You are on page 1of 6

1.

Thuyết kiến tạo

1.1. Thuyết kiến tạo (Constructivism)

Thuyết kiến tạo được hình thành trên cơ sở những lí luận cơ bản của việc quan sát và nghiên cứu khoa
học về quá trình nhận thức của người học. Lí luận này ra đời và phát triển trong mấy chục năm gần đây.
Những năm 80 của thế kỉ 20, tâm lí học giáo dục phát triển mạnh mẽ ở các nước phương Tây. Thuyết
kiến tạo là một bước phát triển mới trong lịch sử phát triển của tâm lí học giáo dục, nó được hình thành
trên cơ sở của sự phát triển từ chủ nghĩa hành vi đến chủ nghĩa nhận thức, và quá trình này được coi là
“một cuộc cách mạng của tâm lí học giáo dục” và có ảnh hưởng rất lớn đến công cuộc cải cách chương
trình hiện nay trên thế giới (chẳng hạn, ở Trung Quốc, những quan điểm của Thuyết kiến tạo - được coi
là “linh hồn” của cải cách chương trình giáo dục phổ thông của Trung Quốc, được thể hiện rõ ràng trong
Đề cương cải cách chương trình giáo dục phổ thông (7/2001). Thuyết kiến tạo do học giả tâm lí học nổi
tiếng người Thụy Sĩ Jean Piaget (1896-1980) khởi xướng, sau đó được các nhà tâm lí học L.Vygotsky
(1896-1934), D.Ausube (1918-2008), J. Bruner (1915-2016). . . kế thừa và phát triển, hình thành các
trường phái khác nhau như: Thuyết kiến tạo cấp tiến; Thuyết kiến tạo mang tính xã hội; Thuyết kiến tạo
xử lí thông tin; Quan điểm nhận thức văn hóa xã hội,.v.v. Mặc dù vậy, những lí luận trên đây đều có
chung nội hàm: tri thức là sản phẩm của hoạt động tạo ra bởi chủ thể thông qua trải nghiệm cá nhân –
người học kết nối thông tin mới với thông tin hiện tại để kiến thức mới có ý nghĩa với cá nhân đó.

1.2. Thuyết kiến tạo xã hội (Social Constructivism)

Vào cuối thế kỷ 20, quan điểm kiến tạo về học tập đã được thay đổi nhiều hơn bởi sự nổi lên của quan
điểm “nhận thức và học tập ở vào tình cảnh khó xử” (situated cognition and learning) nhấn mạnh vai trò
quan trọng của bối cảnh, đặc biệt là tương tác xã hội. Sự chỉ trích chống lại cách tiếp cận kiến tạo xử lý
thông tin (information-processing constructivist) đối với nhận thức và học tập trở nên mạnh mẽ hơn khi
công trình tiên phong của Vygotsky xuất hiện và thu hút được sự ủng hộ. Bản chất của lời chỉ trích này là
thuyết kiến tạo xử lý thông tin coi nhận thức và học tập là các quá trình xảy ra trong tâm trí một cách
tách biệt với xung quanh và tương tác với nó. Kiến thức thức được coi là tự cung tự cấp và không phụ
thuộc vào bối cảnh mà nó tự tìm thấy. Theo quan điểm mới, nhận thức và học tập được hiểu là sự tương
tác giữa cá nhân và tình huống; kiến thức được coi như nằm ở tình cảnh khó xử và là sản phẩm của hoạt
động, bối cảnh và văn hóa nơi mà nó được hình thành và sử dụng. Điều này đã đưa đến ý nghĩa rằng
việc học là “sự tham gia" (participation) và “đàm phán xã hội” (social negotiation).

Công việc của Lev Vygotsky tập trung vào các khía cạnh xã hội của việc thu nhận kiến thức. Ông gợi ý
rằng một người học tốt nhất thông qua tương tác với những người khác. Thông qua quá trình làm việc
với những người khác, người học tạo ra một môi trường chia sẻ ý nghĩa với các đồng nghiệp. Bằng cách
hòa mình vào môi trường mới, người học có thể thích ứng với những diễn giải chủ quan để trở nên
được xã hội chấp nhận. Ông tin rằng trẻ sơ sinh được sinh ra với những khả năng cơ bản để phát triển
nhận thức, ví dụ như khải năng ghi nhớ. Những khả năng cơ bản đó sau đó được nâng cao thông qua
tương tác với những người khác và cuối cùng phát triển thành các quá trình tinh thần phức tạp hơn.

