You are on page 1of 9

-Định nghĩa email:

+Nói đơn giản, Thư điệ tử (Electronic mail còn được viết tắt là
email hoặc e-mail) là một phương thức trao đổi tin nhắn hay còn gọi là
thư (mail) giữa những người sử dụng thiết bị điện tử. Email được coi là
phiên bản điện tử( Kỹ thuật số ) hoặc đối trọng với thư (mail) trong thời
điểm mà “thư”chỉ định nhĩa là thư vật lý (do đó e+mail). Ghi chú: “e”
trong “Electronic”
+Ban đầu là một phương tiện liên lạc chỉ có văn bản ASCII, email
Internet đã được mở rộng bởi Phần mở rộng thư Internet đa năng (MIME)
để mang văn bản trong các bộ ký tự khác và tệp đính kèm nội dung đa
phương tiện. Email quốc tế, với các địa chỉ email được quốc tế hóa bằng
UTF-8, được chuẩn hóa nhưng không được áp dụng rộng rãi. Thư và
nhắn tin dựa trên máy tính trở nên khả thi với sự ra đời của máy tính chia
sẻ thời gian vào đầu những năm 1960 và các phương pháp không chính
thức sử dụng tệp được chia sẻ để chuyển thư đã sớm được mở rộng thành
các hệ thống thư đầu tiên. Hầu hết các nhà phát triển máy tính lớn và máy
tính mini ban đầu đều phát triển các ứng dụng thư tương tự nhưng nhìn
chung không tương thích. Theo thời gian, một mạng lưới phức tạp gồm
các cổng và hệ thống định tuyến đã liên kết nhiều cổng trong số chúng lại
với nhau. Nhiều trường đại học Hoa Kỳ là một phần của ARPANET
(được tạo ra vào cuối những năm 1960), nhằm mục đích chuyển đổi phần
mềm giữa các hệ thống của nó. Năm 1971, email mạng ARPANET đầu
tiên được gửi, giới thiệu cú pháp địa chỉ quen thuộc hiện nay với biểu
tượng '@' chỉ định địa chỉ hệ thống của người dùng. Giao thức truyền thư
đơn giản (SMTP) được giới thiệu vào năm 1981 và được triển khai trên
ARPANET vào năm 1983. Về sau sự kết hợp của nhiều yếu tố đã khiến
bộ Internet hiện tại gồm các giao thức email SMTP, POP3 và IMAP trở
thành tiêu chuẩn.
Bonus: có thể bạn không biết trong quá khứ vì có nhiều giao thức xuất
hiện nên Một cuộc tranh luận kéo dài trong khoa học máy tính được gọi
là Cuộc chiến giao thức (Protocol Wars ) xảy ra từ những năm 1970
đến những năm 1990 khi các kỹ sư, tổ chức và quốc gia trở nên phân cực
về vấn đề giao thức truyền thông nào sẽ tạo ra mạng máy tính mạnh mẽ
và tốt nhất . Điều này lên đến đỉnh điểm trong Cuộc chiến tiêu chuẩn
Internet-OSI vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, cuối
cùng đã được bộ giao thức Internet ("TCP/IP") "chiến thắng" vào giữa
những năm 1990 và từ đó dẫn đến việc hầu hết các giao thức khác biến
mất.
Theo https://en.wikipedia.org/wiki/Email

-Mô hình:
+Cơ sở hạ tầng bao gồm: người dùng(user agents), máy chủ(servers), hộp
thư(mailboxes)
+Giao thức: SMTP(simple mail transfer protocol) hay còn gọi là giao
thức chuyển thư đơn giản (SMTP (which provides for the transfer of e-
mail messages))

