You are on page 1of 81

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Hoạt động kinh tế và giáo dục đào tạo là hai trong những lĩnh vực cơ
bản của xã hội. Nếu như kinh tế là sự quan tâm trước tiên thì giáo dục đào tạo,
từ khi xuất hiện đến nay đã đóng vai trò hết sức quan trọng không c hỉ để mở
mang trí tuệ, tăng thêm sức mạnh cho hoa ̣t đô ̣ng kinh tế , cho các lĩnh vực
khác mà còn để truyền lại cho các thế hệ sau những nguồn sống, nguồn cảm
xúc của các thế hệ trước. Từ khi nước ta thực hiê ̣n công cuộc đổi mới đến
nay, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đã có những biến đổi. Hoạt động kinh
tế và giáo dục đào tạo cũng vậy. Vượt qua sự trì trệ của cơ chế cũ, nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã có những thành tựu được ghi nhận .
Từ cơ chế tập trung, kế hoạch hóa, bao cấp chúng ta đã chuyển sang cơ chế
thị trường. Chính từ đó, chúng ta đã khắc phục được sự trì trệ, ỉ lại, dựa dẫm
hoặc lợi dụng cơ chế để trục lợi làm thiệt hại cho nền kinh tế, cho cuộc sống
của người lao động cũng như của nhân dân nói chung. Đến nay, chúng ta đã
hình thành tương đối đồng bộ các loại thị trường , thể chế thị trường . Bước
đầu, nền kinh tế đã bắt đầu có sự cạnh tranh và năng lực cạnh tranh được nâng
lên. Thị trường trong nước và thị trường ngoài nước được xích lại gần nhau
hơn, nhưng năng lực cạnh tranh vẫn còn hạn chế, phát triển thiếu bền vững.
Giáo dục đào tạo ở nước ta trong thời gian qua đã có những bước
chuyển đáng khích lệ. Hệ thống giáo dục đào tạo đã được đa dạng hóa. Ngoài
giáo dục công lập là chủ yế u, chúng ta đã mở rộng hệ thống trường dân lập, tư
thục, liên kết giữa các trường trong nước và ngoài nước hoặc cho phép các
trường nước ngoài hoa ̣t đô ̣ng độc lập trên đất nước ta ; nhiều trường đại học ,
cao đẳng, trung học chuyên nghiệp được ra đời để góp phần giảm áp lực về
nhu cầu học tập của người Việt Nam. Song song với việc mở rộng hình thức
và quy mô, nội dung, chương trình và thời gian đào tạo cũng được đổi mới
cho phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phù hợp
quốc tế. Thế nhưng, nhìn chung giáo dục đào tạo chưa đáp ứng yêu cầ u phát
triển của đất nước, đặc biệt là mối quan hệ giữa mô hình, quy mô và chất
lượng còn là một khoảng cách khá xa, thậm chí giáo dục đào tạo còn bị
thương mại hóa, xa rời mu ̣c tiêu cao cả của mình . Do hiểu vai trò của giáo
dục đào tạo đối với đời sống xã hội còn lệch lạc, một số cơ sở đào tạo đã vừa
làm ảnh hưởng đến ngành, vừa làm thiệt hại cho người học Việt Nam gây nên
lãng phí cho nền kinh tế.
Từ thực tiễn trên, chúng tôi chọn đề tài "Mối quan hệ giữa giáo dục
đào tạo và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay" làm đề tài luận văn thạc sĩ nhằm bước đầu giải quyết mối quan hệ giữa
kinh tế thị trường và giáo dục đào tạo mà chủ yế u xác định lĩnh vực hoa ̣t đô ̣ng
của giáo dục đào tạo trong nền kinh tế thị trường để phần nào giảm nhẹ rủi ro
cho người học, nâng cao vai trò của giáo dục đào tạo trong quá trình phát triển
đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động kinh tế và giáo dục đào tạo đã được quan tâm nghiên cứu từ
lâu. Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, những vấn đề mu ̣c tiêu , chức năng và phạm vi hoa ̣t đô ̣ng của chúng
được nghiên cứu và xác định. Tuy đến nay, việc phân định đó chưa được rạch
ròi, song, mỗi lĩnh vực này đều có sự nhất trí nhất định. Chúng tôi có thể khái
quát hướng quan tâm của các tác giả theo từng vấn đề:
Về thị trường và kinh tế thị trường có nhiều công trình trong đó có
một số công trình liên quan đến đề tài của chúng tôi.
- Nguyễn Hữu Dũng (1994): “Đổi mới chính sách tuyển dụng và sử
dụng khoa học học kỹ thuật trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam”, Tạp chí Thông tin lý luận số, (11).
- Nguyễn Văn Oánh (1994), Định hướng xã hội chủ nghĩa: Nội dung cơ
2
bản và điều kiện chủ yếu thực hiện, luận án Phó tiến sĩ Triết học.
- Trần Đạt (1995), Kinh doanh trong nền kinh tế thế giới, Nxb. Khoa học
và Kĩ thuật, Hà Nội.
- Mã Hồng (chủ biên - 1995), Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Tô Huy Rứa (1996), “Con đường và điều kiện đảm bảo định hướng xã
hội chủ nghĩa”, Tạp chí Cộng sản, (6).
- Nguyễn Đức Bách, Lê Văn Liêm, Nhị Lê (1998), Một số vấn đề định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nxb. Lao động, Hà Nội.
- Chu Thượng Văn - Chu Cẩm Uý (1999), Chủ nghĩa xa hội là gì? Xây
dựng chủ nghiõa xã hội như thế nào? Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Nguyên (2001), Việt Nam định hướng xã hội chủ nghĩa trong
thế giới toàn cầu hoá. Nxb. Trẻ, Hà Nội.
- Lương Xuân Quý (Chủ biên - 2001), Cơ cấu và thành phần kinh tế ở
nước ta hiện nay - Lý luận, thực tiễn và giải pháp. Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
- Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (2002),
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam lí luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Thơ m (2004), “Những khiếm khuyết của nền kinh tế thị
trường”, Tạp chí Lí luận chính trị, (8).
- Đặng Kim Sơn (2004), Ba cơ chế thị trường, nhà nước và cộng đồng
ứng dụng cho Việt Nam. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Thanh (2005), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Các công trình trên đã cho chúng tôi hiểu về thị trường , kinh tế thị
trường và những yêu cầ u cũng như đặc trưng hoa ̣t đô ̣ng của thị trường định

3
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các tác giả đều cho rằng, tuy nền kinh tế
thị trường có những khiếm khuyết riêng của nó , song, nhờ kinh tế thị trường
mà Việt Nam nói riêng, nhân loại chung đã có những bước tiến vượt bậc
trong việc giải quyết những vấn đề muôn thuở: ăn, ở, đi lại, sinh hoạt, cũng
như những phát minh về văn hóa, khoa học, xã hội để càng ngày càng văn
minh hơn, nhân ái hơn. Mặc dù kinh doanh có những yêu cầ u riêng của nó ,
nhưng để có kinh doanh bền vững nhất thiết phải theo những quy luật nhất
định, đặc biệt là pháp luật. Các tác giả cũng cho rằng, kinh nghiệm thành công
của các nền kinh tế thị trường phát triển, Chính phủ các nước ngay từ khi kinh
tế còn mới phát triển nhất thiết phải có chính sách phát triển giáo dục đào tạo
thích đáng. Để kinh doanh thuận lợi cũng như để phát triển kinh tế - xã hội
bền vững nhất thiết phải phát triển giáo dục đào tạo, phải gắn với giáo dục
đào tạo.
Về giáo dục và đào tạo có nhiều công trình trong đó có một số công
trình liên quan đến đề tài của chúng tôi:
- Nguyễn Hữu Dũng (1994), “Đổi mới chính sách tuyển dụng và sử
dụng khoa học học kỹ thuật trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam”, Tạp chí Thông tin lý luận số, (11).
- Phạm Tất Dong (1995), Trí thức Việt Nam, thực tiễn và triển vọng,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục phát triển con người
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Phạm Minh Hạc (1997), Giáo dục nhân cách đào tạo nhân lực, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hoàng Chí Bảo (1998), “Giáo dục văn hóa lao động để nâng cao tay
nghề cho công nhân”, Tạp chí Dân vận, (6).
- Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỉ

4
XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển toàn diện con người trong thời
kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Trung tâm Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực (2002), Từ chiến
lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội.
- Nguyễn Trọng Chuẩn (2003), Để có nguồn lực cao nhằm đáp ứng nhu
cầu phát triển đất nước trong thế kỷ thứ XXI, Kỷ yếu hội thảo quốc tế, Hà Nội.
- Tery M. More (2005), Sơ lược về các trường học hoa Kỳ , Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
- Phạm Minh Hạc (2006), “Đổi mới mạnh mẽ giáo dục nghề nghiệp và
phát triển nguồn nhân lực”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (7).
- Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Đề án đổi mới giáo dục đại học Việt
Nam giai đoạn 2006 - 2020.
- Nguyễn Minh Đường (2006), Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn
cầu hoá và hội nhập quốc tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Văn Dân (2008), Diện mạo và triển vọng của xã hội tri thức,
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Đàm Hữu Đắc (2008), “Đổi mới đào tạo nghề, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực cho đất nước”, Tạp chí Cộng sản, (9).
Các công trình trên đã cho chúng tôi hiểu được quá trình phát triển của
giáo dục đào tạo. Theo các tác giả, giáo dục đào tạo không chỉ nuôi dưỡng,
vun đắp mà còn làm phong phú thêm quốc hồn, quốc tuý của dân tộc. Chính
vì vậy, ở mỗi thời kì, mỗi giai đoạn cần phải có chiến lược nói chung cũng
như chính sách phát triển giáo dục đào tạo nói riêng phù hợp với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, quốc tế. Các tác giả cũng đề cập đến

5
mô hình phát triển tổng thể về giáo dục đào tạo, mô hình cụ thể của từng bậc
học, của từng cấp học; đồng thời đưa ra một số mô hình để tham khảo, hoặc
học tập. Chúng ta cho rằng đó là những thiện chí của các nhà nghiên cứu
mong muốn đóng góp ý kiến của mình vào sự phát triển ngành giáo dục và
đào tạo của nước nhà. Các công trình của các tác giả, tuy đậm nhạt có khác
nhau nhưng đều đề cập đến mục tiêu , chức năng và lĩnh vực hoa ̣t đô ̣ng của
giáo dục và đào tạo trong nền kinh tế thị trường ; đặc biệt là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Qua đó, càng làm rõ thêm hoa ̣t
đô ̣ng của giáo dục đào tạo trong thị trường khác với thị trường.
Về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và giáo dục đào tạo tuy có ít
công trình hơn song có một số công trình đáng chú ý:
- Hồ Chí Minh (1972), Bàn về công tác giáo dục, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
- Trung tâm Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực (2002), Từ chiến
lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội.
- Nguyễn Khắc Chương (2003), “Công tác giáo dục đại học, cao đẳng
và ngành nghề để phát triển nguồn nhân lực ở nước ta”, Tạp chí Lí luận chính
trị, (7).
- Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Đảm bảo chất lượng đào tạo và
Nghiên cứu phát triển giáo dục (2005), Giáo dục đại học, Chất lượng và đánh
giá, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tuy các công trình giải quyết mối quan hệ giữa giáo dục đào tạo và thị
trường cũng như kinh tế thị trường chưa được quan tâm nhiều , song, qua một
số công trình của một số tác giả, chúng tôi thấy rằng giữa giáo dục đào tạo và
kinh tế thị trường Việt Nam cũng như kinh tế thị trường có mối quan hệ khá
khăng khít và ảnh hưởng lẫn nhau. Chúng vừa có mu ̣c tiêu chung , song cũng
có những yêu cầ u khác nhau, đặc biệt là chức năng và lĩnh vực hoa ̣t đô ̣ng .
Giáo dục đào tạo đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội tức đáp ứng nhu cầ u
6
về nguồn lực trong nền kinh tế thị trường nhưng hoa ̣t đô ̣ng của nó khác thị
trường. Những lệch lạc không đáng có của một số cơ sở đào tạo là điều cần
khắc phục và cần được nhận thức lại.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Làm rõ mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và giáo dục đào tạo để xác
định bước đầu phạm vi hoa ̣t đô ̣ng của giáo dục đào tạo nhằm khắc p hục
những lệc lạc không đáng có của ngành trong quá trình phát triển đất nước.
* Nhiệm vụ:
- Khái quát lại vai trò và lĩnh vực hoa ̣t đô ̣ng của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Khái quát vai trò và lĩnh vực, mục tiêu hoạt động của giáo dục đào tạo
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Phân tích thực trạng mối quan hệ giữa giáo dục đào tạo và kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặc biệt là những lệc lạc trong thời
gian qua trong giáo dục đào tạo để làm cơ sở cho việc đề xuất những giải pháp
.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của giáo dục
đào tạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam và ngành
giáo dục đào tạo Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi giáo dục đại học , cao đẳng, trung học chuyên nghiệp phục vụ
kinh tế thị trường Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:

7
Luận văn được dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, các quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của các
nhà nghiên cứu khác.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp biện chứng duy vật mà chủ yế u là
phương pháp trừu tượng và cụ thể; phân tích và tổng hợp; logic và lịch sử.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần làm rõ mối mối quan hệ giữa giáo dục đào tạo và kinh tế thị
trường Việt Nam để giáo dục đào tạo phát huy vai trò tích cực của mình trong
quá trình phát triển đất nước.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác giáo dục
đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu làm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1: Giáo dục đào tạo và kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp bảo đảm phù hợp mối quan hệ giữa
giáo dục đào tạo và thị trường Việt Nam hiện nay.

8
Chương 1
GIÁO DỤC ĐÀO TẠO VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. Một số vấn đề chung về giáo dục đào tạo ở Việt Nam
1.1.1. Quá trình hình thành nền giáo dục đào tạo
Nhân dân Việt Nam có truyền thống hiếu học và một nền giáo dục lâu
đời. Từ khi cộng đồng người Việt xuất hiện đã lưu truyền việc giáo dục kiến
thức để làm ra của cải vật chất, mưu sinh, dạy nhau tổ chức đời sống xã hội và
giáo dục đạo dức nhân sinh tạo nên nhân cách con người Việt Nam.
* Giáo dục Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Năm 938, dân tộc Việt Nam khôi phục nền độc lập, thống nhất quốc
gia, xây dựng nhà nước phong kiến. Nền giáo dục hình thành và phát triển do
nhà nước phong kiến chi phối trải qua hơn 10 thế kỷ. Tuy mỗi triều đại có
những yêu cầu và cách thức riêng nhưng cơ bản là giống nhau về cơ cấu, nội
dung, cách tổ chức việc dạy và học, thi hành chế độ khoa cử. Các triều đại
thường chú trọng việc xây dựng một trường đại học ở kinh đô, đặt các giáo
chức ở các phủ, lộ để trông coi việc học hành. Tại các trường lớp tư gia, có
các ông đồ ngồi dạy trẻ. Các ông đồ được người dân tôn kính, quý trọng bởi
họ là những nhà nho, các nhà khoa bảng.
Nội dung dạy học từ lớp tư gia đến các trường lớp ở lộ, phủ, kinh đô
đều lấy tứ thư, ngũ kinh làm sách giáo khoa. Các triều đại Lý, Trần, Lê,
Nguyễn tổ chức các khoa thi (thi hương, thi hội, thi đình hay thi tiến sĩ) về cơ
bản là giống nhau. Từ năm 1075, nhà Lý mở khoa thi Minh Kinh đầu tiên,
đến năm 1919 nhà Nguyễn tổ chức khoa thi cuối cùng. Chế độ khoa cử của
nền giáo dục phong kiến Việt Nam trải qua 844 năm với trên 180 khoá thi và
hơn 2900 người đỗ từ tiến sĩ tới trạng nguyên.

9
Trải qua gần một nghìn năm lịch sử, nền giáo dục phong kiến Việt Nam
đã đào tạo nhiều thế hệ tri thức tinh hoa của dân tộc, đồng thời cung cấp lực
lượng chủ yếu cho hệ thống quan chức quản lý nhà nước và xã hội. Nền giáo
dục ấy đã đào tạo nên nhiều nhà bác học, nhà văn, nhà viết sử, nhà giáo, thầy
thuốc có danh tiếng cùng những thế hệ tri thức giữ vai trò quan trọng trong
việc xây dựng, vun đắp nền văn hiến Việt Nam. Một nền giáo dục phong kiến
coi trọng luân lý, lễ nghĩa góp phần cơ bản xây dựng nền tảng đạo đức xã hội.
Tuy nhiên, ý thức tồn cổ của Nho gia đã cản trở những tư tưởng cải cách, kìm
hãm sự phát triển của xã hội, phương pháp học khuôn sáo, giáo điều, nặng về
tầm chương, trích cú, lý thuyết suông, chạy theo hư danh… là những hạn chế
của nền giáo dục phong kiến Việt Nam.
Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm chiếm nước ta. Nền giáo dục
phong kiến nước ta bị thay đổi toàn bộ, chữ Hán thay bằng chữ quốc ngữ và
chữ Pháp. Từ nội dung chương trình sách giáo khoa đến cách học, cách dạy,
cách tổ chức các kỳ thi thay đổi, hệ thống các trường từ sơ cấp đến tiểu học,
trung học phổ thông đến các trường chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học dần dần
được hình thành.
Thực dân Pháp coi nền giáo dục phong kiến là công cụ quan trọng để
chinh phục thuộc địa. Chúng mở các trường nhằm đào tạo một số công chức
cho bộ máy cai trị, các cơ sở kinh doanh… Số trường học ít và số người đi
học cũng ngày càng ít hơn. Trong khoảng từ năm 1931 đến 1940 cứ 100
người dân thì chưa đến 3 người được đi học và hầu hết chỉ đến bậc tiểu học và
vỡ lòng, trên 3 vạn dân mới có 1 sinh viên (cao đẳng, đại học). Mặc dù đã
thực hiện một số chính sách giáo dục nô dịch với thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt
nhưng thực dân Pháp không đạt được kết quả mong muốn. Phần lớn những
người Việt Nam được Pháp đào tạo vẫn có ý thức dân tộc, một số không nhỏ
có tinh thần yêu nước chống Pháp, trở thành chiến sỹ cách mạng và đảng viên
cộng sản.

