Professional Documents
Culture Documents
Cac Thuyet Ve Tam Ly Hoc Phat T - Patricia H. Miler
Cac Thuyet Ve Tam Ly Hoc Phat T - Patricia H. Miler
Giai A B C D E
đoạn Khủng Bản kinh Yếu tố Phương Giai đoạn
hoảng của liên quan thức tâm lý tâm lý sinh
TLXH những đến trật xã hội dục
quan hệ tự xã hội
có ý
nghĩa
6 Thân mật Đối tác Đối tác Mất đi và
và đoàn trong tình hợp tác tìm thấy
kết mặt bạn, tình và ganh bản thân
kia là cô dục, ganh đua mình trong
lập đua, hợp người khác
tác
7 Sinh sản Lao động Trào lưu Làm thành,
và thu hút được giáo dục chăm sóc
bản thân phân công và truyền
và công thống
việc nội
trợ được
chia sẻ
8 Toàn vẹn “Nhân Khôn Là, thông
và thất loại" “Loại ngoan qua việc
vọng của tôi” đã là. Đối
mặt với cái
không là
Trích dẫn từ "Bản sắc và chu kỳ của cuộc sống" của Erik.
H.Erikson.
Phát triển TLXH diễn biến theo "nguyên tắc biểu sinh" một từ
xuất phát từ "biểu" có nghĩa là ở trên và "sinh" có nghĩa là "xuất hiện
ra, ló ra" (Epi = biểu, genetic = sinh). Nguyên tắc mượn của phát triển
của thai.
Giống như cái thai, nhân cách được phân hóa dần và tổ chức
theo cấp bậc như là được mở ra trong và tạo dáng bởi một môi
trường đặc biệt. Như tóm tắt trong bảng 2.1, sự mở ra đó bao gồm
nhiều chiều kích. Có một động thái xuyên suốt một chuỗi "khủng
hoảng" TLXH hoặc lối thoát trong khi trẻ thành thục hoá, và có sự mở
rộng bán kính của các quan hệ có ý nghĩa. Những chiều kích khác
bao gồm sự diễn đạt bằng những lời lẽ của trẻ một số yếu tố của trật
tự xã hội hoặc cấu trúc và sự diễn tiến qua một loạt các phương thức
TLXH hoặc lối sống và tương tác xã hội.
Bây giờ chúng ta nhìn vào tính chất chung của 8 giai đoạn. Sự
thành thục và những mong chờ của xã hội cũng tạo nên 8 khủng
hoảng mà trẻ phải giải quyết. Mỗi khủng hoảng hay vấn đề hiển nhiên
nhất ở một giai đoạn đặc biệt trong chu kỳ đời người, song xuất hiện
dưới một dạng nào đó trong quá trình phát triển. Thí dụ, tự lập là mối
quan tâm nổi trội ở năm thứ hai của đời sống nhưng được chuẩn bị
cho năm đầu và được xây dựng trong các giai đoạn tiếp theo.
Erikson mô tả mỗi khủng hoảng dưới danh nghĩa một chiều kích
với hai lối ra khả dĩ: tích cực và tiêu cực, thí dụ tự chủ, mặt kia là hổ
thẹn và nghi ngờ. Một cách lý tưởng, trẻ phát triển một tỉ số thuận lợi
trong đó khía cạnh tích cực trội hơn khía cạnh tiêu cực. Thí dụ, một
người đòi hỏi biết được khi nào tin và khi nào không tin, nhưng nhìn
chung có một thái độ tin cậy vào cuộc sống.
Nếu các khủng hoảng thời thơ ấu không được chèo lái tốt, con
người ta tiếp tục đấu tranh với những đụng độ thời thơ ấu trong cuộc
đời còn lại. Nhiều người lớn còn vật lộn để phát triển ý thức về bản
sắc. Erikson lạc quan tuyên bố là không bao giờ là quá muộn khi phải
giải quyết bất kỳ khủng hoảng nào.
Đối với sự thống hợp của các giai đoạn khác nhau, lý thuyết của
Erikson nằm giữa lý thuyết Piaget với sự thống hợp chặt chẽ và lý
thuyết của Freud với sự thống hợp lỏng lẻo hơn. Mỗi giai đoạn được
xây dựng trên các giai đoạn trước đều ảnh hưởng đến hình thành của
các giai đoạn sau. Như Erikson nói:"Mỗi giai đoạn thêm một cái gì
đặc thù cho những giai đoạn sau và làm thành một tổng thể từ những
giai đoạn trước".