Source: https://www.youtube.com/watch?
v=D3GMrOMR2dk&ab_channel=JimKurose

+User agent cho phép người dùng đọc, trả lời, chuyển tiếp, lưu và soạn
thư.
+Server là cốt lõi của cơ sở hạ tầng của thư. Mỗi Sever sẽ cung cấp cho
mỗi người dùng một hộp thư (mailbox) chứa toàn bộ hộp thư đến và đã
nhận của mỗi người dùng và nó có một hàng đợi thư đang chờ để gửi đến
máy chủ đích (message queue) thông qua giao thức SMTP.
+ Giao thức SMTP là giao thức lớp ứng dụng chính cho thư điện tử trên
Internet. Nó sử dụng dịch vụ truyền dữ liệu đáng tin cậy của TCP để
chuyển thư từ thư của người gửi máy chủ đến máy chủ thư của người
nhận..

(Chọn 1 trong 2 ví dụ ở dưới)


-Ví dụ1

1. The MUA formats the message in email format and uses the
submission protocol, a profile of the Simple Mail Transfer
Protocol (SMTP), to send the message content to the local mail
submission agent (MSA), in this case smtp.a.org.
2. The MSA determines the destination address provided in the
SMTP protocol (not from the message header)—in this
case, bob@b.org—which is a fully qualified domain address
(FQDA). The part before the @ sign is the local part of the
address, often the username of the recipient, and the part after the
@ sign is a domain name. The MSA resolves a domain name to
determine the fully qualified domain name of the mail server in
the Domain Name System (DNS).
3. The DNS server for the domain b.org (ns.b.org) responds with
any MX records listing the mail exchange servers for that domain,
in this case mx.b.org, a message transfer agent (MTA) server run
by the recipient's ISP.[36]
4. smtp.a.org sends the message to mx.b.org using SMTP. This server
may need to forward the message to other MTAs before the
message reaches the final message delivery agent (MDA).
5. The MDA delivers it to the mailbox of user bob.
6. Bob's MUA picks up the message using either the Post Office
Protocol (POP3) or the Internet Message Access Protocol (IMAP).

Vietnamese:

1. MUA định dạng thư ở định dạng email và sử dụng giao thức gửi,
một cấu hình của Giao thức truyền thư đơn giản (SMTP), để gửi
nội dung thư đến tác nhân gửi thư cục bộ (MSA), trong trường hợp
này là smtp.a.org .
2. MSA xác định địa chỉ đích được cung cấp trong giao thức SMTP
(không phải từ tiêu đề thư)—trong trường hợp này là bob@b.org—
là địa chỉ miền đủ điều kiện (FQDA) . Phần trước dấu @ là
phần cục bộ của địa chỉ, thường là tên người dùng của người nhận
và phần sau dấu @ là tên miền . MSA phân giải tên miền để xác
định tên miền đủ điều kiện của máy chủ thư trong Hệ thống tên
miền (DNS).
3. Máy chủ DNS cho miền b.org ( ns.b.org ) phản hồi với bất kỳ bản
ghi MX nào liệt kê các máy chủ trao đổi thư cho miền đó, trong
trường hợp này là mx.b.org , một máy chủ tác nhân truyền
thư (MTA) do ISP của người nhận. [36]
4. smtp.a.org gửi tin nhắn đến mx.b.org bằng SMTP. Máy chủ này có
thể cần chuyển tiếp thư đến các MTA khác trước khi thư đến
được tác nhân chuyển phát thư cuối cùng (MDA).
5. MDA gửi nó đến hộp thư của người dùng bob .
6. Bob's MUA nhận thư bằng Giao thức Bưu điện (POP3) hoặc Giao
thức Truy cập Thư Internet (IMAP).

