You are on page 1of 231

1

CHƯƠNG 1
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ LÃNH ĐẠO ĐẤU
TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930-1945)

I-Đảng Cộng Sản Việt Nam Ra Đời Và Cương Lĩnh Chính Trị Đầu
Tiên Của Đảng (2/1930)
1.Bối cảnh lịch sử
*Vì sao trong quá trình tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc lại lựa chọn con
đường cách mạng vô sản? Nội dung con đường cách mạng vô sản Việt Nam
được Người nêu lên trong thời gian từ 1920 – 1927

● Nguyễn Ái Quốc lại lựa chọn con đường cách mạng vô sản

Những năm đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam đứng trước những thách thức mới, đó là
tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn. Con đường phong kiến, khuynh hướng tư sản
từng bước dẫn dắt phong trào cách mạng nước ta đi lên nhưng cuối cùng đều thất bại. Đến năm
1920, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc, đó là con đường cách mạng
vô sản.
Bằng những hoạt động thực tiễn của mình Nguyễn Ái Quốc đã có những nhận thức về cách
mạng thế giới và những con đường cứu nước, từ đó Bác lựa chọn con đường đúng đắn cho dân
tộc ta. Nguyễn Ái Quốc (1890-1969) sinh ra trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu
nước, tại một vùng quê giàu tinh thần cách mạng. ý chí quyết tâm tìm đường cứu nước của
Người đã có từ rất sớm. Ngay từ khi còn rất trẻ, Nguyễn ái Quốc đã biết đến con đường cứu
nước theo ý thức hệ phong kiến, hay theo tư tưởng dân chủ tư sản với hai khuynh hướng bạo
động của Phan Bội Châu và ôn hoà của Phan Châu Trinh.
Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Người dã bôn ba khắp năm châu,
và bước đầu có những nhận thức về bạn và thù, Người đã tiếp xúc với nhiều con đường, cách
thức đấu tranh của các dân tộc thuộc địa khác hoặc của ngay bản thân giai cấp công nhân,....
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi, chủ nghĩa Mác – Lê nin đã trở thành
hiện thực, đồng thời mở ra một thời đại mới “ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải
phóng dân tộc”. Cách mạng Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân
tộc bị áp bức. Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức
nhân dân Châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay”. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Tháng Mười Nga và những chính sách tiến bộ của nó thực sự đem lại lợi ích cho đông đảo quần
chúng nhân dân. Nó chứng tỏ được sự tiến bộ của hình thức cách mạng này.

2
Trong khi đó, chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã để lại những hậu quả vô cùng nặng
nề. Loài người căm ghét chiến tranh. Trong khi đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga thực sự
đem lại hòa bình tự do cho con người.Từ những nhận thực đó Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu tin
theo Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga. Người đã có những nhận thức hết sức đúng
đắn:
Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách
mạng tư sản tiêu biểu như Cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789)... nhưng cũng nhận
thức rõ những hạn chế của các cuộc cách mạng tư sản. Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường
cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thật sự cho nhân dân các nước nói
chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.(trích dẫn câu nói). Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm
hiểu cách mạng tháng mười nga 1917. Người rút ra kết luận: “ trong thế giới bấy giờ chỉ có Cách
mệnh Nga là thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc
tự do, bình đẳng thật”.
Việc Bác lựa chọn con đường cách mạng vô sản cũng xuất phát từ tình hình của cách mạng
nước ta lúc đó, cũng như từ yêu cầu của cách mạng Là nước thuộc địa nửa phong kiến, chịu ách
áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, đồng thời cấu kết với
giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam. Mặc dù
nền kinh tế có những chuyển nhưng về cơ bản vẫn là nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn, què quặt, lệ
thuộc vào Pháp. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, đời sống của nhân dân lao động hết sức
khốn khổ. Xã hội phân hóa ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với
thực dân Pháp và bọn tay sai lên đến đỉnh điểm.
Yêu cầu của cách mạng lúc này là phải giải quyết hai nhiệm vụ cách mạng, đó là: Nhiệm vụ
dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân pháp, giành lại độc lập cho dân tộc. Và nhiệm vụ dân chủ
nhằm đánh đổ chế độ phong kiến đem lại ruộng đất cho nông dân. Trong hai nhiệm vụ trên,
nhiệm vụ dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, quan trọng nhất. Con đường giải phóng dân tộc phải
thực hiện được cả hai nhiệm vụ đó.
Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam càng thôi thúc Người tìm ra con đường đấu tranh
mới. Trước sự xâm lược của thực dân pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh
hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Tiêu biểu là phong trào cần vương theo con đường
phong kiến, hoạt động của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh theo khuynh hướng tư sản. Các
hoạt động yêu nước diễn ra manh mẽ nhưng cuối cùng đều thất bại. Những con đường đó không
đáp ứng được yêu cẩu của cuộc cách mạng, yêu cầu cần có con đường giải phóng dân tộc mới
Vào tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của Lê nin đăng trên báo nhân đạo. người tìm thấy trong luận cương của Lê Nin
lời giải đáp về con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam;về vấn đề thuộc địa trong mối quan
hệ với phong trào cách mạng thế giới... Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác – Lê nin.
Tại Đại Hội Đảng Xã hội Pháp ( tháng 2 – 1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc
gia nhập quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu
bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của người – từ người yêu nước trở thành người

3
cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Việc lựa chọn con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc cũng xuất phát từ tấm lòng yêu
quê hương, đất nước vô bờ, với sự quyết tâm tìm ra con đường cứu nước cao cả, tất cả trở thành
động lực, hun đún thành ngọn lửa cứu nước,và bằng tài năng mẫn cảm chính trị của mình cũng
như những hoạt động miệt mài, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường giải phóng cho cả dân tộc.
Như vậy Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam.
Và thực tế lịch sử đã chứng minh sự lựa chọn đúng đắn đó. Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam
thành lập, đánh dấu sự thắng lợi của khuynh hướng cách mạng vô sản. Thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám 1945, thắng lợi cuộc kháng chiến chống pháp (1954) và kháng chiến chống Mỹ
(1975) cũng như thắng lợi của công cuộc Đổi mới hiện nay càng chứng tỏ hướng đi đúng đắn
của dân tộc và người có vai trò quan trọng nhất trong việc tìm ra và đặt nền tảng cho cách mạng
Việt Nam không ai khác, đó là Nguyễn Ai Quốc – Hồ Chí Minh vĩ đại.

● Nội dung con đường cách mạng vô sản Việt Nam được Người nêu lên trong thời gian
từ 1920 – 1927

4
5
6
7
*Phân tích những điều kiện cần thiết dẫn tới thành lập ĐCS Việt Nam tháng
2/1930

8
9
10
*Bối cảnh trong và ngoài nước cuối XIX - đầu XX
● Quốc tế: Giống đk khách quan

● Trong nước:

11
-  Sự thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp:
Đêm 31/8/1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Tháng 6/1884, triều đình nhà Nguyễn ký
Hiệp ước Patơnốt, từ đó Pháp thiết lập sự thống trị ở toàn Việt Nam.
+ Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị trực tiếp ở Đông Dương. Chúng dùng bộ
máy quân sự, cảnh sát, nhà tù thủ tiêu mọi quyền dân chủ, đàn áp, khủng bố mọi sự chống đối;
dùng chính sách “chia để trị”, chia nước ta thành ba kỳ với ba chế độ thống trị khác nhau. Thực
dân Pháp duy trì triều đình phong kiến nhà Nguyễn và giai cấp địa chủ làm công cụ tay sai để áp
bức về chính trị và bóc lột kinh tế. Nhân dân ta mất nước trở thành nô lệ, bị đàn áp, bóc lột, cuộc
sống vô cùng khổ cực.
+ Về kinh tế, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa Đông Dương lần thứ nhất (1897 -
1914); khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919- 1929), trong đó lấy Việt Nam là trọng điểm.
Tư bản Pháp bỏ vốn nhiều nhất vào nông nghiệp (lập các đồn điền cao su, cà phê, chè...) và
ngành khai mỏ (chủ yếu là than, sẳt, thiếc, vàng...) để thu lợi nhuận nhiều và nhanh. Tư bản Pháp
xây dựng ngành giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, phát triển các cơ sở công nghiệp chế
biến; độc quyền ngoại thương. Ngân hàng Đông Dương của Pháp độc quyền tài chính, đặt ra
hàng trăm thứ thuế, tàn ác nhất là thuế thân; thi hành rộng rãi chính sách cho vay nặng lãi.
Kết quả là nền kinh tế nước ta có sự phát triển mức độ nào đó theo hướng tư bản chủ nghĩa
nhưng là nền kinh tế thuộc địa, mất cân đối, phụ thuộc vào Pháp.
+ Về văn hoá, thực dân Pháp thực hiện chính sách nô dịch văn hoá; xoá bỏ hệ thống giáo dục
phong kiến, thay bằng chế độ giáo dục thực dân hạn chế. Pháp mở nhà tù, trại giam nhiều hơn
trường học; khuyến khích các hoạt động mê tín, các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, hạn chế xuất bản
sách báo, gây tâm lý tự ti dân tộc.
Kết quả là hơn 90% nhân dân ta bị mù chữ, bị bưng bít mọi thông tin tiến bộ từ bên ngoài.
-  Sự thay đối tính chất xã hội và cơ cấu giai cấp xã hội Việt Nam:
Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, tính chất xã hội Việt Nam đã thay đổi. Việt Nam từ xã hội
phong kiến trở thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến.
Giai cấp địa chủ, đa số là địa chủ nhỏ và vừa có tinh thần yêu nước, căm ghét, vừa có tinh thần
dân tộc chống Pháp, số đại địa chù, tay sai, chỗ dựa của thực dân Pháp là đối tượng của cách
mạng.
Giai cấp nông dân chiếm hơn 90% dân số, bị đế quốc, địa chủ, phong kiến bóc lột, cuộc sống cực
khổ nên rất tích cực chống đế quốc và phong kiến.
Tầng lớp tiểu tư sản gồm người buôn bán nhỏ, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên... phát triển
khá nhanh. Họ nhạy cảm trước thời cuộc, đời sống rất bấp bênh nên hăng hái đấu tranh và là lực
lượng quan trọng của cách mạng.
Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp.
Một bộ phận tư sản mại bản có quyền lợi gắn với Pháp, trở thành tay sai của chúng. Bộ phận tư

12
sản còn lại, thế lực kinh tế nhỏ bé, bị tư sản nước ngoài chèn ép nên có tinh thần dân tộc, dân
chủ, có thể đi với cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân
Pháp (1897 - 1914) và phát triển khá nhanh. Năm 1914 khoảng 10 vạn, đến năm 1929 tăng lên
22 vạn. Giai cấp công nhân Việt Nam tuy số lượng ít, ra đời muộn so với công nhân nhiều nước
nhưng mang đầy đủ đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế là có tính chất tiên tiến, triệt
để cách mạng, tính kỷ luật và tính chất quốc tế.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa lớn lên đã tiếp thu chủ
nghĩa Mác - Lênin, rất kiên quyết cách mạng và đã nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị
độc lập. Công nhân Việt Nam đa số xuất thân từ nông dân, bị bần cùng hoá nên có quan hệ gần
gũi với nông dân, rất thuận lợi cho liên minh công nông. Trong các giai cấp ở Việt Nam lúc đó
"Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với
bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản
quốc tế, giai cấp công nhân ta tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của
nhân dân Việt Nam”'.
Trong xã hội Việt Nam nối lên hai mâu thuẫn cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản thứ nhất đồng thời là
mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp. Mâu thuẫn
cơ bản thứ hai giữa nhân dân Việt Nam, đa số là nông dân với địa chủ phong kiến.
Hai mâu thuẫn này gắn bó, tác động lẫn nhau đòi hỏi đồng thời giải quyết. Độc lập dân tộc và
người cày có ruộng là hai yêu cầu cơ bản của xã hội Việt Nam nhưng độc lập dân tộc là yêu cầu
cơ bản, chủ yếu nhất vì phản ánh nguyện vọng bức thiết của cả dân tộc Việt Nam ở đầu thế kỷ
XX.
- Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản:
+ Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến:
Tiêu biểu nhất là phong trào cần Vương do vua Hàm Nghi phát động. Phong trào cần Vương
diễn ra từ năm 1885 đến năm 1896 với hàng loạt các cuộc khởi nghĩa vũ trang.
Nổi bật nhất là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1885 - 1896); cuộc
khởi nghĩa Ba Đình do Phạm Bành và Đinh Công Tráng tổ chức (1885 - 1886); cuộc khởi nghĩa
Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật đứng đầu (1885 - 1892). Kéo dài và quyết liệt nhất là phong
trào nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (1884 — 1913) v.v...
Các cuộc khởi nghĩa vũ trang đó tiếp tục khẳng định tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất chống
xâm lược của dân tộc ta và làm cho thực dân Pháp tổn thất nặng nề, không ổn định thống trị hàng
chục năm trời.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại của phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến
do thiếu đường lối đúng đắn. Giai cấp phong kiến đã không đủ sức lãnh đạo phong trào yêu nước
Việt Nam đi đến thành công.
(-Các phong trào yêu nước cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 ở nước ta khi chưa có Đảng ra

13
đời điều bị thất bại là vì :
+ Các phong trào yêu nước và các tổ chức của Đảng có những hạn ché về giai cấp, về
đường lối chính trị, hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa tập hợp được rộng rãi các
lực lượng của dân tộc, nhất là chưa tập hợp đuợc 2 lực lượng cơ bản 9 công nhân và
nông dân] cho nên thất bại.
+ Cuộc đấu tranh của ta nằm trong tình thế bị động, nên Pháp đã dạp tắt nhanh chóng.
+ Ta gặp phải sai lầm trong quá trình đấu tranh yêu cầu người Pháp thực hiện cải
lương, phản đối chiến tranh và cầu viện nc ngoài.
+ Những cuộc khởi nghĩa diễn ra lẻ tẻ, đa số các pt mang tính tự phác, trong nội bộ
chia rẽ.
+ Lực lượng ta và địch không cân xứng, ta đấu tranh khi địch vẫn còn mạnh, địch có
trang bị vũ khí hiện đại hơn ta.
+ Ta chưa tập hợp đc sức mạnh quần chúng nhân dân, chưa thấy đc khả năng lãnh đạo
của giai cấp công nhân và chưa đoàn kết đc họ.
+ Chưa có chính Đảng lãnh đạo.
[Các phong trào thất bại như: phong trào cần vương,, cuộc khởi nghĩa yên thế, pt Đông
Du, Duy Tân…]
-Phong trào yêu nước chống pháp đầu thế kỉ 20 đều thất bại do:
+Thực dân Pháp đã ổn định nền thống trị ở VN.
+Thiếu một lực lượng tiên tiến để lãnh đạo.
+Con đường cứu nước chưa đúng đắn, chưa xây dựng được cơ sở vững chắc cho xã
hội.
+ Thiếu đường lối lãnh đạo đúng đắn. Ngọn cờ phong kiến đã lỗi thời, không thể tập
hợp, đoàn kết để tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống Pháp.
+ Thiếu sự thống nhất, phối hợp giữa các cuộc khởi nghĩa với nhau.
+ Cách đánh giăc chủ yếu là dựa vào địa thế hiểm trở (như khởi nghĩa Ba Đình, khởi
nghĩa Bãi Sậy…)
+ Thực dân Pháp còn mạnh, tương quan lực lượng bất lợi cho ta…

14
YÊU CẦU ĐẶT RA:
– Cần có một lực lượng xã hội tiên tiến, có đủ năng lực lãnh đạo.
– Phải có sự phối hợp giữa các cuộc khởi nghĩa.
– Phải chủ động, linh hoạt trong cách đánh…Trong phong trào yêu nước chống Pháp
của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX, hãy tóm tắt diễn biến và nêu
đặc điểm của phong trào Cần Vương.)

- Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dẫn chủ tư sản:
Đầu thế kỷ XX chịu ảnh hưởng các cuộc cách mạng tư sản bên ngoài, phong trào yêu nước Việt
Nam diễn ra sôi nổi theo hai khuynh hướng chính:
Khuynh hướng bạo động vũ trang do Phan Bội Châu lãnh đạo. Ông tổ chức phong trào Đông Du
(1906 — 1908) chủ trương nhờ Nhật Bản giúp đỡ. Phong trào du học diễn ra gần hai năm, Pháp -
Nhật Bản thoả hiệp trục xuất Phan Bội Châu và du học sinh Việt Nam. Phong trào Đông Du thất
bại.
Sau khi cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (1911) thắng lợi, Phan Bội Châu về Trung Quốc
thành lập Việt Nam Quang phục Hội, chủ trương vũ trang chống Pháp ở trong nước, khôi phục
độc lập dân tộc.
Khuynh hướng cải cách dân chủ do Phan Châu Trinh (1782 - 1926) tổ chức. Những năm 1906 -
1908, ông chủ trương cải cách dân chủ nâng cao dân trí, cổ vũ tinh thần, cải thiện đời sống nhân
dân bằng con đường bất bạo động, công khai khai hoá cải cách, chấn hưng văn hóa, công nghệ,
chống mê tín dị đoan.
Các phong trào khác như phong trào dạy học theo lối mới ở Trường Đông Kinh Nghĩa Thục, Hà
Nội (1907); phong trào biểu tình chống thuế ở Trung Kỳ (1908); phong trào đấu tranh của Đảng
Lập Hiến (1923), Đảng Thanh Niên (1926). Mạnh mẽ nhất là phong trào của Việt Nam quốc dân
Đảng (1929- 1930).
Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản phản ánh tinh thần dân tộc của một
bộ phận trí thức, tư sản Việt Nam nhưng tất cả đều thất bại. Nguyên nhân thất bại chính là do
thiếu đường lối đúng đắn. Địa vị kinh tế, chính trị non yếu của giai cấp tư sản Việt Nam đã
không đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Tóm lại, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam đang ở thời kỳ khủng hoàng, bế
tắc về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo. Cách mạng Việt Nam ví như “trong đêm tối
không có đường ra”.

15
*Bằng các sự kiện lịch sử có chọn lọc, chứng minh sự ra đời Của Đảng Cộng
sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử?
Lịch sử dân tộc Việt Nam, kể từ khi có Đảng là những trang sử hào hung nhất,oanh liệt nhất và
vẻ vang nhất. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời mở ra một bước ngoặt lớn cho cách mạng Việt
Nam. Với cương lĩnh đúng đắn, Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên cho mọi thắng lợi của
cách mạng nước ta, là nhân tố quyết định phương hướng phát triển và đưa đến thắng lợi trong sự
nghiệp giành độc lập, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Kể từ khi có Đảng, nhân dân ta đã thoát khỏi ách
nô lệ đứng lên làm chủ đất nước từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập ra nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà; tiếp đó là thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Đảng Cộng
Sản Việt Nam ra đời, cách mạng Việt Nam thật sự trở thành một bộ phận khăng khít của cách
mạng thế giới. Kể từ đây, cách mạng Việt Nam nhận được sự ủng hộ của cách mạng thế giới,
đồng thời cũng đóng góp to lớn cho cách mạng thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam
đã và đang khẳng định được uy tín ngày càng vững chắc trên trường quốc tế. (THÍCH THÌ GHI)
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết quả của quá trình vận động hợp quy luật, của sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa ba yếu tố: Chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam; đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng sâu sắc về giai cấp lãnh đạo và đường lối cứu
nước ở nước ta từ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Sự kiện đó chứng tỏ giai cấp công nhân
nước ta đã trưởng thành “đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Từ đây, giai cấp công nhân Việt Nam đã
có một bộ tham mưu của giai cấp và dân tộc lãnh đạo, đánh dấu sự chiến thắng của chủ nghĩa
Mác – Lênin đối với các trào lưu tư tưởng phi vô sản.
Tính tất yếu lịch sử:
- Từ hoàn cảnh lịch sử thế giới (THÍCH THÌ GHI)
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa. Chính bước chuyển này đã làm cho mâu thuẫn trong thế giới TBCN ngày càng
trở nên gay gắt. Mâu thuẫn này tạo ra tính tất yếu của cách mạng vô sản, phạm trù cách mạng thế
giới chuyển sang phạm trù cách mạng vô sản, cách mạng XHCN. Cùng với mâu thuẫn nội tại
trong bản thân mỗi nước tư bản thì thời điểm này cũng xuất hiện mâu thuẫn giữa các nước tư bản
với nhau do tranh giành thuộc địa, phân chia thị trường và khu vực ảnh hưởng. Đây là nguyên
nhân trực tiếp dẫn tới cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914- 1918). Đặc biệt là sự thống trị
tàn bạo của CNĐQ làm chomâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với CNĐQ thực dân ngày càng
trở nên gay gắt và trở thành một vấn đề mang tính thời đại.
Cuộc cách mạng Tháng Mười Nga 1917 cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trên thế giới, dẫn tới sự ra đời của hàng loạt các đảng cộng sản. Tình
hình đó đòi hỏi phải có một tổ chức quốc tế đứng ra lãnh đạo, tập trung sức mạnh của phong trào
ở tất cả các quốc gia, dân tộc (Quốc tế II đã không còn vai trò tiên phong kể từ sau khi Ăngghen
qua đời năm 1895). Tháng 3- 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập, với khẩu hiệu "Vô sản thế
giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại" đã đánh dấu một giai đoạn mới của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế. "Lần đầu tiên trong lịch sử, quốc tế Cộng sản đã chỉ rõ sự đoàn kết tất

16
yếu, liên minh chiến đấu giữa giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa đang rên xiết dưới ách
thống trị thực dân".
- Ảnh hưởng đến Việt Nam: (THÍCH THÌ GHI)
Những năm 50, 60 của TK XIX, Việt Nam đã bị thực dân Pháp xâm lược.Sau khi hoàn thành
việc xâm lược và bình định vũ trang, thực dân Pháp đã thiết lập bộ máy chính trị trên khắp đất
nước. Chúng đã ngang nhiên tiến hành những cuộc khai thác thuộc địanhằm khai thác tài
nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt. Chính sách thuộc địa của Pháp ở Việt Nam và Đông Dương là
chuyên chế về chính trị, kìm hãm về kinh tế, cái được chúng rêu rao là “sứ mạng khai hoá” thực
chất là khai thác thuộc địa bằng lưỡi lê, họng súng, giá treo cổ và hãm hiếp phụ nữ. Dưới ách
thống trị đó, mâu thuẫn cơ bản vốn có trong lòng xã hội Việt Nam phong kiến cũ ngày càng sâu
sắc và gay gắt thêm.
Tiền đề lý luận và thực tiễn:
– Về lý luận: Vào giữa thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh
đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lí luận khoa học với tư cách là vũ khí tư tưởng của giai
cấp công nhân chống chủ nghĩa tư bản.
Trong hoàn cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được Lênin phát triển và trở thành chủ nghĩa
Mác -Lênin. Chủ nghĩa Mác -Lênin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực
hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải lập ra đảng cộng sản. Sự ra đời của đảng
cộng sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc dấu tranh của giai cấp công nhân chống áp bức,
bóc lột. Kể từ khi chủ nghĩa Mác -Lênin được truyền bá vào Việt Nam, phong trào yêu nước và
phong trào công nhân phát triển mạnh theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn tới sự ra đời
của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác -Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam.
– Về thực tiễn: Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời dập tắt
được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân
Pháp từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam. Dưới tác động của chính sách cai trị và
chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu
sắc. Hình thành giai cấp địa chủ, giai cấp nông dân, giai cấp công nhân Việt Nam, giai cấp tư sản
Việt Nam, tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam. Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động
mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trongđó đặc
biệt là sự ra đời của hai giai cấp mới: Công nhân và tư sản Việt Nam.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và
ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân Pháp và phong kiến tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn
cơ bản trong xã hội Việt Nam: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm
lược và mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ phong
kiến, trong đó, mâu thuẫn chủ yếu nhất là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực
dân Pháp xâm lược. Trước sự xâm luợc của thực dân Pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Những phong trào tiêu biểu trong
thời kì này là:

17
+ Cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang) diễn ra từ năm 1884. Nghĩa quân Yên Thế đã đánh
thắng Pháp nhiều trận và gây cho chúng nhiều khó khăn, thiệt hại. Cuộc chiến đấu của nghĩa
quân Yên Thế kéo dài đến năm 1913 thì bị dập tắt.
+ Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), các cuộc khởi nghĩa vũ trang chống Pháp của
nhân dân Việt Nam vẫn tiếp diễn, nhưng đều không thành công.
Thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến
không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở
Việt Nam.
Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa nêu trên, đầu thế kỉ XX, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của
tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Về mặt
phương pháp, tầng lớp sĩ phu lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỉ XX có sự phân
hóa thành hai xu hướng. Một bộ phận chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân
tộc, khôi phục chủ quyền quốc gia bằng biện pháp bạo động; một bộ phận khác lại coi cải cách là
giải pháp để tiến tới khôi phục độc lập. Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu, với
chủ trương dùng biện pháp bạo lực để đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục nền độc lập cho dân
tộc. Đại biểu cho xu hướng cải cách là Phan Châu Trinh, với chủ trương vận động cải cách văn
hóa, xã hội; động viên lòng yêu nước trong nhân dân; đả kích bọn vua quan phong kiến thối nát,
đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, mở mang
dân quyền; phản đối đấu tranh vũ trang và cầu viện nước ngoài.
Ngoài ra, trong thời kì này ở Việt Nam còn có nhiều phong trào đấu tranh khác như: Phong trào
Đông Kinh nghĩa thục (1907); Phong trào “tẩy chay Khách trú” (1919); Phong trào chống độc
quyền xuất nhập khẩu ở cảng Sài Gòn (1923); đấu tranh trong các hội đồng quản hạt, hội đồng
thành phố... đòi cải cách tự do, dân chủ... Từ trong phong trào đấu tranh, các tổ chức đảng phái
ra đời: Đảng Lập hiến (năm 1923); Đảng Thanh niên (tháng 3/1926); Đảng Thanh niên cao vọng
(năm 1926); Việt Nam nghĩa đoàn (năm 1925), sau nhiều lần đổi tên, tháng 7/1928 lấy tên là Tân
Việt cách mạng Đảng; Việt Nam quốc dân góp phần thúc đẩy phong trào yêu nước chống Pháp,
trong đó nổi bật là Tân Việt cách mạng Đảng và Việt Nam quốc dân Đảng.
Tóm lại, trước yêu cầu lịch sử của xã hội Việt Nam, các phong trào đấu tranh chống Pháp diễn ra
sôi nổi. Mục tiêu của các cuộc đấu tranh ở thời kì này đều hướng tới giành độc lập cho dân tộc,
nhưng trên các lập trường giai cấp khácnhau nhằm khôi phục chế độ phong kiến, hoặc thiết lập
chế độ quân chủ lập hiến, hoặc cao hơn là thiết lập chế độ công hoà tư sản. Các phong trào đấu
tranh diễn ra với các phương thức và biện pháp khác nhau: bạo động hoặc cải cách; với quan
điểm tập hợp lực lượng bên ngoài khác nhau: dựa vào Pháp để thực hiện cải cách, hoặc dựa vào
ngoại viện để đánh Pháp... nhưng cuối cùng các cuộc đấu tranh đều thất bại. Một số tổ chức
chính trị theo lập trường quốc gia tư sản ra đời và đã thể hiện vai trò của mình trong cuộc đấu
tranh giành độc lập và dân chủ. Nhưng các phong trào và tổ chức trên, do những hạn chế về giai
cấp, về đường lối chính trị; hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ; chưa tập hợp được rộng rãi lực
lượng của dân tộc, nhất là chưa tập hợp được hai lực lượng xã hội cơ bản (công nhân và nông
dân) nên cuối cùng đã không thành công. Sự thất bại của các phong trào yêu nước theo lập
trường quốc gia tư sản ở Việt Nam đầu thế kỉ XX đã phản ánh địa vị kinh tế và chính trị yếu kém

18
của giai cấp tư sản trong tiến trình cách mạng dân tộc, phản ánh sự bất lực của họ trước những
nhiệm vụ do lịch sử dân tộc Việt Nam đặt ra.Mặc dù thất bại nhưng sự phát triển mạnh mẽ của
phòng trào yêu nước cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX có ý nghĩa rất quan trọng. Nó là sự tiếp nối
truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, và chính
sự phát triển của phong trào yêu nước đã tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa
Mác – Lênin, quan điểm cách mạng Hồ Chí Minh. Phong trào yêu nước trở thành một trong ba
nhân tố dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước, chống thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX,đầu thế kỉ XX đã
chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản đã bế tắc. Cách
mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo.
Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường cách mạng mới, với một giai cấp có đủ tư
cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo cuộc
cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.

2.Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện để thành lập Đảng


*Vai trò của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam?
Hoàn cảnh lịch sử:

● Năm 1858, Pháp nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam. Thực dân Pháp từng bước thiết
lập bộ máy thống trị với nhiều chính sách dã man tàn bạo, đẩy nhân dân vào cảnh khốn
cùng. Trong bối cảnh đó, nhiều phong trào yêu nước diễn ra mạnh mẽ nhưng tất cả đều
thất bại. Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng bế tắc về đường lối cứu nước “tưởng
chừng như không có lối ra”.
● Ngày 5/6/1911, Nguyễn Ái Quốc rời bến Nhà Rồng sang các nước phương Tây tìm
đường cứu nước. Đến tháng 7/1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa của Lê-nin, Nguyễn Ái Quốc đã “vui mừng đến phát khóc” vì tìm
thấy con đường giải phóng dân tộc. Tháng 12/1920, Người gia nhập Quốc tế cộng sản,
tham gia xã hội Đảng Cộng Sản Pháp. Từ một người yêu nước Nguyễn Ái Quốc trở thành
một chiến sĩ cộng sản và hoạt động xuất sắc cách mạng cộng sản Quốc tế. Từ đây, cách
mạng Việt Nam đã chính thức tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn để đi.
● Từ khi trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực hoạt động chuẩn bị về tư
tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng.

Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc. Trong bối cảnh
lịch sử đất nước đang bị thực dân Pháp kìm kẹp, các phong trào yêu nước đều thất bại thì
Nguyễn Ái Quốc đã sớm tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của nhân loại về "tự do, bình đẳng, bác
ái", với tầm nhìn chiến lược và phương pháp tư duy sáng tạo đã sớm hình thành ý chí cứu nước,
cứu đồng bào ở Người. Đồng thời, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân

19
tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Người đã tìm thấy ở đó con đường đúng đắn giải phóng đất
nước là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc để tiến tới giải phóng con người. Người
đã nhận thấy sự cần thiết của một Đảng lãnh đạo và chỉ có kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước thì mới có thể xây dựng được một Đảng cách
mạng chân chính, đảm bảo cách mạng phát triển đúng hướng và đi đến thắng lợi.
Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nước và chuẩn bị
những điều kiện cho sự thành lập Đảng.
Sự chuẩn bị về tư tưởng - chính trị:
Sau khi tiếp thu chủ nghĩa Mác Lê-nin, từ nước ngoài, Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác –
Lênin vào trong nước. Nguyễn Ái Quốc đã phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu
nước đúng đắn của cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung trong những bài giảng của Người
cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu (Trung
Quốc). Năm 1927, những bài giảng của người trong các lớp huấn luyện được in thành sách lấy
tên là Đường Kách mệnh. Nguyễn Ái Quốc đã viết và gửi sách báo, tài liệu về Việt Nam như:
báo Người cùng khổ, Việt Nam hồn, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường Kách mệnh,
… để truyền bá chủ nghĩa Mác Lê-nin và chỉ rõ con đường cách mạng mà nhân dân ta cần đi
theo. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hình thành một hệ thống luận điểm chính trị: Lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức; xác định cách mạng giải
phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới; xác định lực lượng cách mạng; xác
định vai trò lãnh đạo của Đảng; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Những luận
điểm ấy sau này phát triển thành những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng.
Nguyễn Ái Quốc đã dùng ngòi bút của mình tích cực tố cáo, lên án bản chất bóc lột của chủ
nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu
tranh giải phóng. Người đã góp phần quan trọng vào việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân
Pháp ở các thuộc địa. Chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ
thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới.
Đồng thời tiến hành tuyên truyền tư tưởng Mác - Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa
những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phục thuộc.
Các tác phẩm, bài viết của Người từ năm 1921 đến năm 1927 toát lên những quan điểm sau:

● Một là, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con
đường cách mạng vô sản.
● Hai là, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trên toàn thế giới, là kẻ thù trực tiếp và nguy hại nhất của nhân dân các nước thuộc địa.
● Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận cách mạng của thời đại-cách mạng
vô sản. Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải
phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới.

20
● Bốn là, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có mối liên hệ khăng khít với
cách mạng vô sản ở chính quốc, nhưng cách mạng thuộc địa không những không phụ
thuộc vào cách mạng chính quốc mà còn có tính chủ động, sáng tạo, có thể giành thắng
lợi trước và góp phần thúc đẩy làm cho cách mạng ở chính quốc tiến lên.
● Năm là, tư tưởng về đường lối chiến lược của cách mạng ở thuộc địa là tiến hành giải
phóng dân tộc, mở đường tiến lên giải phóng hoàn toàn những người lao động, giải
phóng con người.
● Sáu là, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nên quần chúng phải được tổ chức thành
đội ngũ, được biết về tính thế cách mạng.
● Bảy là, lực lượng cách mạng là toàn thể dân chúng, những người thiết tha với độc lập dân
tộc, trong đó công nông là lực lượng chính, song giai cấp công nhân phải đóng vài trò
lãnh đạo.
● Tám là, cách mạng giải phóng dân tộc phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng, không
thỏa hiệp.
● Chín là, cách mạng phải có Đảng lãnh đạo, Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm cơ
sở cho đường lối cách mạng, phải vững bền về tổ chức. Đảng phải gắn bó mật thiết với
quần chúng nhân dân.
● Mười là, cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng quốc tế, nên Cách mạng Việt
Nam phải liên hệ, tranh thủ sự giúp đỡ từ cách mạng thế giới nhưng đồng thời phải đề
cao tính tự lực tự cường….
Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam nhằm làm chuyển
biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác Lênin
từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước.
Nội dung truyền bá là những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được cụ thể hoá cho
phù hợp với trình độ của các giai tầng trong xã hội.Những quan điểm này được truyền vào Việt
Nam trong những năm đầu của thế kỷ XX, nhanh chóng trở thành ngọn cờ hướng đạo dẫn dắt
phong trào yêu nước ở Việt Nam phát triển theo con đường cách mạng vô sản.
Sự chuẩn bị về mặt tổ chức:
Nguyễn Ái Quốc dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của chính đảng vô sản của giai
cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ từ các lớp huấn luyện do Người tiến
hành ở Quảng Châu để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Tháng
6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên với lực lượng nòng cốt
là Cộng sản Đoàn và cơ quan ngôn luận của tổ chức là tờ Tuần báo Thanh niên. Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên đã truyền bá lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê-nin vào phong trào công nhân,
phong trào yêu nước và gây dựng cơ sở cách mạng trong nước. Bên cạnh đó, Hội đã mở các lớp
huấn luyện chính trị cho cán bộ và gửi các thanh niên ưu tú đi học tại nước ngoài nhằm đào tạo

21
cán bộ cách mạng từ đó giúp chõ những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần,
tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công
của Nguyễn Ái Quốc trong chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Đồng thời, trong những năm 1928 - 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta tiếp
tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác được Nguyễn Ái Quốc và những
chiến sĩ tiên phong truyền bá về trong nước. Hội thực hiện chủ trường “vô sản hóa”, đưa các cán
bộ hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường, quan điểm của giai cấp
công nhân, giác ngộ họ, dấn dắt họ đến con đường đấu tranh; để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê-nin
và lý luận giải phóng dân tộc, nhằm thúc đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng Việt
Nam tiến tới sự ra đời của tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, tạo điều kiện chín muồi cho sự
ra đời của Đảng..
Kết quả của sự chuẩn bị: Với những kết quả ấy, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam được ra đời, đó
là: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đản, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Song sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn
đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo. Do
đó, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản được triệu tập vào 6-1 đến 7-2/1930. Với việc hội
nghị được triệu tập và sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm
1930.
Thứ ba, với vai trò, trách nhiệm trong Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập
Hội nghị hợp nhất, thực hiện sứ mệnh lịch sử của người sáng lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm, mặc dù chưa nhận được chỉ thị của Quốc
tế cộng sản về yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, nhưng do sự nhạy bén về
chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất, thực hiện sứ mệnh lịch sử
của người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam.Từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930, tại Cửu
Long – Hồng Công (Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất đã được tiến hành dưới sự chủ trì của
Nguyễn Ái Quốc.
Thứ tư, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp soạn thảo những văn kiện quan trọng có ý nghĩa chiến lược.
Trong bối cảnh lúc bấy giờ, sự thống nhất đường lối chính trị cấp thiết hơn bao giờ hết. Hội nghị
hợp nhất đã thống nhất thông qua Chán cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt,
Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, nội dung
của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt là do đồng chí Nguyễn Ái quốc soạn thảo được Hội
nghị thông qua đã trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ý nghĩa:
Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất là
Đảng Cộng sản Việt Nam đi theo một đường lối chính trị đúng đắn đã tạo nên sự thống nhất về
tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu chung
đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cũng chính là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu
tranh giai cấp, là một sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư

22
tưởng Mác – Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời được
đánh giá là một trong số những sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan
trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát
triển của dân tộc ta.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng chính là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, là sự kiện gắn
liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn
con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, đây cũng
chính là cơ sở quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo
phong trào cách mạng Việt Nam; cũng như giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối
cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, từ đó cũng đã mở ra con
đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng chính là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới. Việc
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Bên cạnh đó
thì cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế
giới bởi vì mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

3.Thành lập ĐCS Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
*Nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của Cương lĩnh chính trị đầu tiên được Hội
nghị thành lập Đảng tháng 2/1930 thông qua (hoặc nó sẽ hỏi Chính cương và
Sách lược)
● Nội dung cơ bản
Trong Chính cương của Đảng đã nêu "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản." Đó là mục đích lâu dài, cuối cùng của Đảng và cách mạng
Việt Nam. 
Mục tiêu trước mắt về xã hội là làm cho nhân dân được tự do hội họp, nam nữ bình quyền, phổ
thông giáo dục cho dân chúng; về chính trị là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa thực dân Pháp và bọn
phong kiến làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, lập chính phủ, quân đội của nhân dân
(công, nông, binh); về kinh tế là xóa bỏ các thứ quốc trái, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thu hết
sản nghiệp lớn của đế quốc giao chính phủ nhân dân quản lý, thu hết ruộng đất chiếm đoạt của đế
quốc làm của công chia cho dân cày nghèo, phát triển công, nông nghiệp và thực hiện lao động 8
giờ. Những mục tiêu đó phù hợp với lợi ích cơ bản của dân tộc, nguyện vọng tha thiết của nhân
dân ta.

Sách lược của Đảng nêu rõ Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, thu phục giai cấp,
lãnh đạo dân chúng nông dân; liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông; tranh thủ, phân hóa
trung tiểu địa chủ và tư sản dân tộc, đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới

23
để hình thành mặt trận thống nhất đánh đuổi đế quốc, đánh đuổi bọn đại địa chủ và phong kiến,
thực hiện khẩu hiệu nước Việt Nam độc lập, người cày có ruộng.

Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng nêu chính xác tên Đảng, tôn chỉ của
Đảng, hệ thống tổ chức của Đảng từ chi bộ, huyện bộ, thị bộ hay khu bộ, tỉnh bộ, thành bộ hay
đặc biệt là bộ và Trung ương.

Toàn bộ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng toát lên tư tưởng lớn là cách mạng dân tộc dân chủ Việt
Nam tất yếu đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; sự
nghiệp đó là của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng Mác - Lênin.
Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là "Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản."

24
Bản luận cương đã khẳng định lại nhiều vấn đề mà cương lĩnh đã nêu ra: đường lối cách mạng,
lực lượng cách mạng, đoàn kết quốc tế, vai trò lãnh đạo của Đảng. Luận cương của Trần Phú có
những điểm sáng tạo hơn như đã đề ra phương pháp cách mạng, nguyên tắc Đảng của chủ nghĩa
Mác-Lênin

● Ý nghĩa lịch sử

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo theo con
đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu
cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm nhuần tinh thần dân
tộc. 

25
Nội dung Cương lĩnh vẫn còn một vài vấn đề về sau không hoàn toàn phù hợp với thực tế Việt
Nam hoặc có một số từ ngữ có thể dẫn tới sự giải thích khác nhau, song với sự bổ sung của Luận
cương chính trị được thông qua tại Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành trung ương Đảng,
Cương lĩnh chính trị của Đảng đã được hoàn thiện hơn.

26
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm
1930, Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chế độ phong kiến, thực hiện độc lập, người
cày có ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là
nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn xung quanh giai
cấp mình, còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản hoặc bị cô lập. Do đó,
quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân không ngừng củng cố và tăng cường.