1.3. Thuyết kiến tạo nhận thức (Cognitive Constructivism)

Thuyết kiến tạo nhận thức xuất hiện vào những năm 1970 và 1980, làm nảy sinh ý tưởng rằng người học
không phải là người tiếp nhận thông tin một cách thụ động, mà họ chủ động xây dựng kiến thức của
mình trong sự tương tác với môi trường và thông qua việc tổ chức lại các cấu trúc tinh thần (mental
structures) của họ. Do đó, người học được xem như những người tạo ra cảm giác, không chỉ đơn giản là
ghi lại thông tin đã cho mà còn diễn giải nó. Quan điểm học tập này đã dẫn đến sự chuyển đổi từ “thu
nhận kiến thức" (knowledge-acquisition) sang “kiến tạo kiến thức" (knowledge-construction). Bằng
chứng ngày càng tăng ủng hộ bản chất kiến tạo của việc học cũng phù hợp và được hỗ trợ bởi công trình
trước đó của các nhà lý thuyết có ảnh hưởng như Jean Piaget và Jerome Bruner. Mặc dù có nhiều phiên
bản khác nhau của thuyết kiến tạo, nhưng điểm chung là phương pháp lấy người học làm trung tâm,
theo đó giảng viên trở thành người hướng dẫn nhận thức về cách học của người học chứ không phải
người truyền kiến thức.

Jean Piaget được biết đến như một trong những nhà lý thuyết đầu tiên trong thuyết kiến tạo. Các lý
thuyết của ông chỉ ra rằng con người tạo ra tri thức thông qua sự tương tác giữa trải nghiệm và ý tưởng
của họ. Quan điểm của ông về thuyết kiến tạo cho rằng cá nhân là trung tâm của quá trình sáng tạo và
thu nhận tri thức.

2. Các giai đoạn nhận thức

Phần lớn các lý thuyết của Piaget phát triển thông qua việc làm việc với trẻ em, nơi ông sẽ thách thức ý
tưởng rằng trẻ em là những người có tư duy kém hơn so với người lớn. Công việc của ông cung cấp bằng
chứng cho thấy trẻ em không thua kém về mặt nhận thức so với người lớn. Ông chứng minh rằng trẻ em
phát triển khác biệt bằng cách thiết lập một lý thuyết liên quan đến các giai đoạn nhận thức (Hình 1).

Lý thuyết của ông chia sự phát triển thành bốn giai đoạn rời rạc. Mặc dù Piaget chưa bao giờ liên kết
trực tiếp nghiên cứu của mình về phát triển nhận thức với giáo dục, nhưng lý thuyết của ông đóng một
vai trò quan trọng trong những đóng góp của ông trong các lý thuyết học tập.

Hình 1: Các giai đoạn phát triển nhận thức


 Cảm giác vận động (Sensorimotor): Tư duy phát triển từ việc dựa trên các trị giác (nghe, nhìn) và
hành động (nắm, mút, sờ mó..) trong 2 năm đầu đời (theo cơ chế kích thích – phản ứng), và
hưởng đến tư duy bằng mô hình biểu tượng ở cuối giai đoạn.
 Trước hoạt động (Pre-Operational): Các mô hình đại diện cho đối tượng dựa vào các biểu tượng
(iconic), ban đầu là bằng chức năng biểu tượng (khoảng 2-4 tuổi) khi trẻ có thể hiểu, miêu tả, ghi
nhớ và họa hình các đối tượng trong trí nhớ của nó mà không có đối tượng trước mặt. Sau đó
chuyển sang giai đoạn trực quan suy nghĩ (khoảng 4-6 tuổi) khi trẻ có xu hướng đặt câu hỏi tại
sao?
 Hoạt động cụ thể (Concrete Operational): Tư duy của một đứa trẻ trưởng thành hơn với khả
năng giải quyết vấn đề qua trải nghiệm các sự kiện và đối tượng cụ thể, tuy nhiên, tư duy trừu
tượng chưa phát triển.
 Hoạt động chính thức (Formal Operations): Tư duy trừu tượng phát triển với khả năng giả
thuyết và suy luận, nó cho phép duy trì sự tập trung, suy nghĩ, theo dõi, và giải quyết vấn đề
thông qua trải nghiệm có hệ thống, có phương pháp.

