
điện tử, xây dựng Chính phủ điện tử, cải thiện chất lượng dịch vụ công, giảm tiêu cực, phiền
hà, thời gian, chi phí của người dân và doanh nghiệp khi giải quyết thủ tục hành chính; tạo
môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng thuận lợi, minh bạch, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội.
Tăng lượng giao dịch dịch vụ công trực tuyến, thanh toán trực tuyến và sử dụng các tiện
ích khác của Chính phủ điện tử trên Cổng Dịch vụ công quốc gia (tại địa chỉ
https://dichvucong.gov.vn) và Cổng dịch vụ công của các tỉnh thành phố.
Tăng cường sự tham gia của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội trong triển
khai và giám sát quá trình thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử của cơ quan
hành chính nhà nước các cấp.
4.2. Yêu cầu
Nội dung tuyên truyền phản ánh đúng ý nghĩa, vai trò, lợi ích của việc thực hiện các dịch
vụ công trực tuyến nhằm công khai, minh bạch trong giải quyết thủ tục hành chính của các cơ
quan nhà nước; giúp người dân, doanh nghiệp thực hiện thủ tục hành chính nhanh chóng, tiết
kiệm thời gian, chi phí, thực hiện thủ tục hành chính mọi lúc, mọi nơi; góp phần đẩy mạnh
cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, phòng, chống tham nhũng.
Hình thức tuyên truyền đa dạng, phù hợp với tính chất, đặc điểm, nhiệm vụ của từng
nhóm đối tượng và địa bàn dân cư. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt
động tuyên truyền.
Đảm bảo các mục tiêu, nhiệm vụ đã được xác định tại các văn bản nghị quyết, chỉ thị của
nhà nước.
Chính phủ điện tử là một cái mới, trong quá trình tuyên truyền cần sử dụng từ ngữ linh
động, đơn nghĩa, dễ hiểu.
4.3. Nội dung tuyên truyền
Chủ trương, chính sách, pháp luật, chiến lược về ứng dụng và phát triển công nghệ thông
tin; dịch vụ công trực tuyến, đảm bảo an toàn an ninh thông tin.
Các văn bản chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành và
địa phương trong thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến Chính phủ điện tử, Cổng Dịch vụ
công; hướng dẫn tổ chức, doanh nghiệp, Nhân dân thực hiện dịch vụ công trực tuyến.
Vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp trong việc triển
khai thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử. Những điển hình tiên tiến, các
sáng kiến, cách làm hay trong thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử ở các sở,
ban, ngành, Ủy ban nhân dân huyện, thị xã, thành phố và Ủy ban nhân dân các xã, phường,
thị trấn.
4.4. Marketing ra công chúng bên ngoài
Có một số nguyên nhân khiến mọi người chưa sử dụng các dịch vụ của chính phủ điện
tử:
 Người dân chưa biết truy cập Internet
 Vấn đề bảo mật trên các website.
 Sự tin tưởng đối với chính phủ.
 Các dịch vụ điện tử mà người dân muốn chưa hiện hữu hoặc người dân chưa biết
họ thực sự muốn gì.
 Dịch vụ của chính phủ điện tử cung cấp với chất lượng thấp hoặc website khó sử
dụng.
Để có thể thúc đẩy sự chấp nhận của người dân về chính phủ điện tử, chính phủ cần phải
coi trọng các dịch vụ điện tử của mình như các sản phẩm và tiến hành marketing ra công
chúng như các công ty thường làm.
Để marketing chính phủ điện tử ra công chúng bên ngoài, ta có thể sử dụng một số chiến
lược sau:
 Marketing theo cách truyền thống:
Dịch vụ trực tuyến có thể được xúc tiến qua thư từ với người dân, chiến dịch quảng cáo,
hoặc thông qua điểm tiếp xúc của chính phủ người dân qua nhân viên hành chính tiếp dân.
Chính phủ có thể marketing định hướng tới các nhóm đối tượng khác nhau trong xã hội.
 Khuyến khích:
Các phần thưởng tài chính có thể khuyến khích người dân sử dụng các dịch vụ điện tử
hoặc khuyến khích phi tài chính và sự đảm bảo về dịch vụ nhanh hơn, tin cậy hơn.
 Dịch vụ các biệt hóa và giá trị gia tăng:
Chính phủ có thể đưa ra một cổng điện tử cung cấp số dịch vụ cho phép người dân cá
biệt hóa dịch vụ trực tuyến theo nhu cầu và sở thích riêng của họ. Quản trị quan hệ khách
hàng (CRM) vẫn chưa được thử nghiệm rộng rãi bơi chính phủ, nhưng nó có thể giúp đẩy
mạnh các cổng điện tử và phân đoạn theo các đối tượng của chính phủ như G2B hay G2C.
 Tiếp cận đa kênh:
Chính phủ điện tử nên tạo ra các kênh mới để tiếp cận và hỗ trợ các kênh truyền thống
trong việc tiếp cận các dịch vụ công. Thông qua việc sử dụng các phân đoạn đối tượng, chính
phủ có thể xác định kênh tiếp cận phù hợp nhất cho từng nhóm người cụ thể
 Tiếp cận trung gian:
Nền kinh tế phối hợp và mạng lưới trung gian thứ ba đã có thể giúp tiếp cận người dân
trong thế giới thực thì cũng có thể giúp tiếp cận người dân trong thế giới ảo. Một ngày
website trung gian có thể giúp chính phủ tiếp cận được số lượng người dân nhiều bằng số
lượng cả tháng hoặc cả năm chính phủ tự làm. Ngoài ra, các trung gian này còn đem lại nhiều
giá trị gia tăng cho các dịch vụ của chính phủ ví dụ như gói các dịch vụ của chính phủ với các
dịch vụ và sản phẩm của các trung gian, biến đổi các dịch vụ của chính phủ theo định hướng
thị trường và thu hút người sử dụng. Khu vực công, tư nhân hoặc tự nguyện sẽ được điều
chỉnh về tiêu chuẩn như nhau bơi người dân/người tiêu dùng/khách hàng để đảm bảo chất
lượng dịch vụ tốt.
Sau đây là những phương pháp cụ thể giúp marketing chính phủ điện tử ra rộng rãi công
chúng.
4.4.1. Tuyên truyền theo cách truyền thống
Dịch vụ trực tuyến có thể được xúc tiến qua thư từ với người dân, thông qua các điểm
tiếp xúc trực tiếp của người dân và nhân viên hành chính tiếp dân.
4.4.2. Tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng
Tuyên truyền trên các trang báo chính thống, Đài Phát thanh và Truyền hình quốc gia,
Cổng thông tin điện tử của cơ quan các cấp về thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường
điện tử, Cổng Dịch vụ công và Hệ thống thông tin một cửa điện tử; danh mục, cách thức nộp
hồ sơ trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 để người dân và doanh nghiệp biết và thực hiện. Thời
gian vừa qua, VTV đã hỗ trợ, phối hợp rất tích cực để tuyên truyền tới người dân, doanh
nghiệp về thực hiện dịch vụ công trực tuyến trên Cổng DVCQG. Hiện nay, đây là kênh
truyền thông chính, mang lại hiệu quả rất lớn giúp nâng cao nhận thức, thúc đẩy người dân
thực hiện dịch vụ công trực tuyến, thanh toán trực tuyến trên Cổng.
Tuyên truyền trên hệ thống Đài truyền thanh cấp địa phương với các nội dung: thực hiện
thủ tục hành chính trên môi trường điện tử, xây dựng Chính phủ điện tử, triển khai thực hiện
dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 về cấp tỉnh và các cấp tiếp theo. Hình thức tuyên
truyền này có lợi thế tiếp cận đông đảo quần chúng nhân dân, hướng dẫn dư luận xã hội;
thông tin được cập nhật liên tục, phong phú, sinh động, có thể kết hợp với các chuyên mục,
bản tin đã thu hút lượt theo dõi trước đó.
Bên cạnh đó, lựa chọn các dịch vụ công có đối tượng thực hiện lớn (dịch vụ về bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế; thu phạt vi phạm hành chính; thông báo hoạt động khuyến mại; giấy
phép lái xe; đăng ký phương tiện giao thông; các thủ tục về hộ tịch, sở hữu trí tuệ...), xây
dựng thành các phóng sự để phát vào những giờ vàng nhằm tuyên truyền tạo hiệu ứng lan tỏa
cho người dân, doanh nghiệp.
4.4.3. Công khai thủ tục hành chính theo hình thức điện tử
Công khai thủ tục hành chính trên Cổng Dịch vụ công và Hệ thống thông tin một cửa
điện tử các cấp, Cổng thông tin điện tử của các cơ quan; Trung tâm Phục vụ hành chính công
cấp quốc gia và địa phương; Bộ phận Một cửa cấp tỉnh, huyện, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ
chức, cá nhân tìm hiểu, tra cứu thông tin về thủ tục hành chính.
Về công khai trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính, việc hoàn thiện phần
mềm đã cho phép quản lý, vận hành Cơ sở dữ liệu đáp ứng yêu cầu mới của Nghị định số
92/2017/NĐ-CP và Thông tư số 02/2017/TT-VPCP. Theo đó, so với quy định trước đây, hiện
nay, Bộ, ngành, địa phương chủ động nhập, đăng tải công khai thủ tục hành chính trên Cơ sở
dữ liệu quốc gia và chịu trách nhiệm về tính chính xác của dữ liệu. Đồng thời, với những tính
năng mới, Cơ sở dữ liệu quốc gia cho phép thống kê, báo cáo, phân định thủ tục hành chính
theo từng bộ, ngành, địa phương, từng cấp hành chính, từng lĩnh vực, từng loại thủ tục hành
chính (thủ tục hành chính được áp dụng thống nhất toàn quốc; thủ tục hành chính được luật
giao địa phương quy định,…)
