You are on page 1of 56

PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

Câu 1 : Trình bày quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về nguồn gốc của nhà nước.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì nhà nước nảy sinh từ xã hội và là sản
phẩm có điều kiện của xã hội loài người. Nhà nước không ra đời ngay từ khi xã hội loài
người mới xuất hiện mà chỉ ra đời khi xã hội đã phát triển đến giai đoạn nhất định. Đó là
giai đoạn có sự phân chia con người thành giai cấp, thành kẻ giàu, người nghèo, thành
người tự do, chủ nô và nô lệ, thành kẻ giàu có đi bóc lột và kẻ nghèo khó bị bóc lột, tức là
thành những lực lượng xã hội có khả năng kinh tế và địa vị xã hội khác biệt nhau, mâu
thuẫn và đấu tranh với nhau; đồng thời có sự tích tụ của cải và tập trung quyền lực vào tay
một số ít người, một lực lượng xã hội nào đó. Trong lịch sử xã hội loài người đã có thời kỳ
chưa có nhà nước, đó là thời kỳ cộng sản nguyên thủy, song tất cả những nguyên nhân và
điều kiện dẫn đến sự ra đời của nhà nước lại nảy sinh trong thời kỳ này.
Câu 2: Hình thức nhà nước được hình thành từ các yếu tố nào? Hãy làm rõ các yếu
tố đó
Các yếu tố:
- Hình thức chính thể: Đây là cách tổ chức và trình tự để lập ra các cơ quan tối cao của
nhà nước và xác lập những mối quan hệ cơ bản của các cơ quan đó. Hình thức chính thể có
hai dạng cơ bản là chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa,trong đó:
> Chính thể quân chủ là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước tập trung toàn
bộ (hay một phần) trong tay người đứng đầu nhà nước theo nguyên tắc thừa kế.
> Chính thể cộng hòa là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước thuộc về một
cơ quan được bầu ra trong một thời gian nhất định.
-Cả hai hình thức đều có những biến dạng của mình. Chính thể quân chủ được chia thành
chính thể quân chủ tuyệt đối và chính thể quân chủ hạn chế. Trong các nước quân chủ
tuyệt đối, người đứng đầu nhà nước (vua, hoàng đế,…) có quyền lực vô hạn; còn trong các
nhà nước quân chủ hạn chế người đứng đầu nhà nước chỉ nắm một phần quyền lực tối cao
và bên cạnh đó còn có một cơ quan quyền lực khác nữa, như nghị viện trong các nhà nước
tư sản có chính thể quân chủ.
-Chính thể cộng hòa cũng có hai hình thức chính là cộng hòa dân chủ và cộng hòa quý tộc.
Trong các nước cộng hòa dân chủ, quyền tham gia bầu cử để lập ra cơ quan đại diện
(quyền lực) của nhà nước được quy định về mặt hình thức pháp lý đối với các tầng lớp
nhân dân lao động (mặc dù trên thực tế, các giai cấp thống trị của các nhà nước bóc lột
thường đặt ra nhiều quy định nhằm hạn chế hoặc vô hiệu hóa quyền này của nhân dân lao
động). Trong các nước cộng hòa quý tộc, quyền đó chỉ quy định đối với tầng lớp quý tộc.
- Hình thức cấu trúc nhà nước: Đây là sự cấu tạo của nhà nước thành các đơn vị hành
chính lãnh thổ và xác lập những mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan nhà nước, giữa trung
ương với địa phương.
-Có hai hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu là hình thức nhà nước đơn nhất và hình thức
nhà nước liêng bang.
-Nhà nước đơn nhất là nhà nước có chủ quyền chung, có hệ thống cơ quan quyền lực và
quản lí thống nhất từ trung ương đến địa phương và có các đơn vị hành chính bao gồm tỉnh
(thành phố), huyện (quận), xã (phường).
- Nhà nước liên bang là nhà nước có từ hai hay nhiều nước thành viên hợp lại. Nhà nước
liên bang có hai hệ thống cơ quan quyền lực và quản lý; một hệ thống chung cho toàn liên
bang và một hệ thống trong mỗi nước thành viên; có chủ quyền quốc gia chung của nhà
nước liên bang và đồng thời mỗi thành viên cũng có chủ quyền riêng.
- Cần phân biệt nhà nước liên bang với nhà nước liên minh. Nhà nước liên minh là sự liên
kết tạm thời của các nhà nước với nhau nhằm thực hiện một số mục đích nhất định. Sau khi
đã đạt được các mục đích đó, nhà nước liên minh có thể giải tán hoặc có thể phát triển
thành nhà nước liên bang.
- Chế độ chính trị: Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp, thủ đoạn mà các cơ quan
nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước.
Trong lịch sử, từ khi nhà nước xuất hiện cho đến nay, các giai cấp thống trị đã sử dụng
nhiều phương pháp và thủ đoạn để thực hiện quyền lực nhà nước. Những phương pháp và
thủ đoạn đó trước hết xuất phát từ bản chất của nhà nước đồng thời phụ thuộc vào nhiều
yếu tối của mỗi giai đoạn trong mỗi nước cụ thể. Vì vậy, có rất nhiều phương pháp thủ
đoạn khác nhau nhưng tựu chung chúng được phân thành hai loại chính là: Phương pháp
dân chủ và phương pháp phản dân chủ.
Những phương pháp dân chủ cũng có nhiều loại, thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau
như những phương pháp dân chủ thật sự và dân chủ giả hiệu, dân chủ rộng rãi và dân chủ
hạn chế; dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp … Cần phân biệt chế độ dân chủ xã hội chủ
nghĩa được đặc trung bằng việc sử dụng các hình thức dân chủ thật sự, rộng rãi với chế độ
dân chủ tư sản đặc trưng bằng các phương pháp dân chủ hạn chế và hình thức.
Các phương pháp phản dân chủ thể hiện tính chất độc tài cũng có nhiều loại, đáng chú ý
nhất là khi những phương pháp này khi phát triển đến mức độ cao sẽ trở thành những
phương pháp tàn bạo, quân phiệt và phát xít.
Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước luôn có liên quan mật thiết với chế độ
chính trị. Ba yếu tố này có tác động qua lại lẫn nhau tạo thành khái niệm hình thức nhà
nước, phản ánh bản chất và nội dung của nhà nước. Nhưng trong một số trường hợp, ba
yếu tố này có thể không phù hợp với nhau. Ví dụ: chế độ chính trị phát xít, quân phiệt có
thể có hình thức chính thể cộng hòa dân chủ. Đây cũng là điều thường gặp trong các nhà
nước bóc lột.
Câu 3: Nêu bản chất, đặc trưng của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
• Nhà nước CHXHCN Việt Nam nằm trong tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Đó là kiểu nhà nước có bản chất hoàn toàn khác với kiểu nhà nước bóc lột và là kiểu nhà
nước cao nhất trong lịch sử, là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân và vì nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.”(Điều 2, Hiến pháp 1992).
Nhà nước bảo đảm cho nhân dân thực sự tham gia vào quản lý nhà nước và quản lý xã
hội, đảm bảo quyền ứng cử cũng như quyền bầu cử của nhân dân, thực sự có quyền lựa
chọn những người đại biểu xứng đáng của mình vào cơ quan quyền lực nhà nước.
•Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm những đặc trưng sau:
-Tính giai cấp công nhân của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Tính giai cấp công nhân của Nhà nước ta được quy định bởi tính tiên phong và sự lãnh
đạo của giai cấp này. Tính tiên phong của giai cấp công nhân được thể hiện trong quá trình
đấu tranh cách mạng, ở sự trung thành với lý tưởng cách mạng, ở khả năng nhận thức và tư
tưởng đổi mới, phát triển.
Bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện bản chất của giai cấp công nhân, là giai cấp
tiên tiến nhất, cách mạng nhất, phấn đấu vì lợi ích của nhân dân lao động và của toàn xã
hội.
-Tính dân tộc của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Nhà nước ta là nhà nước của tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam, là biểu hiện
tập trung của khối đoàn kết dân tộc. Các dân tộc anh em đều bình đẳng trước pháp luật.
Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ riêng, được Nhà nước tạo điều kiện, hỗ trợ về mọi mặt để
phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội. Các chính sách xã hội thể hiện tính dân chủ, nhân đạo
của nhà nước xã hội chủ nghĩa đang được triển khai thực hiện ở vùng đồng bào các dân
tộc. Ngày nay, tính dân tộc đó được phát huy nhờ kết hợp với tính giai cấp, tính nhân dân
và tính thời đại.
-Tính nhân dân của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân. Điều 2 Hiến pháp năm 1992 quy định:“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và tầng lớp trí thức”.
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân: Nhân dân thiết lập nên Nhà nước bằng quyền bầu
cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân, sử dụng quyền lực nhà nước chủ yếu thông qua Quốc
hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền lực nhà nước
bằng các hình thức giám sát, khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện các quyết định, hành vi của các
cơ quan nhà nước và các cá nhân có thẩm quyền làm thiệt hại đến quyền lợi của họ; tham
gia góp ý vào các dự án chính sách, pháp luật.
Tính nhân dân không phủ nhận các biện pháp cương quyết, mạnh mẽ của Nhà nước nhằm
chống lại các hành vi gây mất ổn định chính trị, vi phạm pháp luật, xâm hại đến lợi ích của
Nhà nước, tập thể và công dân. Vì vậy, cùng với việc đổi mới, tăng cường hiệu lực, hiệu
quả quản lý của các cơ quan nhà nước, Nhà nước cần tăng cường bộ máy cưỡng chế để
đảm bảo an ninh, an toàn cho xã hội và cho từng cá nhân con người.
-Tính thời đại của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Nhà nước ta là một Nhà nước xã hội chủ nghĩa, thực hiện thiết chế của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Vì vậy, Nhà nước ta hiện nay đang thực hiện chính sách phát triển kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng
thời thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội. Nhà nước ta thừa nhận nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là phương tiện để đạt mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Bên cạnh việc chăm lo phát triển kinh tế, Nhà nước
Việt Nam còn quan tâm đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, chú trọng phát triển giáo
dục, y tế, văn hóa…
Tính thời đại của Nhà nước ta còn được thể hiện sinh động trong chính sách đối ngoại với
phương châm: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”. Nhà nước Việt
Nam thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, hợp tác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào nội bộ của nhau.
Câu 4: Bộ máy nhà nước là gì? Phân tích hệ thống cơ quan nhà nước ở Việt Nam
hiện nay.
•Bộ máy nhà nước Việt Nam là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương xuống cơ
sở, được tổ chức theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ
để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
•Hệ thống cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay:
-Các cơ quan quyền lực nhà nước (cơ quan đại diện, đại biểu của nhân dân, cơ quan dân
cử), bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
của nước ta. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp; quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước; thành lập ra các cơ quan tối cao của Nhà nước và giám sát tối cao
đối với hoạt động của cả bộ máy nhà nước.
Hội đồng nhân dân do nhân dân địa phương bầu ra, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, chịu
trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
-Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm.
Chủ tịch nước được Hiến pháp quy định khá nhiều quyền trong cả ba lĩnh vực lập pháp,
hành pháp và tư pháp, song đó chủ yếu là những quyền mang tính chất đại diện cho Nhà
nước.
-Các cơ quan quản lí nhà nước (cơ quan chấp hành, cơ quan hành chính nhà nước), bao
gồm Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp.
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước ta, thực hiện quyền hành
pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội, do Quốc hội thành lập. Thủ tướng Chính phủ do
Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm; các thành viên khác của Chính phủ do Quốc hội phê
chuẩn.
Uỷ ban nhân dân các cấp do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của
Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước
nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp
trên.
-Các cơ quan xét xử, bao gồm Toà án nhân dân tối cao và các Toà án khác do luật định.
Đây là những cơ quan có chức năng xét xử tất cả các vụ tội phạm hình sự và các vụ tranh
chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, đất đai… xảy ra trong xã hội. Chánh án Toà án nhân
dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm; Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
do Quốc hội phê chuẩn; Thẩm phán các Toà án khác do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức.
-Các cơ quan kiểm sát, bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát
khác, là các cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm;
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức; Kiểm sát viên các Viện kiểm sát khác do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
-Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức bầu
cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp. Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, các
thành viên khác do Quốc hội phê chuẩn.
-Kiểm toán nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật, thực hiện kiểm toán, đánh giá, xác nhận, kiến nghị đối việc quản lí, sử dụng
tài chính, tài sản công. Tổng Kiểm toán nhà nước do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm; Kiểm toán viên nhà nước do Tổng kiểm toán nhà nước bổ nhiệm, miễn nhiệm.
Câu 5:Vì sao nói Nhà nước là công cụ sắc bén nhất duy trì sự thống trị giai cấp thống
trị ?
Trả lời:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin : “ Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của
những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. “ Vì vậy, nhà nước cchir sinh ra và tồn
tại trong xã hội có giai cấp và bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Để đảm bảo
quyền lực và lợi ích, giai cấp thống trị sử dụng nhà nước như một công cụ sắc bén để thực
hiện sự bảo vệ giai cấp của mình, đồng thời thiết lập, củng cố và đuy trì trật tự, ổn định xã
hội. Nhà nước có thể tác động môt cách mạnh mẽ và toàn diện đến mọi mặt của đời sống
thông qua bba dạng quyền lực sau: Quyền lực về kinh tế, Quyền lực về chính trị và Quyền
lực về tư tưởng.
Câu 6: Phù hợp với mỗi kiểu quan hệ sản xuất có giai cấp là một kiểu nhà nước đúng
hay sai ? Tại sao ?
Đúng.Vì Kiểu nhà nước là thuật ngữ để chỉ những nhà nước cùng có chung những dấu
hiệu đặc trưng cơ bản thể hiện bản chất giai cấp của nhà nước và những điều kiện kinh tế -
xã hội của sự tồn tại của nhà nước . Các nhà nước cùng một kiểu ra đời trong khuôn khổ
một hình thái kinh tế - xã hội nhất định và phản ánh những dấu hiệu đặc trưng của hình thái
kinh tế - xã hội đó. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ khi xã hội loài người có
giai cấp cho tới nay có bốn hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp là chiếm hữu nô lệ, phong
kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Tương ứng với bốn hình thái kinh tế - xã hội đó
có bốn kiểu nhà nước là nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản
và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Sự thay thế kiểu nhà nước này bằng kiểu nhà nước khác tiến
bộ hơn gắn liền với sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội.
Câu 7: Nêu các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Liên hệ thực tiễn.
*Các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam:
- Khái niệm và phân loại các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy:
+ Là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo cơ bản đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước cũng như của tất cả cơ quan nhà nước.
+ Các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được quy định
trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác.
- Các nguyên tắc cơ bản bao gồm:
+ Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
+ Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
+ Nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
+ Nguyên tắc Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo đối với nhà nước và xã hội, hiến pháp và
pháp luật.
Câu 8: Phân tích khái niệm nhà nước. Từ đó, phân biệt nhà nước với các tổ chức tồn
tại song song với nhà nước?
Khái niệm bộ máy nhà nước:
-Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước được tổ chức một cách chặt chẽ từ
trung ương đến địa phương, đây là hệ thống được tổ chức và thực hiện theo những nguyên
tắc chung nhất định, mang tính quyền lực nhà nước, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
trong phạm vi thẩm quyền của mình.
Phân biệt nhà nước với các tổ chức tồn tại song song với nhà nước:
1.Về quyền lực
Nhà nước: Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội Nhà nước là tổ chức quyền
lực chung của toàn xã hội, quyền lực của nhà nước có tác động bao trùm lên toàn xã hội,
tới mọi tổ chức, cá nhân, mọi khu vực lãnh thổ quốc gia và các lĩnh vực cơ bản của đời
sống: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục… Mọi cá nhân và tổ chức đang sống và hoạt
động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia đều phải phục tùng quyền lực và ý chí của nhà nước.
Do đó, nhà nước là tổ chức có cơ sở xã hội và phạm vi tác động rộng lớn nhất trong quốc
gia. Nhà nước có một lớp người tách ra khỏi lao động sản xuất để chuyên thực thi quyền
lực nhà nước, họ tham gia vào bộ máy nhà nước để làm hình thành nên một hệ thống các
cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương, trong đó có các cơ quan bạo lực, cưỡng
chế như quân đội, cảnh sát, tòa án… Nhờ có quyền lực và bộ máy chuyên thực thi quyền
lực đó mà nhà nước có thể điều hành và quản lý xã hội, thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội,
phục vụ và bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền.
Tổ chức xã hội khác: Các tổ chức xã hội khác cũng có quyền lực chung song quyền lực
đó chỉ có tác động tới các hội viên trong tổ chức đó và không một tổ chức nào có bộ máy
riêng để chuyên thực thi quyền lực như nhà nước. Cơ sở xã hội và phạm vi tác động của
các tổ chức xã hội khác đều hẹp hơn nhà nước, chỉ tới một bộ phận của dân cư.
2.Về quản lý dân cư/thành viên
Nhà nước: Nhà nước thực hiện việc quản lý dân cư theo lãnh thổ. Nhà nước luôn lấy việc
quản lý dân cư theo lãnh thổ làm điểm xuất phát. Người dân không phân biệt huyết thống,
dân tộc, giới tính… cứ sống trên một khu vực lãnh thổ nhất định thì chịu sự quản lý của
một nhà nước nhất định và do vậy, họ thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước ở nơi
mà họ cư trú. Nhà nước thực hiện việc quản lý dân cư trong phạm vi lãnh thổ quốc gia của
mình cũng theo địa bàn cư trú của họ hay theo các đơn vị hành chính – lãnh thổ. Nó phân
chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính và quản lý dân cư theo các đơn vị đó.
Tổ chức xã hội khác: Các tổ chức xã hội khác thường tập hợp và quản lý dân cư theo mục
đích, chính kiến, lý tưởng, nghề nghiệp, độ tuổi hoặc giới tính…
3.Về tham gia đối nội, đối ngoại
Nhà nước:Nhà nước nắm giữ và thực thi chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia là khái
niệm chỉ quyền quyết định tối cao của quốc gia trong quan hệ đối nội và quyền độc lập tự
quyết trong quan hệ đối ngoại. Nhà nước là đại diện chính thức cho toàn quốc gia, dân tộc
trong các quan hệ đối nội và đối ngoại. Trong quan hệ đối nội, quy định của nhà nước có
giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với các tổ chức và cá nhân có liên quan;
nhà nước có thể cho phép các tổ chức xã hội khác được thành lập và hoạt động hoặc nhà
nước công nhận sự tồn tại và hoạt động hợp pháp của các tổ chức xã hội khác. Trong quan
hệ đối ngoại, nhà nước có toàn quyền xác định và thực hiện các đường lối, chính sách đối
ngoại của mình.