10
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân
chống thực dân Pháp, giáo dục được coi là bộ phận của Cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng dân tộc, khoa học, đại chúng là những nguyên tắc chỉ đạo việc xây
dựng nền giáo dục Cách mạng Việt Nam.
* Giáo dục Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay
Từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, nền giáo dục được
hình thành trên cơ sở tiếp quản và cải tổ nền giáo dục Pháp thuộc. Nền giáo
dục mới được tiến hành trên 3 nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng với
mục tiêu cao cả là: tôn trọng nhân phẩm, rèn luyện chí khí, phát triển tài năng,
đề cao tinh thần khoa học, học tập và giảng dạy bằng tiếng Việt từ các trường
phổ thông đến đại học.
Từ tháng 9/1945, cả nước cùng khai giảng năm học mới. Nhân ngày
khai trường, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho học sinh, trong đó, Người
chỉ rõ: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đệp hay không, dân tộc Việt Nam
có bước tới đài vinh quang để sánh vai với cáccường quốc năm châu hay
không, chính là một phần lớn ở công học tập cuả các châu”.
Khi thực dân Pháp quay lại xâm chiếm nước ta một lần nữa, cuộc
kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Các trường học ở thành phố di chuyển về
nông thôn và các khu an toàn. Phong rào xoá mù chữ vần được duy trì. Đến
năm 1950 cả nước có trên 10 triệu người được xoá mù chữ và đã có 10 tỉnh,
80 huyện, 1424 xã, 7248 thôn đạt tiêu chuẩn xoá nạn mù chữ.
Năm 1950 Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định tiến hành cải
cách giáo dục: nền giáo dục của dân, do dân, vì dân được thiết lập trên 3
nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng. Phương châm giáo dục là học đi đôi
với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn. Đến năm học 1953-1954 ở vùng giải
phóng đã có 3673 trường cấp I, 397 trường cấp II, 34 trường cấp III, 5 trường
trung học chuyên nghiệp và 4 trường đại học.
Sau năm 1954, nền giáo dục dân chủ nhân dân được xây dựng trong
11
kháng chiến chuyển hướng mạnh mẽ nhằm đáp ứng yêu cầu mới của nhiệm
vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước.
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai ở miền Bắc là bước đi quan trọng
trong quá trình xây dựng nền giáo dục XHCN. Hệ thống giáo dục mới được
hình thành không chỉ ở giáo dục phổ thông mà ở cả giáo dục đại học và
chuyên nghiệp. Nội dung giáo dục mới mang tính chất toàn diện trên bốn mặt:
đức, trí, thể, mỹ. Phương châm giáo dục là liên hệ lý luận với thực tiễn, gắn
nhà trường với đời sống xã hội.
Do cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, các trường học và các
cơ sở giáo dục vừa tiến hành sơ tán vừa tiếp tục duy trì việc dạy và học ở tất
cả các lớp học, các cấp học, các ngành học. Có thể nói, ngành giáo dục nước
ta trong thời kỳ này đã giữ vững được quy mô, chất lượng giáo dục và đạt
được nhiều kỳ tích lớn.
Năm 1975 đất nước được hoàn toàn giải phóng. Nhiệm vụ cấp bách của
ngành giáo dục là xây dựng một nền giáo dục thống nhất theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Giáo dục miền Nam được sự hỗ trợ sức người, sức của từ miền
Bắc đã nhanh chóng khôi phục và trở lại hoạt động bình thường. Đến năm
1976, việc đào tạo sau đại học được triển khai, đến năm 1980 đã có 42 trường
đại học và viện nghiên cứu khoa học được nhà nước quyết định làm cơ sở đào
tạo sau đại học.
Tháng 1 năm 1979, cuộc cách mạng lần thứ ba về giáo dục được triển
khai. Hệ thống giáo dục 12 năm được thiết kế thống nhất trong toàn quốc. Các
bộ sách giáo khoa mới theo tinh thần và nội dung cải cách được thực hiện mỗi
năm một lớp bắt đầu từ năm học 1981- 1982. Mạng lưới các trường đại học,
cao đẳng, các trường trung cấp chuyên nghiệp ở trung ương và địa phương
được cải cách từ mục tiêu đào tạo đến nội dung chương trình, phương pháp
giảng dạy. Tuy nhiên những khó khăn của nền kinh tế - xã hội nói chung và

12
bản thân ngành giáo dục nói riêng đã tác động trực tiếp đến quá trình phát
triển của ngành, làm cho hệ thống giáo dục ngày càng xuống cấp nghiêm
trọng. Trước tình hình đó, Bộ Giáo dục đã xây dựng và triển khai chương
trình phát triển giáo dục 3 năm (1987- 1990). Sau 3 năm đổi mới, ngành giáo
dục đã dần tháo gỡ khó khăn, khắc phục tình trạng yếu kém và thu được
những kết quả đáng khích lệ.
Năm 1991, Quốc hội khoá VIII kỳ họp thứ 9 đã thông qua luật Giáo
dục tiểu học. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tư (khoá VII) đã đề ra Nghị
quyết về “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo”. Nghị quyết nêu
lên 4 quan điểm chỉ đạo phát triển GD - ĐT trong đó nhấn mạnh GD - ĐT
cùng với khoa học, công nghệ được xem là quốc sách hàng đầu.
Tháng 12 năm 1996, Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương
Đảng khoá VIII tiếp tục ra nghị quyết chuyên đề về GD - ĐT.
Đại hội IX của Đảng (tháng 4/2001) đã coi phát triển GD - ĐT là một
trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH là điều kiện
để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
tưởng kinh tế nhanh và bền vững. Phát triển khoa học công nghệ cùng với
phát triển GD - ĐT là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước. Đặc biệt, việc “tạo bước chuyển mạnh về phát triển
nguồn nhân lực, trọng tâm là GD - ĐT, khoa học và công nghệ” [25, tr.219]
đã được xác định là một trong ba khâu đột phá then chốt để làm chuyển động
toàn bộ tình hình kinh tế - xã hội. Đại hội IX chủ trương tạo ra sự chuyển biến
cơ bản, toàn diện trong phát triển GD - ĐT, tiếp tục nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường,
lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội
hoá”, thực hiện giáo dục cho mọi người, “cả nước trở thành một xã hội học
tập”, coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh, tăng ngân sách
nhà nước cho GD - ĐT theo nhịp độ tăng trưởng kinh tế; tăng nhanh tỷ lệ lao

13
động được đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội; mở rộng hợp lý quy mô
giáo dục đại học, làm chuyển biến rõ nét về chất lượng và hiệu quả đào tạo;
tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh
viên; thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện cho người
nghèo có cơ hội học tập, thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, phát triển
đa dạng các hình thức đào tạo.
Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) đã khẳng định “nâng cao chất
lượng, hiệu quả GD - ĐT, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực”
[26, tr.94]. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức,
cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học, thực hiện “chuẩn hoá,
hiện đại hoá, xã hội hoá”, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam. Chuyển dần mô
hình gioá dục Việt Nam hiện nay sang mô hình mở - mô hình xã hội học tập
với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học,
ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và những
hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường
xuyên, tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học, bảo đảm sự công
bằng xã hội trong giáo dục.
Như vậy, hơn 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam nhân dân Việt Nam đã xây dựng một nền giáo dục XHCN, có tính nhân
dân, tính dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng. Đây là cơ sở cho việc “nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
1.1.2. Khái niệm giáo dục đào tạo
* Khái niệm đào tạo
“Đào tạo được hiểu là các hoạt động học tập nhằm giúp cho người lao
động có thể thực hiện hiệu quả hơn chức năng nhiệm vụ của mình” [30,
tr.161].
Đào tạo là những hoạt động học tập được diễn ra trong thời gian ngắn
14
hạn nhằm cung cấp cho người lao động những kiến thức, kỹ năng chuyên sâu
hơn về công việc hiện tại, củng cố và bổ sung những kiến thức và kỹ năng,
trình độ chuyên môn còn thiếu hụt của người lao động. Đó là các hoạt động
học tập nhằm nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng của người lao động để
thực hiện có hiệu quả hơn công việc hiện tại.
* Khái niệm phát triển giáo dục
Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tiến
bộ khoa học, công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh; thực hiện chuẩn hóa,
hiện đại hóa, xã hội hóa; bảo đảm cân đối về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành
nghề, cơ cấu vùng miền; mở rộng quy mô trên cơ sở bảo đảm chất lượng và
hiệu quả; kết hợp giữa đào tạo và sử dụng.
Phát triển giáo dục là quá trình tuyên truyền, đầu tư nhân tài, vật lực
và tổ chức cho toàn xã hội tham gia giáo dục - đào tạo nhằm tạo nên sự
chuyển biến vượt bậc về số lượng và chất lượng trong các bậc học, đáp ứng
yêu cầu phát triển về lực lượng lao động chất lượng cao của nền kinh tế.
* Khái niệm đầu tư giáo dục
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển.
Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục; khuyến khích và bảo hộ các
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục Việt
Nam. Ngân sách nhà nước phải giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu
tư cho giáo dục.
Đầu tư giáo dục là hoạt động của toàn xã hội nhằm tập trung tài lực, vật
lực, vốn liếng và quyết tâm nhằm xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân phát
triển đồng bộ, tốc độ nhanh để vừa đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế, vừa có