4.4.4. Tuyên truyền thông qua việc phát hành tài liệu và các xuất bản phẩm
Các bộ, sở, ban, ngành, cơ quan trung ương, tỉnh, thành phố biên soạn và phát hành tài
liệu, các xuất bản phẩm liên quan đến triển khai thực hiện Chính phủ điện tử nói chung và
dịch vụ công nói riêng của từng ngành, từng địa phương.
4.4.5. Lồng ghép phổ biến kiến thức về CPĐT trong môi trường giáo dục
Với cấp tiểu học và trung học cơ sở, Bộ giáo dục triển khai chương trình phổ thông mới
trong đó bao gồm hình thành năng lực tin học và làm quen với công nghệ số, đồng thời đào
tạo các kỹ năng công nghệ thông tin cho giáo viên.
Thông qua các buổi sinh hoạt ngoại khóa và lồng ghép vào chương trình học, Bộ giáo
dục và đào tạo kết hợp với nhà trường, cán bộ các cấp tổ chức tuyên truyền và phổ biến cho
học sinh, sinh viên thông tin cơ bản về chính phủ điện tử, nhóm thủ tục hành chính đang và
sẽ thực hiện bằng dịch vụ công trực tuyến, đặc biệt là mức độ 3, mức độ 4; các cổng thông tin
để truy cập thực hiện cũng như đường dây nóng hỗ trợ công dân khi sử dụng dịch vụ công
trực tuyến.
Tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên thực hành các thao tác nhập dữ liệu trực tuyến như
khai báo y tế, khai báo thẻ bảo hiểm xã hội, chỉnh sửa nguyện vọng thi cao đẳng, đại học…
Khuyến khích học sinh, sinh viên tuyên truyền thông tin, hướng dẫn người thân trong gia
đình, cộng đồng sử dụng các dịch vụ công trực tuyến.
4.4.6. Thông qua các ứng dụng mạng xã hội (Zalo, Facebook,...), dịch vụ viễn thông, thư
điện tử…
Trên thực tế, một Chính phủ điện tử đúng nghĩa cần phải thay đổi toàn bộ cách thức
Chính phủ tương tác với người dân, điển hình là thông qua việc ứng dụng những công nghệ
mới nhất như di động, thậm chí cả các mạng xã hội Facebook, Twitter….Việc ứng dụng di
động và mạng xã hội vào hoạt động điều hành hàng ngày của Chính phủ điện tử là đặc biệt
quan trọng với một quốc gia có dân số trẻ như Việt Nam.
Chính phủ hiện đang triển khai sử dụng mạng xã hội (Zalo, Facebook...), đường dây
nóng (hotline), dịch vụ tin nhắn (SMS), email… để tuyên truyền và hỗ trợ người dân tiếp cận
các dịch vụ của chính phủ điện tử, triển khai dịch vụ công trực tuyến các mức độ, đặc biệt là
mức độ 3, mức độ 4. Những công cụ trên có tính lưu trữ và chia sẻ rộng rãi, tiếp cận người
dân mọi lứa tuổi và vùng miền.
Cổng DVCQG cũng đang phối hợp với Google để thực hiện truyền thông hình ảnh của
Cổng thông qua công cụ tìm kiếm của Google và đang thiết lập kênh Youtube để up các
video, clip hướng dẫn thực hiện các dịch vụ công, tiện ích trên Cổng.
Ví dụ: Từ ngày 22/7/2021, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ công bố và vận hành
đường dây nóng trực tuyến hỗ trợ người dân gặp khó khăn bởi đại dịch COVID-19 theo Nghị
quyết 68/NQ-CP của Chính phủ và Quyết định 23/2021/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Cổng Thông tin điện tử Chính phủ trân trọng đề nghị người dân gặp khó khăn, vướng mắc
cấp thiết và các vấn đề phát sinh trong quá trình tiếp cận và thụ hưởng chính sách hỗ trợ, gửi
phản ánh, kiến nghị đến Cổng Thông tin điện tử Chính phủ qua các hình thức:
 Gửi email tới địa chỉ: thongtinchinhphu@chinhphu.vn
 Nhắn qua mục Email của fanpage Thông tin Chính phủ trên Facebook tại địa chỉ:
https://www.facebook.com/thongtinchinhphu
Một số Bộ, ban ngành như Bộ y tế, Bộ giáo dục, Thông tấn xã Việt Nam... đã có trang
Facebook để tương tác và giải đáp yêu cầu của người dân. Những tài khoản này đều có dấu
tích xanh để nhận dạng là trang chính thống và luôn hiển thị đầu trang khi tiến hành tìm kiếm.
4.5. Marketing bên trong
Các nỗ lực marketing bên trong bao gồm các hoạt động:
 Nói theo ngôn ngữ của “khách hàng”:
Những nhà lãnh đạo chính trị hay những nhà quản trị cấp cao cần xem như khách hàng và cần
“bán” cho họ khái niệm về chính phủ điện tử, vì vậy cần tránh biệt ngữ và nên sử dụng ngôn
ngữ mà những người lãnh đạo chính trị có thể hiểu.
 Kết thêm bạn, cô lập kẻ thù:
Chính phủ điện tử cần phải liên kết giữa các bộ phận trong nội bộ để đảm bảo sự đoàn kết.
 Phát triển các dự án để thúc đẩy khả năng ra quyết định:
Các chính trị gia và quản lý cấp cao cần được đào tạo và chỉ ra vai trò của Internet trong hỗ
trợ công việc của họ như tự động hóa quá trình ra quyết định. Thay vì phải in ấn và mang rất
nhiều giấy tiwf trong cuộc họp, các chính trị gia và quản lý cấp cao chỉ cần mang máy tính cá
nhân. Thậm chí, các cuộc họp có thể tổ chức trực tuyến. Viễn cảnh này đã được thực hiện hóa
ở các nước phát triển và nhiều nước đang phát triển.
 Phân tích tốt hơn giữa chi phí và lợi ích:
Bởi vì sự đầu tư cho chính phủ ban đầu là tưởng đối nên cần phải phân tích giữa chi phí
và lợi ích và điểm thu hồi vốn. Các lợi ích mang lại gồm: sự hài lòng của người dùng, mức độ
chấp nhận, cải thiện về tốc độ, tính chính xác, sự liên kết giữa các chiến lược và nhiệm vụ
trong đơn vị và cơ hội chia sẻ các ứng dụng giữa các đơn vị.
Sau đây là một số phương pháp cụ thể.
4.5.1. Phổ biến các văn bản chỉ thị từ Trung ương về Chính phủ điện tử đến từng phòng ban
địa phương
Công tác tuyên truyền, phổ biến Chỉ thị và các văn bản liên quan đến việc xây dựng và
triển khai Chính phủ điện tử tới toàn thể cán bộ công chức, viên chức là công tác mang tính
quan trọng chủ chốt. Người cán bộ có nắm rõ quy trình, cách thức thì mới có thể triển khai
rộng rãi tới người dân, hướng dẫn và giải đáp các thắc mắc của cá nhân cũng như doanh
nghiệp trong quá trình xây dựng Chính phủ điện tử. Trong tuyên truyền phổ biến, cần tránh
các thuật ngữ mang tính kỹ thuật xa lạ mà cần giải thích theo cách gần gũi, dễ hiểu để mọi
người đều nắm được.
4.5.2. Tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về Chính phủ điện tử cho cán bộ, công chức, viên chức
- Thông qua lớp tập huấn, chuyên đề trực tiếp
- Thông qua các ứng dụng, hội thảo trực tuyến
4.5.3. Nâng cao kỹ năng chung của công chức, viên chức về Công nghệ thông tin
Các công chức, viên chức cần được đào tạo và chỉ ra vai trò của Internet trong hỗ trợ
công việc của họ như tự động hoá quá trình ra quyết định. Thay vì phải in và mang rất nhiều
giấy tờ trong cuộc họp, các cán bộ chỉ cần mang máy tính cá nhân. Các cuộc họp có thể tổ
chức bằng hình thức trực tuyến, điều này càng trở nên quan trọng trong bối cảnh giãn cách
bởi đại dịch COVID-19.
5. Đánh giá triển khai chính phủ điện tử
Từ những năm 2000, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm, coi trọng phát triển ứng
dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước, xác định đây là động
lực góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới tạo khả năng đi tắt, đón đầu để thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành, địa
phương đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả bước đầu quan trọng làm nền
tảng trong triển khai xây dựng chính phủ điện tử. Đặc biệt, trong năm 2020, Việt Nam
là một trong số không nhiều những quốc gia trên thế giới được Liên hợp quốc đánh
giá cao về những kết quả tích cực trong xây dựng và phát triển chính phủ điện tử.
5.1. Đánh giá của quốc tế về xây dựng chính phủ điện tử ở Việt Nam
Theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam đã có sự tăng hạng về chính phủ điện
tử liên tục trong 06 năm qua (từ vị trí thứ 99 năm 2014 lên vị trí thứ 86 trong năm
2020). Cụ thể, Liên hợp quốc đánh giá chỉ số về chính phủ điện tử theo bốn mức: rất
cao (trên 0,75 điểm); cao (từ 0.5 đến 0.75 điểm); trung bình (từ 0,25 đến 0,5 điểm),
thấp (dưới 0,25 điểm). Năm 2020, chỉ số dịch vụ công trực tuyến của Việt Nam là
0,6529 điểm; chỉ số về cơ sở hạ tầng viễn thông là 0,6694 điểm (đều ở mức cao theo
chỉ số đánh giá của Liên hợp quốc). Bên cạnh đó, chỉ số nguồn nhân lực của Việt Nam
tăng không đáng kể với 0,6779 điểm.
Chính phủ Việt Nam đang từng bước hướng tới chính phủ số, nền kinh tế số và xã
hội số bằng cách nắm bắt những cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
mang lại. Tuy nhiên, đánh giá trong năm 2020 của Liên hợp quốc cũng chỉ ra những
thách thức và rủi ro đang tồn tại ở các nước đang phát triển, bao gồm cả Việt Nam
như: an ninh mạng, bảo mật dữ liệu, thiếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật số và nguồn lực hạn
chế để thực hiện chính sách về chính phủ số.
 Đánh giá về dịch vụ công trực tuyến
Về chỉ số dịch vụ công trực tuyến, năm 2014 Việt Nam chỉ đạt mức trung bình là