Source: https://en.wikipedia.org/wiki/Email

-Ví dụ 2 :)
1. Alice gọi tác nhân người dùng của mình để nhận e-mail, cung cấp địa
chỉ e-mail của Bob (ví dụ: bob@someschool.edu), soạn thư và hướng dẫn
tác nhân người dùng gửi thư.
2. Tác nhân người dùng của Alice gửi thư đến máy chủ thư của cô ấy, nơi
thư được đặt trong hàng đợi thư.
3. Phía máy khách của SMTP, chạy trên máy chủ thư của Alice, sẽ thấy
thư trong hàng đợi thư. Nó mở một kết nối TCP đến máy chủ SMTP,
chạy trên máy chủ thư của Bob.
4. Sau một số lần bắt tay SMTP ban đầu, máy khách SMTP sẽ gửi thông
báo của Alice vào kết nối TCP.
5. Tại máy chủ thư của Bob, phía máy chủ của SMTP nhận thư. Máy chủ
thư của Bob sau đó đặt thư vào hộp thư của Bob.
6. Bob gọi tác nhân người dùng của mình để đọc tin nhắn một cách thuận
tiện.

Source: https://www.youtube.com/watch?
v=D3GMrOMR2dk&ab_channel=JimKurose
Ghi chú: mọi người xem video của ổng để hiểu ví dụ và nội dung trong
này.

-SMTP:
+SMTP, được định nghĩa trong RFC 5321, là trung tâm của thư điện tử
trên Internet. Như đã đề cập ở trên, SMTP chuyển thư từ máy chủ thư của
người gửi đến máy chủ thư của người nhận. SMTP cũ hơn nhiều so với
HTTP. (SMTP RFC ban đầu có từ năm 1982 và SMTP đã có từ rất lâu
trước đó.) Mặc dù SMTP có nhiều phẩm chất tuyệt vời, bằng chứng là nó
phổ biến trên Internet, nhưng nó vẫn là một công nghệ kế thừa sở hữu
một số đặc điểm cổ xưa nhất định. Ví dụ: nó giới hạn phần thân (không
chỉ phần đầu) của tất cả các thư ở dạng ASCII 7 bit đơn giản. Hạn chế
này có ý nghĩa vào đầu những năm 1980 khi khả năng truyền tải khan
hiếm và không ai gửi e-mail các tệp đính kèm lớn hoặc tệp hình ảnh, âm
thanh hoặc video lớn. Nhưng ngày nay, trong kỷ nguyên đa phương tiện,
hạn chế ASCII 7-bit hơi khó chịu—nó yêu cầu dữ liệu đa phương tiện nhị
phân phải được mã hóa thành ASCII trước khi được gửi qua SMTP; và
nó yêu cầu thông báo ASCII tương ứng được giải mã trở lại nhị phân sau
khi vận chuyển SMTP. HTTP không yêu cầu dữ liệu đa phương tiện phải
được mã hóa ASCII trước khi truyền.
+Bây giờ chúng ta hãy xem xét kỹ hơn cách SMTP chuyển thư từ máy
chủ gửi thư đến máy chủ nhận thư. Chúng ta sẽ thấy rằng giao thức
SMTP có nhiều điểm tương đồng với các giao thức được sử dụng cho
giao tiếp trực tiếp giữa con người với con người. sự tương tác. Đầu tiên,
máy khách SMTP (chạy trên máy chủ gửi thư) có TCP thiết lập kết nối
tới cổng 25 tại máy chủ SMTP (chạy trên máy chủ nhận thư). Nếu máy
chủ ngừng hoạt động, máy khách sẽ thử lại sau. Một lần kết nối này được
thiết lập, máy chủ và máy khách thực hiện một số thao tác bắt tay ở lớp
ứng dụng—giống như con người thường tự giới thiệu trước khi truyền
thông tin từ người này sang người khác, máy khách và máy chủ SMTP
giới thiệu mình trước khi truyền thông tin. Trong giai đoạn bắt tay SMTP
này, ứng dụng khách SMTP cho biết địa chỉ e-mail của người gửi (người
tạo thư) và địa chỉ e-mail của người nhận. Sau khi máy khách SMTP và
máy chủ đã tự giới thiệu với nhau, máy khách gửi tin nhắn. SMTP có thể
tin tưởng vào dịch vụ truyền dữ liệu đáng tin cậy của TCP để nhận thông
báo đến máy chủ không có lỗi. Sau đó, máy khách lặp lại quá trình này
trên cùng một kết nối TCP nếu nó có các tin nhắn khác để gửi đến máy
chủ; mặt khác, nó hướng dẫn TCP đóng sự liên quan.