● Hạn chế của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Bản luận cương đã khẳng định lại nhiều vấn đề mà cương lĩnh đã nêu ra: đường lối cách mạng,
lực lượng cách mạng, đoàn kết quốc tế, vai trò lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, cương lĩnh chính
trị đầu tiên còn một số hạn chế như sau:
- Luận cương đã không vạch ra được đâu là mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thuộc địa coi trọng
vấn đề chống phong kiến không phù hợp với cách mạng Việt Nam.
- Không đề ra được mối liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh dân tộc và
bọn tay sai.
- Đánh giá không đúng vai trò vị trí của các giai cấp tầng lớp khác do đó không lôi kéo được bộ
phận có tinh thần yêu nước. 

*Luận cương chính trị của Đảng

Tháng 10 năm 1930, giữa lúc phong trào cách mạng đang diễn ra sôi nổi trên cả nước,Ban chấp
hành Trung ương Đảng Công sản Viêt Nam họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung
Quốc). Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và Đông Dương, vận dụng những nguyên lý phổ
biến của chủ nghĩa Mác - Lênin và đề cương cách mạng thuộc địa của Quốc tế cộng sản. Luận
cuơng chính trị đã xác định những vấn đề chiến lược của cách mạng Đông Dương. Nội dung đó
là:
Về đường lối chiến lược: bản luận cương đã phân tích tình hình đặc điểm 3 nước Đông Dương
đều là thuộc địa của Pháp, cùng có mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt vì vậy tính chất cách
mạng Đông Dương lúc đầu là cách mạng tư sản dân quyền sâu khi hoàn thành sẽ chuyển thẳng
lên cách mạng xã hôi, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Về nhiệm vụ cách mạng: Cách mạng tư sản dân quyền có 2 nhiệm vụ là chống đế quốc để
giành độc lập, chống phong kiến để giành ruộng đất cho người cày. Đây là 2 nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng ở 1 nước thuộc địa. Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Vì
bọn phong kiến và đế quốc cấu kết chặt chẽ với nhau “ có đánh đổ được chủ nghĩa đế quốc mới
phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi mà có phá tan chế độ
phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa” như vậy luận cương đã dề cao vấn đề dân
chủ.
Về lực lượng cách mạng: cuộc cách mạng tư sản dân quyền vô sản giai cấp và nhân dân là 2
động lực chính nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được. Như vậy
luận cương xác định Công nhân và nông dân là động lực của cách mạng

27
Về vai trò lãnh đạo của Đảng: Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng là vấn đề cốt yếu của cách
mạng. Luận cương khẳng định Đảng phải có đường lối chính trị đúng, có kỷ luật nghiêm, có mối
quan hệ mật thiết với quần chúng. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Đó là
chính là những điều kiện cốt yếu đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng.
Về phương pháp đấu tranh: Khi có đường lối đúng thì phương pháp đóng vai tròquyết định
cho sự thắng lợi của cách mạng. Vì vậy, Đảng phải coi trọng việc vân động tập hợp lực lượng đại
đa số quần chúng phải chuẩn bị cho quần chúng tiến lên khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Khởi nghĩa vũ trang là 1 nghệ thuật, phải chuẩn bị lâu dài. Đấu tranh từ hình thức thấp đến hình
thức cao, kịp thời phát động khởi nghĩa.
Khi có tình thế cách mạng nghĩa là: Phải tuân thủ các nguyên tắc của khởi nghĩa vũ
trang đúng như Lênin khẳng định: “khởi nghĩa vũ trang là 1 lời hiệu triệu nghiêm túc
không thể đùa, khởi nghĩa vũ trang là bà đỡ cho mọi cuộc cách mạng”
Về mối quan hệ giữa cách mạng Viêt Nam và cách mạng thế giới: luận cương
khẳng định cách mạng Đông Dương là 1 bộ phận của cách mạng thế giới. Do đó, phải
thực hiện đoàn kết với quốc tế.

Như vậy luận cương đã nêu lên nhiều vấn đề chiến lược cơ bản cho cách mạng Viêt Nam. Tuy
nhiên, luận cương còn có 1 số hạn chế nhất định mang tính chất tả khuynh giáo điều, chưa vạch
rõ được mâu thuẫn chủ yếu của một xã hội thuộc địa nên không nêu cao được vấn đề dân tộc mà
còn quá nặng nề về đấu tranh giai cấp, vấn đề cách mạng ruộng đất. Đánh giá các giai cấp khác
ngoài công - nông còn chưa được chính xác. Để từ đó có những sách lược đoàn kết, nôi kéo tranh
thủ họ. Đề cao việc đấu tranh giành độc lập cho toàn cõi Đông Dương nhưng bỏ qua sự khác biệt
về lịch sử, văn hóa… giữa các nước, chính vì thế không thể tập hợp sức mạnh, chung sức chung
lòng cùng làm cách mạng được. Những nhược điểm này đã được Đảng ta sửa chữa dần trong
thực tiễn đấu tranh cách mạng. Mặc dù vậy, luận cương đã phant ánh đúng quy luận phát triển
khách quan của cách mạng Viêt Nam, đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của nhân ta. Chính cương
vắn tắt, sách lược vắn tắt và luận chính trị đã thể hiện đầy đủ đường lối cách mạng Viêt Nam. Đó
là đường lối giương cao 2 ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hôi, đường lối đó là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt cách mạng Viêt Nam sau này.
● Nhận xét: Luân cương chính trị đánh giá không đúng khả năng cách mạng của tầng lớp tiểu
tư sản khả năng chống đế quốc, phong kiến ở mức độ nhất định của g/c tư sản dân tộc, khả năng
lôi kéo 1 bộ phạn trung tiểu địa chủ tham gia mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc và tay
sai. Đây là điểm khác với Cương lĩnh chính trị đầu tiên và cũng là hạn chế của Luận cương
chính. trị tháng 10/1930
Luận cương đã khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến lược cách mạng ở nước ta mà
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt đã nêu như mục đích, tính chất của cách mạng trong giai
đoạn đầu là làm cách mạng tư sản dân quyền (tức cách mạng dân tộc dân chủ ) với hai nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến , nhằm thực hiện độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho nông
dân. Cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ lập ra nhà nước công nông sau đó sẽ chuyển thẳng
sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa; giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là hai động lực

28
chính của cách mạng , trong đó giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam
liên kết mật thiết với giai cấp vô sản các nước và các dân tộc thuộc địa.
- Nội dung trên phản ánh sự giống nhau căn bản giữa Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và
Luận cương chính trị trên những vấn đề then chốt của lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, đã bước đầu
khẳng định một số vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam. Luận cương còn xác định
thêm con đường đúng đắn tiến lên giành chính quyền phải là con đường cách mạng bạo lực của
quần chúng

*So sánh cương lĩnh chính trị (2/1930) và luận cương chính trị (10/1930)?
● Điểm giống nhau
- Về phương hướng chiến lược của cách mạng, cả hai văn kiện đều xác định được tính chất của
cách mạng Việt Nạm là Cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, bỏ qua giai đoạn tư
bản chủ nghĩa để đi tới xã hội cộng sản.
- Về nhiệm vụ cách mạng: Chống đế quốc, phong kiến để lấy lại ruộng đất và giành độc lập dân
tộc.
- Mâu thuẫn cơ bản: đều chỉ ra 2 mâu thuẫn cơ bản của nước ta trong thời điểm đó là mâu thuẫn
dân tộc và mâu thuẫn giai cấp. Hai mâu thuẫn này được ngầm thể hiện thông qua 2 nhiệm vụ
cách mạng là đánh đế quốc và đánh phong kiến. Trong đó, đánh đế quốc để giải quyết mâu
thuẫn dân tộc, đánh phong kiến để giải quyết mâu thuẫn giai cấp.
- Về lực lượng cách mạng: chủ yếu là công nhân và nông dân - hai lực lượng nòng cốt và cơ bản
đông đảo trong xã hội góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc nước ta.
- Về phương pháp cách mạng, sử dụng sức mạnh của số đông dân chúng Việt Nam cả về chính
trị và vũ trang nhằm đạt mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến,
giành chính quyền về tay công nông.
- Về vị trí quốc tế, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khắng khít với cách mạng thế giới đã thể
hiện sự mở rộng quan hệ bên ngoài, tìm đồng minh cho mình.
- Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam
● Điểm khác nhau

29
30
Theo em, sự khác nhau giữa 2
văn kiện Cương lĩnh chính trị
và Luận cương chính trị có thể
xuất phát
từ sự khác biệt trong nhãn quan
chính trị, năng lực cách mạng,
khả năng đánh giá tình hình của
Chủ tịch
Hồ Chí Minh và đồng chí Trần
Phú. Ngoài ra, sự khác biệt này
có thể đến từ các tác động bên
ngoài như
Quốc tế Cộng sản hoặc bối cảnh
đất nước thời điểm đó.

31
Chủ tịch Hồ Chí Minh là
một người có kinh nghiệm dày
dặn về cách mạng, có vốn kiến
thức thực tế
phong phú và tầm nhìn chiến
lược rộng mở. Bác hiểu rõ tình
hình đất nước, biết rõ con
đường nào phù
hợp với cách mạng Việt Nam.
Kết hợp với một khoảng thời
gian dài bôn ba ở nước ngoài,
Bác đã xác
Theo em, sự khác nhau giữa 2
văn kiện Cương lĩnh chính trị

32
và Luận cương chính trị có thể
xuất phát
từ sự khác biệt trong nhãn quan
chính trị, năng lực cách mạng,
khả năng đánh giá tình hình của
Chủ tịch
Hồ Chí Minh và đồng chí Trần
Phú. Ngoài ra, sự khác biệt này
có thể đến từ các tác động bên
ngoài như
Quốc tế Cộng sản hoặc bối cảnh
đất nước thời điểm đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là
một người có kinh nghiệm dày

33
dặn về cách mạng, có vốn kiến
thức thực tế
phong phú và tầm nhìn chiến
lược rộng mở. Bác hiểu rõ tình
hình đất nước, biết rõ con
đường nào phù
hợp với cách mạng Việt Nam.
Kết hợp với một khoảng thời
gian dài bôn ba ở nước ngoài,
Bác đã xác

34
35
*Hãy phân tích tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được
thông qua tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản (1/1930) gồm các văn kiện: Chính cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt, Chương trình tóm tắt, và Lời kêu gọi nhân dịp thành
lập Đảng. Cương lĩnh đầu tiên tuy vắn tắt song đã nêu được những vấn đề cơ bản về đường lối
cách mạng Việt Nam, có nội dung cách mạng, khoa học và sáng tạo phù hợp với nhu cầu khách
quan của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam, thuận chiều tiến hóa của thời đại.
Tính cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh đầu tiên đó được thể hiện qua những nội
dung sau:
Cương lĩnh vạch rõ tính chất của cách mạng Việt Nam là phải trải qua hai giai đoạn: cách
mạng tư sản dân quyền (về sau gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) và cách mạng xã hội
chủ nghĩa (“làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”).Như vậy, ngay từ đầu, Đảng ta đã thấu suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng
Việt Nam là độc lập dân tộc chỉ có thể lâu dài khi kết hợp với chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh đề ra nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta: đánh đổ đế quốc
Pháp, vua quan phong kiến và tư sản phản cách mạng.Mục tiêu: Làm cho nước Việt Nam độc
lập; Dựng lên chính phủ công nông binh; Tổ chức ra quân đội công nông; Tịch thu những sản
nghiệp lớn và ruộng đất của bọn đế quốc, bọn phản cách mạng đem chia cho dân cày nghèo,
chuẩn bị cách mạng thổ địa.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ
bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo
trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam trong những
năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam lúc đó.
Vấn đề dân tộc được ưu tiên hàng đầu, Người đã nhìn thấy rõ 2 mâu thuẫn cơ bản trong xã hội
thuộc địa: Địa chủ phong kiến với nông dân và toàn thể dân tộc Việt Nam với Pháp.
Bên cạnh đó, Cương lĩnh đánh giá đúng đắn, xác thực thái độ các giai tầng xã hội đối với
nhiệm vụ giải phóng dân tộc.Lực lượng cách mạng chủ yếu là công – nông, đồng thời phải lôi
kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông về phe giai cấp vô sản, còn phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư
sản Việt Nam chưa lộ rõ bộ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng hoặc làm cho họ trung lập,
phải liên minh với các giai cấp và tầng lớp yêu nước khác, đoàn kết, tổ chức họ đấu tranh chống
đế quốc và phong kiến.Như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã tranh thủ tối đa lực lượng cách mạng, cô
lập tối đa lực lượng kẻ thù. Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng,
trên cơ sở liên minh công – nông – trí…Từ đó, đã xác định đường lối chiến lược và sách lược
của cách mạng Việt Nam, đồng thời xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và
lực lượng của cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra.

36
Cương lĩnh khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng phải lấy chủ nghĩa Marx Lenin làm nền tảng tư tưởng. Đảng
phải có trách nhiệm phục vụ đại bộ phận giai cấp công nhân, làm cho giai cấp mình lãnh đạo
được quần chúng. Phải thu phục đại đa số dân cày, dựa vững vào dân cày.

Cương lĩnh đầu tiên của Đảng còn coi cách mạng nước ta là một bộ phận của cách mạng vô
sản thế giới, đứng về phía mặt trận cách mạng gồm các dân tộc thuộc địa bị áp bức và giai cấp
công nhân thế giới.Như vậy, Cương lĩnh đã giải quyết một cách nhuần nhuyễn quan điểm dân tộc
với quan điểm giai cấp, quốc gia với quốc tế, trong đó thấm đậm yếu tố dân tộc trên lập trường
giai cấp công nhân - yếu tố quyết định tính độc đáo của cách mạng thuộc địa. Thực hiện chiến
lược cách mạng giải phóng dân tộc, dân chủ tiến lên theo định hướng xã hội cộng sản vì độc lập
tự do là tư tưởng cách mạng cốt lõi, là viên ngọc quý được khảm trong Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng

37
Những nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã giải quyết đúng đắn
các mối quan hệ cốt lõi trong cách mạng Việt Nam: kết hợp đúng đắn vấn đề giai cấp và vấn đề
dân tộc; kết hợp truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng của nhân dân ta với những kinh
nghiệm của cách mạng thế giới; kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Đặc biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn và đầy sáng tạo, đặc điểm thực tiễn, yêu cầu của cách mạng
Việt Nam với tư tưởng tiên tiến cách mạng của thời đại. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách đúng đắn, sáng tạo và có phát triển trong điều kiện lịch
sử mới
Nội dung con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là con đường cách mạng vô sản,
do giai cấp công nhân lãnh đạo, lực lượng nòng cốt là công – nông, đồng thời phải đoàn kết với
tiểu tư sản, trí thức, trung, tiểu địa chủ, tư sản dân tộc và phú nông, dùng bạo lực cách mạng.

4.Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập ĐCS Việt Nam
Sự ra đời của Đảng là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam ra
đời là kết quả tất yếu cảu cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, cũng là sự khẳng định vai
trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác- Lênin đối với các mạng Việt
Nam. Sự kiện đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường
phát triển của dân tộc ta. Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử công nhân và
của cách mạng Việt Nam, chứng tỏ giai cấp vô sản nước ta trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách
mạng, chấm dứt thời kì khủng hoảng về vai trò lãnh đạo và đường lối trong phong trào cách
mạng Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã thuộc quyền lãnh đạo tuyệt đối của giai cấp
công nhân mà đội tiên phong là Đảng cộng sản.

38
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cũng chính là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và
đấu tranh giai cấp, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp
công nhân tại Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam giai đoạn đó. 
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin
cùng với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí
Minh.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch
sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về
đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả
của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công
phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên
phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ
phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế
giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang.
Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Như vậy thì ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò quan trọng đối với lịch sử cách
mạng Việt Nam và đối với sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới. Hi vọng rằng những
thông tin mà chúng tôi cung cấp đã giúp ích cho các bạn trong việc tìm hiểu về sự ra đời và ý
nghĩa của sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. 

II-Lãnh đạo quá trình đấu tranh giành chính quyền (1930-1945)
1.Phong trào cách mạng 1930-1935 và khôi phục phong trào 1932-1935
*Nêu tóm lược cao trào CM 1930-1931.
1. Phong trào cách mạng 1930 - 1931
a) Phong trào trên toàn quốc
- Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế - xã hội, phong trào cách mạng lên cao, Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời kịp thời lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nông trong
cả nước.
- Tháng 2 đến tháng 4/1930 nhiều cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân nổ ra.
+ Mục tiêu: đòi cải thiện đời sống, công nhân đòi tăng lương, giảm giờ làm; nông dân
đòi giảm sưu thuế.
+ Khẩu hiệu: “Đả đảo chủ nghĩa đế quốc! Đả đảo phong kiến”, “Thả tù chính trị”, …
- Nhân ngày Quốc tế lao động 1/5, cả nước bùng nổ nhiều cuộc đấu tranh, đây là bước
ngoặt của phong trào cách mạng. Lần đầu tiên công nhân Việt Nam biểu tình kỷ niệm

39
ngày Quốc tế lao động, đấu tranh đòi quyền lợi cho nhân dân lao động trong nước, thể
hiện tình đoàn kết cách mạng với nhân dân lao động thế giới.
- Tháng 6 đến tháng 8/1930, cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân và các tầng lớp
lao động khác trên cả nước.
b) Phong trào ở Nghệ - Tĩnh
- Tháng 9/1930, phong trào dâng cao ở Nghệ An và Hà Tĩnh.
- Nông dân biểu tình có vũ trang tự vệ với hàng nghìn người kéo đến huyện lị, tỉnh lị
đòi giảm thuế ở các huyện Nam Đàn, Thanh Chương, Diễn Châu, Anh Sơn (Nghệ An),
Kỳ Anh (Hà Tĩnh) …
+ Phong trào được công nhân Vinh - Bến Thủy hưởng ứng.
- Ngày 12/ 9/1930 biểu tình của 8000 nông dân Hưng Nguyên (Nghệ An):
+ Khẩu hiệu: “Đả đảo chủ nghĩa đế quốc!”. Đến gần Vinh, con số lên tới 3 vạn người,
xếp hàng dài 4 km.
+ Pháp đàn áp dã man: cho máy bay ném bom làm chết 217 người, bị thương 126
người.
- Hệ thống chính quyền thực dân, phong kiến bị tê liệt, tan rã ở nhiều thôn, xã.
- Nhiều cấp ủy Đảng ở thôn xã lãnh đạo nhân dân tự quản lý đời sống chính trị, kinh
tế, văn hóa xã hội ở địa phương, làm chức năng của chính quyền, gọi là Xô viết.
2. Xô viết Nghệ - Tĩnh
- Tháng 09/1930, chính quyền Xô Viết được thành lập ở một số huyện tại Nghệ An và
Hà Tĩnh như: Thanh Chương, Nam Đàn, Hưng Nguyên, Can Lộc, Nghi Xuân, …
- Chính quyền Xô Viết đã thực hiện nhiều chính sách đảm bảo quyền làm chủ của nhân
dân, điều hành mọi mặt đời sống xã hội.
+ Chính trị: Quần chúng tự do tham gia các đoàn thể cách mạng. Các đội tự vệ đỏ và
tòa án nhân dân thành lập.
+ Kinh tế: Chia ruộng đất công cho dân cày nghèo; Bãi bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế
đò, thuế muối, xóa nợ cho người nghèo; Đắp đê, phòng lụt, sửa chữa cầu đường; Lập
các tổ chức sản xuất để nông dân giúp đỡ nhau

40
+ Văn hóa, xã hội: Xóa bỏ các tệ nạn mê tín, dị đoan, rượu chè, cờ bạc, trộm cắp. Trật
tự trị an được giữ vững.
* Nhận xét:
- Xô viết Nghệ Tĩnh là đỉnh cao của phong trào 1930 - 1931, là nguồn cổ vũ mạnh nẽ
của nhân dân.
- Trước tác động của phong trào, thực dân Pháp khủng bố dã man.
=> Nhiều cơ quan lãnh đạo của Đảng, cơ sở quần chúng bị phá vỡ, cán bộ, đảng viên
bị bắt ….
- Từ giữa năm 1931, phong trào cách mạng trong cả nước dần lắng xuống

Căn cứ vào đâu để nói: Xô viết Nghệ Tĩnh là đỉnh cao của cao trào cách mạng
1930-1931? Vì sao Xô viết Nghệ Tĩnh đạt được đỉnh cao đó? Vì sao ngay từ khi
ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát động được cao trào 1930-1931?
1 –  Xô Viết Nghệ Tĩnh là đỉnh cao của cao trào cách mạng 1930-1931
– Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã tác động nặng nề đến nền kinh tế Đông
Dương. Nhiều nhà máy, xí ngiệp , đồn điền đã bị thu hẹp quy mô sản xuất . Hàng vạn công nhân
bị sa thải. Đời sống của các tầng lớp nhân dân lao động vô cùng khó khăn….do đó họ chỉ có một
con đường là vùng dậy đấu tranh.
Nhân dân ta vốn có truyền thống đấu tranh anh dũng. Sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2-
1930), thực dân Pháp đã lập Hội đồng đề hình thường trực, đưa hàng loạt chiến sĩ yêu nước lên
máy chém. Lòng căm thù của các tầng lớp nhân dân Việt Nam đối với bọn thực dân đế quốc
càng sâu sắc. Do đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam phong trào đấu tranh của
quần chúng đã phát triển mạnh mẽ khắp ba miền Bắc-Trung-Nam, phong trào phát triển thành
cao trào cách mạng diễn ra hết đợt này đến đợt khác cho tới giữa năm 1931.
Nghệ Tĩnh là nơi phong trào cách mạng phát triển nhất: Khí thế phong trào sục sôi , quyết
liệt, rộng khắp ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Dưới sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương
thông qua Xử ủy Trung Kỳ, cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh được mở đầu bằng cuộc biểu tình của
công nhân Nhà máy Diêm, Nhà máy Cưa Bến Thủy cùng nhân dân 5 xã ven thị xã (nay là thành
phố) Vinh vào ngày 1/5/1930. Từ đó đến tháng 8/1930, ở Nghệ Tĩnh đã có đến 97 cuộc bãi công,
biểu tinh của công nhân và nông dân; trong đó, đáng chú ý là cuộc bãi công kéo dài của công
nhân Nhà máy Diêm Bến Thủy đã dẫn tới cuộc tổng bãi công của công nhân khu công nghiệp
Bến Thủy.
Trước sự sụp đổ của chính quyền thực dân và phong kiến ở Nghệ - Tĩnh, các chi bộ và tổ
chức Nông hội đỏ đã quản lý và điều hành mọi hoạt động trong làng xã. Những người cách mạng
đã lập ra chính quyền Xô viết – chính quyền Xô viết đầu tiên ở Việt Nam (chính quyền cách
mạng sơ khai do giai cấp công nhân lãnh đạo). Chính quyền mới đã ban hành nhiều chính sách
mới về chính trị, kinh tế, văn hóa. Về chính trị, nhân dân được quyền tự do hội họp, thảo luận và

41
hoạt động trong các tổ chức đoàn thể như; Nông hội, Công hội, Đoàn thanh niên cộng sản…Về
kinh tế, nhân dân được chia ruộng, bãi bỏ các thứ thuế vô lý, bất công, thực hiện giảm tô và xóa
nợ cho dân nghèo. Về văn hóa, chính quyền cách mạng đã tổ chức đời sống mới, mở các lớp dạy
chữ Quốc ngữ, xóa bỏ các tệ nạn, hủ tục lạc hậu, xây dựng tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn
nhau.
Đến giữa năm 1931, thực dân Pháp thực hiện chính sách khủng bố, trấn áp. Nhiều cơ quan
đầu não của Đảng, các cơ sở trong dân bị phá vỡ, nhiều đảng viên, người biểu tình bị bắt giam
hoặc hành quyết. Đã có hàng trăm người bị bắt, bị kết án tù giam trong các nhà tù ở Nghệ
An, Đà Nẵng, Buôn Mê Thuột, và Côn Đảo. Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh dần lắng xuống, rồi
thoái trào và cuối cùng đi đến thất bại
Cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh được đánh giá là đỉnh cao của phong trào cách mạng trong
những năm 1930-1931. Đây là cuộc tổng diễn tập đầu tiên trong cả nước để chuẩn bị cho cuộc
Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa – Nhà
nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á. Đây là cao trào cách mạng đầu tiên của quần chúng công
nông do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và lãnh đạo, đánh dấu sự chuyển biến căn bản từ tính
chất đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác của phong trào cách mạng Việt Nam; là sự hội tụ ý
chí kiên cường, bất khuất lòng yêu nước, ý thức cách mạng. Xô Viết Nghệ Tĩnh đã để lại cho
cách mạng nước ta nhiều bài học sâu sắc. Phong trào Xô viết Nghệ -Tĩnh là một sự kiện lịch sử
trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2 – Vì sao Xô Viết Nghệ Tĩnh lại đạt được đỉnh cao đó?
– Vì những nguyên nhân chung của cao trào cách mạng 1930-1931, như tác động của cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933)…. Đặc biệt Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã kịp
thời lãnh đạo quần chúng cả nước đứng lên đấu tranh.
– Vì nguyên nhân riêng trong điều kiện cụ thể của Nghệ Tĩnh: Thuộc những tỉnh nghèo nhất Việt
Nam, lại bị đế quốc phong kiến bóc lột cùng cực, được thừa hưởng những truyền thống cách
mạng lâu đời của địa phương, có một số cơ sở công nhân ở Vinh-Bến Thuỷ là trung tâm kỹ thuật
lớn nhất Trung Kỳ, tổ chức cơ sở Đảng ở Nghệ Tĩnh khá mạnh… Ở Nghệ An, Hà Tĩnh là vùng
có tổ chức Đảng mạnh, tổ chức quần chúng cũng mạnh, số lượng đảng viên rất đông đảo và trách
nhiệm nên đã quyết định việc đưa phong trào đấu tranh lên đến đỉnh cao
Từ tháng 9-1930 trở đi, phong trào cách mạng 1930 -1931 đạt đến đỉnh cao ở Nghệ An, Hà Tĩnh
do:
- Phong trào đã sử dụng hình thức đấu tranh vũ trang: Cuộc biểu tình của nông dân có vũ trang
tự vệ với hàng nghìn người tham gia kéo đến huyện lị, tỉnh lị đòi giảm sưu thuế. => Hệ thống
chính quyền thực dân, phong kiến bị tê liệt, tan rã ở nhiều thôn, xã.
- Chính quyền địch tan rã ở nhiều thôn xã, chính quyền Xô viết được thành lập: Nhiều cấp ủy
Đảng ở thôn xã đã lãnh đạo nhân dân đứng lên tự quản lí đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội ở địa phương, làm chức năng của chính quyền gọi là “Xô viết”, thực hiện quyền làm chủ mọi
mặt đời sống xã hội. Những chính sách cụ thể của chính quyền Xô viết Nghệ - Tĩnh thể hiện đây
là chính quyền của dân, do dân và vì dân.

42
3 – Đảng Cộng sản Việt Nam mới ra đời đã phát động được cao trào 1930-1931 vì
– Cao trào cách mạng 1930-1931 là kết quả tất yếu của những mâu thuẫn kinh tế , chính trị trong
lòng xã hội Việt Nam lúc đó.
– Tuy mới ra đời, song Đảng đã nắm bắt quy luật phát triển khách quan của xã hội Việt Nam.
– Đảng có đường lối chính trị đúng đắn ngay từ khi mới ra đời, có sức tập hợp lực lượng rất to
lớn. Vừa mới ra đời, Đảng đã kịp thời lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống đế quốc Pháp và
phong kiến tay sai, giành độc lập, tự do. Hệ thống tổ chức Đảng vững chắc, các cấp bộ Đảng có
năng lực tổ chức thực tiễn, Đảng có uy tín trong quần chúng ….Sự ra đời của Đảng ;là nhân tố
quyết định dẫn đến cao trào cách mạng 1930-1931.
- Nhìn lại một cách hệ thống, trước khi Đảng CSVN ra đời, nước ta đã có các tổ chức Cộng sản
như Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và ở Trung kỳ có Đông Dương Cộng
sản Liên đoàn. Các tổ chức Cộng sản này đã ra đời từ giữa năm 1929, đến năm 1930, diễn ra Hội
nghị thành lập Đảng là để thống nhất các tổ chức đó.
Những quan điểm, đường lối của các tổ chức Cộng sản trước đó cũng đã quán triệt trong quần
chúng; các tổ chức như Công hội, Nông hội cũng được thành lập từ sớm. Chính vì thế ngay khi
thành lập Đảng (năm 1930) với chính cương vắt tắt, sách lược vắn tắt, tổ chức Đảng ngay lập tức
triển khai để đưa quan điểm, đường lối của Đảng vào cuộc sống. Phân tích như vậy để thấy
phong trào đấu tranh cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô Viết- Nghệ Tĩnh có cơ sở để được
triển khai nhanh, rộng.
Việc quán triệt đường lối cách mạng đã được thực hiện từ khi thành lập Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên (tổ chức tiền thân của Đảng). Vấn đề nữa, để phong trào rất rộng lớn ngoài tổ
chức Đảng, chúng ta còn có các tổ chức quần chúng rất rộng rãi như Công hội, Nông hội, Phụ
nữ, Thanh niên…khắp trên cả nước được xây dựng từ khi có Hội Cách mạng Thanh niên.
Để phong trào cách mạng phát triển mạnh, các tổ chức Đảng và đảng viên ở cơ sở có vai trò rất
lớn. Ở các vùng miền chúng ta đều có tổ chức Đảng bộ địa phương như Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung
Kỳ, Nam Kỳ, các Tỉnh ủy, rồi xuống đến cơ sở. Có thể nói hệ thống tổ chức Đảng rất rộng.
Ở Nghệ An, Hà Tĩnh là vùng có tổ chức Đảng mạnh, tổ chức quần chúng cũng mạnh, số lượng
đảng viên rất đông đảo và trách nhiệm nên đã quyết định việc đưa phong trào đấu tranh lên đến
đỉnh cao.

*Tại sao ĐCS Đông Dương và phong trào CM của quần chúng nhanh chóng
phục hồi trong những năm 1932-1935. Nêu tóm lược nội dung đại hội lần thứ
nhất của Đảng tháng 3/1935. Ý nghĩa lịch sử của Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ I của Đảng (3/1935)?
1.Tình hình sau cao trào cách mạng năm 1930-1931.
Hoảng hốt trước cao trào cách mạng năm 1930-1931, đế quốc Pháp khủng bố hết sức dã man
nhằm tiêu diệt Đảng Cộng sản , chúng đã bắt giam 246.532 người. Riêng ở Bắc Kỳ từ năm 1930-

43
1931, mở 21 phiên toà đại hình, xử 1.094 án, trong đó có 64 án tử hình, 114 án khổ sai, 420 án
lưu đầy biệt xứ. Toà án Sài Gòn đã mở phiên toàn kết án 8 án tử hình, 19 án chung thân. Bọn
thực dân dùng mọi cực hình để giết hại các chiến sĩ cộng sản. Từ 1930 đến 1933 ở Côn Đảo có
780 chiến sĩ cộng sản hy sinh ở các nhà tù Đắc Pao, Đắc Pếch có 295 tù nhân, sau thời gian ngắn
chỉ còn 50 người sống sót. Cùng với chính sách khủng bố trắng, chúng ra sức lừa bịp mị dân.
Năm 1932 chúng làm rùm beng việc tên vua Bảo Đại ―hồi loan‖ với chương trình cải cách lừa
bịp....
2.Chủ trương của Đảng.
a.Phải giữ vững và bảo vệ đường lối của Đảng, thể hiện ở cuộc đấu tranh trong nhà tù chống tư
tưởng quốc gia hẹp hòi của Việt Nam Quốc dân đảng, cuộc đấu tranh chống quan điểm duy tâm
phản động của giai cấp tư sản.
b.Phục hồi cơ sở, chấn chỉnh tổ chức
Mặc dù bị khủng bố hết sức dã man nhưng đa số đảng viên của Đảng vẫn giữ vững khí tiết người
cộng sản. Các chiến sĩ cộng sản còn bị giam giữ trong nhà tù đã tổ chức bí mật huấn luyện cho
đảng viên nâng cao lý luận Mác-Lênin, đường lối cách mạng của Đảng, tổng kết kinh nghiệm
vận động quần chúng . Nhiều tờ báo của các chi bộ nhà tù đã được ấn hành góp phần mài sắc ý
chí cho cán bộ đảng viên.
Do bị tổn thất nặng nề, cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn đấu tranh cực kỳ gian khổ.
Tháng 1-1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông cáo về việc đế quốc Pháp buộc dân
cày ra đầu thú, vạch rõ thủ đoạn của kẻ thù và đề ra các biện pháp hướng dẫn quần chúng đấu
tranh. Hội nghị Trung ương (3-1931) quyết định nhiều vấn đề thúc đẩy đấu tranh. Năm 1931, các
đồng chí Trung ương bị địch bắt. Trần Phú bị địch bắt ngày 18-4-1931 tại Sài Gòn.
Trong khi thực dân Pháp khủng bố ngày càng dữ dội, tư tưởng hoang mang dao động xuất hiện
trong quần chúng và cả một số đảng viên, nhưng chỉ là số ít, “đa số đồng chí hết sức trung thành,
hiến dâng cho Đảng đến giọt máu cuối cùng”. Xứ ủy Trung Kỳ không nhận rõ điều đó, nên đã
đề ra chủ trương “thanh trừ trí, phú, địa, hào, đào tận gốc trốc tận rễ”. Tháng 5-1931, Thường vụ
Trung ương Đảng ra chỉ thị nghiêm khắc phê phán chủ trương sai lầm về thanh Đảng của xứ ủy
Trung kỳ và vạch ra phương hướng xây dựng Đảng, “làm cho Đảng bôn-sê-vích hóa để cách
mạng hóa quần chúng, qua đó mà duy trì cơ sở, phát triển phong trào cách mạng, đồng thời qua
thử thách đấu tranh mà vận động phát triển Đảng”.
Ngày 11-4-1931, Quốc tế Cộng sản ra Nghị quyết công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là chi
bộ độc lập. Đó là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong nhà tù đế quốc, các đảng viên
của Đảng nêu cao khí tiết người cộng sản. Tổng Bí thư Trần Phú hy sinh ngày 6-9-1931 tại Nhà
thương Chợ Quán (Sài Gòn). Trước lúc hy sinh còn căn dặn các đồng chí của mình “Hãy giữ
vững chí khí chiến đấu!”. Nằm trong xà lim án chém, Nguyễn Đức Cảnh vẫn viết tổng kết công
tác vận động công nhân. Người thanh niên cộng sản Lý Tự Trọng trước lúc hy sinh khẳng khái
nói: “con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng”. Những đảng viên cộng sản
trong các nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội), Khám Lớn (Sài Gòn), Vinh, Hải Phòng, Côn Đảo… bí mật
thành lập nhiều chi bộ để lãnh đạo đấu tranh chống khủng bố, chống chế độ nhà tù hà khắc, đòi
cải thiện sinh hoạt… Cuộc đấu tranh phản đối án tử hình Lý Tự Trọng nổ ra ở Khám Lớn (11-

44
1931) gây náo động cả thành phố Sài Gòn. Anh chị em tù ở Hỏa Lò tuyệt thực phản đối vụ án tử
hình Nguyễn Đức Cảnh. Cuộc đấu tranh chống chế độ nhà tù hà khắc ở Kon Tum diễn ra đẫm
máu… Nhiều chi bộ nhà tù tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng cho đảng viên về lý luận Mác-Lênin,
đường lối chính trị của Đảng, kinh nghiệm vận động cách mạng; tổ chức học văn hóa, ngoại ngữ
v.v… Nhiều tài liệu huấn luyện đảng viên được biên soạn ngay trong tù như: Chủ nghĩa duy vật
lịch sử , Gia đình và Tổ quốc, Lịch sử tóm tắt ba tổ chức quốc tế (chủ yếu là Quốc tế Cộng sản),
Những vần đề cơ bản của cách mạng
Các đảng viên tại các cơ sở Đảng ở Hà Nội, Sơn Tây, Nam Định , Thái Bình, Hải Phòng...và
nhiều nơi ở miền Nam vẫn kiên cường bám trụ, liên hệ mật thiết với quần chúng , bí mật gây
dựng lại cơ sở. Năm 1932, khắp các châu ở Cao Bằng đều có cơ sở Đảng.
Tháng 6-1932 Đảng ra bản ―Chương trình hành động‖ trong nước: các Xứ uỷ Bắc Kỳ, Trung
Kỳ, Nam Kỳ, nhiều đoàn thể quần chúng ....lần lượt được thành lập.
Đầu năm 1934, Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng (do đồng chí Lê Hồng Phong lãnh đạo ) được
thành lập có nhiệm vụ tập họp cơ sở mới, đào tạo bồi dưỡng cán bộ chuẩn bị triệu tập Đại hội
Đảng.
Tháng 3-1935, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng được tiến hành ở Ma Cao
(Trung Quốc). Đại hội Đảng là một sự kiện lịch sử quan trọng đánh dấu sự khôi phục hệ thống tổ
chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước ra nước ngoài sau những năm bị đế
quốc Pháp và phong kiến tay sai khủng bố.
c.Chuyển hướng về phương thức tổ chức và phương thức đấu tranh .
-Đảng ta đã tổ chức các hội phổ thông công khai như hội cấy, hội gặt, hội đá bóng, hội đọc sách
báo....Thông qua những hình thức tổ chức này, Đảng lãnh đạo quần chúng đấu tranh hợp pháp
với địch, phù hợp với khả năng, nguyện vọng bức xúc của quần chúng . Vì vậy phong trào chỉ
tạm lắng rồi lần lượt bùng dậy. Ví dụ, đầu năm 1931, công nhân Nghệ An, Hà Tĩnh,Quảng Ngãi,
Bến Tre, Vĩnh Long vẫn tổ chức mít tinh. Sang năm 1932 phong trào cách mạng cả nước được
khôi phục, phát triển . Năm 1933 có 344 cuộc bãi công , đặc biệt là những cuộc bãi công của
công nhân xe lửa Sài Gòn, Gia Định....Tháng 1-1935 các tỉnh miền núi phía Bắc tổ chức rải
truyền đơn, treo cờ đỏ đã bị địch khủng bố và bắt hơn 200 người.
-Trong thời kỳ 1932-1935, mặc dù bị địch khủng bố ác liệt, phong trào quần chúng so với lúc
cao trào có tạm thời lắng xuống, nhưng vẫn giữ được khí thế cách mạng , Đảng không những
tích cực khôi phục mà còn đẩy mạnh việc phát triển các tổ chức cơ sở Đảng, giữ vững tinh thần
cách mạng tiến công, kiên trì lãnh đạo quần chúng đấu tranh cách mạng.
4.Ý nghĩa
-Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu thắng
lợi căn bản của cuộc đấu tranh giữ gìn và khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương
đến địa phương, từ trong nước ra ngoài nước. Thống nhất được phong trào đấu tranh cách mạng
của công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân khác dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành
Trung ương, tạo thành sức mạnh chuẩn bị lực lượng cho cuộc chiến đấu mới. Đảng đã nắm vững
và kiên trì lãnh đạo cách mạng , đưa phong trào đấu tranh của nhân dân đến thắng lợi.
-Thiếu sót của Đại hội là không nhạy cảm với tình hình mới, không thấy rõ nguy cơ chủ nghĩa
phát xít trên thế giới và khả năng mới để đấu tranh chống phát xít , chống phản động thuộc địa,
đòi tự do, cơm áo, hoà bình. Do đó, Đại hội không đề ra được những chuyển hướng về chỉ đạo
45
chiến lược và biện pháp phù hợp với tình hình mới. Thiếu sót này đã được bổ khuyết khi có Nghị
quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 7-1936.
-Sau Đại hội, phong trào cách mạng tuy bị địch khủng bố ác liệt nhưng vẫn tiếp tục được khôi
phục và phát triển mạnh. Những tiền đề của cao trào cách mạng mới được chuẩn bị đầy đủ.

