You are on page 1of 17

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

--------------------

TIỂU LUẬN

TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN, NỘI DUNG


VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG,
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HỘI NHẬP
KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

HỌC PHẦN: POLI200237 – KINH TẾ CHÍNH TRỊ


MÁC - LÊNIN

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 3 tháng 10 năm 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

--------------------

TIỂU LUẬN

TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN, NỘI DUNG


VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG,
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HỘI NHẬP
KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

HỌC PHẦN: POLI200237 – KINH TẾ CHÍNH TRỊ


MÁC - LÊNIN

Họ và tên: PHẠM THỊ KIM THOA


Mã số sinh viên: 46.01.754.141
Lớp học phần: POLI200237

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Đỗ Thị Thuý Yến

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 3 tháng 10 năm 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
NỘI DUNG ................................................................................................................ 2
CHƯƠNG 1: TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ NỘI DUNG CỦA HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ....................................... 2
1.1. Khái niệm và sự cần thiết khách quan hội nhập kinh tế quốc tế .......... 2
1.1.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế ............................................ 2
1.1.2. Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế .................. 2
1.2. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay .......................... 5
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG, NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY............................. 8
2.1. Khái quát chung về những tác động tích cực và tiêu cực của hội nhập
kinh tế quốc tế đối với Việt Nam hiện nay ..................................................... 8
2.1.1. Những tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế đối với
Việt Nam ............................................................................................................ 8
2.1.2. Những tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế đối với
Việt Nam ............................................................................................................ 9
2.2. Những giải pháp nhằm mở rộng, nâng cao hiệu quả của hội nhập
kinh tế ở Việt Nam hiện nay .......................................................................... 10
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 14
1

MỞ ĐẦU
Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành
một trong những xu hướng tất yếu đối với các quốc gia trên thế giới, kể cả Việt Nam
chúng ta. Trong các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc, Đảng ta luôn xác định hội nhập
kinh tế quốc tế là một chủ trương lớn, là nội dung trọng tâm của hội nhập quốc tế và
là một bộ phận quan trọng, xuyên suốt trong công cuộc đổi mới đất nước. Ta có thể
thấy, trong chặng đường 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế kể từ năm 1986 đến
nay, nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực, qua
đó tạo tiền đề vững chắc và động lực thúc đẩy, đưa nước ta vươn mình ra môi trường
hội nhập quốc tế sâu rộng, mở đường cho đất nước phát triển mạnh mẽ và toàn diện.
Với những hiệu ứng tích cực mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cho Việt Nam hiện
nay, ta có thể khẳng định hội nhập kinh tế quốc tế thực sự là yếu tố mang tính tất yếu
khách quan trong thời đại mới, là sợi dây kết nối nước ta đi đến những thắng lợi lịch
sử quan trọng trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Song, bên cạnh những ảnh hưởng
và lợi ích tích cực từ hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cũng đã và đang phải đối
mặt những nguy cơ và thách thức nảy sinh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Vấn đề đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta cần kịp thời đưa ra những giải pháp nhằm
mở rộng, nâng cao hiệu quả của hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời sẵn sàng đối diện,
giải quyết những nguy cơ và thách thức trong bối cảnh mới.

Để tiến hành khai thác sâu tính tất yếu và nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế ở
Việt Nam hiện nay, đồng thời tìm hiểu những giải pháp nhằm mở rộng, nâng cao hiệu
quả của hội nhập kinh tế quốc tế trong tình hình mới, tác giả quyết định chọn đề tài:
“Tính tất yếu khách quan, nội dung và những giải pháp nhằm mở rộng, nâng cao hiệu
quả của hội nhập kinh tế ở Việt Nam hiện nay”.
2

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ NỘI DUNG CỦA
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Khái niệm và sự cần thiết khách quan hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
“Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện gắn
kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế của thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích, đồng
thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung.” 1

