You are on page 1of 53

ÔN TẬP TRIẾT HỌC MÁC -LÊNIN

Câu 1: Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin và rút ra ý nghĩa phương
pháp luận của định nghĩa này?
1. Các quan niệm trước Mác về vật chất
- Triết học duy vật cổ đại: đồng nhất vật chất với dạng vất chất cụ thể.
VD: Các nhà triết học duy vật như Ta-lét cho rằng vật chất là nước; A-na-xi-
men coi là không khí; Hê-ra-clít coi là lửa. Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa
duy vật thời cổ đại trong học thuyết về vật chất là thuyết nguyên tử của Lơ-xíp
và học trò của ông là Đê-mô-crít.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình cận đại thế kỷ XVII-XVIII: đồng nhất vật chất
với dạng vật chất cụ thể và tính chất của chúng.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các phát minh của vật lý học đã bác bỏ quan
niệm đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của vật chất hoặc với thuộc tính
của vật chất của các nhà triết học duy vật cổ đại và cận đại. Phạm trù vật chất
được V.I.Lênin nêu định nghĩa “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để
chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác”
2. Những nội dung cơ bản của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
- Vật chất là “phạm trù triết học” do vậy vừa có tính trừu tượng vừa có tính
cụ thể.
+ Tính trừu tượng của vật chất dùng để chỉ đặc tính chung, bản chất nhất của
vật chất - đó là đặc tính tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và
đây cũng là tiêu chí duy nhất để phân biệt cái gì là vật chất và cái gì không phải
là vật chất.
VD: Nhà nước phong kiến có bản chất là giai cấp địa chủ phong kiến chống lại
nông dân và những người lao động khác nhằm củng cố, bảo vệ sự thống trị về
mọi mặt của địa chủ.
+ Tính cụ thể của vật chất thể hiện ở chỗ chỉ có thể nhận biết được vật chất
bằng các giác quan của con người; chỉ có thể nhận thức được vật chất thông
qua việc nghiên cứu các sự vật,hiện tượng vật chất cụ thể.
VD: Tính nóng của nước sôi được cảm nhận thông qua xúc giác, qua nghiên
cứu biết được rằng nước sôi nóng 100 độ C
- Vật chất là “thực tại khách quan” có đặc tính cơ bản (cũng là đặc trưng cơ
bản) là tồn tại không phụ thuộc vào ý thức. Dù con người có nhận thức được
hay chưa nhận thức được nó nó vẫn tồn tại.
VD: Thủy triều là hiện tượng nước biển, nước sông... lên xuống trong một chu
kỳ thời gian phụ thuộc vào biến chuyển thiên văn, là đặc tính cơ bản của sông
nước. Nó tồn tại một cách tự nhiên, không phụ thuộc vào nhận thức của con
người.
- Vật chất có tính khách thể - con người có thể nhận biết vật chất bằng các
giác quan.
VD: Sự tăng trưởng về cân nặng, kích thước của đàn lợn sau một thời gian nuôi
dưỡng có thể được người chủ nhận biết bằng thị giác, xúc giác,…
- Ý thức là sự “chép lại, chụp lại, phản ánh lại” thực tại khách quan. Bằng các
giác quan của mình, con người có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhận biết được
thực tại khách quan; chỉ có những sự vật, hiện tượng của thực tại khách quan
chưa được nhận biết chứ không thể không biết.
VD: Kiến thức của nhân loại là kết quả của quá trình con người tiếp xúc và
nghiên cứu thế giới khách quan. Mọi khía cạnh về thế giới được con người cảm
nhận và ghi chép lại.

1 là) được suy ra từ nội dung trên để xác định mối quan hệ biện chứng giữa
thực tại khách quan (vật chất) với cảm giác (ý thức). Vật chất (cái thứ nhất)
là cái có trước, tồn tại độc lập với ý thức và quy định ý thức. Ý thức (cái thứ
hai) là cái có sau vật chất, phụ thuộc vào vật chất. Như vậy, vật chất là nội
dung, là nguồn gốc khách quan của ý thức, là nguyên nhân làm cho ý thức phát
sinh. Tuy nhiên, ý thức tồn tại độc lập tương đối so với vật chất và có tác động,
thậm chí chuyển thành sức mạnh vật chất khi nó thâm nhập vào quần chúng và
được quần chúng vận dụng.
VD: Trước thời kì Đổi mới, do những ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh (đàn
ông ra trận và hi sinh nhiều, ở hậu phương chỉ còn đàn bà và người già) thì
kinh tế không thể phát triển. Vì thếm, nếu đường lối chủ trương chính sách lúc
đó mà không phù hợp với thực tế thì kinh tế (vật chất) cũng không thể đi lên.
3. Ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận của định nghĩa vật chất của
V.I.
Lênin đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn
- Định nghĩa đưa lại thế giới quan duy vật biện chứng khi giải quyết vấn đề cơ
bản của triết học. Thứ nhất, định nghĩa khẳng định vật chất có trước, ý thức có
sau; vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, của ý thức (khắc phục
được quan điểm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cổ và cận đại). Thứ hai, định
nghĩa khẳng định ý thức con người có khả năng nhận thức được thế giới vật
chất (chống lại thuyết không thể biết và hoài nghi luận). Thế giới quan duy vật
biện chứng xác định được vật chất và mối quan hệ của nó với ý thức trong lĩnh
vực xã hội: đó là tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội, kinh tế quy định chính
trị v.v…; tạo cơ sở lý luận cho các nhà khoa học tự nhiên.
VD: Nước nào có kinh tế phát triển hơn thì chính trị của nước đó mạnh hơn,
nước đó có tầm ảnh hưởng đến các quốc gia khác và trong khu vực sâu sắc
hơn. (Mỹ can thiệp vào các vấn đề trên Biển Đông của Việt Nam và Trung
Quốc và có tầm ảnh hưởng)
- Định nghĩa đưa lại phương pháp luận biện chứng duy vật của mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất với ý thức. Theo đó, vật chất có trước ý thức, là
nguồn gốc và quy định ý thức nên trong mọi hoạt động cần xuất phát từ hiện
thực khách quan, tôn trọng các quy luật vốn có của sự vật, hiện tượng; đồng
thời cần thấy được tính năng động, tích cực của ý thức để phát huy tính năng
động chủ quan nhưng tránh chủ quan duy ý chí mà biểu hiện là tuyệt đối hoá
vai trò, tác dụng của ý thức, cho rằng con người có thể làm được tất cả mà
không cần đến sự tác động của các quy luật khách quan, các điều kiện vật chất
cần thiết.
VD: Khi khởi nghiệp mở một công ty, vốn và năng lực từ người đứng ra mở
công ty thôi là chưa đủ, cần xét đến các yếu tố khác lúc đó như xu hướng thị
trường, thời cơ, nhu cầu, khu vực… Nếu đáp ứng đúng cái thị trường đang
thiếu thì cơ hội phát triển là rất mạnh. Ngược lại, nếu công ty cho ra những sản
phẩm đang phổ biến, thậm chí là dư thừa thì nguy cơ phá sản là rất cao.

Câu 2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về vận động và rút ra ý nghĩa
của nó đối với sự phát triển của khoa học?
1. Định nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất – thì
bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ
sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”
Theo quan niệm của Ăng-ghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị
trí trong không gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ
trụ”, vận động “là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố
hữu của vật chất” nên thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu
hiện sự tồn tại cụ thể của mình; vận động của vật chất là tự thân vận động; và
sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vật chất.
VD: Sự di chuyển từ nơi này sang nơi khác, tăng chiều cao, sự tăng trưởng về
kinh tế, sự giảm sút trong học tập, giảm cân,…
2. Phân tích 5 hình thức cơ bản của vận động và cho ví dụ. Chỉ ra mối liên
hệ biện chứng giữa 5 hình thức vận động:
a) Vận động cơ học: sự dịch chuyển trong không gian của các vật thể. VD: di
chuyển
b) Vận động vật lý: vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, quá trình
nhiệt, điện,... VD: thanh sắt nóng sinh ra nhiệt.
c) Vận động hóa học: sự biến đổi các chất hữu cơ, vô cơ trong quá trình hóa
hợp và phân giải. VD: quá trình tạo ra nước (2H2 + O2 → 2H2O)
d) Vận động sinh học: sự biến đổi của các cơ thể sống, biến thái cấu trúc gen,
v.v…
VD: sự hít thở, quang hợp, quá trình trao đổi chất.
e) Vận động xã hội: sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,
v.v…của đời sống xã hội. VD: xã hội loài người đi từ mông muội đến văn
minh nhưng chưa có giai cấp, sau đó xuất hiện giai cấp nhưng chưa có nhà
nước, cuối cùng là hình thành nhà nước.
Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao
tương ứng với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau
về chất song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với
nhau, trong đó: hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận
động thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự
tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động
khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng được đặc trưng bởi hình thức vận
động cao nhất mà nó có.
3. Làm rõ đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động. Cho ví dụ
minh họa.
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố
hữu của vật chất; chủ nghĩa duy vật biện chứng cũ đã khẳng định vận động là
vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự
đứng im, cân bằng; song đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm
thời và thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận
động.
- Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ
nhất định chứ không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy
ra trong một hình thức vận động chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức
vận động.
- Đứng im là tam thời vì đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn
tại trong một thời gian nhất định, chỉ xét trong một hay một số quan hệ nhất
định, ngay trong sự đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định.
- Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân
bằng, ổn định; vận động chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí, hình
dáng, kết cấu của sự vật.
VD: Thời bao cấp, nền kinh tế trì trệ, không phát triển, được coi như là đứng
im. Nhưng chỉ là đứng im trong hình thức vận động xã hội, trong mối quan hệ
của nền kinh tế tư nhân hay tiền tệ, chứng khoán, thị trường,… Sự đứng im của
kinh tế chỉ diễn ra trong một thời kì nhất định (1976 - 1986) tuy nhiên trong
thời kì này, nội bộ nền kinh tế vẫn có những sự biến đổi: nông nghiệp giảm
nhẹ, công nghiệp và thương nghiệp có tiến triển,.. Sự tăng lên của mặt này bù
khuyết vào sự giảm đi của mặt kia khiến nền kinh tế không có sự tăng trưởng,
chưa thấy sự thay đổi nhiều.
4. Ý nghĩa của nó đối với sự phát triển của khoa học:
Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ăngghen đã đặt cơ sở cho
việc phân loại, phân ngành, hợp ngành khoa học. Tư tưởng về sự thống nhất
nhưng khác nhau về chất của các hình thức vận động cơ bản còn là cơ sở để
chống lại khuynh hướng đánh đồng các hình thức vận động hoặc quy hình thức
vận động này vào hình thức vận động khác trong quá trình nhận thức.
VD: Dựa trên sự vận động của các sự vật hiện tượng, chúng ta có các ngành
khoa học: Hóa học, Vật lí học, Sinh học,…
Câu 3: Phân tích quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn
gốc của ý thức và rút ra ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này?
Ý thức là gì? Triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định, ý thức là một
phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh thế giới
vật chất diễn ra trong não người, hình thành trong quá trình lao động và được
diễn đạt nhờ ngôn ngữ.
a. Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức (yếu tố cần)
1) Não người là sản phẩm quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất, từ vô
cơ tới hữu cơ, chất sống (thực vật và động vật) rồi đến con người - sinh vật - xã
hội. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động của thần kinh
não bộ; bộ não càng hoàn thiện hoạt động thần kinh càng hiệu quả, ý thức của
con người càng phong phú và sâu sắc.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới
bên ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức.
VD: Khi mới xuất hiện loài người, con người chưa có ý thức sâu sắc vì chưa có
kiến thức về thế giới tự nhiên. Trải qua các quá trình từ thời nguyên thủy đến
nay, con người dần phát triển nhờ việc quan sát tự nhiên, trong quá trình ấy,
não người hoàn thiện dần, ghi lại những kiến thức, kinh nghiệm, làm cho ý
thức con người phong phú, văn minh. Từ đó, con người làm chủ được thiên
nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ mình.
2) Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng VC này ở dạng VC khác
trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau. Phản ánh là thuộc tính chung, phổ
biến của mọi đối tượng vật chất. Phản ánh của vật chất có quá trình phát triển
lâu dài và từ hình thức thấp lên hình thức cao, tùy thuộc vào kết cấu của tổ
chức vật chất.
VD: Sự phản ánh của quá trình nỗ lực nghiên cứu, học tập chăm chỉ là kết quả
cao trong các kì thi
Các hình thức phản ánh. a) Phản ánh của giới vô cơ (gồm phản ánh vật lý
(nước đông đá) và phản ánh hoá học (hình thành hố vôi) ) là những phản ánh
thụ động, không định hướng và không lựa chọn. b) Phản ánh của thực vật là
tính kích thích (cây cối vươn ra ánh sáng) c) Phản ánh của động vật đã có
định hướng, lựa chọn để nhờ đó mà động vật thích nghi với môi trường sống
(ngủ đông, di cư). Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động
lên bộ óc - đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Nguồn gốc xã hội của ý thức (yếu tố đủ)
1) Lao động là hoạt động có mục đích, có tính lịch sử - xã hội của con người
nhằm tạo ra của cải để tồn tại và phát triển. Lao động làm cho ý thức không
ngừng phát triển (bằng cách tích lũy kinh nghiệm), tạo cơ sở cho con người
nhận thức những tính chất mới (được suy ra từ những kinh nghiệm đã có) của
giới tự nhiên; dẫn đến năng lực tư duy trừu tượng, khả năng phán đoán, suy
luận dần được hình thành và phát triển.
VD: Kinh nghiệm trồng trọt: Khoai đất lạ, mạ đất quen; kinh nghiệm về thiên
nhiên: Ráng mỡ gà có nhà thì giữ, Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng/Ngày
tháng mười chưa cười đã tối.
2) Ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết). Trong quá trình lao động con người liên kết
với nhau, tạo thành các mối quan hệ xã hội tất yếu, dẫn đến nhu cầu cần thiết
“phải trao đổi với nhau điều gì đấy” nên ngôn ngữ xuất hiện. Ngôn ngữ trở
thành “cái vỏ vật chất của ý thức”. Nhờ ngôn ngữ, con người khái quát hoá,
trừu tượng hoá những kinh nghiệm để truyền lại cho nhau.
Ngôn ngữ là sản phẩm của lao động, lại thúc đẩy lao động phát triển.
VD: Ghi lại các giai đoạn, diễn biến lịch sử thông qua các tư liệu, câu chuyện
lịch sử,…
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội.

Câu 4. Bản chất của ý thức


Bản chất của ý thức thể hiện ở sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách
quan vào bộ não người; là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan bởi hình ảnh ấy tuy bị thế
giới khách quan quy định cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện; nhưng thế giới
ấy không còn y nguyên như nó vốn có, mà đã bị cái chủ quan của con người
cải biến thông qua tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, nhu cầu v.v… Có thể nói, ý
thức phản ánh hiện thực, còn ngôn ngữ thì diễn đạt hiện thực và nói lên tư
tưởng. Các tư tưởng đó được tín hiệu hoá trong một dạng cụ thể của vật chất -
là ngôn ngữ- cái mà con người có thể cảm giác được. Không có ngôn ngữ thì ý
thức không thể hình thành và tồn tại được. VD: Mọi lí thuyết chỉ là màu xám,
chỉ có cây đời là mãi mãi xanh tươi.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, thể hiện ở chỗ, ý thức phản ánh thế
giới có chọn lọc - tùy thuộc vào mục đích của chủ thể nhận thức. Sự phản ánh
đó nhằm nắm bắt bản chất, quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng; khả năng vượt trước (dự báo) của ý thức tạo nên sự lường trước những
tình huống sẽ gây tác động tốt, xấu lên kết quả của hoạt động mà con người
đang hướng tới. Có dự báo đó, con người điều chỉnh chương trình của mình
sao cho phù hợp với dự kiến xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng (dự
báo thời tiết, khí hậu…); xây dựng các mô hình lý tưởng, đề ra phương pháp
thực hiện phù hợp nhằm đạt kết quả tối ưu. Như vậy, ý thức không chỉ phản
ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan
VD: Con người sử dụng máy móc thay cho sức kéo, thể hiện sự năng động
trong việc đáp ứng những nhu cầu thực tiễn, hay những nhà tiên tri dự báo
trước về tương lai thể hiện sự sáng tạo.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại
của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn; chịu sự chi phối của các quy luật
sinh học và các quy luật xã hội; do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện
sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động của mình, ý thức
sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của bản thân và thực tiễn xã hội. Ở các thời
đại khác nhau, thậm chí ở cùng một thời đại, sự phản ánh (ý thức) về cùng một
sự vật, hiện tượng có sự khác nhau - theo các điều kiện vật chất và tinh thần mà
chủ thể nhận thức phụ thuộc.
VD: Ý thức pháp luật nảy sinh từ việc giải quyết các hiện tượng xã hội, gìn giữ
xã hội phát triển. Mỗi thời đại, pháp luật lại có những quy định khác nhau, thể
hiện sự phát triển của xã hội (Thời kì bao cấp: tem phiếu, sau Đổi mới: tự do
buôn bán)
Quá trình ý thức gồm các giai đoạn:
1) Trao đổi thông tin hai chiều giữa chủ thể với khách thể phản ánh; định
hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết.
2) Mô hình hoá đối tượng trong tư duy ở dạng hình ảnh tinh thần, tức là sáng
tạo lại khách thể phản ánh theo cách mã hoá sự vật, hiện tượng vật chất thành ý
tưởng tinh thần phi vật chất.
3) Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực, tức là quá trình hiện thực hoá tư
tưởng.
Con người lựa chọn phương pháp, công cụ tác động vào hiện thực khách quan
để thực hiện mục đích.
VD: Giải 1 bài toán: đọc đề, nắm lấy số liệu cần thiết và yêu cầu đề bài -> suy
nghĩ cách làm, hình dung đề bài theo ý hiểu của mình -> tiến hành giải bài
toán, biến suy nghĩ thành kết quả.