Nhấn mạnh bản sắc.
Trái với quan tâm của Freud là làm thế nào người ta tự phòng
vệ mình khỏi sự căng thẳng khó chịu - một tiếp cận phần nào tiêu
cực.- Quan tâm của Erikson tích cực hơn. Ông giữ ý kiến cho rằng
chủ đề chính của đời sống là sự đi tìm "bản sắc". Danh từ đó liên
quan đến "ý thức về bản sắc cá nhân... tính cách cá nhân... một tiêu
chuẩn cho những việc làm thầm lặng của sự tổng hợp, cái Tôi... một
sự duy trì, sự gắn kết bên trong với những lý tưởng và bản sắc của
một nhóm. Phát biểu một cách khác bản sắc là sự hiểu biết và chấp
nhận mình lẫn xã hội của mình. Suốt cuộc đời, chúng ta hỏi:"Tôi là
ai?" và có những trả lời khác nhau ở mỗi giai đoạn. Nếu mọi việc suôn
sẻ ở cuối mỗi giai đoạn, ý thức về bản sắc ở trẻ được khẳng định lại
ở một trình độ mới. Tuy sự phát triển của bản sắc đạt tới một sự
khủng hoảng vào tuổi vị thành niên, Erikson ghi nhận nó bắt đầu khi
em bé "lần đầu tiên nhận ra mẹ và lần đầu tiên cảm thấy được mẹ
nhận ra mình, khi tiếng nói của mẹ nói với nó, nó là một người với một
cái tên, và nó ngoan".
Vậy bản sắc thay đổi từ giai đoạn này sang giai đoạn sau và
những dạng sớm của bản sắc ảnh hưởng tới những dạng sau.
Erikson, chàng trai lãng du và người Mỹ nhập cư, đã sống với
nhu cầu xây dựng được một bản sắc cho chính mình. Những cuộc đối
thoại của ông với Huey Piaget, Newton (1973) chứng minh ông đặc
biệt nhạy cảm với các vấn đề dân tộc ít người, đã cố gắng để hình
thành một bản sắc. Ông bắt đầu sử dụng từ "Khủng hoảng về bản
sắc" để mô tả sự mất đi của bản sắc đã được ông quan sát thấy nơi
những người lính trong thế chiến II. Ông thấy một vấn đề tương tự
nơi những vị thành niên bị rối nhiễu "đấu tranh chống lại xã hội của
chúng". Cuối cùng, Erikson thấy rõ là vấn đề bản sắc nổi lên, tuy ở qui
mô nhỏ hơn, ở mọi cuộc đời. Hơn nữa, ông ý thức được là bản sắc là
vấn đề trọng tâm của thời đại chúng ta. "Nếu quan hệ giữa bố và con
trai là vấn đề nổi trội ở thế kỷ trước thì thế kỷ này liên quan tới người
nam giới tự lập tự hỏi mình tự làm được cái gì.
Mở rộng phương pháp luận phân tâm.
Erikson đóng góp ba phương pháp nghiên cứu phát triển. Quan
sát trực tiếp trẻ em, so sánh xuyên văn hoá và lịch sử tâm lý. Những
kinh nghiệm sớm của ông với trẻ em và sự tiếp xúc với Anna Freud
đương phát triển các quan sát trẻ em và trị liệu bằng trò chơi nhấn
chìm ông vào thế giới của những trẻ bình thường lẫn rối nhiễu vào lúc
khởi đầu của sự nghiệp của ông. Ông khẳng định là "chúng ta phải
nghiên cứu con người được hành động chứ không chỉ con người phản
ánh thực tế".
Những bài viết của Erikson mang nhiều những đối lập giữa các
nền văn hóa. Ông ta rất đỗi bị mê hoặc bởi những cách giải quyết các
giai đoạn chung, lại thay đổi từ nền văn hóa này sang nền văn hóa
khác, sự đột kích của Erikson vào văn hóa nhân chủng chỉ cho thấy
những giới hạn vốn có của lý thuyết cơ bản của Freud chủ yếu dựa
hầu như hoàn toàn trên những bệnh nhân rối nhiễu tâm lý ở bước
ngoặt của thế kỷ tại Viên.