1.1.2. Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
“Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế.” 2
Toàn cầu hoá có thể hiểu là quá trình làm gia tăng tốc độ thiết lập những mối quan
hệ, hình thành sự kết nối giữa các nền kinh tế từ các quốc gia trên thế giới, ở đó giữa
các quốc gia có sự trao đổi, hợp tác qua lại, phụ thuộc lẫn nhau để phục vụ cho sự
phát triển toàn diện của các quốc gia đó.
Toàn cầu hoá diễn ra và tác động mạnh mẽ trên nhiều phương diện khác nhau như:
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,… trong đó, toàn cầu hoá kinh tế đóng vai trò then
chốt trong việc thúc đẩy toàn cầu hoá trên các lĩnh vực khác. Nếu như hiểu toàn cầu
hoá là khái niệm tổng quát về quá trình tạo dựng sự gia tăng nhanh chóng về mặt liên
kết giữa các quốc gia trên thế giới qua tất cả các phương diện, thì khái niệm toàn cầu
hoá kinh tế được hiểu với nghĩa cụ thể là quá trình tạo dựng sự gia tăng nhanh chóng
các mối quan hệ hợp tác của các quốc gia, khu vực trong các hoạt động thuộc lĩnh
vực kinh tế. Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, các nền kinh tế từ các quốc gia hợp
tác với nhau có sự tác động và phụ thuộc lẫn nhau thông qua việc điều phối, vận động
phát triển, cùng nhau hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất.
Có thể nói hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan bởi vì: Toàn cầu hóa kinh
tế góp phần thu hút tất cả các nền kinh tế quốc gia tham gia vào hệ thống phân công
lao động quốc tế, làm gia tăng nhanh chóng các mối liên hệ của sản xuất và trao đổi

1,2
Bộ Giáo dục và đào tạo, 2020. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia, tr.162.
3

giữa các nước trong khu vực và trong phạm vi thế giới, điều đó khiến cho các nền
kinh tế quốc gia gắn kết, phụ thuộc lẫn nhau và trở thành một bộ phận hữu cơ, không
thể tách rời với nền kinh tế toàn cầu. Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, các yếu tố
sản xuất như hàng hoá, dịch vụ, công nghệ, vốn được lưu thông trên phạm vi toàn
cầu thông qua việc tăng cường vận chuyển xuyên biên giới. Vì thế, ta có thể thấy nếu
không hội nhập kinh tế quốc tế, các nước sẽ không thể tự đảm bảo được các điều kiện
cần thiết cho sản xuất trong nước (do thiếu nhân lực, hàng hoá, máy móc, kỹ thuật
tiên tiến, vốn đầu tư, v.v...). Vậy nên, hội nhập kinh tế quốc tế đã mở đường cho các
quốc gia giải quyết những vấn đề toàn cầu đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều, bên
cạnh đó còn có thể tận dụng được các thành tựu mới mẻ của cách mạng công nghiệp
trên thế giới, từ đó biến tất cả những lợi ích thu được trong việc hội nhập kinh tế quốc
tế trở thành động lực cho sự phát triển của nền kinh tế các quốc gia đó.
Vì những lẽ trên, ta có thể kết luận hội nhập kinh tế quốc tế có tính tất yếu khách
quan là do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế. Trong xu thế đó,
tất cả các nước trên thế giới, kể cả Việt Nam đều phải tiến hành hội nhập kinh tế quốc
tế để phát triển toàn diện đất nước, cùng nhau hướng tới nền kinh tế thế giới thống
nhất.
“Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các nước,
nhất là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay.” 3
Khi bàn về tác động của toàn cầu hoá, nhà kinh tế học Joseph E. Stiglitz đã từng
nhận định: “Toàn cầu hóa đã làm giảm đi tình trạng cô lập mà các nước đang phát
triển thường gặp và tạo ra cơ hội tiếp cận tri thức cho nhiều người ở những nước đang
phát triển, điều vượt xa tầm với thậm chí những người giàu nhất của bất kỳ quốc gia
nào một thế kỷ trước đây.” 4. Quả đúng như vậy, đối với các nước đang và kém phát
triển, hội nhập kinh tế quốc tế chính là cơ hội để các nước được tiếp cận và sử dụng
được các nguồn lực đến từ bên ngoài như máy móc, kỹ thuật mới, kinh nghiệm sản
xuất tiên tiến, tranh thủ được vốn đầu tư nước ngoài,… Bên cạnh đó, hội nhập còn