*Căn cứ vào đâu để nói: Cao trào cách mạng 1930-1931 và Cao trào cách mạng
1936-1939 là những đợt tổng diễn tập của cách mạng tháng Tám năm 1945?
1.Cao trào cách mạng 1930-1931 là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của Cách mạng Tháng 8-1845.
-Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết-Nghệ Tĩnh là một phong trào quần
chúng tự giác và rộng lớn chưa từng có ở Đông Dương, tiến công vào dinh luỹ của chủ nghĩa đế
quốc và bọn tay sai. ảnh hưởng của cao trào vang dội khắp Đông Dương và các thuộc địa. Đây là
cuộc tổng diễn tập đầu tiên do Đảng ta lãnh đạo , là bước cần thiết chuẩn bị cho thắng lợi Cách
mạng Tháng 8/1945.
+Cao trào cách mạng 1930-1931 khẳng định những nhân tố bảo đảm cho thắng lợi cách mạng
Việt Nam.
+Trước hết, cao trào khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam do Đảng vạch ra là đúng đắn.
Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội , là đường lối cách
mạng chống đế quốc và chống phong kiến triệt để.
+Cao trào đem lại cho công nhân, nông dân và nhân dân lao động nước ta niềm tin vững chắc
vào đường lối cách mạng giải phóng giai cấp , giải phóng dân tộc do Đảng ta lãnh đạo .
+Cao trào đã ―Khẳng định trên thực tế quyền lãnh đạo , năng lực lao động cách mạng của giai
cấp công nhân mà đại biểu là Đảng ta‖.
+Cao trào đã xây dựng được khối liên minh công nông trong thực tế. Lần đầu tiên giai cấp công
nhân sát cánh cùng giai cấp nông dân vùng dậy chống đế quốc và phong kiến , thành lập chính
quyền Xô Viết.
+Cao trào cách mạng 1930-1931 rèn luyện đội ngũ đảng viên quần chúng và đem lại cho họ
niềm tin vững chắc vào sức mạnh và năng lực sáng tạo của mình.
+Cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh là bước phát triển nhảy vọt của cách
mạng Việt Nam, là cái mốc đánh dấu sự trưởng thành của Đảng ta.
-Là cuộc tổng diễn tập lần thứ nhất để tiến tới tổng khởi nghĩa tháng 8/1945.
+Bài học kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ chống đế quốc chống phong kiến thực hiện độc lập dân tộc
và người cày có ruộng.
+Xây dựng khối liên minh công nông làm nền tảng cho việc mở rộng mặt trận dân tộc thống
nhất.
+Xây dựng chính quyền cách mạng , chính quyền Xô Viết công nông.
+Bài học về xây dựng Đảng ở nước thuộc địa nửa phong kiến .
2.Cao trào cách mạng 1936-1939 là cuộc tổng diễn tập thứ hai của Cách mạng Tháng 8-1845.
-Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thời kỳ 1936-1939 phong trào đấu tranh cách mạng diên ra sôi nổi,
lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia, thông qua cao trào cách mạng khẳng định đường lối
đánh đổ đế quốc và người cày có ruộng tiến lên chủ nghĩa xã hội là chính xác. Vận dụng trong
thời kỳ 1936-1939 là chống bọn phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh , đòi

46
quyền dân sinh dân chủ , đó là những mục tiêu trước mắt phù hợp với tình hình so sánh lực
lượng , trình độ giác ngộ và khả năng đấu tranh của quần chúng , nhằm tạo điều kiện thuận lợi
mới để tiến lên đấu tranh cho mục tiêu lâu dài.
-Do có đường lối đúng đắn, có mục tiêu sát hợp, đáp ứng nguyện vọng bức thiết của quần chúng
nên phong trào đấu tranh rộng khắp, sôi nổi trong phạm vi cả nước.
-Trên cơ sở khối liên minh công nông vững chắc, Đảng đã xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất,
một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng . Mặt trận dân chủ thống nhất
Đông Dương đã được hình thành trên thực tế.
Mặt trận dân chủ bao gồm mọi lực lượng dân chủ và tiến bộ, không phân biệt cách mạng ,quốc
gia hay cải lương, không phân biệt người Việt Nam, người Pháp, cùng liên minh đấu tranh chống
phát xít, chống chiến tranh , đòi dân sinh dân chủ .
-Đảng ta đã khéo kết hợp các hình thức tổ chức, hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp bí mật,
bất hợp pháp để xây dựng lực lượng cách mạng . Thông qua thực hiện đấu tranh Đảng đã xây
dựng được đội quân chính trị quần chúng đông đảo có giác ngộ, có tổ chức. Đây là thành quả lớn
nhất của Đảng trong thời kỳ 1936-1939, đồng thời là nhân tố , điều kiện chuẩn bị cho thắng lợi
cao trào cách mạng 1939- 1945.
-Cao trào cách mạng 1936-1939 đã để lại những bài học quý báu: Kết hợp mục tiêu trước mắt
với mục tiêu lâu dài giành thắng lợi từng bước, tạo điều kiện giành thắng lợi từng bước, tạo điều
kiện giành thắng lợi hoàn toàn. Xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi tạo điều kiện cho
quần chúng đấu tranh , hình thức tổ chức và nội dung hoạt động phong phú linh hoạt, động viên
kịp thời trong đấu tranh . Kết hợp tổ chức hoạt động bí mật với tổ chức và hoạt động công khai,
hướng hoạt động vào tổ chức bí mật làm chủ yếu. Biết rút lui đúng lúc khi không cso điều kiện ,
kết hợp phong trào đấu tranh trong nước với phong trào quốc tế.

2.Phong trào dân chủ 1936-1939


*Phân tích nội dung chủ trương điều chỉnh chiến lược Cách mạng của Đảng
Cộng sản Đông Dương khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ?
Hoàn cảnh lịch sử:

● Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929 - 1923 đã đẩy mâu thuẫn vôn có của chủ
nghĩa TB lên cao và sâu sắc. Chủ nghĩa phát xít ra đời và thống trị ở Đức Ý Nhật, nó xóa
bỏ mọi quyền tự do dân chủ, tiến hành khủng bố khơi ngòi chiến tranh thế giới. Chủ
nghĩa phát xít trở thành thảm họa cho nhân loại, yêu cầu bức thiết của nhân loại là chống
phát xít, chống chiến tranh bảo vệ hòa bình.
● Tháng 7 - 1935 quốc tế cộng sản tiến hành đại hội lần thứ 7 tại Matcova, đại hội phân
tích âm mưu thủ đoạn của chủ nghĩa phát xít và nguy cơ phát xít đối với cách mạng thế
giới vạch rõ kẻ thù của nhân dân thế giới lúc này không phải chủ nghĩa đế quốc hay chủ
nghĩa tư bản nói chung mà là chủ nghĩa phát xít.
● Nhiệm vụ trước mắt của công nhân quốc tế là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và
chiến tranh đế quốc giành dân chủ hòa bình, bảo vệ Liên Xô để thực hiện nhiệm vụ trên

47
giai cấp công nhân quốc tế phải thống nhất hành động phải thành lập mặt trận nhân dân
rộng rãi chống chủ nghĩa phát xít, đối với các nước nửa thuộc địa vấn đề mặt trận dân tộc
thống nhất chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt.
Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của đảng Cộng sản Đông Dương:

● Những biến đổi của tình hình trong nước đặt đảng cộng sản Đông Dương trước yêu cầu
mới tháng 7 năm 1936 hội nghị ban chấp hành trung ương đảng họp tại Thượng Hải,
Trung Quốc do đồng chí Lê Hồng Phong chủ trì.
● Căn cứ vào tình hình thế giới, trong nước, nắm vững tư tưởng chỉ đạo của quốc tế Cộng
Sản, hội nghị đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
● Hội nghị khẳng định: Chống đế quốc, chống phong kiến, giành độc lập dân tộc và ruộng
đất cho dân cày là mục tiêu không thay đổi. Song mục tiêu, nhiệm vụ trực tiếp trước mắt
là đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa, chống phát xit và chiến tranh, đòi tự do, dân
chủ cơm áo hòa bình.
● Hội nghị quyết định thành lập mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương bao gồm các giai
cấp, các lực lượng cách mạng, các đảng phái, các xu hướng chính trị và tín ngưỡng tôn
giáo khác nhau đấu tranh đòi những điều dân chủ đơn sơ.
● Trong khi nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng: Đề cao hoạt động bí mật của Đảng; thu
nạp Đảng viên và củng cố hàng ngũ của đảng.
● Hội nghị chủ trương thay đổi hình thức tổ chức và phương pháp đấu tranh, tận dụng điều
kiện hợp pháp công khai, nửa hợp pháp nửa công khai để tổ chức và hoạt động.
● Hội nghị đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng ta giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa mục tiêu chiến lược với mục tiêu cụ thể, trước mắt, mối quan hệ giữa củng cố khối
liên minh công nông và mở rộng mặt trận giữa cách mạng Đông Dương và cách mạng thế
giới.
● Thực hiện chủ trương, chính sách mới, Đảng đã nhanh chóng phát động được một phong
trào cách mạng sôi nổi, thu nhiều thắng lợi có ý nghĩa to lớn. Thành quả nổi bật nhất là đã
xây dựng được đội quân chính trị của hàng triệu quần chúng trong cao trào cách mạng
1936 - 1939, tạo nền tảng cho thắng lợi tiếp theo

48
*Trình bày hoàn cảnh lịch sử và những chủ trương lớn của Đảng trongHội
nghị Trung ương tháng 7/1936

49
*Trình bày thành quả về bài học kinh nghiệm của cách mạng thời kỳ 1936-
1939?
1 – Những thành quả
-Thực hiện chủ trương chính sách mới, Đảng đã vượt qua bao trở lực, khó khăn do sự đàn áp của
kẻ thù, những xu hướng sai lầm, tả khuynh trong nội bộ phong trào. Đảng đã thu được nhiều
thắng lợi có ý nghĩa to lớn:
-Uy tín của Đảng lan rộng, thấm sâu vào những tầng lớp quần chúng rộng rãi, đã động viên, giáo
dục chính trị , xây dựng tổ chức, đoàn kết đấu tranh cho hàng triệu quần chúng ; thông qua
những cuộc đấu tranh chính trị , đấu tranh tư tưởng rộng khắp từ thành thị đến nông thôn, từ nhà
máy đến đồn điền, hầm mỏ đến các làng mạc, thôn xóm.
-Thắng lợi to lớn đó, một lần nữa kiểm nghiệm đường lối cách mạng của Đảng, khẳng định
những mục tiêu cơ bản của cách mạng đề ra là chính xác: đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp và
giai cấp địa chủ phong kiến , thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, đi lên chủ nghĩa
xã hội . Hướng theo đường lối đó, trong thời kỳ 1936-1939 Đảng đề ra chủ trương cụ thể, chống
bọn phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh , đòi quyền dân sinh dân chủ .
-Chủ trương đó phù hợp với trào lưu cách mạng thế giới và phù hợp với nguyện vọng bức thiết
của nhân dân Đông Dương.
-Trên cơ sở liên minh công nông, Đảng ta đã thành công trong việc xây dựng mặt trận dân tộc
thống nhất. Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương đã hình thành bao gồm các lực lượng dân
chủ và tiến bộ, không phân biệt cách mạng, quốc gia hay cải lương, người Việt Nam hay người
Pháp cũng đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh , đòi dân sinh dân chủ .
-Đảng ta đã khéo kết hợp các hình thức tổ chức, hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp với
hình thức bất hợp pháp. Nội dung đấu tranh phong phú. Hình thức đa dạng, linh hoạt , phù hợp ,
tập trung đông đảo quần chúng tuyên truyền giáo dục, đấu tranh rèn luyện xây dựng lực lượng
chính trị của cách mạng .
-Trên thực tế nhân dân ta đã thu được một số thành quả thiết thực:
+Phong trào Đông Dương đại hội.
+Phong trào đấu tranh đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ
+Buộc thực dân Pháp phải ân xá một số tù chính trị và thi hành một số chính sách về lao động .
2 – Bài học kinh nghiệm
-Xác định đúng phương hướng và mục tiêu cụ thể trước điều kiện để tiến lên giành thắng lợi
hoàn toàn.
-Mục tiêu lớn đó là độc lập dân tộc , người cày có ruộng.

50
-Mục tiêu cụ thể trước mắt là chống bọn phản động ở thuộc địa và tay sai, chống phát xít, chống
chiến tranh đòi tự do cơm áo, hoà bình của Đảng có sức mạnh dấy lên một phong trào cách mạng
rộng lớn của quần chúng
-Chủ trương xây dựng mặt trận dân chủ hết sức rộng rãi, tạo điều kiện cho phong trào đấu tranh
của quần chúng phát triển thuận lợi.
-Giải quyết đúng mối quan hệ giữa hình thức hoạt động , hình thức tổ chức công khai, hợp pháp
và bí mật, không hợp pháp để khắc phục tư tưởng ngại khó, chỉ bó mình trong các hình thức bí
mật, đồng thời ngăn ngừa có hiệu quả chủ nghĩa công khai, hợp pháp.

3.Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945


*Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc 1930-1945
● Giai đoạn 1930-1931

Vừa mới ra đời, Đảng đã phát động ngay được cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô-
viết Nghệ Tĩnh. Cao trào cách mạng 1930-1931 không phải là hiện tượng ngẫu nhiên, mà là kết
quả tất yếu của các điều kiện khách quan và chủ quan trong đời sống xã hội của nước ta lúc đó.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã thúc đẩy thực dân Pháp tăng cường cấu kết với thế lực
phong kiến thuộc địa ra sức bóc lột nhân dân Việt Nam và đẩy đời sống của toàn thể nhân dân
lâm vào tình trạng cùng cực; buộc nhân dân ta vùng dậy đấu tranh chống bọn thực dân đế quốc
và phong kiến thuộc địa. Đảng ra đời là nhân tố quyết định và là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
cao trào cách mạng 1930-1931. Cao trào đã thu hút đông đảo quần chúng công nông cả nước
đấu tranh chống ách thống trị của bọn đế quốc, phong kiến. Thành quả lớn nhất của cao trào cách
mạng 1930-1931 mà cuộc khủng bố trắng tàn khốc của đế quốc và phong kiến đã không thể nào
xóa nổi là ở chỗ nó khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo duy nhất thuộc về Đảng ta; ở chỗ,
nó đem lại cho quần chúng niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng.Điển hình,vào tháng 9-1930, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng gửi thông tri cho Xứ ủy Trung Kỳ vạch rõ chủ trương bạo động
riêng lẻ trong vài địa phương lúc đó là quá sớm vì chưa đủ điều kiện. Trách nhiệm của Đảng là
phải tổ chức quần chúng chống khủng bố,giữ vững lực lượng cách mạng.Trong khi khẳng định
đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta, khả năng cách mạng to lớn của công nông, nó cũng
chứng tỏ tính chất phiêu lưu, cải lương của giai cấp phong kiến và tư sản mại bản. Đó là thắng
lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển về sau của cách mạng Việt Nam, là cuộc
tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng Việt Nam để tiến tới giành chính quyền trên cả nước..

● Giai đoạn 1936-1939

Những năm 1936-1939, một thời kỳ đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp kết hợp chặt chẽ với
hoạt động bí mật, bất hợp pháp diễn ra ở nước ta. Khi Mặt trận Nhân dân lên cầm quyền ở Pháp,
Đảng coi đây là một cơ hội tốt để đưa cách mạng tiến bước. Đảng đề ra mục tiêu cho thời kỳ này
là “chống phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo và
hòa bình”. Cao trào cách mạng 1936-1939 dưới sự lãnh đạo của Đảng là thời kỳ vận động quần

51
chúng sôi nổi với nhiều hình thức tổ chức và hoạt động linh hoạt, phong phú, kể cả việc lợi dụng
các “Viện dân biểu”, các “Hội đồng quản hạt” do thực dân Pháp lập ra. Đảng phát động một
phong trào đấu tranh công khai của quần chúng, mở đầu bằng cuộc vận động lập “Ủy ban trù bị
Đông Dương đại hội" nhằm thu thập nguyện vọng quần chúng, tiến tới triệu tập Đại hội đại biểu
nhân dân Đông Dương. Năm 1937, Đảng vận động hai cuộc biểu dương lực lượng quần chúng
dưới danh nghĩa “đón rước”, mit tinh, biểu tình, đưa đơn “dân nguyện”. Đảng đã động viên, giáo
dục cho hàng triệu quần chúng trong các cuộc đấu tranh chính trị rộng khắp. Sự lãnh đạo của
Đảng thời kỳ này đánh dấu bước trưởng thành, thể hiện năng lực lãnh đạo của Đảng ta, chuẩn bị
điều kiện để đưa quần chúng vào những trận chiến đấu quyết liệt trong những năm 1940-1945. 

● Giai đoạn 1939-1945

Ngay khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (tháng 9-1939), Trung ương Đảng đã họp Hội nghị
lần thứ 6 (tháng 11-1939) để điều chỉnh chiến lược cách mạng với nội dung: Đặt nhiệm vụ chống
đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc lên hàng đầu. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận
dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, nhằm thu hút tất cả các dân tộc, giai cấp, đảng phái,
tôn giáo và các cá nhân yêu nước để đánh đổ đế quốc và tay sai, dành độc lập hoàn toàn cho các
dân tộc ở Đông Dương. Trung ương Đảng đã kịp thời chỉ đạo các tổ chức đảng và quần chúng
nhanh chóng rút vào hoạt động bí mật, chuyển hướng hoạt động về nông thôn, tránh sự đàn áp
khủng bố của kẻ thù. Đảng nhận định đây là thời kỳ mà ách áp bức, bóc lột và chiến tranh đế
quốc làm cho nhân dân ngày càng cách mạng hóa, cách mạng sẽ bùng nổ.  Đến năm 1941,Đảng
quyết định lập Mặt trận Việt Minh để tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc dân chủ, đồng thời
xây dựng các căn cứ địa và những đơn vị vũ trang đầu tiên, phát động phong trào đánh Pháp,
đuổi Nhật sôi nổi, mạnh mẽ. Trên cơ sở đó, Mặt trận Việt Minh, lực lượng vũ trang cách mạng
và cả căn cứ địa cách mạng, đều phát triển mạnh mẽ, không chỉ ở khu Việt Bắc. Trên khắp cả
nước, đâu đâu cũng diễn ra các phong trào đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Qua các cuộc
vận động cách mạng đó, Đảng ta đã có nhiều kinh nghiệm, hình thành các chủ trương, quyết
sách, đồng thời đẩy mạnh xây dựng một cách toàn diện các lực lượng cách mạng (Mặt trận Việt
Minh, lực lượng vũ trang, căn cứ cách mạng,...) gấp rút chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thắng lợi. Khi Nhật hất cẳng Pháp, Đảng đã tranh thủ thời cơ, chuyển hướng mau
lẹ, phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước, đồng thời thực hiện khởi nghĩa từng phần, giành
chính quyền từng bộ phận, chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới tổng khởi nghĩa,tiến hành cuộc
Cách mạng Tháng Tám thành công, giành chính quyền nhanh gọn trong cả nước, lập nên nhà
nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa Đảng ta lên vị trí lãnh đạo, cầm quyền.
Đánh giá về cuộc Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Lần này là lần đầu
tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi
đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”. Đảng Cộng sản tổ chức và
lãnh đạo cách mạng, có đường lối chính trị đúng dẫn, phương pháp cách mạng sáng tạo, dày dạn
kinh nghiệm đấu tranh, bắt rễ sâu trong quần chúng, đoàn kết và thống nhất, quyết tâm lãnh đạo
quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền.

52
*Trình bày vai trò của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đối với chủ trương chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng trong Hội nghị Trung ương lần thứ VIII
của Trung ương Đảng (5/1941)?

Ngày 8-2-1941 Nguyễn ái Quốc-Hồ Chí Minh về nước ở vùng Pắc Bó (Hà Quảng-Cao Bằng).
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 họp ở Pắc Bó từ ngày 10 đến19/5/1941, do
Nguyễn ái Quốc chủ trì.
Với cương vị là người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam , đại biểu Quốc tế cộng sản, Người
đã cùng các đại biểu tham dự Hội nghị phân tích tình hình thế giới và tình hình Đông Dương
trong hoàn cảnh chiến tranh , đề ra chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng , bao
gồm những nội dung sau:
+Dự đoán sự phát triển của tình hình thế giới: “ Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đẻ ra
Liên Xô một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ
nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”
+Nhận định về phong trào cách mạng ở Đông Dương: “Mặc dù sự đàn áp liên mien và sức tàn
bạo của giặc Pháp, phong trào cách mạng vẫn sôi nổi một cách mạnh mẽ....”. Đặc biệt hơn là
cuộc khởi nghĩa vũ trang của nhân dân tỉnh Bắc Sơn và Nam Kỳ cùng anh em binh lính Đô
Lương.
+ Những chủ trương của Đảng: Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng
là giải phóng dân tộc. “ Các dân tộc Đông Dương hiện nay bị dưới hai tầng áp bức bóc lột của
giặc Pháp-Nhật....” “ Pháp....Nhật ngày càng không phải chỉ là kẻ thù của công nông nữa mà là
kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”. “ Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc
giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia
dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến Việt Nam cũng
không đòi được”.
-Muốn đánh đuổi Pháp đuổi Nhật phải có lực lượng thống nhất của tất thẩy các dân tộc Đông
Dương.
-Theo đề nghị của Người, Hội nghị quyết định thành lập mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh
gọi tắt là Việt Minh thay cho mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương. ở Lào tổ chức Ai
Lào độc lập đồng minh, ở Miên tổ chức ra Cao Miên độc lập đồng minh để sau đó lập ra Đông
Dương độc lập đồng minh.
-Hội nghị dự kiến những điều kiện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền . Hội nghị
chỉ ra phương hướng tiến hành khởi nghĩa: khởi nghĩa từng phần, từng địa phương, mở đường
cho tổng khởi nghĩa, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm
lá cờ của toàn quốc.
-Hội nghị coi trọng công tác xây dựng Đảng, đào tạo cán bộ để Đảng có đủ năng lực lãnh đạo
cách mạng Đông Dương đi đến thắng lợi hoàn toàn.

53
-Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (5/1941) do Hồ Chí Minh chủ trì có ý nghĩa lịch sử : hoàn
chỉnh việc chỉ đạo chiến lược trong thời kỳ mới, có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945

*Quá trình Đảng từng bước khắc phục hạn chế của Luận cương chính trị và
hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc (Thông qua nghiên cứu và làm
rõ các văn kiện: Chung quanh vấn đề chiến sách mới tháng 10-1936, Nghị quyết Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương tháng 11-1939, tháng 11-1940 và tháng 5-1941).

● Chung quanh vấn đề Chiến sách mới 10/1936:

+ Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc đấu tranh phản đế thì phải chọn vấn đề
nào quan trọng hơn mà giải quyết trước.
+ Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền
địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa,
muốn giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác
đáng.
=> Đây là nhận thức mới phù hợp với tinh thần của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, bước
đầu khắc phục hạn chế của LCCT; nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân
chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng Đông Dương.

● Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương tháng 11-1939:

+ Hoàn cảnh lịch sử:


Thế giới: Ngày 1/9/1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau Anh và Pháp tuyên chiến
với Đức,  Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
Trong nước: Toàn quyền Đông Dương quyết định cấm tuyên truyền cộng sản, đặt ĐCSĐD ra
ngoài vòng pháp luật, chúng vơ vét sức người và sức của để phục vụ chiến tranh của đế quốc;
Đông Dương bị phát xít Nhật dòm ngó và có khả năng Pháp sẽ đầu hàng Nhật
+ Nội dung:
Xác định nhiệm vụ, mục tiêu trước mắt: đánh đổ đế quốc và tay sai; làm cho Đông Dương độc
lập.
Chủ trương: tạm gác khẩu hiệu cách mạng  ruộng đất, đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế
quốc và địa chủ phản động; chống tô cao, lãi nặng; thay khẩu hiệu lập chính quyền Xô viết bằng
khẩu hiệu lập Chính phủ dân chủ cộng hòa.
Phương pháp đấu tranh: chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh
đổ chính quyền đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật,
bất hợp pháp.

54
Thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương với lực lượng chính là công dân,
nông dân, đoàn kết với tiểu tư sản thành thị và nông thôn , đồng minh hoặc trung lập tạm thời với
giai cấp tư sản bản xứ, trung và tiểu địa chủ. Lãnh đạo là giai cấp công nhân.
+ Ý nghĩa: đánh dấu sự chuyển hướng quan trọng: đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.

● Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương tháng 11-1940:

+ Nội dung:
Khẳng định sự đúng đắn của chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Hội nghị trung
ương Đảng tháng 11-1939; xác định kẻ thù chính của cách mạng lúc này là phát xít Nhật - Pháp.
Hội nghị đã cử ra ban chấp hành trung ương lâm thời, phân công đồng chí Trường Chinh làm
quyền bí thư trung ương Đảng, quyết định chắp nối liên lạc với quốc tế cộng sản và bộ phận của
Đảng ở ngoài nước. Hội nghị quyết định hai vấn đề cấp bách:
Một là, duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập những đội du kích, khi cần thiết thì chiến
đấu chống khủng bố, bảo vệ nhân dân.
Hai là, chỉ thị cho xứ uỷ Nam Kỳ hoãn ngay cuộc khởi nghĩa vì chưa đủ điều kiện bảo đảm cho
khởi nghĩa thắng lợi.

● Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương tháng 5 -1941:

+ Nội dung:
Khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc. Mâu thuẫn cấp
bách cần giải quyết đó chính là mâu thuẫn giữa nhân dân ta và đế quốc phát xít Nhật – Pháp.
Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất thay bằng khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng
công, hướng tới người cày có ruộng. Sau khi đánh đuổi Pháp – Nhật sẽ thành lập Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. 
Thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay cho Mặt trận thống
nhất dân tộc phản đế Đông Dương; đổi tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc để thu hút mọi
người dân yêu nước tham gia cứu Tổ quốc, giống nòi và giúp đỡ Lào, Campuchia thành lập mặt
trận.
Xác định hình thức đấu tranh: đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa; chuẩn bị khởi
nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân.
+ Ý nghĩa: Hội nghị 8 đã hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng đấu tranh được đề ra từ Hội nghị
6 nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương
sáng tạo để thực hiện mục tiêu ấy.

55
*Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng Chiến
tranh Thế giới Thứ Hai 1939-1945
1. Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
a)      Tình hình thế giới và trong nước
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ:
Ngày 1-9-1939, phátxít Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau Anh và Pháp tuyên chiến với Đức,
chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Phátxít Đức lần lượt chiếm các nước châu Âu. Đế quốc
Pháp lao vào vòng chiến. Chính phủ Pháp đã thi hành biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở
trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ. Đảng cộng sản
Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.
Tháng 6- 1940, Đức tấn công Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức. Ngày 22-6-1941, quân
phátxít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi Phátxít Đức xâm lược Liên Xô, tính chất chiến tranh đế
quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực
lượng phátxít do Đức cầm đầu.
Tình hình trong nước:
Chiến tranh thể giới thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến Đông Dương và Việt Nam.
Ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, cấm lưu
hành, tàng trữ tài liệu cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật, giải
tán các hội hữu ái, nghiệp đoàn và tịch thu tài sản của các tổ chức đó, đóng cửa các tờ báo và nhà
xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông người.
Trong thực tế, ở Việt Nam và Đông Dương, thực dân Pháp đã thi hành chính sách thời chiến rất
trắng trợn. Chúng phátxít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân
dân, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Hàng nshìn cuộc khám xét bất
ngờ đã diễn ra khắp nơi. Một số quyền tự do, dân chủ đã giành được trong thời kỳ 1936-1939 bị
thủ tiêu. Chúng ban bố lệnh  tổng động viện, thực hiện chính sách "kinh tế chỉ huy" nhằm tăng
cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ chiến tranh của đế quốc. Hơn bảy vạn thanh niên bị
bắt sang Pháp để làm bia đỡ đạn.
Lợi dụng lúc Pháp thua Đức, ngày 22-9-1940 phátxít Nhật đã tiến vào Lạng sơn và đổ bộ vào
Hải Phòng. Ngày 23-9-1940, tại Hà Nội, Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật. Từ dó, nhân dân ta
chịu cảnh một cổ hai tròng áp bức, bóc lột của Pháp - Nhật. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta và đế
quốc, phátxít Pháp — Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
b)Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
Kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội
nghị lần thứ sáu (tháng 11-1939), Hội nghị lần thứ bảy (tháng 11-1940) và Hội nghị lần thứ tám
(tháng 5-1941). Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới thứ hai và căn
cứ vào tình hình cụ thể trong nước, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược như sau:

56
Một là, đưa ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Ban chấp hành Trung ương nêu rõ máu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi phải được giải quyết cấp
bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phátxít Pháp - Nhật. Bởi “Trong lúc này nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân
tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ
phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban Chấp hành Trung ương quyết
định tạm gác lại khẩu hiệu "Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày", thay bằng khẩu hiệu
"Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt Nan cho dân cày nghèo", "Chia lại ruộng đất công
cho công bằng và giảm tô, giảm tức"...
Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết tập hợp lực lượng cách mạng nhằm
mục tiêu giải phóng dân tộc.
Để tập hợp lực lượng cách mạng đông đảo trong cả nước, Ban Chấp hành Trung ương quyết định
thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay cho Mặt trận thống
nhất dân tộc phản đế Đông Dương; đổi tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc (Công nhân cứu
quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thiếu niên
cứu quốc…) để vận động, thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi,
đoàn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang lả nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân
dân ta trong giai đoạn hiện tại.
Để đưa ra cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng lợi, cần phải ra sức phát triển lực lượng cách
mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách
mạng. Ban Chấp hành Trung ương chỉ rõ: Việc "chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của
Đảng ta và dân ta trong giai đoạn hiện tại". Trung ươg quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc
Sơn và chủ trương thành lập những đội đu kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa
chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu
căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Võ Nhai làm trung tâm.
Ban Chấp hành Trung ương xác định phương châm và hình thái khởi nghĩa ở nước ta: "Phải luôn
luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù...
với lực lượng sằn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương
cũng có thể dành thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
Ban Chấp hành Trung ương còn đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao lực
lượng tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh
đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
c) Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng lạo Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh sự
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân
tộc và đề ra nhiều chủ trương đứng đắn để thực hiện mục tiêu ấy.

57
Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu,
tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước trong Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng
chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và thành thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực
lượng vũ trang, là ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp
đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.
Sau Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (tháng 5-1941), Nguyễn Ái Quốc gửi thư
kêu gọi đồng bào cả nước đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp — Nhật. Người nhấn mạnh: "
Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ
bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa bỏng".
Thực hiện Nghị quyết của Đảng và lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc, các cấp bộ đảng và Mặt
trận Việt Minh đã tích cực xây dựng các tổ chức cứu quốc của quần chúng, đẩy nhanh việc phát
triển lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh của quần chúng. Ngày 25-10-1941, Mặt trận
Việt Minh tuyên bổ ra đời. Mặt trận Việt Minh đã tuyên bố ra 10 chính sách vừa ích nước vừa lợi
dân nên được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Từ đầu nguồn cách mạng Pác Bó, Việt Minh đã lan
tỏa khắp nông thôn, thành thị có hệ thống từ
Trung ương đến cơ sở. Một tổ chức chính trị yêu nước ra đời và đã tham gia làm thảnh viên của
Mặt trận Việt Minh như Đảng Dân chủ Việt Nam (tháng 6-1944). Lực lượng chính trị quần
chúng ngày càng đông đảo và được rèn luyện trong đấu tranh chống Pháp - Nhật theo khẩu hiệu
của Mặt trận Việt Minh.
Trên cơ sở lực lượng chính trị của quần chúng, Đảng đã chỉ đạo việc vũ trang cho quần chúng
cách mạng, từng bước tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Từ các đội du kích bí mật,
các đội Cứu quốc quân, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã thành lập Việt Nam giải
phóng quân. Đảng chỉ đạo việc lập các chiến khu và căn cứ địa cách mạng, tiêu biểu là căn cứ
Bắc Sơn — Võ Nhai và căn cứ Cao Bằng. Công việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang diễn ra sôi nổi
ở các khu căn cứ và khắp các địa phương trong cả nước đã cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ phong
trào cách mạng quân chúng vùng lên đấu tranh giành chính quyền.

*Chuyển hướng chỉ đạo trong các Hội nghị giai đoạn 1939-1945

58
59
60
61
62
63
64
Trình bày hoàn cảnh lịch sử, nội dung và ý nghĩa của Chỉ thị ―Nhật Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta‖ của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam ngày 12/3/1945?
1.Hoàn cảnh lịch sử
a.Tình hình thế giới
-Cuối năm 1944 đầu năm 1945 bọn phát xít liên tiếp thất bại trên nhiều mặt trận . Chiến tranh thế
giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Hồng quân Liên Xô tiến như vũ bão về phía Béclin, sào
huyệt cuối cùng của phát xít Đức. Tháng 8-1944 Pari được giải phóng. Tướng Đờ Gôn lên cầm
quyền, ở Thái Bình Dương phát xít Nhật đang nguy khốn, đường biển từ Nhật xuống Đông Nam
á bị quân Đồng minh khống chế.
b.Tình hình Đông Dương.
-Lực lượng Pháp theo phái Đờ Gôn ráo riết hoạt động chờ thời cơ quân Đồng minh đổ bộ vào
Đông Dương sẽ nổi dậy tiến công quân Nhật. Quân Nhật biết rất rõ những hoạt động của Pháp
nên quyết định hành động trước. Vào hồi 20 giờ 20 phút ngày 9-5-1945 , quân đội Nhật nổ súng
đồng loạt, lật đổ chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương. Sau thời gian ngắn, quân Pháp ở
Đông Dương tan rã. Sự cấu kết Pháp- Nhật để thống trị Đông Dương chấm dứt . Tuy Nhật thống
trị Đông Dương nhưng chính sách cai trị , bóc lột của chúng không có gì thay đổi.
-Ngay đêm 9-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp tại Đình Bảng (Từ Sơn-Bắc
Ninh) để đánh giá tình hình và đề ra chủ trương mới. Nghị quyết của Ban Thường vụ Trung
ương Đảng được công bố trong Chỉ thị Nhật –Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta ra ngày
12-3-1945
2.Nội dung chỉ thị
-Chỉ thị nêu rõ nguyên nhân cuộc chính biến, gồm 3 nguyên nhân:
+Hai con chó đế quốc không thể ăn chung một miếng mồi béo bở như Đông

65
Dương.
+Trung Quốc, Mỹ sắp đánh vào Đông Dương. Nhật phải bắn Pháp để trừ cái hoạ
bị Pháp đánh sau lưng khi quân Đồng minh đổ bộ.
+Sống chết Nhật phải giữ lấy cái cầu trên con đường nối liền các thuộc địa miền
Nam Dương với Nhật vì sau khi Phi Luật Tân bị Mỹ chiếm, đường thuỷ của Nhật đã bị cắt đứt.
-Về tình hình cuộc đảo chính, Chỉ thị nêu rõ: Cuộc đảo chính của Nhật gây ra biểu hiện một cuộc
khủng hoảng chính trị sâu sắc:
+Hai quân cướp nước cắn xé nhau chí tử.
+Chính quyền Pháp tan rã.
+Chính quyền Nhật chưa ổn định
+Các tầng lớp đứng giữa hoang mang.
+Quần chúng cách mạng muốn hành động
-Chỉ thị nêu rõ: Mặc dầu tình hình chính trị khủng hoảng sâu sắc, nhưng điều
kiện khởi nghĩa ở Đông Dương hiện nay chưa thực sự chín muồi ,vì:
+Cuộc kháng chiến của Pháp quá yếu và cuộc đảo chính của Nhật tương đối dễ dàng; nên tuy
giữa hai bọn Nhật, Pháp có sự chia rẽ đến cực điểm: tuy hàng ngũ bọn Pháp ở Đông Dương
hoang mang, tan rã đến cực điểm, nhưng xét riêng bọn thống trị
Nhật, ta thấy chúng chưa chia rẽ, do dự đến cực điểm.
+Các tầng lớp nhân dân đứng giữa tất nhiên phải qua một thời chán ngán những
kết quả tai hại của cuộc đảo chính lúc ấy mới ngả về phe cách mạng , mới quyết tâm giúp đỡ đội
tiên phong.
+Trừ những nơi có địa hình, địa thế , có bộ đội chiến đấu, nói chung toàn quốc, đội tiền phong
còn đang lúng túng, chưa sẵn sàng chiến đấu, chưa quyết tâm hi sinh.
-Chỉ thị nêu rõ những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi.
+Chính trị khủng hoảng (quân thù không rảnh tay đối phó với cách mạng )
+Nạn đói ghê ghớm (quần chúng oán ghét quân cướp nước).
+Chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt (Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương
đánh Nhật).
-Chỉ thị nhận định : Cuộc đảo chính của Nhật mang lại những thay đổi lớn:
+Đế quốc Pháp mất quyền thống trị ở Đông Dương, chúng không phải là kẻ thù cụ thể trước mắt
nữa-mặc dầu chúng ta vẫn phải đề phòng cuộc vận động của bọn Đề Gôn định khôi phục quyền
thống trị cuả Pháp ở Đông Dương.
+Sau cuộc đảo chính này, đế quốc phát xít Nhật là kẻ thù chính-kẻ thù cụ thể trước mắt, duy nhất
của nhân dân Đông Dương. Vì vậy, khẩu hiệu ―Đánh đuổi phát xít Nhật-Pháp‖ trước đây phải
được thay đổi bằng khẩu hiệu ―Đánh đuổi phát xít Nhật‖.

66
+Thay đổi mọi hình thức tuyên truyền cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp với thời kỳ
tiền khởi nghĩa nhằm động viên mau chóng quần chúng tiến lên mặt trận cách mạng , tập dượt
cho quần chúng tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền .
+Dự kiến những trường hợp làm cho tổng khởi nghĩa có thể nổ ra thắng lợi như: # Quân Đồng
minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật.
# Cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng nhân dân Nhật thành lập. # Nhật mất
nước như Pháp năm 1940.
# Quân đội viễn chinh của Nhật mất tinh thần....thì khi ấy dù quân Đồng minh chưa đổ bộ, cuộc
tổng khởi nghĩa của ta vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi.

*Sự chỉ đạo của Đảng trong xây dựng lực lượng nắm thời cơ, phát động tổng
khởi nghĩa giành chính quyền trong CMT8 1945?

67
4.Tính chất,ý nghĩa và kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
*Đặc điểm,tính chất,nguyên nhân t.lợi, kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc
CMT8 năm 1945
● Đặc điểm (Có thể câu hỏi sẽ tách từng đặc điểm ra để hỏi á)

Đặc điểm thứ nhất: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam là một cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ thành công triệt để.
Các nhà sử học Việt Nam dùng từ "cách mạng" để xác định tính chất của phong trào đấu tranh
nhằm đánh đuổi quân Pháp, giành lại chủ quyền, đại khái bắt đầu từ đầu thế kỷ XX. Còn từ cuộc
nổi dậy của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Bình Tây Đại nguyên soái Trương Định đến cuộc
khởi nghĩa Hương Sơn của Phan Đình Phùng, cuộc kháng chiên kéo dài của Hoàng Hoa Thám,
đều chưa thuộc vào thời kỳ cách mạng. Có thể hiểu vì trong giai đoạn lịch sử đó, các lãnh tụ
kháng chiến và đồng bào nổi dậy đều chỉ nhằm mục đích đại nghĩa là tiêu diệt quân xâm lăng,
"khôi phục nước Việt Nam y cựu". Ra sức giữ cho được cái cũ quen thuộc, chưa một ai tính thay
đổi gì mới trong chế độ xã hội đương tàn.

68
Phải đến đầu thế kỷ XX thì khái niệm "cách mạng" mới đến Việt Nam từ "tân thư", "tân báo" của
Trung Quốc, Nhật Bản. Vào Việt Nam trước tiên là tư tưởng cách mạng tư sản dân chủ đã cũ ở
phương Tây, nhưng còn mới cho phương Đông. Phong trào yêu nước Việt Nam cho đến hết
Chiến tranh thế giới thứ nhất nói chung là ở trong khuôn tư tưởng ấy tuy những tư tưởng quân
chủ, thần bí ở dạng này hay dạng khác còn sống khá mạnh, như các cuộc nổi dậy của Nguyễn
Hữu Trí ở Nam Kỳ, ở Sài Gòn những năm 1911 và 1916 được gọi là nổi dậy Thiên địa hội.Mãi
đến gần giữa những năm 20, phong trào yêu nước ở Việt Nam mới hoạt động với một chất lượng
mới với phương hướng cách mạng, kết hợp nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ loại trừ mọi tàn tích
phong kiến, đem lại độc lập và dân chủ cho đất nước. Bắt đầu xuất hiện những tổ chức đưa đến
Việt Nam Cách mạng Thanh niên của Nguyễn Ái Quốc, Việt Nam Quốc dân Đảng của Nguyễn
Thái Học.
Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời tương đối muộn (1930), chủ trương làm cách
mạng có tính chất dân chủ tư sản lấy hai nhiệm vụ phản đế và phản phong làm cơ bản với giai
cấp công nhân và giai cấp nông dân làm động lực chính của cách mạng. Giai cấp công nhân lãnh
đạo toàn dân nổi lên một ngày nào đó giành độc lập dân tộc, lập chính phủ công nông. Nhưng
khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Đảng Cộng sản thấy tình thế mới cho phép và đòi hỏi một
chuyển hướng chiến lược nhằm tạo ra đầy đủ khả năng đoàn kết tất cả dân tộc không chừa một
giai cấp nào, dù là địa chủ hay tư sản, đoàn kết xung quanh công nông liên minh đã bắt đầu được
xây dựng có hiệu quả ngay từ giai đoạn lịch sử 1930 - 1931 và được thử thách suốt mười mấy
năm.
Trong đường lối chuyển hướng chiến lược đó, Đảng rút bớt khẩu hiệu cách mạng phản phong;
cách mạng Việt Nam từ nay là cách mạng giải phóng dân tộc, chủ yếu nhằm đạt mục đích độc
lập, tự do, lập chính quyền dân chủ cộng hoà trên cơ sở đại đoàn kết toàn dân trong đấu tranh
chính trị và vũ trang chống Pháp, chống Nhật.
Hồ Chí Minh kêu gọi:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công.
Nhìn lại Cách mạng Tháng Tám 1945, chúng ta thấy trong hàng ngũ cách mạng chẳng những có
công nhân, nông dân mà còn có đại địa chủ, nhiều quan lớn của triều đình, đương chức hoặc đã
về hưu; đáng chú ý là sự có mặt của nhiều vị tiêu biểu cho các tôn giáo. Các dân tộc miền núi có
mặt ngay từ những ngày khởi nghĩa tại Hà Nội, Sài Gòn. Sức mạnh của Cách mạng Tháng Tám
là sức mạnh của toàn dân Việt Nam có tổ chức, có lãnh đạo  Chính vì vậy mà Cách mạng Tháng
.