0,4173 điểm. Tuy nhiên, nhờ sự nỗ lực cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người
dân, doanh nghiệp và các tổ chức tăng cả về số lượng và chất lượng của các bộ, ngành
cũng như các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nên năm 2020 Việt Nam đã đạt
chỉ số dịch vụ công trực tuyến ở mức cao với 0,6529 điểm.
Theo số liệu thống kê năm 2019 của Bộ Thông tin và Truyền thông, Việt Nam có
127.270 dịch vụ công trực tuyến mức độ 1 và mức độ 2, có 26.734 dịch vụ công trực
tuyến mức độ 3 (chiếm 16,73%) và 5.792 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 (chiếm
3,62%). So với 06 năm trước đó, cũng theo số liệu thống kê từ Sách trắng Công nghệ
thông tin và Truyền thông năm 2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông thì Việt Nam
chỉ có 2.366 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 (xấp xỉ 2,27%) và 30 dịch vụ công trực
tuyến mức độ 4 (xấp xỉ 0,03%).
Từ ngày 09/12/2019, Cổng Dịch vụ công Quốc gia đã được đưa vào vận hành tại
địa chỉ www.dichvucong.gov.vn, được kết nối, tích hợp với cổng dịch vụ công và hệ
thống một cửa điện tử tại các bộ, ngành, địa phương. Đây là nơi cung cấp thông tin về
thủ tục hành chính và dịch vụ công trực tuyến; hỗ trợ thực hiện, giám sát, đánh giá
việc giải quyết thủ tục hành chính, dịch vụ công trực tuyến và tiếp nhận, xử lý phản
ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức trên toàn quốc.
Theo kế hoạch, trong năm 2020 sẽ tích hợp tối thiểu 30% các dịch vụ công trực
tuyến thiết yếu, sau năm 2020 Cổng Dịch vụ công Quốc gia sẽ tiếp tục tăng dần, mỗi
năm tích hợp 20% dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 của các bộ, ngành, địa
phương. Tính đến tháng 9/2020, số thủ tục hành chính cung cấp trên Cổng Dịch vụ
công Quốc gia là 1.955 thủ tục và số hồ sơ trực tuyến thực hiện qua Cổng Dịch vụ
công Quốc gia là 507.171 hồ sơ.
Như vậy, Việt Nam đã có sự thay đổi lớn về cung cấp dịch vụ công trực tuyến,
đặc biệt là dịch vụ công trực tuyến mức độ cao (mức độ 3 và mức độ 4) với số lượng
tăng vượt trội so với những năm trước đây. Đây là kết quả quan trọng mà Việt Nam đã
đạt được nhờ ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà
nước, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao, trên diện rộng để phục vụ người
dân và doanh nghiệp, đặc biệt là nỗ lực tích hợp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và
mức độ 4 lên Cổng Dịch vụ công Quốc gia.
 Đánh giá về cơ sở hạ tầng viễn thông
Theo thống kê của Liên hợp quốc, trong năm 2020 tỷ lệ người Việt Nam dùng
internet  là 70,37%, tăng khá cao so với năm 2018 là 46,5%. Số liệu thống kê năm
2019 của Bộ Thông tin và Truyền thông cho thấy tỷ lệ dân số được phủ sóng di động
là 99,7%, trong đó tỷ lệ người dân được phủ sóng di động 4G là 95,3%; tỷ lệ hộ gia
đình có kết nối internet là 47%; thuê bao điện thoại di động với 136,74 thuê bao/100
dân; thuê bao internet băng thông rộng (có dây) là 13,63%; thuê bao internet (di động)
băng thông rộng chiếm 55,39%.
Số lượng người dùng internet tại Việt Nam năm 2019 đã đạt 70%, tương ứng với
hơn 67 triệu người. Năm 2020, thông qua ba chỉ số quan trọng khi đánh giá về cơ sở
hạ tầng viễn thông như: thuê bao điện thoại di động với 120 thuê bao/100 dân; thuê
bao internet băng thông rộng (có dây) là 13,6% và thuê bao internet (di động) băng
thông rộng đạt 71,89%, chỉ số cơ sở hạ tầng viễn thông (TII) của Việt Nam đạt mức
cao là 0,6694 điểm, cao hơn mức trung bình thế giới là 0,5964 điểm và so với năm
2018 (đạt 0,3890 điểm) thì chỉ số này đã cao gấp 1,7 lần. Các đánh giá trước đây của
Liên hợp quốc về cơ sở hạ tầng viễn thông của Việt Nam đều đạt điểm ở mức trung
bình.
Như vậy, với sự đầu tư cho cơ sở hạ tầng truyền thông - viễn thông, đặc biệt là
việc đưa mạng di động 4G vào khai thác dịch vụ từ năm 2017, Việt Nam đã có sự gia
tăng đáng kể chỉ số cơ sở hạ tầng viễn thông. Năm 2020, chỉ số này đã vượt lên mức
cao theo đánh giá của Liên hợp quốc.
 Đánh giá về nguồn nhân lực
Bên cạnh chỉ số dịch vụ công trực tuyến và chỉ số cơ sở hạ tầng viễn thông, Việt
Nam cũng chú trọng gia tăng chỉ số nguồn nhân lực (HCI). Theo đánh giá của Liên
hợp quốc, chỉ số HCI được tính từ 04 chỉ số thành phần là: tỷ lệ biết chữ của người
lớn từ 15 tuổi trở lên; tỷ lệ người đang theo học; số năm đi học dự kiến; số năm đi học
trung bình của người từ 25 tuổi trở lên.
Theo số liệu thống kê trong Sách trắng Công nghệ thông tin và Truyền thông năm
2019 của Bộ Thông tin và Truyền thông, tỷ lệ số người trên 15 tuổi biết đọc, biết viết
chiếm 95,8% tổng số dân. Tỷ lệ số người học đại học, cao đẳng trên tổng số người
trong độ tuổi đại học, cao đẳng (từ 18 đến 22 tuổi, tương đương 5 năm tiếp theo sau
khi tốt nghiệp trung học phổ thông) là 21,1%.
Để xây dựng chính phủ điện tử, cần có công dân điện tử và công chức điện tử.
Chính phủ Việt Nam đã nhận thức rõ tầm quan trọng và rất quan tâm đến vấn đề này.
Theo số liệu thống kê, tổng số lao động trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ thông
tin - điện tử, viễn thông là 973.692 người. Riêng nhân lực làm việc trong lĩnh vực viễn
thông và internet năm 2018 là 77.205 người (năm 2016 chỉ có 71.298 người). Thống
kê của Bộ Thông tin và Truyền thông cũng cho thấy nhân lực công nghệ thông tin
trong các cơ quan nhà nước tăng rõ rệt: tỷ lệ trung bình số đơn vị trực thuộc bộ, cơ
quan ngang bộ có công chức chuyên trách về công nghệ thông tin năm 2018 là
81,39% (năm 2016 là 71,29%). Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
năm 2018 là 93,45% (năm 2016 là 91,67%).
Tuy nhiên, theo đánh giá chỉ số nguồn nhân lực của Liên hợp quốc năm 2020,
Việt Nam chỉ đạt 0,6779 điểm, tuy có cao hơn những năm trước nhưng vẫn thấp hơn
mức trung bình của thế giới (0,688 điểm). So với năm 2014 là 0,6025 điểm, chỉ số này
tăng không đáng kể. Chỉ số HCI của Việt Nam thấp hơn nhiều so với Singapore - quốc
gia có chỉ số nguồn nhân lực cao nhất trong khu vực ASEAN (0,8904 điểm).
Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải
pháp trọng tâm phát triển chính phủ điện tử giai đoạn 2019-2020, định hướng đến năm
2025 đã đề ra mục tiêu cụ thể: “Hoàn thiện nền tảng chính phủ điện tử nhằm nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước và chất lượng phục vụ
người dân, doanh nghiệp; phát triển chính phủ điện tử dựa trên dữ liệu và dữ liệu mở
hướng tới chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số; bảo đảm an toàn thông tin và an
ninh mạng”. Trong đó, mục tiêu Việt Nam phải đạt được vào năm 2025 là “thuộc
nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN”.
Triển khai Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 của Chính phủ, ngày
31/12/2019, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Khung kiến trúc chính phủ
điện tử Việt Nam phiên bản 2.0. So với Khung kiến trúc chính phủ điện tử Việt Nam
phiên bản 1.0 ban hành năm 2015, lần này có một số nội dung nổi bật như: 05 mô
hình tham chiếu (mô hình tham chiếu nghiệp vụ; mô hình tham chiếu dữ liệu; mô hình
tham chiếu ứng dụng; mô hình tham chiếu công nghệ;  mô hình tham chiếu an toàn
thông tin), các hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu tạo nền tảng xây dựng chính phủ
điện tử Việt Nam.
Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
“Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đề
ra mục tiêu: đến năm 2025 có 50% hoạt động kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước
được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ quan quản lý;
phát triển kinh tế số chiếm 20% tổng sản phẩm nội địa (GDP), nâng cao năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế; Việt Nam thuộc nhóm 70 quốc gia trên thế giới dẫn đầu về
chính phủ điện tử theo xếp hạng của Liên hợp quốc.
Đồng thời, Chương trình chuyển đổi số quốc gia cũng chỉ ra tầm nhìn đến năm
2030: “Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử
nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý,
điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương
thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng
khắp”.
5.2. Các chỉ tiêu đánh giá triển khai Chính phủ điện tử
Các chỉ tiêu đánh giá có thể mang tính định lượng và định tính bao gồm:
 Các chỉ tiêu kinh tế.
 Các chỉ tiêu xã hội.
 Các chỉ tiêu quản lý.
Bảng 5.1: Chỉ tiêu chung