Tổ chức xã hội khác: Các tổ chức xã hội khác chỉ được thành lập, tồn tại và hoạt động một
cách hợp pháp khi được nhà nước cho phép hoặc công nhận, đồng thời chỉ có thể nhân
danh chính tổ chức đó khi tham gia vào các quan hệ đối nội, đối ngoại và chỉ dược tham
gia vào quan hệ đối ngoại nào mà nhà nước cho phép.
4.Về ban hành văn bản pháp lý * Nhà nước:
Nhà nước ban hành pháp luật và dùng pháp luật làm công cụ quản lý xã hội. Pháp luật là
hệ thống các quy tắc xử sự chung có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với
các tổ chức và cá nhân có liên quan trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Nhà nước bảo đảm
cho pháp luật được thực hiện bằng nhiều biện pháp: tuyên truyền, phổ biến, giáo dục,
thuyết phục, tổ chức thực hiện, động viên, khen thưởng, áp dụng các biện pháp cưỡng chế
nhà nước. Nhà nước sử dụng pháp luật đế quản lý xã hội, điều chỉnh các quan hệ xã hội
theo mục đích của nhà nước và pháp luật là một trong những công cụ quản lý có hiệu quả
nhất của nhà nước.
Tổ chức xã hội khác:
Các tổ chức xã hội khác chỉ có quyền ban hành các quy định dưới dạng điều lệ, chỉ thị,
nghị quyết có giá trị bắt buộc phải tôn trọng và thực hiện với các hội viên trong tổ chức;
đồng thời bảo đảm cho các quy định đó được thực hiện bằng sự tự giác của các hội viên và
bằng các hình thức kỷ luật của tổ chức.
5.Về thu thuế, phí Nhà nước:
Nhà nước quy định và thực hiện việc thu thuế. Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người
dân buộc phải nộp cho nhà nước theo quy định của pháp luật. Nhà nước là một bộ máy
được tách ra khỏi lao động sản xuất trực tiếp để chuyên thực hiện chức năng quản lý xã hội
nên nó phải được nuôi dưỡng từ nguồn của cải do dân cư đóng góp, không có thuế bộ máy
nhà nước không thể tồn tại được và thuế luôn là quốc sách của mọi nhà nước. Thuế còn là
nguồn của cải quan trọng phục vụ cho việc phát triển các mặt của đời sống. Ngoài thuế,
nhà nước còn có quyền phát hành tiền, công trái, vì thế, nhà nước có lực lượng vật chất to
lớn, không chỉ có thể trang trải cho các hoạt động của nó, những hoạt động cơ bản của xã
hội, mà còn có thể hỗ trợ một phần kinh phí hoạt động cho một số tổ chức khác.
Tổ chức xã hội khác: Các tổ chức xã hội khác hoạt động trên cơ sở nguồn kinh phí do các
hội viên đóng góp.
Câu 9: Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt
động theo những nguyên tắc nào?
(*) Bản chất của Nhà nước CHXHCN Việt Nam thể hiện trong Điều 2 Hiến pháp năm
2013: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân”.
(*) Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước đặt dưới sự điều chỉnh tối cao
của pháp luật. Do đó, pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải bảo đảm tính công khai,
minh bạch, khả thi và hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và bảo vệ
quyền con người.
(*) Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được xây dựng và hoạt động trên cơ sở đáp
ứng các nguyên tắc cơ bản sau:
- Thứ nhất, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của nhà nước XHCN, nhân dân là người chủ tối
cao của đất nước, là người thành lập ra nhà nước, trao quyền cho nhà nước và kiểm tra,
giám sát hoạt động của nhà nước. Nhân dân có quyền quyết định tối cao các vấn đề quan
trọng của đất nước, nhà nước phải phục tùng các quyết định của nhân dân.
Điều 6, Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ
trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các
cơ quan khác của Nhà nước”. Các cơ quan quyền lực nhà nước là cơ quan đại diện cho ý
chí và nguyện vọng của nhân dân, các cơ quan này do nhân dân bầu và chịu trách nhiệm
trước nhân dân.
- Thứ 2, nguyên tắc Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước.
Nguyên tắc này nói lên tính chất đặc thù của nhà nước XHCN. Do vậy, sự lãnh đạo của
Đảng giữ vai trò quyết định đối với việc xác định phương hướng hoạt động của nhà nước
XHCN, là điều kiện quyết định để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.
Điều 4, Hiến pháp 2013 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
- Thứ 3, nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết dân tộc.
Tại Điều 5, Hiến pháp 2013 quy định: “Nước CHXHCN Việt Nam là quốc gia thống nhất
của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam; các dân tộc bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc;
ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản
sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình; Nhà
nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát
huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”.
Nguyên tắc này được biểu hiện Nhà nước CHXHCN Việt Nam phải là bộ máy nhà nước
thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Các dân tộc đều có
quyền có đại biểu của mình trong các cơ quan quyền lực nhà nước, có các cơ quan chuyên
trách về vấn đề dân tộc trong bộ máy nhà nước.
- Thứ 4, nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đây là nguyên tắc hoạt động cơ bản của hệ thống chính trị, trong đó có Đảng và Nhà
nước. Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện trên các mặt tổ chức và hoạt động của cơ
quan nhà nước.
Tại Khoản 1, Điều 8, Hiến pháp 2013 quy định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động
theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ”.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa chỉ đạo, lãnh đạo tập trung và mở
rộng dân chủ. Nguyên tắc này đòi hỏi, trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,
một mặt phải đảm bảo sự chỉ đạo, lãnh đạo tập trung, thống nhất của trung ương với địa
phương, của cấp trên với cấp dưới và mặt khác phải mở rộng dân chủ, phát huy tính tích
cực, chủ động sáng tạo của địa phương và cấp dưới; phải coi trọng vai trò của tập thể
nhưng cũng phải đề cao vai trò trách nhiệm cá nhân của người lãnh đạo; phát huy tính năng
động sáng tạo của cấp dưới nhưng luôn phải đảm bảo sự chỉ đạo tập trung thống nhất của
cấp trên.
- Thứ 5, nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
Nguyên tắc này được quy định tại Khoản 3, Điều 2, Hiến pháp 2013: “Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Với mục đích để đảm bảo quyền
lực nhà nước được thống nhất, bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả thì cần có sự phân
công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước về chức năng, nhiệm vụ. Đồng thời, phải có sự
kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Thứ 6, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nguyên tắc này yêu cầu việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên
nhà nước đều phải nghiêm chỉnh và triệt để tôn trọng pháp luật, tăng cường kiểm tra giám
sát và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật.
Điều 8, Hiến pháp 2013 đã quy định cụ thể: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo
Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ; các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân
dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự
giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện
quan liêu, hách dịch, cửa quyền”. => Đây là nguyên tắc có vai trò quan trọng trong việc
bảo đảm cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tuân theo ý chí của nhân dân, làm
cho bộ máy nhà nước hoạt động đồng bộ, nhịp nhàng, phát huy được hiệu lực quản lý nhà
nước.
Câu 10: Phân tích quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về nguồn gốc của nhà nước.
-Theo học thuyết Mác – Lê-nin, Nhà nước không phải là hiện tượng xã hội vĩnh cửu và
bất biến, cũng không phải lực lượng bên ngoài áp đặt vào xã hội, nó xuất hiện một cách
khách quan, khi xã hội đã phát triển đến giai đoạn nhất định.
- Về kinh tế:
+ Thay đổi từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Các công cụ lao động được thay
thế và cải tiến. Con người phát triền hơn về mặt thể lực và trí lực.
Câu 11: Tại sao nói pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội?
Khái niệm: Pháp luật được hiểu là hệ thống các quy tắc xử sự chung được đặt ra bởi
nhà nước và mang tính bắt buộc thực hiện với mọi chủ thể trong xã hội. Nội dung của pháp
luật thể hiện ý chí, bản chất của giai cấp thống trị.
Ta nói pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội vì:
+) Pháp luật phản ánh ý chí của NN của giai cấp thống trị. GCTT bằng con đường NN để
thể hiện ý chí của giai cấp mình một cách tập trung thống nhất và hợp pháp hoá thành ý chí
của NN. Ý chí đó được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật do các cơ quan NN có thẩm
quyền ban hành và đảm bảo cho pháp luật được thực hiện trong đời sống xã hội.
+) Pháp luật và phương tiện để thực hiện sự thống trị giai cấp pháp luật là nhân tố điều
chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội nhằm hướng các quan hệ xã hội phát triển theo
một trật tự phù hợp với ý chí lợi ích của giai cấp thống trị nhằm bảo vệ và củng cố địa vị
của giai cấp thống trị.
Câu 12: Thực hiện pháp luật là gì? Phân tích nội dung các hình thức thực hiện
pháp luật.
*Khái niệm:
Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định
của pháp luật đi vào cuộc sống trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể
pháp luật.
-Các hình thức thi hành pháp luật:
+) Tuân thủ pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật
kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm.
+) Thi hành pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể thực hiện
nghĩa vụ của mình bằng hành đông tích cực.
+) Sử dụng pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể thực hiện
quyền chủ thể của mình thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép.
+) Áp dụng pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó NN thông qua các cơ
quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định
của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan
hệ pháp luật cụ thể.
Câu 13 : Phân tích khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa ? Hãy trình bày những
yêu cầu cơ bản của pháp chế xã hội chủ nghĩa.
*Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa :
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là chế độ pháp luật, trong đó yêu cầu, đòi hỏi các cơ quan
nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân
phải tuân thủ, chấp hành, sử dụng, áp dụng, thực hiện đúng đắn, nghiêm chỉnh pháp luật
trong mọi hoạt động, hành vi, xử sự của mình; đồng thời phải không ngừng đấu tranh
phòng ngừa, chống các tội phạm và các vi phạm pháp luật khác, xử lý nghiêm minh mọi
hành vi vi phạm pháp luật.
*Những yêu cầu cơ bản của pháp chế xã hội chủ nghĩa :
a) Bảo đảm tính thống nhất của việc xây dựng, ban hành và thực hiện pháp luật
Pháp luật phải được nhận thức và thực hiện thống nhất trong cả nước và ở tất cả các
ngành, các cấp, cơ quan, đơn vị. Nội dung yêu cầu này thể hiện ở hai khía cạnh: Một là,
trong hệ thống văn bản pháp luật thì Hiến pháp và luật là những văn bản pháp luật có hiệu
lực pháp lý cao nhất. Các văn bản quy phạm pháp luật phải được ban hành dựa trên Hiến
pháp và các luật. Sự thống nhất của pháp chế được bảo đảm bằng hiệu lực tối cao của Hiến
pháp và luật so với các văn bản dưới luật. Các văn bản dưới luật phải phù hợp với Hiến
pháp và luật. Văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước ở địa phương phải phù hợp, không
mâu thuẫn với các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành. Hai
là, các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị - xã hội,
tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân ân và mọi công dân phải chấp hành Hiến pháp và
pháp luật một cách nghiêm minh, thường xuyên, liên tục.
b) Bảo đảm quyền con người và lợi ích hợp pháp của công dân
Quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được Hiến pháp quy định và cụ thể hóa
trong các văn bản quy phạm pháp luật, được các cơ quan nhà nước bảo đảm và bảo vệ.
c) Ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật
Bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào cũng đều xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước,
xã hội và công dân. Bởi vậy, các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền phải ngăn chặn
kịp thời và xử lý nghiêm minh đối với những hành vi vi phạm đó. Trong xử lý các hành vi
vi phạm pháp luật phải thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, không phân biệt đối tượng
vi phạm pháp luật là ai, địa vị xã hội như thế nào; xử lý đúng pháp luật, đúng người, đúng
tội theo quy định của pháp luật.
Câu 14 : Văn bản quy phạm pháp luật là gì ? Phân loại và so sánh giá trị pháp lí
văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam hiện nay . Lấy ví dụ.
1.Văn bản quy phạm pháp luật
- Là một loại văn bản pháp luật.
- Văn bản pháp luật được hiểu là một loại văn bản pháp luật.
- Văn bản pháp luật được hiểu là quyết định do cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm
quyền ban hành được thể hiện dưới hình thức văn bản nhằm thay đổi cơ chế điều chỉnh
pháp luật và có hiệu
2. Phân loại và so sánh giá trị pháp lí văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam hiện nay
Căn cứ vào trình tự ban hành và giá trị pháp lý , hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở
Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2015 được chia thành hai loại
-Các văn bản luật
Văn bản luật là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội , cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất văn bản quy phạm pháp luật . Các văn bản luật có giá trị pháp lý cao nhất ,
mọi văn bản khác ( văn bản dưới luật ) khi ban hành đều phải dựa trên cơ sở của văn bản
luật và không được trái với các quy định trong các văn bản đó . Văn bản luật có các hình
thức là Hiến pháp , Luật ( hoặc bộ Luật ) và Nghị quyết của Quốc hội .
- Các văn bản dứoi luật ( văn bản quy phạm pháp luật dưới luật)
+ Văn bản dưới luật là những văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ban
hành theo trình tự, thử tục và hình thức được pháp luật quy định .
+ Văn bản dưới luật có giá trị pháp lý thấp hơn văn bản luật . Giá trị pháp lý của từng
loại văn bản dưới luật cũng khác nhau tùy thuộc vào thẩm quyền của cơ quan ban hành văn
bản . Vì vậy, khi ban hành các văn bản dưới luật phải chú ý sao cho những quy định của
Hiến pháp và Luật .
Theo quy định trong Hiến pháp năm 2013 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật 2015 , hiện nay ở nước ta có những loại văn bản dưới luật sau :
+ Pháp lệnh , nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội ; nghị quyết liên tịch giữa Ủy
ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam.
+ Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
+ Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy
ban trưng ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
+ Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
+ Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
+ Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thông tư liên
tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao ; thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao , Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước .
+ Nghị quyết của hôi đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc TW ( sau đây gọi chung
là cấp tỉnh )
+ Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh .
+ Văn bản quy phạm quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành
chính – kinh tế đặc biệt.
+ Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện , quận , thị xã , thành phố thuộc tỉnh ,
thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương ( sau đây gọi chung là cấp huyện )
+ Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã , phường , thị trấn ( sau đây gọi chung là cấp
xã )
+ Quyết định của UBND cấp xã
3. Ví dụ :
- Luật 2013
- Luật số 07/L-CTN của Chủ tịch nước
- Quyết định số 554/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
Câu 15: Lấy ví dụ và phân tích các yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật.
Các yếu tố cầu thành quan hệ pháp luật gồm có: Chủ thể của quan hệ pháp luật; Khách thể
của quan hệ pháp luật và Nội dung của quan hệ pháp luật.
1/ Chủ thể quan hệ pháp luật
– Chủ thể trong quan hệ pháp luật có thể là cá nhân, tổ chức phải có năng pháp luật, năng
lực hành vi phù hợp phù hợp để tham gia vào các quan hệ đó và thực hiện các quyền, lợi
ích hợp pháp cũng như nghĩa vụ pháp lý theo quy định.
– Trong đó chủ thể là cá nhân và tổ chức khác nhau, cụ thể:
+ Chủ thể quan hệ pháp luật là cá nhân: Năng lực pháp luật của cá nhân là khả năng để cá
nhân đó có quyền và nghĩa vụ dân sự. Còn năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả
năng mà cá nhân đó bằng hành vi của mình để xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự.
+ Chủ thể quan hệ pháp luật là tổ chức: Đối với chủ thể này, năng lực pháp luật dân sự và
năng lực hành vi sẽ xuất hiện đồng thời khi tổ chức đó thành lập theo quy định của pháp
luật và chấm dứt tư cách pháp lý khi bị phá sản, giải thể.
2/ Khách thể quan thể quan hệ pháp luật
– Khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích mà các chủ thể mong muốn đạt được
đó là lợi ích về vật chất hoặc tinh thần, khi tham gia vào quan hệ pháp luật.
– Khách thể trong quan hệ pháp mà các bên hướng đến có thể là tài sản vật chất, lợi ích
phi vật chất hay hành vi xử sự của con người.
Ví dụ:
+ Vàng, trang sức, đá quý, tiền. xe, nhà, đất,… (tài sản vật chất)
+ Khám chữa bệnh, vận chuyển hàng hóa, chăm soc sắc đẹp, tham gia bầu cử,…(hành vi
xử sự)
+ Quyền nhân thân, danh dự, nhân phẩm, học hàm học vị,…(Lợi ích phi vật chất)
3/ Nội dung quan hệ pháp luật
– Nội dung của quan hệ pháp luật là tổng thể quyền và nghĩa vụ pháp của các chủ thể
tham giam trong quan hệ đó. Trong đó:
+ Quyền của chủ thể tham gia: Chủ thể thực hiện quyền của mình thông qua việc thực
hiện các hành vi trong khuôn khổ pháp luật, yêu cầu chủ thể khác thực hiện hoặc kiềm chế
thực hiện hành vi nhất định.
+ Nghĩa vụ của chủ thể tham gia: Chủ thể tham gia phải sử xự theo quy định của pháp
luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Ví dụ:
Quan hệ pháp luật có nhiều loại như quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp luật lao
động, quan hệ pháp luật hành chính, quan hệ pháp luật hình sự,….
Sau đây chúng tôi sẽ giới thiệu đến Quý độc giả một ví dụ cụ thể về quan hệ pháp luật
dân sự.
Tháng 01/2020 A giao kết hợp đồng vay tiền B, trong thời hạn 5 tháng với số tiền là 100
triệu đồng và hợp đồng này có công chứng.
1/ Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự: A và B
2/ Nội dung quan hệ pháp luật dân sự:
+ A có quyền nhận được số tiền vay 100 triệu từ B để sử dụng và A có nghĩa vụ thanh
toán đúng hạn, trả lãi suất (nếu có).
+ B có quyền nhận đủ số tiền cho vay theo đúng thời hạn và có nghĩa vụ giao số tiền
vay cho A.
3/ Khách thể quan hệ pháp luật dân sự: 100 triệu tiền vay và lãi (nếu có).
PLĐC tổ 5
Câu 16:Nêu các bản chất và các thuộc tính của pháp luật
Bản chất của pháp luật
Theo các quan điểm thần học và quan điểm tư sản thì Pháp luật không có thuộc tính riêng.