Tám là cuộc cách mạng thành công triệt để nhất trong các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Trong thực tế lịch sử, Cách mạng Tháng Tám hoàn thành cả hai nhiệm vụ lớn của cách mạng dân
chủ tư sản, cách mạng phản đế và cách mạng phản phong kiến. Có điều là triều đình Huế sụp đổ
rồi, nhưng chưa phải là tàn dư phong kiến trong các mặt xã hội khác đều tự nó tiêu tan. Công
bằng xã hội ở nông thôn tuần tự được giải quyết như đã công bố trong Chương trình Việt Minh.
Thực ra, chế độ quân chủ không tự nó tan biến, cái "hay" của Pháp là thâu tóm tất cả quyền hành,
còn cái “dở’’ lớn của nó là do thâu tóm hết quyền hành khiến cho đồng minh của đế quốc là

69
phong kiến thấy quá rõ thân phận tôi đòi , cho nên mới có câu nói khôn ngoan duy nhất của Vĩnh
Thụy: làm dân của một nước tự do hơn là làm vua một nước nô lệ.Ở Việt Nam, chính khởi nghĩa
toàn dân đã đưa lên một chính quyền của nhân dân, một chính quyền vì nhân dân; chính quyền
ấy hoàn toàn độc lập với bất cứ một đế quốc thực dân nào. Cụ Hồ nói: "Nam Bộ là thịt của thịt
Việt Nam, là máu của máu Việt Nam; sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không
bao giờ thay đổi". Nếu cần, sẽ kháng chiến 9 năm, 30 năm chứ không bao giờ chịu khuất phục
trước thực dân, đế quốc. Lời nói đanh thép đó chỉ có thể thốt ra từ một chính quyền hoàn toàn
độc lập.
Những khó khăn cực kỳ lớn không ngăn cản được sự thực hiện dân chủ dưới các hình thức rộng
rãi và có nguyên tắc nhất. Chính các chế độ dân chủ mới mẻ và mạnh dạn này đã góp phần đặc
biệt quan trọng cho cuộc kháng chiến thành công. Điều cần nhấn mạnh là chính quyền dân chủ
do Cách mạng Tháng Tám dựng lên là một chính quyền có đầy đủ tính chất dân chủ, song lại cao
hơn, hay nói một cách khác, có tính chất nhân dân đậm, ít thấy ở các xứ khác, bởi vì cơ sở của
chính quyền mối là các Ủy ban khởi nghĩa được thành lập đã tập hợp nhân dân, đưa nhân dân lên
đưòng tranh đấu giành độc lập, tự do. Hoàn toàn không phải là một chính quyền dân chủ hình
thức được áp đặt trên nhân dân.Nền dân chủ được dựng lên như vậy đang được gọi là một nền
dân chủ nhân dân; dân chủ nhân dân hẳn chưa phải là dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng về bản
chất đã vượt qua dân chủ tư sản thường thấy ở nhiều nước vừa thoát khỏi ách thực dân, ở đó thế
lực của bọn phong kiến thân đế quốc còn rất lớn. Còn ở Việt Nam, cách mạng thành công triệt để
sinh ra chính quyển dân chủ nhân dân; chính quyền dân chủ nhân dân mở ra nhiều khả năng
chính trị mới, trong đó trước hết là khả năng đương đầu lâu dài và thắng lợi chông đế quốc thực
dân đang thực hiện kế hoạch xâm lăng Việt Nam một lần nữa.
Đặc điểm thứ hai: Từ một quá trình chuẩn bị lâu dài, liên tục, gian nan tột bậc, Cách mạng
Tháng Tám nổ ra và thành công nhanh, gọn, phi thường trên toàn quốc Việt Nam.
Cách mạng Tháng Tám là một giai đoạn của cách mạng Việt Nam. Nếu phải viết về lịch sử cách
mạng Việt Nam thì sẽ bắt đầu từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, từ khi xuất hiện ngôi sao
Nguyễn Ái Quốc trên bầu trời, nghĩa là từ khi dân tộc Việt Nam bắt đầu có đường lối cách
mạng.Còn lịch sử Cách mạng Tháng Tám thì bắt đầu từ cuộc Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào
thuộc Khu giải phóng Việt Bắc cho đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt cho Chính phủ lâm
thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Thủ đô Hà Nội. Thời gian
lịch sử Cách mạng Tháng Tám là ba, bốn tuần còn thòi gian lịch sử cách mạng Việt Nam dài hơn
rất nhiều. Nói rõ hơn, thời gian lịch sử Cách mạng Tháng Tám chủ yếu là thời gian tổng khởi
nghĩa.
Ngày 13/8, Tổng bộ Việt Minh, Thường vụ Trung ương Đảng được tin Nhật đầu hàng. Mười một
giờ đêm hôm ấy, từ Tân Trào phát ra Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa: "... đồng bào hãy
đem hết tâm lực ủng hộ đạo quân giải phóng, sung vào bộ đội, xông ra mặt trận đánh đuổi quân
thù".
Rạng ngày 14, Tổng bộ Việt Minh ra hiệu triệu: "Trước cơ hội có một không hai ấy, toàn thể dân
tộc ta phải đem hết lực lượng, dùng hết can đảm, bao quanh đạo Quân giải phóng, tung xương
máu ra đánh đuổi giặc Nhật, đòi lấy tự do, hạnh phúc cho nhân dân".

70
Làm một cuộc tổng khởi nghĩa trên cả một nước gồm hàng chục vạn, hàng trăm vạn nhân dân,
khác xa với phát lệnh tổng tiến công cho hàng chục, hàng trăm đơn vị quân đội sẵn sàng chiến
đấu. Ở quân đội, tổ chức đã xong trước khi chiến đấu. Ở nhân dân, mọi việc đều còn phải hoàn
thành khi nhận được lệnh khởi nghĩa. Bắc Nam xa cách hàng ngàn kilômét, điện đài thiếu hoặc
không có, tất cả cầu phà trên đường thiên lý đều bị máy bay Mỹ phá. Ngay cả liên lạc giữa Tân
Trào và Hà Nội cũng cực kỳ khó khán, vì lúc ấy đê Vĩnh Yên đã vỡ, giữa sông Hồng và Tam
Đảo là một vùng lũ lụt mênh mông.
Hãy tưởng tượng tâm trạng lo âu của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã phát lời kêu gọi "toàn quốc
đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta" nếu Hà Nội, Huế, Sài Gòn không
kịp hưởng ứng trước khi Đồng minh đưa quân vào, tình thế chính trị sẽ ra sao? Tình thế lịch sử
lúc này đặt ra trước mọi người một cuộc "chạy đua" nước rút giữa cách mạng Việt Nam quyết
tâm giành độc lập, tự do với quân Đồng minh nhập Việt, quân Tưởng ở miền Bắc, quân Anh ở
miền Nam.
Tưởng thì chưa bao giờ có chút cảm tình nào với Việt Nam, còn Anh thì cấu kết với Pháp. Quân
Đồng minh thì hoặc ở sát biên giới ta, bước một bước đã tới như quân Tưởng, hoặc như quân
Anh có thừa máy bay, tàu chiến để nhanh chóng vào Sài Gòn. Họ có thể có ít nhiều mâu thuẫn
với nhau, nhưng thống nhất với nhau ở chỗ ngăn cản Việt Minh giành chính quyền. Điều đó
buộc chúng ta phải thắng, thắng nhanh thì mới có độc lập, tự do. Nếu ta tới trễ, quân họ đông, vũ
khí họ tốt, nếu họ làm chủ Hà Nội, Huế, Sài Gòn trước ta chỉ một tuần, một ngày, vài giờ thôi thì
làm gì còn khởi nghĩa cách mạng nữa, làm gì có Việt Nam dân chủ cộng hoà? Năm mươi năm
sau 1945, nhìn lại cuộc chạy đua nửa thế kỷ trước, càng thấy cuộc đấu tranh với thời gian là
quyết liệt chừng nào và dân tộc Việt Nam đã giành chiến thắng một cách thần tốc, oanh liệt như
thế nào?
Đúng giữa tháng tám, pháo lệnh tổng khởi nghĩa đã nổ. Việt Nam Giải phóng quân xuất phát
đánh quân Nhật ở hai cửa ngõ đông, tây của Tân Trào là Thái Nguyên và Tuyên Quang. Chiến
cuộc đang tiếp diễn thì ngày 19, cuộc khởi nghĩa của nhân dân Hà Nội thành công gọn. Đó là
tiếng súng lệnh cho tất cả các đơn vị trên toàn chiến trường sẵn sàng tiếp ứng. Ngày 23, chỉ bốn
ngày sau Hà Nội, Huế khởi nghĩa thắng lợi. Nhân dân Sài Gòn, tới phiên mình, hoàn thành khởi
nghĩa đêm 24, rạng ngày 25.Chưa đầy một tuần lễ, tổng khởi nghĩa thành công trên một đất nước
dài hơn 2 ngàn kilômét.Tất cả đồng bào các tỉnh, huyện, xã nối tiếp nhau, từ Bắc chí Nam, từ
miền biển đến miền núi đều nhất tề đứng dậy và đều thành công trọn vẹn.
Nói cho đúng, trong cuộc "chạy đua", nếu quân Tưởng và quân Anh đã có mặt ở Hà Nội, ở Sài
Gòn trước thì họ đã làm hết sức để khởi nghĩa không nổ ra, hoặc nếu có nổ ra thì cũng không
thành công. Nhưng lúc đó, mối chỉ có vài nhóm tiền tiêu của họ được chứng kiến ngày 2-9, nhất
là chứng kiến tinh thần của hàng triệu nhân dân kiên quyết bảo vệ độc lập, tự do mối giành lại
được. Ít hôm sau, khi họ chính thức vào Đông Dương để giải giáp quân Nhật thì Việt Nam đã có
chủ, chủ là người Việt Nam hoạt động trong trật tự nghiêm túc. Nếu họ muốn quay lại chế độ cũ
thì sẽ vấp phải sự kháng cự mãnh liệt nhất của một nhân dân đang hừng hực tinh thần chiến
thắng.

71
Sự thật, những người lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã tính trước cuộc "chạy đua" này. Nếu
không tính trước, không thắng nổi. Đã tính trước trường hợp "Hoa quân nhập Việt", ta phải làm
gì? Đã tính trước trường hợp quân Mỹ đổ bộ ở Trung Kỳ sau khi chiếm lại Philíppin. Nhưng
phải nói thật là khi ấy, không ai đoán trước Hồng quân Liên Xô vào giải phóng Đông Bắc Trung
Quốc, và hai quả bom nguyên tử buộc quân Nhật đầu hàng sớm hơn ta dự tính. Do đó, cuộc
"chạy đua" xảy ra căng thẳng hơn và cũng vì đó mà thành tích cuộc chạy đua càng vẻ vang hơn,
ly kỳ hơn, mang ít nhiều tính huyền thoại. Nhưng đừng nên quên Việt Nam là xứ của huyền
thoại Ông Gióng. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công nhanh gọn, xét cho cùng chính là vì
nó đã được chuẩn bị lâu dài, liên tục và cực kỳ gian khổ.
Khởi nghĩa chỉ có mấy ngày mà hoàn thành thì phải chuẩn bị 15 năm mới được như vậy. Trong
15 năm liên tục, Đảng Cộng sản và Mặt trận (Phản đế, Dân chủ, Việt Minh) đã hy sinh hàng vạn
chiến sĩ trong tù, trên máy chém, trong hàng ngàn cuộc bãi công, biểu tình, bãi thị, khởi nghĩa
địa phương; nhưng kết quả lớn nhất của phong trào là, qua đấu tranh kinh tế, chính trị và tư
tưởng, Đảng và Mặt trận đã gây được một điều rất cơ bản là làm cho quần chúng nhân dân không
còn rời rạc, không còn thờ ơ với chính trị, mà trái lại hàng triệu người dân từ nay có ý thức về
sức mạnh của mình, có ý thức về vai trò lịch sử của mình. Đó là việc rất lớn không phải đảng nào
cũng biết đặt ra, không phải đảng nào cũng làm nổi. Đó là việc rất lâu dài, phải trải qua đấu tranh
cách mạng gian khổ mới được. Nhờ vậy mà, khi thời cơ thuận lợi cho khởi nghĩa sắp đến, Đảng
Cộng sản và Mặt trận Việt Minh đã tạo nên một lực lượng cách mạng cực kỳ hùng hậu mà trong
thuật ngữ bấy giờ gọi là "đạo quân chính trị": cứ xem số nhân dân ngày 19-8 ở Hà Nội trước Nhà
hát thành phố", ngày 23-8 ở Ngọ Môn, Huế, ngày 25-8 ở tất cả các đại lộ Sài Gòn, thì rõ. Riêng
ở Sài Gòn và riêng trong công nhân lao động thành phố, "đạo quân chính trị" ấy gồm đến
200.000 ngưòi có tổ chức, hôm ấy (25-8) gần trăm vạn nông dân các tỉnh quanh Sài Gòn đúng
hẹn vào thành phố với vũ khí trong tay, dù phần lớn là vũ khí thô sơ. Như thế cũng đủ thấy tầm
quan trọng trong khởi nghĩa của "đạo quân chính trị" được dày công tạo thành từ những phong
trào cách mạng trước tới đó.
Kết quả lớn của cuộc chuẩn bị lâu dài còn có một điều nữa mà ai viết lịch sử Cách mạng Tháng
Tám cũng phải đề cao rất cao; đó là Khu giải phóng gồm Cao - Bắc - Lạng - Thái - Tuyên - Hà,
sáu tỉnh, khi ấy gọi là "nước Việt Nam mới". Khu giải phóng Việt Bắc là kết quả của các cuộc
đấu tranh vũ trang từ năm 1940, từ khởi nghĩa Bắc Sơn. Sáu tỉnh được giải phóng, là chỗ dựa
mạnh của cách mạng, mà cách mạng khi ấy; thật ra không phải chỉ có Cao - Bắc- Lạng - Thái -
Tuyên - Hà; còn nhiều vùng khác, nhỏ hơn, sau hơn mà có lẽ một ngày nào đó, nhà viết sử không
thể không kể đến, như vùng du kích Ba Tơ ở Quảng Ngãi, như nhiều quận huyện ở Nam Kỳ lúc
bấy giờ gọi là vùng "lưỡng quyền tương tranh" ở đó, về hình thức thì có bộ máy quan làng của
Nhật nguỵ rệu rã, mà về thực tế thì quyền hành lại ở trong tay của toàn thể nhân dân, của Việt
Minh đang phát triển hết sức mạnh.
Trong sự chuẩn bị lâu dài cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sau hết cần phải kể đến sự
thành lập và phát triển của lực lượng vũ trang.Có nhiều tài liệu lịch sử nói về công nông tự vệ
đội ở thời kỳ phong trào cách mạng 1930 - 1931. Trong quá trình đấu tranh cách mạng, bắt đầu
từ đầu Chiến tranh thế giói thứ hai, các đơn vị vũ trang của nhân dân sớm được thành lập, đến
cuối năm 1944 thì Quân giải phóng ra đòi. Quân giải phóng ra đời trong cuộc "đánh Pháp, đuổi

72
Nhật". Pháp bị lật đổ, cuộc kháng Nhật của Quân giải phóng càng mạnh hơn. Bên cạnh Quân
giải phóng ở Chiến khu Việt Bắc, các chiến khu ở Bắc và Trung đều có nhiều hay ít lực lượng vũ
trang, các lực lượng vũ trang đó lớn mạnh dần theo sự phát triển của phong trào phá kho thóc của
Pháp, Nhật để cứu đói, phong trào chống trưng thu lương thực, phong trào chống nhổ lúa, trồng
đay... Cuộc tự vệ của nhân dân trong các phong trào này chuẩn bị tinh thần và vật chất cho khởi
nghĩa vũ trang.Quân giải phóng không trực tiếp tham gia khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn,
nhưng uy thế chính trị của Việt Minh, của Quân giải phóng trợ lực rất nhiều cho cuộc tổng khởi
nghĩa trong cả nước.
Nói tóm lại, Cách mạng Tháng Tám được chuẩn bị liên tục trong suốt 15 năm và kết quả lớn
nhất của sự chuẩn bị đó là: Thứ nhất, xây dựng được một đảng tiên phong trường sinh bất tử có
cơ sở và hệ thống trong cả nước. Thứ nhì là đem lại cho nhân dân cái ý thức về sức mạnh của
mình, về vai trò lịch sử của mình; Thứ ba là tập hợp được một "đạo quân chính trị" rất lớn bao
gồm hàng chục vạn, hàng triệu người sẵn sàng nổi dậy giành chính quyền; Thứ tư là, trước ngày
khởi nghĩa, Đảng và Mặt trận đã lập được một căn cứ địa rộng lớn - vùng giải phóng sáu tỉnh
Cao - Bắc - Lạng - Thái - Tuyên - Hà. Ở đây đã tổ chức được một đội Quân giải phóng được rèn
luyện trong khói lửa của mấy năm "đánh Pháp, đuổi Nhật", đồng thời ở khắp nước cũng đã thành
lập nhiều đội tự vệ vũ trang của quần chúng. Tháng Tám năm 1945, Việt Nam có lực lượng,
chưa gọi là đầy đủ mà thật sự đã là hùng hậu rồi. Chuẩn bị lực lượng hùng hậu để khi thời cơ
chín muồi, nghĩa là khi đối tượng của cách mạng đã đến lúc suy yếu nhất thì kịp thời nổi lên khởi
nghĩa giành chính quyền. Giữa tháng tám là lúc thòi cơ chín muồi. Ta liền giáng cho địch một
đòn nhanh như sét đánh. Ta đã hoàn toàn thành công trên cả nước.
Đặc điểm thứ ba. Cách mạng Việt Nam là cả một quá trình chuẩn bị và đấu tranh đầy
xương máu, nhưng Cách mạng Tháng Tám đã nổ ra và thành công một cách hòa bình.
Truyền thống lâu đời của người Việt Nam là giành lại độc lập dân tộc bằng đấu tranh vũ trang.
Suốt mấy ngàn năm lịch sử đều như thế. Và từ khi Pháp đánh chiếm Việt Nam, tuy Pháp có tàu
chiến, đại bác, súng trường, còn người yêu nước Việt Nam chỉ có gươm đao, các vị lãnh đạo dân
tộc từ Trương Định ở Tân Hòa, đầu những năm 60 của thế kỷ XIX cho đến khởi nghĩa Thiên địa
hội năm 1911, năm 1916 phá Khám Lớn Sài Gòn, những người yêu nước Việt Nam vẫn luôn
luôn dám dùng vũ khí thô sơ để đánh Pháp, thua keo này bày keo khác, không hề nghĩ tới xin xỏ,
yêu cầu vận động hoà bình để được trả lại độc lập, tự do.
Đầu thế kỷ XX, tuy cụ Phan Chu Trinh chống đường lối bạo động và cụ Phan Bội Châu cầu
viện, song thâm ý chủ yếu của cụ là “dựa vào Pháp để đánh đổ triều đình Huế, chứ hình như Tây
Hồ không nói tới “cách mạng hoà bình”; mỗi thế thôi cũng đủ cho Pháp đưa cụ đi Côn Lôn trước
khi lưu đày sang Pháp. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, cụ Phan Bội Châu thất vọng cho rằng
con đường vũ trang, phương pháp bạo động không còn có cơ thành công; cho nên mới có “Pháp
Việt đề huề” chánh kiến thư. Nhưng rồi, bị bắt, bị đưa ra toà Hà Nội, xử bị giam lỏng ở Huế, cụ
đã nói với Đặng Thai Mai rằng: “đề huề chi mà đề huề, oán thù ta hãy còn sâu, trồng cây nên gậy
gặp đâu đánh què!”. Sào Nam có cổ vũ cho cách mạng hoà bình thật, nhưng cụ nhấn mạnh vào
“bất hợp tác” nhiều hơn là vào “bất bạo động”. Ngay cụ Nguyễn An Ninh, sau chiến tranh, công
khai viết báo “Chuông rè”, cũng đã lập luận như sau: “Pháp vũ trang mạnh, ta không có súng
đạn; Pháp lại có Anh, Hà là đế quốc thực dân cấu kết nhau chống lại cách mạng dân tộc giải

73
phóng còn ta thì chỉ có một mình, cho nên trước mắt tôi thấy phải dùng phương pháp hoà bình,
lấy pháp lý, lấy lẽ phải, lấy nhân quyền mà đấu tranh đòi tự do, tự trị, độc lập; rồi nếu con đường
đấu tranh công khai hợp pháp, hoà bình ấy không thực hiện được, thì tôi (Nguyễn An Ninh) sẽ
nhường chỗ cho những ngưòi Việt Nam yêu nước có chủ trương khác”. Nguyễn Thái Học, trước
khi lên đoạn đầu đài, nói ý tựa như Nguyễn An Ninh; Tôi đã cố gắng hợp tác với người Pháp để
đấu tranh hoà bình mà không được nên cuối cùng tôi chủ trương đấu tranh bạo động để giành
độc lập!
Trên thực tế lịch sử cũng như trong thâm tâm tư tưởng, người Việt Nam tán thành, ủng hộ, thực
hiện sách lược cổ truyền có hiệu quả, lần này không được thì lần khác, là giành độc lập bằng
khởi nghĩa vũ trang, từ Hai Bà Trưng năm 40 đầu Công nguyên đòi nhà Hán, cho đến nay đều
như vậy, đưòng lối bất biến trong lịch sử vạn biến.
Khởi nghĩa Yên Bái tháng 2-1930, thất bại. Những người cộng sản Việt Nam tuy không tán
thành phương pháp đấu tranh và sách lược khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng, nhưng vẫn
ủng hộ hành động của Quốc dân Đảng và ngay từ năm 1930 đã có nghị quyết tỏ ý tiếc rằng Đảng
không kịp thòi hay biết và chuẩn bị điều kiện để giúp đỡ phần nào một đảng cách mạng quốc gia.
Sau khi khởi nghĩa Yên Bái thất bại và Quốc dân Đảng bị đế quốc Pháp thẳng tay tiêu diệt bằng
máy chém và máy bay ném bom, mấy trăm đảng viên, chiến sĩ Quốc dân Đảng bị đày đi Côn
Đảo và xa hơn Côn Đảo nữa, thì từ đó (1930) đến Chiến tranh thế giới thứ hai, trên cả Đông
Dương, trên cả Việt Nam, chỉ còn có một đảng cách mạng dám đương đầu và đương đầu nổi với
Pháp mà thôi. Đó là Đảng Cộng sản. Tuyệt nhiên không còn đảng cách mạng nào hết. Nếu có thì
có ở Trung Quốc, ở Pháp một vài nhóm lẻ tẻ không có cơ sở ở trong nước, không tổ chức được
bất kỳ một cuộc đấu tranh nào của đồng bào chống Pháp. Đại khủng bố của Pháp, khủng bố liên
hồi của Pháp chỉ “cho phép” một mình Đảng Cộng sản mình đồng xương sắt, ý chí bất tử, sống
nổi với dân, vì dân và trong dân, cái đảng trường sinh bất tử đó suốt 15 năm là lực lượng tổ chức
lãnh đạo tất cả các phong trào đấu tranh yêu nước từ nhỏ đến lớn, từ Bắc chí Nam. Mà phong
trào ấy thì luôn luôn bị thực dân và phong kiến tập trung sức thường xuyên đánh phá dữ dội, đẫm
máu hơn bất cứ ở thuộc địa nào, chẳng những là của Pháp mà ngay cả của Anh cũng vậy.
Người viết sử, bất cứ là người Việt, người Pháp hay người ngoại quốc nào cũng đều công nhận là
cách mạng Việt Nam năm 1945 đã được chuẩn bị từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, từ khi
xuất hiện Nguyễn Ái Quốc, Giáo sư sử học Đồvilơ khẳng định rằng, không phải tại Đô đốc Toàn
quyền Đờcu theo đường lối chính trị sai lầm mà Pháp mất Đông Dương, mất Việt Nam đâu!
Nguyên nhân mất Đông Dương đã phát sinh từ trước rồi. Mà chẳng phải tới năm 1945, Pháp mới
có “can đảm” nói rõ; khi mới chân ướt chân ráo bước lên Sài Gòn ngày 4-1-1940 thì tướng Toàn
quyền Catơru đã rất “dõng dạc” tuyên bố rằng:
“Chúng ta đã đánh toàn diện và mau lẹ vào các tổ chức cộng sản. Trong cuộc đấu tranh này, phải
tiêu diệt cộng sản thì xứ Đông Dương mới được yên ổn và mới còn trung thành với nước Pháp,
chúng ta không có quyền không thắng. Tình thế chiến tranh bắt buộc chúng ta phải hành động
không chút thương tiếc”.
Quả đúng như vậy. Sau khi khởi nghĩa Yên Bái bị dập tắt, ngay khi máu trên máy chém chưa
khô; ngay khi cổ Am, Lâm Thao bom lửa còn đang gây cháy xóm làng, thì bắt đầu một phong

74
trào quần chúng đấu tranh chông thực dân 10 lần, 100 lần to lớn hơn Yên Bái: không phải là
cuộc nổi dậy của một số ít binh lính ở một đồn trại mà là cuộc đấu tranh chính trị và kinh tế của
hàng ngàn, hàng vạn nông dân và nhân dân dưới hình thức những cuộc biểu tình ở hàng trám xã,
ở hàng chục tỉnh từ Bắc chí Nam, liên tục và khắp nơi như thế, nhân dân có hàng ngũ kéo nhau
sau cờ đỏ búa liềm, lên xã, lên huyện, lên tỉnh đòi tự do dân chủ, chống thuế sưu, chống áp bức
của quan làng, chông khủng bố trắng, ủng hộ Liên Xô, phản đối chiến tranh đế quốc, V.V..
Phong trào kéo dài rầm rộ từ tháng 4 tháng 5-1930 đến tháng 6 tháng 7-1931. Biểu tình hàng
trăm cuộc; tập hợp hàng chục vạn người. Đế quốc kinh hoàng, dùng lê dương, lính lập, quân
chính quy, dùng máy bay ném bom giết hại nhân dân, có những lần cả trăm người chết như ở
Nam Đàn, còn những lần có 5, 7 người, 1, 2 chục người thì vô kể. Số bị bắt, bị giam, bị đày cao
hơn mấy lần sau Yên Bái. Không phải đợi tới Catơru mà từ Pascơ làm toàn quyền Pháp đã thấy
“phải tiêu diệt cộng sản thì Đông Dương mới yên ổn và mới còn trung thành với Pháp”.
Pháp nhận chìm phong trào 1930 – 1931 là định nhận chìm một cuộc đấu tranh chuẩn bị cho
cách mạng Việt Nam được Đảng Cộng sản công khai tuyên bố là sẽ nổ ra trong cuộc chiến tranh
đế quốc thế giới sắp tới không thể nào tránh khỏi. Thật vậy, Luận cương chính trị của Đảng đã
nói rõ cho ta và địch biết rồi. Cộng sản không giấu, đã không giấu mà còn làm cho nhân dân hav
trước để thức tỉnh, để chuẩn bị.
Từ năm 1930-1931 đến năm 1945, đấu tranh của nhân dân dưới cờ Đảng có thể xem là thường
xuyên, chỉ khi ít khi nhiều, khi dân chỉ bị bắt giam, khi bị bắn chết ở cuộc biểu tình, thưòng nhất
là bị chết ở trại giam, ở hải đảo, Côn Lôn, Lao Bảo, Sơn La. Trong thời gian đó, một đợt khủng
bố rùng rợn đã xảy ra năm 1940. Khủng bố 1930 – 1931 lan rộng ba kỳ mà còn ít rùng rợn hơn
khủng bô’ 1940 ở Nam Kỳ Ai đếm được bao nhiêu trăm, bao nhiêu ngàn người bị sen đầm, cảnh
sát, hương chức ác ôn, lê dương giết đi không xét xử trong các làng có phong trào? Ai đếm được
số tàu xà lan bị Pháp biến thành nhà tù vì các nhà tù và sân bóng đã đầy quá rồi, để rồi tàu xà lan
ấy, một khi đầy ắp đến mức không chỗ đứng, bị canô kéo ra đổ gọn nhận chìm ở cửa sông, góc
biển? Nhiều làng xã cho đến nay, các gia đình còn giữ tục “giỗ hội” để cả xóm nhớ ngày ông,
cha, anh bị bắt một lượt mà không biết chết ngày nào, chỉ biết từ đó không về nữa. Khủng bố đến
mức đó, thực dân tưởng đã nhổ sạch gốc rễ cách mạng giải phóng như Toàn quyền Catơru đã
tuyên bố, ở bất cứ một nước thuộc địa nào, sau một quá trình đấu tranh và khủng bố như vậy,
không còn có thể tổng khởi nghĩa được. Nhưng không!
Thời cơ chín muồi, chuẩn bị lực lượng đã xong về cơ bản thì tổng khởi nghĩa lại nổi lên, mạnh
mẽ, đều khắp, nhất loạt, mà lạ thay người ta tưởng tượng khởi nghĩa sẽ đổ máu tràn trề, nhân dân
sẽ quyết tiêu diệt địch nhân để tự giải phóng và để trả thù nhà, nợ nước. Và trong mấy ngày tổng
khởi nghĩa đó, ai đứng lên quyết giành chính quyền mà không có vũ khí bén nhọn trong tay đồng
thời với vũ khí tinh thần cương quyết nhất? Vậy mà không! Trên toàn quốc, từ Bắc chí Nam
cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám nổ ra không có đổ máu, ít nhất là không có đổ máu giữa đồng
bào Việt Nam, dù đó là người của chính quyền bù nhìn trước của Pháp, nay của Nhật. Tổng khởi
nghĩa chông thực dân đồng thời là đại đoàn kết dân tộc. Chiến thắng càng vĩ đại và bi hùng.
Vì sao?
Trước hết, phải nói rõ thêm để tránh khỏi hiểu sai lầm hay lệch lạc.

75
Quả thật truyền thống đấu tranh giành độc lập của Việt Nam là truyền thống đấu tranh vũ trang,
lấy máu đào rửa nhục nước; không tiếc xương máu vì độc lập giải phóng. Nhưng khi không cần
thiết phải đổ máu mà vẫn thắng thì không việc gì mà phải cứ chủ trương tiếp tục đổ máu. Ai
không nhớ “lễ Hội thề” mà Nguyễn Trãi và Lê Lợi chủ trương khi ngàn vạn quân Minh bị vây
trong Đông Đô bằng lòng rút lui mà không đánh, không đánh mà vẫn phải rút về, rút về mà còn
ngực đập chân run! “Hội thề” là một chiến thuật hay trong đưòng lối cứu quốc bằng vù trang
tranh đấu.
Ngay trong chủ nghĩa Mác – Lênin, các nhà lãnh tụ cộng sản đâu có khư khư lúc nào cũng đòi
phải vũ trang khởi nghĩa? Mác đã có thời cho rằng ở nước Anh (giữa thế kỷ XIX) có khả năng
cách mạng hoà bình không nhất thiết phải khởi nghĩa. Lênin đã có lúc cho rằng ở nước Nga (sau
cách mạng Tháng Hai 1917) có khả năng cách mạng tư sản chuyển biến hoà bình sang cách
mạng vô sản. Mác và Lênin tất nhiên không giữ mãi ý kiến đó một khi tình hình chính trị, xã hội
biến đổi; nhưng dù sao, các vị không phải là phủ nhận cái khả năng ấy ở một lúc nhất định nào
đó.
Tổng khởi nghĩa cách mạng nể ra và thành công một cách ít đổ máu nhất, một cách hoà bình nhất
là thuộc vào nội dụng tư tưởng chính trị của đường lối “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành
công, thành công, đại thành công” của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 nổ ra và diễn biến một cách hoà bình chính vì:
Thứ nhất, Cách mạng Tháng Tám huy động được thần vũ của tuyệt đại đa số” đồng bào khắp nơi
đứng dưới cờ Việt Minh; kẻ chống lại vì thế mà mất tinh thần, bất lực, hoặc phải ngả theo, hoặc
phải bó tay chờ thòi.
Thứ hai, vì sách lược của những người tổ chức lãnh đạo khởi nghĩa ở toàn quốc, ở Hà Nội, Huế,
Sài Gòn là những sách lược đúng đắn, biến hoá tuyệt vòi, thích hợp với điều kiện, với hoàn cảnh,
với ý dân.
Thứ ba, nhìn chung toàn cầu, vì sự chiến thắng (đã được Việt Minh dự đoán và nói lên từ mấy
năm đen tối) của Liên Xô, Trung Quốc và Đồng minh, mà trong suốt cuộc chiến tranh chống
phát xít Việt Minh chiến đấu bên cạnh Liên Xô, Trung Quốc và Đồng minh, do đó tạo ra được
một thế đứng quốc tế.
Thứ tư, ta được sự lãnh đạo sáng suốt của Cụ Hồ Chí Minh trong toàn bộ sách lược khởi nghĩa.
Nói cặn kẽ hơn, từ 1930-1935, Đảng Cộng sản tập dượt cho đồng chí mình đứng đầu hàng trám
cuộc bãi công, biểu tình, và tập dượt cho nhân dân quen đoàn kết và đấu tranh trên đường phố,
đường làng. Số cuộc và số người biểu tình, bãi công, bãi khoá, bãi thị hồi 1936 – 1937 còn đông
hơn nữa. Năm 1945, số người đấu tranh đó lại đông gấp bội, kéo theo hàng triệu người, các đoàn
thể thấy rõ sức mạnh càng đi theo nhiều hơn, thành một lực lượng thu hút hết sức lớn có sức đem
bạo lực chính trị, không phải bạo lực vũ trang mà đè bẹp quân thù ít hơn ta. Cứ xem các cuộc
biểu tình hoà bình nổ ra rất mạnh ở Hà Nội ngày 19, ở Huế ngày 23, ở Sài Gòn ngày 25 thì rõ
như: sông lớn cuốn theo mọi dòng suối nhỏ như mặt trời lớn hút các vệ tinh nhỏ chung quanh
mình; kẻ địch bị cô lập, quân thù mất tinh thần, cho nên Phan Kế Toại không đến Dinh Khâm sai
mà tiếp Việt Minh, cho nên Bảo Đại không giữ mà trao ấn kiếm, cho nên Nguyễn Văn Sâm đành

76
chịu bị nhốt trong phòng ngủ; họ không còn ai bảo vệ nữa trừ một vài tay súng ở trại Hà Đông,
tất cả bảo an binh đều theo quần chúng làm cách mạng. Nói khởi nghĩa Tháng Tám hoà bình là
kết quả cuối cùng của 15 năm chuẩn bị đấu tranh xương máu là như vậy.
Nói cho đủ hơn thì có thể ghi rằng ở đây sách lược Hồ Chí Minh về thời điểm khởi nghĩa là một
yếu tố quyết định. Ngưòi chỉ thị mở rộng vùng giải phóng và lực lượng vũ trang phải tăng cường
lực lượng, chỉ phát động khởi nghĩa khi thời cơ chín muồi. Ví phỏng khởi nghĩa nổ ra trước khi
Nhật đầu hàng, ví như một tháng, vài tuần, thì lực lượng khởi nghĩa đâu khỏi chọi lại kịch liệt
với quân Nhật và quân ngụy, Nhật còn bảo hộ ngụy, ngụy còn theo Nhật thì sẽ đổ máu bao
nhiêu, bao lâu? Người đã ra lệnh kịp thời nhất, kịp thời là điều kiện của khởi nghĩa thành công
hòa bình, “êm thấm” nữa. Thực ra, nếu ta khởi nghĩa chậm một vài tuần khi Pháp, Anh, Tưởng
đã vào Hà Nội, Huế, Sài Gòn, thì cũng không sao tránh khỏi đổ máu đáng tiếc. Ta nhờ tài sách
lược của Người như vậy mới có một cuộc khởi nghĩa cách mạng hoà bình. Và ta nhờ có hoà bình
hay hoà bình tương đối trong một thời gian sau tháng tám để làm cho lực lượng vũ trang và
chính trị của ta thêm hùng hậu, sẵn sàng đối phó với mưu đồ của các thứ thực dân.
Trong phần sau, đặc điểm thứ tư, ta sẽ giải thích tại sao mấy vạn quân Nhật ở Sài Gòn, Hà Nội,
Huế không chống lại khỏi nghĩa Tháng Tám bằng vũ trang. Ta sẽ cắt nghĩa rằng đó không phải là
Đồng minh Anh, Mỹ không dùng quân Nhật để chống cách mạng Việt Nam, mà chúng nó không
dùng được, dùng không được một phần là do sách lược của người Việt Nam yêu nước.