Câu 5. Kết cấu của ý thức:


- Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình
nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng
các loại ngôn ngữ.
Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi
biểu hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức
tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển. Theo Mác: “phương thức
mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri
thức”.
Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại như tri
thức về tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức nhân văn. Căn cứ vào trình độ phát
triển của nhận thức, tri thức có thể chia thành tri thức đời thường và tri thức
khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức
lý tính,…
VD: Các kiến thức về tự nhiên: các loài động vật, thực vật, các hiện tượng tự
nhiên,…
Các kiến thức về xã hội: thể chế chính trị, giai cấp,…
Các kiến thức về nhân văn: sự sẻ chia, thương người như thể thương thân,…
- Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ.
Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành
từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của
ngoại cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của
con người; là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động
nhận thức và thực tiễn. Lênin cho rằng: không có tình cảm thì “xưa nay không
có và không thể có sự tìm tòi chân lý”; không có tình cảm thì không có một
yếu tố thôi thúc những người vô sản và nửa vô sản, những công nhân và nông
dân nghèo đi theo cách mạng.
Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng
đó trong các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như tình
cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,…
VD: lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết một lòng giúp nhân dân và
quân đội Việt Nam chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.
- Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở
trong quá trình thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng
động của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự
giác được mục đích của hoạt động nên tự đấu tranh với mình để thực hiện đến
cùng mục đích đã lựa chọn. có thể coi ý chí là quyền lực của con người đối với
mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích một
cách tự giác; cho phép con người tự kìm chế, tự làm chủ bản thân
và quyết đoán trong hành động theo quan điểm và niềm tin của mình. Giá trị
chân chính của ý chí không chỉ thể hiện ở cường độ mạnh hay yếu mà chủ yếu
thể hiện ở nội dung, ý nghĩa của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng:
ý chí là một trong những yếu tố tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu
người trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải
phóng nhân loại.
VD: Dù gặp vô vàn thiếu thốn, khó khăn về vật chất trong suốt giai đoạn kháng
chiến nhưng ý chí chiến đấu và chiến thắng đã thôi thúc quân và dân ta vượt
qua trở ngại, tiến đến thắng lợi.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri
thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là
nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của
các yếu tố khác.
d. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Phải khách quan trong nhận thức và hành động; nhận thức và hành động phải
xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Không
xuất phát từ ý muốn chủ quan, lấy ý muốn chủ quan làm cơ sở định ra chính
sách, lấy ý chí áp đặt cho thực tế.
VD: Khi chỉnh sửa và ban hành các bộ luật, chính sách pháp luật phải dựa trên
hiện thực cuộc sống theo thời đại. Sau chiến tranh, cuộc sống còn nhiều khó
khăn, thiệt hại về người và của vô cùng lớn nên chưa thể bắt người dân xây
dựng kinh tế mà phải làm lành các vết thương chiến tranh cả về vật chất lần
tinh thần cho nhân dân trước.
- Phát huy tính năng động chủ quan, sáng tạo của ý thức, phát huy nhân tố con
người: giáo dục nâng cao trình độ tri thức khoa học cho nhân dân, cán bộ, đảng
viên; bồi dưỡng nhiệt tình cách mạng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ,
đảng viên; vận dụng đúng đắn các quan hệ lợi ích, động cơ trong sáng, thái độ
khách quan khoa học không vụ lợi; chống thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ. VD:
Muốn thay đổi tình hình giao thông, phải xuất phát từ ý thức người dân nên
việc tuyên truyền và nâng cao dân trí về tham gia giao thông là cần thiết.
- Khắc phục, ngăn chặn bệnh chủ quan, duy ý chí: khuynh hướng tuyệt đối hoá
của nhân tố chủ quan, của ý chí, xa rời hiện thực, bất chấp quy luật khách quan,
lấy nhiệt tình thay cho sự yếu kém của tri thức; bệnh chủ quan duy ý chí là lối
suy nghĩ hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan; định
ra chủ trương chính sách xa rời hiện thực khách quan; phải đổi mới tư duy lý
luận, nâng cao năng lực trí tuệ của toàn Đảng.
Đại hội VII Đảng ta khảng định: Mọi đường lối của Đảng phải xuất phát từ
thực tế, tôn trọng và hành động đúng theo quy luật khách quan.

Câu 6. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức?


1. Định nghĩa vật chất? Ý thức là gì? Cho ví dụ?
2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:
- Xuất phát từ quan điểm cho rằng vật chất có trước quyết định ý thức, ý
thức, tinh thần là cái có sau, cái phụ thuộc vật chất. Vì vậy, toàn bộ hoạt động
tinh thần của con người xét cho cùng đều là sự phản ánh hiện thực khách quan
vao trong bộ não người và bị quy định bởi hoạt động thực tiễn của xã hội.
Ví dụ: nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của các học thuyết chính trị,
pháp quyền, đạo đức nào đó, thì chúng ta phải căn cứ vào những điều kiện kinh
tế - xã hội tương ứng của nó trên cơ sở quan điểm lịch sử cụ thể. Có thực mới
vực được đạo, Phú quý sinh lễ nghĩa
- Mọi sự biến đổi của nhân tố vật chất tất yếu dẫn đến sự thay đổi của ý thức,
của nhân tố tinh thần. Trong hoạt động tinh thần của con người nói chung, kể
cả ý thức cá nhân hay ý thức xã hội hoặc đường lối chủ trương chính sách của
một nhà nước hay sự phát triển của khoa học cũng dựa trên cơ sở hiện thực
khách quan, thì mới có thể làm cho khả năng khách quan trở thành hiện thực.
Điều đó, cũng sẽ đúng nếu như chúng ta cho rằng đường lối phát triển kinh
tế - xã hội của một chính đảng, một nhà nước đều phụ thuộc vào điều kiện
khách quan nhất định.
VD: Nhu cầu phục vụ cuộc sống khiến công nghệ khoa học phát triển: máy hơi
nước ra đời thay thế sức kéo khi con người không muốn phải xách nước xa và
nặng, điện thoại di động ra đời thay thế thư từ truyền thống khi nhu cầu liên lạc
của con người tăng lên,…
- Tự thân nó, ý thức tư tưởng của con người không thể thực hiện được sự biến
đổi nào trong hiện thực, nếu nó không thông qua các nhân tố vật chất. C.Mác
từng nhấn mạnh rằng: chỉ có lực lượng vật chất đánh bại bởi một lực lượng vật
chất. Vì vậy, mọi sự biến đổi của đời sống xã hội, xét cho cùng đều phụ thuộc
vật chất, nhân tố vật chất.
VD: Điều kiện sống thay đổi thì ý thức thay đổi: Ngày xưa người con gái phải
tam tòng tứ đức, công dung ngôn hạnh, xã hội trọng nam khinh nữ, ngày nay
giữa nam và nữ đã có sự bình đẳng.
Tính độc lập tương đối của ý thức:
- Xuất phát từ quan điểm cho rằng ý thức là tính thứ hai phụ thuộc vào vật
chất và con người có khả năng nhận thức được hiện thực khách quan. Sự phản
ánh của ý thức về hiện thực khách quan, không phải là sự phản ánh thụ động,
đơn giản mà nó có tính năng động và sáng tạo. Vì vậy, ý thức, nhân tố tinh thần
có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mục đích, phương pháp hoạt động
nói chung của con người. VD: Trong các cuộc kháng chiến chống
giặc ngoại xâm, luôn có những bài thơ, bài hát khích lệ, cổ vũ tinh thần chiến
đấu cho nhân dân, củng cố niềm tin chiến thắng để nhân dân vững lòng chiến
đấu. Đó chính là một trong những nhân tố tạo nên chiến thắng.
- Trong các nhân tố tinh thần, sự phát triển của khoa học có tính vượt trước
tồn tại xã hội, khẳng định vai trò của khoa học đối với sự phát triển của xã hội.
Theo C.Mác: một khi lý luận xâm nhập vào hoạt động của quần chúng sẽ trở
thành lực lượng vật chất trực tiếp. Về vấn đề này, V.I.Lênin cũng đã nhấn
mạnh: không có lý luận cách mạng sẽ không có phong trào cách mạng . VD:
Tất cả các vị tướng, những người cầm đầu, nhà lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa
đều có cơ sở và lí luận cách mạng trước khi làm cách mạng hay mở ra cuộc
khởi nghĩa mới: bác Hồ tìm hiểu về Cách mạng Nga và các nước châu Âu.
- Trong những điều kiện khách quan nhất định, ý thức của con người có thể giữ
vai trò quyết định đến kết quả của hoạt động thực tiễn. Điều này có nghĩa là ý
thức, tư tưởng của con người với sự nhận biết đúng đắn và ý chí của mình, con
nguời có thể phát huy được năng lực tối ưu của các nhân tố vật chất và nhân tố
tinh thần trong những điều kiện khách quan nhất định để đạt được kết quả cao
nhất trong hoạt động thực tiễn. VD: Hẳn trong chúng ta cũng thường đặt ra
những câu hỏi là tại sao trong những điều kiện khách quan nhất định nào đó mà
ranh giới giữa cái chết và cái sống… có những con người có thể vượt lên chính
mình bằng sức mạnh của lý trí, của niềm tin với nghị lực và bản lĩnh để làm
một việc gì đó mà mọi người cho là không tưởng, nhưng lại thành công. Nhưng
xét về quá trình lâu dài thì nhân tố vật chất bao gìơ cũng giữ vai trò quyết định
đối với nhân tố tinh thần.
- Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ có ý thức con người nhận thức
được quy luật vận động, phát triển của thế giới khách quan.
Ý thức tác động lại vật chất theo hai chiều hướng:
+ Tích cực: ý thức có thể trở thành động lực phát triển của vật chất. VD: Tư
tưởng khoán 10 của Bí thư Nguyên Ngọc tỉnh Vĩnh Phú, thơ văn thời kháng
chiến chống Pháp-Mĩ,...
+ Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật
chất khi ý thức phản ánh sai, phản ánh xuyên tạc các quy luật vận động khách
quan của vật chất. VD:Tư tưởng trọng nam khinh nữ, Hợp tác xã trước 1986
của Đảng,...

Câu 7. Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ thực tiễn hiện nay ở Việt
Nam
- Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức phải bảo đảm nguyên tắc tính khách
quan trong sự xem xét. Đây là nguyên tắc cơ bản của phương pháp nhận thức
biện chứng duy vật. Nguyên tắc này đòi hỏi xem xét các sự vật, hiện tượng
không xuất phát từ ý muốn chủ quan, mà phải xuất phát từ đối tượng trên cơ sở
hiện thực khách quan vốn có để phản ánh đúng đắn và xây dựng mô hình lý
luận phù hợp với đối tượng. Nguyên tắc tính khách quan của sự xem xét là hệ
quả tất yếu của quan điểm duy vật mácxít, khi giải quyết mối quan hệ giữa vật
chất - ý thức, giữa khách quan - chủ quan.
Thứ hai, phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức phát huy nhân tố con
người. Nguyên tác tính khách quan không những không bài trừ, mà trái lại còn
đòi hỏi phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức. Tính năng động và
sáng tạo của ý thức được thể hiện ngay từ khi con người xác định đối tượng,
mục tiêu, phương hướng hoạt động cũng như việc lựa chọn cách thức, phương
pháp thực hiện mục tiêu.
Thứ ba, trong hoạt động thực tiễn phải giải quyết đúng đắn giữa nhân tố khách
quan và nhân tố chủ quan. Bởi vì, nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức trong hoạt động thực tiễn, xét cho cùng là giải quyết mối quan hệ biện
chứng giữa đời sống vật chất, nhân tố vật chất và đời sống tinh thần, nhân tố
tinh thần. Trong mối quan hệ biện chứng đó đời sống vật chất, nhân tố vật chất
giữ vai trò quyết định; ngược lại đời sống tinh thần , nhân tố tinh thần vừa có
tính năng động và sáng tạo

- Liên hệ thực thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.


Từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và từ kinh nghiệm thành công, thất bại
trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học
quan trọng là: “Mọi chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng
qui luật hiện thực khách quan”.
Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và hành động phải xuất phát
từ bản thân sự vật, từ hiện thực khách quan, phản ánh sự vật đúng với những gì
vốn có của nó, không lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không
lấy ý chí chủ quan áp đặt cho thực tế, phải tôn trọng sự thật, tránh thái độ chủ
quan nóng vội, phiến diện, định kiến… Yêu cầu của nguyên tác tính khách
quan còn đòi hỏi phải tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Đảng chủ trương: “Huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài
nước, đặc biệt là nguồn lực của dân vào công cuộc phát triển đất nước”. Đó là
chính sách chiến lược về con người, về phát triển giáo dục và đào tạo...
Vì vậy, phải “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất
nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước
mạnh xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.

Câu 8. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến


a. Khái niệm mối liên hệ; mối liên hệ phổ biến
Mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau
giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, một hiện tượng
trong thế giới.
VD: Trồng cây xanh thì con người có không khí sạch để thở. MLH phổ biến là
một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật và
hiện tượng của thế giới. VD: Trong tư duy con người có những mối liên hệ
giữa kiến thức cũ và kiến thức mới; cây tơ hồng, cây tầm gửi sống nhờ; nếu
chung mục đích thì phải chung tay với nhau.
b. Tính chất của các mối liên hệ phổ biến
Tính khách quan. Các mối liên hệ thể hiện mình trong sự tác động giữa các sự
vật, hiện tượng vật chất với nhau, giữa sự vật, hiện tượng với cái tinh thần,
giữa những hiện tượng tinh thần với nhau, như mối liên hệ và tác động giữa
các hình thức của quá trình nhận thức. Các mối liên hệ, tác động đó đều là sự
phản ánh mối liên hệ lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách
quan. VD: Mối liên hệ cây xanh – cơ thể sống con người, “Oan gia ngõ hẹp”
Tính phổ biến. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau không
những diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư
duy, mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật,
hiện tượng. VD: gói hút ẩm trong các gói bánh có MLH với môi trường bên
ngoài; hiện tượng hô hấp của loài ếch trên cạn và dưới nước.
Tính đa dạng, phong phú. Có rất nhiều kiểu MLH. Nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến khái quát được toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt
giữa các sự vật, hiện tượng của nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan; tính
có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong
mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng nhiều mối liên hệ có hình thức, vai
trò khác nhau. VD: Cô A vừa là mẹ trong MLH gia đình, là giáo
viên trong MLH công việc, là người cùng câu lạc bộ trong MLH xã hội,...

Câu 9. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí mỗi liên hệ phổ biến
Nguyên tắc toàn diện yêu cầu xem xét sự vật hiện tượng:
1) trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các
thuộc
tính cùng các mối liên hệ của chúng.
2) trong mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác và
với môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián
tiếp.
3) trong không gian, thời gian nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận
động của sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai
của nó.
Nguyên tắc toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này mà
không thấy các mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn lan,
dàn đều, không thấy mặt bản chất của sự vật, hiện tượng rơi vào thuật nguỵ
biện (cố ý đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành không cơ bản hoặc ngược lại)
và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ trái ngược
nhau vào một mối liên hệ phổ biến).
VD: Để đánh giá phẩm chất năng lực của một con người ta cần xem xét người
đó trong mọi MQH khác nhau, trong các hoàn cảnh tình huống khác nhau,
trong sự thay đổi của cả một quá trình. Công dân A từng đi tù vì trộm cắp tài
sản, mọi người cho là người không đàng hoàng, có nhiều chỉ trích định kiến về
A nhưng sau khi ra tù, A đã thay đổi, ta cần có cái nhìn khác. A biết yêu
thương gia đình, tử tế giúp đỡ mọi người xung quanh, làm ăn lương
thiện,...
Nguyên tắc lịch sử-cụ thể yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong những mối
liên hệ cụ thể, có tính đến lịch sử hình thành, tồn tại, dự báo xu hướng phát
triển của sự vật hiện tượng. Cơ sở lý luận của nguyên tắc này là không gian,
thời gian với vận động của vật chất, là quan niệm chân lý là cụ thể và chính
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
VD: Khi TGGT, đèn đỏ phải dừng lại nhưng khi đi cấp cứu, CSGT phải cho ta
đi; kinh tế nước ta thời kì trước Đổi mới là lạc hậu, yếu kém nhưng đặt trong
hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ: vừa bước ra khỏi chiến tranh, thiệt hại về người
và của thì phương thức kinh tế ấy là hợp lí, chưa thể ép người dân làm kinh tế
chủ nghĩa hay kinh tế tư bản,..