Bản chất Pháp luật của quan điểm thần học gắn liền với bản chất của Người nắm quyền
(người đại diện đấng siêu nhiên). Pháp luật của quan điểm tư sản là thể hiện ý chí của tất cả
mọi người trong xã hội, do đó không mang tính giai cấp. Trái với các quan điểm trên, quan
điểm học thuyết Mác – Lênin cho rằng bản chất Pháp luật mang thuộc tính giai cấp và
thuộc tính xã hội. Theo học thuyết Mác – Lênin, pháp luật chỉ phát sinh tồn tại và phát
triển trong xã hội có giai cấp. Bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của nó, không
có “pháp luật tự nhiên” hay pháp luật không mang tính giai cấp.
Phân tích thuộc tính của pháp luật: Là những đặc trưng cơ bản của Pháp luật, nếu Pháp
luật không có những đặc tính này Pháp luật có tồn tại trong xã hội cũng không ý nghĩa.
Pháp luật có những đặc tính sau: Tính quy phạm phổ biến Trong xã hội cách hành xử của
mỗi người trong cùng một quan hệ có thể khác nhau do vậy nhằm hướng hành vi của mọi
người theo cách xử sự chung phù hợp với lợi ích Nhà nước và xã hội, Nhà nước đã đặt ra
Pháp luật vì tính quy phạm Pháp luật là nhằm chỉ ra cách xử sự mà mọi người phải theo
trong trường hợp hay tình huống nhất định. Ngoài Pháp luật các quy phạm khác trong xã
hội như quy tắc đạo đức, luân lý, tôn giáo… cũng có tính quy phạm nhưng khác với các
quy phạm xã hội, tính quy phạm của Pháp luật mang tính phổ biến rộng khắp đến tất cả các
thành viên trong xã hội. Tính quy phạm phổ biến Trong xã hội cách hành xử của mỗi người
trong cùng một quan hệ có thể khác nhau do vậy nhằm hướng hành vi của mọi người theo
cách xử sự chung phù hợp với lợi ích Nhà nước và xã hội, Nhà nước đã đặt ra Pháp luật vì
tính quy phạm Pháp luật là nhằm chỉ ra cách xử sự mà mọi người phải theo trong trường
hợp hay tình huống nhất định. Ngoài Pháp luật các quy phạm khác trong xã hội như quy
tắc đạo đức, luân lý, tôn giáo… cũng có tính quy phạm nhưng khác với các quy phạm xã
hội, tính quy phạm của Pháp luật mang tính phổ biến rộng khắp đến tất cả các thành viên
trong xã hội. Tính cưỡng chế Đây là một thuộc tính thể hiện bản chất của Pháp luật, nếu
Pháp luật không có tính cưỡng chế thì dù Pháp luật có tồn tại hay không vẫn không có ý
nghĩa vì trong xã hội luôn có những người không nghiêm chỉnh tuân thủ Pháp luật mà còn
tìm cách chống lại các quy định của Pháp luật, do vậy những quy tắc xử sự đặt ra trong luật
bắt buộc mọi người phải thực hiện và nó được đảm bảo bằng các hình thức chế tài của Nhà
nước. Tính tổng quát Tính chất này ở Pháp luật thể hiện khi Pháp luật đặt ra những quy tắc
xử sự cho một trường hợp, hoàn cảnh nhất định mà bất kỳ ai rơi vào những trường hợp,
hoàn cảnh đó đều phải áp dụng những quy tắc mà Pháp luật đã đặt ra, mọi người đều bình
đẳng như nhau, đều chịu sự tác động của Pháp luật. Tính hệ thống Pháp luật bao gồm nhiều
quy định khác nhau nhưng tất cả đều được sắp xếp theo một trật tự, thứ bậc, thống nhất với
nhau trong một hệ thống. Chính nhờ tính chất này mà Pháp luật được áp dụng dễ dàng và
hiệu quả hơn trong đời sống xã hội. Tính ổn định Pháp luật có vai trò giúp ổn định xã hội,
do đó nếu Pháp luật luôn thay đổi sẽ đánh mất lòng tin của mọi người đối với Pháp luật.
Mặt khác Pháp luật luôn được đòi hỏi phải phù hợp với sự phát triển kinh tế nên khi các
quan hệ kinh tế xã hội thay đổi phát triển thì Pháp luật phải thay đổi theo nếu không Pháp
luật sẽ trở thành yếu tố cản trở sự phát triển xã hội, nên tính ổn định của Pháp luật là tính
ổn định tương đối.
Câu 17 :Mqh giữ PL và KT, PL và CT, liên hệ vào VN hiện nay
Quan hệ giữa pháp luật và kinh tế: Là một trong những yếu tố của thuộc kiến trúc thượng
tầng, pháp luật cũng có quan hệ mật thiết với kinh tế – yếu tố thuộc về cơ sở hạ tầng.
Trong đó, kinh tế giữ vai trò quyết định đối với pháp luật. Nó quyết định sự ra đời, tồn tại
và phát triển của pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật cũng có tính độc lập tương đối và có sự
tác động mạnh mẽ tới kinh tế. Các quan hệ kinh tế là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự ra
đời của pháp luật, quyết định nội dung, tính chất và cơ cấu của pháp luật. Do lực lượng sản
xuất phát triển, sự xuất hiện của nền kinh tế sản xuất và trao đổi, của chế độ tư hữu và của
sự phân hóa xã hội mà dẫn tới sự ra đời của nhà nước và pháp luật. Việc nảy sinh các quan
hệ kinh tế mới cũng sẽ dẫn tới việc xuất hiện pháp luật mới tương ứng để điều chỉnh các
quan hệ kinh tế đó. Kinh tế quyết định nội dung của pháp luật, các quy định của pháp luật
được xây dựng trên nền tảng kinh tế của xã hội và chỉ mang tính khả thi khi có sự đảm bảo
của điều kiện kinh tế ở mức độ nhất định. Chính vì vậy, pháp luật không thể phản ánh cao
hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển kinh tế. Kinh tế cũng ảnh hưởng tới tính chất của
pháp luật, tính chất của các quan hệ kinh tế quyết định đến tính chất của các quan hệ pháp
luật. Rõ nét nhất là mối quan hệ giữa các chủ thể trong quan hệ kinh tế. Nếu các chủ thể đó
độc lập với nhau thì trong quan hệ pháp luật họ cũng sẽ bình đẳng và độc lập với nhau. Cơ
cấu pháp luật cũng phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế. Ứng với mỗi thành phần kinh tế lại có
một lĩnh vực pháp luật tương ứng điều chỉnh các mối quan hệ trong thành phần đó. Với vai
trò quyết định, mọi sự biến động trong nền kinh tế sớm hay muộn cũng sẽ dẫn tới những
thay đổi tương ứng trong pháp luật. Các nước có hệ thống kinh tế khác nhau có các quy
định pháp luật khác nhau trong lĩnh vực kinh tế. Ý nghĩa của sự tương đồng và khác biệt
trong hệ thống kinh tế không chỉ ở chỗ các nền kinh tế có cùng loại, mà còn ở chỗ các nền
kinh tế cùng loại có cùng trình độ phát triển hay không.
-Giữa pháp luật và chính trị có mối liên hệ mật thiết với nhau, cụ thể như sau: +Mối quan
hệ của pháp luật và chính trị trong việc hình thành, tổ chức bộ máy nhà nước:Bộ máy nhà
nước là toàn bộ hệ thống từ Trung ương đến địa phương bao gồm nhiều loại cơ quan lập
pháp, hành pháp, tư pháp…là một thiết chế phức tạp nhiều bộ phận. Để xác định rõ chức
năng, thẩm quyền, trách nhiệm và phương pháp tổ chức hoạt động phù hợp để thực hiện
một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập thực hiện quyền lực nhà nước cần phải thực
hiện trên cơ sở vững chắc của những quy định của pháp luật.Khi một hệ thống quy phạm
pháp luật về tổ chức chưa đầy đủ, đồng bộ, phù hợp và chính xác để làm cơ sở cho việc xác
lập và hoạt động của bộ máy nhà nước thì dễ dẫn tới tình trạng trùng lặp, chồng chéo, thực
hiện không đúng chức năng của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Ngoài ra, pháp luật
còn quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cá nhân trong bộ máy nhà nước.
-ở Việt Nam hiện nay: Với đặc điểm riêng biệt của mình, pháp luật là phương tiện quan
trọng nhất để nhà nước thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình. Pháp luật có khả
năng triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách thống nhất, nhanh
chóng và có hiệu quả trên quy mô rộng lớn nhất. Nhờ vào pháp luật, nhà nước có cơ sở để
phát huy quyền lực của mình. Trong tổ chức và quản lý kinh tế, pháp luật lại càng có vai
trò to lớn. Nó góp phần tích cực vào việc tổ chức, quản lý và điều tiết nền kinh tế, điều đó
được thể hiện ở một số điểm quan trọng sau: – Pháp luật xác định rõ chế độ kinh tế, các
thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu, chính sách tài chính…, qua đó góp phần vào việc
sắp xếp, cơ cấu các ngành kinh tế, tác động đến sự tăng trưởng và ổn định, cân đối nền
kinh tế. Với mức độ đáng kể, sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay bị chi
phối và nhằm phục vụ cho định hướng xã hội chủ nghĩa. Đương nhiên, nhân tố sâu xa bảo
đảm định hướng chính trị đối với kinh tế là đường lối, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của
Đảng Cộng sản cầm quyền.
Câu 18:KN quy phạm PL và làm rõ cơ cấu của quy phạm PL
Quy phạm pháp luật là hình thức thể hiện của pháp luật thành một quy tắc xử sự nhất định
mà chủ thể phải tuân theo trong trường hợp cụ thể do Nhà nước quy định, và được bảo đảm
thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. Quy phạm pháp luật là thành tố nhỏ nhất của
hệ thống pháp luật. Nó là quy tắc xử sự chung, là chuẩn mực để mọi người phải tuân theo,
là tiêu chuẩn để đánh giá hành vi của con người. Thông qua quy phạm pháp luật ta biết
được hoạt động nào phù hợp với pháp luật, hoạt động nào trái pháp luật. Quy phạm pháp
luật là một loại quy phạm xã hội, là những quy tắc xử sự chung bắt buộc mọi người thực
hiện, do nhà nước xác lập, ban hành và bảo đảm việc thực hiện, để điều chỉnh các hành vi
của cá nhân hoặc tổ chức theo ý chí của nhà nước. - Cơ cấu của quy phạm pháp luật là gì ?
Mỗi quy phạm pháp luật được đặt ra nhằm để điều chỉnh một quan hệ xã hội nhất định. Do
đó, về nguyên tắc chung mỗi quy phạm pháp luật phải trả lời được 3 vấn đề sau đây: - Quy
phạm pháp luật này nhằm áp dụng vào các trường hợp nào? - Gặp trường hợp đó, Nhà
nước yêu cầu người ta xử sự như thế nào? - Nếu xử sự không đúng với yêu cầu của Nhà
nước thì Nhà nước sẽ tác động (phản ứng) như thế nào? Ba vấn đề trên là ba bộ phận cấu
thành của một quy phạm pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau là: giả định, quy định,
và chế tài. Lưu ý, về nguyên tắc chung thì một quy phạm pháp luật được cấu thành bởi 3
bộ phận là giả định, quy định, và chế tài. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi quy phạm pháp
luật đều chứa đựng đủ cả 3 bộ phận này. a) Giả định Giả định là bộ phận nêu lên những
hoàn cảnh, điều kiện, tình tiết có thể xảy ra trong cuộc sống, và cá nhân hoặc tổ chức nào ở
trong hoàn cảnh, điều kiện đó cần phải xử sự theo các quy định trong quy phạm pháp luật.
Giả định phải sát với thực tế cuộc sống thì quy phạm mới có thể áp dụng được, mới phát
huy tác dụng thiết thực. b) Quy định Quy định là phần nêu rõ cách xử sự phải theo khi gặp
trường hợp nói ở phần giả định, nêu rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Quy định là bộ
phận cơ bản của quy phạm pháp luật, không có quy định thì không thành quy phạm pháp
luật. Quy định phải thể hiện đúng đắn, chính xác ý chí của Nhà nước, phải được trình bày
thế nào để bảo đảm không thể hiểu sai, hiểu theo nhiều cách khác nhau. c) Chế tài Chế tài
là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những biện pháp tác động mà nhà nước dự
kiến sẽ áp dụng đối với chủ thể nào không thực hiện đúng mệnh lệnh của nhà nước đã nêu
ở phần quy định của quy phạm pháp luật. Chế tài pháp luật chính là những hậu quả bất lợi
đối với chủ thể vi phạm pháp luật. Đây là thái độ của nhà nước đối với họ đảm bảo cần
thiết cho những quy định của nhà nước được thực hiện. Có các loại chế tài như: chế tài
hình sự, chế tài hành chính, chế tài kỷ luật, chế tài dân sự.
Câu 19:Mqh giữa PL và Nhà nước,PL và đạo đức,liên hệ VN hiện nay
*Mqh PL và nhà nước
-Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm
vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện
mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp.
-Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã
hội và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội. -Mqh: Mối quan hệ giữa nhà nước và pháp
luật thể hiện ở sự thống nhất giữa nhà nước và pháp luật; sự khác biệt giữa nhà nước và
pháp luật và sự tác động qua lại giữa nhà nước và pháp luật. Cụ thể:
Thứ nhất: Sự thống nhất giữa nhà nước và pháp luật Nhà nước và pháp luật là hai hiện
tượng xã hội luôn gắn liền với nhau, do đó nguyên nhân về sự ra đời của nhà nước cũng là
nguyên nhân làm xuất hiện pháp luật. Nhà nước và pháp luật là những hiện tượng xã hội
mang tính lịch sử, đều là sản phẩm của xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Chúng chỉ
ra đời và tồn tại khi trong xã hội có những điều kiện nhất định, điều kiện đó là có sự tư
hữu, xã hội phân chia thành giai cấp và đấu tranh giai cấp. Như vậy, nhà nước và pháp luật
thống nhất với nhau
Thứ hai: Sự khác biệt giữa nhà nước và pháp luật Nhà nước là tổ chức đặc biệt của
quyền lực công là phương thức – hình thức tồn tại của xã hội có giai cấp thì pháp luật là hệ
thống các quy phạm được nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh hành vi
và các quan hệ xã hội của con người. Nhà nước đại diện cho sức mạnh còn pháp luật đại
diện cho ý chí. Nói nhà nước là nói đến yếu tố con người cùng cơ chế bộ máy, nói pháp
luật là nói đến các quy tắc hành vi. Hình thức nhà nước là cách tổ chức quyền lực và những
phương pháp để tổ chức quyền lực nhà nước. Hình thức nhà nước bao gồm 3 yếu tố: Hình
thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước, chế độ chính trị.
Thứ ba: Sự tác động qua lại của Nhà nước và pháp luật. Sự tác động của nhà nước đến
pháp luật thể hiện trước hết là ở việc nhà nước ban hành, thay đổi, hủy bỏ, hoàn thiện pháp
luật , bảo vệ pháp luật khỏi sự vi phạm, bảo đảm pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống.
Pháp luật là sản phẩm trực tiếp của hoạt động nhà nước. Pháp luật có vai trò điều chỉnh
hoạt động nhà nước và các quan hệ xã hội. Mặt khác, hoạt động của nhà nước về cơ bản là
mang tính pháp lí. Pháp luật là mục đích tồn tại của nhà nước. Nhờ có pháp luật mà nhà
nước thực hiện được các nhiệm vụ, chức năng, chính sách đối nội và đối ngoại của mình,
xác định chế đội chính trị, kinh tế, xã hội, quy chế pháp lý đối với các cá nhân. Toàn bộ
hoạt động nhà nước đều xuất phát từ chế độ pháp luật, trong các hình thức pháp luật và các
trình tự thủ tục pháp luật. Pháp luật có vai trò cũng cố hoàn thiện nhà nước để thích ứng sự
phát triển khách quan của xã hội.
*Mqh pl và đạo Đức :
-Pháp luật là một yếu tố điều chỉnh không thể thiếu trong một Nhà nước, trong xã hội có
giai cấp. Pháp luật ra đời và tồn tại một cách khách quan để đáp ứng nhu cầu quản lý các
mặt khác nhau của đời sống xã hội. Nó tồn tại song song với nhiều hiện tượng xã hội khác
cùng thực hiện chức năng điều chỉnh xã hội. Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự
mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể
hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.
-Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội. Đạo đức là những quan điểm, quan niệm của con
người về các phạm trù thuộc đời sống tinh thần của xã hội nhờ đó con người tự nhận thức,
tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp trước những lợi ích đặt ra. Đạo đức được
thể hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
-Mqh: Pháp luật và đạo đức có mối quan hệ tác động tương hỗ với nhau nhằm thực hiện
nhiệm vụ điều chỉnh hành vi xử sự của con người và duy trì trật tự xã hội. Vì vậy giữa
pháp luật và đạo đức luôn có một mối quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ và tác động qua
lại lẫn nhau. Cụ thể mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức được thể hiện:
Thứ nhất là tác động của đạo đức tới pháp luật Có thể thấy đạo đức là nền tảng tinh
thần để thực hiện các quy định của pháp luật. Các cá nhân trong xã hội thực hiện một hành
vi pháp luật hợp pháp không phải vì họ hiểu các quy định của pháp luật mà có thể do xuất
phát từ các quy tắc của đạo đức. Nhiều quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi các chuẩn mực đạo đức
được nhà nước sử dụng và nâng lên thành quy phạm pháp luật.
Thứ hai là tác động của pháp luật tới đạo đức Pháp luật không chỉ là sự ghi nhận các
chuẩn mực đạo đức, mà còn là công cụ phương tiện bảo vệ chuẩn mực đạo đức một cách
hữu hiệu bằng các biện pháp, chế tài cụ thể. Pháp luật có vai trò to lớn trong việc duy trì,
bảo vệ và phát triển các quy tắc đạo đức phù hợp, tiến bộ trong xã hội.
+ Pháp luật khẳng định, bảo vệ và phát huy những nguyên tắc, chuẩn mực của truyền
thống đạo đức.
+ Pháp luật còn có tác động giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức của dân tộc, ngăn
chặn sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức.
+ Pháp luật cũng có thể loại bỏ các chuẩn mực đạo đức đã lỗi thời, cải tạo các chuẩn mực
đạo đức, góp phần tạo nên những chuẩn mực đạo đức mới, phù hợp hơn với tiến bộ xã hội.
*Liên hệ :
-Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015: “Mục đích và nội dung
của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”.
Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện
những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người
với người trong đời sống xã hội được mọi người thừa nhận và tôn trọng.