Đặc điểm thứ tư: Cách mạng Tháng Tám là sự phát huy đến cao độ tính sáng tạo, tính chủ
động, tự lực, tự cường, truyền thống của quảng đại quần chúng và của cán hộ địa phương
trên khắp các vùng đất nước.
Tính nhân dân, tính quần chúng của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là điều nổi bật đối với bất
kỳ nhà nghiên cứu sử học nào. Đây không phải là một cuộc nổi dậy của riêng những đảng viên
cộng sản. Đây không phải là một “Yên Bái”, một “Sài Gòn 1916”. Sài Gòn 1916, Yên Bái 1930
đều là những cuộc nổi dậy can đảm, anh hùng của riêng Thiên địa hội, của riêng Quốc dân Đảng,
của riêng những đội tiên phong, không phải của quần chúng nhân dân. Thuở ấy, các nhà yêu
nước chưa quan niệm được rằng “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, bấy giờ, người ta
còn quan niệm rằng đó chỉ là sự nghiệp của những người anh hùng.
Không chỉ là thuở ấy, mà cả về sau này, quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”
cũng không phải dễ hiểu, có hiểu đi nữa cũng rất khó đem ra thực hiện. Nhiều nhất là xem quần
chúng như là một công cụ của chính trị, họ cho là quần chúng vốn vô kỷ luật, càng đông càng
sinh rối; họ cho là quần chúng đông như cái chợ, không giữ được bí mật cho tổ chức cách mạng.
Cho nên, cả tên gọi, cả chương trình của đảng và hội của họ, họ cũng không muốn cho công
chúng biết; vì thế, họ sớm bị rơi vào tình trạng cá nước cạn, chim rừng thưa, nổi lên bạo động thì
lẻ loi, thất bại vì nổi lên mà không có nhân dân cùng chiến đấu.
Trong những năm 30 của thế kỷ XX, nhiều người yêu nước không hiểu tại sao cộng sản đứng ra,
bí mật hay công khai, tổ chức hàng trăm, hàng ngàn cuộc bãi công, bãi thị, bãi khoá, biểu tình

77
tuần hành thị uy, tập hợp quần chúng đông hàng vạn, ở Hà Nội, Nghệ Tĩnh, Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Sài Gòn, Mỹ Tho, ở khắp nơi, đòi quyền lợi kinh tế và chính trị.
Mỗi lần như vậy thì nhiều đồng chí, đồng bào bị tù đày, bị giết. Để làm gì vậy? Để gây ý thức
cho quần chúng, cho nhân dân nhận thấy sức mạnh của mình, giành quyền lợi của mình và hiểu
được vai trò lịch sử của mình. Đó là tập dượt động viên quần chúng tích cực chuẩn bị cho tổng
khởi nghĩa cách mạng một ngày nào đó sẽ phải đến.
Hãy nhìn mấy vạn người ở Hà Nội, những ngày 17, 19-8 tập hợp trên Quảng trường Nhà hát
thành phố, kéo ra bờ hồ và trở thành năm, bảy cuộc biểu tình càng lúc càng đông dưới cờ đỏ sao
vàng, mãi đến đêm mới giải tán. Còn có cách cổ động chính trị nào hơn? Đảng viên cộng sản,
đoàn viên cứu quốc chỉ vài trám là nhiều nhất, mà sau lưng có mấy vạn đồng bào. Sức mạnh
cách mạng là ở đó.
Hãy nhìn cuộc tập họp ở Huế ngày 23-8. Số đồng bào tập họp biểu tình chống Chính phủ Trần
Trọng Kim, đòi vua Bảo Đại thoái vị, đông bằng phân nửa dân số thành phố Huế và tỉnh Thừa
Thiên. Lại hãy nhìn một trăm vạn có dư đồng bào Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, có lục tỉnh về,
có Nam Vang xuống ngày 25-8 trong một biển cờ sao, một rừng vũ khí từ thô sơ đến hiện đại,
đồng tình dựng lên uỷ ban hành chính lâm thời Nam Bộ. Các tỉnh thành khác hầu hết đều chứng
kiến nhân dân nổi dậy như thế. Vậy mà kỷ luật trật tự tuyệt vời! Dường như tấm lòng yêu nước
dâng lên cuồn cuộn đã quét sạch, ít nhất là tạm thời, những tính xấu của nhiều người. Hôm 25-8
ấy ở Sài Gòn, phần lớn các hiệu buôn đều mở cửa mà không nghe nói có một nơi nào bị cướp.
Cũng không nghe ai đi trình báo mất xe đạp nhiều hàng vạn để dựa trên lề đưòng phố. Không
nghe nói ở đâu treo cờ quẻ ly của Trần Trọng Kim. Sự đồng tâm nhất trí của nhân dân thật là
hoàn toàn.
Ngoài lý do trình độ giác ngộ chính trị khá cao, kỷ luật nghiêm túc, còn phải nói đến một đặc
điểm của nhân dân ta là không có tinh thần bài ngoại. Ngay trong những ngày khởi nghĩa, không
có những cuộc xô xát, để máu giữa người Việt Nam và người Pháp đi lại tự do trên đường phố
Sài Gòn.
Mãi đến ngày 2-9, quân Anh bắt đầu tới, mới có những vụ Pháp bắn lén vào cuộc tuần hành của
nhân dân làm chết hơn 40 người. Mặc dầu vậy, tự vệ và nhân dân đã triệt để theo luật chung, chỉ
bắt giam mà không giết hại hoặc ngược đãi người Pháp, ngưòi Anh, người da trắng.
Tính sáng tạo, chủ động, tự lực, tự cường của nhân dân và cán bộ địa phương góp phần rất lớn,
khó đánh giá hết, cho sự thành công của khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám.
Trong hoàn cảnh không có liên lạc bằng vô tuyến điện mà khởi nghĩa Hà Nội, khởi nghĩa Huế,
khởi nghĩa Sài Gòn chỉ nổ ra cách nhau có năm, ba ngày. Thời gian năm, ba ngày không đủ để
một đoàn thể tổ chức một cuộc míttinh, thế mà từ ngàn dặm, một tiếng gọi khởi nghĩa phát ra
được đồng bào toàn quốc răm rắp nghe theo và làm đúng.
Chúng ta biết rằng, trong 15 năm hoạt động cách mạng (1930 – 1945) Đảng Cộng sản bị đánh
trúng tới hai lần, hai lần Tổng Bí thư Đảng bị sát hại. Việc lập lại cơ sở và hệ thông Đảng thật
không dễ dàng, nhanh chóng. Vậy mà, trên thực tế, các xứ uỷ đảng không bao giờ ngừng hoạt
động. Chính bản thân các xứ uỷ cũng nhiều lần bị phá tan, nhưng các tỉnh, thành không bao giờ

78
vắng tiếng cộng sản kêu gọi đồng bào địa phương. Các đảng bộ địa phương, nói chung đểu biết
tự động, tự lực, tự cường, theo đường lối vạch sẵn, hoặc trong tình hình đổi mới, tự vạch ra con
đưòng đi theo chủ nghĩa Mác – Lênin, theo chính kiến của Nguyễn Ái Quốc. Nói cho cùng, sở dĩ
có sự thật tốt đẹp đó là do phần lớn các đồng chí bị tù, bị đày biệt xứ lúc trở vể đều biết tự động
tuỳ theo sức và năng lực của mình và anh em xung quanh mà “bắt rễ” vào đồng bào, lập lại cơ
sở, hệ thống, không bị động chờ đợi sự chỉ đạo của cấp trên.
Tự lực, tự cường là một đức tính truyền thống của Đảng và đảng viên. Cơ sở tổ chức đã có, cách
tổ chức đấu tranh đã từng được huấn luyện và hành động thì việc nối liên lạc với nhau, bảo nhau
cùng thực hiện một đường lối đã được đồng tình không phải là điều khó. Do đó, khi tin Nhật đầu
hàng được biết thì khắp nước, các đảng bộ đều thấy như nhau là thời cơ khởi nghĩa đã đến, chỉ
còn vấn đề là cả nước ta có đủ lực lượng hay chưa? Lâu nay, toàn Đảng, từ trung ương đến địa
phương đều được giáo dục như vậy. Lúa đã sạ, nay mưa xuống thì hạt giống tự mọc.
Trong điều kiện mất liên lạc hay chưa có chỉ thị, thì sự tự động của các địa phương là tốt, là cần,
là đáng hoan nghênh nữa nếu là hành động theo đúng đưòng lối cách mạng chung. Đó là lịch sử
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám ở các địa phương trên nước Việt Nam dài hơn 2.000 km.
Gần như trong một trận đánh giặc, liên lạc giữa các đơn vị phải biết nghe tiếng súng mà tiến, lui
dễ hợp sức nhau cùng chiến thắng, chứ không chờ giấy tờ, điện tín mang chỉ thị đến mới ra quân.
Các nhà viết sử khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám phải ghi công đầu rất lớn cho Đảng bộ và
nhân dân Hà Nội trong cuộc chiến đấu mang tính chất quyết định này. Hà Nội có khởi nghĩa
thành công ngày 19-8 thì Huế mới khởi nghĩa thành công ngày 23-8 và Sài Gòn khi ấy nóng lòng
chờ tin Hà Nội. Hà Nội có khởi nghĩa thì Sài Gòn mới làm. Hà Nội có làm sớm thì Sài Gòn mới
khỏi trễ nải nguy hiểm. Tuy Sài Gòn đã có tập hợp đủ lực lượng, nhưng nếu Hà Nội chưa làm thì
vị tất Sài Gòn đã làm vì còn nhớ mãi kinh nghiệm của tháng 11-1940. Nói khởi nghĩa ở Hà Nội
có tầm quyết định là như vậy.
Điều cần nhấn mạnh là các đồng chí Xứ uỷ Bắc Kỳ, Thành ủy Hà Nội (có mặt của ủy viên Trung
ương Đảng tại chỗ) đã can đảm, có sáng kiến theo Chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và hành động
của chúng ta để chủ trương khởi nghĩa kịp thời, không chờ đợi lệnh mới dám triển khai trách
nhiệm. Sáng kiến của Hà Nội đã biết làm dịu đi sự căng thẳng giữa nhân dân Việt Nam và quân
Nhật, làm cho Nhật, tuy thua trận rồi mà hàng ngũ chưa phải đã rã, có thể chuyển sang thái độ
bất can thiệp vào cuộc khởi nghĩa được xem như việc nội bộ của Việt Nam. Chủ trương và sáng
kiến đó của Hà Nội là đúng đắn kịp thời, có hiệu quả. Nhân dân khởi nghĩa khỏi trực tiếp đụng
chạm với một lực lượng vũ trang chưa phải đã hết sức chiến đấu. Những đồng chí lãnh đạo Hà
Nội xoay trở rất giỏi, nhờ đó mà khởi nghĩa Hà Nội thành công mà không đổ máu, không gặp trở
ngại khó vượt qua biết mấy.
Nói tới cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế nổ ra và thành công ba ngày sau Hà Nội,
không thể không thấy ở đây một sáng tạo sách lược rất quan trọng. Huế không phải là thành phố
lớn như Hà Nội, Sài Gòn, nhưng đây là kinh thành, có vua Bảo Đại có Chính phủ Trần Trọng
Kim. Chắc hẳn là phe thực dân, trong điều kiện giữa năm 1945, cố giữ Bảo Đại và chính phủ bù
nhìn để trở lại gọn hơn, dễ hơn. Còn nhân dân Việt Nam thì ra sức lật đổ Bảo Đại và chính phủ
bù nhìn. Trong lúc đó quân Nhật đông trên 2.000 ở hoàng thành (chưa kể bảo an của triều đình),

79
đề nghị với Bảo Đại là nếu nhà vua muốn thì quân Nhật sẽ kiên quyết bảo vệ nhà vua, chống lại
nhân dân đang nổi dậy. Hoàng thành kiên cố hào luỹ vối 2.000 quân Nhật vũ trang tối tân và
hàng ngũ chưa rã có thể gây biết bao nhiêu là khó khăn lớn cho phong trào nhân dân khởi nghĩa
đang cuồn cuộn dâng lên. Trong hoàn cảnh đó, cán bộ ở Huế (người trong Mặt trận Việt Minh
củng như ngưòi mới theo Việt Minh) đã ra sức vận động vua Bảo Đại từ chối sự ủng hộ, sự bảo
vệ của Nhật, bằng lòng từ ngôi để “làm dân một nước độc lập hơn là làm vua một nước nô lệ” thì
đó là một kỳ công lớn vào bậc nhất, một chiến công mà chỉ có những chiến sĩ đầy sáng kiến, đầy
tinh thần trách nhiệm trước lịch sử, trước Đảng mới có thể thực hiện thành công. Muốn đánh giá
đúng cái kỳ công của các đồng chí ở Huế, thì hãy tưởng tượng vua Bảo Đại và chính phủ bù nhìn
cố thủ trong hoàng thành với quân Nhật và lính khố vàng cho đến khi quân Đồng minh vào Huế
thì cục diện chính trị sẽ ra sao? Lẽ cố nhiên, tinh thần chiến đấu của hàng chục vạn nhân dân từ
khắp Thừa Thiên và nhiều tỉnh tập hợp ở Huế, việc lớn khởi nghĩa thành công ở Hà Nội vẫn là
những yếu tố nguyên nhân đặc biệt lớn, quyết định nữa, của sự thành công vĩ đại của ngày 23-8
ở Huế. “Lá bài Bảo Đại” quan trọng cho sự trở lại của thực dân bao nhiêu thì sự từ ngôi của Bảo
Đại quan trọng bấy nhiêu.
Còn biết bao nhiêu sáng kiến hay ở khắp nước của cán bộ và quần chúng nhân dân cả nước trong
mấy ngày khởi nghĩa Tháng Tám.
Khởi nghĩa ở Sài Gòn ngày 25-8 là một đề tài nghiên cứu có thể đem lại cho lịch sử nhiều điển
hình sáng tạo sách lược trong khi thực hiện thành công đưòng lối cách mạng chung.
Đặc điểm thứ năm: Cách mạng Tháng Tám là một cuộc cách mạng được Đảng Cộng sản
lãnh đạo.
Tới giữa những năm 20 của thế kỷ XX, ở Việt Nam khái niệm đảng, chính đảng, chưa được phổ
biến. Trước đó, không biết từ đời nào, vì phải góp sức mọi người để chiến đấu chổng quân thống
trị ngoại bang, cho nên ý thức đoàn kết của người Việt Nam có sớm. Cũng có sớm ý thức của
dân cày từng địa phương, mà khá rộng khắp, chống điền chủ, quan lại, ác bá, cưòng hào; cho nên
không rõ từ đời nào, nảy sinh ra hội kín với nhiều tên gọi khác nhau. Tên gọi đó có thể là hiền
lành mà mục đích của chúng là tương trợ và đấu tranh, các cuộc khởi nghĩa nơi này, nơi nọ
thường dựa vào các hội kín đó hay là do các hội kín đó mà ra. Cho đến thế kỷ XX, nào Duy Tân
hội, nào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội, nào Việt Nam Quang phục hội, v.v..
phần nhiều các đoàn thể yêu nước, bất hợp pháp, lấy tên là “hội”. Hội mà thực chất là đảng. Các
đảng củng tuần tự mọc ra như Đảng Hưng Nam, Đảng Tân Việt, Đảng Thanh niên (Sài Gòn
1926), Việt Nam Quốc dân Đảng. Một thuở người yêu nước chưa phân biệt hội và đảng: đảng là
đội quân tiên phong, nòng cốt, giác ngộ cao, kỷ luật nghiêm; còn hội ở xung quanh đảng; đông
người hơn, dưới sự chỉ đạo của đảng trong lúc cùng đảng lo việc chính trị thì hằng ngày các hội
giúp đảng lo bênh vực quyền lợi dầu nhỏ của nhân dân hội viên và không hội viên. Quan niệm vể
đảng và hội như vậy mối rõ sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập đầu năm 1930.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 đánh dấu một bước tiến, nói cho đúng là một bước
ngoặt, một bản chất mới trong lịch sử hình thành đảng chính trị Việt Nam. Bước tiến, chỗ ngoặt
đó là gì?

80
Thứ nhất là lần đầu tiên, ở Việt Nam, có một chính đảng cách mạng, cứu nước chẳng những lấy
tên là Việt Nam mà còn đạt được cơ sở hệ thống ở toàn quốc Việt Nam, trên cả ba kỳ, trên tất cả
các tỉnh từ Cao Bằng đến Bạc Liêu, từ Hà Nội, Huế đến .Sài Gòn. Tất nhiên, đó là cả một quá
trình xây dựng đầy xương máu.
Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất không bị đế quốc thực dân tiêu diệt
trong thời gian giữa hai cuộc chiến tranh đế quốc. Oanh liệt như Việt Nam Quốc dân Đảng của
Nguyễn Thái Học mà chỉ có thể sống không đầy hai năm rưỡi, từ tháng chạp năm 1927 đến
tháng hai năm 1930, tuy rằng khủng bố thực dân sau Yên Bái so với khủng bố thực dân sau
Xôviết Nghệ Tĩnh và sau Nam Kỳ khởi nghĩa, thì còn xa mới nặng bằng. Vậy mà Đảng Cộng sản
Việt Nam vẫn là “trường sinh bất tử”, tiêu biểu cho nghị lực bất tận và ý chí gang thép của dân
tộc Việt Nam.
Thứ ba là, trường sinh bất tử dưới bất kỳ mức khủng bố nào là trọng yếu lắm nhưng cũng chưa
đủ. Còn sống mà cứ “mai danh ẩn tích” trên núi cao, trong rừng sâu hoặc ở nước ngoài, thỉnh
thoảng lên tiếng, còn sông mà xa lạ lạnh nhạt với phong trào đấu tranh tự phát của đồng bào
mình, thì “bất tử” ấy chỉ ngang hàng với bất lực. Mình không góp sức tạo thời cơ, xây dựng lực
lượng thì chỉ có thể làm nhân chứng bất lực của lịch sử mà thôi. Đảng Cộng sản có mặt mọi lúc
và mọi nơi với đồng bào cả nước, trong lúc khó cũng như trong lúc dễ, trong khi thắng cũng như
trong khi bại, bao giờ cũng đứng ở đầu sóng ngọn gió.
Thứ tư là Đảng của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, ngay từ đầu đến cuối, quan niệm rằng:
Đảng lãnh đạo nhân dân nghĩa là bền bỉ tuyên truyền giáo dục ý thức cho nhân dân (phần nhiều
bị giam hãm trong vòng dốt nát), giáo dục ý thức về quyền lợi, đặc biệt về sức mạnh của mình.
Đảng lãnh đạo nhân dân là làm sao cho những chiếc đũa rời rạc ai bẻ cũng gãy, được trở thành
bó đũa tay nào cũng không bẻ nổi. Khó lắm đó. Chưa có đảng nào làm nổi. Chỉ có Đảng Cộng
sản làm được thôi. Và làm cho kỳ được với bất cứ giá hy sinh nào. Đảng lãnh đạo không phải là
đứng êm trong bóng tốì mà xúi giục; Đảng lãnh đạo là đảng viên luôn luôn đi hàng đầu trước
hàng lính cảnh sát lê dương vũ trang sẵn sàng còng, súng. Nhiều khi đòi táng một hào lương, đòi
giảm một giạ tô, đảng viên phải dám đi đầu, chịu 5, 10 năm tù, một hai phát đạn. Cho nên, nhân
dân tin rằng Đảng vì dân mà chiến đấu, vì đồng bào, vì đất nước mà hy sinh, không vì lợi quyền
ích kỷ riêng tư nào cả. Sở dĩ Đảng trường tồn bất tử, không tù ngục súng đạn nào diệt nổi, và khi
khởi nghĩa nổ ra, được đa số nhân dân tích cực, chủ động, sáng tạo tham gia, chính ià nhò mốì
quan hệ máu thịt của dân với Đảng.
Đảng Cộng sản quan niệm thực hành vai trò lãnh đạo của mình là như thế.
Đảng không tranh giành sự lãnh đạo với ai cả. Vì lẽ không có ai tranh giành suốt thời gian giữa
hai cuộc chiến tranh thế giới? Việt Nam Quôc dân Đảng, tiếc thay, chỉ sống có hơn hai năm, mà
chỉ có thực lực ở vài ba tỉnh Bắc Kỳ. Phải nói thêm để khỏi có người hiểu lầm. Khởi nghĩa Yên
Bái thất bại, Đảng Cộng sản Việt Nam trong kỳ Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 đã tự phê
bình là không kịp góp ý, góp sức làm bớt tổn thất cho cuộc khởi nghĩa. Ngưòi ta còn biết rằng,
tại Đại hội Tân Trào do Việt Minh chủ trương, Đảng Cộng sản đề nghị giúp cho Việt Nam Quốc
dân Đảng theo truyền thống Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu được sống lại và hoạt động;
sống lại là chia gánh nặng cứu nước. Cô độc chưa hề là đường lối của Nguyễn Ái Quốc.

81
Thứ năm, điều quan trọng bậc nhất về quan niệm và thi hành lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong suốt quá trình cách mạng dài 15, 20 nám, là Đảng có đủ lý luận, trí tuệ và tấm lòng để
vạch ra đưòng đi tới chốn vinh quang của dân tộc. Nhà viết sử trong và ngoài nước, trước kia và
sau này không thể nào phát hiện được bất kỳ một đảng nào đã vạch ra một đường đi chính xác
như thế, con đường đi có uyển chuyển tuỳ lúc, tuỳ nơi nhưng nhìn chung là không thay đổi so
với mục tiêu dân tộc độc lập, chính thể dân chủ, đồng bào hạnh phúc, danh dự dân tộc được bảo
vệ vẻ vang.
Đi xa trong lịch sử cách mạng hiện đại thấy rằng nếu ở nước ta có một tổ chức yêu nước sáng
suốt rọi đưòng đi tới độc lập, tự do cho đồng bào thì cái tổ chức ấy là Đảng Cộng sản mà người
sáng lập là Nguyễn Ái Quốc chớ hoàn toàn không phải ai khác, dường như trí tuệ dân tộc tập
trung ở đó là chính, trí tuệ giải phóng. Nhắc lại: năm 1925, khi huấn luyện lớp cán bộ đầu tiên,
Nguyễn Ái Quốc phê bình lịch sử là, cho tới đó, dân tộc ta yếu ở mặt rất thiết yếu là thiếu đoàn
kết và dân tộc ta không thông thạo tình hình trong nước và thế giới. Thiếu đoàn kết cho nên nơi
này nổi lên thì nơi kia chò xem ra sao, giặc Pháp tuy chẳng mạnh lắm mà đủ sức diệt chỗ này
đến chỗ khác. Thiếu hiểu biết tình hình thế giới và trong nước nên khi chưa nổi lên được thì nổi
lên, khi nổi lên được thì không nổi lên. Chữ nghĩa còn rõ ràng trong sách giáo khoa Đường cách
mạng. Nguyễn Ái Quốc, ngay từ thuở ban sơ đó đặt ra nhiệm vụ tổ chức cho kỳ được một cuộc
tổng khởi nghĩa trên quy mô cả nước khi tình hình quốc nội và quốc tế dựa trên thời cơ thuận lợi,
chín muồi. Rồi năm 1930 khi Luận cương chính trị được đề ra và năm 1939 khi Chiến tranh thế
giới thứ hai đã nổ, Đảng Cộng sản cho rằng Chiến tranh thế giới tạo thời cơ “trăm năm có một”
để dân tộc ta thừa chiến tranh đế quốc mà làm cách mạng giải phóng dân tộc thành công. Có
đảng nào thấy được như vậy? Mà dù có người thấy được thì lấy sức đâu mà làm. Duy một mình
Đảng đã chuẩn bị lâu dài, liên tục nên đã tập hợp được sức mạnh hùng hậu của đồng bào cả
nước. Thế cũng chưa đủ, thời cơ đến, lực lượng có, nếu không cực kỳ sáng suốt, nếu tổng khởi
nghĩa trước tháng tám vài tuần, hay sau tháng tám vài tuần thì liệu cách mạng có thành công gọn
ghẽ hoàn toàn triệt để như chúng ta đã làm không? Rõ ràng, sự lãnh đạo sáng suôt, tỉnh táo, kiên
quyết là yếu tố quyết định sự thành công.
Trong các đặc điểm của Cách mạng Tháng Tám Việt Nam 1945, đặc điểm thứ năm này là quan
trọng nhất; ở tất cả các nước thuộc địa trên thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ có cách
mạng dân tộc giải phóng Việt Nam mới mang lại cái đặc điểm lớn này, một đặc điểm sẽ ảnh
hưỏng sâu sắc tới sự thắng lợi của 30 năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

● Tính chất

Từ thực tiễn lịch sử có thể khẳng định Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam là một cuộc cách
mạng mang tính chất của một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đồng thời mang tính chất dân
tộc dân chủ nhân dân điển hình. Cụ thể, cách mạng tháng Tám 1945 vừa mang tính chất là một
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, vừa mang tính chất của một cuộc cách mạng vô sản mang
tính chất dân chủ điển hình.
1.1. Cách mạng tháng Tám 1945 là cuộc Cách mạng giải phóng dân tộc

82
- Về nhiệm vụ và mục tiêu: Đảng đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và được xem là
nhiệm vụ bức thiết nhất, vì thế Cách mạng tháng Tám mang nội dung dân tộc là chủ yếu.
- Về lực lượng cách mạng: Cách mạng tháng Tám là một cuộc khởi nghĩa toàn dân. Lực lượng
khởi nghĩa được tập hợp trong Mặt trận Việt minh với các đoàn thể mang tên cứu quốc, không
phân biệt các tầng lớp, giai cấp, dân tộc, tôn giáo; tập hợp lực lượng hết sức rộng rãi, từ quần
chúng cơ bản (công nhân, nông dân) đến tầng lớp trên (tiểu tư sản, tư sản dân tộc, trung và tiểu
địa chủ). Vì thế Cách mạng tháng Tám mang tính dân tộc sâu sắc.
- Về hình thức chính quyền được thành lập sau cách mạng: Chính quyền được thành lập là hình
thức Cộng hòa dân chủ, với sự tham gia của tất cả nhân dân Việt Nam. Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa là một nhà nước của dân tộc, do dân tộc và vì dân tộc.
1.2. Cách mạng tháng Tám 1945 là cuộc Cách mạng vô sản mang tính chất dân chủ
điển hình
- Cuộc cách mạng đã xây dựng chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Việt
Nam, xóa bỏ chế độ quân chủ phong kiến. Cách mạng tháng Tám ngoài mục tiêu chống
phát xít và tay sai còn nhiệm vụ là lật đổ chế độ phong kiến. Ngày 30/8 Vua Bảo Đại
thoái vị triều đình phong kiến nhà Nguyễn hoàn toàn sụp đổ. Cuộc cách mạng đưa dân
tộc Việt Nam từ địa vị người nô lệ nên địa vị người làm chủ đất nước. Ngay sau cách
mạng thành công, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam mới đã ban hành hàng loạt các
chính sách về quyền tự do dân chủ.
- Cuộc cách mạng này góp phần vào thắng lợi của phe Đồng minh chống phát xít, làm
cho cách mạng Việt Nam là một bộ phận phe dân chủ chống phát xít. Trước sức tấn công
mạnh mẽ của lực lượng đồng minh, dẫn đầu là Hồng quân Liên Xô trên mặt trận Triều
Tiên, Mông Cổ, Trung Quốc và quân đội Mỹ trên mặt trận Thái Bình Dương. Ngày
14/8/1945, Nhật Hoàng đã tuyên bố đầu hàng không điều kiện các nước Đồng minh. Do
vậy CMT8 1945 đã góp phần nào thắng lợi của phe Đồng minh chống phát xít.)(Nga)
- Cách mạng tháng Tám đã thực hiện việc tịch thu ruộng đất của đế quốc, địa chủ phản
bội lợi ích dân tộc, chia cho dân cày nghèo. Tuy nhiên cuộc Cách mạng tháng Tám chưa
giải quyết triệt để khẩu hiệu “Người cày có ruộng”; chưa xóa bỏ hoàn toàn chế độ sở hữu
ruộng đất phong kiến và thiết lập quyền sở hữu ruộng đất của nông dân. (Điều đó có
nghĩa là nhiệm vụ dân chủ chưa hoàn thành một cách triệt để).
- Cuộc cách mạng mang tính chất kiểu mới vì được thực hiện bởi quần chúng nhân dân
dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiên phong là Đảng
cộng sản đấu tranh giành chính quyền. Nhờ có sự chuẩn bị chu đáo trong 15 năm, Cách
mạng tháng Tám đã giành được thắng lợi….

● Nguyên nhân thắng lợi

–Đầu tiên thì chúng ta cần phải kể đến sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khéo léo của Đảng cộng
sản Việt Nam. Đây chính là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ
thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đảng cộng sản Việt Nam đã có
phương pháp, chiến lược, chiến thuật cách mạng rất phù hợp, linh hoạt; bên cạnh đó thì Đảng

83
cộng sản Việt Nam cũng đã nhận thức được thời cơ, chủ động đón thời cơ và kiên quyết chớp
thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
–Cách mạng Tháng Tám được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có những thuận lợi nhất định.
Chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc
bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên thế giới phát triển mạnh.

–Cách mạng Tháng Tám thành công là do tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quật cường của các
tầng lớp nhân dân ta, không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người dân mất nước; một lòng đi theo
Đảng và được Đảng lãnh đạo qua các cuộc tổng diễn tập, đã quyết vùng lên giành độc lập cho
dân tộc. Trải qua 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã
có biết bao đồng bào, chiến sĩ đã không hề tiếc máu xương, hy sinh oanh liệt vì mục tiêu độc lập
dân tộc.

– Thắng lợi của cách mạng tháng tám là kết quả tổng hợp của những nhân tố bên trong và nhân
tố bên ngoài, là kết quả sự lãnh đạo đúng đắn của đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh kết hợp với trí
sáng tạo, tinh thần dũng cảm và sức mạnh đấu tranh của nhân dân ta, là kết quả của ba cao trào
cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945; sự lãnh đạo của đảng là nhân tố quyết định thắng
lợi của cách mạng tháng 8.

– Thắng lợi của cách mạng t8 là thắng lợi của đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, trong đó
nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ
chống đế quốc, phải thực hiện từng bước với khẩu hiệu thích hợp, sự chỉ đạo chiến lược tài tình
của đảng đánh dấu bước trưởng thành của đảng ta.

– Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám chủ yếu và trước hết là thắng lợi của đạo quân chủ lực
cách mạng là công nhân và nông dân- thành phần chiếm số đông nhất của dân tộc, lực lượng
hăng hái và triệt để nhất có tác dụng quyết định, thành công của Cách mạng tháng Tám. Cách
mạng tháng Tám là sự nổi dậy đồng loạt của nhân dân trong cả nước.

– Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám còn là thắng lợi của chủ trương lợi dụng những mâu
thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và thế lực địa chủ phong kiến,
mâu thuẫn trong hàng ngũ ngụy quyền, các hạng tay sai của Pháp và của Nhật.

– Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cm một cách thích hợp để đập tan
bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.

– Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn
đúng thời cơ.

– Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của việc xây dựng một đảng Mác-Lênin có
đường lối đúng đắn, bảo đảm thông suốt và quán triệt đường lối đó trong thực tiễn chuẩn bị khởi
nghĩa và khởi nghĩa, làm cho tổ chức đảng có chất lượng cao, tinh gọn, trong sạch, vững mạnh
và ăn sâu bám rễ trong quần chúng.

84
● Một số bài học kinh nghiệm

–Có một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, được tư tưởng Hồ
Chí Minh soi sáng đã nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách
mạng đúng đắn, có phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp; biết nắm bắt thời cơ, xây dựng
lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính quyền.
– Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống
phong kiến, trong đó nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục
tùng nhiệm vụ chống đế quốc, phải thực hiện từng bước với những khẩu hiệu thích hợp.
– Để giành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến toàn dân thì đất nước ta phải xây dựng khối
liên minh công – nông – trí thức vững mạnh làm cơ sở để nhằm mục đích có thể từ đó xây dựng
và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Đảng biết chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng, làm
cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia, từ đó làm thay
đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thời cơ cách mạng để đưa cuộc cách mạng đến thành
công. Để giữ vững chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, tạo nên sức
mạnh vật chất và tinh thần để đấu tranh thắng lợi với thù trong giặc ngoài. Đảng ta biết kiên
quyết dùng bạo lực cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng thích hợp và đúng lúc để đập tan
bộ máy nhà nước cũ, lập ra nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Việc này cũng
đã góp phần quan trọng tạo ra sức mạnh áp đảo, toàn dân nổi dậy trong Cách mạng tháng Tám
năm 1945 và đã làm tê liệt sức đề kháng của kẻ thù.
– Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù: mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế
quốc phát xít, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và thế lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn trong
hàng ngũ ngụy quyền và các hàng ngũ tay sai của Pháp và của Nhật. Kết quả của việc lợi dụng
đó đã làm cô lập cao độ được bọn đế quốc phát xít và bọn tay sai phản động, tranh thủ hoặc trung
lập những phần tử lừng chừng, làm cho cách mạng có thêm lực lượng dự bị hùng hậu đông đảo,
làm cho Cách mạng tháng Tám giành thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu, giảm bớt được những trở
ngại hy sinh ko cần thiết.
– Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách thích hợp để
đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của dân, do dân và vì dân.Ngay từ khi ra
đời , Đảng đã khẳng định con đường duy nhất để đánh đổ chính quyền của đế quốc và phong
kiến là con đường bạo lực cách mạng. Bạo lực của Cách mạng tháng Tám được sử dụng một
cách thích hợp ở chỗ: kết hợp chặt chẽ lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang, kết hợp nổi
dậy của quần chúng với tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng ở cả nông thôn lẫn thành
thị, trong đó đòn quyết định là các cuộc nổi dậy ở Hà Nội, Huế, và Sài Gòn: kết hợp chặt chẽ đấu
tranh chính trị với đấu tranh kinh tế và chính trị, hợp pháp, nửa hợp pháp và không hợp pháp của
quần chúng, từ thấp đến cao, từ một vài địa phương lan ra cả nước, từ khởi nghĩa từng phần tiến
lên tổng khởi nghĩa, dần dần làm biến đổi lực lượng so sánh giữa ta và địch, tạo ra ưu thế áp đảo,
đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị.

85
– Nắm thời cơ, chớp đúng thời cơ được coi là nghệ thuật lãnh đạo Cách mạng tháng Tám, dự
đoán thời cơ đúng, xây dựng lực lượng có hiệu quả, hành động mau lẹ kịp thời, kiên quyết và
khôn khéo khi thời cơ xuất hiện xây dựng đảng Mác Lênin vững mạnh, thống nhất ý chí hành
động, trung thành vô hạn với dân tộc và giai cấp. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện
cụ thể trong chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3-1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm
13-8-1945. Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng
Tám được nhân lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong+ phạm vi cả nước
trong thời gian ngắn.

● Ý nghĩa lịch sử

- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi
có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay
nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam
Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách
đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một
nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong
kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một đảng
cầm quyền. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới,
kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn
cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách
mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin tại một nước thuộc địa ở
châu Á. Đây còn là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn
đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa
quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với xu thế của thời đại vì hòa bình, dân
chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các
nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Nó khẳng định rằng, trong điều kiện trào
lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không
chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế
quốc mà còn có thể thành công ở ngay một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân
tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội.
Nói về ý nghĩa lịch sử vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và
những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách
mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo CM thành
công, đã nắm chính quyền toàn quốc”

86
87
88
89
90
*Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc(1930-1945)?

91
92
93
94
95
CHƯƠNG 2
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG NGOẠI
XÂM, HOÀN THÀNH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, THỐNG NHẤT
ĐẤT NƯỚC (1945-1975)
I-Lãnh Đạo Xây Dựng, Bảo Vệ Chính Quyền Cách Mạng, Kháng
Chiến Chống Thực Dân Pháp Xâm Lược (1945-1954)
1. Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng 1945-1946
*Vì sao nói sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 Viêt Nam rơi vào tình thế “ngàn
cân treo sợi tóc"?

96
*Hãy nêu hoàn cảnh lịch sử, nội dung,biện pháp cụ thể và ý nghĩa chủ trương
"Kháng chiến Kiến quốc” ‒ ngày 25/11/1945 của Trung ương Đảng cộng sản
Đông Dương.
❖ Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam sau Cách mạng tháng 8-1945:

Thuận lợi:

● Chính quyền giành được trong toàn quốc, nhân dân phấn khởi xây dựng cuộc sống mới

● Uy tín của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh được khẳng định với nhân dân Việt Nam

● Toàn Đảng, toàn dân quyết tâm xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng.

Khó khăn:

● Miền Bắc: 20 vạn quân Tưởng vào Việt Nam với danh nghĩa đồng minh tước vũ khí của
Nhật thực chất muốn lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ.

● Miền Nam: Quân Anh vào tước vũ khí của Nhật nhưng thực chất giúp Pháp xâm lược
Nam bộ 23/9/1945: Pháp xâm lược Nam Bộ.

● Tàn quân Nhật còn chiếm đóng ở nhiều nơi chờ quân đồng minh vào tước vũ khí

● Nhiều tổ chức đảng phái phản động ra sức chống phá Cách mạng.

● Nạn đói làm hơn 2 triệu người chết, thiên tai khắc nghiệt dẫn đến nguy cơ một nạn đói
mới đến gần. Tài chính kiệt quệ, ngân sách trống rỗng.

● Văn hóa: Hơn 90% người dân mù chữ

● Quân sự: Lực lượng mỏng, trang thiết bị, vũ khí còn thô sơ

● Ngoại giao: Chưa có nước nào công nhận sự độc lập và thiết đặt quan hệ ngoại giao với
Việt Nam.

❖ Nội dung chủ trương “kháng chiến kiến quốc”:

97
● Tư tưởng chỉ đạo chiến lược

Dựa trên những nhận định về tình hình khách quan và chủ quan của ta và địch, Chỉ thị
“Kháng chiến kiến quốc” chỉ rõ: “Cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng
dân tộc giải phóng”. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành vì cả nước ta
chưa được hoàn toàn độc lập. Nhiệm vụ cứu nước của giai cấp vô sản chưa kết thúc. Vì thế giai
cấp vô sản vẫn phải hǎng hái, kiên quyết đến cùng để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy.
Khẩu hiệu đấu tranh vẫn là “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”. Trước đây, chỉ đạo chiến
lược của Đảng ta đề cao vấn đề giải phóng dân tộc,giải phóng Tổ quốc. Sau Cách mạng Tháng
Tám thành công, khẩu hiệu chiến đấu vẫn là “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết” nhưng không
phải là giành độc lập mà là giữ độc lập. Mục tiêu hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân là giữ vững
nền độc lập vừa mới gây dựng được

● Xác định kẻ thù

Trước đây, chúng ta xác định kẻ thù là thực dân Pháp, đến khi Nhật xâm chiếm nước ta thì
nước ta xác định kẻ thù là Pháp – Nhật. Sau khi Nhật đảo chính Pháp,chiếm đóng nước ta thì
Đảng ta lại xác định kẻ thù chính là phát xít Nhật, hoạt động kháng Nhật cứu nước được đẩy lên
cao trào. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Sự đầu hàng của Đế quốc Nhật được Thiên hoàng
Hirohito tuyên bố và chiến tranh Thế giới thứ hai chính thức kết thúc.
Đến sau Cách mạng Tháng Tám, nước ta có rất nhiều kẻ thù: quân Nhật chưa rút hết, thực
dân Pháp vẫn đóng quân ở Việt Nam, phía Bắc là quân Tưởng, phía nam là quân Anh ồ ạt kéo
vào nước ta. Nhưng quân Nhật đã thất bại trong chiến tranh Thế giới, chịu tổn thất nặng nề và sẽ
sớm rút lui về nước hoàn toàn. Quân Tưởng Giới Thạch mặc dù có âm mưu chiếm đóng nước ta,
thiết lập chế độ tay sai nhưng mục đích chính của chúng là ở Trung Quốc. Còn đối với quân
Anh, mục tiêu chính của chúng là chiếm được hoàn toàn thuộc địa ở Ấn Độ, ở Châu Phi chứ
không phải Đông Dương.
Phân tích âm mưu và tính chất của từng kẻ thù, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết
định chính sách hòa hoãn với quân Tưởng và nêu rõ: “Kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương
lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”.
Chỉ thị nhấn mạnh phải lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược;
mở rộng Việt Minh để thu hút mọi tầng lớp nhân dân, trong đó chú trọng vận động địa chủ,
phong kiến và đồng bào Công giáo...; thống nhất mặt trận Việt - Miên - Lào chống Pháp xâm
lược. Kiên quyết giành độc lập - tự do - hạnh phúc dân tộc, thực hiện chế độ dân chủ cộng hoà,
cải thiện đời sống nhân dân

● Phương hướng nhiệm vụ

98
Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” đưa ra những nhiệm vụ cấp bách nhất mà cách mạng cần
phải hoàn thành trong giai đoạn mới. Chỉ thị này là một bước chỉ đạo vô cùng quan trọng khi
tình hình thế giới và trong nước rất phức tạp, không có lợi cho sự phát triển của cách mạng.
Bốn nhiệm vụ của nhân dân ta lúc này là: Củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm
lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống của nhân dân. Nhiệm vụ bao trùm là củng cố chính
quyền. Để củng cố chính quyền cách mạng lúc này, phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược là: Quyết tâm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; ra sức xây dựng chế độ mới.
Kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, với Tưởng thực hiện khẩu hiệu “Hoa Việt thân ‒ thiện”,
với Pháp thực hiên “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”.Nói chung, chỉ thị tập trung
vào một số nhiệm vụ chính như sau:
2.3.1. Về chính trị
Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc chống thực dân Pháp và xây dựng đất nước, củng cố
chính quyền nhân dân bằng cách kiên quyết trừng trị bọn nội phản. Phát huy sức mạnh
đại đoàn kết dân tộc, dựa vào sức dân để xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Bên
cạnh đó tiến hành cải tổ chính phủ, sửa đổi cách làm việc của chính quyền nhân dân địa phương
trước khi tiến hành tổng tuyển cử để bầu Quốc hội, lập Chính phủ chính thức và ban hành Hiến
pháp.
2.3.2. Về quân sự
Liên tục động viên lực lượng toàn dân trường kỳ kháng chiến, dùng lối đánh du kích với
phương pháp bất hợp tác triệt để của nhân dân ở vùng địch chiếm đóng, mở rộng chiến tranh du
kích ở Campuchia và phát triển tuyên truyền vũ trang trên đất Lào.
Phải áp dụng chiến tranh du kích đến triệt để và cổ động nhân dân thi hành chính sách
bất hợp tác ở các thành thị quân địch làm chủ và thi hành “nhà không đồng vắng” nếu quân Pháp
tràn về quê. Điều cốt yếu là phải duy trì liên lạc giữa các khu vực tác chiến để thống nhất chỉ
huy. Bất cứ nơi nào rút khỏi thành phố, quân ta phải chiếm giữ những địa điểm chiến lược để
tiến có thể đánh, lui có thể giữ. Các vùng chiến tranh chưa lan đến cũng phải chuẩn bị đối phó
khi tiến khi lui, kế hoạch tiến công cũng như kế hoạch rút lui cũng phải hết sức chu đáo, kỹ
lưỡng
Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn và kẻ thù chính, coi sự nhân
nhượng với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu tranh cách mạng cần thiết trong hoàn cảnh cụ thể.
2.3.3. Về ngoại giao
Kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ”. Phương
châm là “làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết” và “muốn ngoại giao
được thắng lợi là phải biểu dương thực lực”. Đối với Tưởng thì chủ trương Hoa – Việt thân
thiện, đối với Pháp độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế.
Tận dụng khả năng hòa hoãn, đàm phán để xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân
dân. Đồng thời vẫn đề cao cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan ra cả
nước khi có kẻ địch bội ước

99
2.3.4. Về kinh tế tài chính
Cho phép các xí nghiệp bị phát xít Nhật bỏ hoang hoạt động lại, khai thác hầm mỏ, cho
phép tư nhân đầu tư vốn vào kinh doanh các xí nghiệp, hầm mỏ này, khuyến khích giới công
thương thành lập hợp tác xã, mở các hội cổ phần tham gia công cuộc tái thiết đất nước.
Đẩy mạnh cách mạng tăng gia sản xuất, chống đói theo phương châm: “Tấc đất là tấc
vàng”, “Nhường cơm sẻ áo”, “Công việc cứu đói cũng cần như việc đánh giặc”. Kêu gọi lòng
yêu nước thương của đồng bào, thành lập quỹ cứu trợ, xây dựng kho thóc cứu trợ, tổ chức “bữa
cháo cầm hơi”… Khuyến khích thanh niên tự tổ chức thành các “cứu đói”, và các “đội quân trừ
giặc đói” để trồng trọt, lấy lương thực cho dân nghèo hoặc quyên góp cho các quỹ cứu trợ, tổ
chức tiếp tế, mua gạo của người giàu và bán rẻ cho người nghèo, chuyên chở gạo từ chỗ thừa
sang chỗ thiếu.
Thực hiện khuyến nông sữa chữa đê điều, lập ngân hàng, phát hành giấy bạc “Cụ Hồ”, lập
ngân quỹ toàn quốc, các xứ, các tỉnh, định lại ngạch thuế, xây dựng nền tài chính độc lập
2.3.5. Về văn hóa, xã hội
Tổ chức bình dân học vụ, tích cực xóa mù chữ, mở các trường đại học, phổ thông trung học,
cải cách việc học với tinh thần mới, xóa bỏ cách dạy học nhồi nhét, tuyển truyền cổ động văn
hóa cứu, xây dựng nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: khoa học hóa, dân tộc hóa và đại chúng
hóa.
Khuyến khích sản xuất nông nghiệp, làm cho tá điền và địa chủ nhân nhượng nhau để tiếp
tục cấy cày như thường, “Tấc đất tấc vàng”, tổ chức tiếp tế, ngăn cấm đầu cơ tích trữ, tổ chức
cứu trợ dân nghèo, thực hành khẩu hiệu “sẻ cơm nhường áo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Về
phần Chính phủ, phải lo nhập cảng ngũ cốc. Những công việc trên đây, muốn các kết quả, các
đồng chí phải hết sức vận động các tầng lớp phú hào, địa chủ tham gia cùng

❖ Biện pháp cụ thể

Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” nhấn mạnh: Muốn thực hiện được những nhiệm vụ
trên đây, Đảng và Mặt trận Việt Minh phải được củng cố và phát triển:
Về Đảng, cần duy trì hệ thống tổ chức bí mật hoặc nửa công khai, kết nạp thêm đảng viên
mới, tập trung gây dựng thêm cơ sở Đảng đoàn thể, mở rộng các tổ chức nghiên cứu chủ nghĩa
Mác, bao gồm cả những người có khuynh hướng cộng sản hoặc có cảm tình với tổ chức, nhưng
phải do những người cộng sản kiểm soát. Trong công tác phát triển đảng viên và củng cố tổ chức
đảng, Chỉ thị nêu rõ phải tránh cả hai khuynh hướng: ở một số nơi tổ chức Đảng quá hẹp, quá
chậm, chưa bỏ được cái bệnh hẹp hòi câu chấp của thời kỳ hoạt động hoàn toàn bí mật; một số
nơi khác thì tổ chức Đảng quá rộng và quá nhanh dễ làm cho các thành phần phức tạp dễ trà trộn
vào tổ chức.