Câu 10. Nguyên lý về sự phát triển


a. Khái niệm phát triển
Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thống nhất
hữu cơ với nguyên lý về sự phát triển, bởi liên hệ cũng là vận động, không có
vận động sẽ không có sự phát triển nào. Phát triển xuất hiện trong quá trình
giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống
nhất giữa phủ định những yếu tố không còn phù hợp và kế thừa có chọn lọc,
cải tạo cho phù hợp của sự vật, hiện tượng cũ trong sự vật, hiện tượng mới.
Khái niệm PT: quá trình vận động tiến lên của sự vật hiện tượng theo chiều từ
thấp đến cao từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
VD: Sự phát triển của nhận thức do quá trình đấu tranh giữa cái đã biết và cái
chưa biết của con người về TGKQ.
Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ
mất đi, sự vật, hiện tượng mới về chất ra đời. Nguồn gốc của sự phát triển nằm
ở mâu thuẫn bên trong của sự vật, hiện tượng; động lực của sự phát triển là
việc giải quyết mâu thuẫn đó.
b. Tính chất của sự phát triển.
1) Tính khách quan. Nguồn gốc và động lực của sự phát triển nằm trong bản
thân sự vật, hiện tượng. VD: Sự phát triển của xã hội loài người: Công xã
nguyên thủy -> Chiếm hữu nô lệ -> Phong kiến -> Tư bản -> Xã hội chủ nghĩa
=> Xã hội đi lên dần dần, con người không thể quay về được dù có muốn hay
không.
2) Tính phổ biến. Sự phát triển diễn ra trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
VD: Tự nhiên: sự thích nghi của động vật dưới nước khi tự nhiên thay đổi.
Xã hội: sự thay thế của các nền văn minh: VMNN -> VNCN -> VM tri thức.
Tư duy: năng lực nhận thức của con người về TGTN ngày càng sâu sắc.
3) Tính kế thừa. Cái mới ra đời từ sự phủ định có tính kế thừa cái cũ; cái mới
còn giữ lại, có chọn lọc và cải tạo những mặt còn thích hợp của cái cũ.
VD: Nền văn hóa VN hiện đại có sự thay đổi từng ngày, du nhập thêm những
nét văn hóa mới (haloween, valentine, noel,... ) nhưng vẫn gìn giữ nét văn hóa
truyền thống (ca trù, quan họ, tục ăn trầu,... )
4) Tính đa dạng, phong phú. Sự phát triển còn phụ thuộc vào không gian và
thời gian, vào các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó.
VD: Cách mạng VN những năm 1930 – 1975 có bước tiến nhưng 1933 – 1935
thì đi xuống. Tuy nhiên tất cả đều dẫn đến thành công

Câu 11. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí về sự phát triển với hoạt
động nhận thức và thực tiễn
(Thực tiễn) Nguyên tắc phát triển yêu cầu:
1) Đặt sự vật, hiện tượng trong sự vận động; phát hiện được các xu hướng biến
đổi, phát triển của nó để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng ở trạng thái
hiện tại, mà còn dự báo được khuynh hướng phát triển của nó. VD: Dự báo
thời tiết, dự báo giá vàng,...
2) Nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn
phát triển có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm ra
những hình thức, phương pháp tác động phù hợp để hoặc thúc đẩy, hoặc kìm
hãm sự phát triển đó.
VD: Việt Nam luôn kịp thời đưa ra những chính sách phát triển khác nhau ở
mỗi thời kì để thúc đẩy mọi mặt phát triển, đồng thời, khắc phục và hạn chế cái
yếu kém.
3) Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải nhạy cảm, sớm phát
hiện và ủng hộ sự vật, hiện tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó phát
triển; phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến v.v bởi nhiều khi sự
vật, hiện tượng mới thất bại tạm thời, tạo nên con đường phát triển quanh co,
phức tạp.
VD: Chủ trương làm cách mạng của Phan Bội Châu có điểm yếu kém, khiến
cách mạng không thành công, Bác Hồ đã nhìn nhận ra và thay đổi.
4) Trong quá trình thay thế sự vật, hiện tượng cũ bằng sự vật, hiện tượng mới
phải biết kế thừa những yếu tố tích cực đã đạt được từ cái cũ và phát triển sáng
tạo chúng trong điều kiện mới. VD: Thời trang áo dài cách tân.
(Nhận thức) Phát triển là nguyên tắc chung nhất chỉ đạo hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn; nguyên tắc này giúp chúng ta nhận thức được rằng:
muốn nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng, nắm được khuynh hướng phát
triển của chúng thì phải xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động
trong sự biến đổi của nó

Câu 12: Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng? Ý nghĩa
phương pháp luận của việc nắm vững mối quan hệ này trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn?
1. Các khái niệm
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính,
những mối quan hệ giống nhau ở nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng
lẻ.
VD: Người dân Việt Nam đều sử dụng tiếng nói và chữ viết tiếng Việt.
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
quá trình riêng lẻ nhất định. VD: Mỗi vùng khác nhau ở Việt Nam có một cách
nói, cách phát âm khác nhau hay cách gọi tên các sự vật hiện tượng khác nhau.
Miền Bắc – bố, miền Trung – tía, miền Nam – ba.
Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính…
chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất. Những mặt, những thuộc tính ấy
không được lặp lại ở bất kỳ sự vật, hiện tượng hay kết cấu vật chất nào khác.
VD: Chỉ có Hà Nội có Hồ Gươm.
2. Mối quan hệ biện chứng
Phép biện chứng duy vật cho rằng, cái riêng và cái chung đều tồn tại khách
quan và giữa chúng có sự thống nhất biện chứng. Cụ thể:
1. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Điều đó có
nghĩa là không có cái chung thuần tuý, trừu tượng tồn tại bên ngoài cái riêng.
VD: Thuộc tính cơ bản của vật chất là vận động. Vận động lại tồn tại dưới các
hình thức riêng biệt như vận động vậy lý, vận động hoá học, vận động xã hội
v.v..
2. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Điều đó có nghĩa là
không có cái riêng độc lập thuần tuý không có cái chung với những cái riêng
khác.
VD: Các chế độ kinh tế – chính trị riêng biệt đều bị chi phối với các quy luật
chung của xã hội như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản
xuất.
3. Cái chung là bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập hết
vào cái chung. Cái riêng phong phú hơn cái chung, vì ngoài những đặc điểm
gia nhập vào cái chung, cái riêng còn có những đặc điểm riêng biệt mà chỉ
riêng nó có. Cái chung là cái sâu sắc hơn cái riêng bởi vì nó phản ánh những
mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ bên trong, tất nhiên, ổn định, phổ
biến tồn tại trong cái riêng cùng loại.
VD: Người nông dân Việt Nam ngoài đặc điểm chung giống với những người
nông dân trên thế giới là tư hữu nhỏ, sản xuất lẻ tẻ, sống ở nông thôn, còn có
những đặc điểm riêng là chịu ảnh hưởng của làng xã, có tập quán lâu đời, mỗi
vùng miền lại có những đặc điểm khác nhau. Cái chung sâu sắc hơn vì dù ở
đâu, nông dân Việt Nam cũng đều cần cù lao động, chịu thương chịu khó.
4. Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau; có thể coi đây là
sự chuyển hoá giữa hai mặt đối lập. Sự chuyển hoá giữa cái đơn nhất và cái
chung diễn ra theo hai hướng: cái đơn nhất biến thành cái chung, làm sự vật
phát triển và ngược lại, cái chung biến thành cái đơn nhất làm cho sự vật dần
dần mất đi.
VD: Một sáng kiến của một anh hùng lúc đầu là cái đơn nhất được nhiều người
học tập trở thành cái phổ biến; Khoán sản phẩm tới người lao động lúc đầu chỉ
ở một vài tỉnh sau trở thành cái phổ biến; Vận động cơ chế thị trường ở Việt
Nam lúc đầu mới là tư tưởng chỉ đạo thực hiện ở một số ngành kinh tế - sau trở
thành chung.
3. Ý nghĩa:
– Cái chung chỉ tồn tại thông qua cái riêng. Chỉ có thể tìm cái chung trong cái
riêng chứ không thể ở ngoài cái riêng.
– Bất cứ cái chung nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được
cá biệt hoá. Nếu đem áp dụng nguyên xi cái chung, tuyệt đối hoá cái chung dễ
dẫn đến sai lầm tả khuynh giáo điều. VD: Tập thể dục 30 phút mỗi ngày được
cho là tốt nhưng đối với những người thể lực yếu hay khuyết tật, ... thì nên có
những lộ trình tập luyện khác phù hợp với thể chất họ.
Nếu xem thường cái chung, chỉ chú ý đến cái đơn nhất dễ dẫn đến sai lầm hữu
khuynh xét lạ – Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện
nhất định cái đơn nhất có thể biến thành cái chung và ngược lại cái chung có
thể biến thành cái đơn nhất. Trong hoạt động thực tiễn cần tạo điều kiện thuận
lợi cho cái đơn nhất chuyển thành cái chung nếu cái đơn nhất có lợi cho con
người. Và ngược lại biến cái chung thành cái đơn nhất nếu cái
chung tồn tại bất lợi cho con người
4. Hoạt động thực tiễn
Vân dụng cặp phạm trù này vào trong quá trình nhận thức và đánh giá các sự
vật hiện tượng một cách khách quan và khoa học
Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn
tại của mình; cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung, bất cứ cái
riêng nào cũng bao hàm cái chung nên trong hoạt động thực tiễn không nên
nhấn mạnh, tuyệt đối hóa cái chung, phủ nhận cái riêng.
Để phát hiện ra cái chung, quy luật chung chúng ta phải xuất phát từ cái riêng,
phải xuất phát từ việc phân tích các sự vật, hiện tượng riêng lẻ. Cái chung sau
khi đã được rút ra từ cái riêng, khi đem áp dụng vào cái riêng lại phải căn cứ
vào đặc điểm của cái riêng để làm cho nó phù hợp.
Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng. Cái riêng là cái phong
phú hơn cái chung, cho nên trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn phải
căn cứ vào cái chung sâu sắc làm cơ sở, đồng thời chú ý đến cái riêng phong
phú để bổ sung cho nó hoàn thiện.
Trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái
chung và ngược lại. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn muốn xác định được đâu
là cái chung đâu là cái đơn nhất phải đặt nó trong một quan hệ xác định. Có thể
và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để cái đơn nhất có lợi cho con người trở
thành cái chung và cái chung bất lợi trở thành cái đơn nhất.
VD1: Muốn nhận thức được một quy luật phát triển nào đó của nền sản xuất
của một nước nào đó phải nghiên cứu phân tích so sánh quá tình sản xuất thực
tế ở một giai đoạn khác nhau, ở những khu vực khác nhau mới tìm ra được mối
liên hệ chung.
VD2: Xem xét một phong trào nào đó của một đơn vị nào đó phải xem xét tinh
thần thi đua đó ở từng tổ, từng người sau đó liên hệ lại với nhau, từ đó rút ra
những quy định chung để phát huy tối đa tinh thần cạnh tranh thi đua và giảm
thiểu tối đa những hạn chế.

Câu 13. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả? Ý nghĩa
phương pháp luận của việc nắm vững mối quan hệ này trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn?
1. Các khái niệm
Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các
mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất
định.
Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác
động lẫn
nhau của các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
VD: Trời mưa là nguyên nhân, sinh ra kết quả là đường trơn và ướt.
– Khác với nguyên nhân, nguyên cớ cũng là một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra
trước kết quả, nhưng không sinh ra kết quả, có liên hệ với kết quả nhưng là mối
liên hệ bên ngoài không bản chất.
VD: “Sự kiện Vinh Bắc Bộ”, vào tháng 8/1964, từ đó Mỹ ném bom miền Bắc
là nguyên cớ, còn nguyên nhân thực sự là do bản chất xâm lược của đế quốc
Mỹ.
– Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân,
nhưng có tác dụng đối với sự nảy sinh kết quả.
VD: Nhiệt độ, áp suất, chất xúc tác là những điều kiện không thể thiếu của một
số phản ứng hoá học.
2. Mối quan hệ biện chứng
1. Nguyên nhân sinh ra kết quả, vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết
quả. Còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân. Chỉ những mối liên
hệ trước sau về mặt thời gian có quan hệ sản sinh mới là mối liên hệ nhân quả.
VD: + Không có lửa làm sao có khói.
+ Cuộc đấu tranh giai cấp vô sản mâu thuẫn giai cấp tư sản (là nguyên nhân
bao giờ cũng có trước để dẫn đến cuộc cách mạng vô sản với tính chất là kết
quả bao giờ cũng xuất hiện sau)
+ Sự biến đổi của mầm mống trong hạt lúa bao giờ cũng phải xuất hiện trước
còn cây lúa là kết quả nó xuất hiện sau.
+ Bão (nguyên nhân) xuất hiện trước, sự thiệt hại của hoa màu, mùa màng do
bão gây ra thì phải xuất hiện sau.
+ Người bị ô tô chèn chết đấy là kết quả xấu nhất nguyên nhân của nó là do
việc thực hiện luật lệ giao thông không đúng (không nghiêm chỉnh thực hiện
luật lệ giao thông).
2. Trong hiện thực, mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp: một kết quả có
thể do nhiều nguyên nhân và một số nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả.
– Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết quả
nhanh hơn.
– Nếu các nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình hình thành
kết quả chậm hơn, thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau.
VD: + Công cuộc cách mạng của chúng ta thắng lợi, giải phóng miền nam
thống nhất đất nước nó là kết quả của nhiều nguyên nhân: dân tộc ta “thà quyết
hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” và được sự ủng
hộ của các nước, các dân tộc xã hội chủ nghĩa và các nước, các dân tộc yêu
chuộng hòa bình trên toàn thế giới.
+ Thầy giáo truyền đạt kiến thức cho học sinh (một nguyên nhân) là nguyên
nhân dẫn đến nhiều kết quả học tập đạt được của họ. Cùng một nguyên nhân
như vậy nhưng lại dẫn đến nhiều kết quả khác nhau đối với từng học sinh: học
sinh đạt kết quả học tập giỏi, khá, trung bình, yếu kém.
+ Đốt lửa vào ngọn đèn dầu (Nguyên nhân) sinh ra kết quả: thứ nhất: có ánh
sáng để cho mọi người học tập và làm việc, thứ hai: Bấc ngắn, dầu cạn đi, thứ
ba: làm tăng nhiệt độ môi trường.
3. Giữa nguyên nhân và kết quả có tính tương đối, có sự chuyển hoá, tác động
qua lại tạo thành chuỗi liên hệ nhân – quả vô cùng vô tận.
VD: Sự phát triển của vật chất là nguyên nhân sinh ra tinh thần, nhưng tinh
thần lại trở thành nguyên nhân làm biến đổi vật chất.
Con gà – quả trứng – con gà - ...
3. Ý nghĩa
– Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần tôn trọng tính khách quan của
mối liên hệ nhân quả.
– Muốn cho hiện tượng nào đó xuất hiện cần tạo nguyên nhân cùng những điều
kiện cho nguyên nhân đó phát huy tác dụng. Ngược lại, muốn hiện tượng nào
đó mất đi thì phải làm mất nguyên nhân tồn tại của nó. VD: Để học tập tốt thì
cần tạo điều kiện như nào, làm mất cái gì xấu?
– Phải biết xác định đúng nguyên nhân để giải quyết vấn đề nảy sinh vì các
nguyên nhân có vai trò không như nhau. VD: Đau bụng do nhiều nguyên nhân:
ngộ độc thực phẩm, nhiễm giun, đau bụng lạnh,... cần xác định đúng nguyên
nhân để có phương án điều trị phù hợp,...
– Kết quả có thể tác động trở lại nguyên nhân. Do đó, trong hoạt động thực tiễn
cần khai thác, tận dụng những kết quả đã đạt được để thúc đẩy nguyên nhân tác
động theo hướng tích cực.
VD: Học tập tốt thì đạt được kết quả cao khiến người ta phấn khích, càng
muốn đạt nhiều kết quả cao hơn nữa – phấn đấu học tập tốt hơn.