- Có thể nói rằng, thực tiễn thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay có biểu hiện tương đối
tốt. Thực hiện Đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, chính sách của nhà nước, sự quan
tâm chỉ đạo của các ban cấp lãnh đạo, công tác tuyên truyền pháp luật của các cơ quan
chức năng; tất cả những nhân tố đó đã tạo cho người dân một cái nhìn tổng quan và chính
xác nhất về pháp luật, từ đó, người dân chấp hành, tuân thủ và thực hiện pháp luật một
cách tự giác, chủ động và nghiêm chỉnh. Ví dụ như có nhiều vụ tham nhũng của các cán bộ
công chức nhà nước như tham nhũng về đất, tiền đóng góp của người dân. . . đã bị người
dân khiếu nại, tố cáo. Nhân dân ủng hộ nhiệt tình với các chủ trương của chính phủ trong
việc giải quyết dứt khoát, không tránh né dù đối tượng có cương vị, trọng trách cao đến
đâu, cũng có nghĩa rằng nhu cầu công bằng xã hội được dư luận xã hội quan tâm, tán
thành, ủng hộ. Không chỉ đem lại quyền lợi cho người dân mà thể hiện tính dân chủ của
nhà nước. Điều này cũng cho thấy nhận thức về pháp luật của người dân đã được củng cố
và nâng cao.
Câu 20:Phân tích bản chất của PL XHCN
Bản chất của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thể hiện cụ thể bản chất
của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Theo điều 2 – Hiến pháp năm 2013 quy định: "
1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp." Đặc biệt, bản
chất của nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân được thể hiện qua năm đặc
điểm:
+ Thứ nhất, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thiết lập nên nhà nước
bằng quyền bầu cử, ứng cử đại biểu Quốc hội, và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, sử
dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
+ Thứ hai, nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước thống nhất của các dân tộc
cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
+ Thứ ba, nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một thiết chế của nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa.
+ Thứ tư, nhà nước ta kiên quyết áp dụng các biện pháp cưỡng chế, trấn áp các hành vi
gây mất ổn định chính trị, vi phạm pháp luật.. + Và cuối cùng, bản chất của nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam còn được thể hiện thông qua các chức năng đối nội và đối ngoại.
Câu 21:Nêu các hình thức thực hiện pháp luật?lấy ví dụ
- Pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước đặt ra (hoặc thừa nhận) có
tính quy phạm phổ biến, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức và tính bặt buộc chung thể
hiện ý chí của giai cấp nắm quyền lực Nhà nước và được Nhà nước đảm bảo thực hiện
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.
a) Sử dụng pháp luật
- Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật
thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép).
Những quy phạm pháp luật quy định về các quyền và tự do dân chủ của công dân được
thực hiện dưới hình thức này.
-Sử dụng pháp luật và việc cá nhân, tổ chức sử dụng các quyền của mình, làm những việc
mà pháp luật cho phép.
Ví dụ
VD1:Pháp luật cho phép và bảo vệ những quyền về tự do ngôn luận, ý kiến, kiến nghị của
người dân. Nên khi anh Hải thấy chính sách hiện tại áp dụng không phù hợp nên đã kiến
nghị lên cơ quan trình bày những điểm không phù hợp và đề xuất giải pháp thay đổi.
VD2:Pháp luật quy định công dân có quyền bảo đảm về quyền bình đẳng của công dân.
Nên trong cơ quan của chị Hồng, chị Hồng bị phân biệt đối xử là nữ trong lao động, bị trêu
ghẹo và có những chế độ không phù hợp, dó đó chị Hồng đã kiện lên cơ quan có thẩm
quyền để được bảo vệ.
b) Tuân thủ pháp luật
- Tuân thủ (tuân theo) pháp luật (xử sự thụ động) là hình thức thực hiện pháp luật, trong
đó các chủ thể pháp luật kiềm chế, không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm.
Những quy phạm pháp luật cấm đoán được thực hiện ở hình thức này.
-Tuân thủ pháp luật là việc cá nhân, tổ chức không làm những điều mà pháp luật cấm.
Ví dụ
VD1:Pháp luật cấm những hành vi gây rối trật tự công cộng, gây mất an ninh khu vực.
Nên khi anh Quỳnh thấy những hành vi đó đã can ngăn, và khuyên giải không nên làm
những hành vi như vậy sẽ bị pháp luật xử lý.
VD2:Pháp luật cấm hành vi nhận hối lộ, tham ô. Ông Dương là chủ tịch nhân dân huyện
luôn tuân theo quy định pháp luật. Khi có người mong muốn giúp đỡ bằng cách không
chính đáng, hối lộ ông Dương thì ông đã từ chối.
c)Thi hành pháp luật
Thi hành (chấp hành) pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp
luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực.
Thi hành pháp luật là hành vi cá nhân, tổ chức thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ, chủ động
làm những gì mà pháp luật quy định.
Ví dụ
VD1:Pháp luật quy định Nam từ đủ 18 tuổi phải thực hiện nghĩa vụ quân sự, nên Khoa
đã chủ động, tự nguyện tham gia nghĩa vụ quân sự sau khi kết thúc thời gian học cấp 3.
VD2:Pháp luật quy định nhân dân có nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước. Vì thế anh Lâm khi
có thu nhập cao đều thực hiện việc nộp thuế đầy đủ cho cơ quan thuế hằng năm.
d) Áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các cơ
quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực
hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để
tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp
luật cụ thể.
Áp dụng pháp luật là việc các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền căn cứ vào pháp luật để ra
các quyết định làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ cụ thể của cá nhân, tổ
chức.
Ví dụ
VD1:Một doanh nghiệp có hành vi trốn thuế, cơ quan nhà nước đã điều tra thu thập chứng
cứ để xứ lý theo quy định pháp luật với hành vi trốn thuế. Làm chấm dứt, thay đổi quyền
và nghĩa vụ của những người liên quan đến việc trốn thuế của doanh nghiệp.
VD2:Hai vợ chồng móng muốn ly hôn vì không thể hoà hợp. Toà đã căn cứ quy định pháp
luật để ra quyết định ly hôn, quyết định phân chia tài sản, quyết định về con cái sau hôn
nhân. Điều này làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền nghĩa vụ của vợ chồng với con
cái, và giữa vợ chồng với nhau.
Câu 22:Từ một tình huống áp dụng pháp luật cụ thể,hãy trình bày các giai đoạn của
quá trình áp dụng pháp luật trong tình huống đó?
Ngày 10/4/2013 Anh Nguyễn Văn A nộp hồ sơ khai lệ phí trước bạ Chi cục Thuế B thông
qua Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất đối với mảnh đất C. Mảnh đất C này do ông
nội anh A cho bố anh A (đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Bố anh A tiếp
tục cho anh A mảnh đất này. Trên tờ khai lệ phí trước bạ anh A khai vào mục tài sản thuộc
diện không phải nộp lệ phí trước bạ với lý do là tài sản được bố đẻ anh tặng. – Anh A nộp
đầy đủ hồ sơ khai lệ phí trước bạ bao gồm: + Tờ khai lệ phí trước bạ theo mẫu quy định tại
Thông tư 28/2011/TT-BTC + Các giấy tờ chứng minh nguồn gốc hợp pháp của mảnh đất C
+ Các giấy tờ chứng minh mối quan hệ giữa anh A và bố anh A 23.4.2. Giải quyết tình
huống Bước 1: Phân tích tình huống Đây là trường hợp vè chính sách đối tượng không
phải nộp lệ phí trước bạ, có hồ sơ đầy đủ có thể xem xét chuyển sang bước sau để lựa chọn
văn bản pháp luật áp dụng. Bước 2: Lựa chọn văn bản pháp luật áp dụng – Khoản 10 Điều
3 Thông tư 124/2011/TT-BTC quy định: “10. Nhà, đất thừa kế, hoặc là quà tặng giữa vợ
với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng
với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại
với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau nay được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
lần đầu.” Nếu áp dụng quy định này mảnh đất C của anh A không thuộc đối tượng không
phải nộp lệ phí trước bạ. – Khoản 1 Điều 1 Thông tư 34/2013/TT-BTC sửa đổi khoản 10
Điều 3 Thông tư 124/2011/TT-BTC quy định: “10. Nhà, đất thừa kế, hoặc là quà tặng giữa:
vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ
chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà
ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau nay được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất.” Nếu áp dụng quy định này mảnh đất C của anh A thuộc đối tượng không phải nộp
lệ phí trước bạ. – Tại khoản 1 Điều 83 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật “1. Văn
bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực. Văn bản quy phạm
pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu
lực. Trong trường hợp văn bản có hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó.” –
Thông tư 34/2013/TT-BTC có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2013 – Anh A kê khai nộp lệ
phí trước bạ vào ngày 10/4/2013 Căn cứ các quy định trên, mảnh đất C thuộc đối tượng
không phải nộp lệ phí trước bạ theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Thông tư 34/2013/TT-
BTC. Bước 3: Quyết định áp dụng pháp luật – Điểm g khoản 1 Điều 17 Thông tư
28/2011/TT-BTC quy định “g) Chi cục Thuế ra thông báo nộp lệ phí trước bạ trong thời
hạn ba ngày làm việc (đối với nhà, đất) hoặc trong một ngày làm việc (đối với tàu thuyền,
ôtô, xe máy, súng săn, súng thể thao) kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Trường hợp hồ sơ
không hợp lệ thì Chi cục Thuế trả lại hồ sơ cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất
hoặc cơ quan tài nguyên và môi trường (đối với hồ sơ lệ phí trước bạ nhà, đất), hoặc cho
người có tài sản (đối với hồ sơ trước bạ tài sản khác) theo thời hạn tại điểm này. Thông báo
nộp lệ phí trước bạ đối với nhà, đất theo mẫu 01-1/LPTB ban hành kèm theo Thông tư này;
Thông báo nộp lệ phí trước bạ của tài sản khác được ghi ngay trên Tờ khai nộp lệ phí trước
bạ của tài sản đó.” Căn cứ quy định trên Chi cục Thuế B phải ra thông báo nộp lệ phí trước
bạ trong đó nêu rõ mảnh đất C của anh A không thuộc đối tượng nộp lệ phí trước bạ trong
thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
Câu 23:Nêu những biện pháp tăng cường pháp chế XHCN
1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế:
-Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế là biện pháp cơ bản, bao
trùm, xuyên suốt trong quá trình củng cố tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
-Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế thể hiện: Trong từng thời kỳ, Đảng đề ra
phương hướng xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật,giáo dục nâng cao ý thức
pháp luật của nhân dân, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý để tăng cường cho các cơ quan
làm công tác pháp luật, pháp chế, tổ chức lãnh đạo phong trào quần chúng tham gia tích
cực, chống vi phạm pháp luật... Đó là sự lãnh đạo toàn diện, có ý nghĩa quyết định đối với
kết quả của công tác pháp chế.
-Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế không có nghĩa là Đảng làm thay nhà
nước, mà Đảng đề ra phương hướng chỉ đạo, kiểm tra, giám sát hoạt động của nhà nước
đối với công tác pháp chế.
-Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế còn được thể hiện thông qua sự gương
mẫu của các đảng viên, của tổ chức Đảng trong việc tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh
pháp luật của nhà nước. Đảng ta luôn khẳng định: Trong điều kiện Đảng cầm quyền, mọi
cán bộ, bất cứ ở cương vị nào, đều phải sống và làm việc theo pháp luật. Không cho phép
bất cứ ai dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật. Mọi vi phạm đều phải bị xử lý.
Ví dụ :Đại hội XIII: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm
vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”.Đây là yêu cầu cơ bản của việc xây dựng Nhà
nước, làm cho Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự ra đời, trưởng thành của Nhà nước
ta,quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cải cách, đổi mới Nhà nước là phải
nhằm tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; đồng thời tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng mới đảm bảo cho quá trình đổi mới Nhà nước được thực hiện đúng
hướng và có hiệu quả. Đảng lãnh đạo Nhà nước không có nghĩa là bao biện, làm thay Nhà
nước; mọi tổ chức của Đảng và đảng viên đều hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.
2. Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật XHCN:
- Pháp chế chỉ có thể được tăng cường trên cơ sở một hệ thống pháp luật ngày càng phát
triển và hoàn thiện, kịp thời thể chế hóa các chủ trương, chính sách , đường lối của Đảng
phản ánh đúng những đặc điểm của kinh tế- xã hội trong mỗi giai đoạn cụ thể .Để có một
hệ thống pháp luật như vậy phải thực hiện nhiều biện pháp:Thường xuyên tiến hành hệ
thống hóa pháp luật để loại bỏ những quy định trùng lặp, lạc hậu, mâu thuẫn và kịp thời bổ
sung, sửa đổi pháp luật;Có kế hoạch xây dựng pháp luật, đẩy mạnh công tác nghiên cứu
khoa học pháp lý, kỹ thuật xây dựng nhằm đảm bảo cho hệ thống văn bản pháp luật đạt
trình độ kỹ thuật cao, mở rộng các hình thức để nhân dân lao động tham gia vào việc xây
dựng pháp luật.
-Tuy nhiên, việc xây dựng một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh còn gặp khó
khăn, phức tạp, vì điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay còn nhiều biến động. Cho
nên, cần tránh hai khuynh hướng: Chủ quan nóng vội dẫn đến tình trạng pháp luật không
phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội; Không nhận thức đúng vai trò của pháp luật dẫn đến
tình trạng chờ đợi, chậm chạp, không đủ luật, luật không ban hành kịp thời để điều chỉnh
các lĩnh vực của đời sống xã hội.Đối với công tác xây dựng pháp luật ở nước ta, một mặt
cần có chiến lược xây dựng pháp luật lâu dài, toàn diện, mặt khác trong mỗi giai đoạn cần
có trọng tâm, trọng điểm để ban hành những văn bản pháp luật trong những lĩnh vực quan
trọng, cấp bách, kịp thời để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh.
Ví dụ: Việc sửa đổi và bổ sung về Hiến pháp năm 1992 đã được thông quaý kiến của công
dân và đã được sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với xã hội.Đại hội XIII
của Đảng xác định: “Đẩy mạnh việc hoàn thiện, xây dựng hệthống pháp luật thống nhất,
đồng bộ, hiện đại, khả thi, công khai, minh bạch, ổnđịnh, dễ tiếp cận, có sức cạnh tranh
quốc tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp,chính đáng của nhân dân, thúc đẩy đổi mới
sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triểnbền vững kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh trong
điều kiện mới”. Đặc biệt,để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội
nhập kinh tếquốc tế, Đại hội xác định: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với
nhữngđiều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.
3. Tăng cường công tác thực hiện pháp luật:
Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật là một biện pháp lớn để tăng cường pháp
chế,bao gồm nhiều mặt hoạt động nhằm bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thực
hiện nghiêm chỉnh,cụ thể là:
- Cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, tăng cường công tác giải thích
pháp luật để làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của các quy định pháp luật tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thực hiện, áp dụng pháp luật.
- Đẩy mạnh công tác thông tin , tuyên truyền và giáo dục pháp luật nhằm làm cho nhân
dân hiểu biết pháp luật nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.
-Chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý có đủ trình độ ,phẩm chất chính trị và
khả năng công tác để sắp xếp vào các cơ quan làm công tác pháp luật,pháp chế.
- Phải chú trọng công tác tổ chức, kiện toàn các cơ quan làm công tác pháp luật, pháp chế,
xác định rõ chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động cải tiến các phương
pháp chỉ đạo và thực hiện, đồng thời tạo điều kiện vật chất cần thiết bảo đảm cho các hoạt
động của các cơ quan đó đạt hiệu quả cao.
Trong từng thời kỳ,cần có sự tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời để thấy rõ những thiếu
sót, nhược điểm của công tác tổ chức thực hiện pháp luật,đề ra những phương hướng và
biện pháp để tăng cường hiệu lực của công tác thực hiện pháp luật.
Ví dụ: UBND các quận huyện đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến sâu rộngpháp luật về
phòng, chống dịch bệch Covid-19 cho dân bằng hệ thống Đài phátthanh cơ sở, qua tranh
bích họa để dân nắm bắt được các quy định về cách ly ytế, tiêm vaccine, quy tắc 5K, chính
sách an sinh xã hội và tình hình xử lý cáchành vi vi phạm pháp luật phòng, chống dịch để
chấp hành đúng, đồng thời ởmỗi địa phương đều có các cán bộ công an phường thực hiện
việc hướng dẫn,chỉ đạo, đôn đốc pháp luật tới người dân. Hay tích cực đưa các quy định
phòng,chống dịch bệnh vào giáo dục qua việc hưởng ứng các cuộc thi tìm hiểu phápluật
cho học sinh để các em nâng cao nhận thức, không làm trái pháp luật. Trongtrường học
cũng cần có những giáo viên có chuyên môn, đạo đức, am hiểu vàtôn trọng pháp luật thì
mới có thể truyền đạt đúng đắn nhất về pháp luật tới họcsinh.
4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát , xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm
pháp luật.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lí nghiêm minh những hành vi vi phạm
pháp luật là biện pháp bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh , mọi người
đều bình đẳng trước pháp luật.Biện pháp này đòi hỏi phải thường xuyên kiểm tra hoạt động
của bộ máy nhà nước, đặc biệt là các cơ quan làm công tác bảo vệ pháp luật để phát hiện
những sai sót, lệch lạc,kịp thời uốn nắn , rút kinh nghiệm, bảo đảm cho bộ máy nhà nước
hoạt động theo đúng quy định của pháp luật. Những vi phạm pháp luật của cán bộ, công
chức trong bộ máy nhà nước phải được xử lí nghiêm minh theo nguyên tắc mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật, bất cứ ai, dù ở cương vị nào cũng phải sống và làm việc theo
pháp luật, không cho phép bất cứ ai dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật.
- Đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật đòi hỏi phải có phương pháp hoạt động thích hợp,
nhanh chóng phát hiện những vụ việc vi phạm pháp luật và áp dụng các biện pháp xử lí
nghiêm minh, chính xác, đúng quy định của pháp luật,
- Công tác kiểm tra, giám sát, xử lí nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật chỉ có thể được
thực hiện tốt khi có sự lãnh đạo của Đảng, sự chủ động, sáng tạo của các cơ quan có thẩm
quyền và sự tham gia đông đảo, tích cực của quần chúng nhân dân vào công tác đấu tranh
phòng ngừa vi phạm pháp luật và chống tội phạm làm cho công tác kiểm tra, giám sát, xử
lý mọi vi phạm pháp luật vừa mang tính chất mạnh mẽ của quyền lực nhà nước, vừa mang
tính chất xã hội.