15
những phát minh, sáng chế cho quá trình phát triển trong tương lai.
* Khái niệm giáo dục
Giáo dục là hoạt động có tổ chức nhằm truyền thụ những tri thức phổ
thông, cơ bản cho những người chưa được tiếp thu những kiến thức cần thiết
làm nền tảng cho cuộc sống mà xã hội đương đại đòi hỏi hoặc phổ cập.
Có nhiều hình thức giáo dục như giáo dục công lập, giáo dục bán công,
giáo dục dân lập, giáo dục tư thục (tuỳ theo sự dầu tư kinh phí học tập); có
nhiều bậc học của giáo dục như mầm non, giáo dục mẫu giáo, giáo dục phổ
thông, giáo dục chuyên nghiệp.
1.2.3. Mục tiêu, tính chất và lĩnh vực hoaṭ động của giáo dục đào tạo
* Mục tiêu của giáo dục đào tạo
Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện,
có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp là đào tạo người lao động có kiến
thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm
nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo
điều kiện cho người lao động có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc
tiếp tục học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và có khả năng thích
ứng nhanh với sự biến đổi của nền kinh tế thị trường.
- Trung cấp chuyên nghiệp nhằm đào tạo người lao động có kiến thức,
kỹ năng thực hành cơ bản của một nghề, có khả năng làm việc độc lập và có
tính sáng tạo, ứng dụng công nghệ vào công việc.
- Đào tạo trình độ cao đẳng giúp sinh viên có kiến thức chuyên môn và

16
kỹ năng thực hành cơ bản để giải quyết những vấn đề thông thường thuộc
chuyên ngành được đào tạo.
- Đào tạo trình độ đại học giúp sinh viên nắm vững kiến thức chuyên
môn và có kỹ năng thực hành thành thạo, có khả năng làm việc độc lập, sáng
tạo và giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo.
- Đào tạo trình độ thạc sĩ giúp học viên nắm vững lý thuyết, có trình độ
cao về thực hành, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và có năng lực phát
hiện, giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo.
- Đào tạo trình độ tiến sĩ giúp nghiên cứu sinh có trình độ cao về lý
thuyết và thực hành, có năng lực nghiên cứu độc lập, sáng tạo, phát hiện và
giải quyết những vấn đề mới về khoa học, công nghệ, hướng dẫn nghiên cứu
khoa học và hoạt động chuyên môn.
* Tính chất của giáo dục đào tạo
Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục XHCN có tính nhân dân, tính
dân tộc, tính khoa học, tính hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng.
Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với
hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn,
giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
1.2. Một số vấn đề về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam
Quá trình chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường ở nước ta có thể chia thành một số giai đoạn nhưng giữa các giai đoạn
không có danh giới tuyệt đối nên phải chọn sự kiện điển hình và quan trọng
để làm mốc phân chia các giai đoạn. Quá trình chuyển sang nền KTTT ở nước

17
ta có thể chia thành các giai đoạn: 1979-1985, 1986-1990 và từ 1991 đến nay.

18
* Giai đoạn từ 1979-1985
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 khóa IX tháng 9/1979 có thể được
coi là mốc đánh dấu khởi đầu công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở
nước ta tại Hội nghị lần đầu tiên Đảng ta đưa ra quan điểm phát triển kinh tế
hàng hóa, kinh tế nhiều thành phần với chủ trương cụ thể như “bỏ ngăn sông
cấm chợ”, thừa nhận nhiều thành phần kinh tế với quy định cụ thể; ở miền
Nam có năm thành phần, miền Bắc có ba thành phần: kinh tế tư bản tư nhân
không được thuê mướn quá 5-10 công nhân.
Hội nghị Trung ương 6 đề ra một số quan điểm, chủ trương đổi mới,
tuy chưa cơ bản và toàn diện như Đại hội VI nhưng đó là bước khởỉ đầu có ý
nghĩa. Từ những quan điểm đó Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách
khuyến khích phát triển sản xuất. Những chính sách tiêu biểu như: Chỉ thị 357
của Chính phủ (3-10-1979) cho phép các hộ nông dân được nuôi và bán trâu
bò, chấp nhận trâu bò là hàng hóa. Chỉ một năm sau ban hành chỉ thị đó, ở
phía Bắc đàn trâu bò đã tăng gấp đôi. Chỉ thị 100 của Ban Bí thư về khoán
sản phẩm cuối cùng cho xã viên hợp tác xã nông nghiệp đã tạo điều kiện cho
nông dân bổ sung đầu tư tích cực lao động đạt sản lượng vượt khoán của hợp
tác xã. Trong công nghiệp, có Nghị quyết 25/CP cho phép các xí nghiệp làm
kế hoạch ba phần, trong đó phần C xí nghiệp tự xác định thị trường kế hoạch
tự cân đối vật tư tiền vốn, tự đánh giá và tiêu thụ sản phẩm lợi nhuận làm ra
được hưởng quyền sử dụng 80%.
Từ đó trong nền kinh tế nước ta xuất hiện tình huống mới: tồn tại song
song hai cơ chế quản lý. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp tác động trong kế
hoạch phần của xí nghiệp công nghiệp, trong sản phẩm khoán của hợp tác xã
nông nghiệp. Cơ chế thị trường tác động trong kế hoạch của xí nghiệp và
trong sản phẩm vượt khoán của hộ nông dân. Cũng từ đó bắt đầu cuộc chiến
tranh quyết liệt giữa hai cơ chế ở nhiều khâu, nhiều yếu tố. Trong đó yếu tố
mấu chốt để chuyển sang cơ chế thị trường là cơ chế giá cả. Trong cơ chế tập

19
trung, bao cấp; cơ chế định giá bằng mệnh lệnh hành chính của nhà nước,
việc định giá thấp đã đánh vào ngân sách nhà nước và tài chính quốc gia dẫn
đến việc nhà nước phải bù lỗ, bù giá, bù lương… làm cho ngân sách ngày
càng kiệt quệ, sản xuất càng thua lỗ, tiêu cực càng phát triển. Vì vậy Nhà
nước đã tiến hành cải cách giá và lương lần 1 (1981-1982) với những nét nổi
bật là: tăng giá, tăng lương, thực hiện chuyển cơ chế một giá do nhà nước
định đoạt sang cơ chế hai giá đối với giá cả hàng tíêu dùng, hàng vật tư và giá
mua sản phẩm theo hợp đồng, giảm mặt hàng cung cấp theo tem phiếu,
chuyển phần lớn giá cung cấp sang giá kinh doanh thương nghịêp. Nhưng do
thời gian thực hiện hai giá kéo dài (1981-1985) trên diện rộng, trong khi hầu
như không có giải pháp hữu hiệu nào làm giảm phát nên lạm phát trầm trọng
thêm lại đẩy giá thị trường tiếp tục tăng nhanh. Nếu lấy mốc giá năm 1979 là
100 thì năm 1981 là: 313,7%; 1984: 1400%; 1985: 2390%. Trước tình hình
trên, 6/1985 Hội nghị Trung ương lần thứ 8 bàn về giá - lương - tiền đã rút ra
bài học tổng quát là: phải dứt khoát xóa bỏ tập trung, bao cấp, thực hiện đúng
chế độ tập trung dân chủ, hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN.
* Giai đoạn từ 1986-1990
Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã đánh dấu một bước ngoặt
trong sự nghiệp đổi mới tiến lên xây dựng CNXH ở nước ta. Đây thực sự là
một cuộc cách mạng sâu sắc tiến hành đồng thời trên tất cả các lĩnh vực của
nền kinh tế.
Thực sự chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
Chuyển từ nền kinh tế chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể
sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thực hiện tự do kinh doanh theo
pháp luật.
Thực hiện cơ cấu kinh tế mở, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ
kinh tế đối ngoại, từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới

20
Trên cơ sở đó, vai trò quản lý của Nhà nước cũng chuyển đổi từ quản lý
trực tiếp sang quản lý vĩ mô nền kinh tế bằng pháp luật, các chính sách kinh
tế, các công cụ điều tiết có hiệu lực.
Với những quan điểm đổỉ mới của Nghị quyết Đại hội VII chúng ta đã
có những biện pháp và chủ trương tích cực trên nhiều mặt. Trong công
nghiệp, Nghị định 217/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng ban hành đã “cởi trói”,
phát huy quyền tự chủ kinh doanh của đơn vị kinh tế quốc doanh. Đối với
nông nghiệp, Nghị quyết của Bộ Chính trị đã xác định hợp tác xã là đơn vị
kinh tế tự chủ, tự quản; hộ gia đình xã viên là đơn vị nhận khoán của hợp tác
xã và dần dần chuyển thành đơn vị kinh tế độc lập tự chủ. Về xử lý giá cả từ
Hội nghị Trung ương lần 6 khóa VI vào tháng 3/1989, Nhà nước quyết định
thực hịên chuyển toàn bộ lương thực sang kinh doanh, bỏ hoàn toàn chế độ
cung cấp lương thực, chuyển 80% vật tư sang kinh doanh còn lại 20% vẫn giữ
giá phân phối. Đây là lần đầu tiên trên thực tế, về cơ bản, chúng ta có hàng
hóa theo đúng nghĩa, thực hiện quan điểm một thị trường, một cơ chế giá kinh
doanh có tác động lớn trong việc xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp chuyển
sang cơ chế thị trường. Mặt khác chúng ta đã tạo ra được tiền đề cần thiết để
mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại thông qua việc ban hành luật đầu tư, đẩy
mạnh hợp tác đầu tư với nước ngoài.
Tóm lại, thời kì này của công cuộc đổi mới đã đạt được nhiều bước
tíên đáng khích lệ, đã đưa nền kinh tế nước ta vào quỷ đạo phát trỉên vốn có
của nó. Đó là phải đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa, thực hiện nền kinh tế
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước.
* Giai đoạn 1991 đến nay
Giai đoạn này gắn với bốn sự kiện lịch sử quan trọng đó là Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VII, lần thứ VIII, lần thứ IX và lần thứ X.
Đại hội Đảng lần thứ VII (tháng 6-1991) đã khẳng định: “Đường lối đổi
mới do Đại hội VI đề ra là đúng đắn, bước đi của công cuộc đổi mới về cơ bản

21
là phù hợp. Qua thực tiễn chúng ta có thêm những nhận thức mới và kinh
nghiệm quan trọng về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc
điểm nước ta. Đó là cơ sở rất quan trọng để chúng ta tiếp tục tiến lên” [23, tr.7].
Đại hội Đảng lần thứ VIII (tháng 6/1996) đã chỉ rõ, Đại hội VI đề ra
đường lối đổi mới toàn diện. Đại hội VII thông qua cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội đến 2000. Xét trên tổng thể, việc thực hiện những chính
sách mới những năm qua về cơ bản là đúng, đúng định hướng XHCN.
Đại hội Đảng lần thứ IX (4/2001) đánh giá lại 10 năm thực hiện chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991-2000) đã đạt những thành tựu
to lớn và rất quan trọng. Đại hội lần này đã xác định rõ đường lối và chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta: “Đường lối kinh tế của Đảng ta là:
Đẩy mạnh phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển
lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực
lượng sản xuất theo định hướng XHCN; phát huy cao độ nội lực, tranh thủ
nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế để phát triển nhanh, có
hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa; thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát
triển kinh tế - xã hội và tăng trưởng quốc phòng an ninh” [26, tr.83].
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010) nhằm: “Đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đểt đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hưóng hiện đại. Nguồn lực con người, năng
lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng và
an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được
nâng cao” [26, tr.84].

22
Đại hội X của Đảng (4/2006) tiếp tục khẳng định nắm vững định hướng
XHCN trong nền KTTT ở nước ta là: “Thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, giải phóng mạnh mẽ và không
ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xoá đói
giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ
người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Phát triển nền kinh tế
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo; cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” [26, tr.77].
Hiện nay, ở nước ta đang tồn tại nhiều trình độ khác nhau của lực
lượng sản xuất (thủ công, trình độ cơ khí, tự động hoá, tin học hoá… ). Vì vậy
khi thiết lập quan hệ sở hữu thì cũng phải đa dạng, phù hợp trong điều kiện
nước ta hiện nay có thể xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế khác. Ở
nước ta, tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu khách quan.
Vì kinh tế nhiều thành phần thời kỳ quá độ và đặc biệt trong nền KTTT có lợi
cho sự phát triển đất nước. Phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm thực hiện
cái quy luật: Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất, trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm để cho sản
xuất nước ta phát triển liên tục không bị gián đoạn. Phát triển kinh tế nhiều
thành phần nhằm tạo ra sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế thị trường
hiện nay ở nước ta.
Tóm lại, trong thời kỳ quá độ tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần
không chỉ là một tất yếu khách quan mà còn có một tác dụng tích cực to lớn
đối với sự phát triển của nền kinh tế. Cụ thể là: sự tồn tại nền kinh tế nhiều
thành phần cũng có ý nghĩa là tồn tại nhiều hình thức quan hệ sản xuất, do đó
nó sẽ phù hợp với các trình độ phát triển khác nhau về lực lượng sản xuất từ
đó mà có thể tăng năng suất lao động, tăng tốc độ phát triển kinh tế, tăng hiệu
quả kinh tế trong mỗi thành phần cũng như trong toàn bộ nền kinh tế. Góp

23
phần khôi phục kinh tế cho sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần chính là đảm bảo quyền tự do kinh
doanh, quyền dân chủ về kinh tế cho mọi công dân. Một công dân đều có
quyền hoạt động trong nền kinh tế thị trường (theo đúng pháp luật) để làm
giàu cho mình và cho xã hội. Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần không
những tạo điều kiện sử dụng sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế
trong nước mà còn tạo ra môi trường thông thoáng, thích hợp cho sự thu hút
vốn, khoa học kĩ thuật tiên tiến của thế giới. Nền kinh tế có cơ cấu nhiều
thành phần không những tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức
kinh tế quá độ, đặc biệt là hình thức kinh tế tư bản nhà nước, là “cầu nối” là
trung gian cần thiết để chuyển nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ nên sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Đặc diểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam
Nền KTTT định hướng XHCN cũng có những tính chất chung của nền
kinh tế: nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của nền KTTT như
quy luật gía trị, quy luật cung cầu, quy luât cạnh tranh; có chủ thể kinh tế có
tính độc lập, tự chủ để có quyền ra những quyết định phi tập trung hoá; thị
trường có vai trò quyết định trong việc phân phối các nguồn lực kinh tế; gía
cả do thị trường quyết định; nhà nước điều tiết kinh tế vĩ mô để giảm bớt
những “thất bại của thị trường”.
Qua hơn 20 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện trong đó đổi
mới kinh tế là trọng tâm, vừa tổng kết thực tiễn, vừa nghiên cứu khái quát lý
luận, nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN của Đảng ta ngày càng rõ
ràng và đầy đủ hơn.
Về khái niệm nền KTTT định hướng XHCN, Văn kiện Hội nghị Trung
ương 6 khoá X viết: “Nền KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế trong đó
các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành KTTT được tự giác tạo lập và