Câu 14. Trình bày khái niệm lượng chất


a. Vị trí, vai trò của quy luật
Quy luật lượng đổi-chất đổi là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật. Nó chỉ ra cách thức chung nhất của sự phát triển, khi cho rằng
sự thay đổi về chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích luỹ được những
thay đổi về lượng đã đạt đến giới hạn - đến độ. Quy luật lượng đổi chất đổi
cũng chỉ ra tính chất của sự phát triển, khi cho rằng sự thay đổi về chất của sự
vật, hiện tượng vừa diễn ra từ từ, vừa có bước nhảy vọt làm cho sự vật, hiện
tượng có thể vừa có những bước tiến tuần tự, vừa có thể có những bước tiến
vượt bậc.
b. Khái niệm chất, lượng
- Chất là tên gọi tắt của chất lượng (là chất của sự vật, hiện tượng khách quan)
dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự
thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, hiện
tượng làm cho chúng là chúng mà không phải là cái khác (thể hiện sự vật, hiện
tượng đó là gì và phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác).
VD: Nước không màu không mùi không vị; Con người được phân biệt với con
vật ở tính có ý thức.
Phân biệt chất với thuộc tính
- Chất là sự thống nhất các thuộc tính, còn thuộc tính là những trạng thái, tính
chất cơ cấu nên sự vật. VD: Thuộc tính của viên phấn là dùng để viết, còn chất
của viên phấn là được làm bằng thạch cao.
- Chất và thuộc tính có MQH chặt chẽ, không có chất nằm ngoài sự vật.
Thuộc tính: cơ bản và không cơ bản. Khi thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất
thay đổi, thuộc tính không cơ bản thay đổi thì chất chưa thay đổi.
Đặc điểm cơ bản của chất
1) Có tính ổn định tương đối, nghĩa là khi sự vật, hiện tượng chưa chuyển hoá
thì chất của nó chưa thay đổi. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình tồn tại và
phát triển qua nhiều giai đoạn; trong mỗi giai đoạn đó, chúng lại có chất riêng
của mình.
VD: Quá trình từ nòng nọc thành ếch: Giai đoạn nòng nọc: có đuôi, sống dưới
nước. Giai đoạn thành ếch: mất đuôi, mọc 4 chân, sống trên cạn.
2) Mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có nhiều chất.
VD: Sắt là một nguyên tố hóa học, Fe, số hiệu nguyên tử 26, thuộc nhóm
VIIIB, chu kỳ 4.
- Lượng dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng về các yếu tố
biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, tổng số các bộ phận, đại lượng; ở trình độ
quy mô và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
VD: Lớp A có 50 sinh viên, …
Đặc điểm cơ bản của lượng
1) tính khách quan vì lượng là lượng của chất, là một dạng vật chất nên
chiếm một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại trong một thời gian nhất
định.
VD: Lớp A có 50 sinh viên, học ở phòng 1 từ 8h đến 11h.
2) Có nhiều loại lượng khác nhau trong các sự vật, hiện tượng; có lượng là
yếu tố quy định bên trong, có lượng chỉ thể hiện những yếu tố bên ngoài; sự
vật, hiện tượng càng phức tạp thì lượng cũng phức tạp theo. VD: trình độ phát
triển của xã hội là yếu tố bên trong, số dân cư trong một xã là yếu tố bên ngoài.
3) Trong tự nhiên và xã hội, có lượng có thể đo, đếm được; nhưng trong xã
hội và tư duy lại có những lượng khó đo lường bằng những số liệu cụ thể
mà chỉ có thể nhận biết được bằng tư duy trừu tượng. VD: Ta có thể đếm
được 1 gói kẹo có 20 cái nhưng không thể đếm được lượng kiến thức ta tích
lũy được.

Câu 15. Nội dung quy luật chuyển hóa lượng – chất
- Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối. Tuỳ theo từng
mối quan hệ mà xác định đâu là lượng và đâu là chất; có cái là lượng ở trong
mối quan hệ này, lại có thể là chất ở trong mối quan hệ khác.
VD: Lớp A và B có cùng sĩ số, lớp A có 20 HSG, lớp B có 30 HSG. Khi xét về
trình độ học tập của 2 lớp thì lớp B tốt hơn, 30 HSG là chất. Khi so sánh số
HSG 2 lớp thì 30 HSG lớp B là lượng.
- Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng.
Hai mặt này tác động biện chứng lẫn nhau theo cơ chế khi sự vật, hiện tượng
đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định.
+ Độ là khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự
thay đổi về chất; sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hoá. Sự thay
đổi về lượng tạo điều kiện cho chất đổi và kết quả là cái cũ mất đi, cái mới ra
đời. VD: 0 < t < 100oC nước vẫn ở thể lỏng.
Lượng thay đổi đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ, làm cho chất của sự vật, hiện tượng
thay đổi, chuyển thành chất mới - thời điểm, mà tại đó bắt đầu xảy ra bước
nhảy - được gọi là điểm nút.
VD: 0 và 1000C là điểm nút
+ Bước nhảy dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá cơ bản về chất của sự vật,
hiện tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây nên; là sự thay đổi về chất
khi đã tích lũy đủ về lượng. Sự vận động của sự vật, hiện tượng diễn ra, lúc thì
biến đổi tuần tự về lượng, lúc thì nhảy vọt về chất, tạo ra một đường nút vô tận,
làm cho sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ.
Các hình thức của bước nhảy.
Căn cứ vào quy mô và nhịp độ của bước nhảy, người ta chia bước nhảy thành
bước nhảy toàn bộ - là những bước nhảy làm cho tất cả các mặt, các bộ phận,
các yếu tố của sự vật, hiện tượng thay đổi. VD: chiến thắng mùa xuân 1975,
giải phóng hoàn toàn, đất nước bước sang thời kì mới. Bước nhảy cục bộ - là
loại bước nhảy chỉ làm thay đổi một số mặt, một số yếu tố, một số bộ phận của
sự vật, hiện tượng đó. VD: Dù xã hội đã hiện đại, bình đẳng nhưng 1 phần nhỏ
vẫn chưa thay đổi, tồn tại tư tưởng trọng nam khinh nữ,…
Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về chất và dựa trên cơ chế của sự thay
đổi đó, người ta chia bước nhảy thành bước nhảy đột biến - khi chất của sự vật,
hiện tượng biến đổi mau chóng ở tất cả mọi bộ phận cơ bản của nó. VD: Phóng
xạ (radium biến đổi), núi lửa phun trào. Bước nhảy dần dần - là quá trình thay
đổi về chất diễn ra do sự tích luỹ dần những yếu tố của chất mới và loại bỏ dần
các yếu tố của chất cũ, làm cho sự vật, hiện tượng biến
đổi chậm. VD: tích lũy tư duy từ cấp 1 – cấp 2 – cấp 3 – đại học - …
Quy luật lượng đổi-chất đổi không chỉ nói lên một chiều là lượng đổi dẫn đến
chất đổi mà còn có chiều ngược lại, là khi chất mới đã ra đời, nó lại tạo ra một
lượng mới phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa chất với lượng, thể
hiện ở chỗ sự tác động của chất mới về quy mô, trình độ, nhịp điệu v.v… đối
với lượng mới tạo nên tính thống nhất giữa chất mới với lượng mới.
VD: Sinh viên vượt qua kì thi tốt nghiệp (điểm nút), trở thành cử nhân (bước
nhảy) có tấm bằng tốt và tìm được việc làm tốt (chất mới thay đổi quy mô tồn
tại của SVHT). Sau đó,sinh viên có nhu cầu học tập cao hơn – thạc sĩ (chất mới
thay đổi sự vận động và phát triển)
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa
chất với lượng. Sự thống nhất đó thể hiện ở
1) những thay đổi dần về lượng tới điểm nút chuyển thành những thay đổi về
chất thông qua bước nhảy
2) chất mới ra đời sẽ tác động tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới; lượng
mới lại tiếp tục biến đổi, đến một mức độ nào đó lại phá vỡ chất cũ kìm hãm
nó.
3) quá trình tác động qua lại giữa lượng và chất tạo nên con đường vận động
liên tục trong đứt đoạn, đứt đoạn trong liên tục; từ sự biến đổi dần dần về
lượng tiến tới nhảy vọt về chất; rồi lại biến đổi dần dần về lượng để chuẩn bị
cho bước nhảy tiếp theo của chất, cứ thế làm cho sự vật, hiện tượng không
ngừng vận động, biến đổi và phát triển.

Câu 16. ý nghĩa phương pháp luận của quy luật chuyển hóa lượng - chất
1) sự phát triển của sự vật, hiện tượng bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ
dần về lượng. Vì vậy, phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về
chất. VD: XHPK –XHCN – CSVN
2) quy luật xã hội diễn ra thông qua các hoạt động có ý thức của con người. Vì
vậy, khi đã tích luỹ đầy đủ về lượng phải tiến hành bước nhảy, kịp thời chuyển
những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất; chuyển những thay đổi
mang tính tiến hoá sang bước thay đổi mang tính cách mạng. Chỉ có như vậy
chúng ta mới khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, hữu khuynh thường
được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là thay đổi đơn thuần về lượng. VD:
tình bạn – tình yêu – hôn nhân.
3) sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố
tạo thành sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong hoạt động của mình, phải biết tác
động vào cấu trúc và phương thức liên kết trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật
các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng đó. VD: muốn duy trì nước ở thể lỏng
phải để nước trong giới hạn 0 < t < 100oC

Câu 17: Phân tích khái niệm quy luật thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập
a. Vị trí, vai trò của quy luật. Quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ
bản của phép biện chứng duy vật; nó chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong của
sự vận động, phát triển.

b. Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn
Khái niệm mâu thuẫn. là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, tương tác, tác động
lẫn nhau của các mặt đối lập. Yếu tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập -
những mặt, thuộc tính, khuynh hướng vận động trái ngược nhau; cùng tồn tại
trong một sự vật, hiện tượng, trong cùng một thời gian, một mối liên hệ;
thường xuyên thống nhất, đấu tranh, chuyển hóa, triển khai lẫn nhau.
VD: Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân hay trong sinh vật thì có sự đồng
hoá và dị hoá, trong kinh tế thị trường có cung và cầu, hàng và tiền.
Mâu thuẫn có một số tính chất chung là tính khách quan, phổ biến; tính đa
dạng, phong phú. thể hiện ở chỗ, trong tự nhiên, xã hội và tư duy đều có mâu
thuẫn tồn tại không phụ thuộc vào ý thức con người.
Một số loại mâu thuẫn: bên trong - bên ngoài, cơ bản - không cơ bản, chủ yếu -
thứ yếu, đối kháng- không đối kháng.
Khái niệm sự thống nhất: là các mặt đối lập nương tựa nhau, làm điều kiện tồn
tại cho nhau, không có mặt này thì không có mặt kia. VD: Đồng hóa, dị hóa;
Hấp thụ và bài tiết trong con người, xã hội vô sản và tư bản: người bán, người
mua. Xét 1 phương diện nào đó, giữa 2 mặt đối lập có những nét giống nhau,
gọi là đồng nhất. Nhờ có nó mà các mặt đối lập chuyển hóa cho nhau. VD: có
nam có nữ đều là con người mới thành vợ chồng; Cái thiện và cái ác trong con
người: trong cái ác có cái thiện, làm sao để lương tâm thức tỉnh.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập: là sự tác động, bài trừ phủ định nhau, là sự
triển khai của các mặt đối lập. VD: Tư sản - vô sản, nông dân - địa chủ. Nông
dân tìm cách để thoát khỏi địa chủ, địa chủ tìm cách để bóc lột.
Vai trò của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển: tạo nên nguồn gốc của
sự vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng. Có hai loại tác động lẫn
nhau dẫn đến vận động. Đó là sự tác động lẫn một sự vật nhau giữa các sự vật,
hiện tượng và sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập trong, hiện tượng. Cả
hai loại tác động này tạo nên sự vận động; nhưng chỉ loại tác động thứ hai- loại
tác động lẫn nhau giữa các cặp mặt đối lập do mâu thuẫn giữa chúng tạo nên
mới làm cho sự vật, hiện tượng phát triển.

Câu 18. Trình bày nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập
Trong mỗi mâu thuẫn, các cặp mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu
tranh lẫn nhau tạo nên tình trạng ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng.
Thống nhất giữa các cặp mặt đối lập:
1) các cặp mặt đối lập cần đến nhau, nương tựa vào nhau, làm tiền đề cho nhau
tồn tại; không có mặt này thì không có mặt kia. VD: Phải có giai cấp tư sản thì
mới có giai cấp vô sản.
2) các cặp mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu
tranh giữa cái mới đang hình thành với cái cũ chưa mất hẳn. VD: Trong mội xã
hội đối kháng giai cấp luôn có thống trị và bị trị. Hai giai cấp này là hai mặt
đối lập và luôn đấu tranh với nhau để giành quyền lợi
3) giữa các cặp mặt đối lập tương đồng nhau, đồng nhất với nhau (do trong các
mặt đối lập còn tồn tại những yếu tố giống nhau) thể hiện sự chung nhau đối
với một số yếu tố,thuộc tính v.v. VD: nóng và lạnh là 2 mặt đối lập nhưng đều
chỉ trạng thái nhiệt độ của nước.
Đấu tranh lẫn nhau giữa các cặp mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ khuynh
hướng bài trừ, phủ định nhau giữa các cặp mặt đối lập dẫn đến sự triển khai
mâu thuẫn và sau đó đến sự chuyển hóa (do sự đồng nhất trên, trong những
điều kiện nào đó, tạo nên) giữa các cặp mặt đối lập.
VD: Nước đang lạnh, dưới điều kiện nhiệt độ - đun sôi, chuyển hóa thành nóng
– đối lập.
Tính chất của sự thống nhất và đấu tranh
1) sự thống nhất có tính tạm thời, tương đối, là có điều kiện, thoáng qua, vì sự
thống tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng.
2) sự đấu tranh có tính tuyệt đối, phá vỡ sự ổn định tương đối của sự vật, hiện
tượng dẫn đến sự chuyển hoá về chất của chúng. Tính tuyệt đối của sự đấu
tranh gắn liền với sự tự thân vận động.
VD: Quá trình giải quyết mâu thuẫn cơ bản của nước ta là quá trình vừa tuân
theo sự tiến hóa dần dần về lượng, vừa tranh thủ những bước phát triển có tính
cách mạng, nhảy vọt về chất; vừa kế thừa tất cả những mặt cần thiết, hợp lí của
chủ nghĩa tư bản để phát triển lực lượng sản xuất, lại vừa phải đấu tranh để loại
bỏ những mặt tiêu cực của chủ nghĩa tư bản; vừa tích lũy nội dung vừa cải tạo
hình thức cho phù hợp.
Tóm lại, quá trình vận động của mâu thuẫn trải qua các giai đoạn:
1) khi cái mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác nhau giữa các cặp mặt
đối lập
2) trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng và của chính các
cặp mặt đối lập, sự khác nhau giữa chúng trở thành xung đột, chuyển hóa thành
mâu thuẫn
3) khi điều kiện chín muồi, các cặp mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau (theo các
hướng hoặc bài trừ, phủ định lẫn nhau, hoặc mặt này triệt tiêu mặt kia, hoặc cả
hai mặt đều bị triệt tiêu). Mâu thuẫn được giải quyết làm cho cái cũ mất đi, cái
mới ra đời; sự khác nhau, xung đột, mâu thuẫn lại được tái lập và giải quyết
mâu thuẫn dẫn đến sự chuyển hóa.

Câu 19. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập (Lấy VD trong quá trình học tập)
1) Nhận thức đúng bản chất của sự vật và tìm ra phương hướng, giải pháp đúng
cho hoạt động thực tiễn bằng con đường phát hiện mâu thuẫn của sự vật, hiện
tượng. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn cần tìm ra thể thống nhất của các cặp đối
lập trong sự vật, hiện tượng.
2) Phân tích mâu thuẫn phải bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát sinh, phát
triển của từng mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau giữa
các cặp mặt mâu thuẫn và điều kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng.
3) Để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển phải tìm cách giải quyết mâu
thuẫn, không được điều hoà mâu thuẫn. Mọi mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi
có đủ điều kiện chín muồi; không nóng vội hay bảo thủ, trì trệ khi giải quyết
mâu thuẫn.