Dựa trên nghiên cứu về sự phát triển nhận thức của trẻ em, Piaget đã xác định các quá trình về “sự điều
ứng - accommodation" (điều chỉnh sự thể hiện tinh thần của một người với thế giới bên ngoài để phù
hợp với những trải nghiệm mới) và “sự đồng hóa – assimilation" (quá trình một người hoặc nhiều người
thu nhận các đặc điểm xã hội và tâm lý của một nhóm) là chìa khóa trong sự tương tác giữa kinh nghiệm
và ý tưởng. Hai quá trình này tập trung vào việc học tập diễn ra như thế nào hơn là những gì ảnh hưởng
đến việc học.

Có thể nêu vắn tắt các luận điểm chính của Thuyết kiến tạo nhận thức như sau:

Thứ nhất: Học tập là quá trình cá nhân hình thành các tri thức cho mình. Có hai loại tri thức: tri thức về
thuộc tính vật lý, thu được bằng cách hành động trực tiếp với các sự vật; tri thức về tư duy, quan hệ
toán, logic thu được qua sự tương tác với người khác trong các quan hệ xã hội. Học tập là quá trình cá
nhân tổ chức các hành động tìm tòi, khám phá thế giới bên ngoài và cấu tạo lại chúng dưới dạng các sơ
đồ (cấu trúc) nhận thức. Sơ đồ là một cấu trúc nhận thức bao gồm một lớp các thao tác giống nhau theo
một trật tự nhất định. Sơ đồ nhận thức được hình thành từ các hành động bên ngoài và được nhập tâm.
Vì vậy, sơ đồ có bản chất thao tác và được người học xây dựng lên bằng chính hành động của mình. Sự
phát triển nhận thức là sự phát triển hệ thống các sơ đồ, bắt đầu từ các giản đồ cảm giác và vận động
(cấu trúc giác – động, tương ứng với trẻ em từ 0-2 tuổi) → Cấu trúc tiền thao tác (các hình ảnh tinh thần,
hình ảnh biểu trưng, kí hiệu và biểu tượng, ứng với thời kỳ từ 2-7 tuổi) → Cấu trúc thao tác cụ thể (ứng
với thời kỳ 7- 11,12 tuổi) → Cấu trúc thao tác hình thức (ứng với thời kỳ 12 tuổi trở lên). Thao tác – hành
động bên trong, được nảy sinh từ hành động có đối tượng bên ngoài. Tuy nhiên khác với hành động,
thao tác là hành động có tính rút gọn và đối tượng của nó không phải là những sự vật có thực mà là
những hình ảnh, biểu tượng, ký hiệu. Thao tác cụ thể là các thao tác nhận thức với vật liệu là các dạng
vật chất cụ thể, các hành động thực tiễn. Thao tác hình thức là thao tác trên các vật liệu là các ký hiệu,
khái niệm, mệnh đề… Các thao tác được cấu trúc thành hệ thống nhất định. Cấu trúc thao tác nhận thức
không có sẵn trong đầu đứa trẻ, cũng không nằm trong đối tượng khách quan, mà nằm ngay trong mối
tác động qua lại giữa chủ thể với đối tượng, thông qua hành động.

Thứ hai: Dưới dạng chung nhất, cấu trúc nhận thức có chức năng tạo ra sự thích ứng của cá thể với các
kích thích của môi trường. Các cấu trúc nhận thức được hình thành theo cơ chế đồng hoá và điều ứng.
Đồng hoá là chủ thể tái lập lại một số đặc điểm của khách thể được nhận thức, đưa chúng vào trong các
sơ đồ đã có. Ví dụ: Một đứa trẻ đã thấy con chó, có sơ đồ về con chó, nếu gặp con chó thực khác, nó sẽ
đưa hình ảnh con chó đó vào trong sơ đồ đã có. Điều ứng là quá trình tái lập lại những đặc điểm của
khách thể vào cái đã có, qua đó biến đổi cấu trúc đã có, tạo ra cấu trúc mới. Ví dụ: Khi lần đầu nhìn thấy
con bò (chưa có sơ đồ về con bò), nó đưa hình ảnh con bò vào sơ đồ con chó và nói ngay đó là con chó,
dẫn đến không thích ứng (sai), nó phải cải tổ lại sơ đồ con chó (nhờ sự tham gia của hình ảnh con bò) để
tạo ra sơ đồ mới – sơ đồ con bò.

