You are on page 1of 47

Phân tích bài thơ Nói với con của Y Phương - Văn mẫu lớp 9

Dàn ý Phân tích bài Nói với con

+ Mở bài:

– Giới thiệu qua tác giả và tác phẩm: Nhà thơ Y Phương là một nhà thơ đặc trưng
cho người dân tộc, thơ ông là tiếng nói được phát từ sâu thẳm trái tim, vừa gần gũi,
giản dị nhưng cũng chứa đựng nhiều giá trị nhân văn sâu sắc.

– Bài thơ “Nói với con” là một tác phẩm hay của Y Phương nói lên tình cảm thiêng
liêng giữa cha và con. Một thứ tình cảm cao quý đáng nâng niu trân trọng.

– Bài thơ giống như lời chia sẻ, trò chuyện của một người đi trước với người đi sau,
của một người cha dành cho đứa con máu mủ của mình, những kỷ niệm khó quên.

+ Thân bài:

Ngay từ những câu đầu tiên lời thơ đã giống như một lời tự sự:

Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười

– Một đứa trẻ khi ngày từ khi được hình thành lên từ trong bụng mẹ đã mang rất
nhiều tâm sự, yêu thương, bao bọc của những người thân yêu, của cha mẹ.

– Mở rộng lời bài hát “Nhật ký của mẹ” do nhạc sĩ Nguyễn Văn Chúng sáng tác có
những câu sau: “Bao ngày mẹ ngóng, bao ngày mẹ trông, bao ngày mẹ mong con
chào đời…” Đó chính là nỗi lòng yêu thương của bậc làm cha, làm mẹ dành cho hài
nhi bé bóng của mình.

– Hình ảnh một em bé chập chững biết đi những bước chân đầu tiên trên đường đời
luôn được sự cổ vũ động viên từ những người thương yêu chính là cha mẹ.

– Trong những câu thơ tiếp theo tác giả lại gieo vào lòng người đọc những tình cảm
thân thuộc, tình cảm đồng bào, tình làng nghĩa xóm đầy quý mến, trân trọng.

Người đồng mình thương lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa


Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời

– Trong những câu thơ này tác giải đã kể về những kỷ niệm, những cánh rừng đầy
hoa, những con đường thân thuộc gần gũi, giản dị, nhưng sâu sắc chứa đựng biết
bao tình nghĩa

– Tác giả muốn qua những câu thơ này để gợi nhớ cho con phải biết yêu thương
xóm làng, yêu thương những con người gắn bó với mình, những người tuy không
cùng chúng giòng máu nhưng lại thân thiết hơn cả ruột thịt.

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn

– Tình cảm người cha muốn gửi tới con dù cuộc sống có nhiều khó khăn, vất vả,
nhưng những con người nơi đây luôn tràn đầy nhiệt huyết.

– Theo tác giả Y Phương muốn nhắn nhủ tới con mình về những chặng đường phía
trước.

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc

– Những câu thơ đầy tình nghĩa tác giả răn dậy con mình không được quên gốc rễ
nguồn cội.

Người đồng mình thô sơ da thịt

Chằng mấy ai nhỏ bé đâu con


– Trong hai câu thơ này tác giả muốn truyền cho người con của mình có thêm lòng
tin sức mạnh vào cuộc sống.

– Trong hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm Pháp và Mỹ rất nhiều người
đồng bào dân tộc chính là nơi nuôi quân, chiến đấu vô cùng anh dũng.

– Mở rộng trong thời kỳ những năm bác hồ Cao Bằng lập căn cứ điểm cách mạng
thì chính đồng bào dân tộc là những người đã trợ giúp các anh bộ đội cụ Hồ rất tích
cực.

+ Kết

– Bài thơ “Nói với con” là một bài thơ mang những lời tâm sự, chia sẻ, gửi gắm của
một người cha tới người con yêu thương của mình. Những lời dạy sâu sắc về tình
nghĩa, tình người, về ý chí trên đường đời.

– Bài thơ nhẹ nhàng, chân thật, như chính nỗi lòng của tác giả đã để lại trong lòng
người đọc nhiều cảm xúc khó phai.

 Soạn bài Nói với con siêu ngắn

Phân tích bài thơ Nói với con của Y Phương mẫu 1

Viết về tình cảm gia đình, niềm tự hào đối với quê hương và sự ước vọng của mẹ
cha dành cho con cái, muốn con khôn lớn trưởng thành là một trong những chủ đề
được trở đi trở lại nhiều lần trong suốt chiều dài nền văn học. Ta có thể bắt gặp hình
ảnh người mẹ Tà ôi địu con lên rẫy hát ru con thấm đượm nghĩa tình cách mạng
trong bài thơ "Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ" của Nguyễn Khoa Điềm
hay đó là hình ảnh người mẹ đưa nôi hát ru con với lời ru ngọt ngào, tha thiết trong
bài thơ "Con cò" của Chế Lan Viên...

Mỗi nhà thơ, bằng sự trải nghiệm và tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim, hòa
cùng những rung cảm mãnh liệt của nghệ thuật đã diễn tả thật hay, thật độc đáo,
mới mẻ về những tình cảm thiêng liêng, cao đẹp ấy. Y Phương – một nhà thơ dân
tộc Tày, với một phong cách thơ hồn nhiên, trong sáng, chân thật, giàu hình ảnh
cũng đã góp mình vào chủ đề đó qua bài thơ "Nói với con" (1980).

Bài thơ là lời tâm tình sẻ chia của người cha dành cho con với niềm hi vọng người
con sẽ tiếp nối, phát huy được những phẩm chất truyền thống cao đẹp, quí báu của
"người đồng mình", làm cho quê hương, dân tộc mình ngày một vững mạnh hơn.
Trước hết, mở đầu bài thơ là lời tâm tình của người cha nói với con về cội nguồn
sinh dưỡng: con lớn lên bởi tình yêu của cha mẹ và quê hương. Đầu tiên, người cha
nói về tình cảm gia đình – cái nôi đầu tiên nuôi dương người con khôn lớn trưởng
thành:

"Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười"

Bằng những hình ảnh cụ thể, giàu tính chất tạo hình " chân phải", "chân trái", "tiếng
nói", "tiếng cười", nhà thơ đã dựng lên trước mắt người đọc hình ảnh của một em bé
đang chập chững tập đi và bi bô tập nói bên cạnh cha mẹ. Từ đó, Y Phương gợi tả
được không khí gia đình thật ấm áp, hạnh phúc, tràn ngập tiếng cười nói của trẻ thơ.

Đồng thời nhà thơ đã cho người đọc thấy được từng bước đi, từng tiếng cười nói
của con đều được cha mẹ nâng niu, chăm sóc, mong chờ. Đó là tình cảm gia đình
ruột thịt, là công lao trời bể lớn lao và thiêng liêng mà cha mẹ dành cho con cái,
muốn người con luôn phải khắc cốt ghi tâm.

Bên cạnh tình cảm gia đình, người cha muốn nói cho con biết về cội nguồn sinh
dưỡng rộng lớn hơn đó là tình làng,quê hương nghĩa xóm:

Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng.

Với cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi, nhà thơ Y Phương đã miêu tả
thật chân thực, sinh động cuộc sống lao động thật nghĩa tình và thơ mộng của
"người đồng mình". "Người đồng mình" là để chỉ những người vùng mình, miền
mình, những người cùng sống trên một miền đất, quê hương, cùng dân tộc.

Câu thơ sử dụng từ ngữ hô gọi "con ơi" kết hợp với từ tình thái "yêu lắm" làm cho
lời thơ trở nên ngọt ngào, chan chứa niềm tự hào với tình yêu thương quê hương da
diết. Cuộc sống lao động cần cù và vui tươi của "người đồng mình" được gợi lên
qua một số những hình ảnh rất cụ thể, giàu sức gợi: "đan lờ" – dụng cụ đánh bắt cá
của người dân miền núi, dưới bàn tay khéo léo đã thành "cài nan hoa"; những ngôi
nhà sàn không chỉ được dựng lên bằng những tấm ván gỗ mà còn được tạo nên bởi
những "câu hát" - chiều văn hóa, lối sống của "người đồng mình".

Những động từ "đan", "cài", "ken" vừa có tác dụng diễn tả những động tác lao động;
lại vừa cho thấy những phẩm chất cần cù, chịu khó, yêu lao động, yêu cuộc sống,
chan chứa niền vui của những bàn tay khéo léo, tài hoa của người dân miền núi.
Cũng nói về quê hương, người cha còn nhắc tới "rừng núi" và những "con đường"
của "người đồng mình":

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng.

Rừng không chỉ cho gỗ, cho măng tre mà còn cho cả "hoa". "Hoa" là sản phẩn của
thiên nhiên, là sự kết hợp những gì tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất, lãng mạn nhất của trời
và đất mà rừng núi quê hương đã ban tặng cho con người nơi đây. Còn "con đường"
là sợi dây liên kết gắn bó, chặt chẽ của những "người đồng mình".

Những "con đường" ấy được tạo nên bởi những "tấm lòng" nhân hậu, bao dung. Đó
là con đường ra thung ra suối, con đường vào làng vào bản, con đường tới trường,
tới lớp, con đường ra ruộng, ra đồng... Chính những con đường đó đã gắn bó tình
đoàn kết của những con người nơi đây.

Như vậy, thiên nhiên rừng núi không chỉ ban tặng cho con người cái đẹp của tạo
hóa mà còn che chở, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn, lối sống. Từ tình cảm
quê hương, người cha đột ngột chuyển sang nói với con về tình cảm riêng tư của
"ngày cưới":

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.

Không ít người đã thắc mắc về sự chuyển biến đột ngột này. Y Phương chia sẻ: tình
cảm của những đôi trai gái, của cha mẹ được nảy nở, bắt nguồn từ tình yêu đối với
quê hương, tình yêu đối với cuộc sống lao động. Như vậy, nhà thơ quan niệm: khi
con người sống gắn bó với quê hương, với lao động thì con người sẽ tìm được tình
yêu, hạnh phúc.
Vì thế, người con từ đó được ra đời không chỉ là xuất phát từ sự kết tinh tình yêu
của cha mẹ mà còn xuất phát từ là tình cảm rộng lớn của quê hương. Và quê hương
đã cho con nghĩa tình, đã bao bọc, chở che con ngay từ khi bắt đầu con cất tiếng
khóc chào đời.

Từ việc nhắc lại cội nguồn sinh dưỡng ở khổ đầu, đến khổ hai, người cha tiếp tục
ngợi ca những đức tính cao đẹp của người đồng mình, gợi cho con lòng tự hào về
quê hương, dân tộc, dặn dò con cần phát huy và sống thật xứng đáng với truyền
thống của quê hương mình:

Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc.

Câu thơ đầu được điệp lại "Người đồng minh thương lắm con ơi" nhưng đã có sự
thay đổi chút ít. Nếu như câu thơ ở khổ đầu là "yêu" tức là xuất phát từ tình cảm
chân thành, từ trái tim tha thiết thì đến câu thơ ở khổ hai này lại là: "thương".
"Thương" là một trạng thái tình cảm không chỉ xuất phát từ trái tim yêu thương
chân thành nữa mà còn gói gém cả sự sẻ chia, đồng cảm ở trong lòng.

Chính vì thế, "người đồng mình" – những con người cùng miền đất, quê hương, dân
tộc cùng chí hướng đã đoàn kết, gắn bó, sẻ chia và đồng cảm với nhau mà dựng xây
quê hương mình trở nên ngày một giàu đẹp hơn.

Hai câu tiếp: Sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, kiên cường của "người đồng mình". Nghệ
thuật đối lập tương phản: " cao đo – xa nuôi", "nỗi buồn – chí lớn", tác giả đã diễn
tả những trạng thái khác nhau của "người đồng mình". "Nỗi buồn – chí lớn" là khái
niệm vô hình nhưng đã được tác giả hình dung cụ thể như có hình, có khối.
"Người đồng minh" buồn, lo lắng, khắc khoải ở trong lòng vì trước mắt họ là biết
bao nhiêu là khó khăn, gian nan thử thách; khi mà cả quê hương họ còn chưa vươn
tới được tầm cao nhân văn, vẫn còn quanh quẩn với cái đói, cái nghèo. Nhưng
"Người đồng mình" không bao giờ nhụt chí, mạnh mẽ, vững vàng đối diễn với
những khó khăn, thách thức ấy mà đưa quê hương tiến lên phía trước, trở nên giàu
mạnh, phát triển, văn mình.

Câu thơ giản dị , mộc mạc nhưng đã diễn tả được tinh thần, ý chí quật cường, mạnh
mẽ của người dân vùng cao. Niềm tự hào về con người quê hương gắn liền với
những phẩm chất quí báu mà người cha muốn truyền cho con:

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc.

Nhà thơ đã sử dụng rất nhiều những hình ảnh để nói tới cuộc sống của người miền
núi như: "đá gập ghềnh", "thung nghèo đói" "lên thác xuống ghềnh" có ý nghĩa diễn
tả những khó khăn, vất vả, nghèo đói và nhọc nhằn mà họ đã và đang phải đương
đầu. Điệp ngữ "sống ... không chê" (2 lần), kết hợp với nhịp thơ nhanh, dồn dập và
biện pháp so sánh "như sông như suối" có tác dụng diễn tả sức sống mạnh mẽ, mãnh
liệt, bền bỉ của những người con miền núi cao trước cuộc sống khó khăn, vất vả khi
mà chiến tranh lùi xa không được bao lâu.