Câu 20: Phân tích khái niệm cơ bản của quy luật phủ định của phủ định
Sự phủ định là sự thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của
sự vật, hiện tượng trong quá trình vận động, phát triển của nó. VD: Phá bỏ
luống rau cũ để gieo luống rau mới.
Sự phủ định biện chứng là sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình
phát triển của sự vật, hiện tượng. VD: tre già măng mọc.
Tính khách quan: Nguyên nhân của phủ định nằm trong bản thân sự vật, hiện
tượng, nó là quá trình đấu tranh, giải quyết mâu thuẫn tất yếu bên trong bản
thân sự vật, tạo khả năng ra đời cái mới thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu
hướng phát triển của chính bản thân sự vật.
Ví dụ: Chủ nghĩa xã hội phủ định chủ nghĩa tư bản là kết quả của việc giải
quyết mâu thuẫn cơ bản, khách quan, vốn có trong lòng xã hội tư bản; mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với tính chất chiếm hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất được biểu hiện về mặt xã hội là
mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Tính kế thừa: cái mới hình thành và phát triển tự thân thông qua quá trình
chọn lọc, loại bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, giữ lại những nội dung tích cực.
Ví dụ: Trong sinh vật, các giống loài đều phát triển theo quy luật di truyền, các
thế hệ con cái đều kế thừa các yếu tố tích cực của các thế hệ bố mẹ, học thuyết
“gen” đã chứng minh điều đó. Trong lĩnh vực nhận thức, triết học Mác ra đời
giữa thế kỷ XIX, đã kế thừa mọi giá trị tư tưởng của quá khứ, mà trực tiếp là
các giá trị của nền triết học cổ điển Đức

Phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong
bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển
hóa giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và phủ
định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra là sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với
mình (cái phủ định, phủ định cái bị phủ định, cái bị phủ định là tiền đề, cái phủ
định là cái mới xuất hiện. Cái phủ định sau khi phủ định cái bị phủ định, tiếp
tục biến đổi và tạo ra phủ định lần thứ hai). Sự phủ định lần thứ hai được thực
hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ
định thứ nhất.
Nó dường như lập lại cái ban đầu nhưng nó được bổ sung nhiều nhân tố mới
cao hơn, tích cực hơn.
VD: Hạt thóc - Cây mạ - Cây lúa
Hạt thóc cho ra đời cây mạ (đây là phủ định lần 1)
Cây mạ cho ra đời cây lúa (đây là phủ định lần 2).
Cây lúa cho ra bông thóc (thóc lại cho ra thóc nhưng lần này không phải là 1
hạt mà là nhiều hạt)

Câu 21) Nội dung quy luật Phủ định của phủ định (Lấy VD hạt thóc)
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, phủ định biện chứng là một
quá trình vô tận, tạo nên khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng từ
trình độ thấp đến cao,có tính chất chu kỳ theo hình thức "xoáy ốc": mỗi chu kỳ
phát triển của sự vật, hiện tượng thường trải qua hai lần phủ định cơ bản với
hình thái tồn tại chủ yếu của nó, trong đó hình thái cuối mỗi chu kỳ lặp lại
những đặc trưng cơ bản của hình thái ban đầu chu kỳ đó nhưng trên cơ sở cao
hơn về trình độ phát triển nhờ kế thừa được những nhân tố tích cực và loại bỏ
được những nhân tố tiêu cực qua hai lần phủ định biện chứng.
Theo V.I.Lênin: "Từ khẳng định đến phủ định, - từ sự phủ định đến "sự thống
nhất" với cái bị khẳng định, không có cái đó, phép biện chứng trở thành một sự
phủ định sạch trơn,một trò chơi hay là chủ nghĩa hoài nghi".
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất chung, phổ biến của sự phát
triển. V.I.Lênin đã khái quát con đường đó như sau: "Sự phát triển hình như
diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình
độ cao hơn ("phủ định của phủ định"); sự phát triển có thể nói là theo đường
trôn ốc chứ không theo đường thẳng...".
Khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc thể hiện tính chất biện chứng của
sự phát triển, đó là tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên. Mỗi vòng mới của
đường xoáy ốc cũng như lặp lại, nhưng với một trình độ cao hơn. Sự tiếp nối
của các vòng trong đường
xoáy ổc phản ánh quá trình phát triển vô tận từ thấp đến cao của sự vật, hiện
tượng trong thế giới. Trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng phủ định
biện chứng đã đóng vai trò là những "vòng khâu" của quá trình đó.
Tóm lại, nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định trong phép biện
chứng duy vật phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái phủ định và cái
khẳng định trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Phủ định biện
chứng là điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa
những nội dung tích cực từ trong sự vật, hiện tượng cũ,phát huy nó trong sự
vật, hiện tượng mới và tạo nên tính chu kỳ của sự phát triển. Nhận xét
về vai trò của quy luật này, Ph.Ăngghen đã viết: " .. phủ định cái phủ định là
gì? Là một quy luật vô cùng phổ biến vả chính vì vậy mà có một tầm quan
trọng và có tác dụng vô cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên, của lịch sử và
của tư duy".

Câu 22) Ý nghĩa phương pháp luận quy luật phủ định của phủ định
- Là cơ sở để chúng ta nhận thức một cách đúng đắn về xu hướng vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó không diễn ra theo đường thẳng
mà là con đường quanh co, phức tạp, gồm nhiều giai đoạn, nhiều quá trình
khác nhau. Tuy nhiên, tính đa dạng và phức tạp của quá trình phát triển chỉ là
sự biểu hiện của khuynh hướng chung, khuynh hướng tiến lên theo quy luật.
Cần phải nắm được đặc điểm, bản chất, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng
để tác động tới sự phát triến, phù hợp với yêu cầu hoạt động, nhận thức, biểu
hiện của thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng trong mọi hoạt
động của chúng tavà trong thực tiễn. Khẳng định niềm tin vào xu hướng tất yếu
là phát trển tiến lên của cái tiến bộ.

Vận dụng quy luật này của VN trong việc lựa chọn con đường đi lên CNXH
– Quy luật này chỉ ra cách thức của sự phát triển là sau các lần phủ định sự vật
dường như quay trở lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Lịch sử XH loài
người tất yếu sẽ phủ định các chế độ tư hữu xây dựng chế độ công hữu, giải
phóng con người khỏi áp bức bất công…
– Quy luật này chỉ ra sự phát triển theo đường xoáy ốc, quá trình phát triển có
bước quanh co phức tạp thậm chí có bước thụt lùi tam thời nên khi CNXH ở
Liên Xô và Đông Âu sụp đổ nhưng Đảng và Nhà nước ta không do dự mà lựa
chọn lại con đường đi lên CNXH. ..
– Hiện nay CNXH hiện thực đang đứng trước những khó khăn không nhỏ,
nhưng những khó khăn đó chỉ là tạm thời, nhất định theo quy luật tất yếu của
nhân loại tiến bộ sẽ xây dựng thành công CNXH…

Câu 23: Bản chất và trình độ của nhận thức?


1. Khái niệm
Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới
khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những
tri thức về thế giới khách quan đó. VD: Tàu ngầm được sáng chế dựa trên hình
dáng cá heo, máy bay dựa trên chim.
2. Các nguyên tắc xuất phát là cơ sở lý luận của quan niệm về nhận thức:
- Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con
người.
- Thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan vào bộ
óc của con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể; thừa nhận
không có cái gì là không thể nhận thức được mà chỉ có những cái mà con
người chưa nhận thức được.
- Khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và
sáng tạo. Quá trình phản ánh đó diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ
biết ít đến nhiều, từ chưa sâu sắc, chưa toàn diện đến sâu sắc và toàn diện hơn,

- Coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức; là động lực,
mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Như vậy, theo quan điểm duy vật biện chứng thì nhận thức thuộc phạm vi hoạt
động phản ánh của con người (với tư cách chủ thể nhận thức) đối với thế giới
khách quan (với tư cách khách thể nhận thức) được tiến hành thông qua hoạt
động thực tiễn và nhằm sáng tạo tri thức phục vụ hoạt động thực tiễn, đồng
thời cũng lấy thực tiễn là tiêu chuẩn để xác định tính chân lý của những tri thức
đó.
VD: Trong lá cây có chứa chất diệp lục – điều hiển nhiên đúng trong tự nhiên,
con người phát hiện, nghiên cứu và tìm hiểu kĩ càng, sâu sắc và dựa trên chính
thực tế lá cây để kiểm nghiệm.
3. Các trình độ của nhận thức: nhận thức kinh nghiệm, nhận thức lý luận;
nhận thức thông thường và nhận thức khoa học.
Với quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức nhất định phải là một quá trình,
đó cũng là quá trình đi từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận
thức lý luận; từ trình độ nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức khoa
học…

Nhận thức kinh nghiệm là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực
tiếp các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm
khoa học. Kết quả là những tri thức kinh nghiệm gồm tri thức kinh nghiệm
thông thường và những tri thức kinh nghiệm khoa học. Hai loại tri thức này có
thể bổ sung cho nhau, làm phong phú lẫn nhau.
VD: các kinh nghiệm dân gian về thời tiết: Ráng mỡ gà có nhà thì giữ, Đêm
tháng năm …
Nhận thức lý luận là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống
trong việc khái quát bản chất, qui luật của các sự vật, hiện tượng. VD: những
kiến thức lí luận như Bác Hồ dạy nông dân xóa mù chữ, dạy các chiến sĩ làm
cách mạng,…

Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác
nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau. Nhận thức kinh nghiệm là cơ
sở của nhận thức lý luận; cung cấp cho nhận thức lý luận tư liệu phong phú, cụ
thể; là cơ sở hiện thực để kiểm tra, hoàn thiện lý luận đã có và khái quát thành
lý luận mới. Tuy nhiên, nhận thức kinh nghiệm chỉ dừng lại ở sự mô tả, phân
loại các sự kiện, các dữ kiện thu được từ quan sát và thực nghiệm trực tiếp. Do
đó nó chỉ đem lại những hiểu biết về các mặt riêng rẽ, bề ngoài rời rạc, chưa
phản ánh được cái bản chất, những mối liên hệ mang tính qui luật của các sự
vật, hiện tượng. Ngược lại, mặc dù được hình thành từ sự tổng kết những kinh
nghiệm, nhưng nhận thức lý luận không hình thành một cách tự phát, trực tiếp
từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước
những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành những tri thức kinh
nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh nghiệm hợp lý để phục vụ
cho hoạt động thực tiễn, thông qua đó mà nâng cao những tri thức kinh nghiệm
từ chỗ cụ thể, đơn nhất thành cái khái quát, phổ biến.

Nhận thức thông thường là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát,
trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện
tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác
nhau của sự vật. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính phong phú, gắn
liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày, chi phối hoạt động của con
người trong xã hội. VD: Nhìn một người khỏe mạnh, da dẻ hồng hào, ta biết
được họ có chế độ ăn uống khoa học, tập luyện hợp lí, đời sống lành mạnh,…

Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián
tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng
nghiên cứu, diễn ra dưới dạng trừu tượng logic. Đó là các khái niệm, phạm trù
và các qui luật khoa học. Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu
tượng, khái quát lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. VD:
các sáng kiến, phát minh: bóng đèn điện, máy tính, trí tuệ nhân
tạo AI,…, các định luật khoa học: 3 đluật Newton, Pytago,…
Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau về
chất của quá trình nhận thức nhằm đạt tới những tri thức chân thực. Giữa
chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức
thông thường có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng
nội dung của các khoa học. Mặc dù đã chứa đựng những mầm móng của những
tri thức khoa học, song nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở sự
phản ánh cái bề ngoài, ngẫu nhiên, không bản chất của đối tượng và tự nó
không thể chuyển thành nhận thức khoa học. Muốn phát triển thành nhận thức
khoa học cần phải thông qua quá trình tổng kết, trừu tượng, khái quát đúng đắn
của các nhà khoa học.

Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học nó lại có tác động trở lại
nhận thức thông thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho
nhận thức thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học.

Câu 24. Thực tiễn là gì? Các hình thức cơ bản của thực tiễn
a. Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn là gì? là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính
lịch sử-xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. Thực tiễn là
hoạt động khi con người sử dụng công cụ tác động vào đối tượng vật chất làm
cho đối tượng đó thay đổi theo mục đích của mình. Thực tiễn có ba đặc trưng
là hoạt động vật chất cảm tính, lịch sử-tự nhiên và tính mục đích.
VD: xây nhà, xây dựng các công trình công cộng: thủy điện, nhà máy, công
viên, …

Các hình thức của thực tiễn.


1) Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức cơ bản, quan trọng nhất của thực
tiễn. Lao động là cơ sở vật chất cho các loại hoạt động khác của con người; là
hoạt động đã đưa con người từ trạng thái thú vật lên trạng thái con người, đảm
bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người nói riêng và xã hội loài người
nói chung. VD: Từ thời nguyên thủy, con người lao động, biến đá thành công
cụ lao động sản xuất để phục vụ cuộc sống, biết sử dụng lửa để nấu chín thức
ăn, không ăn tươi nuốt sống như động vật ăn thịt.
2) Hoạt động cải tạo xã hội (chính trị-xã hội) là hoạt động nhằm cải tạo hiện
thực xã hội, cải biến những quan hệ xã hội nên có tác dụng trực tiếp đối với sự
phát triển xã hội, đặc biệt là thực tiễn cách mạng xã hội. VD: Làm cách mạng,
tiến hành xây dựng nông thôn mới,

3) Hoạt động thực nghiệm là hình thức đặc biệt của thực tiễn. Thực nghiệm
bao gồm thực nghiệm sản xuất, thực nghiệm khoa học và thực nghiệm xã hội,
được tiến hành trong điều kiện nhân tạo nhằm rút ngắn thời gian của các quá
trình biến đổi để dựa trên cơ sở đó nhận thức thế giới, chứng minh tính chân
thực của nhận thức. VD: Quá trình xây dựng đất nước sử dụng chất xám như
làm kinh tế, học tập, nghiên cứu các loại thuốc phòng chống các loại bệnh,…
4) Các hoạt động thực tiễn không cơ bản như giáo dục, nghệ thuật, pháp
luật, đạo đức,… được mở rộng và có vai trò ngày càng tăng đối với sự phát
triển của xã hội do đời sống xã hội ngày càng phát triển, ngày càng thêm đa
dạng. Trong đó, hoạt động sản xuất vật chất quy định các hình thức còn lại của
thực tiễn và đến lượt mình, các hình thức đó tác động ngược trở lại hoạt động
sản xuất vật chất. VD: công nghệ thông tin 4.0, máy móc phát triển, sử dụng trí
tuệ nhân tạo -> con người có công cụ lao động hiện đại, sản xuất và lao động
dễ dàng, thuận tiện hơn -> kinh tế, xã hội phát triển -> các nghề thủ công dần
bị mất đi vì có máy móc tự động hóa làm thay -> hoạt động sản xuất lúc này là
sáng tạo ra các máy móc đó.

Câu 25. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
1) Thực tiễn là cơ sở của nhận thức. Thông qua hoạt động thực tiễn, con
người nhận biết được cấu trúc; tính chất và các mối quan hệ giữa các đối tượng
để hình thành tri thức về đối tượng. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách
thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính nhu cầu
giải thích, nhận thức và cải tạo thế giới buộc con người tác động trực tiếp vào
đối tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Chính sự tác động đó đã làm cho
các đối tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và các quan hệ khác
nhau giữa chúng đem lại cho con người những tri thức, giúp cho con người
nhận thức được các quy luật vận động và phát triển của thế giới.
VD: Khi ném hòn đá vào một tấm kính, thấy tấm kính đó vỡ ra khi chúng ta sẽ
biết rằng kính có thuộc tính dễ vỡ.
2) Thực tiễn là mục đích và động lực thúc đẩy quá trình vận động, phát triển
của nhận thức.
Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng nhu cầu nâng
cao năng lực thực tiễn để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng của con người. Hoạt
động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác quan, tạo ra khả năng phản ánh
nhạy bén, chính xác; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng năng lực phản ánh
của con người đối với tự nhiên. Thực tiễn luôn vận động, phát triển nhờ đó,
thực tiễn thúc đẩy nhận thức vận động, phát triển theo. Những tri thức được áp
dụng vào thực tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo.
VD: Công nghệ tiên tiến, thay đổi từng ngày từng giờ, đòi hỏi con người phải
luôn luôn trau dồi, tìm hiểu, bắt kịp với xu thế phát triển của công nghệ.
Việc học tập đặt ra yêu cầu học sinh phải giải những bài khó, học kiến thức
mới nâng cao hơn, mỗi khi giải quyết được những vấn đề đó, nhận thức của
học sinh được tăng lên.
3) Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý. Mọi sự biến đổi của nhận thức
thường xuyên chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn. Thực tiễn có vai trò
là tiêu chuẩn, thước đo giá trị (chân lý) những tri thức đã đạt được; đồng thời
bổ sung, phát triển và hoàn thiện nhận thức.
VD: Qua 2 cuộc kháng chiến trường kì chống Pháp và Mỹ, Bác Hồ đã chứng
minh chân lí:
Không có gì quý hơn độc lập tự do.
Nhà thám hiểm Ma-gien-lăng đã đi vòng quanh thế giới,phát hiện ra Thái Bình
Dương và khẳng định Trái Đất có hình cầu, bác bỏ tư tưởng Trái Đất
hình dẹt.