Ví dụ: Về vấn đề thực phẩm bẩn hiện nay đang tồn tại nham nhảm trongcuộc sống của
chúng ta, Nhà nước đã kiểm tra đột xuất về một một nơi chuyên sản xuất mỡ và bán ra các
nhà hàng, phát hiện ở đó đã làm ra hàng tấn mỡ bẩn từ các mỡ động vật đã ôi thiu, qua xử
lý thành mỡ bán ra các nhà hàng. Đó là một hành vi vi phạm pháp luật và trái với đạo đức,
với lương tâm của con người.V à việc kịp thời xử lý kiểm tra như vậy sẽ loại bỏ được rất
nhiều các hành vi vi phạm pháp luật, làm cho đời sống của nhân dân thêm tốt đẹp hơn.
Câu 24:Trình bày Kn của sự kiện pháp lý.Khi nào sự kiện thực tế trở thành sự kiện
pháp lý?Phân loại SKPL và phân tích 1 ví dụ cụ thể
--- KHÁI NIỆM SỰ KIỆN PHÁP LÝ :
- Là sự việc nảy sinh trong cuộc sống dưới dạng một hành vi của con người hoặc một sự
cố tự nhiên được pháp luật gắn với việc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt một quan hệ
pháp luật nhất định .
- Phải là một sự kiện có thật trong thực tế , nhưng một sự kiện có thật chỉ có thể trở thành
sự kiện pháp lý khi được pháp luật quy định mà trở thành cơ sở làm nảy sinh quan hệ pháp
luật.
- là một khái niệm pháp lý đa dạng có thể phân loại ở nhiều cấp độ khác nhau. Ở cấp độ
chung nhất, sự kiện pháp lý được phân thành hành vi và sự cố.
--- KHI NÀO SỰ KIỆN THỰC TẾ TRỞ THÀNH SỰ KIỆN PHÁP LÝ?
Thông thường, một sự kiện thực tế được coi là sự kiện pháp lý chỉ khi chúng được pháp
luật quy định. Cùng một sự kiện pháp lý nhưng có thể làm phát sinh quan hệ pháp luật này
đồng thời có thể làm thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật khác.
Là khi chúng xảy ra được pháp luật gắn với việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan
hệ pháp luật .
--- PHÂN LOẠI SỰ KIỆN PHÁP LÝ VÀ PHÂN TÍCH MỘT VÍ DỤ CỤ THỂ
PHÁT SINH TRONG ĐỜI SỐNG .
Căn cứ vào vào mối liên hệ giữa sự kiện thực tế xảy ra với ý chí của thể tham gia quan hệ
pháp luật:
Sự kiện pháp lý được chia thành hai loại: sự biến và hành vi.
– Sự biến
Là những sự kiện pháp lí xảy ra và hậu quả của nó nằm ngoài ý chí của chủ thể quan hệ
pháp luật. Đó là những hiện tượng tự nhiên như thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh, sinh tử,…
mà sự xuất hiện của chúng đã làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ
pháp lý của các chủ thể theo quy định pháp luật.
Ngoài ra, sự biến còn phải gắn liền với đời sống con người và dẫn tới hậu quả pháp lý mới
được coi là sự biến. Những hiện tượng tự nhiên như thiên tai, bão lũ xảy ra ở nơi hoang
vắng không có người ở, thì chỉ là sự kiện thông thường, không được coi là sự kiện pháp lý.
Những hiện tượng tự nhiên như mưa, gió, nhật thực, nguyệt thực, hoa quả đâm chồi nảy
lộc vào mùa xuân,….cũng không phải là sự kiện pháp lí vì chúng là quá trình phát triển
thông thường của tự nhiên, không gắn với cuộc sống của con người và không dẫn tới hậu
quả pháp lý nào.
Sự biến pháp lý bao gồm hai loại là sự biến tuyệt đối và sự biến tương đối.
+ Sự biến tuyệt đối là sự kiện vốn là kết quả của một hiện tượng tự nhiên nhưng làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật.
+ Sự biến tương đối là sự kiện vốn là kết quả của một sự việc hoặc hành vi xảy ra trong
thực tế nhưng làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật.
– Hành vi
Là sự kiện pháp lí xảy ra do ý chí của chủ thể quan hệ pháp luật, được thể hiện dưới dạng
hành động hoặc không hành động.
Tuy nhiên, hành vi đó phải do chính chủ thể có đầy đủ nhận thức thực hiện dẫn tới các hậu
quả pháp lý theo quy định của pháp luật. Ngược lại, hành vi do những người mất khả năng
nhận thức, hạn chế về nhận thức thực hiện không được coi là sự kiện pháp lý mà chỉ lá sự
biến pháp lý do họ không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình nên họ không thể
chịu trách nhiệm pháp lý cho những hậu quả do hành vi của mình gây ra.
Căn cứ vào hậu quả pháp lý:
Sự kiện pháp lý được chia thành ba loại:
– Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật
VD: Việc kết hôn dẫn đến hình thành quan hệ hôn nhân.
– Sự kiện pháp lý làm thay đổi quan hệ pháp luật
VD: Việc sáp nhập doanh nghiệp A và doanh nghiệp Bcó thể làm thay đổi chủ thể và cả
một số nội dung của quan hệ hợp đồng còn dang dở mà bên A đã ký kết và đã chuyển giao
cho B tiếp tục thực hiện.
– Sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ pháp luật
VD: Sự kiện người chết làm chấm dứt quan hệ hôn nhân gia đình, quan hệ xã hội, quan hệ
lao động,… của công dân đó với nhà nước và xã hội.
Tuy nhiên, cách phân loại này chỉ có tính chất tương đối vì cùng một sự kiện pháp lý có
thể làm phát sinh quan hệ pháp luật này nhưng lại làm thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ
pháp luật khác.
VD: Sự kiện người chết làm chấm dứt các quan hệ pháp luật của công dân nhưng đồng
thời cũng làm phát sinh quan hệ thừa kế.
Căn cứ vào số lượng sự kiện thực tế tạo thành sự kiện pháp lý:
Sự kiện pháp lý gồm hai loại: sự kiện pháp lý đơn nhất và sự kiện pháp lý phức hợp.
– Sự kiện pháp lý đơn nhất
Là sự kiện chỉ bao gồm một sự kiện thực tế mà pháp luật gắn sự kiện thực tế này với việc
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật.
Ví dụ: A đưa xe vào bãi giữ xe và nhận vé giữ xe, đó là một sự kiện pháp lý làm phát sinh
quan hệ hợp đồng gửi giữ giữa A với người giữ xe và là sự kiện pháp lý đơn nhất.
– Sự kiện pháp lý phức hợp
Là sự kiện bao gồm nhiều sự kiện thực tế mà nếu thiếu đi một trong các sự kiện cấu thành
tập hợp đó thì quan hệ pháp luật không thể phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt.
Ví dụ: Quan hệ nghỉ hưu của người lao động chỉ phát sinh khi họ có đủ các điều kiện về
độ tuổi, số năm đóng bảo hiểm và quyết định cho nghỉ hưu của chủ thể có thẩm quyền…
Câu 25:Thực hiện PL là gì? Các hình thức thực hiện pháp luật và chỉ rõ điểm khác
biệt giữa áp dụng PL với các hình thức còn lại
Thực hiện pháp luật: là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của
pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi xử sự thực tế hợp pháp của các chủ thể
pháp luật.
Các hình thức thực hiện pháp luật:
- Tuân thủ pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật kiềm
chế không tiến hành những hành vi mà pháp luật cấm.
- Thi hành pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó chủ thể pháp luật thực
hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng một hành vi nhất định.
- Sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể thực hiện quyền
chủ thể của mình, tức là thực hiện những điều mà pháp luật cho phép.
- Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các cơ
quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định
của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan
hệ pháp luật cụ thể.
Điểm khác biệt giữa áp dụng pháp luật với các hình thức còn lại là chủ thể thực hiện.
- Nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật là những hình thức mà
mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật là hình thức luôn có sự
tham gia của nhà nước.
26. Trình bày khái niệm, phân tích và lấy ví dụ về đối tượng, phương pháp điều
chỉnh của Luật hiến pháp.
1. Khái niệm Luật hiến pháp Luật Hiến pháp là một ngành luật gồm tổng thể các quy
phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ cơ bản về tổ chức quyền lực Nhà nước, về chế
độ chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, chế độ bầu cử, quyền và nghĩa vụ của công dân, về
quốc tịch…
2. Đối tượng điều chỉnh của Luật hiến pháp (Luật Nhà nước) Đối tượng điều chỉnh
của Luật Hiến pháp là gì? Đối tượng đường chính của Luật Hiến pháp là những quan hệ xã
hội quan trọng của nhiệm với việc xác định chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội,
chính sách đối ngoại và an ninh quốc phòng, địa vị pháp lý của công dân cũng như tổ chức
và hoạt động của bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đối tượng điều
chỉnh của Luật Hiến pháp gồm: Có học giả liệt kê cụ thể những quan hệ xã hội mà luật
hiến pháp điều chỉnh. Những quan hệ xã hội liên quan đến cuộc nguồn gốc của quyền lực
nhà nước và bản chất quyền lực nhà nước; Những quan hệ xã hội liên quan đến mô hình
nhà nước Việt Nam. Đó là mối quan hệ cho phép xác định cơ cấu tổ chức của các cơ quan
nhà nước và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhau; Những mối quan hệ xã hội
liên quan đến việc xác định cơ sở kinh tế văn hóa xã hội của việc tổ chức nhà nước Việt
Nam; Những mối quan hệ xã hội giữa nhà nước với các công dân Việt Nam nói chung…
Đó là những quan hệ xã hội xác định hình thức tham gia của nhân dân vào việc quyết định
các công việc của nhà nước, xác định địa vị pháp lý của công dân. Luật hiến pháp có đối
tượng điều chỉnh rộng liên quan tới nhiều lĩnh vực của đời sống nhà nước và xã hội, Điều
mà các học giả đã khẳng định: “…Đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp không chỉ bó
hẹp trong phạm vi một loại quan hệ xã hội nhất định mà ngược lại nó điều trị nhiều loại
quan hệ xã hội khác nhau trên tất cả lĩnh vực hoạt động của nhà nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”
[1]. Tuy nhiên phạm vi đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp cũng có giới hạn
“Phạm vi đó chị yếu chỉ giới hạn ở những quan hệ xã hội quan trọng vẫn nhìn với việc xác
định chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, chính sách đối ngoại và an ninh quốc
phòng, địa vị pháp lý của công dân cũng như tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
[2]. Hiến pháp không thể điều chỉnh những quan hệ xã hội cụ thể trong mọi lĩnh vực
mà chỉ quy định những vấn đề chung mang tính nguyên tắc, định hướng trong từng lĩnh
vực, cụ thể:
+ Trong lĩnh vực chính trị, hiến pháp điều chỉnh những quan hệ xã hội liên quan tới việc
xác định chế độ chính trị. Nội dung của chế độ chính trị bao gồm các vấn đề như chủ
quyền quốc gia; bản chất Nhà nước; nguồn gốc quyền lực của Nhà nước; hình thức thực
hiện quyền lực nhân dân; vai trò của đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước xã hội;
vai trò của mặt trận tổ quốc Việt Nam và các thành viên của mặt trận; mục đích nhiệm vụ
của Nhà nước các cơ quan Nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước; chính sách dân tộc của
Nhà nước chính sách đối ngoại của Nhà nước.
+ Trong lĩnh vực kinh tế, hiến pháp quy định mục đích chính sách kinh tế của Nhà
nước; chính sách phát triển kinh tế; các loại hình chế độ sở hữu chính sách của Nhà nước
đối với các thành phần kinh tế; chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước; các nguyên tắc
Nhà nước quản lý lý kinh tế quốc dân.
+ Trong lĩnh vực văn hóa – xã hội, hiến pháp quy định mục đích phát triển của nền văn
hóa giáo dục, khoa học công nghệ; chính sách của Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển
văn hóa giáo dục, khoa học và công nghệ; chính sách xã hội của Nhà nước. Những quan hệ
xã hội trong các lĩnh vực nói trên được hiến pháp điều chỉnh ở mức độ khái quát hóa cao
mang tính định hướng cơ bản. Trên cơ sở đó các luật và văn bản dưới luật sẽ điều chỉnh cụ
thể những quan hệ xã hội này. Nhưng khi những quan hệ xã hội liên quan đến lĩnh vực
kinh tế, văn hóa – xã hội được cụ thể hóa bằng luật học văn bản dưới luật thì bạn thân của
những văn bản đó không phải là nguồn của Luật Hiến pháp mà trở thành nguồn của các
ngành luật khác như kinh tế, hành chính, đất đai, lao động… chỉ có những quan hệ xã hội
liên quan liên quan tới lĩnh vực chính trị khi được điều chỉnh bởi luật học sinh mà dư luận
thì những văn bản này sẽ là nguồn của Luật Hiến pháp. Ví dụ: Lật Mặt trận tổ quốc Việt
Nam năm 1999, Nghị định về quy chế thực hiện dân chủ ở xã năm 1998.
+ Một trong những nội dung cơ bản của hiến pháp là mối quan hệ giữa Nhà nước và
công dân. Mối quan hệ này được thể hiện thông qua những quy định về quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân. Đảm bảo các quyền tự do cá nhân là một trong hai nội dung cơ bản
của khẩu hiệu lập hiến. Thiếu sót của hiến pháp Mỹ 1787
– Bản hiến pháp đầu tiên của nhân loại không ghi nhận các quyền tự do cá nhân đã
được bổ sung bởi 10 tu chính án vào năm 1791. Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam
dân chủ
– Hiến pháp 1946 đã để ra ba nguyên tắc xây dựng hiến pháp một trong ba nguyên tắc
đó là đảm bảo quyền tự do dân chủ. Và hiến pháp đã trịnh trọng khi nhận các quyền và
nghĩa vụ của công dân ngay tại chương hai với 18 điều khoản. Trải qua 5 bản hiến pháp
các quyền tự do dân chủ của cá nhân ở nước Việt Nam ngày càng được mở rộng. Bên cạnh
đó những quyền và nghĩa vụ của công dân còn được bảo đảm thực hiện bằng các quy định
của luật và văn bản dưới luật như: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu hội
đồng nhân dân, Luật Báo chí, Luật thiếu lại tố cáo, Luật giáo dục… Như vậy Luật Hiến
pháp không những điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản mà còn điều chỉnh những quan
hệ xã hội cụ thể liên quan đến mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Tuy nhiên trong
lĩnh vực này Luật Hiến pháp chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội cụ thể liên quan đến
quyền nghĩa vụ của công dân trong lĩnh vực chính trị còn trong những lĩnh vực khác thì
những quan hệ xã hội cụ thể lại được điều chỉnh bởi quy phạm của các ngành khác.
+ Vấn đề trọng tâm của mỗi bản hiến pháp là tổ chức Nhà nước. Nội dung của tổ chức
Nhà nước bao gồm những vấn đề như tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước cấu trúc Nhà
nước và thiết lập mối quan hệ giữa cơ quan Nhà nước trung ương và cơ quan chính quyền
địa phương. Quyền lực Nhà nước được thực hiện bởi các cơ quan Nhà nước vì vậy hiến
pháp phải quyết định cách thức thành lập phân định rõ thẩm quyền phạm vi hoạt động của
các cơ quan Nhà nước đồng thời xác lập mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước với nhau.
Tuy nhiên trong phạm vi của mình hiến pháp chỉ quy định những vấn đề cơ bản nhất liên
quan đến tổ chức và hoạt động của từng cơ quan Nhà nước như vị trí chức năng nhiệm vụ
quyền hạn cơ cấu tổ chức và trình tự hoạt động chung của cơ quan Nhà nước. Trên cơ sở
những quy định của hiến pháp luật pháp lệnh và một số văn bản quy phạm pháp luật khác
sẽ điều chỉnh cụ thể những vấn đề này. Những văn bản này tạo thành nguồn quan trọng và
chiếm một số lượng lớn trong số nguồn của Luật Hiến pháp. Nội dung của vấn đề tổ chức
thực hiện quyền lực Nhà nước cũng chính là nội dung của hình thức chính thể. Nhưng
không thể đồng nhất chính thể với chế độ chính trị hay nói cách khác không thể đồng nhất
chế độ chính trị với tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước. Vấn đề cốt lõi của chế độ chính
trị là quyền lực nhân dân mà phạm trù “quyền lực nhân dân” không thể đồng nhất với
phạm trù “quyền lực Nhà nước” và thực hiện quyền lực Nhà nước. Quyền lực nhân dân
được thực hiện dưới nhiều hình thức, trong đó hình thức quyền lực Nhà nước là cơ bản.
Như vậy chế độ chính trị thiết lập những nguyên tắc nền tảng cơ bản cho việc tổ chức thực
hiện quyền lực Nhà nước. Hay nói cách khác chính chế độ chính trị đóng vai trò quan trọng
(nếu như không nói là quyết định) đối với việc xác lập hình thức chính thể của Nhà nước.
=> Nói tóm lại, từ những phân tích trên đây có thể thấy rằng Luật Hiến pháp điều chỉnh
hai nhóm quan hệ xã hội sau: – Thứ nhất, nhóm quan hệ xã hội gắn với việc xác định cơ sở
của quyền lực nhân dân bao gồm chế độ chính trị chế độ kinh tế văn hóa – xã hội.
– Thứ hai, nhóm quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện quyền lực Nhà nước
của nhân dân bao gồm tổ chức và hoạt động của các cơ quan quyền lực Nhà nước quyền và
nghĩa vụ của công dân.
3. Phương pháp điều chỉnh của Luật Hiến pháp :Từ lý luận chung về pháp luật
phương pháp điều chỉnh pháp luật là tổng hợp tất cả những cách thức tác động lên các quan
hệ xã hội.
- Phương pháp điều chỉnh của ngành Luật Hiến pháp là toàn bộ những phương
thức, cách thức tác động pháp lý lên những quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của
ngành Luật Hiến pháp nhằm thiết lập một trật tự nhất định phù hợp với ý chí Nhà nước.
Muốn thành một của phương pháp điều chỉnh riêng phụ thuộc vào nội dung và tính chất
của những quan hệ xã hội mà mình lúc đó điều chỉnh. Phương pháp điều chỉnh của Luật
Hiến pháp gồm: Như đã trình bày ở trên, những quan hệ xã hội mang lại một tiếng pháp
điều chỉnh liên quan đến quyền được nhân dân và việc thực hiện quyền lực Nhà nước của
nhân dân. Bởi vậy những quan hệ xã hội đó mang tính chất quyền lực. Những quan hệ
pháp Luật Hiến pháp thường là những quan hệ giữa Nhà nước và công dân Nhà nước và xã
hội giữa cơ quan Nhà nước với cơ quan Nhà nước. Để điều chỉnh những quan hệ này Luật
Hiến pháp cần có những cách thức tác động đặc biệt. Những cách thức mà Luật Hiến pháp
sử dụng để điều chỉnh những quan hệ xã hội là:
– Phương pháp bắt buộc: Bắt buộc, cách thức này được Sử dụng để điều chỉnh quan hệ
xã hội liên quan đến việc thực hiện quyền lực Nhà nước và xác định nghĩa vụ của công
dân. Theo cách thức này quy phạm Luật Hiến pháp buộc chủ thể quan hệ pháp Luật Hiến
pháp phải thực hiện hành vi nhất định. Ví dụ: Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và
tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
– Phương pháp cho phép: Cho phép, cách thức này được sử dụng để điều chỉnh các quan
hệ xã hội gắn với việc xác định quyền công dân và quyền hạn của các cơ quan Nhà nước.
