You are on page 1of 4

HỌC VIỆN PHAN-XI-CÔ

PHÂN KHOA TRIẾT HỌC


SINH VIÊN KHÓA 17

Marchand Du NGUYỄN VĂN VIỄN. OCist

MÔN HỌC: TÓM TẮT TÁC PHẨM

 
Đề bài:
“NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI CỦA SOCRATES”

Giáo sư bộ môn: Lm Giuse TRƯƠNG VĂN TÍNH, OFM

Thủ Đức 2022

1
1 Một vài nét về triết gia Socrates

Socrates (470-399 TCN) là một triết gia thời Hy Lạp cổ đại và là người khởi nguồn
chính cho tư tưởng phương Tây. Thông tin về cuộc đời ông ít được biết đến ngoài
những ghi chép của chính những học trò, trong đó có triết gia vĩ đại Plato.

Socrates là con trai của Sophroniscus, một thợ điêu khắc ở thành Athens. Ông được
học nghề của cha và đã rèn nghề trong nhiều năm. Ông tham gia cuộc chiến
Peloponnesian (431-04 TCN) khi thành Athens bị nghiền nát bởi người Sparta, và ông
tự cho rằng mình là người can đảm.

Ông có niềm đam mê đặc biệt với tác phẩm của các triết gia tự nhiên, và học trò
Plato cũng ghi lại những cuộc gặp gỡ của ông với Zeno xứ Elea và Parmedides khi họ
tới thành Athens vào khoảng năm 450 TCN.

Bản thân Socrates không viết gì, chính vì thế những bằng chứng về cuộc đời và các
hoạt động của ông đều xuất phát từ những ghi chép của Plato và Xenophon (khoảng
431-352 TCN).

2 Một vài nét về triết gia Plato


Platon chào đời tại Athens, Hy Lạp vào năm 472 TCN, Platon thuộc gia đình quý
phái về phía cả cha lãnh mẹ. Cha của Platon tên là Ariston thuộc họ quốc vương
Codre, vị vua cuối cùng của thành Athens và được coi là con cháu của thần Poseidon,
mẹ là Périctiana có họ hàng với Salon, nhà luật học lừng danh của Hy Lạp. Platon có
một người chú tên là Critias, là một trong 30 nhân vật thuộc Hội Đồng Hoạt Đầu.
Triết học của Platon là một hệ thống triết học duy tâm khách quan lớn và đầu tiên
trong lịch sử triết học đã đạt đến sự hoàn chỉnh, nhất quán và triệt để. Nó xuất phát từ
ba nguồn gốc tư tưởng:  triết học của Socrates về cái phổ biến, cái chung làm cơ sở
cho đạo đức; triết học của phái Élesee học thuyết về sự tồn tại duy nhất, bất biến. Và
triết học của phái Pythagore về những con số, con số được xem là bản chất chân thật
của sự vật.  Dựa vào ba nguồn gốc trên trong đó chủ yếu vẫn là triết học của Socrates,
Platon đã xây dựng nên hệ thống triết học duy tâm khách quan.
Chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong triết học của Platon là học thuyết về ý
niệm. Đây được xem là nền tảng của thế giới quan của ông. Quan niệm của Platon về
ý niệm tồn tại, về vật chất không tồn tại, về sự vật cảm tính, về những con số… Các ý
niệm theo cách hiểu của Platon đó là các khái niệm, tri thức đã được khách quan hóa.
Chúng bị rút ra khỏi ý thức của con người, hòa trộn vào thế giới tư tưởng được coi là
tổng thể các ý niệm tương tự. Các ý niệm được coi là tồn tại nói chung, bất biến và
vĩnh viễn.

2
3 nội dung của tác phẩm

Tư tưởng của ông đậm tính tôn giáo mặc dù ông chỉ trích các thần thoại Hy Lạp. Lời
nói và những hành động của ông trong các tác phẩm như Apology, Crito, Phaedo, và
Symposium đều cho thấy sự tôn trọng sâu sắc của ông đối với các phong tục tôn giáo
của Athens và sự tôn kính chân thành với thần thánh.

Socrates khẳng định rằng luôn có một giọng nói thần thánh mà ông có thể nghe được
từ bên trong mình trong những thời điểm quan trọng của cuộc đời ông. Đó không phải
là giọng nói đưa ra cho ông những chỉ dẫn tích cực, mà là những lời cảnh báo khi ông
đi chệch khỏi con đường.

Trong phiên tòa bào chữa cho chính mình, Socrates kể lại câu chuyện ông từng được
một nhà tiên tri nổi danh ở đền Delphi đánh giá là người khôn ngoan nhất. Socrates
nói ông cảm thấy bối rối vì lời nhận xét này, bởi vì không ai biết được mức độ thiếu
hiểu biết của mình ngoài chính họ.

Tuy nhiên, ông quyết tâm tìm ra sự thật trong lời của nhà tiên tri. Trong suốt nhiều
năm, ông đi khắp nơi và đặt câu hỏi cho những người có nổi tiếng là khôn ngoan và
những người tự nhận mình là người khôn ngoan. Ông kết luận rằng đúng là ông khôn
ngoan hơn họ, bởi vì ông có thể nhận thức được sự thiếu hiểu biết của mình, trong khi
họ thì không.