Thời gian Chỉ tiêu chung


Sau 12 tháng Số lượng các cơ quan chính phủ có hệ thống dữ liệu số
Số liệu các chính quyền địa phương có trang Web

Sau 3 năm Số lượng các cơ quan và chính quyền địa phương trong các giai đoạn
phát triển Chính phủ điện tử: Giai đoạn cung cấp thông tin, giai đoạn
tương tác, giai đoạn giao dịch trực tuyến

Sau 5 năm Số lượng các cơ quan có công Chính phủ điện tử

Bảng 5.2: Chỉ tiêu kinh tế

Chỉ tiêu Kết quả

Hiệu quả chi phí % giảm chi phí trong hoạt động của Chính phủ
% các giao dịch trực tuyến

Tăng việc làm Tỉ lệ thất nghiệp


Tỉ lệ công việc liên quan đến lCT
Chợ việc làm trực tuyến

Tăng doanh thu do Thiết lập xong hệ thống thuế trực tuyến
thuế và dịch vụ % tăng thực hiện thuế trực tuyến
% tăng doanh thu thuế

Tăng đầu tư trong Thiết lập hệ thống đăng kí kinh doanh trực tuyến
nước và nước ngoài % tăng FDI
% tăng đầu tư trong nước

Bảng 5.3: Chỉ tiêu xã hội

Chỉ tiêu Kết quả

Tăng truy nhập cho dịch Có hệ thống đào tạo trực tuyến
vụ đào tạo trực tuyến
Số lượng trường có Internet
Số lượng trường có trang Web, E-learning

Quản lý đào tạo trực Hệ thống thông tin quản lý đào tạo
tuyến

Hệ thống chăm sóc sức Số lượng các bác sĩ có kết nối Internet
khỏe trực tuyến Hệ thống thông tin bệnh viện

Phúc lợi xã hội trực Tăng số các gia đình, cá nhân được hưởng phúc lợi xã hội
tuyến