Theo cách thức này quy phạm Luật Hiến pháp cho phép chủ thể quan hệ pháp Luật Hiến
pháp thực hiện hành vi nhất định. Ví dụ: Công dân đủ từ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử,
đủ từ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng Nhân dân.
– Phương pháp cấm đoán: Cấm đoán, cách thức này được sử dụng để điều chỉnh một số
quan hệ xã hội liên quan đến quyền công dân và hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
Theo cách này quy phạm pháp Luật Hiến pháp. Chủ thể quan hệ pháp Luật Hiến pháp thực
hiện hành vi nhất định. Ví dụ: Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng
nhân công lao động dưới độ tuổi lao động. Những cách thức của trên cũng chính là phương
pháp mà luyến pháp sử dụng để tác động lên những quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều
chỉnh của mình. Bên cạnh đó cần phải phân biệt phương pháp điều chỉnh với sự điều chỉnh
(cơ chế điều chỉnh). Sự điều chỉnh của Luật Hiến pháp là tác động của tổ chức, có mục
đích của các quy phạm pháp Luật Hiến pháp lên những quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều
chỉnh của ngành Luật Hiến pháp nhằm điều chỉnh, bảo vệ và duy trì sự phát triển của
những quan hệ xã hội đó. Sự điều chỉnh của Luật Hiến pháp được thực hiện thông qua hệ
thống những phương tiện pháp luật như quy phạm pháp luật, quan hệ pháp luật, ý thức
pháp luật trách nhiệm pháp lý và phương pháp điều chỉnh. Để điều chỉnh những quan hệ xã
hội, trước hết Luật Hiến pháp, thiết lập năng lực pháp lý cho chủ thể quan hệ pháp Luật
Hiến pháp xác định quy chế pháp lý và bảo đảm việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của các
chủ thể thông qua các phương tiện pháp lý khác. Đối với thể nhân (công dân, cử tri, cá
nhân khác) Luật Hiến pháp thiết lập năng lực pháp lý tức là quy định quyền nghĩa vụ
chung không phụ thuộc vào khả năng vị trí xã hội của từng chủ thể. Lực pháp lý của các cơ
quan Nhà nước bằng hàm chức năng nhiệm vụ và quyền hạn. Mỗi cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền riêng phù hợp với nhiệm vụ chung. Năng lực pháp lý của các tổ chức xã hội và
các chủ thể khác bảo hành quyền và trách nhiệm. Khi thiết lập năng lực pháp lý cho chủ
thể quan hệ pháp Luật Hiến pháp Luật Hiến pháp sử dụng các phương pháp bắt buộc, cho
phép, cấm đoán. Như vậy, việc xác định quyền và nghĩa vụ cụ thể cho các chủ thể quan hệ
quan hệ pháp Luật Hiến pháp không phải là phương pháp điều chỉnh như quan điểm của
một số học giả mà nó phụ thuộc vào một trong những yếu tố của sự điều chỉnh (cơ chế điều
chỉnh) của Luật Hiến pháp. Ngoài ra, có quan điểm cho rằng phương pháp điều chỉnh của
Luật Hiến pháp là xác định những hình thức chung mang định hướng cho các chủ thể tham
gia vào các quan hệ luật pháp.
– Phương pháp xác lập những hình thức chung mang tính định hướng Ví dụ: Nhà nước
được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lí xã hội bằng Hiến pháp và
pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Quan điểm này không chính xác bởi hai
lý do sau:
+ Thứ nhất những nguyên tắc chung (như nguyên tắc quyền lực nhân dân đại diện nhân
dân, Đảng lãnh đạo, tập trung, dân chủ,…) là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống
Luật Hiến pháp. Chính trên cơ sở những nguyên tắc chung này mà Luật Hiến pháp được
xây dựng thành hệ thống thống nhất đồng thời là những nguyên tắc chung tạo mối liên kết
chặt chẽ giữa các chế định của ngành Luật Hiến pháp.
+ Thứ hai đã là những nguyên tắc chung thì thường mang tính khái quát hóa cao vì vậy
những nguyên tắc chung không điều chỉnh những quan hệ xã hội cụ thể.
=> Nói tóm lại bắt buộc, cho phép, cấm đoán là những phương pháp mà ngành Luật
Hiến pháp sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc phạm vi đối tượng điều chỉnh
của Luật Hiến pháp.
Câu 27 Luật hành chính điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội nào? Chỉ rõ đặc
điểm của các nhóm quan hệ xã hội đó.
- Luật hành chính là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam bao gồm tổng thể
các QPPL điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hoạt động quản lý
hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước, các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình các cơ quan nhà nước xây dựng và ổn định chế độ công tác nội bộ của cơ quan mình
và các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và cá
nhân thực hiện hoạt động quản lý hành chính đối với các vấn đề cụ thể do pháp luật quy
định.
- Các nhóm xã hội được luật hành chính điều chỉnh: + Các
quan hệ quản lý phát sinh trong quá trình các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt
động chấp hành - điều hành trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Các quan hệ quản lý hình thành trong quá trình các cơ quan nhà nước xây dựng và củng
cố chế độ công tác nội bộ của cơ quan nhằm ổn định về tổ chức để hoàn thành chức năng
của cơ quan mình.
+ Các quan hệ quản lý hình thành trong quá trình các cá nhân, tổ chức được nhà nước
trao quyền thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước trong một số trường hợp cụ
thể do pháp luật quy định.
Câu 28: Phân tích khái niệm quyền sở hữu. Từ một ví dụ cụ thể hãy làm rõ các nội
dung của quyền sở hữu theo quy định của luật dân sự hiện hành.
*Phân tích khái niệm quyền sở hữu:
-Căn cứ theo Điều 158 Bộ luật Dân sự 2015 thì có quy định đó là quyền sở hữu sẽ bao
gồm nội dung về quyền chiếm hữu, quyền sử dụng cũng như quyền định đoạt đối với tài
sản của chủ sở hữu theo đúng theo quy định của pháp luật. Theo định nghĩa này thì có thể
thấy rằng quyền sở hữu bao gồm ba quyền năng cơ bản đó là quyền sử dụng, quyền chiếm
hữu và quyền định đoạt.
-Theo quan điểm kinh tế học, sở hữu được coi là việc chiếm giữ những của cải vật chất
của con người trong đời sống xã hội. Theo quan điểm này, sở hữu là một phạm trù kinh tế
mang yếu tố khách quan, xuất hiện cùng với sự tồn tại của xã hội loài người.
-Quá trình tồn tại của xã hội loài người luôn gắn liền với sự phân hóa tài sản trong việc
chiếm giữ những của cải vật chất. Cùng với đó là sự phân chia giai cấp, và những người có
quyền thế trong xã hội thấy rằng, chỉ điều hành xã hội bằng phong tục tập quán sẽ không
có lợi cho mình nên cần phải có một bộ máy bạo lực với pháp luật là công cụ để bảo vệ sự
chiếm hữu của cải vật chất cho mình và cho giai cấp mình.
-Trên cơ sở kinh tế để bảo đảm cho sự thống trị về chính trị và tư tưởng chính là các quan
hệ sở hữu có lợi cho giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị phải dùng tới một bộ phận của
pháp luật về sở hữu để thể hiện ý chí của giai cấp mình. Là một hình thái của thượng tầng
kiến trúc, pháp luật về sở hữu ghi nhận và củng cố địa vị, ghi nhận lợi ích của giai cấp
thống trị đối với việc đoạt giữ các của cải vật chất trước các giai cấp khác trong quá trình
sản xuất, phân phối, lưu thông. Do đó, trong bất kỳ nhà nước nào, luật pháp về sở hữu cũng
được sử dụng với ý nghĩa là một công cụ có hiệu quả của giai cấp nắm chính quyền để bảo
vệ cơ sở kinh tế của giai cấp đó.
-Trong khoa học pháp lý, quyền sở hữu được hiểu là một phạm trù pháp lý phản ánh các
quan hệ sở hữu trong một chế độ sở hữu nhất định, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp
luật về sở hữu nhằm điều chỉnh các quan hệ sở hữu trong đời sống xã hội. Các quy phạm
pháp luật về sở hữu là cơ sở để xác nhận, quy định và bảo vệ các quyền lợi của chủ sở hữu
trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản.
-Quyền sở hữu với tư cách là một chế định của pháp luật dân sự, một bộ phận thuộc
thượng tầng kiến trúc, quyền sở hữu chỉ xuất hiện khi xã hội đã có sự phân chia giai cấp và
có Nhà nước. Pháp luật về sở hữu chính là sản phẩm của xã hội có giai cấp nhằm bảo vệ
lợi ích trước hết là của giai cấp thống trị, giai cấp nắm quyền lãnh đạo trong xã hội. Pháp
luật về sở hữu dù được ghi nhận và quy định dưới bất kỳ góc độ nào cũng luôn mang tính
giai cấp và phản ánh những phương thức chiếm giữ của cải vật chất trong xã hội. “Vì vậy,
pháp luật về sở hữu bao giờ cũng nhằm mục đích:
+ Xác nhận và bảo vệ bằng pháp luật việc chiếm giữ những tư liệu sản xuất chủ yếu của
giai cấp thống trị.
+Bảo vệ những quan hệ sở hữu phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị.
-Tạo Điều kiện pháp lý cần thiết bảo đảm cho giai cấp thống trị khai thác được nhiều nhất
những tư liệu sản xuất đang chiếm hữu để phục vụ cho sự thống trị; đồng thời xác định
mức độ xử sự và các ranh giới hạn chế cho các chủ sở hữu trong phạm vi các quyền năng:
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt.
-Với cách hiểu này, khái niệm quyền sở hữu có thể hiểu theo hai nghĩa sau:
+Theo nghĩa khách quan (còn được gọi là nghĩa rộng), quyền sở hữu là luật pháp về sở
hữu trong một hệ thống pháp luật nhất định. Do đó, quyền sở hữu là tổng hợp một hệ thống
các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng,
những của cải vật chất trong đời sống xã hội.
+ Theo nghĩa chủ quan (còn được gọi là nghĩa hẹp), quyền sở hữu là mức độ xử sự mà
pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt trong những điều kiện nhất định.Với cách hiểu này thì quyền sở hữu chính là
những quyền năng dân sự chủ quan của từng loại chủ sở hữu nhất định đối với một tài sản
cụ thể, được quy định trong các quy phạm pháp luật về sở hữu cụ thể.
-Trên phương diện khoa học luật dân sự, quyền sở hữu được hiểu là một quan hệ pháp luật
dân sự – quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu. Bởi, bản thân nó chính là hệ quả của sự tác
động của một bộ phận pháp luật vào các quan hệ xã hội (các quan hệ sở hữu). Theo cách
hiểu này, quyền sở hữu bao gồm đầy đủ ba yếu tố của quan hệ pháp luật dân sự: chủ thể,
khách thể và nội dung như một quan hệ pháp luật dân sự bất kỳ.
-Từ những phân tích ở trên ta thấy, khái niệm quyền sở hữu sử dụng trong luật dân sự
được hiểu theo ba phương diện khác nhau: khoa học pháp lý, chế định luật dân sự và khoa
học luật dân sự. Chỉ khi nào hiểu quyền sở hữu trên cả ba tư cách này thì mới có thể hiểu
hết nghĩa của khái niệm quyền sở hữu.
*Từ một ví dụ cụ thể hãy làm rõ các nội dung của quyền sở hữu theo quy định của luật
dân sự hiện hành:
Một là, quyền chiếm hữu:
– Khái niệm:
+Được quy định tại Điều 179 Bộ luật Dân sự năm 2015, theo đó quyền chiếm hữu được
hiểu theo một cách đơn giản thông thường nhất thì đây được xem là sự nắm giữ, quản lý
cũng như chi phối đối với một hay nhiều tài sản của một hoặc nhiều chủ thể.
+ Ví dụ: cá nhân nào đó thực hiện việc cất giữ đối với số tiền của họ trong tủ hay trong két
sắt của nhà mình.
– Phân loại:
Dựa vào ba tiêu chí khác nhau thì quyền chiếm hữu sẽ có cách phân loại khác nhau, cụ
thể:
+ Dựa vào tính ngay tình của việc chiếm hữu, quyền chiếm hữu được chia ra làm hai loại:
(1) Chiếm hữu không ngay tình thì được xác định đó là trường hợp người chiếm hữu đã
biết hoặc pháp luật buộc họ phải biết là mình đang chiếm hữu tài sản của chủ thể khác
nhưng không dựa trên cơ sở pháp luật.
(2) Chiếm hữu ngay tình là áp dụng đối với các trường hợp mà người chiến hữu không
biết và họ không thể bằng cách nào đó mà biết mình chiếm hữu không dựa trên cơ sở pháp
luật.
Cụ thể đối với những trường hợp đòi hỏi người chiếm hữu biết hoặc phải biết về việc
chiếm hữu của mình đang thực hiện đó là hành vi không ngay tình thì thường liên quan đến
các loại tài sản có đăng ký quyền sở hữu như bất động sản, động sản mà pháp luật yêu cầu
phải đăng ký quyền sở hữu (ví dụ như một người mua một chiếc xe máy từ một chủ thể
khác mà không có giấy đăng ký xe, trong khi đòi hỏi người mua phải yêu cầu chứng minh
quyền được bán hợp pháp của người bán chiếc xe đó thông qua các giấy tờ chứng minh
quyền sở hữu theo quy định của pháp luật);
Đối với loại tài sản thuộc sở hữu chung và các đồng chủ sở hữu thì phải thể hiện ý chí
chuyển giao quyền cho người đang chiếm hữu tài sản của tất cả những người đồng sở hữu;
liên quan đến việc chuyển giao quyền chiếm hữu của chủ thể không có quyền chuyển giao
quyền chiếm hữu (người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự) thì phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật,
(ví dụ: một người vì ham rẻ nên đã đồng ý mua một dàn loa giá trị 300 triệu nhưng chỉ với
giá 50 triệu từ một em bé 12 tuổi mà không có sự đồng ý của cha mẹ em bé).
+Dựa vào tính liên tục của việc chiếm hữu, cũng được chia ra làm chiếm hữu liên tục và
chiếm hữu không liên tục:
(1) Chiếm hữu liên tục: được quy định tại Điều 182 Bộ luật Dân sự năm 2015 được hiểu là
việc chiếm hữu về mặt thực tế và mặt pháp lý của một chủ sở hữu đối với tài sản. Chiếm
hữu về mặt thực tế là việc chủ sở hữu, hoặc người có quyền chiếm hữu tự mình giữ tài sản.
Khi chủ sở hữu trao quyền chiếm hữu tài sản cho một chủ thể khác thì chủ sở hữu chỉ có
quyền chiếm hữu về mặt pháp lý đối với tài sản, còn chủ thể được chủ sở hữu trao quyền
chiếm hữu chỉ có quyền chiếm hữu thực tế đối với tài sản. Đây là trường hợp sở hữu trao
quyền chiếm hữu thực tế một cách tự nguyện.
Ví dụ: Ông A vào bệnh viện khám bệnh, gửi xe của mình cho người trông xe tên B ở bãi
giữ xe của bệnh viên, thì trường hợp này, ông A là người chiếm hữu về mặt pháp lý đối với
tài sản là chiếc xe máy, còn ông B là người chiếm hữu về mặt thực tế đối với tài sản là
chiếc xe máy đó.
Đồng thời, tính liên tục của chiếm hữu được ghi nhận bao gồm hai điều kiện: việc chiếm
hữu diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định; không có tranh chấp về quyền đối với tài
sản hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác.
(2) Chiếm hữu không liên tục là việc một chủ thể chiếm hữu một tài sản không đảm bảo
hai điều kiện của chiếm hữu liên tục như đã nêu ở trên.
+Dựa vào tính công khai của việc chiếm hữu:
Cách phân loại này được quy định tại Điều 183 Bộ luật Dân sự năm 2015, bao gồm hai
loại như sau:
(1) Chiếm hữu không công khai là việc mà chủ thể chiếm hữu tài sản nhưng không được
thực hiện một cách minh bạch, mang yếu tố che giấu.
(2) Chiếm hữu công khai tức là việc tài sản đang chiếm hữu được sử dụng đúng theo tính
năng, công dụng và được người chiếm hữu hiện thời bảo quản, giữ gìn như tài sản của
chính mình và việc chiếm hữu được thực hiện một cách công khai, minh bạch.
Hai là, quyền sử dụng:
– Khái niệm:
+Điều 189 Bộ Luật dân sự 2015 thì có quy định về quyền sử dụng được hiểu là quyền
trong việc khai thác công dụng, cũng như hưởng các hoa lợi, lợi tức của tài sản. Tuy nhiên
thì có thể hiểu một cách đơn giản thì quyền sử dụng là việc khai thác cũng như việc hưởng
lợi ích từ khối tài sản khai thác được. Cũng như xét về quyền chiếm hữu, thì quyền sử dụng
không chỉ thuộc về chủ sở hữu tài sản mà ở đây còn thuộc về những người không phải chủ
sở hữu nhưng được chủ sở hữu giao quyền hoặc theo quy định của pháp luật.
+Ví dụ: việc cho người khác thuê nhà của mình để hưởng lợi tức.
– Phân loại:
+ Quyền sử dụng của chủ sở hữu:
Đối với quyền sử dụng của chủ sở hữu, thì chủ sở hữu được sử dụng tài sản theo ý chí của
riêng mình chứ không phải hỏi ý kiến của người khác nhưng việc sử dụng không được gây
thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Ví dụ: dùng tài sản mà mình tiết kiệm để mua đồ sắm sửa cho ngôi nhà.
+ Quyền sử dụng của người không phải là chủ sở hữu: người không phải là chủ sở hữu sẽ
được sử dụng tài sản theo sự thỏa thuận với chủ sở hữu hoặc theo các quy định của pháp
luật.
Ba là, quyền định đoạt:
– Khái niệm:
Căn cứ theo Điều 192 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì có quy định: quyền định đoạt tài
sản là việc chủ sở hữu tài sản thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho người
khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó của mình.