24
sử dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất, từng bước cải thiện dời sống nhân
dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
[27, tr.139].
Theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá X, nền KTTT
định hướng XHCN ở Việt Nam có một số đặc điểm sau:
* Đặc điểm thứ nhất: “Mục tiêu phát triển là vì “dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất; đẩy
mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng,
nâng cao đời sống nhân dân” [3, tr.71].
Đặc điểm này nói rõ mục tiêu của nền KTTT định hướng XHCN của
nước ta là vì con người, vì sự giải phóng con người. Trên cơ sở giải phóng và
phát triển mọi tiềm năng sản xuất, đẩy mạnh phát triển kinh tế, để mọi người
đều được hưởng thành quả của sự phát triển, để nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của mọi người. Do đó vừa đẩy mạnh phát triển sản xuất vừa phải
đẩy mạnh phát triển xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người làm giàu
chính đáng.
Đây là mục tiêu thể hiện tính nhân văn của nền KTTT định hướng
XHCN ở nước ta. Để đạt được mục tiêu này, cần có sự nỗ lực phấn đấu liên tục
của toàn Đảng và toàn dân trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta.
* Đặc điểm thứ hai: “Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh
tế quốc dân” [27, tr.139].
Đặc điểm này nói rõ cơ cấu của nền KTTT định hướng XHCN ở nước
ta bao gồm nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại.
Các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật. Đại hội X của Đảng
xác định nền kinh tế ở nước ta hiện nay đang tồn tại ba hình thức sở hữu cơ
bản về tư liệu sản xuất là sở hữu xã hội mà Nhà nước là đại diện, sở hữu tập
25
thể, sở hữu tư nhân. Trên cơ sở ba hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất
đó, nền kinh tế của ta tồn tại năm thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu
hỗn hợp khác nhau là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà
nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài. Các thành phần
kinh tế trên đều được tự do sản xuất kinh doanh theo pháp luật và quan hệ với
nhau thông qua kinh tế thị trường. Việc phát triển nền kinh tế nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế làm cho quan hệ sản xuất luôn phù hợp với
trinh độ phát triển của lực lượng sản xuất, từ đó giải phóng được mọi tiềm
năng phát triển sức sản xuất của xã hội, phát huy tối đa nội lực, tạo ra sự phát
triển nhanh của nền kinh tế. Đây chính là sự vận dụng sáng tạo quy luật khách
quan của quá trình phát triển sản xuất vào điều kiện cụ thể nước ta. Nhờ vậy
kinh tế nước ta đã có bước chuyển biến rõ rệt, những năm gần đây tốc độ tăng
trưởng luôn đật ở mức cao trên 7%.
Cơ cấu nền KTTT ở nước ta là cơ cấu nhiều thành phần trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhà
nước nắm giữ toàn bộ tài nguyên đất đai, khoáng sản, nước, vốn… một nguồn
lực rất lớn của nền kinh tế. Đây là công cụ chủ yếu để Nhà nước điều tiết nền
kinh tế, định hướng sự phát triển nền kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Kinh tế nhà nước nhất
thiết phải giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế để đảm bảo tính định
hướng XHCN của nền kinh tế.
* Đặc điểm thứ ba: “Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá
đói giảm nghèo; từng bước làm cho mọi thành viên xã hội đều có cuộc sống
ấm no, hạnh phúc, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và từng chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển
văn hoá, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường,… giải quyết tốt các vấn đề xã hội
vì mục tiêu phát triển con người” [27, tr.139].

26
Đặc điểm này thể hiện rõ bản chất của nền kinh tế ở nước ta là vì sự
phát triển con người, vì sự tiến bộ và công bằng xã hội cho mọi người chứ
không phải vì sự tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Bản chất đó được thể hiện
ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Không phải chờ sau khi
phát triển kinh tế rồi mới thực hiện các chính sách xã hội vì sự phát triển con
người. Đối với nước ta không thể hi sinh người này hay thế hệ này dể dành
cho người khác hay thế hệ khác hưởng công bằng xã hội. Công bằng xã hội có
thể và cần phải thực hiện ngay trong từng bước phát triển. Hơn nữa chính việc
giải quyết các chính sách xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong
từng bước phát triển lại là nhân tố hạn chế những tác động tiêu cực của nền
KTTT, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo, tránh gây nên những xung đột trong
xã hội, những sự mất cân đối trong phát triển, bảo đảm cho sự phát triển bền
vững. Tăng trưởng kinh tế không thể tách rời các lĩnh vực khác của đời sống
xã hội như văn hoá, y tế, giáo dục… nhưng đồng thời văn hoá, y tế, giáo
dục… lại tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế bảo đảm
cho sự phát triển kinh tế bền vững. Đối với nước ta, không đơn thuần chỉ do
yêu cầu nguồn nhân lực cho sự tăng trưởng kinh tế bền vững, mà chủ yếu còn
vì sự phát triển con người, nên càng phải kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng
kinh tế với phát triển cac vấn đề xã hội. Đây là đặc điểm thể hiện tính nhân
văn hơn hẳn của nền KTTT định hướng XHCN so với nền kinh tế TBCN.
* Đặc điểm thứ tư: “Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả
lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn
lực khác và thông qua phúc lợi xã hội” [26, tr.139].
Chế độ phân phối do chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định,
nhưng chế độ phân phối lại có vai trò to lớn đối với việc củng cố và phát triển
chế độ sở hữu, đồng thời thể hiện rõ lợi ích kinh tế của con người, có ảnh
hưởng lớn đến tính tích cực của con người trong hoạt động sản xuất và kinh
doanh. Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay tồn tại nhiều hình

27
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhất thiết phải thực hiện chế độ phân
phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Chế độ phân phối này
gắn chặt giữa lợi ích kinh tế với kết quả và chất lượng lao động, thể hiện sự
công bằng trong lĩnh vực phân phối, kích thích tính tích cực của người lao
động, tạo được động lực của nền kinh tế. Đồng thời chúng ta thấy hiện nay
vốn và các nguồn lực khác cho phát triển kinh tế còn nằm trong nhân dân rất
nhiều. Để khuyến khích sự đóng góp của mọi cá nhân cho sự phát triển chế độ
phân phối cần phải chú ý bảo đảm lợi ích cho những đóng góp đó. Do đó,
phân phối không chỉ “chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế” mà
còn phải theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác.
Mặt khác, trong đời sống xã hội luôn tồn tại những tầng lớp xã hội yếu
thế như người tàn tật, già yếu, cô dơn không nơi nương tựa… cần phải có sự
hỗ trợ của xã hội; điều kiện phát triển kinh tế không đều, đời sống của nhân
dân những nơi khó khăn nếu không có sự hỗ trợ của xã hội sẽ không thể nào
vươn lên được. Để thực hiện tính định hướng XHCN của nền kinh tế ở nước
ta đòi hỏi phải phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
đồng thời theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác, bên cạnh đó phải
kết hợp thực hiện phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Đảng ta khẳng định:
“Chính sách phân phối và phân phối lại phải bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà
nước, người lao động, doanh nghiệp và bảo đảm lợi ích quốc gia. Chú trọng
phân phối lại qua phúc lợi xã hội đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, y tế, bảo
đảm đời sống ít nhất là ở mức trung bình của xã hội cho các đối tượng chính
sách” [27, tr.139].
* Đặc điểm thứ năm: “Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân,
bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền
XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
Đặc điểm này nói rõ vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, vai trò quản
lý nền kinh tế của Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm cho việc định

28
hướng XHCN của nền kinh tế ở nước ta. Nền KTTT ở nước ta có mục tiêu
thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nhân
dân vừa là mục đích của sự phát triển kinh tế, vừa là chủ thể của quá trình
phát triển kinh tế. Nhân dân là người làm chủ xã hội chủ yếu thông qua nhà
nước. Nhà nước của ta là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì
dân. Nhờ có Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân thực hiện quyền
làm chủ xã hội của mình, trước hế là kiểm soát, định hướng XHCN của nền
kinh tế.
Vai trò quản lý và điều tiết nền kinh tế của Nhà nước XHCN dưới sự
lãnh đạo của Đảng là sự thể hiện rõ rệt và sự bảo đảm chắc chắn định hướng
XHCN của nền kinh tế, đồng thời đây cũng là sự khác biệt cơ bản giữa nền
kinh tế TBCN và nền kinh tế XHCN. Nhà nước quản lý, điều tiết nền KTTT
chủ yếu bằng pháp luật, bằng quy hoạch, kế hoạch, sử dụng các công cụ kinh
tế, các cơ chế chính sách để tác động một cách gián tiếp đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế, bảo đảm mục đích của nền kinh tế.
Năm đặc điểm trên vừa nói lên mục đích phát triển của nền kinh tế, vừa
nói lên cơ cấu các thành phần, cơ chế hoạt động, hình thức phân phối và vị
thế, vai trò làm chủ xã hội, quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhân dân thông
qua Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là kết quả
của quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn của Đảng, vừa thể hiện sự vận
dụng đúng đắn các quy luật khách quan của KTTT, thông lệ quốc tế, phù hợp
với điều kiện phát triển của Việt Nam, vừa bảo đảm tính định hướng XHCN
của nền kinh tế.
1.3. Mối quan hệ giữa giáo dục đào tạo và kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay
1.3.1. Giáo dục đào tạo và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
cùng mục tiêu chung là phát triển kinh tế - xã hội
Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta từng bước được hình thành đã