Như vậy, thực tiễn không những là yếu tố đóng vai trò quy định đối với sự hình
thành và phát triển của nhận thức, mà còn là nơi nhận thức phải luôn hướng tới
để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
đòi hỏi chúng ta quán triệt quan điểm thực tiễn: yêu cầu việc nhận thức phải
xuất phát từ thực tiễn, từ nhu cầu thực tiễn; lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn nhận
thức. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn; nếu xa rời thực tiễn sẽ
dẫn đến bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc; ngược lại, nếu tuyệt đối
hoá vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ
nghĩa. (liên hệ với chính sách của Đảng để phục vụ cuộc sống nhân dân)
Câu 26: Trình bày giai đoạn nhận thức cảm tính trong quá trình nhận
thức Quan điểm của V.I.Lênin về con đường biện chứng của nhận thức
chân lý.
“Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực
khách quan”

Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) là những tri thức do các giác quan
mang lại. Nét đặc trưng cơ bản ở giai đoạn này là nhận thức được thực hiện
trong mối liên hệ trực tiếp với thực tiễn thông qua các nấc thang cảm giác, tri
giác, biểu tượng.
VD: Nhìn cái cây ta thấy ngay màu xanh; đi qua dòng sông ta thấy mênh mông
thoáng đãng

Những thành phần của nhận thức cảm tính
1) Cảm giác là tri thức được sinh ra do sự tác động trực tiếp của sự vật, hiện
tượng lên các giác quan của con người.
2) Tri giác là sự tổng hợp (phối hợp, bổ sung lẫn nhau) của nhiều cảm giác
riêng biệt vào một mối liên hệ thống nhất tạo nên một hình ảnh tương đối hoàn
chỉnh về sự vật, hiện tượng.
3) Biểu tượng được hình thành nhờ sự phối hợp hoạt động, bổ sung lẫn nhau
của các giác quan và đã có sự tham gia của các yếu tố phân tích, trừu tượng và
khả năng ghi nhận thông tin của não người.
Kết quả của nhận thức ở giai đoạn trực quan sinh động là không những chỉ là
nhận thức “bề ngoài” về sự vật, hiện tượng, mà đã có “chất”. Tuy vậy, giai
đoạn trực quan sinh động chưa đưa lại nhận thức hoàn chỉnh, khái quát về sự
vật, hiện tượng; các nấc thang khác nhau của giai đoạn này trong quá trình
nhận thức mới chỉ là tiên đề cho nhận thức về bản chất sự vật, hiện tượng.
VD: Nhìn thấy quả cam, ta thấy vỏ xanh, có nhiều múi nhỏ, ăn thấy vị chua.
Tổng hợp tất cả các cảm giác trên được tri giác về quả cam. Từ đó hình thành
nhận thức biểu tượng về quả cam. Nhưng đó chỉ là bề ngoài của quả cam. Chỉ
như thế ta chưa nắm được những đặc tính khác của quả cam: có tính axit,
lượng đường cao, hay ở vỏ quả cam có tính hăng,…

Câu 27. Trình bày quan niệm về giai đoạn nhận thức lý tính trong quá
trình nhận thức
Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) bắt nguồn từ trực quan sinh động và từ
lý luận do thế hệ trước truyền lại. Nhận thức lý tính phản ánh sâu sắc, chính
xác và đầy đủ hơn về khách thể nhận thức. VD: Kinh nghiệm dân gian: Trông
mặt mà bắt hình dong/Con lợn có béo thì lòng mới ngon,…
Những thành phần của nhận thức lý tính
1) Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh đặc tính cơ
bản của SVHT. VD: Định nghĩa về gió: là luồng không khí chuyển động từ đai
áp cao xuống đai áp thấp.
2) Phán đoán là hình thức tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng
định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của sự vật, hiện
tượng; là hình thức phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế
giới khách quan vào ý thức con người tạo nên vai trò của phán đoán là hình
thức biểu hiện và diễn đạt các quy luật khách quan.
VD: Nhiều mây đen – trời mưa, phán đoán giá vàng,…

3) Suy luận là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút
ra tri thức mới theo phương pháp phán đoán cuối cùng được suy ra từ những
phán đoán tiên đề (suy luận là quá trình đi từ những phán đoán tiên đề đến một
phán đoán mới).
VD: Newton phán đoán trong môi trường lí tưởng không có ma sát thì các vật
đang chuyển động sẽ tiếp tục chuyển động, đang đứng yên sẽ tiếp tục đứng
yên, từ đó rút ra định luật 1 Newton.
Kết quả của nhận thức trong giai đoạn tư duy trừu tượng là nhờ phương
pháp trừu tượng hoá và khái quát hoá các thông tin, tài liệu do trực quan sinh
động và tư duy trừu tượng do các thế hệ trước để lại, tư duy trừu tượng phản
ánh hiện thực sâu sắc hơn; phản ánh được những thuộc tính và mối quan hệ
bản chất mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng.
Mối quan hệ biện chứng giữa hai giai đoạn nhận thức:
1) Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai giai đoạn của một quá
trình nhận thức. Tuy có những sự khác nhau về mức độ phản ánh hiện thực
khách quan, nhưng giữa hai quá trình đó có sự liên hệ, tác động qua lại. Trực
quan sinh động là cơ sở tất yếu của tư duy trừu tượng, trên thực tế, nhận thức
lý tính không thể thực hiện nếu thiếu tài liệu do nhận thức cảm tính mang lại và
ngược lại, nhận thức lý tính sẽ làm cho nhận thức cảm tính sâu sắc và chính
xác hơn.
VD: Khi bác Hồ mới về nước, Bác nắm được tình hình đất nước qua quan sát
và nghe các cán bộ báo cáo. Đây là tiền đề để Bác đưa ra chiến lược và chính
sách phù hợp vừa cải thiện cuộc sống nhân dân vừa kháng chiến (NTCT). Từ
thực tế như vậy, Bác nghiên cứu, tiên đoán những khả năng có thể xảy ra tiếp
theo để quyết định đường lối đúng đắn nhất (NTLT)
2) Mỗi kết quả của nhận thức, mỗi nấc thang mà con người đạt được trong
nhận thức thế giới khách quan đều là kết quả của cả trực quan sinh động
(điểm khởi đầu) và tư duy trừu tượng (tổng hợp những tri thức của trực quan
sinh động thành các kết quả của nhận thức và thực tiễn là nơi kiểm nghiệm tính
chân thực của các kết quả đó của nhận thức) được thực hiện trên cơ sở thực
tiễn, do thực tiễn quy định.
VD: Khi mới gặp một người, cảm nhận ban đầu cho ta thấy người đó dễ gần,
vui tính,…(NTCT), qua tiếp xúc lâu dài, ta thấy được nhiều đặc điểm ở người
đó hơn: gia trưởng, bảo thủ,… (NTLT)
3) Mỗi giai đoạn nhận thức có những nét đặc trưng riêng. Nhận thức cảm
tính gắn liền với thực tiễn và sự tác động trực tiếp của khách thể lên các giác
quan của chủ thể, nhận thức lý tính bao quát sự vật, hiện tượng. Tuy vậy, nhận
thức ở giai đoạn này nhất thiết phải được thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh
nhằm tránh nguy cơ ảo tưởng, viển vông. Đó là thực chất của mệnh đề “từ tư
duy trừu tượng đến thực tiễn”.
VD: Qua quan sát tình hình thi đua trong một lớp học (NTCT), ta thấy được
những điểm mạnh và điểm yếu của tập thể lớp, từ đó, tổng kết và đánh giá
được tinh thần cạnh tranh học tập của lớp đó (NTLT) đề ra và áp dụng những
phương pháp kích thích thi đua học tập phù hợp.
4) Mỗi chu trình nhận thức đều phải đi từ thực tiễn đến trực quan sinh động
rồi đến tư duy trừu tượng rồi đến thực tiễn. Trong đó, thực tiễn giữ vai trò là
điểm bắt đầu và khâu kết thúc của chu trình đó. Nhưng sự kết thúc chu trình
nhận thức này lại là sự khởi đầu của chu trình nhận thức mới ở mức độ cao
hơn, rộng hơn chu trình cũ và cứ thế vận động mãi làm cho nhận thức của con
người ngày càng sâu hơn, nắm được bản chất và quy luật của thế giới khách
quan.
VD: Quan sát con gà – Nắm được đặc điểm bên ngoài – Nghiên cứu về đặc
điểm sinh lí, đặc tính sinh trưởng và phát triển,… - Kiến thức nâng cao, có
phương pháp nuôi gà hiệu quả.
5) Trên con đường nhận thức đó, cứ mỗi lần mâu thuẫn trong nhận thức
được giải quyết thì lại xuất hiện mâu thuẫn mới. Mỗi lần giải quyết mâu
thuẫn của nhận thức là một lần nhận thức được nâng lên trình độ mới, chính
xác hơn, loại bỏ dần những nhận thức sai đã phạm phải.
Kết quả của quá trình đó là hình ảnh chủ quan được tạo ra ngày càng có tính
bản chất, khách quan và cụ thể.
VD: 10000 thí nghiệm của Edison.
B. GỢI Ý Vận dụng vấn đề này vào quá trình học tập của bản thân
- Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi
trong hoạt động nhận thức con người phải xuất phát từ thực tiễn để đạt đc chân
lý, coi chân lý là 1 quá trình, đồng thời phải thường xuyên tự giác vận dụng
chân lý vào hoạt dộng thực tiễn để phát triển thực tiễn.
- Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức
đó vào hoạt động kinh tế xã hội, nâng cao hiệu quả của hoạt động thực tiễn của
con người.

Câu 28: Khái niệm và các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất-kỹ thuật của hình thái kinh tế-xã hội;
là mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất vật
chất, thể hiện năng lực thực tế chinh phục giới tự nhiên bằng sức mạnh của con
người trong quá trình đó. Sự phát triển của lực lượng sản xuất quy định sự hình
thành, tồn tại và chuyển hoá giữa các hình thái kinh tế-xã hội, từ hình thái thấp,
ít tiến bộ lên hình thái cao, tiến bộ hơn.
VD: Công nghệ 4.0, Người công nhân đứng cạnh cái máy kéo đã chết thì chưa
là LLSX, kinh nghiệm lao động của con người,…
Các yếu tố của lực lượng sản xuất:
1) Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động - bộ phận của giới tự nhiên được
đưa vào sản xuất, chịu sự tác động của con người (nông nghiệp, công nghiệp
nặng,…); công cụ lao động - những vật thể hay phức hợp vật thể nối con người
với đối tượng lao động, truyền tác động từ con người đến đối tượng lao động
(cuốc, xẻng, máy tính, máy xúc,…); phương tiện lao động gồm đường xá, cầu
cống, kho tàng, bến bãi, phương tiện vận chuyển và thông tin liên lạc.
2) Người lao động là những người có thể lực, kỹ năng, kinh nghiệm lao
động và biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Người lao
động phát triển về thể lực, trí lực, nhạy bén và tính sáng tạo trong lao động. Trí
tuệ cao, trình độ chuyên môn giỏi, đạo đức nghề nghiệp trong sáng là những
yếu tố quan trọng của người lao động. VD: bác sĩ, kĩ sư, nông dân,…
3) Khoa học được coi là một trong những yếu tố thành phần của lực lượng
sản xuất. Hiện nay,khái niệm khoa học còn được mở rộng sang lĩnh vực công
nghệ. Khoa học-công nghệ đang trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp", trở
thành "lực lượng sản xuất độc lập" là đặc điểm thời đại của sản xuất vật chất
hiện nay.
VD: Trí tuệ nhân tạo AI, Người nông dân Mỹ áp dụng khoa học kỹ thuật vào
sản xuất cho ra đời quả bí đỏ nặng 437kg
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là trình độ của công cụ lao động;
trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội; trình độ ứng dụng các thành tựu
khoa học vào sản xuất; kinh nghiệm, kỹ năng lao động thể hiện qua khả năng
chinh phục tự nhiên của con người.

Câu 29. Khái niệm và các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất thể hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội); là quan hệ cơ bản, quy định mọi quan
hệ xã hội khác; phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo
thành cơ sở hạ tầng của xã hội và là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt chế độ
xã hội. Trong quy luật này, quan hệ sản xuất mang tính thứ hai, do lực lượng
sản xuất quy định.
VD: trong 1 nhà máy khi công nhân góp cổ phần thì họ vừa có quyền sở hữu
và quyền sử dụng.
Các yếu tố của quan hệ sản xuất.
1) Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất - là quan hệ sở hữu giữa “những
nhóm người”; quy định địa vị của từng nhóm người trong sản xuất xã hội. VD:
Địa chủ - Nông dân
2) Quan hệ trong tổ chức, quản lý và phân công lao động có khả năng quy
định quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng của sản xuất vật chất cụ thể. VD:
Chủ tịch, tổng giám đốc, trưởng phòng, phó phòng, thư kí, nhân viên,…
3) Quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động là khâu cuối cùng của quá
trình sản xuất vật chất. Tính chất và hình thức phân phối, mức độ thu nhập
của các giai cấp và của các tầng lớp xã hội đều phụ thuộc vào quan hệ sở hữu
tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức, quản lý và phân công lao động. VD: người
mua – người bán
Trong quá trình sản xuất vật chất, ba thành phần cơ bản trên đây của quan hệ
sản xuất có quan hệ hữu cơ với nhau tạo nên sự ổn định tương đối so với sự
vận động thường xuyên của lực lượng sản xuất. Mỗi yếu tố của quan hệ sản
xuất có vai trò và ý nghĩa tác động lên sản xuất xã hội khác nhau; trong đó
quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất đóng vai trò quy định đối với hai quan hệ còn
lại và quan hệ trong tổ chức, quản lý và phân công lao động và quan hệ trong
phân phối sản phẩm lao động có thể góp phần củng cố, phát triển quan hệ sản
xuất và cũng có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu tư liệu đó.

Câu 30. Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất
1) Lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định quan hệ sản xuất
– Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất và cách mạng nhất, là nội dung của
phương thức sản xuất, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, là hình
thức xã hội của phương thức sản xuất. Trong mối quan hệ giữa nội dung và
hình thức thì nội dung quyết định hình thức.
VD: Thời phong kiến, làm nông là chủ yếu nên hình thành QHSX địa chủ -
nông dân.
– Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất biến đổi theo phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Khi tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất phát triển đến mức nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất
hiện có, đòi hỏi xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ để hình thành quan hệ sản xuất mới
phù hợp với lực lượng sản xuất đang phát triển, làm phương thức sản xuất cũ
mất đi, phương thức sản xuất mới xuất hiện. VD: săn bắn hái lượm– trồng trọt
chăn nuôi – thuê người làm – làm nông trên diện rộng…
– Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao qua các thời kỳ lịch sử
khác nhau đã quyết định sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất
mới cao hơn, đưa loài người trải qua nhiều hình thái kinh tế – xã hội khác nhau
từ thấp lên cao, với những kiểu quan hệ sản xuất khác nhau. VD: Chiếm hữu
nô lệ - Phong kiến - TBCN
2.Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
– Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất sẽ
tạo địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, trở thành động
lực cơ bản thúc đẩy, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. VD: trong
cơ quan xí nghiệp sản xuất hàng hóa nhiều và tốt, năng suất lao động tăng,
người lao động hăng hái sản xuất.
– Khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu không còn phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất thì nó trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm
sự phát triển của lực lượng sản xuất. VD: sản phẩm máy moc thủ công – hai
người lái máy cày bằng người cuốc ruộng suy ra không còn đúng, dẫn đến cản
trở; ở Việt Nam xây dựng hợp tác xã cấp cao quá nhanh (cấp xã) cải tạo công
thương nghiệp ồ ạt, mang tính chiến dịch trong khi trình độ lực lượng sản xuất
thấp kém.
– Quan hệ sản xuất có thể tác động (thúc đẩy kìm hãm) sự phát triển của lực
lượng sản xuất, vì nó quy định mục đích của sản xuất; ảnh hưởng đến thái độ
lao động của quần chúng; kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ, việc áp
dụng thành tựu khoa học – kỹ thuật vào sản xuất, việc hợp tác và phân công lao
động, v.v.. VD: Mối quan hệ giữa sếp và nhân viên tốt, sếp có nhiều chính sách
khen thưởng xứng đáng thì nhân viên tích cực làm việc hiệu quả, doanh thu
cao.

– Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và chỉ thông qua đấu tranh
giai cấp mới giải quyết được mâu thuẫn đó để đưa xã hội tiến liên. VD: vô sản
– tư bản.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất biểu hiện sự vận động nội tại của phương thức sản xuất khác
cao hơn. Quy luật này là quy luật phổ biến tác động trong mọi xã hội, làm cho
xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao.
VD: Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta: chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nước công nghiệp lạc hậu với lực lượng
sản xuất đậm chất nông nghiệp với quan hệ làm chung, chia đều nên đã gặp
phải những khó khăn lớn trong những năm trước năm 1986; sau năm 1986 lực
lượng sản xuất ngày càng phát triển, quan hệ sản xuất cũng đa
dạng hơn nên sau hơn 15 năm, nước ta đã từ một nước nông nghiệp lạc hậu
chuyển dần lên thành một nước công hoá.