Qua đó, nhà thơ thể hiện niềm tự hào về "người đồng mình" với sức mạnh, ý chí
thật phóng khoáng, đoàn kết, gắn bó thiết tha của họ đối với nơi chôn rau cắt rốn
của mình. Từ đó, người cha mong muốn con: phải sống có tình, có nghĩa, thủy
chung với quê hương, đất nước, dân tộc mình; biết chấp nhận và sẵn sàng vượt qua
những khó khăn, thử thách bằng ý chí, nghị lực và niềm tin tất thắng.

Đến bốn câu thơ tiếp theo mạch tâm tình nhắn nhủ của người cha dành cho con vẫn
được tiếp nối nhưng đã chuyển sang giọng điệu triết lí sâu sắc:

Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con


Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục.

Nghệ thuật đối lập tương phản: giữa ngoại hình và tâm hồn. Hình ảnh "thô sơ da
thịt" diễn tả vẻ đẹp mộc mạc, bình dị, chân chất, khẳng khái của "người đồng mình".
Nhưng họ không hề "nhỏ bé" về tâm hồn mà rất giàu lòng tự trọng, giàu chí khí,
niềm tin cao đẹp với khát vọng dựng xây, phát triển quê hương. Muốn vậy, "người
đồng mình" phải lao động:

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục.

Câu thơ có hai lớp nghĩa tả thực và ẩn dụ. Và tác giả đã miêu tả cuộc sống lao động
của họ qua cụm từ "tự đục đá" thường thấy của người dân miền núi cao. Công việc
của họ rất vất vả, nặng nhọc nhưng họ sẵn sàng tự nguyện làm vì sự phát triển của
quê hương mình.

Nhưng hình ảnh "kê cao quê hương" còn là hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng cho lòng tự
hào, tự tôn dân tộc của "người đồng mình". Chính những con người cần cù, nhẫn
nại, bằng đôi tay lao động của mình đã làm nên quê hương, làm nên phong tục tập
quán lâu đời tốt đẹp của dân tộc.

Kết thúc bài thơ là lời nhắn nhủ, dặn dò người con phải tự hào về truyền thống quê
hương, lấy những tình cảm ấy làm hành trang bước vào đời:

Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con.

Hình ảnh "thô sơ da thịt" được lặp lại lần hai có tác dụng khẳng định và nhấn mạnh
lại niềm mong muốn của người cha dành cho con: Người đồng mình tuy mộc mạc,
chân chất, bình dị, bộc trực, khẳng khái nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, luôn
vươn tới những lẽ sống cao đẹp. Vì thế, trên đường đời, con phải thật tự tin, tự hào
về quê hương, sống xứng đáng với "người đồng mình", không cúi đầu trước giông
tố khó khăn, vất vả ở phía trước.
Bởi đằng sau con luôn có tình cảm chở che, nâng đỡ của cha mẹ, gia đình, của quê
hương và đặc biệt trong bản thân con chất chứa phẩm chất quí báu của "người đồng
mình". Hai tiếng "nghe con" ở cuối bài thơ chứa đựng biết bao nhiêu là yêu thương
và niềm tin của người cha dành cho con, nhẹ nhàng, xao xuyến.

Tóm lại, bằng bố cục chặt chẽ, dẫn dắt tự nhiên, bằng những hình ảnh cụ thể mà vẫn
giàu chất thơ, "Nói với con" đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền
thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình. Điều lớn lao nhất
mà người cha truyền đến được cho con chính là lòng tự hào về quê hương và niềm
tự tin khi bước chân vào đời.

Khi biết tự hào một cách chính đáng thì sẽ có lòng tự tin vững chắc. "Lên đường/
Không bao giờ nhỏ bé được / Nghe con" – bài thơ là lời nhắc nhở thấm thía mỗi con
người về nghĩa tình gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong
cuộc sống.

Phân tích bài thơ Nói với con của Y Phương mẫu 2

Tình cảm gia đình luôn là một chủ đề lớn, thu hút được sự quan tâm của các tác giả.
Mỗi người có những khám phá, phát hiện riêng về chủ đề này, làm phong phú thêm
kho tàng văn học Việt Nam. Góp một phần nhỏ bé nhưng cũng không kém phần đặc
sắc đó là bài thơ Nói với con của nhà thơ Y Phương. Tác phẩm là những lời nói
chân thành của người cha với con, qua đó thể hiện được những triết lí, chiêm
nghiệm sâu sắc của ông.

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh của một đứa trẻ thật ngây thơ, đáng yêu với những
bước chân chập chững: “Chân phải bước tới cha/ Chân trái bước tới mẹ/ Một bước
chạm tiếng nói/ Hai bước tới tiếng cười”. Nhưng câu thơ không chỉ dừng lại ở đó,
mà sâu xa hơn tác giả muốn nói về cuội nguồn con được sinh ra là từ tình yêu
thương của cha mẹ.

Câu thơ với nhịp 2/3 thật nhịp nhàng, hài hòa kết hợp với biện pháp lặp cấu trúc,
phép liệt kê “chân trái - chân phải”, “một bước – hai bước” “tiếng nói – tiếng cười”,
tác giả đã tạo ra âm điệu vui tươi, quấn quýt, hòa hợp với nhau. Từng bước con đi
luôn được cha mẹ quan tâm, chăm chút; từng tiếng con cười luôn là niềm vui, niềm
hạnh phúc cho cha mẹ. Từ đó tác giả muốn hướng đến một điều cao cả hơn đó là
con được sinh ra trong hạnh phúc và lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, gia
đình là cái nôi ấm áp nuôi dưỡng mỗi chúng ta trưởng thành, khôn lớn.
Bảy câu thơ tiếp theo lại vẽ ra khung cảnh lao động tươi vui của người đồng mình,
và con cũng được lớn lên trong chính tình đồng bào ấm áp, thuận hòa ấy. Cuộc sống
của người đồng mình diễn ra hết sức vui tươi: Đan lờ cài nan hoa/ Vách nhà ken câu
hát. Cách gọi người đồng mình thật giản dị, thân thương, đó là những người miền
mình, sống cùng trên một mảnh đất quê hương.

Với ngôn từ đậm màu sắc địa phương tác giả đã vẽ ra không khí lao động vui vẻ:
những chiếc lờ bắt cá dưới đôi bàn tay khéo léo của họ tạo nên những bông hoa đẹp
đẽ; vách nhà không chỉ được ken bằng tre nứa mà còn được làm từ những câu hát.
Câu thơ không chỉ cho thấy sự tài hoa, khéo léo của người đồng mình mà còn thấy
lối sống lạc quan, yêu đời của họ. Các động từ “cài, ken” đi kèm danh từ “nan hoa,
câu hát” vừa cho thấy đôi bàn tay khéo léo vừa cho thấy cuộc sống ngập tràn niềm
vui.

Thiên nhiên nơi đây luôn bao bọc, che chở cho con người, hai câu thơ vừa khái quát
vừa có sức gợi lớn. Núi rừng quê hương không chỉ thơ mộng mà luôn tràn đầy tình
nghĩa. Chính thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng con cả về tâm hồn và lối sống.
Quê hương đã cho con những gì tốt đẹp nhất để nuôi dưỡng con trưởng thành. Và
đây chính là chiếc nuôi thứ hai nuôi con khôn lớn.

Người đồng mình không chỉ tài hoa, khéo léo mà còn mang trong mình những phẩm
chất tốt đẹp. Trước hết họ là người có ý chí, nghị lực kiên cường vượt qua mọi khó
khăn: “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn”. Trong cuộc sống họ phải đối mặt với
không ít gian nan, trắc trở nhưng họ luôn có ý chí, nghị lực để vượt qua mọi thử
thách ấy. Câu thơ như một lời khẳng định: cuộc sống nhiều gian truân, vất vả chỉ
rèn thêm ý chí, nghị lực cho con người.

Họ còn có tấm lòng thủy chung với quê hương: “Sống trên đá không chê đá gập
ghềnh/ Sống trong thung không chê thung nghèo đói”. Câu thơ vừa khẳng định vẻ
đẹp phẩm chất của người đồng mình vừa như một lời dặn dò con phải luôn có lối
sống thủy chung, tình nghĩa với quê hương. Họ còn sống phóng khoáng, lạc quan,
điều này được tác giả khắc họa qua hình ảnh so sánh đặc sắc “sống như sông như
suối” kết hợp với thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” gợi nên cuộc sống lao động đầy
vất vả, thế nhưng họ vẫn “không lo cực nhọc” rất lạc quan, yêu đời.

Họ tự tin, bản lĩnh, yêu đời và họ tự tay xây dựng lên phong tục, tập quán quê
hương mình: “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương/ Còn quê hương thì
làm phong tục”. Câu thơ đã cho thấy những công việc hàng ngày của họ thật dung
dị nhưng chính nó làm nên nét phong tục, đặc trưng cho nơi đây. Bởi vậy câu thơ đã
khái quát tinh thần tự tôn, ý thức xây dựng và phát triển, bảo vệ cội nguồn của tác
giả. Qua đó người cha mong muốn con hãy kế tục và phát huy truyền thống quê
hương, hãy lấy đó làm hành trang để vững bước vào đời:

"Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con"

Hai tiếng “con ơi” vang lên thật trìu mến, tha thiết, dồn nén biết bao tin tưởng, hi
vọng của người cha vào đứa con bé bỏng, đáng yêu. Lời nói như một lời cổ vũ,
động viên con hãy cố gắng trên bước đường đời để ghi dấu ấn mình trong cuộc
sống. Lời thơ còn mang ý nghĩa khái quát không chỉ là lời cha nói với con mà còn là
lời trao gửi, động viên đến biết bao thế hệ.

Bài thơ được viết bằng giọng điệu thơ tha thiết, trìu mến. Xây dựng những hình ảnh
cụ thể mà vẫn hết sức khái quát, chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa. Ngôn ngữ mộc mạc,
giản dị mà sâu sắc vô cùng. Xây dựng bố cục thơ chặt chẽ, hợp lí, cách dẫn dắt tự
nhiên, hấp dẫn.

Qua bài thơ tác giả đã khái quát được một thứ tình cảm thiêng liêng bất diệt trong
mỗi con người đó là tình cảm gia đình mà rộng ra là niềm tự hào quê hương, đất
nước. Chính những yếu tố này nâng bước, dìu dắt mỗi chúng ta trên đường đời đầy
giông bão. Kết hợp với ngôn ngữ tự nhiên, giọng điệu chân thành đã tạo nên sức
hấp dẫn và thành công cho tác phẩm.

Phân tích bài thơ Nói với con của Y Phương mẫu 3

Y Phương là nhà thơ dân tộc Tày, sinh và lớn lên ở vùng đất non cao, với tư duy
mộc mạc, giản dị những vần thơ của ông cũng chân thành như chính tâm tư, tình
cảm của con người nơi đây. Nhắc đến Y Phương là nhắc đến bài thơ Nói với con
nổi tiếng về tình cảm gia đình thiêng liêng sâu nặng

Nói với con được Y Phương sáng tác khi đứa con đầu lòng của ông ra đời. Bởi vậy
bài thơ chứa đựng niềm hạnh phúc dạt dào của một người lần đầu được làm cha.
Không chỉ vậy, bài thơ còn cho thấy ý thức của người cha muốn vun đắp, muốn cho
con hiểu rõ cội nguồn của bản thân và luôn tự hào về nơi mình sinh ra.
Trước hết, bài thơ cho người con thấy nguồn cội mình được sinh ra chính là tình yêu
thương của cha mẹ và sự đùm bọc của những người đồng mình.

Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười

Bằng những hình ảnh hết sức cụ thể cùng với đó là việc lặp cấu trúc, phép liệt kê Y
Phương đã tạo ra âm điệu tươi vui, quấn quýt, hòa hợp trong một gia đình nhỏ đầy
ắp hạnh phúc. Đồng thời bốn câu thơ xuất hiện nối tiếp qua các động từ “bước,
chạm, tới” và cái đích đến của người con là hai chữ thật giản dị mẹ - cha .

Điều giản dị ấy phải chăng bộc lộ ý nghĩa thật lớn lao và thiêng liêng: với mỗi
người mẹ cha là đích đến, là nơi để ta tìm về, là nơi để ta bước tiếp, là chốn bình
yên để ta nương tựa sau những giông bão cuộc đời.

Không chỉ vậy còn còn được lớn lên trong sự cưu mang, đùm bọc của bản làng thôn
xóm: “Đan lờ cài nan hoa/.../Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”. Cách gọi thật dung
dị, mộc mạc: “người đồng mình” thể hiện tình cảm thân thương, trìu mến của người
dân tộc Tày. Đó là những người vùng mình, miền mình.

Chỉ với vẻn vẹn bảy câu thơ nhưng Y Phương đã cho người đọc thấy cuộc sống lao
động cần cù, vui tươi của họ, họ đan lờ bằng nan hoa, ken vách nhà bằng những câu
hát. Người đồng mình yêu lao động, yêu cái đẹp và biết cách làm cho cuộc sống của
mình trở nên vui tươi, vậy nên, trong nhà họ lúc nào cũng vang câu hát. Và thiên
nhiên mơ mộng, đầy tình nghĩa đã che chở, nuôi dưỡng con cả về tâm hồn, lối sống.
Quê hương đã cho con những gì tốt đẹp nhất, chiếc nôi thứ hai nuôi con khôn lớn.

Y Phương không chỉ cho con biết về cội nguồn mình được sinh ra mà còn dạy con
để con biết, tự hào về những đức tính tốt đẹp của người đồng mình:

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Còn quê hương thì con phong tục”.