3
Bộ Giáo dục và đào tạo, 2020. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia, tr.163.
4
Joseph E.Stiglitz, Toàn cầu hoá và những mặt trái, bản dịch Tiếng Việt, Nxb trẻ, Tp Hồ Chí Minh, 2008,
tr5.
4

giúp các nước mở rộng thị trường, thúc đẩy công nghiệp hoá, tăng tích luỹ, dễ dàng
tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao mức thu nhập cho nhân dân lao động
trong nước. Do đó, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ mở đường cho các nước kém và đang
phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo với các nước phát triển, tiến tới
khắc phục nguy cơ tụt hậu. Có thể nói, chỉ có phát triển kinh tế mở và hội nhập quốc
tế thì các nước kém và đang phát triển mới có thể chuyển mình mà phát triển.
Chúng ta có thể liên hệ đến thực tiễn của nền kinh tế Việt Nam, nước ta có nguồn
tài nguyên phong phú, nguồn nhân lực dồi dào nhưng chất lượng chưa cao, việc áp
dụng công nghệ, máy móc, kỹ thuật mới vào trong sản xuất của nước ta còn nhiều
hạn chế (cụ thể là còn chậm, chưa đồng đều). Vì thế khi gia nhập vào môi trường hội
nhập kinh tế quốc tế, nước ta có điều kiện để tạo dựng những mối quan hệ hợp tác
với các nền kinh tế quốc gia tiên tiến, từ đó tạo cơ hội để chúng ta trao đổi hàng hoá,
nhập vào các loại máy móc, thiết bị công nghệ mới để phục vụ cho sản xuất, thu hút
các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, v.v… qua đó góp phần nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trong nước, học hỏi được nhiều kinh nghiệm sản xuất, tiếp thu khoa
học công nghệ, rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến, phấn đấu đưa nước ta
trở thành nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tuy nhiên, ngoài những hiệu ứng tích cực mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại,
các nước kém và đang phát triển còn phải đối diện với không ít những rủi ro và thách
thức trong quá trình hội nhập kinh tế như: gia tăng sự phụ thuộc do nợ nước ngoài,
tình trạng bất bình đẳng trong trao đổi mậu dịch – thương mại giữa các nước kém và
đang phát triển với các nước phát triển. Bởi lẽ “chủ nghĩa tư bản hiện đại với ưu thế
về vốn và công nghệ đang ráo riết thực hiện ý đồ chiến lược biến quá trình toàn cầu
hóa thành quá trình tự do hóa kinh tế và áp đặt chính trị theo quỹ đạo tư bản chủ
nghĩa.”. 5. Vì vậy, để có thể khai thác tối đa các lợi ích từ bên ngoài, các nước đang
và kém phát triển cần phải có những chiến lược hợp lý, đồng thời cần đưa ra những
đối sách phù hợp để thích ứng và đối mặt với những rủi ro và thách thức nảy sinh
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

5
Bộ Giáo dục và đào tạo, 2020. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia, tr.164.
5

Qua hai luận điểm trên, ta có thể thấy hội nhập kinh tế quốc tế là sự cần thiết khách
quan trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế,
các nước có điều kiện để khai thác tiềm năng vốn có của đất nước mình, đưa đất nước
ngày càng phát triển. Không những thế, hội nhập kinh tế quốc tế còn là cách để các
quốc gia thu hẹp khoảng cách giàu nghèo với các nước tiên tiến và khắc phục nguy
cơ bị tụt hậu. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngoài những tác
động tích cực mà nó mang lại, các nước đang và kém phát triển còn phải đối diện với
nhiều nguy cơ và thách thức do những ý đồ chiến lược mà chủ nghĩa tư bản nhắm
đến. Điều đó yêu cầu cần phải đặt ra những nội dung, giải pháp thích hợp để mở rộng,
nâng cao hiệu quả của hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời phải tạo dựng sự thích hợp
giữa điều kiện nội bộ nền kinh tế của đất nước với quá trình toàn cầu hoá đa bình diện
và đầy nghịch lý.