100
Đồng thời, bản Chỉ thị cũng nêu rõ: Các tổ chức Đảng phải giữ vững và duy trì sinh hoạt đều
đặn, xây dựng, củng cố các chi bộ Đảng trong các cơ quan hành chính hay các hội hợp pháp.
Thành lập chi bộ trong quân đội, phối hợp hoạt động bí mật với hoạt động công khai, trong đó
đặc biệt coi trọng đến hoạt động bí mật và không để xảy ra xung đột giữa các cơ quan bí mật và
cơ quan công khai.
Về Mặt trận Việt Minh, cố gắng hết sức có thể để phát triển các tổ chức cứu quốc, liên kết
các tổ chức này lên toàn kì, toàn quốc. Sửa đổi điều lệ cho các tổ chức cứu quốc để thích ứng với
hoàn cảnh mới, mở rộng Mặt trận Việt Minh, thành lập các tổ chức cứu quốc mới, giải quyết
mâu thuẫn giữa Ủy ban nhân dân và Ủy ban Việt Minh, củng cố sự lãnh đạo của Đảng ở Mặt
trận, thống nhất Mặt trận Việt Nam – Lào - Campuchia chống thực dân Pháp xâm lược.
Tổng bộ Việt Minh phải thành lập một bộ tuyên truyền để điều khiển các tờ báo trong mặt
trận và ra một loại sách phổ thông của mặt trận. Những người cộng sản bắt buộc phải vào các
đoàn thể cứu quốc mà làm việc, và vận dụng trong các ủy ban Việt Minh ở địa phương cũng như
trong Tổng bộ Việt Minh cho đến trên toàn quốc. Củng cố các đảng đoàn trong các đoàn thể mặt
trận và do đó duy trì và củng cố được quyền lãnh đạo mặt trận.
Chỉ thị còn đề ra những biện pháp thực hiện những nhiệm vụ cụ thể về chính quyền, kháng
chiến ở Nam Bộ, về chống và đề phòng nạn đói, về tổng quyển cử..

❖ Ý nghĩa của chủ trương

Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Ban Chấp hành Trung ương Đảng là Cương lĩnh
hành động trước mắt của Đảng và nhân dân ta. Bản Chỉ thị là bước đi hợp lý, là biện pháp cần
thiết để giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng về chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách
lược cách mạng trong thời kỳ mới giành được chính quyền, giải quyết những khó khăn của quần
chúng càng làm tăng cường sự gắn bó chặt chẽ của nhân dân với cách mạng, đưa đất nước vượt
qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
Nhờ có chủ trương đúng đắn, sáng suốt và nhiều quyết sách kịp thời của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh mà cách mạng Việt Nam đã vượt qua những thách
thức hiểm nghèo, tranh thủ từng thời gian hoà bình quý báu để xây dựng thực lực, chuẩn bị cho
cuộc kháng chiến lâu dài

Bản Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” đã khẳng định nhãn quan chiến lược, chính trị
của Đảng Cộng sản Việt Nam - một chính Đảng mới ra hoạt động công khai chưa bao lâu trước
một loạt vấn đề quan trọng, liên quan trực tiếp tới sự nghiệp bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ
quốc, bảo vệ Nhà nước dân chủ nhân dân. Đảng đã xác định rõ tính chất và nhiệm vụ của cách
mạng từ sau Cách mạng Tháng Tám, xác định và phân loại chính xác kẻ thù trọng tâm, vừa
kháng chiến vừa kiến quốc, đưa ra một loạt các giải pháp nhằm xây dựng và tăng cường sức
mạnh cho cuộc kháng chiến, những quan điểm cơ bản về chỉ đạo chiến tranh và những nội dung

101
chính của đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh... Trong
tình hình “nước sôi lửa bỏng” lúc bấy giờ, những chiến lược và sách lược trong bản Chỉ thị lịch
sử “Kháng chiến kiến quốc” của Đảng Cộng sản Đông Dương đã soi đường chỉ lối cho toàn dân,
toàn quân trong cuộc chiến đấu vì sự sống còn của dân tộc, tiến lên chiến thắng toàn diện. Thể
hiện một quy luật của Việt Nam sau cách mạng T8/1945 là xây dựng chế độ mới phải đi đôi với
Bảo vệ chế độ mới đó cũng chính là quy luật dựng nước và giữ nước của dân tộc.

*Liên hệ thực tiễn hoạt động lãnh đạo “chống dịch như chống giặc” của Đảng
trong giai đoạn hiện nay
❑ Vì sao phải “chống dịch như chống giặc”?

“Chống dịch như chống giặc” nghĩa là sự đe dọa của dịch bệnh tương đương
với sự đe dọa của giặc ngoại xâm.
Trước hết, do dịch COVID-19 là đại dịch toàn cầu, với tốc độ lây lan chóng mặt, gây thiệt hại
trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, và quan trọng nhất là lấy đi tính mạng của hàng
triệu người, được coi là vấn đề cấp bách nhất hiện nay.
Thứ hai, đối với Việt Nam, “trong dịch có giặc”. Bởi các thế lực thù địch và bọn cơ hội
chính trị thường xuyên lợi dụng việc phòng chống dịch COVID-19 để chống phá Đảng
Cộng sản Việt Nam. Bên cạnh đó còn có những kẻ “nối giáo cho giặc”, là những người giấu
bệnh, khai báo y tế không trung thực, trốn cách ly, không chấp hành các chỉ thị của Chính phủ
khiến dịch bênh lây lan không kiểm soát. Đó là những kẻ lợi dụng dịch bệnh để trục lợi cá nhân:
nâng giá, sản xuất hàng giả buôn lậu hàng hóa y tế, lợi dụng dịch bệnh để phạm tội, tung tin đồn
nhảm nhí sai sự thật gây hoang mang trong công đồng, gây ảnh hưởng xấu đến công tác phòng,
chống dịch của Việt Nam…

❑ Các biện pháp phòng, chống dịch của Đảng và Nhà nước

● Về mục tiêu

Trước mắt nhanh chóng đẩy lùi, tiến tới công bố hết dịch trong thời gian sớmnhất; về lâu dài,
nhanh chóng khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của dịch. Sau đó, các địa phương này dần nới
lỏng hoạt động sản xuất, kinh doanh theo trạng thái bình thường mới như các nước phát triển đã
tiêm vaccine đạt miễn dịch cộng đồng.

● Về quan điểm và phương châm

102
Tính mạng con người và lợi ích quốc gia, dân tộc phải được đặt lên hàng đầu,“không để ai bị bỏ
lại phía sau”. Đặc biệt, phải phòng bệnh hơn chữa bệnh, việc phòng, chống dịch Covid-19 hiện
nay điều kiện tiên quyết là phải đề cao các biện pháp phòng dịch là chính. Vì vậy, cần đẩy nhanh
tốc độ tiêm vaccine phòng COVID-19. Thậm chí “chúng ta có thể tiếp tục hy sinh một số lợi ích
kinh tế để bảo vệ sức khỏe nhân dân”

● Về sức mạnh và lực lượng

Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo
của Đảng, trong đó ngành y tế, quân đội và công an là lực lượng nòng cốt. Phát huy tối đa nội
lực đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác từ các nước trong khu vực và trên thế giới vì đây là
vấn đề toàn cầu.

● Về phương thức chống giặc - chống dịch

Trong các chỉ thị, quyết định và hướng về phòng, chống dịch COVID-19 của Đảng, Nhà nước ta
đều chỉ rõ: “Chủ động ngăn ngừa; phát hiện sớm, xử lý kịp thời, hiệu quả”. Trong đó, việc phát
hiện sớm, tăng cường ngăn chặn là vô cùng quan trọng, bởi vì nếu chúng ta không kịp thời,
không nhanh chóng thì dịch bệnh sẽ lây lan theo cấp số nhân. Đối với những người “nối giáo cho
giặc” cần kịp thời phát hiện, ngăn chặn xử lý nghiêm minh theo đúng pháp luật. Kiên quyết tiêu
diệt các thế lực thù địch và bọn cơ hội chính trị thường xuyên lợi dụng việc phòng chống dịch
COVID-19 để chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam. Không được chủ quan khinh địch, vì
diễn biến dịch còn hết sức phức tạp và hậu quả xảy ra trên diện rộng.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải thực hiện tốt lời kêu gọi của Tổng bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng: "toàn thể dân tộc Việt Nam ta hãy cùng chung sức, đồng lòng vượt qua mọi
khó khăn, thách thức để chiến thắng đại dịch Covid-19!".
Các cấp ủy, chính quyền và đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức tích cực tuyên
truyền giáo dục cho mọi đối tượng, nhất là bà con nhân dân vùng có dịch hiểu rõ tác hại của dịch
và chủ động tham gia phòng, chống dịch. Thực hiện tác phong “đi tận ngõ, gõ tận nhà” nhằm
phòng, chống dịch Covid-19 hiệu quả.

Phải kết hợp song song việc tiêu diệt giặc Covid-19 với thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Đây là
giải pháp căn cơ nhất bởi vì dịch bệnh có thể kéo dài, nếu chỉ tập trung mọi nguồn lực cho
phòng, chống dịch sẽ dẫn tới nguy cơ đình trệ cả một nền chính trị, mất ổn định kinh tế và trật tự
an toàn - xã hội. Tiếp tục tăng cường hợp tác với các nước, triển khai đồng bộ các biện pháp để
ngăn chặn nguồn dịch lây lan từ bên ngoài vào trong nước trên tinh thần vừa mềm dẻo, vừa
cương quyết; sẵn sàng nhận hỗ trợ và chia sẻ về kinh nghiệm xử lý dịch, chữa trị người nhiễm
với cộng đồng quốc tế. Đây chính là tư tưởng cách mạng tiến công của đường lối chiến tranh
nhân dân được vận dụng sáng tạo vào cuộc chiến chống dịch Covid-19 hiện nay.

103
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XV phát biểu: “Chúng ta
dần thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19, khôi phục, phát triển kinh
tế-xã hội. Quốc hội biểu dương, đánh giá cao sự cố gắng, chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính
phủ; trân trọng, cảm ơn những nỗ lực, đóng góp to lớn, những nghĩa cử cao đẹp của đồng
bào, cán bộ, chiến sỹ và cộng đồng doanh nghiệp; cảm ơn sự ủng hộ, giúp đỡ có hiệu quả của
đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế trong phòng, chống đại dịch COVID-19. Qua gian
nan, thử thách, truyền thống đoàn kết, yêu nước, thương nòi, khí phách anh hùng, ý chí kiên
cường, bất khuất của dân tộc ta, đất nước ta lại càng phát huy cao độ hơn bao giờ hết."2.Đường
lối kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược và quá trình tổ chức thực hiện từ năm
1946 đến năm 1950

*Chủ trương và biện pháp của Đảng giai đoạn 1945-1946(xây dựng và bảo vệ
chính quyền)

104
105
106
107
2. Đường lối kháng chiến toàn quốc và quá trình tổ chức thực hiện(1946-
1950)
* Cơ sở nào để Đảng đề ra đường lối kháng chiến toàn dân. Phân tích nội dung
đường lối kháng chiến toàn dân

Đường lối kháng chiến toàn dân được hình thành, bổ sung, phát triển qua thực tiễn cách mạng
Việt Nam trong những năm từ 1945 đến 1947 với nội dung cơ bản là: dựa trên sức mạng toàn
dân, tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính.
Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được thể hiện tập trung trong ba văn kiện lớn được
soạn thảo và công bố ngay trước và sau ngày cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đó là văn
kiện Toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng (12-12-1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến của Hồ Chi Minh (19-12-1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường
Chinh.

Nội dung của đường lối kháng chiến: Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh
sinh và tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế.
Mục tiêu: Kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, “Đánh phản động thực dân
Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”, thống nhất vì nền tự do dân chủ và góp phần bảo
vệ hoà bình thế giới.
Kháng chiến toàn dân: Xuất phát từ truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc ta, từ tư tưởng
“chiến tranh nhân dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh… là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân;
động viên toàn dân tích cực tham gia kháng chiến. “Bất kì đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo,
đảng phái, dân tộc, bất kì người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam phải đứng lên đánh thực
dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài. Có lực lượng
toàn dân, tham gia mới thực hiện được kháng chiến toàn diện và tự lực cánh sinh.
Kháng chiến toàn diện: do địch đánh ta toàn diện nên ta phải chống lại chúng toàn diện. Cuộc
kháng chiến của ta bao gồm cuộc đấu tranh trên tất cả các mặt quân sự, chính trị, kinh tế… nhằm
tạo ra sức mạnh tổng hợp. Đồng thời, ta vừa “kháng chiến” vừa “kiến

108
quốc”, tức là xây dựng chế độ mới nên phải kháng chiến toàn diện. Ta đánh địch về mọi mặt
chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Trong đó:

● Về chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các
đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình.

● Về quân sự: thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt
địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến,
đánh chính quy, là “triệt để dùng du kích, vận động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng
chiến lâu dài… vừa đánh vừa võ trang thêm; vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ”.

● Về kinh tế: tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cấp, tập trung phát triển nền nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.

● Về văn hóa: xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ theo ba
nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.

● Về ngoại giao: thực hiện thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực. “Liên hiệp với dân tộc
Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt
Nam độc lập,…
Kháng chiến lâu dài (trường kì): là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có
thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng
từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch. Do đó, phải có thời gian để
chuyển hóa lực lượng làm cho địch yếu dần, phát triển lực lượng của ta, tiến lên đánh bạo kẻ thù.
Kháng chiến tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế: mặc dù ta rất coi trọng những
thuận lợi và sự giúp đỡ của bên ngoài, nhưng bao giờ cũng theo đúng phương châm kháng chiến
của ta là tự lực cánh sinh, vì bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng phải do sự nghiệp của bản thân
quần chúng, sự giúp đỡ bên ngoài chỉ là điều kiện hỗ trợ thêm vào. Kháng chiến dựa vào sức
mình là sự kế thừa tư tưởng chiến lược trong chỉ đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc,
giành chính quyền của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Dựa vào sức

mình là chính: “phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, vì ta bị bao vây bốn phía. Khi nào có điều kiện
ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó cũng không được ỷ lại.
Triển vọng kháng chiến: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi, nhất định
giành được độc lập.
Tính chất kháng chiến: “Cuộc kháng chiến của dân tộc tạ là một cuộc chiến tranh cách mạng
của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa, nó có tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài”. Đó là
cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.

109
Đối với nước ta, việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân
chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ
giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
các nước Đông Dương; đã làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ,
kết thúc chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc.
Đối với quốc tế, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, mở
rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới; cùng với nhân
dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là
hệ thống thuộc địa của thực phân Pháp.

110
3. Đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can
thiệp Mỹ đến thắng lợi từ 1951-1954
*Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và
can thiệp Mỹ (45 – 54), quá trình hình thành phát triển và nội dung cơ bản của
đường lối

111
112
4. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo kháng chiến
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ
*Sự phát triển đường lối và khái quát quá trình chỉ đạo thực hiện của Đảng
trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)?
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bền bỉ và anh dũng của nhân dân
Việt Nam đã giành được thắng lợi, buộc chúng phải ký Hiệp định
Giơ-ne-vơ (7 - 1954), công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của đất nước.
Thế nhưng, sau ngày Hiệp định được ký kết, đế quốc Mỹ đã gạt thực dân Pháp,
trực tiếp viện trợ và giúp chính quyền Sài Gòn xây dựng quân đội, hòng biến

113
miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, chia
cắt lâu dài Việt Nam, ngăn chặn ảnh hưởng của CNXH xuống Đông Nam Á,
răn đe phong trào giải phóng dân tộc đang trên đà phát triển. Đất nước ta bước
vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước qua chặng đường dài 21 năm (1954 - 1975), với vô vàn gian khổ, hy sinh,
khó khăn, phức tạp.
Để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống lại đế quốc Mỹ - một kẻ thù có
tiềm lực mạnh về kinh tế, quân sự đứng đầu phe chủ nghĩa đế quốc cùng với bè
lũ tay sai, trên cơ sở đánh giá đúng bản chất, âm mưu và hành động của kẻ thù;
đánh giá lực lượng so sánh đôi bên với quan điểm cách mạng và khoa học; bám
sát diễn biến thực tế của tình hình chiến trường trong nước, khu vực và thế giới;
vững tin vào lòng yêu nước và sức mạnh to lớn của nhân dân, Đảng ta đã đề ra
đường lối chiến tranh nhân dân để lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta tiến hành sự nghiệp giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất
Tổ quốc. Đường lối ấy của Đảng không ngừng được bổ sung, ngày càng hoàn
chỉnh, là nhân tố quyết định trực tiếp thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước. Đường lối chiến tranh nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước là quá trình hình thành, bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh qua các Đại
hội, Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị từ năm 1954 đến
năm 1975.
Khi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta kết thúc, đế quốc Mỹ đã
từng bước thực hiện âm mưu xâm lược nước ta. Trước tình hình đó, tại Hội
nghị Trung ương 6 khóa II (6 - 1954) Đảng ta đã xác định: Kẻ thù chính của
nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới và đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp
của nhân dân Đông Dương là đế quốc Mỹ. Về sách lược cách mạng, Đảng và
Chủ ti ̣ch Hồ Chí Minh đã nhận định: Do tình hình mới, ta thay đổi phương
châm, chính sách và sách lược đấu tranh cốt để thực hiện một cách thuận lợi
mục đích trước mắt.

114
Đến tháng 9 năm 1954, Nghị quyết của Bộ Chính trị về tình hình mới, nhiệm
vụ mới và chính sách mới của Đảng đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tình
hình trong lúc cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến
tranh chuyển sang hoà bình; nước nhà tạm chia làm hai miền; từ nông thôn
chuyển vào thành thị; từ phân tán chuyển đến tập trung. Trong điều kiện đó,
Hội nghị Trung ương 7 khóa II (3 - 1955) và Trung ương 8 khóa II (8 - 1955)
đã xác định phương hướng, nhiệm vụ của cuộc chiến tranh: “Muốn chống đế
quốc Mỹ và tay sai, củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất hoàn thành độc lập
và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và
đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam”1.
Tiếp đến Hội nghị Trung ương 13 khóa II (12 - 1957) của Đảng xác định
đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: “Tiến hành cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế
quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và
dân chủ trong cả nước”2.
Cuối năm 1958 đầu năm 1959, Mỹ - Diệm tiến hành chính sách cai trị tàn bạo,
phát xít hóa, đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng ở miền Nam. Thực tiễn đòi
hỏi nhân dân miền Nam phải vùng lên đấu tranh với kẻ thù. Trước tình hình đó,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II tổ chức Hội nghị Trung ương 15 (1 -
1959) họp bàn về cách mạng miền Nam. Nghị quyết phân tích rõ tính chất, mâu
thuẫn trong xã hội miền Nam. Từ đó, xác định rõ lực lượng cách mạng, kẻ thù,
nhiệm vụ của cách mạng miền Nam; xác định phương pháp cách mạng và con
đường mới; dự kiến về khả năng phát triển của tình hình, xây dựng mặt trận để
tập hợp rộng rãi tất cả các lực lượng chống đế quốc và tay sai, khẳng định sự
tồn tại và trưởng thành của Đảng bộ miền Nam là yếu tố quyết định giành
thắng lợi của cách mạng miền Nam.
Đại hội đại biểu lần thứ III (9 - 1960), của Đảng diễn ra trong hoàn cảnh đất
nước vẫn tạm thời chia làm hai miền, mỗi miền có một chế độ chính trị khác

115
nhau. Miền Bắc quá độ lên xã hội chủ nghĩa, miền Nam tiếp tục cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân để tiến tới thống nhất đất nước. Đại hội xác
định đường lối chung của cách mạng Việt Nam: “Tăng cường đoàn kết toàn
dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây
dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh,
thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở
Đông Nam Á và thế giới”3.
Nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai
nhiệm vụ chiến lược. Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai,
thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Mục tiêu chiến lược: Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng
ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết
yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai
nhiệm vụ đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân
ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước
mắt là hoà bình, thống nhất Tổ quốc.
Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá
sản của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã ào ạt đưa quân Mỹ
và quân các nước chư hầu vào miền Nam, tiến hành cuộc “Chiến tranh cục bộ”
với quy mô lớn; đồng thời dùng không quân, hải quân tiến hành cuộc chiến
tranh phá hoại đối với miền Bắc. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 11
(3 - 1965) và Hội nghị Trung ương 12 (12 - 1965) đã phân tích âm mưu, bản
chất của đế quốc Mỹ, đã đánh giá so sánh lực lượng giữa ta và địch, đi tới kết
luận: Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh,
lực lượng so sánh giữa ta và địch không thay đổi lớn. Ban Chấp hành Trung

116
ương Đảng xác định quyết tâm và nhiệm vụ chung của cả nước lúc này là: Kiên
quyết giữ vững thế chiến lược tiến công, động viên lực lượng cả nước, quyết
tâm đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Tập trung lực lượng
cả nước, kết hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị đánh bại đế quốc Mỹ
và bè lũ tay sai trên chiến trường chính là miền Nam.
Đối với chiến trường chính miền Nam, Nghị quyết xác định phương châm
chiến lược là đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ thời cơ giành
thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn, đồng thời hết sức tranh thủ
sự giúp đỡ, ủng hộ của quốc tế.
Đối với miền Bắc, phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và
hải quân của đế quốc Mỹ, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải
tích cực đề phòng để đánh địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng chiến
tranh cục bộ ra cả nước. Thực hiện chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm
tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều
kiện có chiến tranh phá hoại. Động viên sức người, sức của ở mức cao nhất để
chi viện đắc lực cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam.
Trước những thất bại liên tiếp của địch trên chiến trường, Đảng ta chủ trương:
Cùng với các mũi tiến công quân sự và chính trị, cần mở thêm mặt trận tiến
công ngoại giao, nhằm tố cáo, vạch trần thủ đoạn hòa bình kiểu lừa bịp của đế
quốc Mỹ. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 13 (khóa III) (tháng 01 - 1967)
quyết định triệt để tận dụng thời cơ, mở mặt trận ngoại giao, kết hợp chặt chẽ
với đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị nhằm đưa cuộc kháng chiến lên
bước phát triển mới.
Sau khi Hiệp định Pari được ký (1 - 1973), địch tiến hành nhiều hoạt động lấn
chiến và phá hoại Hiệp định. Trước tình hình đó, tháng 7 - 1973, Hội nghị TƯ
Đảng lần thứ 21, khoá III họp và ra Nghị quyết lịch sử: "Thắng lợi vĩ đại của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn mới”; Hội nghị xác định: “con đường của cách mạng miền Nam

117
là con đường cách mạng bạo lực, bất kể trong tình huống nào phải nắm vững
thời cơ, giữ vững chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt”4.
Hội nghị Bộ Chính trị (đợt 1) bàn về chủ trương giải phóng hoàn toàn miền
Nam (10 - 1974), và Hội nghị Bộ Chính trị (đợt 2) (từ ngày 8 - 12 - 1974 đến
ngày 7 - 1 - 1975), chỉ rõ: Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng
hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ,
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới Tổng tiến công và
nổi dậy, thắng địch tại sào huyệt quan trọng nhất của chúng là Sài Gòn.
Như vậy, đường lối chiến tranh nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước (1954 - 1975) là quá trình hình thành, bổ sung, phát triển và hoàn
chỉnh qua các Hội nghị và Đại hội của Đảng từ năm 1954 đến năm 1975, đó là
đường lối chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính,
và được tập trung trên những nội dung chủ yếu: Xác định mục đích, đối tượng,
nhiệm vụ chiến tranh là đánh thắng đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng
miền Nam, bảo vệ miền Bắc; về chủ trương phát huy sức mạnh tổng hợp hai
miền Nam, Bắc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; và chủ
trương tiến hành phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân với đặc trưng nổi
bật kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao;
kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh lớn, đánh
vừa và đánh nhỏ, thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ;
tiến lên thực hiện tổng tiến công và nổi dậy để giành thắng lợi cuối cùng, cả
nước hòa bình, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối chiến tranh độc
đáo, sáng tạo đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn và vận dụng sáng tạo nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh cách
mạng với truyền thống và tinh hoa về nghệ thuật đánh giặc, giữ nước của tổ
tiên và những kinh nghiệm về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của các nước xã
hội chủ nghĩa và của thế giới. Đó cũng là nhân tố có ý nghĩa quyết định trực
tiếp giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân

118
ta trong thế kỷ XX.

*Đường lối của Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ 1945-1954
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ được đề ra ngay từ đầu cuộc kháng
chiến và không ngừng được bổ sung hoàn chỉnh trong quá trình tiến hành kháng chiến.
Đường lối kháng chiến được thể hiện rõ trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng: bắt đầu từ
bản Chỉ thị về Kháng chiến kiến quốc (ngày 25-11-1945), tiếp đến là Công việc khẩn cấp bây giờ
(tháng 10-1946), Chỉ thị Toàn dân kháng chiến ngày 12-12-1946 và Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 19-12-1946), những quan điểm cơ bản của đường lối
kháng chiến đã hình thành. Giữa năm 1947, Tổng  Bí thư Trường Chinh đã viết một loạt bài báo
nhằm hướng dẫn việc thực hiện đường lối của Đảng, những bài viết này được tập hợp thành cuốn
sách Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi. Tác phẩm Trường kỳ kháng chiến nhất định
thắnq lợi đã thể hiện những quan điểm cơ bản về đường lối kháng chiến của Đảng, đó là đưòng
lối: "toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính” đưa cuộc kháng chiến của nhân
dân ta đi đến thắng lợi. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2-1951) tổng kết 5
năm kháng chiến đã bổ sung và phát triển đường lối kháng chiến khi kháng chiến đã phá thế bị
bao vây và đế quốc Mỹ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Về cơ bản, đường lối
chung của cuộc kháng chiến tập trung một số nội dung:
Về mục đích kháng chiến: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là sự kế thừa
và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám nhằm đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành
thống nhất, độc lập hòan toàn.
Tính chất của cuộc kháng chiến: Đang khẳng định đây là cuộc chiến tranh cách mạng của nhân
dân, chiến tranh chính nghĩa, nó có tính chất toàn dân, toàn diện, lâu dài. Do vậy, đó là cuộc
chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa hình có tính chất dân tộc giải phóng và dân
chủ mới. Đảng chủ trương lien hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp, đoàn kết
với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do. hoà bình.
Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến: Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở xác định rõ
đối tượng của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc và thế lực phong kiến, đặc biệt, tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đáng (tháng 2-1951) đã chỉ rõ kẻ thù cụ thể trước mắt của
cách mạng Việt Nam là đế quốc Pháp, kẻ thù nguy hiểm là dế quốc Mỹ, kẻ thù phụ là các thế lực
phong kiến. Lúc này là phong kiến phản động, từ đó đề ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt
Nam:
Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược làm cho Việt Nam hoàn toàn thống nhất và độc lập.
-       Xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến làm cho người cày có ruộng, phát triển
chế độ dân chủ nhân dân.
-      Gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
Động lực của cách mạng Việt Nam là nhân dân, chủ yếu là công, nông.

119
Lãnh đạo cách mạng Việt Nam là giai cấp công nhân. Nông dân là bạn đồng minh "lớn mạnh và
chắc chắn" của giai cấp công nhân.
Phương châm kháng chiến: Đảng chủ trương tiến hành chiến tranh nhân dân, thực hiện "kháng
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính".
 Trong đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, điều cốt lõi nhất và cơ bản nhất là chiến lược
toàn dân kháng chiến. Đảng tổ chức cả nước  thành một mặt trận, tạo nên thế trận cả nước đánh
giặc, phát huy sức mạnh của toàn dân và khối đoàn kết toàn dân tộc tham gia kháng chiến với
những biện pháp đa dạng phong phú, phù hợp như tuyên truyền giáo dục, động viên chính trị sâu
rộng từ đó xác định trách nhiệm đứng lên cứu nước nhà. Chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang
với ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Từ chiến tranh du kích
phát triển lên chiến tranh chính quy, kết hợp du kích chiến với vận động chiến.
Để phát huy sức mạnh tổng hợp của cuộc kháng chiến, Đảng chủ trương kháng chiến toàn diện,
tức là tiến hành tiến công địch trên tất cả các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, ngoại giao
tạo thành sức mạnh tổng hợp.
+ Về chinh trị, phải đoàn kết toàn dân chống Pháp xâm lược, phải thống nhất toàn dân, làm cho
mặt trận dân tộc thống nhất ngày càng vững chắc và rộng rãi. Phải củng cố chế độ cộng hoà dân
chủ, xây đựng bộ máy kháng chiến vững mạnh, thống nhất quân, dân, chính trong toàn quốc,
phát triển các đoàn thể cứu quốc, củng cố bộ máy lãnh đạo kháng chiến toàn dân. Phải cô lập kẻ
thù, kéo thêm nhiều bạn, làm cho nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa Pháp tích cực ủng hộ
ta, chống lại thực dân phản động Pháp. Coi trọng xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền nhà
nước và Mặt trận dân tộc thống nhất vững mạnh. Thống nhất Việt Minh, Liên Việt thành mặt
trận Liên Việt (1951).
+ Về quân sự, triệt để dùng "du kích vận động chiến", tiến công địch ở khắp nơi, vừa đánh địch
vừa xây dựng lực lượng; tản cư nhân dân ra xa vùng chiến sự. Xây dựng căn cứ địa kháng chiến
và hậu phương vững mạnh. Chủ động làm thất bại các kế hoạch chiến tranh lớn của dịch, phối
hợp chặt chẽ các chiến trường với sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất.
+ Về kinh tế, xây dựng nền kinh tế kháng chiến theo nguyên tắc vừa kháng chiến vừa kiến quốc,
toàn dân tăng gia sản xuất, tự túc tự cấp về mọi mặt; ra sức phá kinh tế địch không cho chúng
thực hiện mưu đồ lấy chiến tranh nuôi chiến tranh. Kinh tế kháng chiến về hình thức là kinh tế
chiến tranh, về nội dung là dân chủ mới, chú trọng phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp,
thương nghiệp và công nghiệp. Phát triển các thành phần kinh tế, từng bước thực hiện chính sách
ruộng đất đối với nông dân (giảm tô và cải cách ruộng dất). Phái triển kinh tế quốc doanh, gây
mầm cho chủ nghĩa xã hội.
+ Về văn hoá, thực hiện hai nhiệm vụ: xoá bỏ nền văn hoá nô dịch ngu dân, xâm lược của thực
dân Pháp và xây dựng nền văn hoá dân chủ mới, dựa trên ba nguyên tắc: dân tộc hoá, khoa học
hoá, đại chúng hoá. Phát triển giáo dục, đào tạo các bậc phổ thong trung học chuyên nghiệp và
đại học. Tiến hành cải cách giáo dục. Phát triển văn học, nghệ thuật, coi văn nghệ là một mặt trận
và văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận này.

120
 + Về đấu tranh ngoại giao, triệt để cô lập kẻ thù, tranh thủ thêm nhiều bầu bạn, làm cho nhân
dân thế giới kể cả nhân dân Pháp hiểu, tán thành và ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của
nhân dân Việt Nam. Tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ về mọi mặt trận các nước xã hội chủ nghĩa nhất
là Liên Xô, Trung Quốc. Năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ Việt Nam là bạn của các nước
dân chủ trên thế giới, không gây thủ oán với một ai.
Kháng chiến lâu dài: Xuất phát từ sự so sánh lực lượng, ban đầu địch mạnh, ta yếu nên Đảng chủ
trương đánh lâu dài. Vừa đánh vừa xây dựng phát triển lực lượng, đồng thời tích cực tiêu hao,
tiêu diệt địch để so sánh lực lượng sẽ dần có lợi cho và ta sẽ chuyển từ yếu thành mạnh, tiến tới
đánh thắng thù. Song, Đảng khẳng định đánh lâu dài nhưng phải tạo thế chr động phát triển thế
và lực, tạo thời cơ giành thắng lợi quyết định.
Dựa vào sức mình là chính: là dựa vào sức lực của nhân dân, vào đường lối đúng đắn của Đảng,
vào các điều kiện thiên thời, địa lợi, nhân hoà của đất nước, đồng thời ra sức tranh thủ sự đồng
tình ủng hộ và giúp đỡ quốc tế để chiến thắng kẻ thù.
Đường lối kháng chiến của Đảng là sự kế thừa và nâng lên tầm cao mới tư tưởng quân sự truyền
thống của dân tộc, là sự vận dụng lý luận chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin và
kinh nghiệm nước ngoài vào điều kiện Việt Nam. Đường lối đó là ngọn cờ dẫn dắt và là động lực
chính trị tinh thần đưa quân và dân ta tiến lên chiến đấu và chiến thắng thực dân Pháp xâm lược.
Với đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng, buộc kháng cn chiến chống thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ ngày càng phát triển và giành thắng lợi vẻ vang. Sự lãnh đạo của Đảng được tăng
cường, Nhà nước dân chủ nhân dân ngày càng vững mạnh, mặt trận Việt Minh, Liên Việt và các
đoàn thể cách mạng đã tập hợp rộng rãi khối đại đoàn kết dân tộc. Kinh tế phát triển nhất là nông
nghiệp, xây dựng, văn hóa, giáo dục có nhiều thành công. Ngoại giao từng bước phá thế bị bao
vây, tranh thủ được sự ủng hộ về mọi mặt của đồng chí, bè bạn trên thế giới. Đặc biệt, trên mặt
trận quân sự, quân đội và nhân dân Việt Nam đẫ lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh lớn
của thực dân Pháp: đánh bại kế hoạch chiến tranh chớp nhoáng của địch với chiến thắng Việt
Bắc thu đông (1947); làm thất bại kế hoạch Rơve với chiến thắng Biên giới (1950); đánh bại kế
hoạch Đ.Tátxinhi với chiến thắng Hòa Bình (1951), Tây Bắc(1952) và làm phá sản kế hoạch
Nava với chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ (ngày 7-5-1954),buộc thực dân Pháp ký Hiệp định
Giơnevơ, chấm đứt chiến tranh, rút quân Pháp về nước. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, tiến lên
chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân vi mục tiêu giành
độc lập, thắng lợi hoàn toàn.

121
*Hãy chứng minh thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ( 1946
– 1954 ) là kết quả của cuộc chiến tranh nhân dân: ‘’toàn dân, toàn diện, lâu
dài và dựa vào sức mình là chính’’

122
123
124
*Vai trò lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
can thiệp Mỹ 1945-1954
90 năm lãnh đạo và đồng hành cùng dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng minh được sự
vững vàng về nguyên tắc, sự uyển chuyển, linh hoạt về phương pháp, sách lược. Càng trong
những hoàn cảnh khó khăn, bước ngoặt lịch sử thì bản lĩnh, trí tuệ, ý chí của Đảng càng vững
vàng, tỏa sáng; đường lối, chủ trương của Đảng càng thể hiện sự đúng đắn, khoa học, bám sát
thực tiễn đất nước và đòi hỏi bức thiết của nhân dân. Mỗi khi tình hình cách mạng có sự biến
động, phát triển, Đảng đều chủ động điều chỉnh, hoàn thiện Cương lĩnh, đường lối, phương thức
125
lãnh đạo, huy động sức mạnh toàn dân tộc, vượt qua khó khăn, thách thức để lãnh đạo hoàn
thành mục tiêu cách mạng đề ra. Điều đó đã thể hiện bản lĩnh của một Đảng được tôi luyện trong
các phong trào đấu tranh cách mạng, đủ khả năng giải quyết những vấn đề trọng đại của đất
nước. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành lực lượng lãnh đạo hợp lòng dân, được lịch
sử sàng lọc, chấp nhận, Hiến pháp quy định và giao phó sứ mệnh mà không một lực lượng nào
có thể thay thế được. Tất cả những vai trò này của Đảng được thể hiện hết sức rõ nét trong lãnh
đạo công cuộc kháng chiến, kiến quốc, giai đoạn 1945- 1954:
Thứ nhất, sự lãnh đạo xuất sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo cuộc đấu tranh
và phát triển thành quả cách mạng tháng tám.
Những ngày tưng bừng của Tổng khởi nghĩa Tháng Tám và lễ độc lập qua đi rất nhanh. Nhà
nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á vừa được thành lập đã phải bước ngay vào cuộc
đấu tranh quyết liệt cho sự tồn tại của mình. Để kiện toàn và củng cố lực lượng, chúng ta đã phải
đối phó với tình hình cực kỳ phức tạp và vô vàn khó khăn: Nền kinh tế kiệt quệ, nạn đói khủng
khiếp đã cướp đi sinh mạng của hai triệu người vẫn còn đang đe doạ; ngân khố trống rỗng (chỉ
còn một triệu đồng bạc rách), trình độ văn hoá rất thấp kém, đa số nhân dân không biết chữ.
Trong khi đó, thù trong giặc ngoài: ở miền Bắc, 20 vạn quân Tưởng, dưới danh nghĩa Đồng minh
vào tước vũ khí quân đội Nhật, thực chất là muốn tiêu diệt Đảng Cộng sản, phá tan Việt Minh,
lật đổ chính quyền nhân dân, lập chính phủ phản động làm tay sai cho Mỹ - Tưởng; ở miền Nam,
núp sau bóng quân Anh, thực dân Pháp quay trở lại đánh chiếm nước ta một lần nữa; bọn phản
động tay sai cũng nổi lên khắp nơi, tìm mọi cách cản trở cuộc kiến quốc của nhân dân ta. Đứng
trước vận mệnh của nước nhà như ngàn cân treo sợi tóc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng tập thể
Trung ương Đảng bình tĩnh, sáng suốt phân tích tình hình, kịp thời đề ra đường lối đúng đắn và
những biện pháp hành động khôn khéo để giải quyết từng bước những khó khăn về đời sống kinh
tế, văn hoá - xã hội và những vấn đề cấp bách khác. Sáng ngày 3-9-1945, tại Bắc Bộ phủ, chủ toạ
phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu sáu vấn đề cấp bách để cứu nguy dân tộc: Một là, giải quyết nạn đói; Hai là, thanh
toán nạn dốt; Ba là, tổ chức sớm cuộc Tổng tuyển cử; Bốn là, xoá bỏ hủ tục, xây dựng đời sống
văn hoá mới, đạo đức mới, đạo đức cách mạng; Năm là, xoá bỏ ngay những thứ thuế bóc lột vô
nhân đạo; Sáu là, thực hiện tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết.
Nhờ vậy, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân vượt qua nhiều khó khăn, thách
thức, chống thù trong, giặc ngoài, vừa kháng chiến vừa kiến quốc: xây dựng và củng cố vững
chắc chính quyền nhân dân; bầu cử Quốc hội (6/1/1946); xây dựng Hiến pháp dân chủ đầu tiên
(9/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân; chống giặc đói, giặc dốt,
giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự
ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính
quyền và thành quả Cách mạng Tháng Tám.
Đảng đã chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược
của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước. Thành công nổi bật của hơn một năm xây dựng chính
quyền non trẻ là đã tăng cường được sức mạnh của cách mạng để tự bảo vệ thành quả cách mạng
bằng sức mạnh của chính mình.