Ví dụ: một người tuyên bố hoặc có hành vi vứt bỏ một chiếc ti vi thuộc quyền sở hữu của
bản thân mình trước đó đã sở hữu nó.
Quyền định đoạt thực chất là việc định đoạt số phận “thực tế” và “pháp lý” của một tài
sản. Định đoạt thực tế là bằng hành vi của mình làm cho tài sản không còn như phá hủy,
vứt bỏ…. Còn định đoạt pháp lý được hiểu là việc chuyển quyền sở hữu sang cho chủ thể
khác như: tặng cho, mua bán…
– Điều kiện:
Đối với chủ thể của quyền định đoạt phải có năng lực hành vi dân sự. Đồng thời quyền
định đoạt không có nghĩa tuyệt đối, trong những trường hợp nhất định mà pháp luật ràng
buộc chủ thể có quyền định đoạt phải tuân theo những quy định để tránh vi phạm Hiến
pháp và pháp luật và phải tuân theo trình tự, thủ tục về việc chuyển giao quyền định đoạt
do pháp luật quy định.
– Phân loại:
Dựa vào chủ thể của quyền định đoạt pháp luật dân sự chia ra làm hai loại, cụ thể:
+ Quyền định đoạt của chủ sở hữu bao gồm: các quyền bán, trao đổi, cho vay, tặng cho,
để cho người khác thừa kế, từ bỏ quyền sở hữu của mình, tiêu dùng, tiêu hủy hoặc thực
hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật dân sự đối với tài
sản.
+ Quyền định đoạt của người không phải là chủ sở hữu
Đối với người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo sự ủy
quyền của chủ sở hữu hoặc theo các quy định của pháp luật.
Ta thấy quyền định đoạt tài sản là một quyền có vai trò rất quan trọng đối với chủ sở hữu,
các quy định của pháp luật về quyền định đoạt là hợp lý để bảo vệ những quyền lợi vốn có
của chủ sở hữu.
Với ba quyền năng cơ bản được pháp luật dân sự quy định như trên thì có thể thấy rằng:
chủ sở hữu có toàn quyền quyết định đối với tài sản thuộc sở hữu của mình.
Như vậy, pháp luật dân sự Việt Nam đã định nghĩa rõ ràng về quyền sở hữu bằng phương
pháp liệt kê chứ chưa đưa ra được một định nghĩa khái quát. Mặt khác, việc đưa khái niệm
này vào Bộ luật dân sự 2015 ở nước ta là một điểm đặc biệt vì các nước trên thế giới chỉ đề
cập tới khái niệm quyền sở hữu trong khoa học luật chứ không đưa vào luật thực định.
29. Trình bày khái niệm và nội dung của hợp đồng dân sự? Lấy một ví dụ về hợp
đồng dân sự và phân tích nội dung của hợp đồng đó.
Khái niệm :
•Là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ
dân sự.
•Là một giao dịch dân sự trong đó các bên bày tỏ ý chí với nhau để đi đến xác lập các
quyền và nghĩa vụ.
•Tuy nhiên, hợp đồng dân sự chỉ có hiệu lực pháp luật khi ý chí của các bên phù hợp với
pháp luật. Các bên được tự do thoả thuận để thiết lập quan hệ hợp đồng, nhưng sự tự do ấy
bị giới hạn bởi lợi ích hợp pháp của người khác và lợi ích cộng đồng. Khi sự thoả thuận
của các bên phù hợp với pháp luật thì họ bị ràng buộc bởi các quyền và nghĩa vụ phát sinh
từ thoả thuận đó.
Nội dung :Nội dung của hợp đồng dân sự là tổng hợp các điều khoản mà các chủ thể ký
kết hợp đồng đã thoả thuận với nhau, các điều khoản đó xác định quyền và nghĩa vụ dân sự
của các bên hợp đồng.
Nội dung của hợp đồng dân sự bao gồm những điều khoản sau:
•Đối tượng của hợp đồng
•Số lượng, chất lượng
•Giá cả, phương thức thanh toán
•Thời gian, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng
•Quyền và nghĩa vụ của các bên
•Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
•Phương thức giải quyết tranh chấp
Ngoài ra, các bên còn có thể thoả thuận những nội dung khác nhưng không được trái pháp
luật và đạo đức xã hội.
Trong các điều khoản đó, cơ những điều khoản không phải là nội dung bắt buộc của hợp
đồng này nhưng lại là những điều khoản cần phải có ở hợp đồng khác. Hơn nữa, ngoài
những nội dung cụ thể này, các bên có thể xác định thêm một số nội dung khác.
Ví dụ: Cháu Nguyễn Thị A (sinh năm 2006) mồ côi mẹ từ khi 2 tuổi, sống với bố là anh
Nguyễn Văn B (sinh năm 1975). Năm 2010, sau một trận ốm, anh B đột nhiên không nhận
thức và làm chủ hành vi của mình và theo yêu cầu của gia đình, tòa án tuyên bố B bị mất
năng lực hành vi dân sự. Vì A còn nhỏ và bệnh tình của B cần có người chăm sóc nên hai
bố con A về ở với ông bà nội của A. Đến năm 2015, sau một thời gian dài điều trị tích cực,
B dần khôi phục lại tình trạng sức khỏe của mình và có kết quả của bệnh viện xác nhận B
đã hoàn toàn nhận thức và làm chủ được hành vi của mình như trước đây. Hỏi trong tình
huống này, ông bà nội của A có tiếp tục là người giám hộ cho A và anh B không?
Năm 2010, B mất năng lực hành vi dân sự và A vẫn là người chưa thành niên nên đòi
hỏi phải có người giám hộ. Trong tình huống này thì ông bà nội của A là người giám hộ
cho A và anh B. Năm 2015, sau thời gian điều trị, B đã hoàn toàn khôi phục lại tình trạng
ban đầu: nhận thức và làm chủ được hành vi. Vì vậy theo yêu cầu của B hoặc của người có
quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan thì Tòa án ra quyết định hủy bỏ
quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
•Theo quy định tại điểm a và c khoản 1 Điều 62 BLDS năm 2015 thì việc giám hộ chấm
dứt trong trường hợp: “Người được giám hộ đã có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”; “Cha,
mẹ của người được giám hộ là người chưa thành niên đã có đủ điều kiện để thực hiện
quyền, nghĩa vụ của mình” nên ông bà nội của A không còn là người giám hộ cho con
mình là anh B, đồng thời khi anh B có đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình
thì ông bà nội của A không là người giám hộ cho A.
30. Tại sao nói Luật dân sự là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam
? Phân biệt Luật dân sự với một ngành luật khác.
- Luật dân sự có thể nói là 1 ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật VN vì nó có
có đối tượng điểu chỉnh, phương pháp điều chỉnh riênh
* Phân biệt luật dân sự với luật hình sự
- Luật HS có nhiệm vụ bảo vệ các quan hệ xã hội bằng cách quy định những hành vi
nào bị coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội đồng thời quy định hình phạt tương ứng với
mức độ nguy hiểm của hành vi đó. Mặc dù việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế do luật
hình sự quy định là sự cưỡng chế của Nhà nước nhưng những biện pháp này trước tiên là
ttách nhiệm của cá nhân với xã hội, với Nhà nước nói chung. Chức năng chủ yếu của hình
phạt là trừng phạt và giáo dục; còn trong dân sự, trách nhiệm tài sản trước tiên là trách
nhiệm của chủ thể này đối với chủ thể khác và mục đích chủ yếu của nó là phục hồi tình
trạng tài sản của bên bị thiệt hại.
Câu 31: Hợp đồng nhân sự.Nêu hình thức và thời điểm có hiệu lực của HĐDS.Lấy
VD
Khái niệm hợp đồng dân sự:
_ Định nghĩa dưới dạng cụ thể thì "hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê,
vay, mượn, tặng, cho tài sản, làm một việc hoặc không làm một việc, dịch vụ hoặc các thoả
thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng"
(Điều 1 Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991).
__Bộ luật dân sự đã định nghĩa nó ở dạng khái quát hơn:
'''Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi và chẩm dứt các
quyền và nghĩa vụ dân sự" (Điều 385 Bộ luật dân sự năm 2015).
Hình thức hợp đồng dân sự:
_ Hợp đồng dân sự bản chất chính là một giao dịch dân sự, trong đó hình thức của giao
dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Giao dịch
dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của
pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.
_ Hình thức giao kết hợp đồng bằng lời nói thường được áp dụng đối với những giao dịch
mà giá trị của hợp đồng không lớn hoặc các bên hiểu biết, tin tưởng nhau, là đối tác lâu
năm của nhau, những giao dịch mà xác lập và thực hiện kết thúc nhanh chóng (mua bán
ngoài chợ) thường gọi là giao kết bằng miệng, các bên khi xác lập hợp đồng trong trường
hợp này cũng có thể chọn người làm chứng tuy nhiên pháp luật không bắt buộc điều này.
_ Đối với trường hợp mà hợp đồng giao kết bằng hành vi cụ thể thì hai bên không có thỏa
thuận bằng văn bản cũng như thỏa thuận bằng miệng. Việc giao kết hợp đồng được minh
chứng bằng các hành vi như bên bán tiến hành giao hàng hoặc bên mua tiến hành trả tiền.
Với hình thức bằng văn bản, các bên khi tham gia giao dịch sẽ thỏa thuận về quyền và
nghĩa vụ của mình sau đó ghi nhận lại bằng văn bản
Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng:
Theo quy định tại Điều 401 Bộ luật Dân sự 2015 về hiệu lực của hợp đồng như sau:
1. Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác.
2. Từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với
nhau theo cam kết. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo thỏa thuận của các bên
hoặc theo quy định của pháp luật."
Theo đó hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác.
VD:+ Anh An mua của anh Bình một chiếc xe máy đã qua sử dụng.
 Làm hợp đồng mua bán tài sản
+ Cô Châu mượn cô Dần số tiền là 300 triệu
Làm hợp đồng vay mượn tài sản
Câu 32: Phân tích những nội dung cơ bản về thừa kế theo di chúc.
a, Khái niệm:
+ Thừa kế là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống, tài sản để lại
được gọi là di sản.
+ Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác
sau khi chết.
+ Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người khác còn
sống theo sự định đoạt của người đó trước khi chết được thể hiện trong di chúc.
+ Người lập di chúc là “cá nhân” lập nên mà không phải là cơ quan, tổ chức. Người mà
theo quy định của pháp luật có quyền lập di chúc để định đoạt khối tài sản của mình cho
những người khác còn sống sau khi chết với ý chí tự nguyện.
b, Đối với người lập di chúc:
+ Là người từ đủ 18 tuổi trở lên, được coi là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có
khả năng nhận thức, thực hiện hành vi và tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình, trừ
trường hợp người đó bị mất năng lực hành vi dân sự.
+ Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi muốn lập di chúc phải có sự
kiểm soát của người giám hộ bởi những người ở độ tuổi này thường chưa nhận thức đầy đủ
của việc thực hiện hành vi cũng như hậu quả của việc lập di chúc.
+ Quyết định của người lập di chúc sẽ được pháp luật bảo vệ và tôn trọng; người được
thừa kế mang tính bình đẳng.
+ Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu
có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.
+ Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng
của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng
ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ và phải được công chứng hoặc chứng thực trong
thời hạn năm ngày.
c, Đối với người thừa kế:
+ Người thừa kế là cá nhân phải còn sống tại thời điểm mở thừa kế, mới sinh ra sau khi ra
quyết định thừa kế hoặc là tổ chức, cơ quan còn tồn tại và hoạt động trong thời điểm mở
thừa kế.
+ Người thừa kế sẽ được thừa hưởng lại những giá trị tài sản theo nguyện vọng trước khi
chết của người lập di chúc. Có thể là người được tin tưởng, cha mẹ, anh chị em, ông bà, vợ
chồng, con cái. Trừ những di chúc thừa kế theo pháp luật thì phải là một cá nhân, có quan
hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng theo hàng thừa kế của pháp luật.
Câu 33 : Quyền sở hữu là gì ? chủ sở hữu tài sản có những quyền gì ? Ví dụ
*Theo nghĩa rộng : Quyền sở hữu là hệ thống các quy phạm pháp luật do nhà nước ban
hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu ,sử dụng và định
đoạt các tư liệu sản xuất , tư liệu tiêu dùng và những tài sản khác theo quy định của pháp
luật
Theo nghĩa hẹp : Quyền sở hữu được hiểu là mức độ xử sự mà pháp luật cho phép 1 chủ
thể được thực hiện các quyền năng chiếm hữu , sử dụng và định đoạt tài sản của họ trong
những điều kiện nhất định
CHỦ SỞ HỮU TÀI SẢN CÓ NHỮNG QUYỀN:
*Chủ sở hữu của tài sản có các quyền: quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản;
quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản và quyền
định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó. Như vậy,
chủ sở hữu có toàn quyền đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, chủ sở hữu được
thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại
hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp
của người khác.
Ví dụ : Anh Hoàng mua chiếc xe ô tô đăng kí tên anh
Hoa cho Lan chiếc túi xách hàng hiệu vừa mới mua
Anh Tuấn là người đứng tên bìa đỏ của ngôi nhà mà bố a để lại
34. Tại sao nói Luật Hình sự là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt
Nam? Phân biệt Luật Hình sự với một ngành luật khác.
1.Khái niệm Luật Hình sự
Hệ thống pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều ngành
luật hợp thành. Mỗi ngành luật điều chỉnh một lĩnh vực quan hệ xã hội nhất định nhằm bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, của công dân, bảo đảm pháp chế, phòng chống vi phạm pháp luật.
Trong đó, quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ là quan hệ hình thành giữa Nhà nước
và người phạm tội khi người đó thực hiện hành vi được Nhà nước quy định là tội phạm.
Như vậy Luật Hình sự là ngành luật không điều chỉnh mọi quan hệ xã hội, mà chỉ điều
chỉnh quan hệ xã hội liên quan đến tội phạm và hình phạt.
Từ các phân tích trên, khái niệm Luật Hình sự được xác định như sau: “Luật Hình sự là
một ngành luật trong hệ thống pháp luật quy định tội phạm, xác định hình phạt với các tội
phạm nhằm đấu tranh chống tội phạm, loại trừ mọi hành vi nguy hiểm cho xã hội. Luật
Hình sự bao gồm hệ thống những quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
ban hành, xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm, đồng thời quy
định hình phạt đối với những tội phạm ấy.”
Luật Hình sự có những đặc trưng cơ bản sau đây:
- Luật Hình sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam;
- Luật Hình sự bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên
quan đến Nhà nước và người phạm tội;
- Luật Hình sự là ngành luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quy định tội
phạm và hình phạt.
2.Đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự
Luật Hình sự được xem là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật vì nó có đối
tượng và phương pháp điều chỉnh riêng biệt.
Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp
luật của ngành luật đó điều chỉnh. Các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật Hình
sự tác động tới là đối tượng điều chỉnh của luật hình sự. Luật Hình sự chỉ điều chỉnh các
quan hệ xã hội khi có tội phạm xảy ra – đó cũng chính là các quan hệ PLHS
Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là những quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và
người phạm tội khi người này thực hiện tội phạm. Đây là căn cứ để phân biệt Luật Hình sự
với các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật.
3.Nhiệm vụ của Luật Hình sự
Nhiệm vụ thể hiện tập trung với 3 nhóm cụ thể như sau:
1. Luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ những quan hệ xã hội cơ bản nhất và quan trọng nhất
trong đời sống xã hội. Đó là, bảo vệ chế độ xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật
XHCN.
2. Với một vị trí rất quan trọng trong hệ thống pháp luật nước ta, Bộ luật hình sự là một
trong những công cụ hữu hiệu và sắc bén của Nhà nước trong đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm.
3. Luật hình sự còn có nhiệm vụ giáo dục mọi người nâng cao ý thức pháp luật, nâng cao
ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
4. Phương pháp điều chỉnh của Luật Hình sự
Luật Hình sự có phương pháp điều chỉnh riêng biệt vì quan hệ xã hội được Luật Hình sự
điều chỉnh là quan hệ hình thành giữa Nhà nước và người phạm tội. Nhà nước dùng uy
quyền để quy định tội phạm ấy, ấn định hình phạt buộc người phạm tội chịu hình phạt ấy.
Tính uy quyền trong phương pháp điều chỉnh của Luật Hình sự là:
-Nhà nước tự mình quy định hành vi nào là hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm;
-Nhà nước giao nhiệm vụ xử lý tội phạm cho các cơ quan tư pháp. Những cơ quan này có
quyền nhân danh Nhà nước điều tra, truy tố, xét xử, xác định hình phạt, buộc người phạm
tội phải chấp hành hình phạt;
Kết luận, Luật Hình sự là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quy định tội phạm,
xác định hình phạt với các tội phạm ấy, có đối tượng và phương pháp điều chỉnh riêng biệt.
Đây là căn cứ phân biệt Luật Hình sự với các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật.
Câu 35: Phân biệt tội phạm với những hành vi vi phạm pháp luật khác. Lấy ví dụ
minh họa
-Khái niệm :
+ “Tội phạm : là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố
ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thông nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa
mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự” (Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự
năm 2015).
+Vi phạm pháp luật: là những hành vi xử sự (bằng hành động hoặc không hành động) trái
với quy định của pháp luật, có lỗi, xâm phạm đến những quan hệ xã hội được pháp luật bảo
vệ, gây nên những thiệt hại cho những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ trong chừng
mực nhất định và phải chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật.
Phân biệt Tội phạm Các vi phạm pháp luật khác
Căn cứ pháp lí Quy định trong Bộ luật hình Căn cứ pháp lí
sự. “một hành vi là tội phạm
khi đủ các dấu hiệu:
Đối tượng bị xử phạt Cá nhân, con người đạt độ tuổi Cá nhân, tổ chức
cụ thể có năng lực trách nhiệm
hình sự và là người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho XH
Cơ quan có thẩm quyền xét Chỉ có thể do tòa án xét xử Tùy theo từng trường hợp cụ
xử thể, vụ việc sẽ được giao cho
cơ quan và người có thẩm
quyền.
Biện pháp cưỡng chế hình phạt, tùy theo tính chất và cảnh cáo, phạt tiền, buộc thôi
mức độ nguy hiểm của tội việc... tức là mức độ nghiêm
phạm mà người thực hiện hành khắc thấp hơn so với hình phạt
vi phạm tội có thể bị tử hình, được quy định trong Luật Hình
tù chung thân, tù có thời hạn... sự.