Người đồng mình hội tụ biết bao phẩm chất tốt đẹp, đáng tự hào. Họ giàu ý chí nghị
lực, kiên cường, bền bỉ. Những khó khăn, trắc trở, vất vả mà người đồng mình phải
trải qua trong cuộc sống là rất nhiều, nhưng đó chỉ là thử thách để rèn rũa bản lĩnh
của họ. Câu thơ cô đúc, có sức khái quát cao thể hiện sự thấu hiểu và đồng cảm với
cuộc sống của con người miền núi.

Dù cuộc sống có vô vàn những khó khăn, nhưng họ vẫn một lòng thủy chung với
quê hương. Điệp từ “sống” lặp lại như lời căn dặn của cha về lẽ sống ở đời đồng
thời gợi sức sống mãnh liệt của con người trước gian truân. Và người cha cũng
mong con luôn thủy chung, tình nghĩa với làng bản, quê hương. Đặc biệt hình ảnh
so sánh “như sông như suối” khắc họa lối sống khoáng đạt của con người nơi đây,
thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” lại gợi nên cuộc sống lao động đầy vất vả. Thế
nhưng họ vẫn rất lạc quan, yêu đời.

Câu thơ là lời khẳng định, ngợi ca của cha về vẻ đẹp của người đồng mình: họ luôn
sống mạnh mẽ gắn bó thiết tha với quê hương dù phải trải qua bao khó khăn, cực
nhọc. Từ đó người cha muốn: con sống mạnh mẽ vượt lên mọi ghềnh thác cuộc đời
bằng ý chí, nghị lực của mình. Cùng với đó là ý chí kiên cường tự lực xây dựng quê
hương giàu đẹp, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

Không chỉ vậy người đồng mình còn có những phẩm chất tốt đẹp khác khiến người
cha rất đỗi tự hào. Đó là mộc mạc, giàu chí khí, niềm tin. Họ có thể thô sơ, giản dị
về vẻ bề ngoài nhưng lại không hề nhỏ bé về tâm hồn, ý chí. Bằng sự lao động cần
cù, nhẫn nại hàng ngày người đồng mình đã làm nên quê hương với những phong
tục tập quán tốt đẹp. Từ đó người cha mong muốn con kế tục và phát huy truyền
thống quê hương, sức sống bền bỉ, mạnh mẽ của người đồng mình. Và hãy lấy đó
làm hành trang để tự tin vững bước vào đời.

Lời cha dặn dò vừa đầm ấm, vừa cương quyết, căn dặn con dù có vẻ ngoài thô sơ
nhưng không được nhỏ bé về ý chí, nghị lực; không bao giờ được sống tầm thường.
Lời động viên, căn dặn đó đã tiếp thêm sức mạnh để con tự tin để vững bước vào
đời.

Bằng ngôn ngữ mộc mạc, lối tư duy giản dị, nhưng lời thơ có ý nghĩa vô cùng sâu
sắc với người con. Những lời nói đó như một hành trang vững chắc để con vững
bước vào đời. Không chỉ vậy, lời thơ còn mang ý nghĩa thầm kín không chỉ lời cha
nói với con mà là lời trao gửi đến biết bao thế hệ

Phân tích bài thơ Nói với con của Y Phương mẫu 4
Y Phương là nhà thơ mang một tiếng nói riêng, rất đặc trưng cho dân tộc Tày. Thơ
ông là tiếng lòng chân thật, gần gũi, bình dị nhưng tràn đầy tình yêu thương. Bài thơ
"Nói với con" tiêu biểu cho phong cách sáng tác ấy của ông. Bài thơ đi vào lòng
người đọc một thứ tình cảm gần gũi nhưng thiêng liêng và cao quý: Tình cha con.
Đó là tâm sự của một người cha dành cho con, là những điều mà cha muốn thổ lộ
cho con nghe, con hiểu.

"Nói với con" là lời tâm sự, thủ thỉ, trò chuyện của người cha dành cho con từ lúc
con mới lọt lòng. Mạch cảm xúc chủ đạo của bài thơ chính là tình yêu thương, chia
sẻ, gắn bó và giáo dục cho con những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những
người xung quanh con. Với thể thơ tự do phóng khoáng, cảm xúc chân thành, mộc
mạc đã khiến cho tình cảm đó càng trở nên ấm áp và thân thiết. Y Phương đã gieo
vào lòng người đọc chất liệu đời thường rất mực thiêng liêng.

Những câu thơ đầu tiên cất lên như một lời kể chuyện thủ thỉ với con:

Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười

Đứa con từ lúc lọt lòng đã được bao bọc, yêu thương trong vòng tay của cha mẹ.
Từng ngày, từng giờ con lớn lên là từng ngày từng giờ cha mẹ mong chờ. Từ lúc
con chập chững bước những bước đi đầu tiên trong cuộc đời thì cha mẹ luôn là
người ở bên cạnh chứng kiến và cổ vũ. Hình ảnh "chân phải", "chân trái", "tiếng
nói" , "tiếng cười" bình dị, gần gũi biết bao nhiêu. Một không gian ấm áp và hạnh
phúc bao trùm lấy từng nhịp thơ. Cuộc sống xoay vần, tình yêu thương mà Y
Phương dành cho con luôn chân thành và thiết tha như vậy. Ông đã vẽ lên hình ảnh
đứa con từ lúc còn bé, gieo vào con nhận thức về những tháng năm đó.

Y Phương tiếp tục gieo vào lòng người tình làng nghĩa xóm của người dân tộc luôn
tha thiết, sâu nặng. Nhắc nhở con phải luôn nhớ về họ:

Người đồng mình thương lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát


Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm long

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời

Những con người dân tộc mộc mạc, bình dị, chăm chỉ làm ăn, khéo léo trong mọi
công việc. Cuộc sống của họ hằng ngày lên rừng, làm rẫy, tất bật với rất nhiều cuộc
việc. Dù cuộc sống vất vả nhưng họ vẫn gắn bó khăng khít bên nhau. Những từ ngữ
"đan", "cài" không những nói lên sự gắn bó mà còn nói lên nghĩa tình sâu nặng, khó
có thể phai nhòa của những con người nơi đây. Tác giả đã gieo vào lòng người con
mình tình cảm, cội nguồn đáng trân trọng và gìn giữ. Quê hương và những người
nơi đây là điều con phải nhớ, phải gắng nhớ về họ để biết ơn và để trở thành người
có ích hơn.

Phân tích bài thơ Nói với con mẫu 5

Tình cảm gia đình là một nguồn cảm hứng bất tận đối với các thi sĩ, thế nhưng hầu
hết các bài thơ khi viết về đề tài tình cảm gia đình đều nói về tình mẫu tử. Các tác
phẩm về tình cha con thì có lẽ khá ít. Bài thơ "Nói với con" của Y Phương là 1
trong những tác phẩm đó. Với giọng điệu thổ cẩm ngọt ngào, bài thơ mượn lời
người cha nói với con về tình yêu thương của cha mẹ ,sự đùm bọc của quê hương
với con để ngợi ca truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người dân tộc
miền núi.

Ra đời năm 1980, bài thơ như là những lời nói xuất phát từ tấm lòng cha, chứa đựng
đầy yêu thương và sự ấm áp, thể hiện tình cảm gia đình êm ấm, tình quê hương tha
thiết, mang đậm chất dân tộc miền núi trong từng câu chữ. Bài thơ đi từ tình cảm
gia đình rồi mới mở rộng và nâng cao thành tình cảm quê hương, đất nước. Từ
những kỷ niệm gần gũi, gắn bó nhất với mỗi con người và nâng lên thành lẽ sống
chung.

Bài thơ mở đầu với khung cảnh gia đình ấm cúng, đầy ắp niềm vui:

“Chân phải bước tới cha


Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”
Khung cảnh ấy đẹp như vẽ, một mái nhà có mẹ có cha và con hạnh phúc vì được
sống hạnh phúc trong tình yêu thương. Bằng ý thơ đối ứng hình ảnh đứa trẻ ngây
thơ chập chững tập đi, ngọng ngịu tập nói trong vòng tay thương yêu, chăm sóc của
cha mẹ hiện lên thật rõ nét.

Không khí của một gia đình ấm êm, hạnh phúc được diễn tả bằng cách sử dụng hình
ảnh thực và cụ thể. Cha như dang tay che chở từng bước đi lẫm chẫm của con, cha
lo lắng sợ con vấp ngã. Mỗi bước đi của con đều có cha mẹ ở bên dìu dắt, mỗi tiếng
cười, tiếng nói đều có cha mẹ ở bên khuyến khích. Điệp ngữ “Bước tới” thể hiện
niềm sung sướng và đầy tự hào của cha khi thấy con đang lớn lên. Không chỉ có gia
đình, con còn lớn lên, trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong quê hương thơ
mộng và tình quê hương sâu nặng:

“Người đồng mình yêu lắm con ơi


Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”

Người cha tự hào về những người cùng sống trên mãnh đất quê hương đã nuôi
dưỡng cho con mình nên vóc nên hình và đã bật lên câu “Người đồng mình yêu lắm
con ơi”. Cuộc sống lao động tươi vui và cần cù của “người đồng mình” được gợi lên
qua những hình ảnh đẹp “Đan lờ cài nan hoa”, “vách nhà ken câu hát” một cách thật
cụ thể và sinh động. Đồng thời các động từ “đan”, “cài” và “ken” vừa diễn tả động
tác lao động cụ thể, vừa nói lên sự gắn bó, quấn quýt trong lao động của “người
đồng mình”. Lao động tuy vất vả nhưng cuộc sống của “người đồng mình”tươi vui,
mà rất ngọt ngào . Công việc tuy nặng nhọc, vất vẻ nhưng “ người đồng mình” luôn
lạc quan, vui vẻ “hát”, “cài nan hoa”. Tất cả những hình ảnh ấy vừa nói lên vẻ đẹp
cao qúy của “người đồng mình” vừa nhắc nhở con phải biết yêu thương, quý trọng
“người đồng mình” vì họ đã cho con tình yêu thương, bảo bọc con lớn khôn. Thiên
nhiên quê hương cũng thật đẹp, luôn dành cho con những gì tinh túy nhất. “Rừng”
và “con đường” là bóng dáng của quê hương luôn dang rộng vòng tay đã được tác
giả nhân hóa, dạy cho con biết rằng núi rừng quê hương, thiên nhiên đã chở che,
nuôi dưỡng con người về cả tâm hồn và lối sống. Con đã lớn lên trong nghĩa tình
của quê hương như thế. Qua những câu thơ vừa tả thực lại vừa đậm chất trữ tình,
cha mong con hiểu những tình cảm cội nguồn đã sinh dưỡng con ,để con yêu cuộc
sống hơn . Nhìn con khôn lớn, suy ngẫm về tình nghĩa làng bản quê nhà, nhà thơ đã
nghĩ về cuội nguồn hạnh phúc, “ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời” và cho con biết
chính quê hương đã tạo cho cha mẹ cuộc sống hạnh phúc, mạnh mẽ, bền lâu. Dặn
dò con về quê hương ,về “đồng mình “, cha càng muốn con phải khắc cốt ghi xương
nơi mình đã sống ,đã trưởng thành .

Không chỉ gọi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những đức tính
cao đẹp của "người đồng mình":

“Người đồng mình thương lắm con ơi


Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”

“ Người đồng mình” không chỉ tình nghĩa và tài hoa mà còn có bao phẩm chất tốt
đẹp, “thương lắm con ơi”. Trong bao gian khổ, khó khăn thử thách, bao niềm vui,
nỗi buồn trong cuộc đời trải dài theo năm tháng, “người đồng mình” đã rèn luyện ,
hun đúc chí khí, rèn luyện bản thân. Câu thơ bốn chữ, đối nhau như tục ngữ, đúc kết
một thái độ một phương châm ứng xử cao quý. Lấy chiều “cao” của trời, chiều “xa”
của đất để “ đo nỗi buồn”, để “ nuôi chí lớn”. Câu thơ thể hiện một bản lĩnh sống
cao đẹp của người dân miền núi, của con người Việt Nam. Lời tâm tình của người
cha nói với con cũng là lời khuyên răn con phải biết trân trọng mảnh đất quê hương,
nơi mình sinh ra và lớn lên. Người cha tự hào về “người đồng mình” sống vất vả và
mạnh mẽ, phóng khoáng, gắn bó sâu nặng với quê hương dẫu cực nhọc, đói nghèo.
Người cha mong con chung thuỷ với quê hương, biết chấp nhận và vượt qua gian
nan thử thách bằng ý chí, bằng niềm tin vững vàng:

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn


Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”

Với các hình ảnh so sánh, ẩn dụ và sử dụng thành ngữ, cha đã nói với con về những
tính cao đẹp của “người đồng mình”. Điệp ngữ “sống” vang lên ba lần như lời
khẳng định tâm thế, bản lĩnh và dáng đứng dũng mãnh của “người đồng mình”. Đó
là sống vất vả nhưng vẫn mạnh mẽ khoáng đạt, bền bỉ gắn bó với quê hương dẫu
cho quê hương còn đói nghèo cực nhọc. Con phải sống có nghĩa tình chung thuỷ với
quê hương, biết chấp nhận và vượt qua thử thách gian nan. Đó là những điều mà cha
“vẫn muốn”, cha mong con, hy vọng ở con. Lời thơ giản dị mà chắc nịch, lay động
thấm thía vào lòng người. Những câu thơ tiếp theo là lời khẳng định với con, “
người đồng mình” tuy mộc mạc thô sơ nhưng không nhỏ bé:

“Người đồng mình thô sơ da thịt


Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”

Để phản ánh bản chất giản dị của người dân quê chân lấm tay bùn quanh năm, tác
giả dùng cách nói cụ thể, hình ảnh chân thật “thô sơ da thịt”. “Người đồng mình”
mộc mạc nhưng giàu chí khí và nghị lực. Họ có thề “thô sơ da thịt” nhưng “không
hề nhỏ bé” về tâm hồn, về khí phách và ý chí nghị lực. Từ đó để khẳng định và ngợi
ca tinh thần cần cù, chịu khó trong lao động, sống giản dị, chất phác, không hề “nhỏ
bé” tầm thường. Họ mong ước xây dựng quê hương ngày càng tươi đẹp. Với lối nói
độc đáo của người dân tộc miền núi “người đồng mình tự đục đá kê cao quê
hương”, người cha đã cho con thấy tinh thần tự tôn, ý thức bảo tồn nguồn cội của
“người đồng mình”. Chính những con người ấy bằng sự lao động cần cù đã tạo nên
những truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc và quê hương.