Trong đồng hoá, các kích thích được chế biến cho phù hợp với sự áp đặt của cấu trúc đã có, còn trong
điều ứng, chủ thể buộc phải thay đổi cấu trúc cho phù hợp với kích thích mới. Đồng hoá dẫn đến tăng
trưởng các cấu trúc đã có, còn điều ứng tạo ra cấu trúc mới. Đồng hoá làm tăng trưởng, điều ứng làm
phát triển.

Thứ ba: Quá trình phát triển nhận thức phụ thuộc trước hết vào sự trưởng thành và chín muồi các chức
năng sinh lý thần kinh của trẻ em; vào sự luyện tập và kinh nghiệm thu được thông qua hành động với
đối tượng; vào tương tác của các yếu tố xã hội và vào tính chủ thể và sự phối hợp chung của hành động.
Chính yếu tố chủ thể làm cho các yếu tố trên không tác động riêng rẽ, rời rạc, mà chúng được kết hợp
với nhau trong một thể thống nhất trong quá trình phát triển của trẻ.

3. Cơ sở tiếp cận tri thức

Cơ sở tiếp cận tri thức theo quan điểm của thuyết kiến tạo là:

- Hoạt động là nguồn gốc nảy sinh và phát triển tri thức.

- Nhận thức là quá trình thích nghi và sắp xếp lại thế giới quan của người học.

- Mâu thuẫn là động lực của sự phát triển. Con người nhận thức thế giới bằng các thao tác trí tuệ để giải
quyết sự mất cân bằng giữa kiến thức, kĩ năng của họ với yêu cầu mới của môi trường sống, các thao tác
trí tuệ này ở mức nào cũng thực hiện sự đồng hoá và điều tiết để tạo ra một sự cân bằng. Tuy nhiên, sự
cân bằng vừa được thiết lập lại nhanh chóng tỏ ra mất cân bằng và tạo ra động lực cho sự phát triển.

- Vai trò của cá nhân và vai trò của môi trường được coi trọng trong quá trình kiến tạo tri thức của mỗi
cá nhân. Người học phải là chủ thể của hoạt động nhận thức, người học phải tự ý thức được nhu cầu,
hứng thú của việc học, từ đó tích cực tìm hiểu tri thức mới, tích cực tạo ra xung đột trong quá trình nhận
thức của mỗi cá nhân. Dạy học là mối tác động qua lại giữa thầy giáo - học trò - môi trường. Bởi vậy lớp
học phải được coi như xã hội thu nhỏ, ở đó chứa đựng những tình huống học tập, việc giải quyết các
tình huống đó như là nhu cầu tất yếu của cuộc sống.

- Lí thuyết kiến tạo dựa trên cơ sở tất cả các tri thức đều phải là sản phẩm của hoạt động nhận thức,
bằng cách xây dựng tri thức mới trên những tri thức đã được kiến tạo, người học có thể nắm bắt tốt hơn
các khái niệm, họ có thể đi từ nhận biết các sự vật sang hiểu chúng và tìm được mối quan hệ của chúng
với các sự vật khác.

4. Quan điểm kiến tạo trong dạy học

4.1. Hoạt động dạy học


Hoạt động dạy học của người dạy được thể hiện ở hai chức năng uỷ thác và thể chế hoá.

- Uỷ thác không phải là bắt học trò học tập theo ý của thầy giáo một cách khiên cưỡng mà phải làm sao
cho họ tự giác biến ý đồ dạy của thầy thành nhiệm vụ học của mình và đảm nhiệm quá trình hoạt động
để KIẾN TẠO tri thức. Giáo viên phải gợi ra những vấn đề học sinh giải quyết, sao cho hoạt động của học
trò “gần giống" với hoạt động của nhà nghiên cứu.