29
và đang tác động sâu sắc và mạnh mẽ đến ý thức và hành vi của mỗi người
cũng như trên các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có GD - ĐT. Hiện
nay GD - ĐT đang đứng trước yêu cầu phải đổi mới, cải cách để đáp ứng
những đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
Chúng ta đã trải qua hơn 20 năm thực hiện chuyển đổi nền kinh tế
XHCN từ kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế vận động theo cơ
chế thị trường định hướng XHCN. Trong điều kiện phát triển KTTT định
hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta dù muốn hay không cũng
phải chấp nhận cơ chế thị trường, vận dụng nó một cách khôn ngoan để tồn
tại và phát triển, kể cả trong lĩnh vực giáo dục.
Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết
định sự phát triển đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH, cần tạo sự chuyển biến
cơ bản, toàn diện về GD - ĐT.
Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự
tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp
luật… Đào tạo lớp lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề
nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, quan tâm tới cái mới. Xây dựng đội ngũ
công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hóa, doanh
nhân… Chính sách sử dụng lao động và nhân tài phải tận dụng mọi năng lực,
phát huy mọi tiềm năng của tập thể và cá nhân phục vụ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước.
Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực quan trọng nhất trong
quá trình CNH, HĐH đất nước. Nguồn nhân lực - chất lượng nguồn nhân lực
là nguồn lực bên trong của đất nước, nó cùng với con người, vốn trong nước,
vật chất kỹ thuật, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, kết hợp với nguồn lực
bên ngoài tạo nên nguồn lực tổng hợp để phát triển xã hội. Vấn đề con người
và nguồn nhân lực rất gắn quyện với nhau, hệ thống giá trị vật chất, tinh thần
do con người tạo ra qua giáo dục trở lại với con người được con người thừa

30
kế và phát triển tạo thành sức mạnh của mỗi con người, thành vốn người,
nguồn lực con người tạo ra giá trị mới đáp ứng nhu cầu của từng cá nhân, của
nhóm người và sự phát triển của đất nước nói chung. Trong nhiều năm gần
đây, Đảng ta ban hành hàng loạt nghị quyết về phương hướng, mục tiêu, điều
kiện và giải pháp thuộc những lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến sự nghiệp
chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, phát triển con người Việt
Nam toàn diện. Đảng ta coi nguồn lực con người là nguồn lực quyết định cho
sự thắng lợi của công cuộc CNH, HĐH đất nước. Chính con người vừa là
động lực thúc đẩy, vừa là mục tiêu của CNH, HĐH, chỉ có CNH, HĐH đất
nước mới tạo tiền đề để con người phát triển toàn diện.
Ở nước ta, vai trò quan trọng của người quản lý được đề cao qua câu
nói: "một người lo bằng kho người làm". Về cán bộ quản lý, Chủ tịch Hồ Chí
Minh từng nói, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện
được. Tại Đại hội VII của Đảng, vai trò con người, nguồn lực con người được
khẳng định như một yếu tố cơ bản của sự phát triển. Trong tổng hợp các
nguồn lực: vốn, tài nguyên, vị trí địa lý, nguồn lực nước ngoài và nguồn lực
con người, các nguồn lực khác chỉ là tiềm năng, vai trò, tác động; sức mạnh
của chúng mạnh đến đâu đều thông qua và phụ thuộc vào hoạt động của con
người, bởi chỉ có con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có tri thức và ý
chí, chỉ có con người mới có thể gắn kết các nguồn lực khác tạo thành sức
mạnh tổng hợp cho một mục tiêu nhất định, các nguồn lực khác là khách thể
thực sự cải tạo, khai thác và đều phục vụ cho nhu cầu lợi ích của con người.
Có thể thấy các nguồn lực khác đều bị ảnh hưởng của nhiều điều kiện
khác nhau như khai thác quá nhiều tài nguyên thiên nhiên có thể dẫn tới sự
cạn kiệt và tác hại của sự phá hoại tài nguyên thiên nhiên đó là sự huỷ diệt
môi trường, gián tiếp huỷ diệt con người. Nói tới nguồn nhân lực là muốn nói
tới số lượng và chất lượng của nó. Số lượng nguồn nhân lực là khả năng cung
cấp lực lượng lao động cho sự phát triển kinh tế xã hội. Số lượng nguồn nhân

31
lực con người đóng vai trò quyết định tới quá trình CNH, HĐH. Yếu tố quan
trọng nhất trong nguồn nhân lực là chất lượng nguồn nhân lực. Nói đến chất
lượng nguồn nhân lực là nói đến hàm lượng trí tuệ, trong đó bao gồm trình độ
tay nghề, phẩm chất tốt đẹp của người lao động, thể lực... trong đó trí tuệ là
yếu tố quyết định của nguồn nhân lực. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói,
một dân tộc dốt là một dân tộc yếu.
Chúng ta thấy rằng ở nước ta hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực còn
nhiều yếu kém, chương trình đào tạo không phù hợp với thực tế của thị
trường lao động. Hơn nữa, việc phân bổ, sử dụng nguồn nhân lực bất cập,
thiếu đồng bộ đã làm cho mâu thuẫn về cung cầu nguồn nhân lực cả về số
lượng và chất lượng. Những nơi cần thì không đủ, còn những nơi chưa cần thì
lại nhiều gây ra sự lãng phí lớn cho xã hội. Nguồn nhân lực chính là yếu tố
quyết định thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nhất là trong thời
đại khoa học công nghệ và kinh tế tri thức hiện nay. Nguồn nhân lực có dồi
dào hay không lại phụ thuộc vào chính sách đào tạo.
Trước xu thế chung của thế giới, chúng ta cần hội nhập vào nền kinh tế
thế giới. Nước ta đã tham gia vào rất nhiều tổ chức kinh tế trong khu vực và
trên thế giới như ASEAN, APEC, WTO… thì tính cạnh tranh của nền kinh tế
cần được nâng cao. Do đó, nắm được khoa học, kỹ thuật, công nghệ hiện đại
để chủ động trong quá trình sản xuất, kinh tế đối ngoại… là rất quan trọng.
Chúng ta phải xác định rõ ràng những chính sách thích hợp để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực.
Nhà nước nên quan tâm đến chính sách quốc gia về việc làm, nâng cao
đời sống cho người dân, tránh tình trạng chảy máu chất xám. Hiện nay, tình
trạng chảy máu chất xám ở nước ta rất đáng lo ngại. Nhân tài đang có xu
hướng muốn làm việc ở các nước có nền kinh tế phát triển, ở đó họ được đáp
ứng tốt về điều kiện làm việc cũng như sinh hoạt. Chúng ta cần có những

32
chính sách khuyến khích họ như tạo điều kiện về nhà ở, trả lương cao với
đúng năng lực lao động của họ, cung cấp mọi cơ sở vật chất tốt nhất để họ có
thể phát huy năng lực cống hiến cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
1.3.2. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩaở Việt Nam hiện nay tuân theo những quy luật của nó
Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam đang thực hiện là một nền
kinh tế vừa tuân theo những quy luật của KTTT, vừa chịu sự chi phối bởi các
quy luật kinh tế của CNXH và các yếu tố đảm bảo tính định hướng XHCN.
Cơ chế vận hành nền kinh tế đó là cơ chế thị trường định hướng XHCN. Hiện
nay nền kinh tế ở nước ta là nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ
chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường, trong đó các yếu tố thị trường
còn ở mức sơ khai, chưa đầy đủ và đồng bộ, chưa đạt đến trình độ của thị
trường đương đại. Để tạo điều kiện thúc đẩy KTTT phát triển mạnh mẽ,
chúng ta phải tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN.
Đến Đại hội IX, Đảng ta mới chính thức đưa ra khái niệm KTTT định
hướng XHCN, khẳng định phát triển KTTT định hướng XHCN là đường lối
chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ
lên CNXH ở Việt Nam. Đây là mô hình KTTT mới trong lịch sử phát triển,
nó vừa có những đặc điểm chung của nền KTTT hiện đại, vừa có những đặc
điểm riêng phù hợp với những điều kiện đặc thù của Việt Nam.
Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm một
bước nội dung cơ bản của việc tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng
XHCN trên các phương diện: nắm vững định hướng XHCN trong nền KTTT
ở nước ta, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của nhà nước, phát triển đồng
bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại hình thị trường cơ bản theo cơ
chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại
hình tổ chức sản xuất kinh doanh.

33
Các nội dung trên có mối liên hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau.
Phát triển KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế đó phải tuân theo các
nguyên tắc và quy luật phổ biến của KTTT như là giá trị phổ biến của toàn
nhân loại, đồng thời thể hiện tính định hướng XHCN, tạo ra chất mới của sự
phát triển. Chính đặc trung này chi phối và quyết định động lực, phương tiện,
công cụ, con đường đạt tới mục tiêu là sử dụng KTTT, nâng cao hiệu quả và
hiệu lực điều tiết của Nhà nước, phát triển mạnh các loại hình thị trường, tích
cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, để rút ngắn khoảng cách tụt hậu về
kinh tế so với các nước trong khu vực, tực hiện mục tiêu Việt Nam cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Định hướng XHCN trong phát triển nền KTTT ở nước ta thể hiện ở 4
tiêu chí sau:
- Về mục tiêu: mục tiêu của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là
nhằm: Thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triến sức sản xuất, nâng
cao đời sống nhân dân. Đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi
người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng
bước khá giả hơn.
- Về phương hướng: phát triển các thành phần kinh tế và khẳng định
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
- Về định hướng xã hội và phân phối: phải thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; tăng
trưởng kinh tế phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hoá,
giáo dục… giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
- Trong lĩnh vực quản lý: phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân,
bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền
XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.