Bảng 5.4: Chỉ tiêu quản lý nhà nước

Chỉ tiêu Kết quả

Tăng tính minh bạch trong % các quy trình dịch vụ chính phủ được công khai
quản lý chính phủ Công khai trực tuyến ngân sách, chi phí của Chính phủ
Truy nhập trực tuyến tới báo cáo, tài liệu của Chính phủ

Tăng tính hợp tác giữa các Mức độ chia sẻ thông tin giữa các cơ quan chính phủ
cơ quan chính phủ

Tăng giao tiếp trực tuyến Khả năng giao tiếp trực tuyến với Chính phủ
của chính phủ tới công % dân chúng giao dịch trực tuyến với Chính phủ
chúng
Thời gian trả lời của Chính phủ

Cơ sở hạ tầng pháp lý Hệ thống pháp luật trực tuyến


Công nhận chứng thực điện tử, chữ ký điện tử
Cơ sở pháp lý cho các vấn đề liên quan đến tội
phạm điện tử, bản quyền, bảo vệ tính riêng tư, an
toàn và bảo mật thông tin

5.3. Các chỉ tiêu đánh giá tính hiệu quả của Chính phủ điện tử
Trong Báo cáo của Liên hợp quốc có tựa đề “Chính phủ điện tử ở ngã ba
đường”, chính phủ điện tử được phân thành ba loại: chính phủ điện tử lãng phí, tức
“có đầu tư nhưng không có đầu ra”, chính phủ điện tử không có mục tiêu, tức “có đầu
ra nhưng không có hiệu quả” và chính phủ điện tử có ý nghĩa, tức là “có đầu ra và có
hiệu quả”.
Căn cứ vào nghiên cứu về chính phủ điện tử của các tổ chức OECD, IBM, Hiệp
hội hành chính công Hoa Kỳ, Trung tâm phát triển quốc tế thuộc Đại học Harvard...
có thể khái quát thành 5 bộ tiêu chí chủ yếu đánh giá tính hiệu quả của chính phủ điện
tử như sau:
 Tiêu chí đánh giá dựa trên tính hiệu quả của cổng thông tin điện tử
Cổng thông tin điện tử của chính phủ (hoặc cơ quan hành chính) là sự thể hiện tập
trung của chính phủ điện tử, điểm tiếp xúc và kết nối giữa chính phủ với công dân. Do
rất khó đánh giá lượng thông tin với tư cách “đầu vào” (input) của cổng thông tin điện
tử chính phủ nên các tổ chức quốc tế thường dựa vào “đầu ra” (output) để đánh giá
tính hiệu quả của cổng thông tin điện tử chính phủ dựa vào hai phương pháp chủ yếu
sau đây:
Thứ nhất, phương pháp tiến hành đánh giá các phương diện có liên quan của
cổng thông tin điện tử chính phủ.
Năm 2001, Trung tâm nghiên cứu thị trường thế giới và Đại học Brown đã tiến
hành khảo sát, đánh giá 2.228 cổng thông tin điện tử chính phủ của 196 quốc gia và
vùng lãnh thổ. Trong quá trình đánh giá, hai đơn vị này tiến hành đánh giá 05 phương
diện có liên quan của cổng thông tin điện tử là thông tin liên lạc, ấn phẩm điện tử; kho
dữ liệu; số lượng dịch vụ công được cung cấp trên cổng thông tin điện tử. Từ bốn
phương diện nói trên, hai đơn vị này đã cụ thể hóa thành 22 tiêu chí, gồm: thông tin về
số điện thoại liên hệ; địa chỉ liên hệ; ấn phẩm điện tử; kho dữ liệu; thông tin liên hệ
với các trang mạng khác; tư liệu bằng âm thanh; tư liệu bằng video; giao diện tiếng
nước ngoài; không có quảng cáo; không mất chi phí; phương thức truy cập dành cho
người tàn tật, khuyết tật; có chính sách bảo đảm tính bảo mật và an toàn; có chỗ tìm
kiếm; dịch vụ công trên cổng điện tử; sự liên kết với các trang mạng khác; chữ ký số
khi giao dịch qua cổng thông tin điện tử; thanh toán điện tử; hộp thư điện tử để liên
lạc; nơi để bình luận trên cổng điện tử; công bố sự kiện...
Trong quá trình đánh giá, hai tổ chức nói trên đặc biệt coi trọng một số phương
diện chủ chốt của cổng thông tin điện tử chính phủ, gồm: năng lực phục vụ trên mạng
(tất cả các dịch vụ được tiến hành và hoàn thành trên mạng hay không); thông tin trên
mạng (như cung cấp thông tin về số điện thoại, địa chỉ, ấn phẩm điện tử, kho dữ liệu,
hướng dẫn tìm kiếm, tư liệu bằng âm thanh và hình ảnh...); chính sách bảo vệ quyền
riêng tư; chính sách an toàn; có phương thức phù hợp để người tàn tật sử dụng cổng
thông tin điện tử.
Thứ hai, phương pháp đánh giá mức độ thành thục trong cung cấp dịch vụ
trên cổng thông tin điện tử và quá trình vận hành.
Mức độ thành thục tập trung vào ba tiêu chí chủ yếu là: mức độ cung cấp thông tin
trên cổng thông tin điện tử; mức độ tương tác, trao đổi giữa chính phủ và người dân
trên cổng thông tin điện tử; mức độ xử lý, giải quyết các thủ tục hành chính trên cổng
thông tin điện tử. Dựa trên các tiêu chí này, mức độ thành thục trong cung cấp dịch vụ
trên cổng thông tin điện tử được chia thành bốn mức: rất thấp, thấp, tương đối thấp và
trung bình. Còn mức độ thành thục của quá trình vận hành của cổng thông tin điện tử
được đánh giá dựa trên các tiêu chí như mức độ tích hợp của cổng thông tin điện tử;
mức độ thiết kế trang web theo mong muốn của người sử dụng; năng lực kết nối với
các cổng thông tin điện tử khác.
 Tiêu chí đánh giá dựa trên chất lượng hạ tầng viễn thông
Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông vừa là nền tảng đảm bảo để
xây dựng chính phủ điện tử, vừa là tiêu chí để đánh giá tính hiệu quả của chính phủ
điện tử. Viện Nghiên cứu chính phủ điện tử thuộc Công ty IBM đã nêu lên các tiêu chí
nhằm đánh giá về chất lượng của hạ tầng công nghệ thông tin như sau:
Thứ nhất, tính linh hoạt (flexibility), là khả năng thích ứng trước sự biến động
của môi trường thông tin. Tiêu chí đánh giá gồm: sử dụng tiêu chuẩn thống nhất và
công khai; có đầy đủ năng lực để vận dụng các phần mềm; thiết kế được nền tảng
tương đối độc lập; tích hợp dịch vụ bên trong và bên ngoài.
Thứ hai, khả năng mở rộng và nâng cấp (scalability), là sự tăng lên về nhu cầu
để có thể mở rộng dung lượng một cách tương ứng. Tiêu chí cụ thể gồm: thiết kế phần
mềm ứng dụng dùng chung hoặc miễn phí để sử dụng cho cổng thông tin điện tử; thiết
lập cơ chế cân bằng tải (load balancing) nhằm sử dụng tối ưu các nguồn lực, tối đa
hóa thông lượng, giảm thời gian đáp ứng và tránh tình trạng quá tải trên máy chủ.
Thứ ba, độ tin cậy (reliability), là khả năng thu hút người sử dụng cũng như việc
đảm bảo tính an toàn và hiệu quả cho người sử dụng.
 Tiêu chí đánh giá tổng hợp về phần cứng và phần mềm 
Tiêu chí đánh giá tổng hợp về phần cứng và phần mềm của chính phủ điện tử có
thể đánh giá khá toàn diện thực trạng của chính phủ điện tử. Dựa trên cách tiếp cận
này, Liên hợp quốc và Hiệp hội hành chính công của Hoa Kỳ đã tiến hành khảo sát,
đánh giá về chính phủ điện tử của các nước trên thế giới. Theo đó, đánh giá tính hiệu
quả của chính phủ điện tử gồm các phương diện chủ yếu sau:
Thứ nhất, thực trạng trang web (hoặc cổng thông tin điện tử) của chính phủ.