- Thể chế hoá là việc chuyển hoá kiến thức mà học trò kiến tạo được thành trị thức của xã hội. Trong
việc này cần phải có vai trò của người dạy, qua đó, người học được chính thức chấp nhận kiến thức tìm
ra là một tri thức chung của xã hội và người dạy chính thức chấp nhận kết quả đạt được của học trò.
Muốn thể chế hoá một kiến thức, người dạy phải giúp người học:

+ Xác nhận kiến thức đó;

+ Đồng nhất hoa kiến thức mà người học đã đạt được;

+ Cho học sinh thấy kiến thức đã được xác nhận là một kiến thức hữu ích cần được ghi nhớ để vận dụng;

+ Chỉ ra vị trí của tri thức mới trong hệ thống các tri thức đã biết, làm cho học sinh nắm được tri thức đó
theo đúng mục đích, yêu cầu, cách thức diễn đạt và mức độ quy định trong chương trình, hướng dẫn ghi
nhớ và vẫn dung tri thức đó.

4.2. Quan điểm kiến tạo trong dạy học

Quan điểm kiến tạo trong dạy học khẳng định rằng, người học cần phải tạo nên những hiểu biết về thế
giới bằng cách tổng hợp những kinh nghiệm mới vào trong những cái mà họ đã có trước đó. Người học
tạo nên kiến thức của bản thân bằng cách điều khiển những ý tưởng và cách tiếp cận dựa trên những
kiến thức và kinh nghiệm đã có, áp dụng chúng vào những tình huống mới, hợp thành một thể thống
nhất giữa kiến thức mỗi thu nhận được với những kiến thức đang tồn tại trong trí óc.

4.2.1. Mô hình của dạy học theo thuyết kiến tạo:

Trong DẠY HỌC KIẾN TẠO, người học đạt được kiến thức mới phải thông qua quá trình huy động tất cả
vốn kiến thức, kinh nghiệm đã có cùng với khả năng suy luận có lí, khả năng tư duy biện chứng, khả năng
liên tưởng, khả năng tư duy logic để kiểm nghiệm giả thuyết vừa hình thành. Ở đây, khâu dự đoán có
thể xem là khâu trung tâm của hoạt động, tiếp đến là khâu huy động kiến thức, huy động các liên tưởng.

4.2.2. Tiến trình của DẠY HỌC KIẾN TẠO bao gồm:
Bước 1: Làm bộc lộ quan niệm của người học. Trong bước này, người dạy giúp người học hệ thống, ôn
lại các kiến thức cũ có liên quan đến kiến thức mới bằng cách sử dụng các câu hỏi, các bài tập. Sau đó
người thầy hoặc người học sẽ nêu vấn đề (bài tập, thí nghiệm, câu hỏi, ...), từ đó tạo cơ hội cho người
học bộc lộ quan niệm của mình về vấn đề học tập.

Bước 2: Tổ chức điều khiển người học thảo luận. Người dạy tổ chức cho người học đề xuất các giả
thuyết, kiểm tra giả thuyết (thử và sai) phân tích kết quả và từ đó rút ra kết luận chung cho cả lớp.

Bước 3: Tổ chức cho người học vận dụng kiến thức. Người dạy tổ chức cho người học vận dụng kiến
thức giải quyết các vấn đề về lí thuyết cũng như thực tiễn qua đó giúp người học khắc sâu hơn kiến thức
mới.

3.2.3. Ứng dụng công nghệ thông tin vào tiến trình dạy học kiến tạo:

- Xây dựng diễn đàn trực tuyến để cho người học bộc lộ các quan niệm của mình theo từng chủ đề mà
người dạy đặt ra.

- Sử dụng các phần mềm để xây dựng hệ thống câu hỏi ôn tập, kiểm tra các kiến thức cũ, cũng như vận
dụng để khắc sâu kiến thức mới cho người học. - Mô phỏng các quá trình, hiện tượng để nêu vấn đề. -
Sử dụng các thí nghiệm để người học kiểm tra giả thuyết, phân tích kết quả để rút ra các kết luận.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nghiên cứu giáo dục. (n.d.). Bài 4: Thuyết kiến tạo (Constructivism). Retrieved April 15, 2023, from
https://nghiencuugiaoduc.com.vn/bai-4-thuyet-kien-tao-constructivism/

Nguyễn Quốc Trị (2017). Thuyết kiến tạo - Cơ sở lí luận của đổi mới chương trình giáo dục phổ thông
Việt Nam. 62(1A), 58–65. https://doi.org/10.18173/2354-1075.2017-0030

Lê Thị Lệ Hà, Lưu Thanh Tú & Nguyễn Thị Lan Anh. (2016). Tiếp cận lí thuyết kiến tạo trong dạy học. Tạp
chí Giáo Dục

You might also like