126
Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn bám sát thực tiễn cách mạng, phân tích sâu sắc thời
cuộc, nắm vững mâu thuẫn cơ bản, thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu trong mỗi thời kỳ, xác định
đúng đắn những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
Ngay từ ngày đầu thành lập, trong Chánh cương vắn tắt, Đảng ta đã xác định rõ "chủ trương làm
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"; "Đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập".
Từ khi có Đảng lãnh đạo, cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng đường đấu tranh oanh
liệt và thắng lợi vẻ vang, từng bước mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời (2/9/1945) mở ra
kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong bài
viết nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đảng đã đoàn kết
được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các
giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của
giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường.
Cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, sau Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cùng Trung ương Đảng nhận rõ kẻ thù nguy hại nhất lúc này là thực dân Pháp xâm lược. Trên
nguyên tắc giữ vững chủ quyền và độc lập dân tộc, Người vận dụng sách lược rất khôn khéo,
mềm dẻo, phân hoá cao độ kẻ thù. Tạm thời hoà hoãn với quân Tưởng để giữ vững chính quyền,
có điều kiện đối phó với quân Pháp ở miền Nam. Hiểu rõ đối thủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh có đối
sách phù hợp với từng đối tượng. Người chủ trương trong quan hệ giữa ta với quân Tưởng, thực
hiện phương châm: biến đại sự thành tiểu sự, tiểu sự thành vô sự. Một mặt, nhân nhượng cho
quân Tưởng một số quyền lợi về kinh tế như vẫn áp dụng chính sách tối huệ quốc dành cho Hoa
kiều, tạo điều kiện cho buôn bán gạo và hàng hoá sang Hồng Kông. Về chính trị: ta mở rộng 70
ghế tham gia Quốc hội không qua bầu cử cho Việt Quốc, Việt Cách - tay sai của quân Tưởng, để
xoá đi lý do mà các thế lực thù địch trong và ngoài nước lợi dụng chống phá cách mạng.
Thứ ba, Đảng luôn nhạy bén, bám sát tình hình thời cuộc để xác định đúng đắn nhiệm vụ,
phương pháp cách mạng phù hợp đưa đất nước tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn.
Trong thực tiễn, Đảng luôn kết hợp chặt chẽ giữa kiên trì chuẩn bị lực lượng với nắm vững thời
cơ, khi thời cơ đến đã biết chớp lấy, kịp thời tổ chức, động viên nhân dân cả nước đứng lên đấu
tranh giành thắng lợi. Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng (10/5 - 19/5/1941) đã có quyết
định chuyển hướng chiến lược đấu tranh cách mạng, kịp thời thành lập Mặt trận Việt minh, ra lời
kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam đoàn kết, đứng lên chống phát-xít, giành lại độc lập tự do cho
dân tộc. Sau khi phát-xít Đức, Ý bại trận, phát-xít Nhật sửa soạn đầu hàng (7/1945),  Hồ Chí
Minh rất sáng suốt nhận định thời cơ cách mạng đang đến gần và nhắc nhở các đồng chí Trung
ương: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường
Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập". Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược Việt
Nam một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc
kháng chiến với quyết tâm: Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
không chịu làm nô lệ.

127
Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến; vừa kiến quốc vừa kháng
chiến dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế,
Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp mà
đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định
Giơnevơ năm 1954 chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương là một thắng
lợi vẻ vang của các lực lượng cách mạng ở Đông Dương, đồng thời là một đóng góp quan trọng
mở đầu sự tan rã hoàn toàn của hệ thống thuộc địa của đế quốc Pháp và báo hiệu quá trình sụp
đổ không để đảo ngược của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới. 
Thắng lợi của cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược và bọn can thiệp Mỹ
chứng tỏ sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, cố gắng phi thường của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, những tiến bộ vượt bậc
của quân đội ta về nghệ thuật quân sự, về tổ chức chỉ huy, về chiến đấu và bảo đảm chiến đấu.
Thắng lợi của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã làm sáng tỏ
một chân lý của thời đại ngày nay là một dân tộc dù nhỏ nhưng đoàn kết chặt chẽ, kiên quyết
chiến đấu theo đường lối cách mạng đúng đắn thì có khả năng đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Lịch sử cách mạng Việt Nam ghi thêm một trang vô cùng vẻ vang, “Việt Nam - Điện Biên Phủ -
Hồ Chí Minh” trở thành khẩu hiệu chiến đấu và chiến thắng của các dân tộc bị áp bức, được
nhân dân thế giới nhắc đến với niềm tự hào và cảm phục.
Thực tiễn cách mạng hơn 90 năm qua đã khẳng định: “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân
tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, sự lãnh đạo của Đảng đang đặt ra những yêu cầu
mới rất cao và toàn diện, với nhiều khó khăn, thách thức, trở ngại. Nhưng, với bản lĩnh đã được
tôi luyện trong thực tiễn cách mạng, nhất định Đảng ta sẽ vượt qua, hoàn thành tốt sứ mệnh lịch
sử mà dân tộc và nhân dân giao phó. 

*Ý nghĩa lịch sử và những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng
chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ 1945-1954

Ý nghĩa lịch sử:


Đối với nước ta, việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân
chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ
giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
các nước Đông Dương; làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ,
kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều
kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn cứ địa, hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền
Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế.
Đối với quốc tế, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới; mở
rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới; cùng với nhân
dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân ở ba nước Đông Dương, mở

128
ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực dân
Pháp.
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh
nói: "Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân
hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi
của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới".
Bài học kinh nghiệm về hoạch định và chỉ đạo thực hiện , đường lối:
Một là, đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử của
cuộc kháng chiến ngay từ những ngày đầu. Đường lối cơ bản là ‘kháng chiến
kiến quốc’; kháng chiến toàn dân, toàn diện,tự lực cánh sinh là chính. Tinh thần,
khí phách đó đã khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc và mọi nguồn lực sáng tạo của các tầng lớp nhân dân tập trung vào nhiệm
vụ chống thù trong giặc ngoài, thực hiện mục tiêu độc lập, dân chủ, tiến bộ
trong suốt thời kỳ kháng chiến. Kết hợp sức mạnh nội lực của nhân dân Việt
Nam với việc tranh thủ tối đa những điều kiện thuận lợi của quốc tế, phát huy
có hiệu quả cao nhất sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng dân chủ, tiến bộ đối
với cuộc kháng chiến.
Hai là, kết hợp chặt chẽ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữ hai nhiệm vụ
cơ bản vừa kháng chiến vừa kiến quốc, chống đế quốc và chống phong kiến.
Kháng chiến toàn diện trên các mặt trận, các lĩnh vực cả kinh tế, văn hóa ,xã
hội cải thiện đời sống nhân dân, đồng thời ưu tiên đẩy mạnh hoạt động quân sự
đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi quyết định. Kết hợp nhuần nghuyễn hình
ảnh các thức đấu tranh trên các mặt trận, lấy quân sự làm nòng cốt, lấy xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân làm chỗ dựa, nền tảng để củng cố, phát triển
cơ sở hạ tầng chính trị- xã hội vững chắc, phát huy hiệu lực, hiệu quả sự lãnh
đạo và tổ chức cuộc kháng chiến của Đảng, Chính phủ trên thực tế.
Ba là, ngày càng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, tổ chức điều hành cuộc
kháng chiến phù hợp với đặc thù của từng giai đoạn. Phát triển các loại hình
chiến tranh đúng đắn, sáng tạo phù hợp với đặc điểm cuộc kháng chiến và so
sánh lực lượng ta địch, đó là loại hình chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện.

129
Kết hợp chiến tranh chính qui với chiến tranh du kích ở cả mặt trận chính diện
và vùng sau lưng địch, vùng tạm bị chiếm. Phát huy sở trường của ta và cách
đánh địch sáng tạo, linh hoạt kết hợp với chỉ đạo chiến thuật tác chiến linh hoạt,
cơ động, ‘ đánh chắc, tiến chắc, chắc thắng’, thắng từng bước tiến lên giành
thắng lợi quyết định.
Bốn là, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân: Bộ đội chủ lực,
bộ đội địa phương, dân quân du kích một cách thích hợp, đáp ứng kịp thời yêu
cầu của nhiệm vụ chính trị- quân sự của cuộc kháng chiến. Xây dựng mô hình
tổ chức bộ máy lực lượng vũ trang, nhất là Quân đội nhân dân, Công an nhân
dân một cách đúng đắn, thích hợp. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trước
hết và quan trọng nhất là về tư tưởng- chính trị, trở thành công cụ chuyên chính
sắc bén, tin cậy, làm mũi nhọn, nòng cốt cho kháng chiến, làm chỗ dựa cho
toàn dân đánh giặc. Đảng và quân đội đã xây dựng thành công hình ảnh “ Bộ
đội cụ Hồ” trong kháng chiến; xây dựng Công an nhân dân, mang bản chất giai
cấp và tính nhân dân sâu sắc, công an là “ bạn dân” theo tư tưởng thân dân của
HCM
Năm là, coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao vai trò lãnh
đạo toàn diện của Đảng đối với cuộc kháng chiến trên tất cả mọi lĩnh vực, mặt
trận. Xây dựng, bồi đắp hình ảnh, uy tín của Đảng và Chính phủ phải bằng
hành động thực tế, bằng sự nêu gương và vai trò tiên phong của các tổ chức
đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quá trình tổ chức cuộc kháng chiến ở
cả căn cứ địa-hậu phương và vùng bị địch tạm chiếm. Hết sức chú trọng công
tác tuyên truyền, giáo dục, động viên cao nhất, nhiều nhất mọi nguồn lực vật
chất trong nhân dân, phát huy cao độ tinh thần, nghị lực của nhân dân; củng cố
lòng tin vững chắc của nhân dân đối với thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng
chiến.

130
II-Lãnh Đạo Xây Dựng Chủ Nghĩa Xã Hội Ở Miền Bắc Và Kháng
Chiến Chống Đế Quốc Mỹ Xâm Lược,Giải Phóng Miền Nam,Thống
Nhất Đất Nước (1954-1975)
1. Lãnh đạo cách mạng hai miền giai đoạn 1954-1965
*Hoàn cảnh lịch sử , nội dung, ý nghĩa của đường lối kháng chiến chống Mĩ
xâm lược (1954 - 1965)

131
132
133
 

*Phân tích sự nhận thức(bước phát triển tư duy) của Đảng về cách mạng miền
Nam trong giai đoạn 1954-1965(những năm đầu giữ gìn lực lượng).
Ngay khi Mỹ nhảy vào thay chân Pháp ở miền Nam Việt Nam năm 1954, Đảng
và Nhà nước đã nhận thấy được âm mưu xâm lược và biến miền Nam Việt Nam thành
thuộc địa kiểu mới, thành căn cứ quân sự để tấn công miền Bắc, phá hoại hệ thống xã
hội chủ nghĩa bằng chính quyền tay sai Việt Nam Cộng hoà do Ngô Đình Diệm làm
tổng thống.
Nhận thức được tình hình đó, Đảng ta đã quyết định thay đổi phương thức đấu
tranh quân sự sang đấu tranh chính trị, lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi thi hành hiệp
định Giơnevơ và tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam.Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 7/ 1954) đã chỉ rõ:
“Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới, và nó đang trở thành kẻ
thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm
chống đế quốc Mỹ”.
Ngày 22/7/1954, chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào và cán bộ, chiến
sĩ cả nước, trong đó nhấn mạnh “Trung Nam Bắc đều là bờ cõi của ta, nước ta nhất
định sẽ thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng”.
Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9/1954 nêu rõ 3 nhiệm vụ cụ thể trước mắt của
cách mạng miền Nam là: Đấu tranh đồi thi hành Hiệp định; chuyển hướng công tác cho
phù hợp điều kiện mới; tập hợp mọi lực lượng dân tộc, dân chủ, hoà bình,thống nhất,
độc lập, đấu tranh nhằm lật đổ chính quyền bù nhìn thân Mỹ hoàn thành thống nhất Tổ
quốc.

Trong hội nghị lần thứ bảy (3/1955) và lần thứ 8 (8/1955), Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khoá II) đã nhận định được việc Mỹ và tay sai đã “hất cẳng” Pháp, lập ra nhà nước Việt
Nam Cộng hoà để chống phá hiệp định Giơnevơ. Đảng đã đề ra định hướng muốn thống nhất đất
nước thì phải củng cố miền Bắc và đẩy mạnh các cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Để đối phó nhiều thủ đoạn, âm mưu của Pháp và tay sai nhằm gây rối loạn, mất trật tự
trước khi chúng rút lui, Đảng và Nhà nước đã kịp thời ban hành kịp thời nhiều chính sách chỉ đạo
các địa phương thực hiện như: chính sách đối với tôn giáo; chính sách đối với công chức, trí thức
trước đây làm việc cho địch; chính sách nguỵ quân. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước huy động
nhiều cán bộ, bộ đội đến giúp đỡ các địa phương, tuyên truyền, vận động quần chúng đấu tranh
nhằm ổn định tình hình.

134
Đề cương đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam thág 8/1956 của đồng chí
Lê Duẩn đã chỉ rõ chế độ thống trị ở miền Nam là một chế độ độc tài, phátxít, hiếu
chiến. Để chống đế quốc Mỹ và tay sai, “nhân dân miền Nam chỉ có con đường cứu
nước và tự cứu mình, là con đường cách mạng. Ngoài con đường cách mạng không có
một con đường khác”.
Đứng trước nhiều chính sách tàn bạo của chính quyền Ngô Đình Diệm, vào
tháng 1/1959, Hội nghị Trung ương 15 (mở rộng) đã ra nghị quyết vè tình hình cách
mạng miền Nam với tinh thần cơ bản là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, sử dụng bạo lực cách mạng với hai lực lượng chính trị và vũ trang, kết hợp đấu
tranh chính trị với đấu tranh quân sự, tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về
tay nhân dân,… Nghị quyết 15 đã vạch rõ phương hướng tiến lên cho cách mạng miền
Nam, tạo đà cho cuộc khởi nghĩa từng phàn nổ ra ngày càng rộng lớn với sự chi viện từ
miền Bắc.

Đứng trước chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, vào tháng 1/1961 và tháng 2/1962, các
cuộc hội nghị của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã phân tích, đánh giá tình
hình giữa ta và định ở miền Nam kể từ sau ngày Đồng khởi và ra Chỉ thị về “Phương hướng và
nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam”.

Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng đối với cách mạng miền Nam, tháng 10/1961,
Trung ương Cục miền Nam được thành lập, ngày 15/2/1961, các lực lượng vũ trang ở miền Nam
được thống nhất với tên gọi Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, Nhà nước và sự chi viện từ miền Bắc, nhân dân miền
Nam đã đứng dậy đấu tranh đánh bại các chiến lược của Mỹ, làm chính quyền Ngô Đình Diệm
lung lay. Tạo ra được cơ sở vững chắc cho nhân dân miền Nam đứng lên giành chính quyền.

135
*Tại sao Đại hội III (1960) của Đảng được xem là đại hội hoàn chỉnh Đường
lối chiến lược cách mạng hai miền Nam - Bắc?

136
137
138
2. Lãnh đạo cách mạng cả nước giai đoạn 1965-1975

*Hoàn cảnh lịch sử , nội dung, ý nghĩa của đường lối kháng chiến chống Mĩ
xâm lược (1965 - 1975)

139
140
*Hiệp định Paris (1973) là kết quả của quá trình “vừa đánh vừa đàm” và là cơ
hội lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn. Ý
kiến của Anh/chị về nhận định trên?
Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình tại Việt Nam được ký
vào ngày này, cách đây 40 năm, là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của nhân dân
Việt nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hiệp định buộc Hoa kỳ
phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam,
rút hết quân Mỹ và quân đồng minh ra khỏi miền Nam Việt Nam, tạo tiền đề cho
đại thắng Mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Hiệp định Paris năm 1973 do 4 bên Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau này là Chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam), Hoa Kỳ và Việt nam Cộng hoà ký, tại
Paris. Đây là kết quả của cuộc đàm phán kéo dài 4 năm, 8 tháng, 14 ngày, với
hơn 200 phiên họp công khai và 24 đợt gặp riêng, là thắng lợi quan trọng, to lớn
về nhiều mặt của nhân dân Việt Nam.
Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh khẳng định: "Hội nghị và Hiệp định Paris
là thắng lợi tổng hợp của cuộc đấu tranh trên các mặt trận quân sự, chính trị,
ngoại giao. Cuộc đàm phán ở Paris là cuộc đấu trí, đấu bản lĩnh lâu dài, gian khổ
nhưng rất hào hùng của ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; từ
quyết định mang ý nghĩa chiến lược mở ra cục diện vừa đánh vừa đàm đến những
sách lược của ta trong suốt quá trình đàm phán công khai cũng như bí mật và đến
những nội dung của Hiệp định Paris đều thể hiện chính nghĩa sáng ngời của cuộc
đấu tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam. Hiệp định Paris cũng là văn bản pháp
lý quốc tế lần đầu tiên trong đó Mỹ buộc phải cam kết tôn trọng độc lập, chủ
quyền và thống nhất của dân tộc Việt Nam”.
Với Hiệp định Paris, nhân dân Việt Nam đã thực hiện được mục tiêu “đánh cho
Mỹ cút”, mở ra một giai đoạn mới, thuận lợi cho mục tiêu “đánh cho Ngụy nhào”,
là tiền đề tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975.
Ông Trịnh Ngọc Thái, thành viên đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại

141
Hội nghị Paris, cho biết: “Cuộc đàm phán Paris về Việt Nam đã trở thành trung
tâm chú ý của dư luận thế giới vì cuộc đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là tâm điểm của những mâu thuẫn cơ bản của thời đại
lúc bấy giờ. Việc ký kết Hiệp định là sự tháo nút cho cuộc chiến tranh ác liệt và
lâu dài nhất trên thế giới sau chiến tranh thế giới lần thứ hai”.
Đàm phán Paris được đánh giá là cuộc đấu trí căng thẳng giữa 2 nền ngoại giao.
Đó là nền ngoại giao trên thế mạnh của Mỹ và nền ngoại giao nhân văn của Việt
nam.
Theo bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch nước, Trưởng đoàn đàm phán
Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris,
phương châm ngoại giao “dĩ bất biến, ứng vạn biến” mà Việt Nam áp dụng đã
phát huy hiệu quả.”Đối với đàm phán Hiệp định Paris, vấn đề Mỹ xâm lược miền
Nam Việt Nam thì Mỹ phải chấm dứt xâm lược là nguyên tắc bất biến. Theo đó,
Mỹ phải rút quân ra khỏi Việt Nam không điều kiện, để đảm bảo cho độc lập chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Dĩ bất biến tức là chúng ta luôn giữ
nguyên lập trường đó. Còn “ứng vạn biến” là phải tuỳ thuộc tình hình. Lúc đầu
chúng ta nêu ra là phải giải quyết vấn đề quân sự, đồng thời giải quyết vấn đề về
chính trị. Nhưng tới một lúc nào đó chúng ta thấy rằng, vị thế của chúng ta trên
chiến trường thuận lợi, thì chúng ta có thể đi thêm nhiều bước khác. Đó chính là
ứng vạn biến”.
Không chỉ có ý nghĩa đối với Việt Nam, Hiệp định Paris còn mang tính quốc tế
khi góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng đất nước của nhân dân Lào và
Campuchia. Hiệp định cũng góp phần mở ra một chương mới trong cục diện
Đông Nam Á: Mỹ rút lui về quân sự khỏi Đông Dương và Đông Nam Á; xu thế
hoà bình, trung lập phát triển mạnh trong khu vực, mở ra khả năng thiết lập một
khu vực hoà bình, hữu nghị ổn định.
Hiệp định Paris 1973 cho thấy Việt Nam tranh thủ được cả Liên Xô, Trung Quốc,
các nước Xã hội chủ nghĩa, các nước thành viên Phong trào không liên kết và cả

142
người dân Mỹ yêu chuộng hòa bình, để hình thành mặt trận nhân dân thế giới ủng
hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược. Điều này thể hiện phương châm kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế,
kết hợp ngoại giao nhà nước với ngoại giao nhân dân.
Ông Trịnh Ngọc Thái nhận định: "Trong lịch sử kháng chiến của các dân tộc,
hầu như chưa có 1 cuộc chiến đấu nào như ở Việt Nam lại có thể tạo dựng nên 1
phong trào, 1 mặt trận nhân dân thế giới mạnh mẽ đoàn kết ủng hộ Việt Nam,
trong đó có phong trào phản chiến ở ngay nước Mỹ. Sức mạnh của dư luận đã trở
thành sức ép đối với chính sách xâm lược của Mỹ, là sự cổ vũ to lớn đối với nhân
dân Việt Nam. Đây là 1 trong những sáng tạo để hình thành một mặt trận nhân
dân thế giới đoàn kết ủng hộ Việt Nam".
Hội nghị Paris đã để lại nhiều bài học lớn, trong đó bài học về ý chí bảo vệ độc
lập chủ quyền dân tộc và tinh thần đoàn kết quốc tế vẫn còn nguyên giá trị thời sự
và thiết thực đối với các quốc gia trong một thế giới đầy biến động.
40 năm qua, những giá trị của Hiệp định Paris 1973, vẫn mãi là mốc son của nền
ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.

3.Ý nghĩa và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ,cứu nước 1954-1975
*Cách mạng XHCN và những thành quả trong quá trình xây dựng CNXH ở
miền Bắc 1954-1975
● Bối cảnh lịch sử

-Thế giới:
Từ sau Chiến tranh thế giới II, chủ nghĩa xã hội trở thành một xu thế phát triển trên thế giới mà
trong đó Liên Xô đứng đầu, làm trụ cột của hệ thống. Miền Bắc nước ta bắt đầu bước vào thời kỳ
cách mạng xã hội chủ nghĩa khi tình hình thế giới có nhiều thuận lợi, nhưng cũng có không ít
khó khăn cần đối mặt. Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội ngày càng mạnh mẽ. Đặc biệt, sau
chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) của dân tộc Việt Nam đã thúc đẩy, cổ vũ mạnh mẽ những
phong trào cách mạng dân tộc, phong trào đấu tranh giai cấp trên toàn thế giới.
Chủ nghĩa xã hội liên tục phát triển và lớn mạnh về mọi mặt như kinh tế, quân sự, khoa học kĩ
thuật với nhiều thành tựu nổi bật. Sự lớn mạnh của Liên Xô về kinh tế và quốc phòng đã làm
tăng vị thế của các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Các nước xã hội chủ nghĩa được sự giúp

143
đỡ của Liên Xô tiếp tục đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội.
Những thành tựu đó chứng minh tính ưu việt của mô hình xã hội chủ nghĩa và cách thức xây
dựng chủ nghĩa xã hội mà Liên Xô cùng các nước phát triển xã hội chủ nghĩa đi trước thực hiện,
là mẫu hình để các nước xã hội chủ nghĩa đi sau, trong đó có Việt Nam, tin tưởng, học tập.
Đối nghịch với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa đế quốc đang dần có dấu hiệu suy yếu. Điều đó trước
hết thể hiện ở sự tan rã của hệ thống thuộc địa khi các phong trào giải phóng dân tộc liên tiếp nổ
ra mạnh mẽ và giành thắng lợi lớn. Bên cạnh đó, nền kinh tế của chủ nghĩa đế quốc cũng đang đà
suy thoái cùng với những mâu thuẫn nội bộ đã có mầm mống từ lâu, làm cho chủ nghĩa tư bản bị
đẩy dần về bờ vực khủng hoảng. Có thể nói, đây là cơ hội lớn cho chủ nghĩa xã hội vươnlên và
cách mạng dân tộc ngày một phát triển mạnh mẽ, bùng nổ hơn.
-Trong nước:
Đất nước lâm vào cảnh chia cắt hai miền Nam – Bắc, tuy nhiên dưới sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là sau chiến thắng Điên Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn
động địa cầu”, niềm tin của nhân dân Việt Nam vào Đảng ngày một được củng cố vững chắc.
Sau ngày giải phóng, nhân dân miền Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng đã bắt đầu thực hiện cải
cách kinh tế, hăng say lao động, xây dựng chế độ mới, tạo tiền đề cơ bản để miền Bắc tiến vào
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Tuy rằng đã trải qua nhiều
thập kỷ đấu tranh trường kỳ để bảo vệ độc lập dân tộc, nền kinh tế của đất nước vô cùng lạc hậu,
đặc biệt kém phát triển về lĩnh vực khoa học-kĩ thuật,nhưng miền Bắc lúc này có nhiệm vụ xây
dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị
cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển
của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Còn cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng
miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất
nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước

● Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam

Đầu năm 1950, sau khi được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao,
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức trở thành thành viên của hệ thống xã hội chủ nghĩa
thế giới. Việt Nam là nước đứng vào hệ thống xã hội chủ nghĩa muộn hơn, đặc biệt, bắt đầu xây
dựng chủ nghĩa xã hội chỉ trên một nửa đất nước. Từ xuất phát điểm đó, Đảng Lao động Vỉệt
Nam đã khẳng định: “Đối với nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội
không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, thì sự giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa là một
sự cần thiết không thể thiếu được, là một nhân tố rất quan trọng” (6). Đồng thời, Đảng Lao động
Việt Nam cũng nhận thức rõ: “Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng triệt để nhất... Để
giành thắng lợi cho sự nghiệp lớn lao đó, chúng ta phải nắm vững những nguyên lý phổ biến của
chủ nghĩa Mác- Lênin về cách mạng xã hội chủ nghĩa, phải học tập những kinh nghiệp quý báu
của các nước anh em, đồng thời phải khéo vận dụng những nguyên lý và kinh nghiệm ấy vào
điều kiện cụ thể nước ta, tìm ra những hình thức, phương pháp, bước đi, tốc độ thích hợp với đặc
điểm nước ta” (7).

144
Về việc thực hiện những nguyên tắc chung xây dựng chủ nghĩa xã hội theo Tuyên bố năm 1957,
Đảng Lao động Việt Nam khẳng định: “Sự phát triển của tình hình thế giới ngày càng chứng tỏ
những luận điểm nêu trong Tuyên bố và Bản Tuyên ngôn hòa bình Matxcơva năm 1957 là hoàn
toàn đúng đắn”(8).
Cùng với đó, vào tháng 9-1960, tại Đại hội III, Đảng đề ra đường lối chiến lược chung của cách
mạng Việt Nam. Dựa trên những nguyên tắc chung về hình thức, phương pháp, bước đi theo
kinh nghiệm của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đi trước, Đảng chính thức hoạch định
đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo miền Bắc bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa
tư bản đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong đó, xác định rõ tính chất và mục tiêu của cách
mạng xã hội chủ nghĩa: “Là một cuộc cách mạng triệt để nhất và sâu sắc nhất trong lịch sử loài
người. Nó xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xóa bỏ bóc lột và giai cấp bóc lột, thực hiện
công hữu về tư liệu sản xuất, mở đường cho sức sản xuất từ trình độ lạc hậu tiến lên trình độ hiện
đại... Nó không những là một cuộc cách mạng triệt để về kinh tế, chính trị, mà còn là một cuộc
cách mạng triệt để về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật” (9).
Công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phải là một quá trình cải biến cách mạng về
mọi mặt nhằm đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất
tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ chế độ sản
xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, từ tình trạng kinh tế rời rạc và lạc hậu, xây dựng
thành một nền kinh tế cân đối và hiện đại, làm cho miền Bắc tiến bộ mau chóng, thành cơ sở
ngày càng vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Đảng nhận thức rõ cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phải trải qua thời kỳ quá độ.
Lúc này, nhiệm vụ hàng đầu được đặt ra cho thời kỳ quá độ là: phá bỏ quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa, biến các tư liệu sản xuất trong tay tư bản thành của cải của xã hội. Cải tạo xã hội chủ
nghĩa ở nông thôn, biến kinh tế cá thể thành kinh tế tập thể, kinh tế sản xuất nhỏ thành kinh tế
sản xuất lớn. Xây dựng thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa lớn mạnh, đóng vai trò chủ đạo trong
việc cải tạo xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế quốc dân. Sau khi hoàn thành cải cách dân chủ, cải
tạo xã hội chủ nghĩa, sẽ tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, theo hướng đẩy mạnh
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, trong đó, ngành công nghiệp nặng được ưu tiên hàng đầu.
Quan hệ sản xuất được xác lập dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, với hai hình
thức sở hữu nhà nước và tập thể. Cùng với tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực
kinh tế,cách mạng xã hội chủ nghĩa được tiến hành đồng thời trên các lĩnh vực chính trị,tư tưởng,
văn hóa.
Để thực hiện được nhiệm vụ được đặt ra, Đảng đã sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm
nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ
công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp để phát triển nền kinh tế quốc dân. Đồng
thời thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách phát triển công nghiệp nặng một cách
hợp lý, bên cạnh đó, ra sức phát triển nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và đẩy mạnh cách mạng xã
hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa, xã hội trên toàn miền Bắc.
Bước đi của nước ta trên con đường quá độ luôn được Đảng xác định tiến nhanh, tiến mạnh và
tiến chắc lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, có thể đặt ra yêu cầu lâu dài cho sự nghiệp cách mạng

145
sẽ biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có nền kinh tế vững mạnh, đất nước công
nghiệp, hiện đại hóa cùng với văn hóa, khoa học phát triển bền vững.
Cùng với những mục tiêu tiến lên chủ nghĩa xã hội, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, của
Nhà nước là vô cùng cấp thiết. Cùng với đó, củng cố sự nhất trí về chính trị tinh thần của nhân
dân và tăng cường sự đoàn kết, hợp tác của các nước trong cùng phe xã hội chủ nghĩa, đồng thời,
mở rộng mối quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước có chế độ chính trị khác nhau và nhân dân
yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.
Có thể khẳng định, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã tác động lớn đến quá trình nhận thức và hình
thành đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng để lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc Việt Nam. Trong quá trình thực hiện, Đảng đã trung thành theo những nguyên tắc
chung về xây dựng chủ nghĩa xã hội của hệ thống xã hội chủ nghĩa, vận dụng vào quá trình chỉ
đạo các nhiệm vụ cụ thể trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đã tạo được
những thành tựu cơ bản trong bước đầu xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, đưa miền
Bắc trở thành hậu phương lớn chi viện cho miền Nam giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ, cứu nước.

● Thành tựu:

Công cuộc khôi phục kinh tế thắng lợi đã tạo cơ sở thuận lợi cho sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc vững bước tiến lên. Thực hiện theo chính sách, chủ trương của Đảng,
phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhanh chóng trở thành
cao trào trên toàn miền Bắc. Cuộc vận động hợp tác hóa trong nông nghiệp thu nhiều thành tựu
to lớn: tính đến cuối năm 1960, miền Bắc có hơn 85% hộ nông dân, với 68% diện tích ruộng đất
vào hợp tác xã nông nghiệp. Đối với cải tạo công thương nghiệp, tính đến năm 1960, miền Bắc
có 783 hộ tiểu công nghiệp (100%), 826 thương nghiệp (97,1%) và 319 hộ có vận tải cơ giới
(99%) đã được cải tạo. Ngành thủ công nghiệp cũng từng bước được phục hồi và bắt đầu tổ chức
hợp tác xã.
Hơn hết, chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến vĩnh viễn bị thủ tiêu. Chế
độ sở hữu ruộng đất của nông dân được xác lập. Nông dân thực sự trở thành người chủ ở nông
thôn không chỉ về chính trị, mà cả về kinh tế.Khối liên minh công nông-nền tảng của chuyên
chính vô sản-được củng cố một bước

*Sự phát triển đường lối và khái quát quá trình lãnh đạo của Đảng trong kháng
chiến chống Mỹ,cứu nước 1954-1975
Để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống lại đế quốc Mỹ - một kẻ thù có tiềm lực mạnh về
kinh tế, quân sự đứng đầu phe chủ nghĩa đế quốc cùng với bè lũ tay sai, trên cơ sở đánh giá đúng
bản chất, âm mưu và hành động của kẻ thù; đánh giá lực lượng so sánh đôi bên với quan điểm
cách mạng và khoa học; bám sát diễn biến thực tế của tình hình chiến trường trong nước, khu
vực và thế giới; vững tin vào lòng yêu nước và sức mạnh to lớn của nhân dân, Đảng ta đã đề ra
đường lối chiến tranh nhân dân để lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiến hành

146
sự nghiệp giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất Tổ quốc. Đường lối ấy của Đảng
không ngừng được bổ sung, ngày càng hoàn chỉnh, là nhân tố quyết định trực tiếp thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đường lối chiến tranh nhân dân trong thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước là quá trình hình thành, bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh qua các Đại
hội, Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị từ năm 1954 đến năm 1975.
Khi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta kết thúc, đế quốc Mỹ đã từng bước thực hiện
âm mưu xâm lược nước ta. Trước tình hình đó, tại Hội nghị Trung ương 6 khóa II (6 - 1954)
Đảng ta đã xác định: Kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới và đang trở thành
kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương là đế quốc Mỹ. Về sách lược cách mạng, Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: Do tình hình mới, ta thay đổi phương châm, chính sách
và sách lược đấu tranh cốt để thực hiện một cách thuận lợi mục đích trước mắt.
Đến tháng 9 năm 1954, Nghị quyết của Bộ Chính trị về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính
sách mới của Đảng đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tình hình trong lúc cách mạng Việt
Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến tranh chuyển sang hoà bình; nước nhà tạm chia
làm hai miền; từ nông thôn chuyển vào thành thị; từ phân tán chuyển đến tập trung. Trong điều
kiện đó, Hội nghị Trung ương 7 khóa II (3 - 1955) và Trung ương 8 khóa II (8 - 1955) đã xác
định phương hướng, nhiệm vụ của cuộc chiến tranh: “Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng
cố hoà bình, thực hiện thống nhất hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng
cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam”1.
Tiếp đến Hội nghị Trung ương 13 khóa II (12 - 1957) của Đảng xác định đường lối tiến hành
đồng thời hai chiến lược cách mạng: “Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước
nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước”2.
Cuối năm 1958 đầu năm 1959, Mỹ - Diệm tiến hành chính sách cai trị tàn bạo, phát xít hóa, đàn
áp khốc liệt phong trào cách mạng ở miền Nam. Thực tiễn đòi hỏi nhân dân miền Nam phải vùng
lên đấu tranh với kẻ thù. Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II tổ chức
Hội nghị Trung ương 15 (1 - 1959) họp bàn về cách mạng miền Nam. Nghị quyết phân tích rõ
tính chất, mâu thuẫn trong xã hội miền Nam. Từ đó, xác định rõ lực lượng cách mạng, kẻ thù,
nhiệm vụ của cách mạng miền Nam; xác định phương pháp cách mạng và con đường mới; dự
kiến về khả năng phát triển của tình hình, xây dựng mặt trận để tập hợp rộng rãi tất cả các lực
lượng chống đế quốc và tay sai, khẳng định sự tồn tại và trưởng thành của Đảng bộ miền Nam là
yếu tố quyết định giành thắng lợi của cách mạng miền Nam.
Đại hội đại biểu lần thứ III (9 - 1960), của Đảng diễn ra trong hoàn cảnh đất nước vẫn tạm thời
chia làm hai miền, mỗi miền có một chế độ chính trị khác nhau. Miền Bắc quá độ lên xã hội chủ
nghĩa, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để tiến tới thống nhất đất
nước. Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng Việt Nam: “Tăng cường đoàn kết toàn
dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất
nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc

147
lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà
bình ở Đông Nam Á và thế giới”3.
Nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược.
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và
dân chủ trong cả nước.
Mục tiêu chiến lược: Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam
thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền
trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai nhiệm vụ đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung
của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu chung
trước mắt là hoà bình, thống nhất Tổ quốc.
Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá sản của chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã ào ạt đưa quân Mỹ và quân các nước chư hầu vào miền
Nam, tiến hành cuộc “Chiến tranh cục bộ” với quy mô lớn; đồng thời dùng không quân, hải quân
tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương
11 (3 - 1965) và Hội nghị Trung ương 12 (12 - 1965) đã phân tích âm mưu, bản chất của đế quốc
Mỹ, đã đánh giá so sánh lực lượng giữa ta và địch, đi tới kết luận: Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào
miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch không thay đổi lớn.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định quyết tâm và nhiệm vụ chung của cả nước lúc này là:
Kiên quyết giữ vững thế chiến lược tiến công, động viên lực lượng cả nước, quyết tâm đánh bại
cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Tập trung lực lượng cả nước, kết hợp đấu tranh quân
sự và đấu tranh chính trị đánh bại đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai trên chiến trường chính là miền
Nam.
Đối với chiến trường chính miền Nam, Nghị quyết xác định phương châm chiến lược là đánh lâu
dài, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương
đối ngắn, đồng thời hết sức tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ của quốc tế.
Đối với miền Bắc, phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế
quốc Mỹ, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải tích cực đề phòng để đánh địch
trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước. Thực hiện chuyển
hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc
phòng trong điều kiện có chiến tranh phá hoại. Động viên sức người, sức của ở mức cao nhất để
chi viện đắc lực cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam.
Trước những thất bại liên tiếp của địch trên chiến trường, Đảng ta chủ trương: Cùng với các mũi
tiến công quân sự và chính trị, cần mở thêm mặt trận tiến công ngoại giao, nhằm tố cáo, vạch
trần thủ đoạn hòa bình kiểu lừa bịp của đế quốc Mỹ. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 13 (khóa
III) (tháng 01 - 1967) quyết định triệt để tận dụng thời cơ, mở mặt trận ngoại giao, kết hợp chặt
chẽ với đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị nhằm đưa cuộc kháng chiến lên bước phát triển
mới.

148
Sau khi Hiệp định Pari được ký (1 - 1973), địch tiến hành nhiều hoạt động lấn chiến và phá hoại
Hiệp định. Trước tình hình đó, tháng 7 - 1973, Hội nghị TƯ Đảng lần thứ 21, khoá III họp và ra
Nghị quyết lịch sử: "Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ
của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới”; Hội nghị xác định: “con đường của cách mạng
miền Nam là con đường cách mạng bạo lực, bất kể trong tình huống nào phải nắm vững thời cơ,
giữ vững chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt”4.
Hội nghị Bộ Chính trị (đợt 1) bàn về chủ trương giải phóng hoàn toàn miền Nam (10 - 1974), và
Hội nghị Bộ Chính trị (đợt 2) (từ ngày 8 - 12 - 1974 đến ngày 7 - 1 - 1975), chỉ rõ: Nắm vững
thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc
cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới Tổng
tiến công và nổi dậy, thắng địch tại sào huyệt quan trọng nhất của chúng là Sài Gòn.
Như vậy, đường lối chiến tranh nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 -
1975) là quá trình hình thành, bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh qua các Hội nghị và Đại hội của
Đảng từ năm 1954 đến năm 1975, đó là đường lối chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa
vào sức mình là chính, và được tập trung trên những nội dung chủ yếu: Xác định mục đích, đối
tượng, nhiệm vụ chiến tranh là đánh thắng đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam,
bảo vệ miền Bắc; về chủ trương phát huy sức mạnh tổng hợp hai miền Nam, Bắc, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; và chủ trương tiến hành phương thức tiến hành chiến tranh
nhân dân với đặc trưng nổi bật kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự và đấu tranh
ngoại giao; kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh lớn, đánh vừa và
đánh nhỏ, thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ; tiến lên thực hiện tổng
tiến công và nổi dậy để giành thắng lợi cuối cùng, cả nước hòa bình, thống nhất, đi lên chủ nghĩa
xã hội. Đường lối chiến tranh độc đáo, sáng tạo đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn và vận dụng sáng
tạo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh cách
mạng với truyền thống và tinh hoa về nghệ thuật đánh giặc, giữ nước của tổ tiên và những kinh
nghiệm về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của các nước xã hội chủ nghĩa và của thế giới. Đó cũng
là nhân tố có ý nghĩa quyết định trực tiếp giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân ta trong thế kỷ XX.