+Ví dụ:( cái ví dụ này có thể cho 2 bạn lên giao tiếp với nhau nếu được
thì đọc bằng tiếng anh cho đúng câu lệnh mà client đã dùng :) cái này
trong sách trang 119 mà thầy gửi trên zalo chịu khó lên đọc để dễ hiểu và
hiểu rõ ràng hơn nha chứ cái ví dụ này còn ghi vai trò các lệnh mà client
đã dùng khi đang đối thoại. SMTP client (C) and an SMTP server (S).
The hostname of the client is crepes.fr and the hostname of the server is
hamburger.edu. Then issue the SMTP commands HELO, MAIL FROM,
RCPT TO, DATA, CRLF.CRLF, and QUIT at the appropriate times)
-Lưu ý:

HTTP là một giao thức hơi nghiêng về pull (kéo) , client http thường kéo
hay lấy dữ liệu từ sever http, trong khi SMTP nghiêng về push hơn nó
đẩy từ client đến mail server và sau đó client có thể thể là user agent hoặc
đó là mail server đẩy tin nhắn từ một mail server đến một mail server
khác.
-Email fomat:chỗ này mn giúp nha chứ tui pass nội dung mà không hiểu
rõ lắm nội dung.
+ khi một thông điệp e-mail được gửi từ người này sang người khác,
một tiêu đề chứa thông tin ngoại vi đứng trước nội dung của chính
thông điệp đó. Thông tin ngoại vi này được chứa trong một loạt các
các dòng tiêu đề, được định nghĩa trong RFC 5322. Các dòng tiêu đề
và phần thân của thông báo được phân tách bằng một dòng trống
(nghĩa là bằng CRLF). RFC 5322 chỉ định định dạng chính xác cho
các dòng tiêu đề thư cũng như diễn giải ngữ nghĩa của chúng. Như
với HTTP, mỗi dòng tiêu đề chứa văn bản có thể đọc được, bao gồm
một từ khóa theo sau bởi một dấu hai chấm theo sau là một giá trị.
Một số từ khóa là bắt buộc và những từ khóa khác là không bắt
buộc. Mọi tiêu đề phải có dòng tiêu đề From: và dòng tiêu đề To:;
một tiêu đề có thể bao gồm một dòng tiêu đề Chủ đề: cũng như tiêu
đề tùy chọn khác dòng. Điều quan trọng cần lưu ý là các dòng tiêu
đề này khác với SMTP các lệnh chúng ta đã nghiên cứu trong Phần
2.3.1 (mặc dù chúng chứa một số lệnh chung những từ như “từ” và
“đến”). Các lệnh trong phần đó là một phần của Giao thức bắt tay
SMTP; các dòng tiêu đề được kiểm tra trong phần này là một phần
của chính thư đó.

-Email access protocol


+Internet Mail Access Protocol (IMAP) được định nghĩa trong rfc 3501
+Từ nãy đến giờ chúng ta chỉ tập trung vào việc đẩy một email đến một
máy chủ SMTP đích bây giờ xét email đã nằm trong máy chủ đích thì bây
giờ chúng ta sẽ xem xét việc máy chủ đích này sẽ truy xuất email đến
user agent và tất nhiên sẽ có một phương thức cho điều đó, ví dụ như
IMAP, HTTP và rất nhiều giao thức khác, trong đó IMAP là giao thức có
lẽ là phổ biến nhất .

Mấy cái ảnh ko có source là từ https://www.youtube.com/watch?


v=D3GMrOMR2dk&ab_channel=JimKurose

You might also like