"Một số những bài viết hay nhất của Enkson ở trong những
chuyện tâm lý" của ông. Đó là những phân tích về phát triển TLXH
của những người nổi tiếng dựa vào những bài viết lách của họ và
những cuộc nói chuyện với họ. Erikson tin rằng Hitler tượng trưng cho
sự tương hợp của những nhu cầu đặc biệt về bản sắc của một cá
nhân với nhu cầu của một quốc gia về một bản sắc đậm đà hơn.
Trong "chàng trai Luther" (1958), Erikson mô tả một chàng trai bị rối
nhiễu đã thách thức ông bố nghiêm khắc của mình, muốn ông học
luật, nổi loạn chống lại uy quyền của nhà thờ và theo đuổi lòng tin đem
lại cho anh ta một ý thức thành thực về bản sắc. Những "bệnh nhân"
lịch sử khác có Maxim Gorki (1950) có Bernard Shaw (1968). Cuốn
sự thật của Gandhi đạt giải thưởng Politzer và Giải Quốc gia về sách
về Triết học và đạo giáo.
Hinh 3-1: Những quá trình cấp dưới làm cơ sở cho học tập bằng
quan sát theo Bandura (Trích của Albert Bandura. Quỹ tài trợ xã hội
về tư duy và hành động, 1986).
Khái niệm của Bandura về mô hình hóa trừu tượng mô tả ở trên,
là một sự triệt để rời khỏi thuyết học tập cổ điển. Bandura đề xuất là
trẻ em có thể đề ra một nguyên tắc trừu tượng bằng rút ra những yếu
tố thích đáng từ một số thời kỳ đặc biệt của học tập bằng quan sát
sự mô hình hóa trừu tượng là cơ chế chính để giải quyết việc học tập
ngôn ngữ. Khi trẻ quan sát thấy thì qua thường được hình thành bằng
thêm –ed, nó trừu tượng hóa điều đó như một nguyên tắc chung và
như một cách chỉnh chu! “walked” (đã đi) và talk (đã nói) và nói sai:
“hitted” (đã đánh) và dọc “đã làm) (thay vì cho hit và done). Thậm chí
trẻ có thể phát sai nhiều từ phức tạp như: “He was a singaphiared”
(thay vì cho he was disappeared... nó đã biến mất)
Để kết thúc cuộc bàn luận của chúng ta về thuyết của Bandura,
cần nêu lên 2 điểm. Một trọng tâm điểm vào hành vi có thể quan sát
được đã được bổ sung bằng mối quan tâm tới các yếu tố nhận thức
cấu thành làm cơ sở cho học tập bằng quan sát, tuy thế, so với
thuyết của Piaget về nhận thức tư duy vẫn ở gần bề mặt. Các sự kiện
bên ngoài được diễn đạt thành một dạng tượng trưng và được phối
hợp với những sự kiện biểu tượng một cách tượng trưng hoặc được
sử dụng như thông tin để phát triển một nguyên tắc tổng quát hơn.
Tuy nhiên, lý thuyết đó không định rõ một công việc làm lại phức tạp
của thông tin thành những cấu trúc nhận thức rộng rãi thuộc loại được
Piaget mô tả - Hai, một sự thất bại của trẻ trong bắt chước mẫu, là
do một hoặc nhiều hơn trong 4 quá trình cấu thành: quan tâm không
phù hợp đối với các sự kiện thuộc hành vi, mã hóa không phù hợp và
lưu giữ lại không phù hợp các sự kiện, thất bại trong thành tựu bởi vì
bị hạn chế về sức lực hoặc do động cơ yếu. Được đặt ra một cách
khác, các yếu tố nhận thức tác động đến cái được quan sát, đến
cách con người hoặc sự vật được cảm nhận ra sao, đến cách thông
tin mới đó được tổ chức thế nào cho tương lai. học tập bằng quan
sát có hay không một hiệu quả về sau và hiệu quả đó là gì.