Ví dụ : Trong 1 vụ ẩu đả giữa 2 hoặc nhiều người Tội cố ý gây thương tích... (Điều 134
Bộ luật hình sự năm 2015) thì truy cứu trách nhiệm hình sự nếu gây thương tích cho
người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên (nếu dưới 11% phải có một trong mưòi tình
tiết được quy định từ điểm a đến điểm k, Khoản 1, Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015).
Nếu không sẽ chỉ bị xử lý bằng biện pháp khác.
36-37. Trình bày khái niệm tham nhũng. Phân tích các đặc trưng của tham nhũng
thông qua một hành vi tham nhũng cụ thể?
+ Theo từ điển Tiếng Việt: Tham nhũng là lợi dụng quyền hạn để nhũng nhiễu dân và lấy
của
+ Theo “The Oxford Unabridge Dictionary”: Tham nhũng là sự bóp méo hoặc pha hoại
tính liêm chính trong thực hiện công vụ bởi hối lộ hay thiên vị
+ Công ước luật dân sự về tham nhũng do Ủy ban Bộ trưởng của Hội đồng Châu Âu: là
việc đòi hỏi, gợi ý, đưa hoặc nhận trực tiếp hoặc gián tiếp hối lộ hoặc lợi thế bất chính
khác hoặc triển vọng về hối lộ hay lợi thế bất chính đó, làm ảnh hưởng đến sự thực hiện
đúng đắn nhiệm vụ hoặc công việc của người nhận hối lộ hoặc lợi thế bất chính hoặc triển
vọng về của hối lộ bất chính đó
+ Pháp lệnh Chống tham nhũng năm 1998: Là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn
đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài
sản của nhà nước, tập thể, cá nhân hoặc xâm phạm hoạt động đúng đắn của các tổ chức,
cơ quan
+ Quốc hội khóa XI, kì họp thứ 8 thông qua ngày 25/11/2005: Là hành vi của người có
chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi
- Chủ thể của tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn
để vụ lợi. Nếu người thực hiện hành vi đó không có chức vụ, quyền hạn thì không được
coi là tham nhũng. Ví dụ, như Chủ tịch UBND tỉnh A đã tham nhũng tài sản công là 3.000
tỷ đồng để tư lợi cho bản thân.
- Chủ thế của tham nhũng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm pháp luật. Lợi dụng
chức vụ quyền hạn bao gồm sử dụng vị trí công tác, quan hệ công tác, danh nghĩa cơ
quan, tổ chức mình để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật và kể cả những người không
có chức vụ, quyền hạn nhưng đã lợi dụng, sử dụng vị trí công tác ảnh hưởng đến người có
chức vụ quyền hạn để vi phạm pháp luật. Tương tự như ví dụ ở trên, Chủ tịch này đã lợi
dụng, tức là đã mang danh Chủ tịch để thực hiện hành vi tham nhũng, thậm chí là lợi dụng
chức vụ để ép cấp dưới ( tài chính, kế toán) kí những văn bản pháp lý trái quy định nhằm
trục lợi bất chính.
- Động cơ của hành vi tham nhũng là vụ lợi. Luật phòng, chống tham nhũng tại khoản 5,
điều 2 nêu rõ: Vụ lợi là lợi ích vật chất, tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn đạt
được thông qua hành vi tham nhũng. Cũng tương tự như hành vi ở trên, Chủ tịch UBND
đó đã lợi dụng vị trí, chức vụ quyền hạn của mình để thông qua hành vi tham nhũng nhằm
vụ lợi về vật chất là 3.000 tỷ đồng.
38.Phân tích các nguyên nhân và chỉ ra hậu quả của tham nhũng ở Việt Nam hiện
nay.
* Nguyên nhân của tham nhũng:
- Một là, quản lí nhà nước yếu kém: “Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nói
chung, bộ máy nhà nước nói riêng, còn nhiều khuyết điểm, chất lượng và hiệu quả chưa
cao; chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn của một số cơ quan, tổ chức chưa được xác định
rõ ràng, cụ thể còn trùng lặp hoặc bị phân tán” (Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 21/8/2006
của Ban chấp hành Trung ương Đảng)
- Hai là, khung pháp luật về phòng chống tham nhũng còn chưa đầy đủ, chặt chẽ và chưa
thi hành hiệu quả
+ Nhiều quy định còn chưa chặt chẽ, chưa phù hợp với thực tiễn phòng chống tham nhũng
và tương thích với các quy định của pháp luật quốc tế như: chưa điều chỉnh vấn đề tham
nhũng trong lĩnh vực tư nhân, chưa quy định trách nhiệm hình sự đối với chủ thể tham
nhũng là pháp nhân...
+ Một số quy định phòng chống tham nhũng còn chồng chéo, mâu thuẫn
+ Thiếu các công cụ pháp lí cho phép điều tra và xử lí các hành vi tham nhũng một cách
hữu hiệu, chế tài áp dụng với chủ thể tham nhũng còn chưa đủ sức răn đe
+ Thiếu cơ chế khuyến khích người dân phát hiện và báo cáo, tố giác, tố cáo, cung cấp
thông tin về hành vi tham nhũng, đặc biệt là cơ chế bảo vệ những người này
- Ba là, hệ thống cơ quan phòng chống tham nhũng quốc gia tuy đã được xây dựng nhưng
hoạt động còn thiếu hiệu quả, ít nhiều mang tính hình thức. Đặc biệt, cơ quan này hiện nay
còn thiếu tính độc lập và chưa có cơ chế phối hợp hữu hiệu với các cơ quan nhà nước khác
trong phòng ngừa và chống tham nhũng. Gần đây, còn có hiện tượng cán bộ làm trong cơ
quan thanh tra, kiểm tra, phòng, chống tham nhũng có biểu hiện tiêu cực, tham nhũng.
- Bốn là phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ công chức bị xuống cấp. Điều này
một mặt là do tác động của mặt trái cơ chế thị trường làm cho đạo đức của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên tham nhũng; mặt khác trong điều kiện nền kinh tế chúng ta
còn thấp dẫn tới chế độ đãi ngộ, lương bổng quá thấp không đáp ứng được cuộc sống của
cán bộ, đảng viên.
- Năm là lương và chế độ đãi ngộ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức còn thấp,
không đủ trang trải cuộc sống của bản thân và gia đinh họ
- Sáu là, thể chế chính trị và truyền thống văn hóa hàm chứa nhiều yếu tố ủng hộ hay
khoan dung với hành vi tham nhũng. Tập quán “miếng trầu là đầu câu chuyện”, “không
vạch áo cho người xem lưng”, “đóng cửa bảo nhau”,...dễ bị lợi dụng cho hành vi tham
nhũng
- Bảy là, nhiều tổ chức đảng chính quyền, người đứng đầu cơ quan tổ chức đơn vị chưa
nhận thức đầy đủ sâu sắc về tính nghiêm trọng, sự nguy hại của tệ nạn tham nhũng, lãnh
phí nên lãnh đạo không chặt chẽ, thiếu kiểm tra, đôn đốc, thậm chí còn nể nang, né tránh,
dung túng, bao che cho tham nhũng, lãng phí
- Tám là, công tác tuyên truyền và phổ biến, giáo dục về phòng chống tham nhũng chưa
được coi trọng, mang nặng tính phong trào
* Hậu quả của tham nhũng:
- Về mặt chính trị
+ Hiện nay, tham nhũng ở nước ta đã ở mức vô cùng nghiêm trọng dẫn đến nhiều hậu quả
nghiêm trọng. Tham nhũng không chỉ xảy ra ở cấp Trung ương, ở những chương trình, dự
án lớn mà còn xuất hiện ở cả những cấp chính quyền cơ sở- những cơ quan tiếp xúc với
nhân dân hàng ngày.
+ Tệ nạn tham nhũng, hối lộ, ăn chơi phung phí gây tác hại rất lớn, làm tổn hại thanh dành
của Đảng gây bất bình đối và giảm lòng tin của nhân dân đối với chính phủ, nhà nước;
tiếp tay cho những thế lực thù địch để chống phá đất nước ta. 4 nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra
có mặt diễn biến gay gắt hơn, trong đó có hiện tượng tham nhũng, tiêu cực, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì sẽ ảnh hưởng đến
sự tồn vong của chế độ. Gần đây, nhiều cán bộ, đảng viên kể cả các bộ cấp cao cũng dính
vào tệ tham nhũng, như: Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long, Chủ tịch UBND Tp Hà Nội
Nguyễn Đức Chung, Chu Ngọc Anh,…
- Về mặt kinh tế
+ Trong những năm vừa qua, tham nhũng diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội và gây ra nhiều hậu quả không mong muốn. Đặc biệt, tác của tham nhũng trong vấn đề
kinh tế là đặc biệt nghiêm trọng, hành vi này gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước,
tiền bạc, công sức và thời gian của nhân dân. Theo thống kê, giá trị tài sản bị thiệt hại liên
quan đến hành vi tham nhũng của mỗi vụ lên đến hàng chục tỷ, nghìn tỷ đồng. Gần đây,
dư luận vô cùng bức xúc trong các vụ án tham nhũng lớn như: vụ án xảy ra tại Cục Lãnh
sự (Bộ Ngoại giao); vụ án xảy ra tại Công ty Việt Á và Bộ Y tế; vụ án xảy ra tại công ty
AVG và Bộ TT &TT; vụ án tại nhà máy gang thép Thái Nguyên…..Những vụ án này
không là vấn đề tiền bạc và còn là vấn đề đạo đức cách mạng, những người này đã suy
thoái đến mức hư hỏng.
+ Tác hại tham nhũng mang lại trong lĩnh vực kinh tế không chỉ là việc tài sản, lợi ích của
Nhà nước, của tập thể và cá nhân bị biến thành tài sản riêng của một người mà nguy hiểm
hơn, hành vi này còn gây thiệt hại, thất thoát, lãng phí . Tác hại của lãng phí mang lại là
một lượng lớn tài sản của Nhà nước, của tập thể và của mỗi công dân.
- Về mặt xã hội
+ Đối với khía cạnh xã hội, hậu quả tham nhũng chính là làm thay đổi, đảo lộn những
chuẩn mực đạo đức xã hội, làm tha hóa đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
+ Trước những lợi ích bất chính có được khi thực hiện hành vi tham nhũng; nhiều người
có chức vụ, quyền lợi đã không giữ được phẩm chất đạo đức của mình. Chức vụ, quyền
lực được giao không còn được sử dụng để phục vụ nhân dân mà đang hướng tới các lợi
ích bất chính, bất chấp việc vi phạm luật pháp, làm trái công vụ, trái đạo đức.
+ Hành vi tham nhũng không chỉ diễn ra trong các lĩnh vực như kinh tế, tài chính, ngân
hàng,…. Mà đang dần có xu hướng lan sang các lĩnh vực khác- những lĩnh vực ít có khả
năng xảy ra tham nhũng như: văn hóa, y tế, giáo dục,… thậm chí lan sang cả những lĩnh
vực được đánh giá là không thể có hành vi tham nhũng dưới góc nhìn pháp luật và đạo
đức như phúc lợi xã hội hay bảo việc pháp luật. Càng như vậy, hậu quả của tham nhũng ở
Việt Nam càng trở nên nghiêm trọng và nguy hại hơn.
+ Đáng báo động hơn nữa là dường như tham nhũng đang trở thành một điều bình thường
trong quan niệm của một bộ phận cán bộ nhà nước. Điều này chính là biểu hiện của sự suy
thoái, xuống cấp về đạo đức; xâm hại đến những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc.
Tệ tham nhũng còn làm mất đi cán bộ, mất đi niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và chế
độ XHCN.
39. Phân tích khái niệm tham nhũng. Có những loại tham nhũng nào?
- Khái niệm:
+ Theo từ điển Tiếng Việt: Tham nhũng là lợi dụng quyền hạn để nhũng nhiễu dân và lấy
của
+ Theo “The Oxford Unabridge Dictionary”: Tham nhũng là sự bóp méo hoặc pha hoại
tính liêm chính trong thực hiện công vụ bởi hối lộ hay thiên vị
+ Theo “Webster’s Collegiate Dictionary”: Tham nhũng là sự khích lệ làm điều sai trái
bởi những phương tiện không đúng đắn hoặc bất hợp pháp (như hối lộ)
+ Theo tiếng Pháp: Là sự thối rữa, sự tự phá hủy, sự đồi bại, sự mục nát từ trong bản thể
và nghĩa bóng là: “một loại tội phạm diễn ra trong việc sử dụng công vụ quyền lực nhà
nước một cách bịp bợm, tàn bạo và cực đoan nhằm thu lợi cho bản thân, gây thiệt hại cho
nhà nước và công dân
+ Theo luật phòng chống tham nhũng: Hành vi vụ lợi của công chức và cơ quan cầm
quyền
+ Tài liệu Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống tham nhũng cho rằng: đó là sự
lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng
+ Theo ngân hàng thế giới (WB): Là việc lợi dụng quyền lực công cộng nhằm lợi ích cá
nhân
+ Tổ chức Minh bạch quốc tế: là hành vi của người lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố
ý làm trái pháp luật để phục vụ lợi ích cá nhân
+ Ngân hàng phát triển châu Á: lạm dụng chức vụ công hoặc chức vụ tư để tư lợi
+ Công ước luật dân sự về tham nhũng do Ủy ban Bộ trưởng của Hội đồng Châu Âu: là
việc đòi hỏi, gợi ý, đưa hoặc nhận trực tiếp hoặc gián tiếp hối lộ hoặc lợi thế bất chính
khác hoặc triển vọng về hối lộ hay lợi thế bất chính đó, làm ảnh hưởng đến sự thực hiện
đúng đắn nhiệm vụ hoặc công việc của người nhận hối lộ hoặc lợi thế bất chính hoặc triển
vọng về của hối lộ bất chính đó (khi làm bài không cần nhớ hết các khái niệm này mà chỉ
nhớ một vài khái niệm để tăng dung lượng bài làm; còn 2 khái niệm của Việt Nam thì phải
chú ý )
+ Pháp lệnh Chống tham nhũng năm 1998: Là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn
đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài
sản của nhà nước, tập thể, cá nhân hoặc xâm phạm hoạt động đúng đắn của các tổ chức,
cơ quan
+ Quốc hội khóa XI, kì họp thứ 8 thông qua ngày 25/11/2005: Là hành vi của người có
chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi
- Phân loại:
+ Căn cứ vào mức độ tham nhũng:
Tham nhũng lớn: Là hành vi tham nhũng xâm nhập đến những cấp bậc cao nhất của
Chính phủ quốc gia, làm xói mòn lòng tin vào sự quản lí đúng đắn, nguyên tắc nhà nước
pháp quyền và sự ổn định của nền kinh tế
Tham nhũng nhỏ: Là hành vi tham nhũng có liên quan đến việc đổi chác một số tiền
nhỏ, việc hàm ơn không đáng kể bởi những người tìm kiếm sự đối xử ưu đãi hoặc việc sử
dụng bạn bè hay họ hàng nắm giữ những chức vụ nhỏ
+ Căn cứ vào mức độ chủ động của đối tượng có hành vi tham nhũng:
Tham nhũng chủ động: Được dùng để chỉ hành vi đề nghị hoặc đưa hối lộ
Tham nhũng bị động: Được dùng để chỉ hành vi nhận hối lộ
+ Căn cứ theo tiêu chí lĩnh vực:
Tham nhũng trong lĩnh vực kinh tế
Tham nhũng trong lĩnh vực chính trị
Tham nhũng trong lĩnh vực hành chính
+ Theo tiêu chí giới hạn phạm vi lãnh thổ mà hành vi tham nhũng xảy ra thì tham nhũng
được chia thành:
Tham nhũng trong nội bộ quốc gia
Tham nhũng xuyên quốc gia
+ Theo phạm vi tham nhũng thì tham nhũng:
Tham nhũng trong lĩnh vực công: Là hành vi tham nhũng xảy ra trong cơ quan nhà nước
Tham nhũng trong lĩnh vực tư: Là hành vi tham nhũng xảy ra bên ngoài cơ quan nhà
nước
+ Căn cứ theo tính chất của hành vi tham nhũng:
Tham nhũng cá nhân đơn lẻ
Tham nhũng có tổ chức (tập thể)
- Ví dụ về tham nhũng:
+ Chẳng hạn, A là thủ quỹ của một đơn vị nhà nước, được quản lý nguồn tài chính của
đơn vị. A đã lợi dụng quyền hạn mà tổ chức giao cho mình để lấy quỹ cơ quan và đầu tư
mua bán đất riêng. A thực hiện các thủ tục liên quan để hợp pháp hóa nguồn tiền được
chuyển đến mình trong nhu cầu sử dụng, chi tiêu cá nhân.
Trường hợp này chính là tham nhũng. Vì A là người có chức vụ, quyền hạn (thủ quỹ) và
đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để đạt được mục đích hưởng lợi ích vật chất trái
pháp luật. Hành vi được cấu thành tội tham nhũng chỉ khi nó có yếu tố lợi dụng chức vụ,
quyền hạn.
+ Một vụ án tham nhũng rất nổi tiếng cách đây vài năm là vụ ăn hối lộ tại trạm kiểm soát
liên hợp Đồng Bành (Lạng Sơn). Trong vụ việc này, trạm trưởng đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn của mình thông đồng, cho các chủ hàng nhập lậu hàng hóa qua biên giới. Họ
lợi dụng chức vụ, quyền hạn để nhận lợi ích riêng, hợp pháp hóa các hành vi theo quy
định pháp luật.
40. Trình bày những nội dung trách nhiệm của công dân trong phòng, chống tham
nhũng ở Việt Nam hiện nay. Liên hệ thực tế?
- Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
- Lên án, đấu tranh với người có hành vi tham nhũng.
- Phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng.
- Hợp tác với các cơ quan có thẩm quyền trong việc xác minh, xử lý hành vi tham nhũng.
- Kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp
luật về phòng, chống tham nhũng tiêu cực.
- Góp ý xây dựng pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Liên hệ thực tế:
Bên cạnh việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về phòng, chống tham nhũng, công dân
cần có thái độ phê phán, lên án mạnh mẽ những hành vi tham nhũng. Trong quá trình
giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, nếu công dân phát hiện hành vi tham
nhũng, tiêu cực thì có nghĩa vụ tố cáo hành vi đó với cơ quan có thẩm quyền xử lý, phát
huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hộ trong việc giám sát, phản
biện xã hội, gần đây các tổ chức này đã làm và phát huy rất tốt việc giám sát, không ít
những hành vi tham nhũng, tiêu cực, lãng phí được phát hiện, tố giác bởi các tổ chức
chính trị - xã hội, các cơ quan báo chí,……………………..

You might also like