1.2. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay
“Thứ nhất, chuẩn bị các điều kiện để thực hiện hội nhập hiệu thành công.” 6
Trong báo cáo chính trị Đại hội XIII, Đảng ta chủ trương: “Tiếp tục thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của
Việt Nam. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào
một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác
động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng
vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam
kết quốc tế. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh
hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn”. Qua chủ
trương trên, ta có thể thấy, đối với nước ta, hội nhập là vấn đề tất yếu nhưng chúng
ta không phải hội nhập bằng mọi giá. Cụ thể, ta tiến hành hội nhập theo đường lối
“đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập

6
Bộ Giáo dục và đào tạo, 2020. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia, tr.164.
6

quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả”, có nghĩa là chúng ta linh hoạt theo từng cục
diện quốc tế, đa dạng hoá các mối quan hệ để hợp tác, phát triển. Theo đó, trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, ta thực hiện nhiều hình thức khác nhau để hội nhập,
song phải có lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu và thực tiễn nội bộ
kinh tế nước ta.
Để thực hiện hội nhập thành công, ta cần phải đáp ứng những điều kiện chủ yếu
sau: “Các điều kiện sẵn sàng về tư duy, sự tham gia của toàn xã hội, sự hoàn thiện và
hiệu lực của thể chế, nguồn nhân lực và sự am hiểu môi trường quốc tế; nền kinh tế
có năng lực sản xuất thực...”. 7
“Thứ hai, thực hiện đa dạng các hình thức, các mức độ hội nhập kinh tế quốc tế.” 8
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể diễn ra theo nhiều mức độ. Theo đó, hội nhập kinh
tế quốc tế có thể được xem là nông hoặc sâu tuỳ vào mức độ tham gia của một nước
nào đó vào các mối quan hệ, các tổ chức kinh tế quốc tế hoặc khu vực. Đối với Việt
Nam, trong báo cáo chính trị Đại hội XIII ở phần trước, Đảng ta nêu rõ “tích cực hội
nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả”.
Ngoài ra, còn có sự phân chia các mức độ từ thấp đến cao trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế như: Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA), Khu vực mậu dịch tự do
(FTA), Liên minh thuế quan (CU), Thị trường chung, Liên minh kinh tế - tiền tệ…
Theo thống kê của Trung tâm WTO và Hội nhập – VCCI, tính đến thời điểm hiện tại,
Việt Nam đã tham gia ký kết thành công 13 FTA (gồm 7 FTA ký kết với tư cách là
thành viên ASEAN và 6 FTA ký kết với tư cách là một bên độc lập), Việt Nam hiện
đang đàm phán 2 FTA (gồm FTA Việt Nam với Khối EFTA, FTA Việt Nam –
Israel).9
“Xét về hình thức, hội nhập kinh tế quốc tế là toàn bộ các hoạt động kinh tế đối
ngoại của một nước gồm nhiều hình thức đa dạng như: ngoại thương, đầu tư quốc tế,
hợp tác quốc tế, dịch vụ thu ngoại tệ…”. 10 Theo đó, trong báo cáo chính trị Đại hội

Bộ Giáo dục và đào tạo, 2020. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia, tr.164,
7,8,10

tr.165.
9
Số liệu trên được thống kê từ Trung tâm WTO và Hội nhập – VCCI, nguồn: https://trungtamwto.vn/fta.
7