Một cách cuối cùng ở đó Bandura xem nhận thức và hành vi
trung gian là cảm nhận của bản thân ảnh hưởng tới giá trị nào mà con
người có thể làm. Ông nhấn mạnh tới “hiệu quả bản thân”: cảm nhận
của một người về sở trường của mình trong tham gia vào môi trường
xung quanh. Bất cứ loại hành vi nào - hàn lâm, xã hội, hoặc giải trí –
đều chịu tác động của hiệu quả bản thân. Trẻ em có thể có những kỹ
năng cần thiết để làm chủ một nhiệm vụ, nhưng nếu chúng không cảm
nhận được bản thân chúng có khả năng sử dụng những kỹ năng đó
để làm chủ được nhiệm vụ thì chúng có thể thất bại hoặc thậm chí có
thể không dám thử. Thí dụ Collins (1982) cho các trẻ làm những bài
toán khó, cho 2 nhóm trẻ khác nhau về trình độ khả năng làm toán và
với hiệu quả bản thân về toán cao hay thấp trong mỗi nhóm. Tuy khả
năng về toán rõ ràng tác động đến thành tựu của chúng, những hiệu
quả có ý nghĩa của hiệu quả bản thân cũng được phát hiện thấy.
Trong mỗi trình độ về khả năng, những trẻ nào cảm thấy chúng giải
được nhiều bài toán có hiệu quả hơn, mau chóng loại bỏ những chiến
lược vô tác dụng, muốn làm lại những bài toán khó giải, nhiều hơn và
có thái độ tích cực hơn đối với toán học. Phản ứng tích cực đó trước
thất bại đối với những trẻ có hiệu quả cao phản ánh sự tham gia vào
thất bại là do thiếu cố gắng. Trái lại những trẻ hiệu quả thấp lạị gán
thất bại của chúng là do khả năng yếu, một sự gán cho như thế không
động viên chúng thử lại.
Công trình về hiệu quả bản thân có hai hàm ý quan trọng đối với
phát triển. Một, theo quan điểm của Bandura, những phê phán có hiệu
quả giúp nhiều nhất cho phát triển là những sự đánh giá quá cao
không đáng kể, bởi vì chúng giúp những trẻ có động cơ thử những
công việc thử thách vừa phải, có thể mài dũa các kỹ năng hiện có.
Hai, có liên quan tới động cơ của trẻ trở thành những người học tự
điều khiển bản thân. Người lớn có thể nâng cao mối quan tâm nội tại
của trẻ thành một hoạt động bằng khen thưởng chúng một cách khôn
ngoan.
Khi khen thưởng được ban cho trẻ do nó đã hoàn thành một
nhiệm vụ trình độ, sở trường nào đó, nó sẽ cảm thấy mình hữu hiệu,
đánh giá tốt hoạt động, và sẽ chọn hoạt động đó trong những dịp sau
này. Những khen thưởng ban phát chỉ để dấn thân vào hoạt động có
được hiệu quả tích cực đó ít hơn. Trên thực tế, chúng thậm chí có
thể phá hủy mối quan tâm nội tại.
Trong quá trình phát triển trẻ dần dần xây dựng cho bản thân
kiến thức về hiệu quả ở vào nhiều tình huống của 4 loại thông tin
chính. Nguồn thông tin đích thực và trực tiếp nhất là thành công hay
thất bại của những cuộc làm thử tương tự trước đó. Nguồn thứ hai là
những kinh nghiệm khác nhau về quan sát những người khác thất bại
hay thành công trong các nhiệm vụ tương tự. Nếu một trẻ nhận thấy
bản thân giống như một mẫu đã thành công hiệu quả bản thân của nó
được đánh giá cao. Thêm vào đó, trẻ có thể đạt được những chiến
thuật đương đầu bằng quan sát những người khác đã thành công.
Nguồn thứ ba là thuyết phục bằng lời: những người khác nói cho trẻ
tin tưởng rằng nó có khả năng hoàn thành mục tiêu của nó. Cuối cùng
thông tin bắt nguồn từ trạng thái sinh lý: tỉnh, lo âu, mệt mỏi và đau
đớn về thể xác.
Đối với tất cả 4 nguồn thông tin, những biến đổi về phát triển
ảnh hưởng tới việc trẻ xử lý thông tin được phù hợp như thế nào.