Socrates là bậc thầy của phương pháp lập luận truy vấn (một hệ thống được sử dụng
để tranh luận). Những tác phẩm của ông khiến ông có số lượng kẻ thù cũng nhiều như
số người ngưỡng mộ. Một ví dụ về điều đó có viết trong Apology của Plato.
Meletus buộc tội Socrates đã làm hư hỏng những người trẻ, hủy hoại đạo đức của họ.
Socrates bắt đầu phản biện bằng việc đặt câu hỏi liệu Meletus có xem sự tiến bộ của
người trẻ là quan trọng hay không. Meletus đáp: Có. Socrates hỏi: Ai có thể giúp
người trẻ tiến bộ? Meletus đáp: Luật pháp. Socrates hỏi: Ngài có thể nêu tên một
người hiểu về luật pháp? Meletus đáp: Các thẩm phán là người hiểu luật. Socrates
hỏi: Có phải tất cả thẩm phán đều có thể chỉ dẫn và giúp người trẻ tiến bộ không hay
chỉ một vài người có thể làm được điều này? Meletus đáp: Tất cả họ đều có khả năng
làm việc này. Sau đó, Socrates tiếp tục buộc Meletus phải thừa nhận rằng những nhóm
người khác như Thượng viện, Quốc hội và sau đó là tất cả người dân Athens đều có
khả năng chỉ dẫn và giúp người trẻ tiến bộ.
Sau đó, Socrates lại bắt đầu một loạt câu hỏi tương tự về việc huấn luyện ngựa và các
loài động vật khác. Có phải tất cả mọi người đều có khả năng huyến luyện ngựa
không hay chỉ những người có chuyên môn và kinh nghiệm đặc biệt mới có thể làm
điều này? – Socrates hỏi. Lúc này, Meletus đã nhận ra sự ngớ ngẩn trong lập luận của
mình. Hắn không trả lời, nhưng Socrates đã trả lời thay. Ông nói rằng, nếu như
Meletus không đủ quan tâm tới người trẻ Athens để đóng góp những ý kiến thỏa đáng
cho những người có thể chỉ dẫn và giúp người trẻ Athens tiến bộ, thì ông không có
quyền gì để buộc tội Socrates đã làm hư hỏng người trẻ.

3
Phương pháp tranh luận của Socrates bắt đầu bằng những câu hỏi khiến đối phương
tin rằng người hỏi rất đơn giản, nhưng sau đó lại kết thúc bằng sự đảo ngược hoàn
toàn. Vì thế, những đóng góp chủ yếu của ông không nằm ở việc xây dựng một hệ
thống phức tạp, mà ở việc xóa bỏ những niềm tin sai trái và dẫn dắt con người nhận
thức được sự thiếu hiểu biết của mình, từ vị trí đó họ mới có thể bắt đầu khám phá sự
thật. Chính sự kết hợp độc đáo giữa kỹ năng biện chứng (sử dụng logic và lập luận
trong một cuộc tranh luận) với sức hấp dẫn mạnh mẽ của ông với những người trẻ đã
khiến những đối thủ của ông có cơ hội đưa ông ra xét xử vào năm 399 TCN.
Meletus, Lycon và Anytus là những kẻ buộc tội Socrates vô thần và làm hư hỏng giới
trẻ của thành Athena. Ông bị kết án tử hình bằng cách uống thuốc độc.

Tác phẩm Crito của Platon đã kể về những nỗ lực của Crito trong việc thuyết phục
Socrates trốn khỏi nhà tù, nhưng trong một cuộc đối thoại của Socrates với Luật pháp
Athena, ông đã bày tỏ sự tôn kính của mình với thành phố này và kiên quyết tuân theo
luật pháp của nó ngay cả khi điều đó khiến ông phải chết.
Trong tác phẩm Phaedo, Plato đã kể lại cuộc tranh luận của Socrates về sự bất tử của
linh hồn. Kết thúc cuộc đối thoại, một trong những cảnh tượng xúc động và kịch tính
nhất trong văn học cổ đại đã diễn ra – đó là cảnh Socrates nâng ly thuốc độc trong khi
bạn bè ông ngồi xung quanh đầy bất lực. Trước khi tắt thở, Socrates vẫn không quên
trăng trối với Crito bằng những lời hài hước: “Crito, tôi còn mắc nợ Asclepius một
con gà trống, anh làm ơn trả giùm tôi được không?”.

Socrates là tên tuổi nhiều màu sắc nhất trong lịch sử triết học cổ đại. Danh tiếng của
ông lan rộng khắp nơi và nhanh chóng trở thành một cái tên mà ai cũng biết thời kỳ
đó, mặc dù ông không sở hữu trí khôn phi thường, không xây dựng hệ thống triết học,
không thiết lập trường học và tông phái.

Tầm ảnh hưởng của ông tới đường hướng của triết học cổ đại thông qua Plato, những
người hoài nghi và ít trực tiếp hơn là Aristotle, là không thể kể hết và ông của là triết
gia không để lại tác phẩm những lại đk biết qua các cuộc đối thoai và các lời giới
thiếu của các học trò.

You might also like