Đây là tiêu chí đánh giá sự phát triển của chính phủ điện tử của một quốc gia. Dựa
trên tiêu chuẩn cụ thể, thực trạng trang web của chính phủ được phân thành 05 mức độ
từ thấp đến cao, bao gồm: 1) Mức độ khởi đầu, trang web đã chính thức hoạt động và
cung cấp thông tin về tổ chức bộ máy, như thông tin liên lạc, số điện thoại và địa chỉ
làm việc. Nhìn chung, chức năng của trang web ở mức độ này rất hạn chế; 2) Mức độ
nâng cao, số lượng trang web của chính phủ mở rộng, nội dung của trang web mang
tính chuyên nghiệp hơn và được đổi mới, thay đổi thường xuyên; trang web cung cấp
hoặc hiển thị địa chỉ truy cập trang web của một số cơ quan chính phủ khác; trên trang
web có một số ấn phẩm điện tử, văn bản quy phạm pháp luật, tin tức và địa chỉ email;
3) Mức độ trao đổi, tương tác (ở mức độ này, năng lực trang web của chính phủ có sự
nâng lên rõ rệt). Theo đó, thông qua hộp thư điện tử và một số phương thức khác, mức
độ trao đổi thông tin giữa chính phủ và người dân được tăng cường. Người sử dụng
hoặc người dân có thể từ trang web để tải xuống và gửi một số văn bản qua cổng
thông tin điện tử; 4) Mức độ xử lý, giải quyết công việc qua mạng, trang web của
chính phủ có đủ năng lực để giải quyết và xử lý các công việc trên mạng. Ví dụ, như
giải quyết hộ chiếu, visa, giấy khai sinh, giấy chứng tử, giấy phép lái xe, các loại phí
và thuế qua mạng; 5) Mức độ tích hợp hoàn toàn. Theo đó, trang web của chính phủ
có đủ năng lực để cung cấp tất cả các dịch vụ trên mạng, hơn nữa, trang web của các
cơ quan chính phủ đã được kết nối với nhau; các loại hình dịch vụ công được cung
cấp kịp thời theo nhu cầu của người dân.
Thứ hai, thực trạng về hạ tầng viễn thông. 
Tiêu chí về hạ tầng viễn thông nhằm đánh giá năng lực hạ tầng viễn thông của
một quốc gia. Có 06 tiêu chí thành phần được sử dụng để đánh giá, đó là: số người có
máy tính trên 100 người dân; ước tính số người sử dụng internet trên 100 người dân;
số điện thoại cố định trên 100 người dân; số lượng thuê bao di động trên 100 người
dân; số thuê bao băng thông rộng không dây trên 100 người dân; số thuê bao băng
rộng cố định trên 100 người dân.
Thứ ba, thực trạng nguồn nhân lực.
Thực trạng nguồn nhân lực nhằm đánh giá năng lực của người dân trong việc sử
dụng chính phủ điện tử, được đánh giá thông qua các tiêu chí, như: tỷ lệ công dân từ
15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết; tỷ lệ nhập học được đo lường bằng tổng hợp tổng số
học sinh đăng ký với số học sinh theo học ở cấp tiểu học, trung học và đại học, không
kể tuổi tác; dự kiến số năm đi học; năm đi học trung bình; tỷ lệ phần trăm của cư dân
đô thị.
Thứ tư, thực trạng tham gia giao dịch điện tử.
Nội dung này đánh giá sự tương tác điện tử (thông qua mạng) giữa chính phủ và
người dân, với mục đích khuyến khích các chính phủ cung cấp cho người dân các
công cụ trực tuyến để tham gia vào quá trình ra quyết định. Đánh giá ở nội dung này
có ba tiêu chí chủ yếu: mức độ chính phủ cung cấp thông tin qua trang web cho người
dân; mức độ chính phủ coi trọng hoạt động tư vấn của người dân thông qua cổng
thông tin điện tử; mức độ tham gia của người dân thông qua mạng internet.
 Tiêu chí đánh giá tính hiệu quả của chính phủ điện tử thông qua việc đánh
giá hiệu quả sử dụng internet của toàn xã hội
Về bản chất, chính phủ điện tử cần sự tương tác giữa chính phủ với người dân và
doanh nghiệp. Vì vậy, xuất phát từ tính hiệu quả trong sử dụng internet của toàn xã
hội có thể đánh giá được hiệu quả của chính phủ điện tử.
Trung tâm nghiên cứu Phát triển quốc tế thuộc Đại học Harvard đã nêu ra các tiêu
chí để đánh giá tính hiệu quả trong sử dụng internet của toàn xã hội, gồm: 1) Bộ phận
thứ nhất là thực trạng sử dụng mạng internet nhằm đánh giá vấn đề số lượng và chất
lượng công nghệ thông tin và truyền thông; 2) Bộ phận thứ hai là yếu tố “gia tốc” với
các tiêu chí như: mức độ tiếp cận mạng internet (cơ sở hạ tầng thông tin và truyền
thông, phần mềm và các yếu tố hỗ trợ); chính sách đối với mạng internet (chính sách
đối với việc phát triển thông tin truyền thông, chính sách đối với thương mại điện
tử...); mức độ sử dụng internet trong lĩnh vực xã hội; mức độ sử dụng internet trong
lĩnh vực kinh tế.
 Tiêu chí đánh giá tính hiệu quả của chính phủ điện tử dựa trên các tiêu chí
của “quản trị tốt”
Mục tiêu của việc xây dựng chính phủ điện tử là góp phần thúc đẩy “quản trị tốt”
của chính phủ. Theo đó, các tiêu chí đánh giá tính hiệu quả của chính phủ điện tử từ
góc độ các tiêu chí của “quản trị tốt”, bao gồm: 
1) Niềm tin và sự tin tưởng của người dân; 
2) Pháp quyền: công khai, công bằng trong thực thi và vận dụng pháp luật; 
3) Công khai, minh bạch: mức độ đảm bảo “quyền được biết” của người dân
thông qua chính phủ điện tử; 
4) Trách nhiệm: mức độ sử dụng chính phủ điện tử nhằm phát huy vai trò giám sát
của xã hội đối với chính phủ cũng như ngăn ngừa tham nhũng và các tiêu cực; 
5) Tính đáp ứng: mức độ chính phủ sử dụng chính phủ điện tử để nắm bắt nhu
cầu, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của người dân và đưa ra biện pháp kịp thời để
giải quyết các nhu cầu, nguyện vọng đó; 
6) Hiệu quả: sử dụng hợp lý các nguồn lực, sử dụng chi phí tối thiểu để có được
lợi ích tối đa; thông qua việc sử dụng chính phủ điện tử để tiết kiệm chi phí, nâng cao
chất lượng phục vụ; 
7) Thích ứng: không ngừng đổi mới và hoàn thiện thể chế, chính sách về chính
phủ điện tử để đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội; 
8) Tham gia, tư vấn và đánh giá chất lượng: mức độ sử dụng chính phủ điện tử để
mở rộng sự tham gia, sự tư vấn của người dân và tổ chức trong quá trình hoạch định
chính sách của chính phủ cũng như phát huy vai trò đánh giá, “chấm điểm” của người
dân đối với chất lượng phục vụ của các cơ quan hành chính.
6. Đề xuất, giải pháp phát triển
6.1 . Đề xuất một số phương hướng nhằm phát triển công nghệ thông tin và ứng
dụng công nghệ thông tin vào các dịch vụ của Chính phủ
Phải gắn tin học hóa quản lý hành chính nhà nước với vấn đề cải cách hành chính. Cải
cách hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin là hai vấn đề có mối liên hệ chặt chẽ. Công
nghệ thông tin là một yếu tố hết sức quan trọng và cần thiết, có tác động tích cực thúc đẩy
quá trình cải cách hành chính.