Việc đạt tới ngôn ngữ, việc mở rộng hiểu biết xã hội, làm tăng thêm
sự biệt hóa của các trạng thái nội tâm và sự phát triển của kỹ năng tự
đánh giá mình, tất cả đều có một vai trò. Một thay đổi phát triển khác
có liên quan là sự đóng góp chính vào hiệu quả bản thân của trẻ trong
khi nhóm đồng đẳng và bối cảnh, nhà trường càng trở nên quan trọng
về sau Bandura lưu ý là trong suốt của cuộc đời, có những biến đổi
trong đó những khía cạnh của hiệu quả bản thân quan trọng nhất. Thí
dụ thời thanh niên và tuổi thiếu niên mang lại những đổi thay mới đối
với quan hệ tình dục khác giới hình thức bề ngoài và sở trường trong
công việc. Ở tuổi trung niên người ta có thể đánh giá lại cuộc đời,
nghi ngờ về hiệu quả liên quan tới thành tựu về sức khoẻ và tìm cách
hoàn thiện hiệu quả trong các lĩnh vực mới. Một cuộc giã từ hoặc
chỉnh trang lại cho một công việc mới có thể là hậu quả. Người già có
thể đối mặt với hiệu quả bản thân bị tổn thất, như một kết quả của
mất trí nhớ, phản ứng chậm chạp và lòng tự trọng bị sa sút bởi không
còn làm một công việc gì nữa. Nếu người già bất an về hiệu quả của
mình và chờ đợi thất bại, họ có thể giới hạn hoạt động và đầu tư ít
sức lực vào bất cứ hoạt động gì. Bandura lý luận rằng những đi
xuống thật sự như kết quả của tuổi tác có thể được bù đắp bằng hiểu
biết thế giới thực và các chiến lược đương đầu đã thu hoạch được
trong cả cuộc đời.
Hiệu quả bản thân liên quan tới quá trình thông tin được vạch ra
trong hình 3-1.
Phương pháp luận
Thuyết học tập truyền thống
Thuyết học tập lấy khoa học tự nhiên làm mẫu. Do đó, phương
pháp nghiên cứu ưu tiên là thử nghiệm, có kiểm tra chặt chẽ, đo
lường ở phòng thí nghiệm, về mặt lịch sử, sự chính xác đó là một
bước quan trọng. Các nhà nghiên cứu đi theo đường lối của William
James: “Tôi muốn bằng xử lý với tâm lý học như một khoa học tự
nhiên, giúp nó trở thành một khoa học” Các thực nghiệm tập trung
vào những thay đổi trong các hành vi đơn giản, có thể quan sát được,
mang lại do một số đặc điểm của những kích thích từ môi trường
xung quanh. Các kích thích và trả lời được mô tả một cách khách
quan và chính xác tới mức thực nghiệm có thể được làm lại ở những
phòng thí nghiệm khác. Học tập được đo bằng số lần thử cần thiết để
giải đáp bài toán hoặc để thiết lập trả lời có điều kiện hoặc bằng sự
trả lời theo từng đơn vị thời gian. Tuy những đòi hỏi đó có mất dần đi
những năm gần đây, các thử nghiệm về học tập vẫn còn rất khắt khe.
Nhu cầu xác định và kiểm tra môi trường của nhà nghiên cứu
dẫn tới phát triển một số dụng cụ và mô hình phù hợp của Skinner,
một cái hộp là chiếc lồng trong đó có một cái đòn bẩy cho con thú ấn
vào làm buông ra một mảnh thức ăn rơi vào chiếc khay ở dưới. Các
trả lời đó được tự động ghi lại vào một máy thu, như vậy thực nghiệm
viên không cần phải có mặt. Dụng cụ đó trở thành phổ biến đến nỗi
công chúng gọi nó là "Hộp Skinner”. Nó đã trở thành trang bị chuẩn
để nghiên cứu điều kiện hóa có hiệu lực trong các phòng thí nghiệm.
Quan tâm của Skinner đối với kiểm tra môi trường xung quanh
còn thấy ở một sáng kiến khác: “một cái khoang cho trẻ bé” (baby
box hay baby Lender) hoàn toàn khép kín, có điều hòa nhiệt độ và
cách âm được thiết kế cho một trong những đứa con của ông.