Để nhắc nhở giáo dục con, người cha nhấn mạnh truyền thống của người đồng
mình, lời của cha càng trở nên thật tha thiết:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt


Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”

Người cha đã nhắc con khi “ lên đường” không bao giở sống “nhỏ bé” trước thiên
hạ. Phải biết lấy cốt cách giản dị, mộc mạc của người lao động để vươn lên. Người
cha mong con có đủ sức mạnh, niềm tin để đối mặt với những khó khăn mà con sẽ
phải gặp, cũng khuyên con bài học đạo lý làm người, mong muốn con phải biết ơn
và tự hào với dân tộc mình, quê hương mình, để đủ tự tin, đủ sức mạnh để vững
bước trên đường đời. Hai tiếng “nghe con” đầy trìu mến, yêu thương kết thúc bài
thơ với tấm lòng thương yêu, kỳ vọng, vừa là lời dặn dò nhắc nhở ý chí tình của
người cha đối với đứa con thân yêu của mình.
Bài thơ có bố cục chặt chẽ, cách dẫn dắt tự nhiên, giọng điệu thiết tha, triều mến,
chân tình và rất mới lạ trong phong cách miền núi với ngôn ngữ “thổ cẩm” rất độc
đáo, với cảm xúc, tư duy rất riêng. “Nói với con” được viết bằng thể thơ tự do bay
bổng phù hợp với mạch cảm xúc tự nhiên tạo ra sự cộng hưởng hài hòa với những
cung bậc tình cảm khác nhau trong lời cha truyền thấm sang con. Lời nhắn nhủ ân
cần của người cha với con mình cũng là nhắn nhủ mà người cha nào cũng muốn con
mình mang theo như một hành trang trong cuộc đời. Qua đó ta phải biết tự hào, giữ
gìn và phát huy truyền thống của dân tộc ta. Đồng thời cũng cần phải biết yêu
thương quê hương, gia đình mình và phải có ý chí, nghị lực vươn lên trước những
chướng ngại của cuộc đời.

Phân tích bài thơ Nói với con mẫu 6

Tình cảm gia đình, tình phụ tử, tình mẫu tử thiêng liêng vốn không phải là một đề
tài quá mới mẻ trong nền văn học Việt Nam, đã có rất nhiều những sáng tác hay và
độc đáo về đề tài này. Điều này cũng ít nhiều gây ra những áp lực cho những nhà
văn, nhà thơ thế hệ sau khi muốn chắp bút viết về gia đình,về tình phụ mẫu...Nhưng,
đến lượt mình, nhà thơ Y Phương không những không hề tỏ ra lung túng, áp lực
trước những tác phẩm đã quá thành công trước đó, ông lựa chọn một khía cạnh hoàn
toàn mới mẻ ở đề tài tưởng chừng như rất quen thuộc này, bài thơ "Nói với con"
chính là một minh chứng tiêu biểu cho sự sáng tạo ấy.

"Nói với con" là một bài thơ tha thiết, đầy xúc động trước lời của người cha dặn dò
đứa con trai của mình, đó là những lời khuyên nhủ, những lời nhắc nhở đầy chân
thành, tha thiết. Cách thể hiện của nhà thơ Y Phương cũng rất mới lạ, độc đáo, lời
thơ mang cái vẻ giản dị, mộc mạc nhưng rất đỗi chân thành của những người con
dân tộc. Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã gợi liên tưởng về những bước chân nhỏ bé được
sự khuyến khích, động viên của người cha, cùng với đó là những lời nói đầy dịu
dàng:

"Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai tiếng chạm tiếng cười"

Câu thơ đã gợi cho người đọc liên tưởng đến những bước đi chập chững của đứa trẻ
khi đang bắt đầu tập đi, những bước đi đầu tiên ấy hướng về người bố, người mẹ tức
là những người gần gũi, thân thiết nhất với đứa trẻ ấy "Chân phải bước tới cha/
Chân trái bước tới mẹ", và dõi theo từng bước chân nhỏ bé ấy là những ánh mắt đầy
âu yếm của những người cha, người mẹ, mỗi một bước chân đều làm cho những bậc
cha mẹ ấy vui mừng khôn siết, mọi niềm vui, tiếng nói, tiếng cười cũng xuất phát từ
sự tiến bộ của con mình. Nhưng trong những câu thơ này ta cũng có thể hiểu theo
cách khác, đó chính là quá trình trưởng thành của người con, từ khi biết đi đến khi
biết nói, biết cười, và mỗi giai đoạn trưởng thành ấy đều được người cha ghi nhớ,
lưu giữ trong kí ức của mình.

"Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài đan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa"

Những câu thơ trên là lời tâm sự đầy tha thiết của người cha với con, người cha nói
với con của mình về những người thân thương, những người cùng sinh sống trong
một không gian, người cha dùng những từ ngữ đầy gần gũi "người đồng mình", đó
là những con người chân quê nhưng luôn dành cho nhau những tình cảm yêu thương
gắn bó nhất, họ vui với hoạt động sản xuất lao động "Đan lờ cài đan hoa", cuộc
sống tuy vất vả nhưng họ vẫn luôn yêu đời, lạc quan với những tiếng hát ngân nga,
thân tình "Vách nhà ken câu hát". "Rừng cho hoa" thì hoa ở đây chính là những
nguồn tài nguyên, những nguồn sống có thể duy trì, nuôi dưỡng sự sống của con
người.

"Con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ nhớ mãi về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời"

Tiếp đó, người cha muốn nói về sự gia đời của đứa con yêu thương, đó chính là kết
tinh yêu thương của hai tấm lòng, hai trái tim cùng chung nhịp đập "Con đường cho
những tấm lòng", và trong kí ức của cha thì ngày đẹp nhất, ý nghĩa nhất trên đời, đó
là "ngày cưới", ngày kết nối hai tấm lòng yêu thương. Nói về những kí ức vui vẻ,
người cha như muốn nói với con mình về mái nhà hạnh phúc của mình, bởi đứa con
được sinh ra trong tình yêu thương, gắn kết của cha mẹ, đó là một gia đình đầy hạnh
phúc.
"Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn

Dẫu sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá ghập ghềnh,

sống trong thung không chê thung nghèo đói"

Đây có thể xem là những câu thơ hay nhất của bài thơ này, là lời dạy của người cha
với con trai của mình, lời dạy đầy chân thành nhưng cũng không kém phần nghiêm
khắc. Những "người đồng mình" không chỉ biết yêu thương, gắn bó giúp đỡ nhau
trong cuộc sống mà còn là những con người tài giỏi, có chí lớn. Những nỗi buồn của
quê hương, của dân tộc được đo bằng chiều cao của núi, thâm trầm nhưng không
lãng quên mà ấp ủ chí lớn. Dù cuộc sống có nghèo đói, có khó khăn thì nên thích
nghi, cố gắng phấn đấu cải tạo nó chứ không chê bai hay phủ nhận nguồn gốc, cội
nguồn của mình "Sống trên đá không chê đá ghập ghềnh/ Sống trong thung không
chê thung nghèo đói".

Phân tích bài thơ Nói với con mẫu 7

Nhà thơ Y Phương tên thật là Hứa Vinh Sước, dân tộc Tày, sinh năm 1948; quê ở
huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Ông nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân
đội cho đến năm 1981 thì chuyển về công tác tại Sở Văn hóa- Thông tin Cao Bằng.
Từ năm 1993, ông được bầu làm Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng. Thơ
ông phản ánh tâm hồn chân thật, mạnh mẽ, trong sáng cùng cách tư duy giàu hình
ảnh của con người miền núi.

Lòng thương yêu con cái, ước mong thế hệ sau tiếp nối xứng đáng và ngày càng
phát huy truyền thông tốt đẹp của tổ tiên, của quê hương vốn là một tình cảm cao
quý của con người Việt Nam bao đời nay. Bài thơ Nói với con của Y Phương cũng
nằm trong mạch nguồn cảm hứng ấy nhưng nhà thơ có cách thể hiện riêng qua lời
tâm tình, nhắn gửi của người cha đối với con. Vì thế nên bài thơ có giọng điệu thiết
tha, trìu mến.

Để cảm nhận được cái hay, cái đẹp của bài thơ này, chúng ta cần tìm hiểu sơ qua về
cách suy nghĩ và cách bày tỏ tình cảm của người dân miền núi. Đó là cách diễn tả
mộc mạc, hồn nhiên, thể hiện qua ngôn ngữ và hình ảnh thơ. Tác giả Y Phương vận
dụng triệt để lời ví von, so sánh thường thấy trong thơ của các dân tộc thiểu số để
thể hiện chủ đề của bài thơ Nói với con.

Mượn lời cha tâm tình với con, nhà thơ nhắc nhở về cội nguồn của mỗi con người,
qua đó bộc lộ niềm tự hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ và phẩm chất tốt đẹp của
dân tộc mình, quê hương mình.

Bố cục bài thơ gồm hai đoạn.

Đoạn một: Từ đầu đến Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời: Con lớn lên trong tình yêu
thương, nâng đỡ của cha mẹ, trong cuộc sống cần lao của quê hương.

Đoạn hai: Phần còn lại: Lòng tự hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của dân tộc và
truyền thống tốt đẹp của quê hương. Niềm mong ước thiết tha các con hãy kế tục
xứng đáng truyền thống ấy.

Với bố cục như vậy, bài thơ đi từ tình cảm gia đình rồi mở rộng và nâng cao thành
tình cảm quê hương, đất nước. Từ những kỉ niệm gần gũi, gắn bó với mỗi con người
mà nâng lên thành lẽ sống chung. Chủ đề của bài thơ được tác giả dẫn dắt và thể
hiện rất tự nhiên, mạch lạc, tuy đậm chất riêng tư nhưng vẫn có ý nghĩa khái quát.

Tình yêu thương của cha mẹ, sự đùm bọc của quê hương đối với con cái là vô hạn.
Các con lớn lên từng ngày trong tình cảm thiêng liêng ấy. Ở bốn câu thơ đầu, bằng
những hình ảnh giản dị, Y Phương đã phản ánh sinh động không khí gia đình đầm
ấm, quấn quýt:

Chân phải bước tới cha


Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.

Cách thể hiện cảm nghĩ của nhà thơ thật độc đáo. Khi đứa con chập chững biết đi,
từng bước đi, từng tiếng nói, tiếng cười của con đều được cha mẹ chăm chút, nâng
niu, vui mừng đón nhận. Căn nhà luôn rộn rã tiếng nói, tiếng cười.

Đứa con trưởng thành trong cuộc sống lao động cần cù của cha mẹ, trong khung
cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, thơ mộng của quê hương. Nhìn con lớn lên từng ngày, cha
mẹ càng yêu thương mảnh đất chôn nhau, cắt rốn của con – mảnh đất do tổ tiên, ông
bà để lại. Câu thơ bật thốt từ trái tim chứa chan nghĩa nặng tình sâu:

Người đồng mình yêu lắm con ơi !


Nhà thơ tự hào về những người cùng sống trên mảnh đất quê hương đã nuôi dưỡng
cho con mình nên vóc nên hình.

Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của đồng bào dân tộc được nhà thơ miêu tả
qua các hình ảnh đẹp như trong thần thoại:

Đan lờ cài nan hoa,

Vách nhà ken câu hát.

Các động từ cài, ken vừa diễn tả động tác lao động cụ thể, vừa nói lên sự hòa hợp,
gắn bó giữa hiện thực và lãng mạn trong đời sống vật chất, tinh thần của người vùng
cao.

Rừng núi quê hương đã che chở, nuôi dưỡng nhiều thế hệ cả về tâm hồn và lối sống:

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng.

Chính quê hương đã tạo cho cha mẹ cuộc sống hạnh phúc bền lâu:

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.

Cha tự hào về Người đồng mình sống vất vả mà mạnh mẽ, phóng khoáng, gắn bó
sâu nặng với quê hương dẫu cực nhọc, đói nghèo. Người cha mong con chung thủy
với quê hương, biết chấp nhận và vượt qua gian nan thử thách bằng ý chí, bằng
niềm tin vững chắc:

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc

Người đồng mình mộc mạc nhưng giàu chí khí và nghị lực. Họ có thể thô sơ da thịt
nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về khí phách. Họ mong ước xây dựng quê
hương ngày càng tươi đẹp. Chính những con người ấy bằng sự lao động cần cù đã
tạo nên những truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc và quê hương:

Người đồng mình thô sơ da thịt,

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con,

Người đồng mình tự đục đá kè cao quê hương.

Còn quê hương thì làm phong tục.

Người cha mong muốn con phải biết ơn và tự hào với dân tộc mình, quê hương
mình, để đủ tự tin đủ sức mạnh mà vững bước trên đường đời:

Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con.