Các nhà quản lý phải giữ vai trò chủ đạo, phải có sự lãnh đạo thống nhất từ cấp cao nhất
của Chính phủ. Nếu người lãnh đạo không nhận thức được đầy đủ vai trò và ý nghĩa của ứng
dụng công nghệ thông tin trong nhà quản lý nước, thì công việc ứng dụng nghệ thuật thông
tin khó có thể thành công. Như vậy, người lính đạo phải hiểu trước, hiểu sâu hơn về công
nghệ thông tin thì mới có thể đưa công nghệ thông tin vào ứng dụng một cách hiệu quả
Hiệu quả phải đo được, tức là phải trong hoá được những gì mà công nghệ thông tin góp
phần nâng cao chất lượng quản lý.
Hiệu quả đầu tư cầu được đặt lên hàng đầu. Các dự án công nghệ thông tin phải có mục
tiêu rõ ràng cụ thể, phải tính toán kỹ, đảm bảo sự đồng bộ giữa phần cứng, phần mềm, đào
tạo huấn luyện chuyên viên kỹ thuật và những người sử dụng, người quản lý sao cho khi hệ
thống được thiết lập xong là vận hành ngay được, thực hiện được mục tiêu đặt ra một cách
hiệu quả. Tránh vội vàng, rập khuôn, làm ào ạt theo phong trào mà không chuẩn bị kỹ càng
các điều kiện thực hiện.
Tạo hành lang pháp lý cho tin học hoá, cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin.
Tin học hoá không chỉ hướng vào bên trong mà phải hướng ra bên ngoài, hướng vào các
dịch vụ công. Tin học hoá ngoài việc trợ giúp các quy trình hoạt động trong các cơ quan nhà
nước nhằm nâng cao hiệu suất công việc còn phải hướng tới việc tổ chức lại để tạo ra các
dịch vụ nhằm phục vụ tốt hơn cho nhân dân.
Phải hiểu rõ về tầm quan trọng của Chính phủ điện tử, và phải được trang bị những kiến
thức cần thiết nhằm thực hiện tốt chiến lược phát triển Chính phủ điện tử.
Khả năng tài chính đang và sẽ có: Chính phủ nên dành riêng một phần ngăn sách để đảm
bảo khả năng tài chính phục vụ cho quá trình xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử.
Môi trường kinh doanh điện tử như khung pháp lý, an toàn thông tin...Ngoài những hỗ
trợ về tài chính, nhà nước cần xây dựng một khung pháp lý chính thức và hoàn chỉnh, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thực thi Chính phủ điện tử.
*Xây dựng và quản lý đề án Chính phủ điện tử
 Thiết lập cơ quan chuyên trách về Chính phủ điện tử trong Chính phủ.
Thực tế cho thấy rằng khó có thể thực thi được đề án Chính phủ điện tử mà không có
một đội ngũ quản lý từ khi bắt đầu đến khi kết thúc. Những cơ quan như vậy cần được hỗ trợ
về tài chính, nhân lực và quản lý để thực hiện nhiệm vụ được giao.
 Đảm bảo trao đủ quyền lực cho cơ quan quản lý đề án :
Sẽ rất khó khăn cho cơ quan quản lý đề án nếu bất cứ quyết định nào cũng phải chờ cơ
quan cấp trên thông qua rồi mới được thực hiện. Điều này sẽ làm chậm tiến độ thực hiện đề
án. Do vậy, cơ quan quản lý đề án cần được trao dù quyền lực để có thể tự quyết định những
vấn đề nằm trong phạm vi nhiệm vụ để rút ngắn thời gian và chi phí không cần thiết
 Xây dựng một kế hoạch làm việc để thực hiện đề án Chính phủ điện tử.
Kế hoạch làm việc nên tập trung vào 6 thành phần chính sau:
1) Phát triển nội dung: bao gồm phát triển ứng dụng, mở rộng tiêu chuẩn, xây dựng
các giao diện ngôn ngữ địa phương, hướng dẫn sử dụng và đào tạo điện tử
2) Nguồn nhân lực và các chương trình đào tạo ở tất cả các cấp.
3) Kết nối mạng nội bộ và mạng Internet.
4) Khung pháp lý.
5) Các giao diện tương tác với công dân đảm bảo dễ dàng truy cập và phù hợp với tất cả
các đối tượng.
6) Nguồn vốn: Kế hoạch phải xác định được nguồn doanh thu như phi sử dụng hay ngân
sách để có thể đảm bảo cân bằng về tài chính.
*Vượt qua những trở ngại tâm lý trong Chính phủ:
Trong quá trình phát triển Chính phủ điện tử, các quan chức chính phủ thường cho rằng
công nghệ sẽ làm cho họ mất việc làm, mất quyền lực, một số còn lo sợ sẽ phải làm nhiều
việc hơn, vất vả hơn, lo sợ sẽ không thích ứng được với công nghệ mới...
Những tư tưởng như vậy hạn chế rất nhiều tiến trình thực hiện đề án Chính phủ điện tử.
Do vậy, Chính phủ cần phải giải thích cho họ hiểu mục nhích của đề án, giải toả những lo
lắng, đào tạo họ thành những "nhân viên tri thức". Đây chính là nội dung của quản lý tri thức,
một thành phần quan trọng trong bất cứ đề án Chính phủ điện tử nào. Chính phủ cũng nên đề
ra những phần thưởng đề tuyên dương những cán bộ có thành tích trong quá trình thực hiện
đề án.
* Xây dựng phương pháp đo hiệu quả hoạt động của chính phủ điện tử trên những tiêu
chuẩn sau:
Tiêu chuẩn đo sự thích ứng của Chính phủ với Chính phủ điện tử:
 Khối lượng giao dịch điện tử
 Thời gian thực hiện yêu cầu của người sử dụng;
 Số lượng hoặc phần trăm các dịch vụ điện tử do Chính phủ cung cấp; 4, Số lượng các
dịch vụ điện tử mới;
 Một dịch vụ điện tử được thực hiện ở bao nhiêu tỉnh, thành trong cả nước.
Tiêu chuẩn đo những ảnh hưởng của Chính phủ điện tử
 Số lượng người truy cập thông tin và dịch vụ điện tử của Chính phủ;
 Hiệu quả trong việc cung cấp thông tin và dịch vụ diện từ 24/24 giờ, 7/7 ngày như thế
nào:
 Thời gian người sử dụng có được hàng hoá, dịch vụ, thông tin là bao nhiêu,
 Giảm bao nhiêu chi phí mà người sử dụng và Chính phủ phải chịu.
* Tăng cường đào tạo và tuyên truyền nâng cao nhận thức Chính phủ điện tử
Tổ chức tuyên truyền trong các cơ quan, tổ chức Chính phủ và toàn xã hội về lợi ích của
việc thực hiện Chính phủ điện tử; nâng cao hiểu biết, nhận thức, trách nhiệm và năng lực xây
dựng Chính phủ điện tử và khai thác, sử dụng các lợi ích mà Chính phủ điện tử mang lại cho
mọi cán bộ, công chức, viên chức.
Xây dựng đội ngũ lãnh đạo công nghệ thông tin ở các bộ. Đào tạo các lãnh đạo đủ năng
lực tập hợp lực lượng, tổ chức thành công các dự án Chính phủ điện tử, ứng dụng công nghệ
thông tin- truyền thông trong các cơ quan, đơn vị.
Tổ chức đào tạo cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan, đơn vị về các kiến thức,
khả năng ứng dụng công nghệ thông tin- truyền thông có hiệu quả cao trong các hoạt động
nghiệp vụ, nghiên cứu và hợp tác.
Xây dựng được một đề án tổng thể thật cụ thể về vấn đề này ở từng cấp, ngành để tránh
lãng phí. Đồng thời, cần giải quyết những vướng mắc tồn đọng, yếu kém hiện nay và học tập
kinh nghiệm của những nước khu vực để áp dụng và tạo đòn bẩy để tăng cường sức mạnh
của cả nền kinh tế xã hội trước những thách thức mới.
Chính phủ điện tử Việt Nam đảm bảo cung cấp kịp thời, đầy đủ thông tin thiết yếu và