Nhiều nghiên cứu ở phòng thí nghiệm bao gồm một số lượng đối
tượng trong từng điều kiện thí nghiệm và so sánh các điều kiện bằng
xem đặc điểm của nhóm, như là con số lần thử trung bình cần thiết để
học tập một vấn đề. Tuy nhiên, những nghiên cứu về điều kiện hóa có
hiệu lực đôi khi xem xét những thay đổi trên những đối tượng đơn lẻ
trong suốt cả thời gian.
Một cách, mà các nhà nghiên cứu thường sử dụng để kiểm tra
môi trường của những đối tượng là người, thiết lập những phối hợp
mới hoặc tạo ra những trả lời mới. Trong những thực nghiệm về phối
hợp hai đơn vị lời nói, các nhà nghiên cứu sử dụng những âm tiết vô
nghĩa (thí dụ WIC ở GAF) hơn là những từ như thế nào đó để cho
các phối hợp trước ít có khả năng làm ảnh hưởng đến học tập.
Tương tự như thế nghiên cứu về học tập xã hội, về bắt chước, bằng
cách cho trẻ, trông thấy một người lớn đội một cái mũ lố bịch và đi
quanh, có thể kết luận là bắt chước này phản ánh việc học tập đạt
được trong hoàn cảnh này, đúng hơn là lịch sử học tập trước đây của
trẻ.
Thuyết học tập xã hội hiện đại
Thuyết học tập xã hội giữ lại tinh thần của phương pháp luận
của thuyết học tập truyền thông: chặt chẽ, có những thực nghiệm
kiểm tra tốt tại phòng thí nghiệm để xác định biến cố nào ảnh hưởng
đến học tập. Nội dung đã được mở rộng, bao gồm những hành vi xã
hội, những tăng cường xã hội và những khái niệm trừu tượng như lý
luận đạo đức, những phương pháp thì đã thay đổi chút ít tuy đa số
nghiên cứu với xu hướng học tập xã hội diễn ra ở phòng thí nghiệm,
có một vài công trình nghiên cứu về học tập xã hội ở bối cảnh tự
nhiên.
Ủ Ế
XU HƯỚNG CHUNG CỦA LÝ THUYẾT
CƠ CHẾ PHÁT TRIỂN
LẬP TRƯỜNG VỀ CÁC VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN
ĐÁNH GIÁ VỀ THUYẾT
Chương 5. THUYẾT XỬ LÝ THÔNG TIN
LỊCH SỬ CỦA LÝ THUYẾT
XU HƯỚNG CHUNG CỦA THUYẾT
NHỮNG TIẾP CẬN PHÁT TRIỂN CHÍNH
CƠ CHẾ PHÁT TRIỂN
LẬP TRƯỜNG VỀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN.
TÍNH CHẤT LÝ THUYẾT CỦA THUYẾT
ĐÁNH GIÁ LÝ THUYẾT
Chương 6. THUYẾT TẬP TÍNH HỌC
LỊCH SỬ CỦA THUYẾT
XU HƯỚNG CHUNG CỦA THUYẾT
ĐÓNG GÓP CHO TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN Ở
NGƯỜI
CƠ CHẾ PHÁT TRIỂN
LẬP TRƯỜNG VỀ NHỮNG KẾT QUẢ PHÁT TRIỂN
TÍNH CHẤT LÝ THUYẾT CỦA THUYẾT
ĐÁNH GIÁ THUYẾT
Chương 7. THUYẾT PHÁT TRIỂN TRI GIÁC CỦA
GIBSON
PHÁC HỌA TIỂU SỬ
XU HƯỚNG CHUNG CỦA THUYẾT
XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN
CƠ CHẾ PHÁT TRIỂN
LẬP TRƯỜNG VỀ CÁC VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN
TÍNH CHẤT LÝ THUYẾT CỦA THUYẾT
ĐÁNH GIÁ THUYẾT
Chương 8. SUY NGẪM
CÁC VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN ĐƯỢC XEM LẠI
TIẾN TRIỂN LỊCH SỬ CỦA CÁC THUYẾT PHÁT
TRIỂN
THIẾU SÓT CỦA CÁC THUYẾT
Ủ Ế Ề
GIÁ TRỊ HIỆN NAY CỦA CÁC LÝ THUYẾT VỀ PHÁT
TRIỂN
MỤC LỤC