Bài thơ có bố cục chặt chẽ, cách dẫn dắt tự nhiên, giọng điệu thiết tha, trìu mến, thể
hiện rõ nhất ở các câu thơ mang ngữ điệu cảm thán: Người đồng mình yêu lắm con
ơi, Người đồng mình thương lắm con ơi; ở những lời tâm tình, dặn dò tha thiết:
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn, Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con, Con ơi … Nghe con.
Tác giả đã xây dựng thành công những hình tượng thơ vừa cụ thể vừa có tính khái
quát, mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ, mang đậm sắc thái hồn nhiên, chân thực và gợi
cảm của thơ ca miền núi.

Bài thơ dã thể hiện được điều tâm huyết nhất mà người cha muốn truyền lại cho
con. Đó chính là lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống tốt đẹp
của quê Hương và niềm tin vững chắc khi bước vào đời. Qua bài thơ, người đọc
cảm nhận được tình cảm thắm thiết của cha mẹ đối với con cái nói chung và tình
yêu quê hương sâu nặng của nhà thơ Y Phương nói riêng.

Phân tích bài thơ Nói với con mẫu 8

Y Phương, người con của dân tộc Tày, là tác giả bài thơ Nói với con. Nhan đề bài
thơ rất bình dị, lời thơ và chất thơ rất hồn nhiên.

Hai mươi tám câu thơ tự do, câu ngắn nhất chỉ có hai chữ, câu thơ dài nhất là mười
chữ, phần nhiều là những câu thơ bốn chữ năm chữ; lại có câu thơ cất lên như một
khẩu ngữ, nhưng rất gợi rất đậm đà vì thấm đẫm tình cha, vì cách biểu cảm chân
tình, mộc mạc.

Tràn ngập những vần thơ là tình thương con, là niềm tự hào đối với quê hương xứ
sở. Các câu thơ:

– Người đồng mình yêu lắm con ơi


– Người đồng mình thương lắm con ơi
– Người đồng mình thô sơ da thịt
– Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

đứng chốt ở bốn trọng điểm, như những luyến láy, những điệp cú, điệp khúc làm
cho âm điệu, nhạc điệu thơ ngân vang, dào dạt.

Tôi đã sinh ra và lớn lên ở đôi bờ con sông Hương thơ mộng, thuở tấm bé đã được
uống vào lòng những lời thiết tha, dịu ngọt: "bà con miềng", "chị em miềng", "anh
em miềng"của má ta, của chị gái ta, của bè bạn ta. Rồi những năm dài chiến tranh
trên những nẻo đường hành quân, tôi đã xúc động khi chợt nghe một tiếng ru buồn,
dìu dịu cất lên từ một mái nhà gianh nơi xóm vắng xa lạ:… "Nàng về nuôi cái cùng
con – Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng"… Và khi đọc thơ Y Phương, ba tiếng
"người đồng mình" đã vương vấn tâm hồn ta bao bâng khuâng man mác. Ta bồi hồi
nhớ về tuổi thơ, nhớ giọng nói dịu hiền của má , nhớ về xứ Huế, và thật kì lạ, tôi
bâng khuâng nghĩ về Cao Bằng, nơi "gạo trắng nước trong", nơi mà tôi chưa hề một
lần đi tới. Thơ có hồn, có hay mới gợi nhớ gợi thương như thế. "Người đồng mình"
đã kết tụ bao tình yêu thương, tự hào của Y Phương đối với "nước non Cao Bằng",
nơi chôn rau cắt rốn nặng tình nặng nghĩa của mình.

Hãy khẽ ngâm lên những vần thơ của anh:

Chân phải bước tới cha


Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.

Ta tưởng như đang được ngắm một bức tranh tứ bình có bốn hình ảnh: chân phải,
chân trái, tiếng nói, tiếng cười của một em bé đang chập chững tập đi, đang bi bô
tập nói. Lúc thì xà vào lòng mẹ, lúc thì níu lấy tay cha. Điệp ngữ "bước tới" và động
từ "chạm" dùng rất khéo, làm nổi bật cái hồn bức tranh về gia đình hạnh phúc: đôi
vợ chồng trẻ với đứa con thơ dầu lòng.
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Sao không yêu? Phải yêu nhiều, yêu lắm chứ!
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hất
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.

Nhà văn Nguyễn Tuân từng ca ngợi ông lái đò sông Đà có "bàn tay lái ra hoa". Một
nhà thơ nọ, trước vẻ đẹp yêu kiều của cô văn công đã thốt lên: "mười nụ hoa trắng
ngần thơm ngát bàn tay em". Chữ "hoa", chữ "câu hát", chữ "tấm lòng" trong thơ Y
Phương cũng rất ý vị. Đan lờ đánh cá, dưới bàn tay người Tày, những nan nứa, nan
trúc, nan tre đã trở thành "nan hoa". Vách nhà không chỉ ken bằng gỗ mà được ken
bằng "cầu hát". Rừng đâu chi cho nhiều gỗ quý, cho măng, cho lâm sản quý giá mà
còn "cho hoa". Con đường đâu chỉ để đi ngược về xuôi, lên non xuống biển mà còn
"cho những tấm lòng" nhân hậu bao dung, con đường tình nghĩa:

Gập ghềnh xuống biển lên non,


Con đường tình nghĩa ai còn nhớ chăng?

(Ca dao)

Với Y Phương, con đường mà anh nói với con là hình bóng thân thuộc của quê
hương. Đường gần là con đường làng bản, đi vào thung vào rừng, đường ra sông ra
suối… Là con đường đi học, con đường làm ăn. Đường xa, là đường đi tới mọi chân
trời, đến mọi miền đất nước. Con đường tình nghĩa ấy được Y Phương nói lên một
cách hàm súc, giản dị:

Con đường cho những tấm lòng

Sung sướng ôm con thơ vào lòng, nhìn con khôn lớn, suy ngẫm về tình nghĩa làng
bản quê nhà, nhà thơ nghĩ về cội nguồn hạnh phúc:

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới


Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.

"Người đồng mình" không chỉ cần cù và khéo léo, tình nghĩa và tài hoa, yêu đời mà
còn có bao phẩm chất tốt đẹp, đáng "thương lắm con ơi". Trong bao gian khổ khó
khăn thử thách, bao niềm vui nỗi buồn cuộc đời, trải dài theo năm tháng, bà con quê
hương mình, "người đồng mình" đã rèn luyện, đã hun đúc chí khí, đã "cao đo nỗi
buồn – xa nuôi chí lớn ", nâng cao tâm thế đẹp. Câu thơ bốn chữ, đăng đối như tục
ngữ. đúc kết một thái độ, một phương châm ứng xử cao quý. Các từ ngữ: "cao đo",
"xa nuôi" đã thể hiện một bàn tính sống đẹp của dân tộc Tày, của con người Việt
Nam.

Nếu người Kinh dùng lối nói: "ăn chắc mặc bền, chém to kho mặn, chân đất lưng
trần, niêu cơm quả cà …", để phản ánh bản chất giản dị, mộc mạc của người dân
quê chân lấm tay bùn quanh năm, thì Y Phương cũng dùng cách nói cụ thể, hình ảnh
cụ thể của bà con dân tộc Tày như: "thô sơ da thịt" "chẳng mấy ai nhỏ bé", "tự đục
đá kê cao quê hương" để khẳng định và ngợi ca tinh thần cần cù, chịu khó trong lao
động, sống giản dị chất phác thật thà, không hề "nhỏ bé" tầm thường trước thiên hạ.
Nếp sống tốt đẹp ấy đã tạo nên chất thơ trong sáng đáng yêu của Y Phương. Bản
chất dân tộc, tinh thần nhân văn đã hòa quyện vào hồn thơ thi sĩ:

Người đồng mình thô sơ da thịt


Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.

Cha "nói với con" cũng là khuyên con bài học đạo lí làm người. Quê hương sau
những năm dài chiến tranh, chưa giàu chưa đẹp, con phải biết gắn bó với quê
hương: "Không chê… không chê… không lo…". Trước thử thách khó khăn, con
không được sống tầm thường, sống hèn kém, sống "nhỏ bé". Phải lao động sáng tạo
để xây dựng, để "kê cao" quê hương:

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn


Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc…

Nhuyễn vào lời thơ là những ẩn dụ so sánh, những thành ngữ dân gian. Điệp ngữ
"sống" ba lần vang lên đã khẳng định một tâm thế, một bản lĩnh, một dáng đứng…,
điều mà cha "vẫn muốn", cha mong con, hi vọng ở con. Lời thơ giản dị, chắc nịch
mà lay động, thấm thía.

Lời cuối "nói với con" càng trờ nên tha thiết. Cha nhắn con khi "lên đường'' không
bao giờ được sống tầm thường, sống "nhỏ bé" trước thiên hạ. Phải biết giữ lấy cốt
cách giản dị, mộc mạc của "người lao động". Hai tiếng "nghe con" là cả một tấm
lòng cha bao la:

Con ơi tuy thô sơ da thịt


Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.

Một cảnh tượng cảm động đang diễn ra trước mắt chúng ta. Cha hiền từ âu yếm
nhìn con, xoa đầu con. Đứa con cúi đầu lắng nghe cha nói, cha dặn. Y Phương đã
tạo nên một không khí gia đình ấm áp tình cha con.

Y Phương là một người cha rất thương con. Anh là một người sống tình nghĩa và
chung thủy với quê hương. Thơ anh rất hồn hậu và đậm đà.

Y Phương là người đồng hương với Kim Đồng. Quê hương anh có hang Pắc Bó, nơi
mà hơn 60 năm về trước, Bác Hồ đã sống và hoạt động giữa lòng dân để "nhóm
lửa".

Bạn đọc yêu quý gần xa có nhớ, có biết bài dân ca:

Nàng về giã gạo ba giăng


Để anh gánh nước Cao Bằng về ngâm
Nước Cao Bằng ngâm thì trắng gạo…

Theo tôi nghĩ bài thơ Nói vói con của Y Phương là một gáo nước Cao Bằng đấy, có
thể làm trong, làm mát tâm hồn mỗi chúng ta.

Phân tích bài thơ Nói với con mẫu 9

“Con cựa mình êm ả


Thôi ngủ nữa đi con!
Cái trăng cao chưa tròn
Tay hố vòng hơi thở
Cho con liền giấc ngon”.
(Hai bàn tay em – Huy Cận)

Tấm lòng của người cha thi sĩ dành cho con cũng nồng nàn, ấm áp đâu kém gì tình
mẹ yêu con, ru con, đưa con vào giấc ngủ. Lòng yêu thương con cái, ước mong con
trưởng thành, nên người con là tình cảm cao đẹp của con người Việt Nam từ bao đời
nay. Bài thơ “Nói với con” của Y Phương cũng khơi nguồn từ mạch cảm xúc ấy.
Với giọng điệu thiết tha, trìu mến, bài thơ đã thể hiện lời tâm tình, thủ thỉ của người
cha đối với con.

“Cha lại dắt con đi trên cát mịn


Ánh trăng chảy đầy vai
Cha trầm ngâm nhìn mãi cuối chân trời.
Con lại trở cánh buồm xa nói khẽ
Cha mượn cho con buồm trắng nhé.
Để con đi…”.
(Những cánh buồm)

Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã mở ra trước mắt chúng ta hình ảnh thật dễ thương
và cảm động, hình ảnh cao đẹp của tình cha con. Y Phương, một nhà thơ dân tộc,
cũng góp phần vào đề tài này qua bài thơ “Nói với con”. Bài thơ giản dị mộc mạc
trong ngôn từ, hình ảnh, nhưng đã đi vào lòng người bởi cái âm điệu nhẹ nhàng,
thiết tha của lời cha nhắn nhủ, tâm tình con về cội nguồn quê hương.

Đây là bài thơ được viết theo thể thơ tự do, câu, vần, nhịp theo dòng cảm xúc. Bao
trùm toàn bài là cách nói, cách nghĩ, cách viết của người dân tộc, mộc mạc đơn sơ
nhưng chân thành, tha thiết thông qua hình ảnh người cha nói với con, tâm tình dặn
dò trìu mến, ấm áp và tin cậy. Con lớn lên trong tình yêu thương, sự nâng đỡ của
cha mẹ, trong cuộc sống êm đềm của quê hương.

Mở đầu bài thơ là cách diễn đạt bằng hình ảnh cụ thể, độc đáo, đặc sắc trọng tư duy
và cách diễn đạt của người miền núi:

“Chân phải bước tới cha


Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước chạm tiếng cười”.

Chỉ bốn câu thôi mà không khí gia đình đầm ấm yêu thương được bộc lộ rõ nét.
Cách thể hiện cảm nghĩ của bài thơ thật độc đáo. Đứa con chập chững tập đi, từng
bước đều nghiêng ngã, từng tiếng nói, tiếng cười của con đều được cha mẹ nâng
niu, dìu dắt. Con biết đi, biết nói là sự kiện lớn trong cuộc sống gia đình, cả nhà
luôn rộn rã tiếng nói cười, đâu chỉ là niềm vui riêng của người mẹ mà còn là sự thổn
thức của người cha. Thi sĩ Huy Cận cũng từng tâm sự cái giây phút tuyệt vời ấy của
mình:
Được tin con tập đi
Cha mừng không ngủ được
Cha nằm đêm thầm thì
Từng tiễn chân con bước”.