XIII, Đảng ta có nêu rõ: “Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các
lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn”
Qua chương 1, ta cụ thể được những vấn đề sau: Một là, hội nhập kinh tế là yếu tố
mang tính tất yếu khách quan, là phương thức phát triển của các nước thế giới, điển
hình là những nước đang và kém phát triển trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
Không những thế, hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều hiệu ứng tích cực cho công
cuộc phát triển, khai thác tiềm năng bên trong của các quốc gia tham gia hội nhập.
Song, bên cạnh những lợi ích tích cực từ hội nhập kinh tế quốc tế, các nước còn phải
đối mặt với những thách thức và rủi ro đến từ bên ngoài. Hai là, trong quá trình hội
nhập kinh tế, bên cạnh việc chuẩn bị các điều kiện để thực hiện hội nhập hiệu quả,
thành công thì cần phải thực hiện đa dạng các hình thức, các mức độ hội nhập kinh
tế quốc tế để có được sự đồng bộ giữa nội bộ kinh tế quốc gia và bối cảnh toàn cầu
hoá kinh tế ở từng giai đoạn.
8

CHƯƠNG 2: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG, NÂNG CAO


HIỆU QUẢ CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Khái quát chung về những tác động tích cực và tiêu cực của hội nhập kinh
tế quốc tế đối với Việt Nam hiện nay

2.1.1. Những tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam

Trải qua 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế kể từ năm 1986, hội nhập kinh tế đã
và đang mang lại nhiều tác động tích cực cho nền kinh tế nước ta, cụ thể như:
Thứ nhất, đi lên từ một nước bị bao vây, cấm vận, nước ta đã bình thường hoá
được các mối quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, tiến tới thiết lập và mở rộng
quan hệ hợp tác kinh tế với nhiều quốc gia, nhiều tổ chức trên thế giới. Theo thống
kê của Từ điển Wikipedia, Việt Nam tính từ năm 1945 đến nay “đã thiết lập quan hệ
ngoại giao với 189 trong 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; thiết lập khuôn khổ
quan hệ ổn định, lâu dài với 30 đối tác chiến lược và toàn diện; có quan hệ kinh tế
với hơn 221 thị trường nước ngoài”. 11. Việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế tạo điều
kiện cho Việt Nam mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học công nghệ mới vào trong
sản xuất, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước, tạo động lực để nước ta khai
thác và phát triển toàn diện mọi tiềm năng của đất nước, tiến lên trở thành một nước
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khẳng định vị thế của quốc gia trên trường quốc tế.
Thứ hai, trong quá trình hội nhập kinh tế, nhờ đẩy mạnh hợp tác trên các phương
diện giáo dục – đào tạo và nghiên cứu khoa học với các nước doanh nghiệp, nhất là
doanh nghiệp FDI có công nghệ hiện đại, đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực công nghệ mới ở nước ta. Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, việc
áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ mới vào trong sản xuất kết hợp với
việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực công nghệ mới đã trở thành một xu thế tất
yếu góp phần nâng cao chất lượng nền kinh tế của quốc gia. Điều đó cho ta thấy, tiến
hành hội nhập kinh tế quốc tế là con đường đi đúng đắn để nước ta vươn lên trở thành
một nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

11
Số liệu trên được thống kê từ Từ điển Wikipedia, nguồn: https://tinyurl.com/52dwf4ze.
9

Thứ ba, hội nhập kinh tế là động lực quan trọng để thúc đẩy hội nhập các lĩnh vực
khác như văn hoá, chính trị, an ninh - quốc phòng. Ví dụ: trong lĩnh vực văn hoá, hội
nhập kinh tế tạo tiền đề để nước ta tiếp thu những tinh hoa văn hoá của các dân tộc
trên thế giới, cập nhập những giá trị, tư tưởng tiến bộ trong văn hoá, văn minh của
thế giới để làm phong phú hơn giá trị văn hoá dân tộc của nước mình, góp phần xây
dựng xã hội văn minh, tiến bộ. Ngoài ra, hội nhập kinh tế quốc tế còn là môi trường
để các nước trên thế giới cùng nhau giải quyết những mối quan tâm chung, các vấn
đề nảy sinh trong thời đại mới như ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, dịch bệnh,…