*Đặc điểm,ý nghĩa thắng lợi và những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong
kháng chiến chống Mỹ,cứu nước
● Đặc điểm

a) Đây là cuộc chiến tranh lâu dài, quyết liệt được tiến hành trong hoàn cảnh:
– Ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược thực dân cũ của đế quốc Pháp, đã giành được
thắng lợi oanh liệt ở Điện Biên Phủ. Đảng và nhân dân ta đã có những kinh nghiệm và có lực
lượng vũ trang khá lớn mạnh.
– Tuy lúc đầu ở miền Nam, lực lượng của ta còn chưa mạnh, song ta có miền Bắc đi lên chủ
nghĩa xã hội làm hậu phương, căn cứ địa cho cả nước.
– Có sự giúp đỡ ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là của Liên Xô, Trung Quốc và nhân
dân thế giới.
b) Là cuộc chiến đấu không cân sức giữa hai quốc gia có tiềm lực kinh tế, quân sự khác nhau

149
– Là tiêu điểm của cuộc đụng đầu lịch sử giữa hai hệ thống xã hội, hai hệ tư tưởng đối nghịch
nhau không dễ thoả hiệp, không dễ chấp nhận thất bại, nên nó mang tính chất thời đại.
– Ta chống Mỹ trong hoàn cảnh đất nước bị chia làm hai miền, nên vừa phải giải quyết những
vấn đề của chiến tranh lại vừa giải quyết những vấn đề về kinh tế, phải tiến hành đồng thời và kết
hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng nhằm vào một mục tiêu chung trước mắt là
thống nhất Tổ quốc.

● Ý nghĩa lịch sử

- Đối với trong nước:


+ Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước thắng lợi đã kết thúc 21 năm chiến đấu chống Mĩ cứu
nước, đồng thời kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 - 1975), chấm
dứt vĩnh viễn ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến, rửa sạch nỗi nhục và nỗi
đau mất nước hơn 1 thế kỷ qua. Trên cơ sở đó, hoàn thành về cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước, bảo vệ thành công chủ nghĩa xã hội của miền Bắc, xóa bỏ mọi cản trở
trên con đường thống nhất nước nhà.
+ Thắng lợi này đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên độc lập dân tộc và cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc ta.
-Đối với thế giới:
+ Thắng lợi của nhân dân ta và thất bại của đế quốc Mĩ có tác động lớn đến nội bộ nước Mĩ và
cục diện thế giới, có ảnh hưởng và là nguồn cổ vũ lớn đối với phong trào cách mạng trên thế
giới, các dân tộc đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc để tự giải phóng cho mình.
+ Thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã được Đảng ta
khẳng định “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất,
một biểu tượng sáng ngời về sự toàn- thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con
người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm
quan trọng quốc tế và có tính thời đại sâu sắc”

● Kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng

1. Kiên định quyết tâm, quyết đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Đó là một quyết tâm vĩ đại được khẳng định từ đầu và luôn luôn kiên định trong suốt cuộc
kháng chiến chống Mỹ. Quyết tâm ấy được bắt nguồn từ lòng yêu nước nồng nàn, ý kiến kiên
cường bất khuất, ý thức làm chủ vận mệnh đất nước của người Việt Nam, được hun đúc từ ngàn
đời nay.
2. Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ.
Đại hội lần thứ IV của Đảng đã khẳng định: “Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân ta trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập,

150
tự chủ đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta”.Đường lối đó được thể hiện trong một loạt chủ trương
mang tính hệ thống, kết hợp những vấn đề về nguyên tắc, chiến lược với những vấn đề về sách
lược và phương pháp, hình thành một giải pháp tối ưu đưa cách mạng và kháng chiến tiến lên
một cách vững chắc, từ giai đoạn mở đầu đến giai đoạn kết thúc. Nó tạo nên sức chiến đấu to lớn
của cả nước, của toàn dân tộc, đồng thời tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ sâu rộng và mạnh mẽ
nhất của thế giới trong điều kiện quốc tế rất phức tạp, đảm bảo quân và dân ta đánh thắng từng
bước, tiến lên đánh thắng hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.
3. Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân sáng tạo.
Đó là nghệ thuật động viên, tổ chức toàn dân, cả nước tiến hành chiến tranh với hai lực lượng
quân sự và chính trị, hai hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, chiến tranh cách
mạng và khởi nghĩa của quần chúng, tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công trong đó đòn tiến
công quân sự có ý nghĩa quyết định, làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ...
4. Tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, công tác tổ chức đã được triển khai với quy mô rộng
lớn chưa từng có trong lịch sử chiến tranh nước ta. Đó là công tác xây dựng, phát triển lực lượng
chính trị, lực lượng vũ trang, đó còn là hình thức và phương thức xây dựng các tổ chức Đảng,
chính quyền, quần chúng ở cả hai miền Nam, Bắc; tổ chức hậu phương lớn, tổ chức các căn cứ
kháng chiến tại chỗ ở miền Nam; tổ chức chiến trường...
5. Xây dựng căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng chiến vững chắc,phát huy vai trò
của hậu phương lớn và hậu phương tại chỗ.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Bắc vừa là căn cứ địa cách mạng
của cả nước, vừa là hậu phương lớn của cuộc kháng chiến, vừa là tiền tuyến trực tiếp chiến đấu
quyết liệt với không quân và hải quân Mỹ. Miền Bắc còn là nơi đặt các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy
của Đảng và của Bộ Tổng tư lệnh, lãnh đạo toàn bộ cuộc cách mạng Việt Nam và điều hành chỉ
huy chiến tranh trên cả hai miền Nam - Bắc.
Đảng ta còn chăm lo xây dựng và mở rộng những vùng căn cứ, vùng giải phóng ngay tại
chiến trường làm hậu phương tại chỗ. Các vùng giải phóng, căn cứ hậu phương tại chỗ có thế
liên hoàn trên cả 3 vùng chiến lược, nối liền với hậu phương lớn miền Bắc, cùng với căn cứ hậu
phương của hai nước Lào, Campuchia dựa lưng vào nhau thành thế mạnh của chiến trường Đông
Dương.
Chú trọng xây dựng tuyến đường giao thông, vận chuyển chiến lược giữa Việt Nam, Lào,
Campuchia. Tuyến vận tải 559 - đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là biểu tượng ý chí và
nghị lực lớn lao của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”.
6. Phát huy sức mạnh đoàn kết chiến đấu của ba dân tộc Việt Nam, Lào,Campuchia để
cùng nhau đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Phát huy truyền thống láng giềng anh em gắn bó về lịch sử, địa lý, kinh tế, đã chủ động đoàn
kết, liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia chiến đấu, chiến thắng kẻ thù chung là đế
quốc Mỹ.

151
Đoàn kết, liên minh chiến đấu với Lào, Campuchia đã góp phần đem lại thắng lợi to lớn trong sự
nghiệp đấu tranh chống kẻ thù chung của ba nước Đông Dương để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc.
7. Đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh của thời đại gắn với sức mạnh dân tộc.
Đảng ta ra sức tăng cường đoàn kết quốc tế, phát huy tối đa sức mạnh của thời đại, coi đó là
một bộ phận hợp thành của đường lối chống Mỹ, cứu nước và đặt hoạt động đối ngoại, đấu tranh
ngoại giao thành một mặt trận có tầm quan trọng chiến lược góp phần tạo nên sự vượt trội về thế
và lực của nhân dân ta để đánh thắng kẻ thù.
8. Bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xét cho cùng, là thắng lợi của nhân tố
con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước phát triển ở một tầm cao mới. Bản sắc, văn hóa con người Việt Nam được tạo
thành từ tố chất mới hòa quyện dân tộc và giai cấp, truyền thống và hiện đại, thừa kế gia sản vĩ
đại của một dân tộc anh hùng, tiếp tục làm vẻ vang dân tộc, đưa dân tộc Việt nam lên ngang tầm
của thời đại mới

152
CHƯƠNG 3
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI VÀ TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (TỪ NĂM 1975
ĐẾN NAY)
I-Lãnh Đạo Cả Nước Xây Dựng Chủ Nghĩa Xã Hội Và Bảo Vệ Tổ
Quốc (1975-1986)
1. Xây dựng CNXH và bảo vệ TQ 1975-1981
*Khái quát quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước và quá trình tìm
con đường đổi mới đất nước?

153
154
155
156
157
158
159
160
161
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các bước đột phá tiếp
tục đổi mới kinh tế 1982-1986
*Quá trình tìm tòi khảo nghiệm đường lối đổi mới về kinh tế của Đảng Cộng
Sản Việt Nam?

162
163
164
*Phân tích các bước đột phá đổi mới (sự tìm tòi,thử nghiệm trước đổi mới)
● Bước đột phá đầu tiên(8/1979): làm cho sản xuất bung ra

a)Hoàn cảnh
Trước đổi mới, do áp lực gay gắt của tình hình trong nước và quốc tế buộc chúng ta
không còn con đường nào khác phải tiến hành đổi mới. Hoạt động đầu tiên để tiến hành
đổi mới chính là đổi mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh tế.
b)Nội dung
Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (tháng 8-1979) với chủ trương và quyết tâm làm cho sản
xuất "bung ra" là bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở nước ta. Hội nghị đã tập
trung vào những biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế và cải
tạo xã hội chủ nghĩa; điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ rào cản,
mở đường cho sản xuất phát triển: ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra
được bán cho Nhà nước hoặc lưu thông tự do; khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ,

165
ruộng đất hoang hoá; đẩy mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi hình thức (quốc doanh, tập
thể, gia đình); sửa lại thuế lương thực, giá lương thực để khuyến khích sản xuất; sửa lại
chế độ phân phối trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối phân phối theo định suất,
định lượng để khuyến khích tính tích cực của người lao động,...
Trên cơ sở đó, Chỉ thị 100-CT/TW, ngày 13-1-1981 của Ban Bí thư về cải tiến công tác
khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông
nghiệp đã ra đời, làm cho người lao động thực sự gắn bó với sản phẩm cuối cùng, do đó
mà đem hết nhiệt tình lao động và khả năng ra sản xuất, đã bước đầu tạo ra một động lực
mới trong sản xuất nông nghiệp.
Trên lĩnh vực công nghiệp, với Quyết định 25/CP, ngày 21-1-1981 của Hội đồng Chính
phủ, cùng với Quyết định 26/CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản
phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh, được áp
dụng, bước đầu tạo ra động lực mới cho lĩnh vực công nghiệp..
c)Ý nghĩa
Có thể nhìn nhận những tư duy đột phá về kinh tế được thể hiện trong Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 6 khoá IV, trong Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư và trong các Quyết
định của Chính phủ thời kỳ này như sau:
- Đó là những tư duy kinh tế ban đầu, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng là
bước mở đầu có ý nghĩa quan trọng.
- Tư duy kinh tế nổi bật trong những tìm tòi đó là “cởi trói”, "giải phóng lực lượng sản
xuất" , “làm cho sản xuất bung ra”, trên cơ sở khắc phục những khuyết điểm trong quản
lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra động lực cho sản xuất : chú ý kết hợp ba
lợi ích, quan tâm hơn lợi ích thiết thân của người lao động. Những tư duy kinh tế ban đầu
đó đã đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới sau này.
Tuy nhiên, do những khó khăn bởi chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam gây ra, do thiếu
đồng bộ của tư tưởng đổi mới và chưa có đủ thời gian để những chủ trương đổi mới
phát huy tác dụng, những tìm tòi đổi mới ban đầu đó đã phải trải qua các thử thách rất
phức tạp. Tư duy cũ về kinh tế hiện vật còn ăn sâu, bám rễ trong nhiều người. Bên cạnh
những tư duy cũ trên đây, trước đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống, cũng đã xuất hiện
166
khuynh hướng muốn đổi mới mạnh mẽ hơn, tiếp tục đẩy tới tư duy thừa nhận sản xuất
hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá trong chủ nghĩa xã hội.

● Bước đột phá thứ hai(6/1985):

a)Hoàn cảnh
Sau bước đột phá đầu tiên của cả quá trình tư duy đổi mới, Hội nghị Trung ương lần thứ 6, khóa

IV (1979), cùng với “những chủ trương đổi mới từng phần trên lĩnh vực kinh tế - xã hội” Đảng
ta đã đưa ra nhiều quyết định mới “về việc tận dụng đất đai, cải tiến quản lý nông nghiệp, cải tiến
công tác phân phối và lưu thông được nhân dân đón nhận và đạt nhiều chuyển biến tốt đẹp”
Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế cơ bản như việc thực hiện trình tự chưa hợp lý vấn đề cải tiến
công các phân phối, lưu thông ( bước phải thực hiện trước) rồi mới khuyến khích sản xuất ( bước
dựa trên cơ sở của phân phối, lưu thông mà thực hiện sau đó). Đổi mới từng phần nền kinh tế
trên nền mô hình chủ nghĩa xã hội cũ, chế độ quan liêu bao cấp vẫn được giữ lại làm cho vấn đề
về giá và lương càng trở lên nóng hổi khi sau chiến tranh nguồn vốn không hoàn trả cạn kiệt mà
đất nước ta vẫn phải đối mặt với việc phục hồi hậu quả chiến tranh. Tháng 5-1981, Bộ Chính trị
phát hiện ra thiếu sót ấy đã đề ra Chỉ thị số 109 để “điều chỉnh lại hệ thống giá cả và tiền lương
song không quán triệt được quan điểm xóa bỏ quan liêu bao cấp, cải tiến giá và lương một cách
nửa vời, đơn độc, chấp vá và không gắn với cải cách quản lý kinh tế, tổ chức sản xuất” . Làm cho
tình hình giá cả chuyển biến ngày càng xấu hơn. Giá cả lương không đủ để trả tiền thỏa đáng cho
cán bộ, công nhân. Nắm bắt được tình hình cấp bách đó mà tư tưởng đổi mới về tiền của Hội
nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa V là bước đột phá đầu tiên sau Đại hội V (1982)
b)Nội dung:
Hội nghị nhận định việc xóa bỏ quan liêu bao cấp trong giá và lương là nhiệm vụ hết sức cấp
bách, để đạt được điều đó cần phải đạt được những mục tiêu: “Thúc đẩy phát triển sản xuất theo
cơ cấu hợp lý (ngành, vùng, thành phần), khai thác tối đa tiềm năng lao động, đất đai; ổn định
đời sống nhân dân; góp phần từng bước tạo ra nguồn tích lũy; đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ
nghĩa”. Và các phương hướng như “tính đủ chi phí hợp lý trong giá thành sản phẩm, giá cả đảm
bảo bù đắp chi phí hợp lý, xóa bỏ tình trạng Nhà nước mua thấp, bán thấp và bù lỗ bất hợp lý,
thực hiện cơ chế một giá; tiền lương thực tế đảm bảo đời sống cho nhân dân, thực hiện trả lương
bằng tiền, chế độ lương thống nhất có tính đến sự khác biệt hợp lý; xác lập quyền tự chủ về tài
chính của các ngành kinh tế - kĩ thuật; chuyển từ quan liêu bao cấp sang hạch toán kinh tế và
kinh doanh xã hội chủ nghĩa” .
Từ đó Hội nghị xác định những chủ chương và biện pháp lớn:
Về giá cả, Hội nghị nhấn mạnh việc điều chỉnh mặt bằng giá cả, bao gồm cả các quan hệ tỷ giá
và cơ chế quản lý giá phải dựa trên những nguyên tắc sau: “Phù hợp với sức mua thực tế; định
giá dựa trên kế hoạch, thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, vận dụng quy

167
luật giá trị và quan hệ cung – cầu; coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, phải lấy giá thóc làm
chuẩn; phân công, phân cấp hợp lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ phù hợp với thực tế”8 .
Dựa trên những nguyên tắc đó Đảng ta chia rõ ràng từng chủ trương cấp thiết phải đổi mới như :
“Giá mua lương thực và nông sản; các yếu tổ chi phí, giá thành công nghiệp cần được tính đủ,
tính đúng; giá buôn hàng công nghiệp ( vật tư và hàng tiêu dùng); giá bán lẻ; cơ chế quản lý giá”
Về lương, Hội nghị nêu ra nguyên tắc về chủ trương, chính sách là “quán triệt nguyên tắc phân
phối theo lao động” , “xóa bỏ bao cấp, dần khắc phục chênh lệch bất hợp lý và tính chất bình
quân; phải cải thiện đời sống của công dân và các lực lượng vũ trang; khôi phục lại trật tự về
lương, thưởng”Và Đảng ta đưa ra những chủ trương như sau: “Bãi bỏ chế độ cung cấp hiện vật
theo giá bù lỗ, chuyển sang chế độ trả lương bằng tiền, xác định lại hệ thống lương cơ bản trên
phạm vi cả nước; sắp xếp lại các mức lương, phụ cấp, tiền thưởng; phụ cấp đắt đỏ phải được
trung ương thống nhất quy định cho từng vùng; điều chỉnh chế độ trợ cấp xã hội”.
Về tài chính và tiền tệ, Hội nghị xác định vấn đề tài chính và lưu thông tiền tệ cần phải được
chấn chỉnh đồng thời cùng giá và lương, và các chủ trương là: “Phấn đấu hạ giá thành và phí lưu
thông, giữ chắc và huy động mạnh mẽ các nguồn thu cho ngân sách nhà nước trên cơ sở phát
triển sản xuất và cải tiến quản lý; thực hiện chế độ tự chủ tài chính; điều chỉnh mối quan hệ giữa
ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, thực hiện chế độ phân cấp ngân sách trên cơ sở
ba cấp cùng làm chủ (toàn xã hội, tập thể, cá nhân); cải tiến lưu thông tiền tệ; kiểm soát bằng
đồng tiền và lỷ luật tài chính”.
c)Ý nghĩa
Qua nội dung nghị quyết Hội nghị Trung ương này ta đã thấy rõ từng bước tiến của Đảng ta
trong đổi mới tư tưởng kinh tế. Từ thực tiễn và kinh nghiệm xương máu, Đảng và Nhà nước ta
đã có những chuyển hướng mạnh mẽ, sâu sắc trong chủ trương, chính sách thể hiện trong sự rõ
ràng, rành mạch và logic giữa vấn đề và biện pháp giải quyết từ giá cả, tiền lương cho đến
thương nghiệp, tài chính, tiền tệ và đến cả cơ chế kế hoạch hóa và quản lý kinh tế. Tất cả bởi
Đảng ta thấy rõ nền kinh tế bao cấp không còn phù hợp và thấy được tiềm năng của nền kinh tế
thị trường, cũng như có cái nhìn mới, đúng đắn về con đường quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Tạo
điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nước nhà phát triển lên một bước . Không những vậy, việc
đổi mới này mang ý nghĩa cách mạng mà cuộc cách mạng ấy cả Đảng, cả dân cùng đồng lòng, từ
đó phát huy truyền thống quý báu của dân tộc là đoàn kết.

● Bước đột phá thứ ba(8/1986):

a)Hoàn cảnh
Ta không thể phủ nhận rằng nghị quyết của Hội nghị lần thứ 8 khóa V là một bước đột phá lớn
trong tư tưởng đối mới nền kinh tế, nhưng việc tổ chức và triển khai những chính sách đó của
Đảng ta vẫn mắc phải những sai lầm như “vội vàng đổi tiền và tổng điều chỉnh giá lương” trong
khi bối cảnh thực tiễn vẫn chưa sẵn sàng về mọi mặt cho sự thay đổi đột ngột đó. Bởi vậy mà tư
tưởng thì đúng đắn, nhưng hành động lại sai lầm làm cho tình hình kinh tế trở lên khủng hoảng
nghiêm trọng hơn. Gánh hậu quả nghiêm trọng, Đảng ta một lần nữa ngồi lại để xem xét tình

168
hình thật kĩ lưỡng và lần này Hội nghị Bộ Chính trị (8-1986) đã đưa ra kết luận “ Về một số vấn
đề thuộc quan điểm kinh tế” – bước đột phá thứ hai sau Đại hội V trong đổi mới tư duy.
b)Nội dung
Những kết luận của Bộ Chính trị lần này được khẳng định là một bước đột phá mới vô cùng quan
trọng về tư duy kinh tế của Đảng ta. Bộ Chính trị nhấn mạnh ta cần tiếp tục suy nghĩ, tổ chức
nghiên cứu lý luận và tổng hết thực tiễn để nhận thức của ta phù hợp hơn với thực tiễn, và chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.
Về cơ cấu kinh tế, Hội nghị cho rằng, một nền kinh tế có cơ cấu hợp lý mới có thể phát triển ổn
định, và việc bố trí cơ cấu ngành kinh tế, sản xuất, đầu tư là những vấn đề quan trọng hàng đầu.
Ta cũng đã xác định rõ trong chặng đường dầu tiên của thời kỳ quá độ tại mục tiêu trong Đại hội
lần thứ V là “lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, đồng thời phát triển công nghiệp nhẹ và
vừa”. Đó là quan điểm đúng đắn, nhưng chúng ta đã mắc nhiều sai lầm, khuyết điểm trong việc
bố trí cơ cấu kinh tế, đầu tư và không thực hiện được những mục tiêu tại Đại hội V đã đề ra;
chúng ta muốn đi nhanh nhưng lại thành đi đường vào và kéo dài thời gian ở chặng đường đầu
tiên. Hội nghị chỉ rõ ra rằng, ta đã chủ quan, nóng vội trong 5 năm (1976-1980) khi đề ra một số

chỉ tiêu quá lớn về quy mô và nhịp độ. Hậu quả là “sản xuất dẫm chân tại chỗ, năng suất lao
động giảm, chi phí sản xuất tăng cao, kinh tế - xã hội càng không ổn dịnh”14 . Trong 5 năm sau
đó, ta đã tập trung hơn vào những công trình trọng điểm nhưng về căn bản vẫn do dự và chưa
điều chỉnh lại cơ cấu kình tế được phù hợp. Do đó, cần thực hiện các điều chỉnh lớn đối với cơ
cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư: “lấy nông nghiệp làm đầu tàu và tập trung vào định hướng thực sự
của ngành, phát triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng phải có chọn lọc; tập trung vào quy
mô vừa và nhỏ và nhanh chóng cải thiện hiệu quả,hục vụ đắc lực cho phát triển nông nghiệp,
công nghiệp nhẹ và lối ra. Theo hướng này, chúng ta phải tập trung toàn lực, trước hết là kinh
phí, vật lực, đầu tư và thực hiện ba kế hoạch quan trọng nhất về lương thực, thực phẩm, mặt hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu”
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, Bộ Chính trị cho rằng, ta chưa nắm vững quy luật đẩu mạnh cải tạo
xã hội chủ nghĩa là việc cần phải thực hiện thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ. Bởi
vậy, nên chúng ta cần đi dần dần, không cần vội vàng, nhảy bước; và cần nhận thức đúng đắn
nền kinh tế của chúng ta lúc này là nền kinh tế nhiều thành phần, từ đó mới có thể tiến thành
đúng đắn những chiến sách, chiến lược để tận dụng và phát triển nguồn nhân lực; cải tiến chế độ
quản lý, phân phối.
Về cơ chế quản lý kinh tế, Hội nghị cho rằng, việc đổi mới và bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi,
phù hợp với nhau thì mới tạo ra động lực lớn nhất thúc đẩy nền sản xuất phát triển. Hội nghị
cũng đưa ra: “Đổi mới kế hoạch hóa theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật
kinh tế, đồng thời phát huy đúng đắn các quy luật của nền kinh tế thị trường; làm cho các đơn vị
kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh; phân biệt chức năng quản lý hành chính của
Nhà nước với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế; phân công, phân

169
cấp bảo đảm các quyền của Nhà nước, quyền chủ động của địa phương, quyền tự chủ sản xuất
kinh doanh”
c)Ý nghĩa
Bản kết luận của Bộ Chính trị không chỉ là bước tiến tiếp theo trong công cuộc đổi mới tư duy
nền kinh tế mà còn là bước đột phá quan trọng quyết định đường lối đổi mới toàn diện tại Đại
hội lần thứ VI (12-1986).
Thông qua quan sát thực tiễn và kinh nghiệm, bản kết luận đã chỉ rõ và thừa
nhận những sai lầm của Đảng và đưa ra những nhận thức đúng đắn và rõ ràng
hơn về tình hình hiện tại của đất nước, cũng như đưa ra những giải pháp đúng
đắn đặt cơ sở cho đường lối đổi mới sau này.

170
II-Lãnh Đạo Công Cuộc Đổi Mới, Đẩy Mạnh Công Nghiệp Hóa,
Hiện Đại Hóa Và Hội Nhập Quốc Tế (Từ 1986 Đến Nay)
1. Đổi mới toàn diện,đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tê-xã hội
1986-1996
* Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa và nội dung cơ bản về đường lối
công nghiệp hoá của Đảng từ ĐH VI đến ĐH XII?

171
172
173
174
* Quá trình hình thành đường lối kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trình
bày mục tiêu, quan điểm và một số chủ trương cơ bản của Đảng về hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN?

175
176
177
178
*Trình bày quá trình đổi mới tư duy của Đảng về hệ thống chính trị và mục
tiêu, quan điểm,chủ trương của Đảng về xây dựng hệ thống chính trị trong thời
kỳ đổi mới?

179
180
*Trình bày quá trình đổi mới tư duy, các quan điểm chủ trương của Đảng trong
phát triển nền văn hóa và giải quyết các vấn đề xã hội?

181
182
183
184
185
*Trình bày đường lối đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới và những quan
điểm, chủ trương của Đảng trong mở rộng quan hệ, hội nhập quốc tế?

186
187
188
*Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991 và bổ
sung năm 2011)

189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
2.Tiếp tục công cuộc đổi mới,đẩy mạnh công nghiệp hóa,hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế 1996-2018
*Nội dung Đường lối toàn diện của Đại hội VI (12-1986) và quá trình thực
hiện.

199
200
201
202
*Nội dung Đường lối toàn diện của Đại hội VI (12-1986) và quá trình thực
hiện.

203
204
205
206
207
3.Thành tựu,kinh nghiệm của công cuộc đổi mới
*Vai trò lãnh đạo của Đảng vs sự nghiệp đổi mới,CNH,HĐH và hội nhập quốc
tế (1986-2018)

208
209
210
211
212
*Trình bày những bài học lớn về sự lãnh đạo của đảng từ khi ra đời cho đến
nay
Một, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung chủ đạo, xuyên suốt trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, là quan điểm nhất quán của Đảng, là vấn đề có tính chiến lược của cách mạng
Việt Nam. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng từ khi thành lập Đảng đến nay, mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã được thực hiện với nội dung, hình thức, bước
đi phù hợp với đặc điểm mỗi thời kỳ cách mạng, khơi dậy, phát huy sức mạnh của dân tộc và
thời đại, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi to lớn của dân tộc Việt Nam.

213
            Trong giai đoạn cách mạng 1930 – 1945, độc lập dân tộc là nhiệm vụ trọng tâm trước
hết, đấu tranh giành độc lập dân tộc là nội dung chủ đạo, được tiến hành theo lập trường của
giai cấp

vô sản, chủ nghĩa xã hội chưa được đặt ra trực tiếp mà là phương hướng tiến lên. Và để đạt
được mục tiêu chủ nghĩa xã hội, trước tiên phải giành độc lập dân tộc. Đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu chính là quan điểm đúng đắn, sáng tạo, là yếu tố xuyên suốt và có ý
nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền và
đấu tranh giải phóng dân tộc nói chung.

            Trong giai đoạn vừa kháng chiến, vừa kiến quốc 1945 – 1954, Đảng ta xác định chiến
lược của cách mạng là bảo vệ độc lập dân tộc với tinh thần “Tổ quốc trên hết”, “Dân tộc trên
hết”. Đối với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng chủ trương tiến hành từng bước, sát
với tiến trình thực hiện nhiệm vụ chống đế quốc và phục vụ chống đế quốc. Đảng lãnh đạo
nhân dân nhanh chóng xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, chống giặc đói, giặc dốt,
không ngừng nâng cao nội lực cách mạng, là cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh chống thù
trong, giặc ngoài, bảo vệ chế độ, bảo vệ nền độc lập non trẻ, chuẩn bị kháng chiến.

            Trong thời kỳ 1954 – 1975, Đảng chủ trương tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược cách mạng là cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở
miền Nam.

            Năm 1975, sau nhiều thập kỷ đấu tranh gian khổ, dân tộc Việt Nam đã giành lại trọn vẹn
nền độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, mở ra thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, thời kỳ cả
nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh mới, những tiềm năng, lợi thế của hai miền
đất nước được huy động, tập trung cho sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhưng cũng
không ít nguy cơ ảnh hưởng đến nền độc lập của dân tộc, nguy cơ xâm phạm chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ. Do vậy, Đảng ta xác định phải thực hiện song hành độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Trong đó, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc là điều kiện để tiến lên chủ nghĩa
xã hội, tăng cường sức mạnh của chủ nghĩa xã hội để củng cố độc lập dân tộc. Xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt
chẽ với nhau.

            Như vậy, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội luôn được Đảng ta xác định là nhiệm vụ
quan trọng trong mọi giai đoạn cách mạng. Trong mỗi giai đoạn, tùy vào đặc điểm, tình hình,
Đảng ta có thể chủ trương tập trung thực hiện nhiệm vụ độc lập dân tộc hoặc chủ nghĩa xã hội
hoặc song hành cả hai.
Hai là, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong đấu tranh giành độc lập,
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
            Thành công nổi bật của Đảng Cộng sản Việt Nam là đề ra Cương lĩnh, đường lối chính
trị đúng đắn vì lợi ích của đất nước và dân tộc. Trên cơ sở đường lối đúng đắn mà tập hợp,
đoàn kết lực lượng của toàn dân tộc phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Đại đoàn kết là nguồn sức mạnh giúp dân tộc Việt Nam vượt qua những khó
khăn, thử thách để dựng nước và giữ nước. Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược nhất
quán của Đảng Cộng sản Việt Nam xuất phát từ nhận thức ngoài lợi ích của giai cấp, dân tộc
và nhân dân, Đảng không có mục đích nào khác. Đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng
vững chắc là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, đồng
thời đoàn kết rộng rãi các giai cấp, tầng lớp khác, đoàn kết 54 dân tộc trên đất nước Việt Nam,
đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết với cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

214
            Đại đoàn kết dân tộc dựa trên cơ sở lấy mục tiêu chung làm điểm tương đồng, đồng
thời bảo đảm lợi ích riêng của mỗi giai cấp, tầng lớp, bộ phận, cá nhân không trái với lợi ích
chung của dân tộc, đất nước. Đảng chú trọng xây dựng các hình thức tổ chức Mặt trận dân tộc
thống nhất để tập hợp đoàn kết rộng rãi mọi thành phần, lực lượng trong dân tộc, xã hội, đa
dạng hóa các hình thức tổ chức tập hợp quần chúng, nêu cao vai trò các đoàn thể nhân dân,
các hội quần chúng, nghề nghiệp. Đường lối và bài học đại đoàn kết dân tộc của Đảng là sự kế
thừa và phát triển truyền thống đoàn kết hình thành trong lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc, truyền thống gắn kết trong các hình thức cộng đồng, gia đình, dòng họ, làng xã đến
cộng đồng dân tộc, quốc gia. Đại đoàn kết dân tộc cũng là nối tiếp truyền thống nhân văn, nhân
ái, yêu thương đùm bọc lẫn nhau của dân tộc Việt Nam. Sự kết tinh các giá trị cao cả và sâu
sắc đó của chiến lược đại đoàn kết dân tộc trở thành một trong những nhân tố quyết định thắng
lợi của cách mạng và dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
            Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thấy động lực cách mạng từ
quảng đại quần chúng và xác định nhiệm vụ tổ chức, tập hợp, đoàn kết, coi đây là chiến lược
xuyên suốt, nhất quán, là cội nguồn sức mạnh trong mọi thời kỳ cách mạng. Ngay trong Sách
lược vắn tắt của Đảng năm 1930 đã ghi rõ: Đảng phải thu phục đại bộ phận và làm cho giai cấp
công nhân đóng vai trò lãnh đạo dân chúng, thu phục đại bộ phận và làm cho giai cấp nông
dân, đồng thời phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt,…
để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Chính đại đoàn kết dân tộc là nguồn sức mạnh to lớn góp
phần làm nên những thắng lợi vẻ vang của dân tộc, đưa đất nước đến bến bờ độc lập. Trong
quá trình đổi mới, xây dựng đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo con đường chủ nghĩa
xã hội, đoàn kết vẫn tiếp tục là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, luôn được nhấn mạnh qua các kỳ đại hội.
Gần đây nhất, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII khẳng định: “Đại đoàn kết dân tộc là
đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”1.
            Ba là, kết hợp nội lực với ngoại lực, sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
            Cương lĩnh, đường lối của Đảng ngay từ đầu đã tổ chức và động viên sức mạnh của
dân tộc, coi cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới, tranh thủ sự ủng hộ của
cách mạng thế giới. Trong Đường cách mệnh (1927) lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã
nêu rõ: "Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã". Trong cao trào giải
phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn thể quốc dân hãy đứng lên đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta. Nhờ phát huy sức mạnh, ý chí tự lực tự cường của cả dân tộc, nên đã chớp
được thời cơ thuận lợi dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong các cuộc
kháng chiến lâu dài giành độc lập, thống nhất hoàn toàn, Đảng đã triệt để phát triển sức mạnh
của dân tộc, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, đồng thời tranh thủ tối đa sự giúp đỡ,
ủng hộ quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi.
            Công cuộc đổi mới diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào khủng
hoảng và dẫn tới sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô.
Điều đó đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường,
nâng cao bản lĩnh chính trị để đứng vững trước khó khăn, thử thách và kiên định con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội, động viên cao độ nội lực. Mặt khác, Đảng Cộng sản Việt Nam tăng
cường củng cố sự đoàn kết các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, kiên định lập trường của chủ
nghĩa quốc tế trong sáng. Đề ra và thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước, thành
viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Đảng và Nhà nước cũng tranh thủ tối đa những
vấn đề mới của thời đại: Hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hóa, thành quả của cách mạng
khoa học, công nghệ, kinh nghiệm quản lí của các nước tiên tiến, những vấn đề về kinh tế tri

215
thức… Nội lực và sức mạnh dân tộc bao giờ cũng có ý nghĩa quyết định, song sức mạnh đó
được tăng cường khi có sự kết hợp đúng đắn với ngoại lực và sức mạnh của thời đại.
            Bốn là, sử dụng phương pháp cách mạng phù hợp với nhiệm vụ cách mạng và điều kiện
cụ thể của Đảng Cộng sản Việt Nam.
            Phương pháp cách mạng vừa là khoa học lãnh đạo vừa là nghệ thuật lãnh đạo trong
việc tổ chức, xây dựng các lực lượng và sử dụng các hình thức đấu tranh. Thực tế lịch sử
phong trào cách mạng của thế giới và Việt Nam cho thấy phương pháp cách mạng là yếu tố
quan trọng làm nên thắng lợi. Đồng chí Trường Chinh viết: “Lịch sử phát triển cách mạng thế
giới đã cho thấy một phong trào nào đó có khi bế tắc, không có lối ra, thậm chí thất bại không
phải vì không có mục tiêu và phương hướng rõ ràng, cũng không phải không tổ chức được lực
lượng cách mạng, mà chủ yếu vì thiếu phương pháp cách mạng và hình thức đấu tranh thích
hợp”2.
            Trong tiến trình lịch sử dân tộc, Đảng ta đã thực hiện phương pháp cách mạng đúng
đắn và sáng tạo. Phương pháp cách mạng luôn được thực hiện đúng quy luật, thuận lòng dân
và phù hợp thời đại. Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sử
dụng đúng đắn, linh hoạt một số phương pháp cách mạng chủ yếu như sau: phương pháp sử
dụng bạo lực cách mạng của quần chúng đấu tranh chống bạo lực phản cách mạng; phương
pháp thắng từng bước; phương pháp phát huy sức mạnh tổng hợp. Trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa, Đảng ta lựa chọn các phương pháp: Phát huy vai trò, sức mạnh của quần chúng
nhân dân; Tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có
bước đi và hình thức thích hợp; Tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, thách thức trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội; Phát huy sức mạnh tổng hợp.
            Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
            Đến nay, tròn 90 năm Đảng được hợp nhất, thành một tổ chức Đảng lãnh đạo cách
mạng. Ngày 3/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản họp ở bán đảo Cửu Long, thuộc
Hồng Kông (Trung Quốc) đã quyết định thống nhất các tổ chức cộng sản ở nước ta thành một
Đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là một bước ngoặt lịch sử trọng đại,
chấm dứt cuộc khủng hoảng kéo dài về tổ chức và đường lối của cách mạng Việt Nam.
            Từ đó đến nay, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đạt được nhiều thắng lợi quan trọng. Đó
là thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 xóa bỏ chế độ thuộc địa nửa phong
kiến, thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra kỉ nguyên mới của lịch sử dân
tộc, kỉ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường
Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước công
nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Là thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt chống đế
quốc, thực dân giành độc lập hoàn toàn, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Là thắng lợi
của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, không ngừng cải thiện đời
sống của nhân dân, nâng cao vị thế của đất nước, làm sáng tỏ nhận thức về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đến nay, Việt Nam đã trở thành một quốc gia
có quy mô dân số gần 100 triệu người với mức thu nhập bình quân 2.800 USD/người; đã tham
gia hầu hết các tổ chức quốc tế, trở thành một thành viên tích cực, có trách nhiệm trong các
hoạt động của cộng đồng quốc tế.
             Quả thật, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 là một bước ngoặt lịch sử
của cách mạng Việt Nam và thực tiễn cách mạng 90 năm qua đã chứng minh sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

216
            Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, những bài học kinh nghiệm trên đây vẫn có ý
nghĩa quan trọng quyết định sự thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhận thức,
vận dụng đúng đắn những bài học kinh nghiệm này vào quá trình phát triển đất nước vẫn là yêu
cầu hiện nay.

*Nêu Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Chủ trương Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định và thừa nhận Nhà
nước pháp quyền là một tất yếu lịch sử. Nhà nước pháp quyền không phải là một sản phẩm riêng
của xã hội tư bản chủ nghĩa mà là tinh hoa sản phẩm trí tuệ của xã hội loài người, của nền văn
minh nhân loại mà Việt Nam cần tiếp thu và học tập. Nhà nước pháp quyền không phải là một
kiểu hay một chế độ Nhà nước, mà đó là một cách thức tổ chức và phân công quyền lực Nhà
nước. Trong hệ thống chính trị thì nhà nước đóng vai trò trụ cột, xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa vững
mạnh mới đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân và giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với đất
nước và xã hội.

Đặc điểm cơ bản của Nhà nước pháp quyền Việt Nam:

● Một là, Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hộ chủ nghĩa là nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
● Hai là, trong nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
● Ba là, nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hộ chủ nghĩa được tổ chức và hoạt động trên cơ
sở Hiến pháp, pháp luật và đảm bảo các hiến pháp, các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong
điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
● Bốn là, nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hộ chủ nghĩa luôn tôn trọng và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lí giữa nhà nước với công dân,
tiến hành dân chủ đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
● Năm là, nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hộ chủ nghĩa là nhà nước do Đảng cộng sản
Việt Nam duy nhất lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân và sự phản
biện xã hội của mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận.

Biện pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:

● Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản
pháp luật, xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến hợp pháp trong
các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.
● Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của quốc hội, hoàn thiện cơ chế bầu cử, nhằm
nâng cao chất lượng đại biểu quốc hội, đổi mới quá trình xây dựng luật, giảm mạnh việc

217
ban hành pháp lệnh, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước và chức năng giám sát tối cao.
● Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của chính phủ theo hướng
xây dựng cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt hiện đại.
● Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ nghiêm minh, bảo
vệ công lí, quyền con người, tăng cường cơ chế giám sát, đảm bảo sự giám sát của nhân
dân đối với hoạt động tư pháp.
● Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp, đảm
bảo quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong quyết định và tổ chức thực hiện những
chính sách trong phạm vi được phân cấp

*Chủ trương, chính sách lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam về mở rộng quan hệ
đối ngoại, hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay?
Công tác đối ngoại là một mặt trận quan trọng ngang hàng với các mặt trận kinh tế, chính trị,
quân sự, văn hóa. Ngay từ trong cương lĩnh đầu tiên, Đảng đã khẳng định: cách mạng Việt Nam
là một bộ phận của cách mạng thế giới. Quan hệ quốc tế nhằm tranh thủ ngoại lực, phát huy sức
mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại trong thời kì mới để phát triển đất nước. Đoàn kết
quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, bình đẳng cùng có lợi, đoàn kết quốc tế
là một trong những bài học thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế:

● Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định bền vững.
● Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp
● Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế cho phù hợp
● Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả hiệu lực của bộ máy nhà nước
● Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập kinh tế
quốc tế
● Giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường trong quá trình hội nhập

● Giữ vững và tăng cường quốc phòng an ninh trong quá trình hội nhập
● Phối hợp chặt chẽ đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, chính
trị đối ngoại và đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị

218
219
220
221
*Tại sao phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là bước phát triển mới
về tư duy lý luận, sự vận dụng sáng tạo độc lập của Đảng?

222
223
224
225
*So sánh đường lối công nghiệp hoá của Đảng thời kỳ trước đổi mới và thời kỳ
đổi mới.

226
227
228
229
230
231

You might also like