Đứa con trưởng thành trong cuộc sống lao động cần cù của cha mẹ, trong khung
cảnh thiên nhiên thơ mộng xinh đẹp của quê hương. Nhìn con lớn lên từng ngày cha
mẹ sung sướng mãn nguyện. Con là cuộc đời, là tất cả đối với mẹ cha. Bà mẹ Tà ôi
đã bộc lộ niềm hạnh phúc ấy khi có bên mình đứa con trong lao động tỉa bắp:

“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi


Mặt trời của mẹ, con nằm trên lưng”.
(Nguyễn Khoa Điềm)

Cha mẹ yêu con, càng yêu thương mảnh đất chôn nhau cắt rốn của con, mảnh đất do
tổ tiên, ông bà để lại. Niềm tự hào về dân tộc mình đã bật thành lời từ trái tim chân
thành của người cha:

“Người đồng mình yêu lắm con ơi


Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát”.

Các động từ “cài”, “ken” vừa diễn tả động tác lao động cụ thể, vừa nói lên sự hòa
hợp, gắn bó giữa hiện thực và lãng mạn trong đời sống vật chất, tinh thần của người
vùng cao. Đời sống tinh thần nên thơ, nên nhạc khiến cho công việc đỡ nhọc nhằn
và con người có thêm niềm vui, niềm tin vào cuộc đời. Người cha muốn nói với con
rằng chính mảnh đất nơi ta sinh ra và lớn lên là cội nguồn hạnh phúc lớn lao vô tận:

“Rừng ra hoa
Con dường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”.

Chính quê hương đã tạo cho cha mẹ cuộc sống hạnh phúc bền lâu. Và trong cái nôi
hạnh phúc ấy, con cái là hoa trái, là kết quả ngọt ngào của duyên đôi lứa.

Phẩm chất của người đồng mình và ước muốn của cha về con thể hiện rất rõ nét qua
từng câu thơ. Quê hương là ơn nặng nghĩa đầy. Cha mẹ muốn con ý thức về điều ấy.
Người cha nhắc nhở con xứng đáng với những gì đẹp đẽ nhất mà dân tộc đã trao
cho, quê hương đã ban tặng:
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sông như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”.

Đó là cách sống hiên ngang, bất khuất vượt lên mọi khó khăn gian khổ để khẳng
định khí phách và phẩm chất tốt đẹp của mình. Gian lao, thử thách, lên thác, xuống
ghềnh chỉ là cơ hội chỉ người đồng mình thêm vững lòng, bền chí, tự tin vào mình
hơn như cụ Phan Bội Châu đã từng nhận định:

Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả


Anh hùng hào kiệt có hơn ai”.

Thế hệ cha, mẹ và anh đã từng sống như thế. Cha cũng muốn con phát huy phẩm
chất tốt đẹp ấy để đáp trả ân tình với quê hương, với người đồng mình.

Người cha còn giúp con ý thức một điều: cái vẻ ngoài trông thô sơ và rất đỗi bình
thường của người đồng mình lại chứa đựng một tầm vóc tâm hồn cao đẹp:

“Người đồng mình thô sơ da thịt


Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”.

Người dân tộc sống giữa núi rừng, thiên nhiên, mây ngàn và đá núi. Vất vả biết bao
nhiêu! Họ đã phải chắt chiu tùng mầm sống nhỏ nhoi để xây dựng quê hương từ
không thành có. Họ nghèo thật nhưng họ rất giàu có về sự kiên cường, sức sống bền
bỉ, làm nên giá trị cao quý của truyền thống dân tộc, truyền thống quê hương. Cũng
chính họ đã tự đục chân dung mình vào đá núi vĩnh hằng. Tinh thần của họ đâu khác
gì với tinh thần và lí tưởng sống của Nguyễn Công Trứ năm xưa:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất


Phải có danh gì với núi sông”.
Sống giữa một dân tộc như thế, một quê hương nhiều truyền thống hào hùng tốt đẹp
như thế, các thế hệ kế thừa phải sống sao cho xứng đáng? Người cha ân cần khuyên
nhủ con:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt


Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được Nghe con”.

Tuy chỉ là những lời ngắn gọn, cô đọng, giọng điệu thật, nhẹ nhàng mà thấm thìa
nhưng không kém phần cương quyết! Con hãy giữ vững và phát huy truyền thông
tốt đẹp của dân tộc, quê hương. Có như vậy mới xứng đáng công sinh thành dưỡng
dục của mẹ cha, của người đồng mình yêu thương bảo bọc, với truyền thông mạnh
mẽ, hào hùng, dũng cảm của quê hương.

“Nói với con” là một bài thơ hay của Y Phương. Với cách dẫn dắt tự nhiên giọng
điệu thiết tha trìu mến rõ qua từng từ ngữ, hình ảnh, bài thơ thể hiện tình cha yêu
con, muốn con nên người nên chỉ dạy con biết yêu quê hương và tự hào về truyền
thống tốt đẹp của người đồng mình.

Hãy luôn nghĩ về tình cảm mà cha mẹ dành cho mình để sống xứng đáng hơn với sự
yêu thương bao bọc ấy:

“Nuôi con cho được vuông tròn


Mẹ thầy dầu dãi xương mòn gối cong
Con ơi giữ trọn hiếu trung
Sớm hôm chăm chỉ kẻo uổng công mẹ thầy”.

(Ca dao)

Phân tích bài thơ Nói với con mẫu 10

Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã từng có những dòng thơ vô cùng ấm áp về quê hương:

“Quê hương là chùm khế ngọt

Cho con trèo hái mỗi ngày”

Còn Ngô Hữu Đoàn thì cho rằng:

“Quê hương ơi! Riêng gì “chùm khế ngọt”

Đâu riêng gì những “nón lá nghiêng che”


Quê hương là có cả những đông, hè

Có hôm quà ngọt, có ngày đòn roi”

Quê hương trong tim mỗi người đều có một vị trí quan trọng như thế để rồi cho đến
hôm nay, ta vẫn không khỏi bồi hồi, xúc động trước tình yêu sâu đậm dành cho quê
của nhà thơ Y Phương. Không ồn ào, không vồn vã, quê hương trong ông cũng giản
dị và mộc mạc đến đẹp đẽ vô ngần. Nhà thơ đã gửi gắm tấm lòng son sắt của mình
trong những dòng tâm sự với con. Bài thơ “Nói với con” đã thay mặt cho trái tim
đang thổn thức của tác giả.

Cũng như Tô Hoài, Y phương là cây bút của những tâm tình miền núi. Thơ ông mộc
mạc mà sâu lắng, thâm trầm mà sâu sắc. Đằng sau những cái giản dị ấy, ta bao giờ
cũng thấy một tâm hồn nóng rẫy cảm xúc. Nói cách khác, hồn thơ Y Phương “ưa
đạm không ưa nồng” nhưng là “cái đạm sau khi đã nồng”.

Nói như lời một nhà phê bình thì “Thơ ông một bức tranh thổ cẩm đan dệt nhiều
màu sắc khác nhau, phong phú và đa dạng, nhưng trong đó có một màu sắc chủ đạo,
âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo. Nét độc đáo đó nằm ở cả
nội dung và hình thức. Với Y Phương, thơ của dân tộc Tày nói riêng và thơ Việt
Nam nói chung có thêm một “giọng điệu mới, một phong cách mới”. Có thể nói Y
Phương chính là đại diện cho cái hồn, cái cốt cách dân tộc.

Mang đậm phong cách tác giả, “Nói với con” có thể coi là một trong những thi
phẩm xuất sắc nhất nói về tình quê. Bài thơ được sáng tác năm 1980, ở đó không chỉ
có tình quê mà còn nồng nàn tình cha, tình phụ tử, là tình cảm người cha vĩ đại dành
tặng cho đứa con bé bỏng của mình. Đó cũng được coi như là niềm hi vọng, mong
mỏi lớn lao nhất trong cuộc đời người cha: Mong con khôn lớn nên người, luôn yêu
quê hương, tự hào về dân tộc mình. Bài thơ bởi lẽ đó cũng mang đến một niềm xúc
động vô bờ trong lòng độc giả.

Có thể nói, tình cảm gia đình, nhất là tình cha con, luôn thiêng liêng, là tiền đề, cơ
sở cho tình yêu Tổ quốc phát triển. Năm 1966, ta đã từng được thấm thía tình cha
qua tác phẩm “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. Cái khác biệt ở chỗ, nếu
như Nguyễn Quang Sáng thử thách tình cha con qua bom rơi đạn nổ, qua cái khốc
liệt của kháng chiến mà ánh ngời lên “hạt ngọc ẩn náu trong tâm hồn” người cha.

Thì Y Phương lại để thứ tình cảm ấy nhẹ nhàng mà không kém phần nồng nàn, ấm
nóng, là tình cảm tự nó có, không cần phải chờ bất cứ tác nhân nào. Nhờ đó mà tác
phẩm thấm thía như một bài ca quý giá. Ngay mở đầu tác phẩm, chất thơ nhẹ nhàng
ấy đã len lỏi trong ta, mơn man khắp da thịt ta, gợi cho ta những cảm xúc trong
ngần:

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười “

Tác giả đã giúp ta hình dung sâu sắc hình ảnh một đứa trẻ đang chập chững tập đi.
Điều quan trọng hơn hết là xung quanh em luôn có sự giúp đỡ, dìu dắt của cha mẹ.
Nhịp điệu, lời thơ khoan thai, chậm rãi, đều đều. Điệp ngữ “một bước, hai bước” tạo
ra sự chuyển động, cũng là sự lớn lên từng ngày của đứa trẻ trong vòng tay yêu
thương của cha mẹ mình.

Từ tiếng nói bi bô đến nụ cười hồn nhiên của con yêu đã mang lại niềm hạnh phúc
vô bờ cho những bậc sinh thành. Một khung cảnh gia đình hạnh phúc, ấm êm đến
vô bờ. Nối tiếp tình phụ tử, tác giả mang đến cho ta những cảm xúc chân thành về
tình đồng mình:

“Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”.

“Người đồng mình yêu lắm con ơi”- câu cảm thán bộc lộ cảm xúc, niềm xúc động
mãnh liệt của người cha khi vỗ về đứa con của quê hương. Bảy chữ, hai nhịp, nhưng
đằng sau câu thơ ngắn ngửi ấy, bao giờ ta cũng thấy được biết bao nhiêu tình cảm
chan chứa và chân thành. Đó cũng chính là cách nói của người đồng mình, người
quê mình.
Tiếng nói của người dân đồng bào miền núi, đặc biệt là dân tộc Tày luôn luôn gợi
đến cho đối phương một sự gần gũi, trìu mến, thân thương. Người cha như đang ru
vỗ tâm hồn con những tình cảm về quê hương, về con người, về dân tộc, kể cho con
nghe những công việc làm ăn, những phong tục tập quán của quê hương lam lũ, vất
vả nhưng rạng ngời niềm tin sống.

Một loạt các động từ “đan, cài, ken” vừa dùng để chỉ những hành động mưu sinh,
vừa gợi cho người đọc thấy sự gắn bó chân thành, gắn bó xum vầy, quần tụ của
đồng bào miền núi. Lời thơ không chỉ gợi công việc lao động cần cù, tỉ mỉ của dân
tộc mình mà còn như một dịp để tự hào về đôi bàn tay tài hoa, tâm hồn trong sáng,
lạc quan yêu đời.

Dưới bàn tay của họ, những nan trúc, nan tre như biến thành “nan hoa”, vách nhà
ken, câu hát. Hình ảnh so sánh được dùng đầy đặc hiệu cho thấy cái tài, cũng như
cái tâm của tác giả. Đời sống tinh thần của quê hương vì thế mà cũng phong phú,
đẹp đẽ hơn biết nhường nào!

Mạch cảm xúc tâm tình của người cha dường như lại ngưng đọng ở hai hình ảnh
“rừng cho hoa, con đường cho những tá lòng”- những hình ảnh chân thực nói về
người dân đồng bào mình, cũng là hình tượng thiêng liêng, cao đẹp của làng quê.
Đó đồng thời cũng là những gì tốt đẹp nhất, là tình yêu, sự chở che, lòng bác ái…
Những phẩm chất vàng ngọc được chắt ra từ chính cuộc đời bụi bặm, lam lũ hàng
ngày.

Hai câu thơ cuối của đoạn thơ đưa người cha trở về với niềm vui bất tận của cha mẹ
trong ngày cưới, để nhắc con rằng: Con không chỉ lớn lên bằng sự đùm bọc, che chở
của quê hương mà còn bằng tình yêu vô bờ bến của cha mẹ. Nói cách khác, mạch
nguồn nuôi dưỡng con khôn lớn trưởng thành về cả thể chất và tâm hồn không đâu
khác chính là cha mẹ và quê hương. Và con hãy ghi lòng tạc dạ những lời cha dặn
ấy.

Tác giả đã nhập thân vào người cha để tâm sự với con mình mà ta ngỡ như nhà thơ
đang đối thoại với chính chúng ta vậy. Những lời vàng ngọc mà thấm thía như làm
cho tâm hồn ta thêm trong sạch và phong phú hơn. Đó cũng chính là sức mạnh cảm
hóa đặc biệt của vặn chương trong đời sống tinh thần của con người.

Văn học không chỉ nói cho mình mà còn ca thay lòng người. Không chỉ xuất phát từ
“chân trời của một người” mà còn đến với “chân trời của tất cả”. Đó là lí do vì sao
khổ thơ đầu là lời nhắn nhủ của chủ thể nhưng đến với những câu thơ sau, ta bỗng
nhận thấy dường như thi nhân đang nói cho cả chúng ta, bộc bạch với ta, khuyên ta”

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc

Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con “.