2.1.2. Những tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam

Bên cạnh những lợi ích mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, Việt Nam đã và đang
phải đối diện với nhiều rủi ro và thách thức, cụ thể như một số vấn đề sau:
Thứ nhất, hội nhập kinh tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh
nghiệp, các ngành kinh tế trong nước và ngoài nước, sẽ khiến cho các doanh nghiệp
và các ngành kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn để phát triển, thậm chí dẫn đến nguy
cơ phá sản, điều này gây nhiều bất lợi cho nền kinh tế nước ta.
Thứ hai, trong hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia có thể tác động, phụ thuộc
lẫn nhau nên nó có thể làm gia tăng sự phụ thuộc nền kinh tế nước ta vào các nước
đối tác nói riêng, và trên thị trường thế giới nói chung. Điều đó khiến cho nền kinh tế
bị ảnh hưởng ít nhiều bởi các biến động trên thị trường thế giới.
Thứ ba, trong hội nhập kinh tế quốc tế, việc các công ty có vốn đầu tư nước ngoài
đến nước ta đầu tư phát triển kinh tế kéo theo nguy cơ về ô nhiễm môi trường, cạn
kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, v.v…
Thứ tư, việc du nhập và tiếp cận những giá trị văn hoá mới từ bên ngoài tiềm ẩn
nguy cơ làm xói mòn bản sắc dân tộc và văn hoá truyền thống của nước ta.
Thứ năm, hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng tình trạng khủng bố, buôn
lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, v.v… Ngoài ra còn tiềm ẩn những thách
thức mới đối với quyền lực Nhà nước, chế độ chính trị, chủ quyền quốc gia bởi âm
mưu, thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hoà bình” từ các thế lực thù địch, gây khó
khăn trong việc đảm bảo trật tự an ninh, an toàn xã hội.
10

Từ những tác động tích cực và tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt
Nam, ta có thể thấy, để nước ta tiến tới hội nhập kinh tế quốc tế thành công và hiệu
quả, cần phải đề ra những giải pháp nhằm mở rộng, nâng cao hiệu quả của hội nhập
kinh tế quốc tế, đồng thời phải biết phối hợp song song những giải pháp đó với việc
khắc phục và giải quyết những rủi ro, thách thức mà hội nhập kinh tế quốc tế mang
lại.

2.2. Những giải pháp nhằm mở rộng, nâng cao hiệu quả của hội nhập kinh tế ở
Việt Nam hiện nay

Hội nhập kinh tế là một thực tiễn khách quan, là xu hướng khách quan của thời
đại, mọi quốc gia dù lớn hay nhỏ, dù mạnh hay yếu đều không thể đi ngược lại với
dòng chảy của thời đại mà không tiến hành hội nhập. Những năm gần đây, ta không
thể phủ nhận những lợi ích to lớn mà hội nhập mang lại. Trong đó, có thể thấy, hội
nhập kinh tế là nội dung trọng tâm của hội nhập quốc tế, là bộ phận quan trọng trong
chính sách đổi mới và phát triển của Đảng và Nhà nước ta. Vì thế, nếu muốn hội nhập
kinh tế hiệu quả, Việt Nam cần đề ra những giải pháp có sự phù hợp giữa nội bộ nền
kinh tế quốc gia với những biến động mới của thị trường kinh tế thế giới ở từng giai
đoạn cụ thể. Trong bối cảnh hiện nay, để mở rộng, nâng cao hiệu quả của hội nhập
kinh tế, Việt Nam cần triển khai thực hiện những giải pháp sau:
Một là, Việt Nam cần phải nâng cao nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế thông
qua việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân để thấy
được vai trò, yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, những cơ hội và thách thức mà
hội nhập kinh tế mang lại, qua đó tiến hành triển khai mục tiêu, phương hướng, nhiệm
vụ của hội nhập quốc tế, cụ thể là hội nhập kinh tế quốc tế cho từng ngành, từng lĩnh
vực để thống nhất nhận thức và hành động, từ đó tạo thành sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị, của toàn dân, doanh nhân, doanh nghiệp, đội ngũ trí thức nước
ta trong quá trình hội nhập.
Hai là, nước ta phải nhanh chóng hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách về hội
nhập quốc tế, cụ thể là hội nhập kinh tế quốc tế một cách toàn diện trên cơ sở phải
phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và chủ trương, đường lối đối ngoại
11