VẬN DỤNG
Từ lý luận và thực tiễn cho chúng ta thấy rằng, lực lượng sản xuất chỉ có thể
phát triển khi có một quan hệ sản xuất phù hợp với nó. Trong công cuộc đổi
mới kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), VII (1991), VIII (1996)
và lần thứ IX (2001), Đảng ta đã “chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trườmg có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
Đường lối đó xuất phát từ trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta vừa thấp kém,
vừa không đồng đều nên chúng ta không thể nóng vội, chủ quan như trước đây
để xây dựng một quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa
về tư liệu sản xuất. Như thế, sẽ đẩy quan hệ sản xuất vượt quá xa (không phù
hợp) so với lực lượng sản xuất vốn có. Vì vậy,
thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định
hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm khơi dậy tiềm năng của sản xuất, năng lực
sáng tạo, chủ động, kích thích lợi ích… đối với các chủ thể lao động trong quá
trình sản xuất, kinh doanh để thúc đẩy sản xuất phát triển theo đúng mục đích
“Phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất –
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp
trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối”
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, do vậy,
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đi đôi với việc củng cố quan hệ sản
xuất là phát triển lực lượng sản xuất bằng cách tiến hành công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Đảng ta đã khẳng định: “về thực chất, công nghiệp hoá, hiện đại hóa là
quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang
sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ
khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Vấn đề then chốt
của quá trình này là cải biến lao động thủ công thành lao động sử dụng kỹ thuật
tiên tiến trong toàn bộ nền kinh tế để đạt được năng suất lao động xã hội cao.
Song, đó không chỉ là sự tăng thêm một cách giản đơn tốc độ và tỷ trọng của
sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà còn là cả một quá trình chuyển dịch
cơ cấu, gắn liền với đổi mới công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng bền
vững và có hiệu quả cao của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Như vậy, có thể nói, công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay là một quá trình rộng
lớn và phức tạp, được triển khai đồng thời với quá trình hiện đại hóa và luôn
gắn bó với quá trình hiện đại hóa. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ấy
phải thật sự lấy phát triển giáo dục – đào tạo, khoa học và công nghệ làm nền
tảng và động lực. Phát triển giáo dục – đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi về nguồn nhân lực
của công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.

Câu 32. Khái niệm cơ sở hạ tầng và các yếu tố cầu thành cơ sở hạ tầng
Định nghĩa. Cơ sở hạ tầng là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản
xuất tạo nên cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
VD: cơ sở hạ tầng của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện
nay là một kết cấu kinh tế nhiều thành phần (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể,
kinh tế tư nhân tư bản,...) trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo.
Các yếu tố của cơ sở hạ tầng.
1) QHSX của phương thức sản xuất trước đó (QHSX tàn dư).VD: Phong kiến
2) QHSX của phương thức sản xuất đang tồn tại chủ đạo (QHSX thống trị).
VD:XHCN
3) QHSX của phương thức sản xuất tương lai (QHSX mầm mống tương lai).
VD:CSCN
Các yếu tố của cơ sở hạ tầng- hệ thống các quan hệ sản xuất của một phương
thức sản xuất nhất định- một mặt, trong quan hệ đối với lực lượng sản xuất, giữ
vai trò là hình thức kinh tế cho sự duy trì, phát huy và phát triển lực lượng sản
xuất đang tồn tại; mặt khác- trong quan hệ đối với các quan hệ chính trị-xã hội,
giữ vai trò là cơ sở hình thành kết cấu kinh tế- cơ sở cho sự thiết lập kiến trúc
thượng tầng của xã hội.

Câu 33. Khái niệm kiến trúc thượng tầng và các yếu tố cấu thành
Định nghĩa: là toàn bộ những quan điểm xã hội (chính trị, pháp luật, triết học,
đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học v.v) với những thiết chế tương ứng
(nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội v.v) và những mối quan hệ
nội tại giữa các yếu tố đó của kiến trúc thượng tầng. Toàn bộ những quan hệ
sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó
dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý, chính trị và những hình thái ý thức
xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hạ tầng hiện thực đó.
VD: Tư tưởng HCM, CN Mác – Lê-nin, Mặt trận Tổ quốc VN, Hội Phụ nữ,…
Các yếu tố cơ bản của một kiến trúc thượng tầng
1) quan điểm xã hội và thiết chế tương ứng của giai cấp đang thống trị . VD:
Bản chất của nhà nước, pháp luật xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam đều do
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa qui định. Do đó, bản chất của nhà nước cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
2) tàn dư những quan điểm xã hội của xã hội trước.
3) quan điểm và tổ chức xã hội của các giai cấp mới ra đời.
4) quan điểm và tổ chức xã hội của các tầng lớp trung gian.
Những quan điểm xã hội và thiết chế tương ứng của giai cấp đang thống trị quy
định tính chất kiến trúc thượng tầng. Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của kiến
trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp là nhà nước; công cụ vật chất cụ thể
của giai cấp thống trị về mặt kinh tế, chính trị và pháp luật. Nhờ có nhà nước
mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới được truyền bá và thống trị được đời
sống xã hội. Giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế và nắm chính
quyền nhà nước thì hệ tư tưởng và các thể chế giai cấp đó cũng giữ địa vị
thống trị trong xã hội.

Câu 34. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng
tầng
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
– Cơ sở hạ tầng sinh ra kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng của một xã hội
nhất định như thế nào, tính chất của nó ra sao, giai cấp đại diện cho nó thế nào
thì hệ thống tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, v.v.. và các
quan hệ; các thể chế tương ứng với những tư tưởng ấy cũng như vậy. VD:
QHSX phong kiến sinh ra Nhà nước phong kiến.

– Cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi
đó xảy ra trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội. Trong xã hội có đối kháng giai
cấp, sự biến đổi đó diễn ra thông qua cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp.
VD: chuyển từ QHSX PK sang QHSX TBCN đồng thời chuyển từ nhà nước
PK sang nhà nước TBCN.
– Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc tượng tầng là quy luật phổ biến của mỗi
hình thái kinh tế - xã hội. VD: thời nào cũng thế, PK – TBCN – XHCN.

Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
– Bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó; đấu tranh xoá
bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ.
– Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ
tầng bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó nhà nước giữ vai trò đặc biệt
quan trọng có tác động to lớn nhất và trực tiếp đối với cơ sở hạ tầng.
– Trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội, kiến trúc thượng tầng có những quá
trình biến đổi nhất định. Quá trình đó càng phù hợp với cơ sở hạ tầng thì sự tác
động của nó đối với cơ sở hạ tầng càng có hiệu quả và ngược lại.
– Trong thời đại ngày nay, vai trò của kiến trúc thượng tầng tăng lên rõ rệt,
càng thể hiện với tư cách là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến tiến trình lịch
sử. Song nếu quá nhấn mạnh hoặc thổi phồng vai trò của kiến trúc thượng tầng
đến mức phủ định tính tất yếu kinh tế của xã hội, thì sẽ rơi vào chủ nghĩa duy
tâm chủ quan, duy ý chí.
VD: Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta
– Cơ sở hạ tầng trong thời ký quá độ ở nước ta bao gồm các kiểu quan hệ sản
xuất gắn liền với các hình thức sở hữu tương ứng với các thành phần kinh tế
khác nhau, thậm chí đối lập nhau, cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế thống
nhất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
– Về xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là hệ thống
chính trị xã hội mang tính chất giai cấp công nhân, do đội tiền phong của nó là
Đảng cộng sản Việt Nam.
Các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị – xã hội không tồn tại như
một mục đích tự thân mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và
quyền lực thuộc về nhân dân lao động.
Nêu những đặc điểm của cơ sở hạ tầng và kiến trúc hạ tầng ở nước ta hiện nay
Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế như:
kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, kinh
tế tư bản tư nhân, cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu
khác nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc
dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính
chất, lại vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất,
chúng vừa cạnh tranh nhau, vừa liên kết, bổ sung với nhau.
Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước
phải sử dụng tổng thể các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục. Trong đó
biện pháp kinh tế có vai trò quan trọng nhất nhằm từng bước xã hội hoá nền
sản xuất với hình thức và bước đi thích hợp theo hướng: kinh tế quốc doanh
được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới
hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề,
các hình thức xí nghiệp, công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và
gia đình phát huy được mọi tiềm năng.
Đảng ghi rõ “phải tập trung nguồn vốn đầu tư nhà nước cho việc xây dựng cơ
sở hạ tầng kinh tế xã hội và một số công trình công nghiệp then chốt đã được
chuẩn bị vốn và công nghệ. Nâng cấp và xây dựng mới hệ thống giao thông,
sân bay, bến cảng, thông tin liên lạc, giáo dục và đào tạo, y tế ”, “Từ nay tới
cuối thập kỷ, phải quan tâm tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và
kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công
nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu”.

Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng,
toàn dân ta, giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột thoát khỏi nỗi nhục của
mình là đi làm thuê bị đánh đập, lương ít.

Bởi vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, việc giáo
dục truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởnh
chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội là việc làm thường xuyên, liên tục
của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kiến trúc thượng tầng.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng
ghi rõ:“xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa , nhà nước của dân, do dân và vì
dân, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức
làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo ”. Như vậy, tất cả các tổ chức, bộ
máy tạo thành hệ thống chính trị - xã hội không tồn tại như một mục đích tư
nhân mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và quyền lợi thuộc
về nhân dân lao động.
Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một bước
giải quyết mâu thuẫn giữa chúng. Việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng điều
chỉnh và củng cố các bộ phận của kiến trúc thượng tầng là một quá trình diễn
ra trong suốt thời kỳ quá độ.

Câu 35. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cấu thành
Tồn tại xã hội là toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội bao
gồm:
Hoàn cảnh địa lý. VD: các điều kiện khí hậu, đất đai, sông hồ,… tạo nên đặc
điểm riêng có của không gian sinh tồn của cộng đồng xã hội.
Điều kiện dân số. VD: cách thức và mô hình tổ chức dân cư, tính chất lưu dân
cư.
Phương thức sản xuất ra của cải vật chất. VD: phương thức kỹ thuật canh nông
lúa nước là nhân tố cơ bản tạo thành điều kiện sinh hoạt vật chất truyền thống
của người Việt Nam.
Trong ba nhân tố đó thì phương thức sản xuất của cải vật chất là nhân tố quyết
định đối với tồn tại xã hội. VD: Trong điều kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió
mùa, nhiều sông ngòi,... tất yếu làm hình thành nên phương thức canh tác lúa
nước là thích hợp nhất đối với người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử
hàng nghìn năm qua. Để tiến hành được phương thức đó, người Việt buộc phải
co cụm lại thành tổ chức dân cư làng, xã, có tính ổn định bền vững.

Câu 36 Khái niệm ý thức xã hội và các cấp độ của ý thức xã hội
Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm những tư
tưởng, quan điểm, lý luận, tình cảm, tâm trạng, tập quán, truyền thống v.v..
phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử.
Ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng, có chung một nguồn gốc
là phản ánh tồn tại xã hội và giữa chúng có quan hệ tác động lẫn nhau. Những
hệ tư tưởng xã hội không nảy sinh tự phát từ tâm lý xã hội và không phải là sự
biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội.
- Tâm lý xã hội - là hiện tượng tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ
những tình cảm, tâm trạng, tập quán, thói quen, tập quán,… của con người, của
một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội được hình thành một cách tự phát
dưới tác động trực tiếp của điều kiện sống hàng ngày của họ và phản ánh đời
sống đó. VD: Thói quen ăn trầu, nhuộm răng đen,tính tò mò,…
- Hệ tư tưởng bao gồm những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa thành
lý luận, thành các học thuyết về xã hội, được hình thành một cách tự giác. Với
tính cách là hệ thống lý luận về xã hội, hệ tư tưởng có vai trò chỉ đạo thực tiễn,
hoạt động cải tạo xã hội của giai cấp. VD: hệ tư tưởng phong kiến, Khổng Tử,
hệ tư tưởng tư sản, …
Trong xã hội có giai cấp xã hội có tính giai cấp. Tính giai cấp của ý thức xã hội
thể hiện cả trong hiện tượng tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. Về mặt tâm lý xã
hội, mỗi giai cấp có tình cảm, tâm trạng, thói quen, riêng. Về mặt hệ tư tưởng
thì tính giai cấp thể hiện sâu sắc hơn. Các giai cấp đối khác nhau thì có các
quan điểm chính trị, đạo đức, pháp luật khác
nhau, thậm chí đối lập nhau.
VD: các quan điểm chính trị, pháp luật, v.v của giai cấp thống trị và giai cấp bị
trị thường đối lập nhau. Tư tưởng của thời đại là tư tưởng của giai cấp thống trị
về kinh tế và chính trị của thời đại đó. Ý thức xã hội của các giai cấp khác nhau
tác động lẫn nhau.

Câu 37. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử, khi xác định tồn tại xã hội là một hình thức đặc biệt
của vật chất, có xuất phát điểm từ "không phải ý thức của con người quy định
sự tồn tại của họ, mà ngược lại, tồn tại xã hội của họ quy định ý thức của họ"
và khẳng định "ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội". Sự phản ánh đó là quá
trình biện chứng phức tạp, là kết quả của mối liên hệ tích cực giữa con người
với thực tiễn.
a. Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội
1) Tồn tại xã hội là cái thứ nhất, ý thức xã hội là cái thứ hai. Tồn tại xã hội
quy định nội dung, bản chất, xu hướng vận động của ý thức xã hội; ý thức xã
hội phản ánh cái lôgíc khách quan của tồn tại xã hội. Sự biến đổi của một thời
đại nào đó sẽ không thể giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại
đó, mà phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất,
bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ
xã hội.
VD: Những người dân miền Tây sống quen với sông nước nên hình thành nền
văn hóa sông nước và kinh tế phát triển dựa trên những lợi ích khai thác được
từ sông nước.
2) Tồn tại xã hội thay đổi là điều kiện quyết định để ý thức xã hội thay đổi.
Mỗi khi tồn tại xã hội, đặc biệt là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư
tưởng và lý luận xã hội cũng dần biến đổi theo. Chính vì vậy, ở những thời kỳ
lịch sử khác nhau, nếu có những quan điểm, tư tưởng, học thuyết xã hội khác
nhau về cùng một vấn đề thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống
vật chất của các thời kỳ lịch sử khác nhau quy định.
VD: Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ của lực lượng sản xuất còn hết sức
thấp kém, mọi người còn sống chung, làm chung, hưởng chung nên chưa có
quan niệm tư hữu, chưa có ý thức bóc lột. Nhưng khi chế độ công xã nguyên
thuỷ tan rã, chế độ tư hữu ra đời xã hội phân chia giầu nghèo, bóc lột và bị bóc
lột thì ý thức con người cũng thay đổi căn bản: tư tưởng ăn bám, tư hữu, bóc
lột, chủ nghĩa cá nhân…xuất hiện.
3) Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội không giản đơn, trực tiếp mà
thường thông qua các khâu trung gian. Không phải bất kỳ tư tưởng, quan
niệm, lý luận, hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp
những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi xét cho đến cùng mới thấy rõ
những mối quan hệ kinh tế được phản ánh trong các tư tưởng ấy.
VD: Trong xã hội phong kiến, khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và
dần dần lớn mạnh thì cũng nảy sinh quan niệm cho rằng sự tồn tại của chế độ
phong kiến là trái công lý, không phù hợp với lý tính con người phải được thay
thế bằng xã hội công bằng, bình đẳng,bác ái. Ngay cả khi chủ nghĩa tư bản mới
ra đời, đã xuất hiện các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng phê
phán những mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản, đề xuất xây dựng một xã
hội mới tốt đẹp hơn, thay thế chế độ tư bản.
b. Tính độc lập tương đối và sự tác động ngược trở lại của ý thức xã hội
- Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
1) ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội do không phản ánh kịp
những thay đổi của tồn tại xã hội do sức ỳ của thói quen, truyền thống, tập
quán và tính bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội v.v… tiếp tục tồn tại
sau khi những điều kiện lịch sử sinh ra chúng đã mất đi từ lâu; do lợi ích nên
không chịu thay đổi. VD: Một số hủ tục lạc hậu: chữa bệnh bằng bùa chú,
người Mông phơi xác chết hàng chục ngày rồi mới mai táng.
2) ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội. Do tính năng động của ý thức,
trong những điều kiện nhất định, tư tưởng, đặc biệt là những tư tưởng khoa học
tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội; dự báo được quy luật
và có tác dụng tổ chức,hướng hoạt động thực tiễn của con người vào mục đích
nhất định. Đó cũng là vai trò to lớn của những tư tưởng tiên tiến, khoa học; tuy
nhiên, sự vượt trước này cũng có khả năng là ảo
tưởng.
VD: Chủ nghĩa Mác Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - giai cấp
cách mạng nhất của thời đại. Tuy ra đời vào thế kỷ XIX, trong lòng chủ nghĩa
tư bản nhưng chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ rõ qui luật của chủ nghĩa tư bản nói
riêng. Qua đó khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản nhất định sẽ bị thay thế bằng
chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Học thuyết đó đã trang bị cho giai cấp công nhân và chính đảng cộng sản vũ
khí lý luận sắc bén để giải phóng mình và giải phóng nhân dân lao động, các
dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới thoát khỏi ách nô dịch, bóc lột, xây dựng
một xã hội hoàn toàn tốt đẹp. Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác Lênin
vẫn là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất cho nhận thức và cải tạo
thế giới trên mọi lĩnh vực, vẫn là cơ sở lý luận và phương pháp khoa học cho
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
3) ý thức xã hội có tính kế thừa. Quan điểm, lý luận của mỗi thời đại được tạo
ra trên cơ sở kế thừa những thành tựu lý luận của các thời đại trước. Kế thừa có
tính tất yếu khách quan; có tính chọn lọc và sáng tạo; kế thừa theo quan điểm
lợi ích; theo truyền thống và đổi mới. Do vậy, nếu không chú ý đến sự phát
triển tư tưởng của các giai đoạn lịch sử trước được kế thừa trong ý thức xã hội
mới, thì khó giải thích được một tư tưởng nhất định. VD: chủ nghĩa Mác
Lênin, kế thừa tinh hoa tư tưởng của loài người đã đạt được trước đó mà trực
tiếp là nền triết học cổ điển Đức, nền kinh tế chính trị học cổ điển Anh và chủ
nghĩa xã hội không tưởng ở Pháp.
Lịch sử phát triển của các tư tưởng cho thấy những giai đoạn hưng thịnh và suy
tàn của tư tưởng nhiều khi không phù hợp hoàn toàn với những giai đoạn hưng
thịnh và suy tàn của nền kinh tế. Điều này chỉ ra rằng, vì sao một nước có trình
độ kinh tế kém phát triển, nhưng tư tưởng lại ở trình độ phát triển cao. VD:
Nước Pháp thế kỷ XVIII nền kinh tế kém phát triển hơn nước Anh, nhưng tư
tưởng lại tiên tiến hơn nước Anh, hoặc so với nước Anh, Pháp nửa đầu thế kỷ
XIX, nước Đức lạc hậu hơn về kinh tế, nhưng đứng ở trình độ cao hơn về triết
học.
4) Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội cũng gây ảnh hưởng tới
tồn tại xã hội. Thông thường, trong mỗi thời đại, tuỳ theo những hoàn cảnh lịch
sử cụ thể, có những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu tác động và
chi phối các hình thái ý thức xã hội khác.
VD: Ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt quan trọng,
còn ở Tây Âu thời trung cổ, tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt của đời
sống tinh thần xã hội như triết học, nghệ thuật, đạo đức, chính trị, pháp quyền,
ở giai đoạn lịch sử sau này thì ý thức chính trị lại đóng vai trò to lớn tác động
đến các hình thái ý thức xã hội khác nhau.
- Sự tác động ngược trở lại của ý thức xã hội lên tồn tại xã hội là biểu hiện
quan trọng của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.
Đó là sự tác động nhiều chiều với các phương thức phức tạp. Sự tác động này
thể hiện mức độ phù hợp giữa tư tưởng với hiện thực; sự xâm nhập của ý thức
xã hội vào quần chúng cả chiều sâu, chiều rộng và phụ thuộc vào khả năng
hiện thực hoá ý thức xã hội của giai cấp và đảng phái.
VD: nguyên lý của triết học Mác Lênin về tính độc lập tương đối của ý thức xã
hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý thức xã hội và của đời
sống tinh thần xã hội nói chung. Nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc
tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức XH.
Như vậy, ý thức xã hội, với tính cách là thể thống nhất độc lập, tích cực tác
động ngược trở lại lên tồn tại xã hội nói riêng và lên đời sống xã hội nói chung.