Để ý thấy rằng “người đồng mình” từ “yêu lắm con ơi” sang “thương lắm con ơi”
càng thêm trìu mến, thân thương không chỉ trong con mà còn trong chính chúng ta.
Cách nói, cách cảm, cách nghĩ của người miền núi được thể hiện vô cùng rõ nét qua
những dòng thơ thô sơ, mộc mạc: “núi cao” thì “đo nỗi buồn”, “con đường xa” thì
“nuôi chí lớn” bởi cuộc sống lam lũ, vất vả, nhọc nhằn.

Nhưng chính hình ảnh ấy đã hun đúc nuôi dưỡng ý chí, nghị lực của con người, cho
con người biết vượt qua mọi khó khăn. Từ đó người cha mong muốn đứa con của
mình biết đồng cảm, sẻ chia, yêu thương, gắn bó hơn với buôn làng. Điệp từ, điệp
cấu trúc câu “sống trên đá, sống trong thung”, “không chê” như một lời khẳng định,
một lý mà người cha muốn nhắc nhở con về thái độ sống phóng khoáng, mạnh mẽ
cho dù có phải “lên thác xuống ghềnh”- một thành ngữ chỉ những khó khăn, thử
thách mà con người phải đối mặt trên cuộc đời.

Trong hình ảnh ấy, con sẽ học được cách tự chủ bản thân, vững vàng trước sóng
gió, cũng như những con người của quê hương chúng ta không bao giờ nhỏ bé,
nghèo hèn mà luôn giàu nghị lực. Tôi ấn tượng nhất với hai câu thơ:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục”

Với cách nói giàu hình ảnh, giàu sức liên tưởng và suy ngẫm nhưng vẫn toát lên
chất mộc mạc trong cách nói của người miền núi: những con người quê hương bao
đời nay luôn cần cù, chịu thương chịu khó, tự mình xây đắp giá trị tinh thần, phát
huy những truyền thống tốt đẹp của quê hương.

Quê hương và những truyền thống tốt đẹp chính là nền tảng, là điểm tựa tinh thần
vững chắc giúp con người vươn lên. Tiếng gọi thân thương, trìu mến của người cha
“con ơi” cứ lắp đi lặp lại trong suốt mạch cảm xúc. Tiếng gọi ấy cất lên ở nửa cuối
bài thơ có phần nghiêm nghị:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con.”

Cách nói ấy một lần nữa khẳng định sự chân chất mộc mạc, giản dị của “người đồng
mình”. “Lên đường” là hình ảnh ẩn dụ để chỉ con đường đời, con đường đi tới
tương lai, khi đó, con phải thật mạnh mẽ, vững vàng, không được phép yếu mềm
buông xuôi trước thách thức của cuộc đời.

Cách nói “nghe con” như một lời cầu khiến thể hiện sự chân thành, vừa là một lời
khuyên chí tình dành cho con, cũng như thế hệ trẻ của buôn làng. Rất tự nhiên mà
sâu sắc, bài thơ đã động vào dây đồng cảm của chúng ta, khiến ta phải suy nghĩ về
trách nhiệm, bổn phận của mình với quê hương, đất nước.

Có thể nói, tác phẩm đã đem đến một định nghĩa mới lạ cho tình phụ tử của dân tộc
Tày. Với thể thơ tự do, câu dài câu ngắn rất phù hợp với cuộc sống gập ghềnh của
người dân vùng núi. Hình ảnh thơ mang đậm chất của núi rừng, sông suối. Kết hợp
với mạch cảm xúc tự nhiên, nhẹ nhàng, không chỉ đơn thuần là những lời khuyên
chân tình với con mình, đó còn là lời nhắn nhủ với tất cả chúng ta về truyền thống
đạo lý “uống nước nhớ nguồn”.

Bài thơ chính là một đóa hoa thơm góp vào mảng đề tài quê hương, đất nước. Cho
ta thêm yêu thêm nhớ quê nhà thân thuộc của mình:
“Quê hương ơi! Xa rồi nhớ thành thơ

Tiếng mẹ đẻ, gặp nhau mừng khôn xiết

Ai cũng vậy xa lâu rồi mới biết

Những ngôn từ không đủ viết…quê hương!”

Phân tích bài thơ Nói với con mẫu 11

Chắc hẳn trong trái tim mỗi người con yêu nước luôn có hình ảnh quê hương. Quê
hương đã in đậm và trở thành một phần máu thịt trong mỗi chúng ta. Viết về đề tài
này, nhà thơ Y Phương đã bày tỏ những tình cảm của mình đối với quê hương qua
lời tâm tình với con trong bài thơ "Nói với con".

Y Phương là người con dân tộc Tày, sinh ra ở tỉnh Cao Bằng. Bài thơ "Nói với con"
được ông sáng tác năm 1980 trong hoàn cảnh: "Những năm cuối bảy mươi đầu tám
mươi của thế kỷ hai mươi, đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân cả nước nói
chung, nhân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi nói riêng, vô cùng khó khăn thiếu
thốn. Bởi vì đất nước ta vừa ra khỏi cuộc kháng chiến chống Mĩ lâu dài và cực kì
gian khổ.

Hiện thực xã hội ấy đã tác động sâu sắc đến đời sống con người. Đại bộ phận nhân
dân ta vẫn kiên trì khắc phục và tìm mọi cách để vượt qua để duy trì đời sống. Họ
vẫn tồn tại và không ngừng sinh trưởng là không phải nhờ vào phép màu của lực
lượng siêu nhiên nào mà chỉ dựa vào sức mạnh tinh thần của truyền thống văn hóa
từ ngàn đời mà ông cha để lại....

Bên cạnh cái tốt của những người làm ăn lương thiện, không ít những con người bị
tha hóa biến chất. Họ buôn gian bán lận, lợi dụng kẽ hở của nhà nước móc nối làm
ăn phi pháp...Từ hiện thực khó khăn ngày ấy, tôi làm bài thơ này để tâm sự với
chính mình, động viên mình, đồng thời là để nhắc nhở con cái sau này" (Y Phương).
Nhà thơ đã vẽ nên khung cảnh gia đình hạnh phúc, đầm ấm có cha mẹ và tiếng cười
đùa của con trẻ:

"Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước chạm tiếng cười"


Đó là một tổ ấm tràn ngập tình yêu thương. Bức tranh gia đình trở nên ấm áp, tươi
vui hơn khi có sự xuất hiện của trẻ thơ. Đứa trẻ là sự kết tinh tình yêu của cha và
mẹ. Sự khôn lớn của con cái luôn là niềm hạnh phúc của những bậc sinh thành. Đứa
con là niềm tự hào của cha mẹ, là minh chứng cho tình yêu mãnh liệt của họ.

Bốn câu thơ đầu là hình ảnh đứa trẻ đang tập đi những bước đi đầu tiên trong cuộc
đời.Chắc hẳn khi chứng kiến cảnh tượng đó, cha mẹ là người vui lòng nhất nhưng
cũng là người xúc động nhất. Bởi họ vui khi đứa con của mình có thể tự bước đi
trên con đường đời phía trước nhưng cũng không khỏi lo lắng, xót xa khi đứa trẻ
vấp ngã, trầy xước vì con đường đời không hề bằng phẳng.

"Tiếng nói", "tiếng cười" chính là đích đến, là sự cổ vũ, động viên nhiệt tình của cha
mẹ dành cho con. Đứa con không chỉ được sinh ra, lớn lên trong tình yêu thương
của cha mẹ mà còn được nuôi dưỡng bởi tình yêu của "người đồng mình":

"Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát"

"Người đồng mình" là cách nói giản dị, mộc mạc của người dân tộc. Cụm từ này
dùng để chỉ những con người cùng chung vùng miền, mở rộng ra là những người
cùng quê hương, tổ quốc. Đứa trẻ không những được lớn lên trong vòng tay yêu
thương và sự giáo dục của cha mẹ, gia đình mà nó còn được lớn lên trong sự thân
thuộc, nghĩa tình của những người xung quanh, những người làng xóm tốt bụng.

Họ chung sống như một gia đình lớn, "tối lửa tắt đèn" có nhau, luôn giúp đỡ nhau
những khi gặp khó khăn, hoạn nạn. Cuộc sống của họ gắn bó với núi rừng, thiên
nhiên. Họ cần cù lao động với những công việc như đan nan tre vót tròn để làm
dụng cụ bắt cá và dùng nhiều tấm ván, gỗ dựng chắc sát nhau thành vách nhà.

Các động từ "đan", "cài", "ken" đã giúp bạn đọc thấy được đó là những công việc tỉ
mỉ và cần rất nhiều sự khéo léo. "Người đồng mình" vất vả với công việc nhưng
cuộc sống của họ không nhàm chán, ngược lại, họ rất yêu cuộc sống, yêu lao động
bởi họ biết dùng câu hát để khơi dậy tinh thần lạc quan của mình. Tiếng hát giúp
cuộc sống của họ có thêm nhiều màu sắc và giúp tâm hồn họ trở nên phong phú
hơn.
Dù được sinh ra trên bất cứ mảnh đất nào thì mỗi chúng ta đều không được phép
lãng quên quê hương của mình. Y Phương đã truyền đạt bài học đó đến đứa con
thân yêu qua lời thơ giản dị:

"Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng"

Ngoài việc cung cấp gỗ và các loại thực phẩm phục vụ cho nhu cầu hàng ngày của
con người, núi rừng thơ mộng của quê hương còn "cho hoa". "Hoa" là sự kết tinh vẻ
đẹp của thiên nhiên,tạo vật. Những bông hoa của núi đồi mang một sắc thái riêng
biệt và khác lạ bởi chúng được kết tinh từ những vùng đất đầy sỏi đá.

Con đường quê hương có thể gồ ghề, không được bằng phẳng nhưng chứa đựng biết
bao ân tình, bao tấm lòng nhân hậu của những người đồng bào. Đó là con đường
dẫn vào bản, con đường đến trường, con đường ra suối, lên nương,....Tất cả những
con đường ấy đều có bước chân, tiếng nói và tình đoàn kết của "người đồng mình".

Quê hương có cả vẻ đẹp của thiên nhiên và tấm lòng của con người. Chẳng vậy mà
nhà thơ đã nói với con rằng: "Người đồng mình yêu lắm con ơi". Quê hương chính
là cội nguồn, là nơi bao bọc, chở che đứa trẻ.Đó là điểm tựa tinh thần vững chắc để
đứa trẻ ấy vững bước trên đường đời. Sự ra đời của con là niềm hạnh phúc vô bờ
bến của cha mẹ:

"Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời".

Ngày cưới là ngày trọng đại nhất đối với mỗi con người. Và nó sẽ trở nên ý nghĩa
hơn khi tình yêu đôi lứa được bắt nguồn từ tình yêu quê hương.Người con được
sinh ra và lớn lên từ chính tình yêu của bố mẹ và sự nghĩa tình của mảnh đất quê
hương. Quê hương được tạo nên bởi những con người giàu ý chí, nghị lực:

"Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh


Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc"

"Người đồng mình" có những đức tính thật đáng quý.Dù cuộc sống của họ có nghèo
đói, khó khăn chồng chất khó khăn nhưng họ luôn giữ vững một lòng quyết tâm
không bao giờ bỏ cuộc.Họ vẫn sống bền bỉ, gắn bó tha thiết với quê hương dù quê
hương còn đói nghèo.Nghệ thuật đối lập ở các từ "cao đo"-"xa nuôi", "nỗi
buồn"-"chí lớn" đã giúp người đọc thấy được sức sống kiên cường của con người
nơi đây.

Tác giả lấy sự từng trải, nỗi buồn để mang đo với độ cao và lấy chí lớn để đo độ xa.
Sống giữa nghèo đói, thác ghềnh nhưng họ không nhụt chí trước hoàn cảnh, ngược
lại họ còn dốc hết sức mình, "không lo cực nhọc" để khắc phục những điều đó.
Những đức tính đó cũng là đức tính mà người cha muốn con mình có được trong
quá trình rèn luyện.

"Đá gập ghềnh", "thung nghèo đói", "lên thác xuống ghềnh" là những hình ảnh ẩn
dụ cho những vất vả, nhọc nhằn được kết hợp với điệp từ "không chê" đã thể hiện
thái độ chấp nhận và sự kiên gan bền chí vượt qua mọi khó khăn của người dân nơi
đây. Phép so sánh "sống như sông như suối" đã giúp người con và chúng ta thấy
được sức sống mãnh liệt của họ.

Lời nhắn nhủ của người cha dành cho con ở bốn câu thơ tiếp theo dường như trầm
lắng, sâu sắc hơn:

"Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục"

Tuy "thô sơ da thịt" nhưng "người đồng mình" lại không hề yếu ớt, nhỏ bé. Họ
mang vẻ đẹp ngoại hình bình dị mà chân chất, mộc mạc.Tâm hồn họ luôn hướng
đến quê hương, họ sẵn sàng "đục đá", làm những công việc nặng nhọc để dựng xây
quê hương phát triển.
Lòng tự hào dân tộc, sự khéo léo, đức tính cần cù của họ đã làm nên những phong
tục tập quán tốt đẹp mang bản sắc văn hóa riêng của dân tộc mình. Nếu là những
con người nhỏ bé, không có sức mạnh thì chắc hẳn họ đã không làm được những
điều đó. Khép lại bài thơ là dặn dò thấm thía của người cha dành cho đứa con thân
yêu:

"Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con".

Người cha muốn con mình sống gắn bó, thủy chung, nghĩa tình với quê hương, biết
vượt qua những gian khó bằng ý chí, nghị lực và sức mạnh của bản thân. Con không
được phép quên đi nguồn cội, quê hương của mình vì chính quê hương là cái nôi
nuôi dưỡng con trưởng thành. Cha mẹ, những người dân quê hương và những
truyền thống quý báu của dân tộc sẽ là những người đồng hành cùng con trong cuộc
đời.