của Đảng ta. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta cũng thường xuyên cập nhật tình
hình mới, thực hiện việc điều chỉnh, bổ sung hoàn chỉnh các chính sách hội nhập quốc
tế sao cho quá trình hội nhập kinh tế nước ta vừa phù hợp với thực tiễn nội bộ nền
kinh tế nước ta, vừa tuân thủ theo các cam kết quốc tế. Có như thế, việc hội nhập kinh
tế ở nước ta mới được mở rộng và nâng cao hiệu quả.
Ba là, Việt Nam trước hết cần đánh giá đúng bối cảnh kinh tế và chính trị quốc tế,
xu hướng vận động kinh tế và tác động của toàn cầu hoá vào thực tiễn nền kinh tế
nước ta để xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập kinh tế vừa phù hợp với điều kiện
trong nước, vừa đáp ứng được xu hướng chung của quốc tế. Chẳng hạn, các bộ, ngành,
địa phương cùng nhau tiến hành xây dựng các chương trình, kế hoạch toàn diện và
cụ thể trong từng giai đoạn. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần phải tăng cường phân cấp,
nâng cao vai trò quản lý, chỉ đạo của các cơ quan quản lý nhà nước thông qua các chế
tài xử phạt đối với các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp vi phạm cơ chế quản lý của
Nhà nước. Trong quá trình thực hiện chủ trương và chính sách hội nhập, các cơ quan
quản lý nhà nước cũng cần chú trọng hơn đến công tác kiểm tra, giám sát quá trình
thực hiện để hội nhập kinh tế được hiệu quả và toàn diện.
Bốn là, Việt Nam cần phải đánh giá đúng năng lực cạnh tranh của nội bộ nền kinh
tế, tiến tới đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
của nước ta. Cụ thể, ta chú trọng nâng cao môi trường kinh doanh thuận lợi và bình
đẳng cho mọi cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp; không ngừng nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, đào tạo nguồn nhân lực công nghệ mới; khuyến khích các cá nhân,
tổ chức và doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu khoa học, áp dụng công nghệ mới,
máy móc, kỹ thuật mới vào trong sản xuất; ngoài ra, cần phải có sự phối hợp giữa các
ban, ngành, các tổ chức kinh tế trong nước để tập trung phát triển kết cấu hạ tầng
đồng bộ, hiện đại nhằm phục vụ cho việc nâng cao hiệu quả của hội nhập kinh tế
nước ta trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế hiện nay.
Năm là, để mở rộng và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần
mở rộng, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các nước, các tổ chức kinh tế
trong và ngoài khu vực và nhất là các đối tác có tầm ảnh hưởng chiến lược quan trọng
12