3.Ý nghĩa thực tiễn của vấn đề này trong giai đoạn hiện nay
Trong giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, những tàn dư của tư
tưởng cũ vẫn còn, mặt tích cực và tiêu cực trong tình hình tư tưởng trong Đảng
và trong nhân dân hiện nay vẫn còn đan xen nhau. Trong đó mặt tích cực là cơ
bản, đã và đang quyết định chiều hướng phát triển của xã hội, là nguyên tố
quan trọng tạo nên thắng lợi của cuộc đổi mới đất nước. Tính tích cực năng
động sáng tạo của các tầng lớp nhân dân ngày càng rõ trên các lĩnh
vực xã hội, phát huy tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, lòng yêu nước, ý
thức tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống cách mạng và lịch sử bản sắc dân tộc
được tiếp tục giữ gìn và phát huy. Tuy nhiên, hiện nay nhiều vấn đề xã hội còn
phức tạp. Những hạn chế mơ hồ về tư tưởng, nhận thức và tình trạng suy thoái
về đạo đức lối sống khá phổ biến, nhất là trong một bộ phận không nhỏ cán bộ
- Đảng viên chưa được ngăn chặn hình thức phai nhạt lý tưởng
cách mạng sa sút phẩm chất đạo đức tệ quan liêu tham nhũng lãng phí chủ
nghĩa cá nhân tư tưởng cơ hội thực dụng có chiều hướng phát triển. Những mặt
tiêu cực là nguy cơ tiềm ẩn liên quan sự mất còn của Đảng.
Từ tình hình đó, Đảng ta chủ trương toàn Đảng phải nghiêm túc học tập chủ
nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng bồi dưỡng nâng cao
đạo đức cách mạng và mục tiêu của cuộc cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng cần
đạt được là xây dựng nền văn hóa mới và con người mới XHCN. Vì thế, nhiệm
vụ trọng tâm về tư tưởng là làm cho chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng HCM
giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Còn nhiệm vụ cấp bách
về văn hóa là xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và nêu
cao tinh thần trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các
thành viên có lối sống văn hóa, đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa; ngăn chặn việc phục hồi các thủ tục, khắc phục tình
trạng mê tín đang có xu hướng lan rộng trong xã hội”. Mặt khác, ta phải biết
chọn lọc, tiếp thu, kế thừa những thành quả văn minh, những di sản quý giá do
loài người tạo ra bao thế hệ những thành tựu văn hóa, khoa học hiện đại đồng
thời cũng kiên quyết chống chủ nghĩa hư vô và khuynh hướng siêu giai cấp
trong việc kế thừa di sản để lại.

Việc tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến việc gia tăng hiệu quả kinh tế. Hiệu quả
kinh tế gắn liền với hiệu quả xã hội. Việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế tạo cơ
hội cho mọi tầng lớp nhân dân tự do làm ăn theo pháp luật sẽ là một tiến bộ về
mặt xã hội, là thực hiện dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế, từ đó giải quyết tốt
hơn việc làm thu nhập và đời sống. Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế tự nó không
thể giải quyết được tất cả các vấn đề xã hội trong đó có sự phân hóa giàu nghèo
là không tránh khỏi. Do đó, trong đường lối phát triển kinh tế xã hội, một mặt
Đảng và Nhà nước ta chủ trương bảo vệ và khuyến khích công dân làm giàu
hợp pháp,được hưởng thụ văn hóa, giáo dục đào tạo, chăm lo y tế, được hưởng
thụ xứng đáng với công sức, tiền của bỏ vào sản xuất, chống tư tưởng bình
quân, ỷ lại, đãi ngộ xứng đáng tài năng; một mặt Đảng và Nhà nước phải chăm
lo việc thực hiện phân phối công bằng theo lao động, mở rộng phúc lợi xã hội,
đổi mới tốt chính sách bảo hiểm xã hội, bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể lực cho
nhân dân, bảo đảm nhu cầu thuốc chữa bệnh. Thực hiện tốt chính sách đền ơn
đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, tạo phong trào đoàn kết giúp đỡ trong nhân dân
theo truyền thống “lá lành đùm lá rách” tương thân tương ái đùm bọc lẫn nhau.
Đẩy mạnh hơn nữa chống tham nhũng, bất công xã hội nghiêm trọng hiện nay.
Cải cách chế độ tiền lương để người lao động hăng hái làm việc đủ sống và
nâng cao mức sống, mức đóng góp cho xã hội. Ngược lại chính việc giải quyết
tốt những vấn đề xã hội là điều kiện quyết định để thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. Chúng ta không thể sớm có ngay một xã hội tốt đẹp trong khi kinh tế nước
ta còn kém phát triển, năng suất lao động thấp, kinh tế kỹ thuật còn lạc hậu
nhưng ta phải kết hợp ngay từ đầu tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội.

Tóm lại, vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
Đảng đã xác định đúng đắn đường lối phát triển kinh tế gắn chặt với công bằng
xã hội và phát triển mạnh mẽ văn hóa giàu bản sắc dân tộc ở nước ta, đó là điều
kiện đảm bảo sự thành công và bền vững cho tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
Câu 38. Tính đọc lập tương đối của ý thức xã hội với tồn tại xã hội (đã có ở
câu 37)
Câu 39. Hình thái kinh tế - xã hội là gì? Tại sao nói “sự phát triển của
những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”?
1. Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng
để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất
đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản
xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những
quan hệ sản xuất đó. Nó chính là các xã hội cụ thể được tạo thành từ sự thống
nhất biện chứng giữa các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong từng giai
đoạn lịch sử nhất định.
VD: Công xã nguyên thủy – Chiếm hữu nô lệ - Phong kiến – CNTB – XHCN.
2. Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử
- tự nhiên
1) Sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con
người mà tuân theo các quy luật khách quan: các quy luật của cấu trúc hình
thái kinh tế - xã hội, và hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, khoa học,... mà trước hết và cơ bản nhất là quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật
kiến trúc thưọng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.
2) Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại,
của mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,... của xã hội, đều có nguyên nhân
trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội đó.
V.I.Lênin từng nhấn mạnh một phương pháp luận quan trọng khi nghiên cứu
về xã hội là: "Chỉ cố đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản
xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực
lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự
phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên". VD:
CXNT – CHNL – PK – TBCN – XHCN.
3) Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức là quá trình thay
thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại và sự phát
triển của lịch sử xã hội loài người có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ
quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác động của các quy
luật khách quan. Dưới sự tác động của quy luật khách quan mà lịch sử nhân
loại, xét trong tính chất toàn bộ của nó là quá trình thay thế tuần tự của các
hình thái kinh tế - xã hội: nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và
tương lai nhất định thuộc về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong khi khẳng định tính chất lịch sử - tự nhiên, tức tính quy luật khách quan
của sự vận động, phát triển xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đồng thời
khẳng định vai trò của các nhân tố khác đối với tiến trình phát triển của lịch sử
nhân loại nói chung và lịch sử mỗi cộng đồng người cụ thể nói riêng. Đó là sự
tác động của các nhân tố thuộc về điều kiện địa lý, tương quan lực lượng chính
trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội, truyền thống văn hóa của
mỗi cộng đồng người, điều kiện tác động của tình hình quốc tế đối với tiến
trình phát triển của mỗi cộng đồng người trong lịch sử, v.v. Chính do sự tác
động của các nhân tố này mà tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người có
thể diễn ra với những con đường, hình thức và bước đi khác nhau, tạo nên tính
phong phú, đa dạng trong sự phát triển của lịch sử nhân loại. Tính chất phong
phú, đa dạng của tiến trình phát triển các hình thái kinh tế - xã hội có
thể bao hàm những buớc phát triển "bỏ qua" một hay một vài hình thái kinh tế -
xã hội nhất định. Tuy nhiên, những sự "bỏ qua" như vậy đều phải có những
điều kiện khách quan và chủ quan nhất định.
Như vậy, lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng
người nói riêng vừa tuân theo tính tất yếu của các quy luật xã hội, vừa chịu sự
tác động đa dạng của cácnhân tố khác nhau, trong đó có cả nhân tố hoạt động
chủ quan của con người. Từ đó lịch sử phát triển của xã hội được biểu hiện ra
là lịch sử thống nhất trong tính đa dạng và đa dạng
trong tính thống nhất của nó.

Câu 40. Bản chất con người?


1. Khái niệm con người
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội có sự thống nhất biện
chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
Bản tính tự nhiên của con người:
1) con người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự
nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự
phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết
của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.
2) con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng
"là thân thể vô cơ của con người". Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên và
tác động của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định
sự tồn tại của con người và xã hội loài người; ngược lại, sự biến đổi và hoạt
động của con người tác động trở lại môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi
trường. Đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con người,
loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên. VD: Vùng ven sông có điều
kiện tự nhiên thuận lợi, dồi dào nguồn thức ăn, nguồn nước đầy đủ nên con
người tập trung sinh sống tại đây, khai thác các nguồn tài nguyên và nguồn lợi
từ sông nước mang lại. Nhưng trong quá trình đó, con người sản xuất, khi khai
thác quá đà khiến thiên nhiên nơi đây cạn kiệt, xói mòn, sạt lở, xuống cấp, ô
nhiễm, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường.

Tuy nhiên, con nguời không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên,
nó mang đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là "người" chính là
xét trong mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia đình,
giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại.... Vì vậy, bản tính xã hội nhất định phải
là một phương diện khác của bản tính con người, hơn nữa đây là bản tính đặc
thù của con người.
Bản tính xã hội của con người:
1) xét từ giác độ nguồn gốc hình thành, loài người có nguồn gốc xã hội, cơ bản
nhất là nhân tố lao động. Nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua
loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người. VD: Người cổ đại ăn lông
ở lỗ, sống trong các hang đá nguyên thủy và hoang dã như các loài động vật.
Qua lao động, con người biết chế tạo và sử dụng các công cụ lao động, sử dụng
lửa,… để chinh phục thiên nhiên.
2) xét từ giác độ tồn tại và phát triển, sự tồn tại của loài người luôn luôn bị chi
phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con
người cũng có sự thay đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân
lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con
người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật thuần túy, không thể là
"con người" với đầy đủ ý nghĩa của nó. VD: xã hội phong kiến
buộc con người sống trong khuôn khổ, luật lệ, giáo điều với những tư tưởng
khắt khe, nhưng khi con người được giải phóng, bước sang chế độ XHCN thì
con người văn minh hơn, tân tiến hơn.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất,
quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên
khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của
chính nó. Vì thế, nêu lý giải bản tính sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ
giác độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ từ bản tính xã hội thì đều là phiến diện,
không triệt để và nhất định cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai
lầm trong nhận thức và thực tiễn.
2. Bản chất con người
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Giới tự
nhiên là "thân thể vô cơ của con người"; con người là một bộ phận của tự
nhiên; là kết quả của quá trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự
nhiên. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là
phương diện xã hội của nó. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau
phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ
lao động, là "một động vật có tính xã hội", hoặc con người động vật có tư
duy... Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh
nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc
của bản chất xã hội ấy.

Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con
người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó,
mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. "Có thể phân biệt con
người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì
cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay
khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một
bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống
vật chất của mình".

Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến
giới tự nhiên: "Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản
xuất ra toàn bộ giới tự nhiên".
VD: Người nguyên thủy bắt đầu biết chế tạo công cụ lao động, sản xuất, biết
trồng trọt, canh tác, chặt cây phá rừng làm nương rẫy, biết chăn nuôi, thuần hóa
động vật phục vụ cuộc sống cá nhân, từ đó làm thay đổi giới tự nhiên.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt
động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người.

Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất
và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và
tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình
thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân
trong cộng đồng xã hội. VD: Nghề giáo viên định hình con người mô phạm,
nghiêm túc, chỉn chu; nghề cảnh sát, bộ đội hình thành con người kỉ cương, nề
nếp, cứng rắn,..
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của
con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng
thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù
hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị,
tiến hóa... quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật
tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như
hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy
luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người. Ba hệ thống quy luật
trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người
bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu
xã hội của con người.

Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan
hệ xã hội Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận
đề nổi tiếng:
"Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những
quan hệ xã hội"
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống
trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều
kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá
trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ
trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời
đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người
mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. VD: Người sói, người vượn,
người gà… Một người đàn ông ở quốc đảo Fipji, bị cha mẹ nhốt vào chuồng gà
trong một khoảng thời gian dài. Sau khi trốn ra được thì người đàn ông này ảnh
hưởng hầu hết những tập tính của gà như mổ thức ăn, vỗ cánh và cất tiếng kêu
gọi bầy…

Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là
phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự
nhiên tồn tại trong sự thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những
nhu cầu sinh vật ở con người cũng đã mang tính xã hội. Quan niệm bản chất
con người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức
đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái
sinh vật ở con người.

Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử .Không có thế giới tự nhiên,
không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản
phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan
trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã
khẳng định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm
của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính
những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần
phải được giáo dục". Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt
động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc
đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội.

Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con
người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của
chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự
tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt
xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua
hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù
hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con
người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của
toàn bộ lịch sử xã hội loài người.

Bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn
vận động biến đổi, phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người là hệ thống
mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là "tổng hoà các
quan hệ xã hội", con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư
cách là chủ thể sáng tạo. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch
sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khớp) với sự vận động và biến
đổi của bản chất con người. VD: người nông dân Việt Nam trong chế độ phong
kiến quằn lưng lao động phục vụ cho giai cấp địa chủ; Chí Phèo là sản phẩm
của những quan hệ xã hội trong xã hội phong kiến nửa thực dân thối nát; còn
người nông dân trong XHCN đã chủ động, tích cực, dân chủ và văn minh hơn.

Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho
hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn
bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng
phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định
hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích
cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động
thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí
tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động
vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong
bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.

You might also like