Người cha mong con có thể giữ cho bản thân những đức tính quý giá của "người
đồng mình", ngoại hình tuy có nhỏ bé nhưng tinh thần, tâm hồn nhất định không
được nhỏ bé, lùi bước trước gian nan. Bởi cuộc sống vốn muôn hình vạn trạng, con
đường đời có muôn ngàn những chông gai, thử thách.

Bằng những lời thơ giản dị như lời tâm sự của cha dành cho con và các hình ảnh thơ
giàu sức gợi, "Nói với con" của Y Phương đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng,
ca ngợi truyền thống tốt đẹp và sức sống mạnh mẽ của quê hương. Ông cũng muốn
nhắn gửi đến con về lòng tự tôn dân tộc. Đồng thời bài thơ cũng giúp chúng ta có
thêm sự hiểu biết về cuộc sống và vẻ đẹp của những người con dân tộc miền núi.

Phân tích bài thơ Nói với con mẫu 12

Y Phương (24/12/1948), tên thật là Hứa Vĩnh Sước, ông là một trong những nhà thơ
dân tộc nổi tiếng của nền văn học Việt Nam hiện đại, sinh ra và lớn lên trong cái nôi
của người dân tộc Tày, thế nên chất thơ của Y Phương rất đỗi trong sáng, đôn hậu,
thật thà, chất phác như tấm lòng của người dân miền núi.

Cùng với đó là những hình ảnh thơ phong phú, độc đáo mang sức liên tưởng mạnh
mẽ, gắn liền với đời sống của nhân dân, tựa như chất liệu thổ cẩm đan xen từng vần
thơ, góp phần làm nên những tác phẩm giàu tính nhân văn. Nói với con là một trong
những bài thơ hay nhất đã làm nên tên tuổi của Y Phương trên thi đàn Việt Nam,
với giọng thơ là lời thủ thỉ tâm tình của người cha dành cho đứa con của mình.

Từng câu đều thấm đẫm tình cảm gia đình thiêng liêng, ấm áp, mở rộng ra chính là
tình yêu tha thiết với mảnh đất, với con người quê hương mình của tác giả, vừa
thấm thía, vừa chân thành.

Nói với con là bài thơ mang đầy đủ những đặc điểm của thơ Y Phương, mạch cảm
xúc chủ yếu đó là tình yêu thương sâu sắc của người cha dành cho đứa con, thông
qua những lời tâm sự, hồi tưởng từ quá khứ đến hiện tại. Cũng giống như Khúc hát
ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm hay Con cò của Chế Lan
Viên, Nói với con không chỉ đơn thuần là lời tâm sự mà đó là những lời dạy bảo
chân thành của người cha dành cho con về quê hương xứ sở, về “người đồng mình”
đầy thiết tha và trìu mến.

Những đứa trẻ trong các bài thơ kể trên đều chưa lớn, có đứa còn trong nôi, còn trên
lưng mẹ thế nhưng các em rất may mắn khi có những người cha người mẹ biết yêu
thương, và biết cách giáo dục con cái thông qua những cách thức thông thường như
lời ru, lời hát, lời kể, khiến các em dần hình thành tư tưởng yêu thương từ khi còn
thơ bé. Trong Nói với con Y Phương mở đầu bài thơ bằng những lời kể thật ấm áp,
hoài niệm:

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười”

Đó hoàn toàn là tiếng lòng hạnh phúc của một người cha khi nhắc về kỷ niệm
những ngày con còn thơ ấu, những bước đi chập chững đầu đời đều để lại trong trái
tim cha, mẹ những dấu chân đầy ắp kỷ niệm. Tiếng nói đầu tiên con gọi “cha”, lần
đầu tiên con cười khiến cha mẹ mừng chảy nước mắt, con chính là món quà tuyệt
vời nhất mà tạo hóa đã ban cho cha mẹ.

Y Phương gợi nhắc quá khứ để gieo vào lòng con về những năm tháng thuở ấu thơ,
con có quyền được biết và ghi nhớ chúng như những ký ức đáng giá nhất cuộc đời,
đồng thời người cha cũng muốn gợi mở cho con những nền tảng đầu tiên về tình
cảm gia đình ấm áp, về quá trình sinh ra và lớn lên của một con người. Không ai có
thể tự lớn lên thành người, ai cũng có cha sinh mẹ đẻ, ai cũng cần người chăm sóc,
dạy dỗ.

Y Phương muốn nhắn nhủ với con về công lao và tình yêu thương vô bờ bến của
cha mẹ dành cho con cái từ thuở con sinh ra cho đến khi con lớn khôn thành người,
chính bởi tình yêu ấy mà cha chưa lúc nào quên những bước chân, tiếng nói đầu đời
của con. Từ khuôn khổ trong gia đình tác giả bắt đầu mở rộng ra cộng đồng, làng
xóm với những vẻ đẹp giản dị đáng quý của người dân tộc miền núi.

“Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”

Y Phương dùng một giọng thơ tha thiết, để gợi mở ra những vẻ đẹp của người dân
tộc miền núi bằng câu thơ chứa chan tình cảm “Người đồng mình yêu lắm con ơi”,
chỉ một chữ “yêu” mà chứa đựng biết bao tâm tình, đó là tấm lòng trân trọng, tự hào
về những con người của quê hương xứ xở.

Những con người lao động với đôi bàn tay thô sơ, nhưng khéo léo, thuần thục trong
công việc lao động, để mỗi sản phẩm họ làm ra đều như một tác phẩm nghệ thuật ví
như chiếc “lờ” đánh cá cũng phải được chau chuốt “nan hoa”, đó không đơn thuần
là hành động tự phát mà đó là cả một quá trình sáng tạo, là nét văn hóa đã in sâu vào
tâm hồn người dân kể cả trong công việc lao động thường ngày.

Và đặc biệt giữa cuộc sống nhiều khó khăn vất vả thế nhưng tâm hồn của “người
đồng mình” vẫn rất đẹp, rất yêu đời, từng câu hát, câu ca trong lối sinh hoạt văn hóa
của người Tày không chỉ nằm trong trí nhớ mà đã in sâu vào cả vách nhà, cả quê
hương, để mảnh đất này tràn đầy tình yêu thương, với bản sắc dân tộc đong đầy
khắp xứ sở.

Rồi từ vẻ đẹp trong tâm hồn của con người Y Phương lại khéo léo chuyển sang vẻ
đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của quê hương với hình ảnh “rừng cho hoa” xanh tươi,
rực rỡ tràn đầy sức sống, là hình ảnh đại diện cho phong cảnh miền núi phía Bắc,
nơi mà ông và “người đồng mình” đã cùng nhau sinh sống suốt ngàn năm nay.

Ngoài ra “rừng cho hoa” còn gợi ra sự trù phú, giàu có của thiên nhiên, đã ban tặng
cho cuộc sống của con người niềm vui, cái đẹp, tô điểm thêm cho quê hương. “Con
đường cho những tấm lòng” là một hình ảnh có nhiều sức gợi, Lỗ Tấn từng nói:
“Trên mặt đất làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi”, con đường
trong thơ Y Phương cũng vậy nó là kết quả của biết bao dấu chân “người đồng
mình” tạo thành, đó là tấm lòng gắn bó với mảnh đất quê hương, là tình cảm kết
tinh đẹp đẽ với làng xóm, với đồng bào, với gia đình.

Và con đường đã chứng kiến biết bao nhiêu đổi thay của năm tháng, lớp người này
ra đi, lớp người kia lại lớn lên, tất cả đều đã đặt dấu chân mình trên con đường thân
thuộc có dấu vết của tháng năm, có những giọt mồ hôi và cả nước mắt. Có lẽ nói
không ngoa thì con đường chính là chứng nhân cho những năm tháng đã qua của cả
một cộng đồng dân tộc.

Người cha nói với con những điều này với tấm lòng trân trọng yêu thương, chỉ
mong con có thể ghi nhớ và khắc sâu vào lòng những gì thân thuộc nhất của quê
hương, để khiến con nhận thức được ngoài gia đình thì chính những nét đẹp văn
hóa, chính cái nôi của cộng đồng đã nuôi dưỡng con thành người, cho con tiếng nói,
cho con những vẻ đẹp tâm hồn quý giá.

Và lần nữa người cha lại khắc sâu trong lòng con ấn tượng về tình cảm gia đình qua
câu thơ “Cha vẫn nhớ mãi về ngày cưới/Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”, là lời
khẳng định hạnh phúc gia đình, khẳng định thêm về tình cảm gia đình vững chắc là
cơ sở để cho con được một cuộc sống êm ấm, và cũng là cơ sở để gây dựng nên một
cộng đồng dân tộc với những nét đẹp trong văn hóa, phong tục truyền thống.

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối


Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc

Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục”

Vẻ đẹp của “người đồng mình” không chỉ dừng lại ở sự khéo léo sáng tạo trong lao
động hay lòng yêu cuộc sống, với những nét đẹp tập quán mà còn thể hiện ở ý chí
và sức mạnh trong tâm hồn. Y Phương viết “Người đồng mình thương lắm con ơi”
vừa thể hiện được tấm lòng yêu thương gắn bó tha thiết với dân tộc mình, vừa thể
hiện nỗi niềm cảm thông, thấu hiểu trước những vất vả mà “người đồng mình” phải
gánh chịu.

“Cao” và “xa” là hai lượng từ bình thường nhưng trong thơ Y Phương lại mang
nhiều sức gợi đặc biệt, nó khiến độc giả liên tưởng đến một vùng đất núi non trùng
điệp, ở xa tít tận địa đầu phía Bắc, cả thời tiết và địa hình đều khắc nghiệt vô cùng.
Thế nhưng những con người nơi đây chưa một lần lấy đó làm nản chí, mà ngược lại
chính những khó khăn đó đã nuôi dưỡng trong tâm hồn họ sự kiên cường và mộng
ước “chí lớn” vững mạnh.

Chính vì bản thân dân tộc từ bao đời nay đã có những đức tính đẹp như vậy, nên cha
cũng muốn con kế thừa và phát huy truyền thống vượt khó ấy “Sống trên đá không
chê đá gập ghềnh/Sống trong thung không chê thung nghèo đói”. Là “người đồng
mình” con phải học được cách thích nghi với cuộc sống, linh hoạt và mềm dẻo như
dòng sông, con suối, dù là thác hay ghềnh đều không khiến con phải nản chí, chùn
bước.

Lời thơ của tác giả có chút ngậm ngùi xót thương cho những con người miền núi,
thế nhưng phần hơn vẫn là niềm tự hào sâu sắc với bản lĩnh và ý chí kiên cường của
dân tộc, họ đã sống và xây dựng quê hương ngày càng trở nên tươi đẹp như thế.

Tuy rằng nghèo khó, chỉ với đôi bàn tay thô sơ cầm cái cuốc, con dao, khuôn mặt
sạm đi vì gió núi, nhưng “người đồng mình” chẳng mấy ai nhỏ bé, bởi họ mang
trong mình một tâm hồn lớn lao, lao đẹp, một ước mơ tuyệt vời, chỉ riêng điều ấy đã
đẩy con người lên một tầm vóc mới.
Họ dùng trí tuệ và sức mạnh của đôi bàn tay cần cù mà ra sức kiến thiết “tự đục đá
kê cao quê hương”, xây dựng làng bản, tạo ra của cải vật chất, và các giá trị tinh
thần, làm thay đổi bộ mặt của vùng núi phía Bắc, đóng góp một phần rất lớn vào
việc xây dựng đất nước.

Mà theo quan niệm của Nguyễn Khoa Điềm, nhân dân làm ra Đất Nước, tạo nên
quê hương, và nhiều lớp người như thế đã tạo nên một dòng chảy văn hóa đậm đà
bản sắc dân tộc kéo dài suốt mấy ngàn năm lịch sử, điều ấy hoàn toàn phù hợp với ý
thơ “Còn quê hương thì làm phong tục” của Y Phương.

Có thể nói rằng con người và quê hương là hai nhân tố không thể tách rời, có ý
nghĩa tương hỗ, kết hợp thành một thực thể thống nhất với những giá trị to lớn vừa
bao gồm cả vật chất và tinh thần để tạo nên một cộng đồng đoàn kết, gắn bó chặt
chẽ với nhau. Kết bài thơ là lời dặn dò thấm thía và đầy thương yêu của người cha
dành cho đứa con của mình sau những lời tâm tình, giảng giải về vẻ đẹp của quê
hương và “người đồng mình”.

“Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con.”

Cha mong rằng là thế hệ sinh sau đẻ muộn thì con hãy lấy người đi trước làm tấm
gương sáng để noi theo, luôn mang trong mình tình cảm yêu thương gia đình, yêu
thương con người và mảnh đất của quê hương để phấn đấu nỗ lực lấy cái tâm hồn
mạnh mẽ, kiên cường, ý chí vượt khó lớn lao để góp phần xây dựng đất nước.

Nói với con là bài thơ hay với những vần thơ tự do, phóng khoáng tựa tâm hồn của
người miền núi, đã thể hiện sâu sắc tình cảm yêu thương của người cha đối với con
thông qua cách giáo dục mềm mỏng, thủ thỉ, thấm đẫm ân tình. Đồng thời cũng thể
hiện niềm tự hào, niềm yêu thương của tác giả đối với mảnh đất quê hương và
những con người chất phác, tuy nhỏ bé về sức vóc nhưng lại mang trong mình
những vẻ đẹp tâm hồn lớn lao, đáng ngưỡng mộ.

Xem tiếp tài liệu tại:

You might also like