đối với sự phát triển của nước ta, đồng thời chúng ta cần phải tiến hành hội nhập sâu
các khuôn khổ quan hệ, các cam kết quốc tế đã được xác lập với nước ta, tạo sự đan
xen gắn kết lợi ích giữa Việt Nam với các nước đối tác, các tổ chức kinh tế một cách
bình đẳng và lâu dài. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần chủ động trong việc lựa chọn đối
tác và xây dựng phương án đàm phán thích hợp với từng đối tác trên cơ sở các nước
hợp tác cùng có lợi.
Sáu là, Việt Nam cần phải thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế đã ký thỏa thuận,
tích cực và có trách nhiệm trong việc tham gia các thể chế hội nhập, qua đó góp phần
làm gia tăng sự uy tín và của nước ta trong mắt các bạn bè quốc tế. Song, để làm được
điều đó chúng ta cần xây dựng và triển khai chiến lược hội nhập trên mọi lĩnh vực
theo kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích quốc gia và tiềm năng
vốn có của đất nước mình.
Bảy là, trong quá trình mở rộng và nâng cao hiệu quả của hội nhập kinh tế, Việt
Nam cũng cần phải đẩy mạnh nâng cao năng lực thực thi hội nhập quốc tế của đất
nước thông qua việc củng cố và phát triển bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác đối
ngoại, hội nhập quốc tế. Không những thế, còn phải tăng cường đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ các bộ nguồn nhân lực chất lượng cao có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí
thức, kỹ năng hội nhập tốt, ngoại ngữ tốt, nghiệp vụ giỏi để đáp ứng các yêu cầu của
công tác hội nhập trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay.
Tám là, bên cạnh việc tăng cường, bổ sung các chính sách, chiến lược và giải pháp
để thực hiện hội nhập kinh tế hiệu quả, Việt Nam cũng cần phải giữ vững tinh thần
trên cơ sở xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vì chỉ khi ta độc lập, tự chủ được trong các vấn đề kinh tế, chính trị, ta mới không bị
phụ thuộc vào bất kỳ quốc gia hay tổ chức kinh tế nào, từ đó ta có thể tiếp tục đứng
vững trên con đường phát triển của đất nước, bảo vệ được thành quả cách mạng của
nhân dân ta, đồng thời cũng gìn giữ được những giá trị tinh hoa văn hoá của dân tộc,
sẵn sàng ứng phó với những tác động trái chiều mà hội nhập kinh tế ảnh hưởng lên
nước ta.
13

Ta có thể thấy hội nhập kinh tế là xu hướng tất yếu của các quốc gia trên thế giới.
Trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, nếu muốn hội nhập kinh tế đạt được
những hiệu ứng tích cực thì Việt Nam cần phải triển khai thực hiện một số nội dung,
chiến lược và giải pháp thích hợp để có thể hội nhập kinh tế hiệu quả nhất, toàn diện
nhất. Vì vậy, khi đất nước đứng trước những rủi ro và thách thức của hội nhập kinh
tế quốc tế, việc triển khai những giải pháp nhằm mở rộng, nâng cao hiệu quả của hội
nhập kinh tế là yếu tố then chốt, đóng vai trò quyết định đến những thành công thắng
lợi của nước ta sau này, do đó chúng ta cần có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt để kịp
thời thích ứng và phát triển trong điều kiện bối cảnh quốc tế luôn chuyển biến khôn
lường như ngày nay.
14

KẾT LUẬN
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, hội nhập đã trở thành một xu hướng khách
quan của thời đại, trọng yếu là hội nhập kinh tế quốc tế. Đối với mọi quốc gia trên
thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế là yếu tố tất yếu khách quan mang lại nhiều lợi ích
cho tất cả các quốc gia, trong đó phải kể đến các quốc gia kém và đang phát triển.
Đứng trước xu thế khách quan của thời đại, Việt Nam chúng ta không nằm ngoài
những quốc gia đó. Đối với nước ta, hội nhập kinh tế quốc tế có thể xem là “xu thế
thời thượng”, “cơ hội vàng” để chúng ta khai thác và phát triển tiềm lực đất nước
một cách hiệu quả và toàn diện nhất. Chính vì thế, Đảng và Nhà nước ta luôn có
những chủ trương, đường lối và nội dung phù hợp để hội nhập hiệu quả. Tuy nhiên,
bên cạnh những tác động tích cực và lợi ích to lớn mà hội nhập kinh tế quốc tế mang
lại, Việt Nam đã và đang đứng trước những rủi ro và thách thức lớn của hội nhập
kinh tế quốc tế. Do vậy, việc đề ra những giải pháp phù hợp để mở rộng, nâng cao
hiệu quả hội nhập ở nước ta là một vấn đề trọng yếu, cấp bách và thường xuyên, đòi
hỏi phải có sự phù hợp với điều kiện nội bộ nước ta và bối cảnh quốc tế trong từng
giai đoạn khác nhau.

You might also like