từng bước cung cấp dịch vụ công trực tuyến, một cửa cho người dân, doanh nghiệp ở mọi
nơi, mọi lúc. Giúp doanh nghiệp làm việc với các cơ quan chính phủ nhanh hơn, thuận tiện
hơn, tiết kiệm hơn.
* Kinh nghiệm khi triển khai chính phủ điện tử ở địa phương:
 Việc triển khai tin học hóa và cải cách hành chính:
Thiết kế phần mềm đáp ứng được sự thay đổi của quá trình làm việc, dù đơn vị hay địa
phương đó cải cách hành chính trước hay tin học hóa trước. Có thể thấy tin học hóa tác động
vào cải cách hành chính và ngược lại cải cách hành chính thấy tin học có thể làm được nhiều
thứ nên lại tiếp tục cải cách và cuối cùng chúng ta sẽ có được quy trình làm việc tốt.
 Việc xây dựng cổng thông tin điện tử và dịch vụ công:
Nhiều năm qua mọi người chỉ chú trọng xây dựng cổng thông tin điện tử. tuy nhiên, đầu
tiên, chúng ta triển khai trong nội bộ và nhận được sự ủng hộ của chính những người trong cơ
quan, lúc đó mới có thể cung cấp các dịch vụ công qua mạng cho người dân tốt được. Khi
bản thân các cán bộ của cơ quan quản lý nhà nước đã có văn hóa ứng dụng công nghệ thông
tintin thì tự khắc họ sẽ có nhu cầu đẩy ứng dụng đó ra cho người dân được hưởng.
 Hạ tầng để xây dựng chính phủ điện tử:
Hầu hết hạ tầng của chúng ta hiện nay đã đủ, tại một số nơi do chấp và nên lúc nào vững
tưởng là thiếu. Nhưng chỉ cần các chuyên gia tư vấn, vận dụng hết khả năng của thiết bị sẵn
có thì địa phương đó mới liều ra là hạ tầng của họ đáp ứng được. Tuy nhiên, nếu chúng ta
phát triển hơn nữa sẽ phải mua sắm thiết bị.
 Triển khai rộng chính phủ điện tử khi có rất nhiều sự khác biệt giữa các đơn vị
hành chính trong cùng một địa phương:
Một số nơi dù là trung tâm thành phố nhưng lại rất e ngại trong việc thực hiện tin học
hóa. Đối với những địa phương này thì phải chọn cách “lấy nông thôn bao vây thành thị”,
triển khai ở vùng sâu vùng xa trước như Sơn Hà ( Quảng Ngãi) hay Cao Lộc ( Lạng Sơn) ...
Khi đã có sự thành công ở nơi khó khăn như vậy thì lập tức các đơn vị quản lý ở thành phố sẽ
thực hiện theo.
 Liên thông nhiều ứng dụng của các nhà cung cấp khác nhau:
Đưa ra nhiều chuẩn mở để các nhà cung cấp có thể kết nối với nhau
*Huy động nguồn vốn
 Cân đối nguồn ngân sách đầu tư cho phát triển công nghệ thông tin.
 Huy động các nguồn lực khác đầu tư cho phát triển công nghệ thông tin:
Vốn sự nghiệp để chi cho các hoạt động công nghệ thông tin đã đầu tư và vận hành thường
xuyên, ổn định; chi cho các đề tài nghiên cứu phát triển hoặc hỗ trợ phát triển công nghệ
thông tin; liên doanh liên kết với các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài phát triển
công nghệ thông tin trong Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; tăng cường hợp tác quốc tế
về công nghệ thông tin, bố trí một phần vốn ODA cho việc phát triển công nghệ thông tin
trong ngành …
7.2. Một số giải pháp tiếp tục đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử ở Việt Nam trong
thời gian tới
Để xây dựng chính phủ điện tử, cần đánh giá đúng thực trạng ứng dụng công nghệ thông
tin cũng như hiểu rõ được các yếu tố nền tảng cho kinh tế số, từ đó thiết lập một chiến lược
số phù hợp nhất với tình hình thực tế của đất nước. Vì vậy, cần quan tâm thực hiện một số
giải pháp sau:
Một là, cần bố trí nhân sự thích hợp cho chức danh giám đốc công nghệ thông tin của
Chính phủ; giải quyết tốt tình trạng thiếu hụt nhân lực có trình độ cao về công nghệ thông tin
trong các cơ quan nhà nước.
Hai là, sớm hoàn thành xây dựng và đưa vào triển khai áp dụng Khung kiến trúc chính
phủ điện tử cấp bộ, Khung kiến trúc chính quyền điện tử cấp tỉnh, thành phố phù hợp với
Khung kiến trúc chính phủ điện tử Việt Nam phiên bản 2.0. Tái cấu trúc hạ tầng công nghệ
thông tin của các bộ, ngành, địa phương theo hướng kết hợp giữa mô hình tập trung và mô
hình phân tán dựa trên công nghệ điện toán đám mây (cloud computing).
Ba là, sử dụng dữ liệu để hoạch định và thực thi chính sách, bởi chuyển đổi chính phủ số
phụ thuộc rất nhiều vào các hoạt động sử dụng dữ liệu. Trong đó, khả năng thu thập, lưu trữ,
phân tích và chia sẻ dữ liệu dựa trên ứng dụng công nghệ mới có ý nghĩa then chốt trong cải
thiện cung ứng dịch vụ. Thiết lập hệ thống tiêu chuẩn liên quan đến các công nghệ mới. Dữ
liệu sẵn có giúp tăng cường chất lượng quyết định chính sách, nâng cao hiệu quả và gia tăng
lợi ích cho người dân; ưu tiên đầu tư xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia.
Bốn là, phải đảm bảo nguồn ngân sách nhà nước dành cho xây dựng chính phủ điện tử.
Huy động, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực và chú trọng công tác truyền thông, nâng cao
nhận thức của toàn xã hội trong xây dựng chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số và nền
kinh tế số. Chính phủ số tập trung vào nguyên tắc dịch vụ số phải là cách thức chủ yếu để
cung cấp các dịch vụ. Để đạt được điều này, cần có kế hoạch chuyển đổi toàn bộ chuỗi cung
cấp dịch vụ công thông qua việc thiết kế dịch vụ lấy người dùng làm trung tâm, để người dân
và các doanh nghiệp được sử dụng các dịch vụ công số mà họ mong muốn; khai thác các
công nghệ di động phổ biến; chuyển đổi toàn bộ các quy trình giao dịch sang kỹ thuật số; ra
quyết định chính sách dựa trên dữ liệu hành chính thay vì văn bản hành chính; sử dụng nhất
quán các dịch vụ dùng chung trong toàn bộ Chính phủ.
Năm là, nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin - truyền thông, đảm bảo an ninh
mạng, an toàn thông tin số và bảo mật dữ liệu. Chính phủ số phải đi đôi với các nỗ lực tăng
cường an ninh mạng và an toàn dữ liệu, bảo mật thông tin cá nhân để người dùng tin tưởng
vào các dịch vụ công số và thông tin trực tuyến của Chính phủ. Đây là nội dung đặc biệt quan
trọng, đòi hỏi sự hợp tác giữa các cơ quan trong nước và quốc tế nhằm đối phó với các nguy
cơ nhằm vào các hệ thống thông tin của khu vực công ngày càng tăng.
Xây dựng chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số và phát
triển bền vững là mục tiêu của nhiều quốc gia trên thế giới chứ không chỉ riêng Việt Nam. Để
đạt được mục tiêu này, Việt Nam cần có quyết tâm và nỗ lực của cả hệ thống chính trị, xây
dựng và triển khai mô hình lãnh đạo và quản trị mới, nhằm tận dụng sức mạnh và sự phát
triển nhanh chóng của công nghệ số./.

You might also like