34
1.3.3. Phát triển giáo dục đào tạo phù hợp mục tiêu kinh tế - xã hội
theo chức năng của nó
* Phát triển giáo dục toàn diện
Thực hiện giáo dục toàn diện chính là mục tiêu GD - ĐT những người
lao động có lý tưởng XHCN, có đạo đức, có tri thức văn hoá, có sức khoẻ và
có kỷ luật. Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học
sinh, sinh viên. Việc chú trọng cải tiến nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng
day và học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta phù hợp với từng bậc học, cấp học là hết sức
quan trọng. Điều này đặc biệt cần thiết vì khi chuyển sang nền KTTT các cơ
sở đào tạo thường chỉ chú ý đến giáo dục tri thức.
* Xây dựng nền giáo dục theo hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội
hoá”
Chuẩn hoá về chương trình, nội dung giảng dạy, sách giáo khoa, giáo
trình và quy trình kiển tra, đánh giá chất lượng GD - ĐT. Chuẩn hoá tiêu chí
đánh giá sản phẩm cuối cùng của giáo dục là con người. Chuẩn hoá đội ngũ
giáo viên. Chuẩn hoá về cơ sở vật chất, trường lớp, các trang thiết bị dạy và
học cho tất cả các cấp học, bậc học. Nhà nước, chính quyền và ngành giáo
dục các cấp phải chịu trách nhiệm chính trong việc thực hiên và tổ chức quản
lý tốt việc chuẩn hoá.
Hiện đại hoá giáo dục là hiện đại hoá nội dung và quy trình đào tạo
trong đó đưa vào những nội dung phản ánh những thành tựu mới nhất của văn
hoá, khoa học và đổi mới phương pháp GD - ĐT phù hợp với xu thế hiện đại
và hiện đại hoá các phương tiện dạy, học, tăng cường các thiết bị thông tin,
viễn thông. Giáo dục đi vào hiện đại hoá đòi hỏi phải đào tạo được đội ngũ
người lao động phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước tức là phải hiện đại hoá được sản phẩm cuối cùng của giáo dục là con
người.
35
Xã hội hoá giáo dục là huy động lực lượng của toàn xã hội cùng tham
gia vào quá trinh GD - ĐT, đồng thời tạo điều kiện để mọi người dân được
thụ hưởng các thành quả do hoạt động giáo dục mang lại.
* Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục
Công bằng xã hội trong giáo dục là sự bình đẳng trong tiếp cận, tham
gia vào quá trình giáo dục, là sự đối xử như nhau với mọi học sinh khi họ học
tại các cơ sở đào tạo khác nhau. Đây là một trong những nội dung chính của
việc xây dựng nền giáo dục định hướng XHCN, bảo đảm cơ hội được học tập
cho mọi người, tạo điều kiện cho nhân dân lao động, nhất là con em các gia
đình nghèo và diện chính sách được học tập. Đồng thời có chính sách khuyến
khích, tạo điều kiện cho những học sinh giỏi, có năng khiếu hoặc những
người có khả năng học tập và điều kiện tài chính được học tập thuận lợi hơn ở
tất cả các bậc học, nhất là đại học và sau đại học.
* Phát triển GD - ĐT gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội
Đây là yêu cầu kế thừa các nguyên tắc xây dựng nền giáo dục cách
mạng và cũng là đòi hỏi của việc nâng cao hiệu quả giáo dục phục vụ sản
xuất, đời sống. Nhà trường phải vừa chú ý giáo dục ý thức, khả năng lao
động, thực hành cho học sinh trong quá trình dạy học. Nhưng điều quan trọng
hơn là làm cho những kiến thức học trong nhà trường phải gắn với nghề
nghiệp của họ trong tương lai. Chúng ta phải làm cho toàn bộ nền giáo dục
thích ứng với nhu cầu và đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước,
giải quyết tốt mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường trong giáo dục.
Ở những nước có nền giáo dục đạt hiệu quả cao thì quy mô phát triển
giáo dục phải do nhu cầu và trình độ phát triển của nền kinh tế quyết định và
chỉ được phép mở rộng quy mô trên cơ sở đủ điều kiện bảo đảm chuẩn chất
lượng. Ở nước ta cần phải làm như vậy. Đối với việc đào tạo nhân lực và phát
triển nhân tài, chất lượng là quan trọng nhất, do đó phải tính toán nhu cầu và
quy hoạch phát triển từng ngành, từng địa phương, khả năng của các cơ sở giáo

36
dục mà bố trí kế hoạch đào tạo, sử dụng. Đối với việc nâng cao dân trí có thể
khuyến khích phát triển quy mô theo nhu cầu học tập của nhân dân nhưng cũng
cần có sự quản lý cần thiết của chính quyền để đảm bảo chất lượng đào tạo.
* Coi trọng hướng nghiệp. dạy nghề, tập trung vào mục tiêu nhân lục,
đào tạo theo nhu cầu của thị trường
Tập trung làm tốt công tác hướng nghiệp và quản lý đào tạo nghề trung
học kỹ thuật nghiệp vụ, cao đẳng, đại học và sau đại học.
Đào tạo nhân lực theo nhu cầu của thị trường:
Gíáo dục được xác định là một dịch vụ nhưng không phải là một hàng
hoá. Dịch vụ vì sản phẩm của giáo dục là kiến thức, kỹ năng. Trước hết cần xác
định nhà trường là người cung ứng dịch vụ giáo dục và sinh viên là người có
nhu cầu về dịch vụ giáo dục. Do đó thị trường giáo dục sẽ tồn tại nếu tồn tại cả
cung và cầu. Sinh viên phải được xem và đối xử như khách hàng. Nếu không
có sinh viên thì không có nhà trường. Việc xác định ngành học theo nhu cầu
của sinh viên thông qua số lượng thí sinh dự thi và trúng tuyển. Nếu ngành nào
có số lượng thí sinh nhiều và điểm trúng tuyển cao thì đó là ngành xã hội có
nhu cầu cao. Do đó để đáp ứng nhanh và kịp thời nhu cầu của thị trường nhà
trường cần có quyền quyết định trong việc lựa chọn ngành đào tạo.

37
Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÙ HỢP MỐI QUAN HỆ
GIỮA GIÁO DỤC ĐÀO TẠOVÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Thực trạng mối quan hệ giữa giáo dục đào tạo và kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Giáo dục đào tạo và kinh tế thị trường định hướng XHCN đã
bước đầu thúc đẩy các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
Đảng ta coi phát triển GD - ĐT là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người
- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Phát triển khoa học, công nghệ cùng với phát triển GD - ĐT là quốc sách
hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đặc biệt
việc “tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực trọng tâm là GD-
ĐT, khoa học, công nghệ” đã được xác định là ba khâu đột phá then chốt để
làm chuyển động toàn bộ tình hình kinh tế - xã hội.
Tiếp tục quán triệt quan điểm GD - ĐT là quốc sách hàng đầu, đầu tư
cho giáo dục là đầu tư phát triển, Đảng ta chủ trương tạo sự chuyển biến cơ
bản, toàn diện trong phát triển GD - ĐT, tiếp tục nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường
lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội
hoá” thực hiện “giáo dục cho mọi người”. Tăng ngân sách nhà nước cho GD -
ĐT theo nhịp độ tăng trưởng kinh tế, tăng nhanh tỷ lệ lao động được đào tạo
trong toàn bộ lao động xã hội, mở rộng hợp lý quy mô giáo dục đại học, làm
chuyển biến rõ nét về chất lượng và hiệu quả đào tạo, tăng cường giáo dục
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên, thực hiện công
bằng xã hội trong giáo dục.
38
Công tác chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức và lý tưởng, công tác
phát triển Đảng trong các nhà trường được tăng cường. Chất lượng tư tưởng
chính trị của đội ngũ giáo viên được tăng lên. Đây là cơ sở cho việc các thầy
cô giáo đã chú ý hơn tới việc giáo dục nhân cách, giáo dục đạo đức, giáo dục
tư tưởng chính trị cho học sinh, sinh viên, khắc phục một phần tư tưởng
chuyên môn thuần tuý và biểu hiện “nhạt chính trị”, “thương mại hoá” ở một
số thầy cô giáo. Công tác đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội xâm nhập
nhà trường, đặc biệt là đấu tranh với các tệ nạn ma tuý, tuyên truyền phòng
chống nhiễm HIV- AIDS… được đẩy mạnh.
Cùng với phong trào học tập nâng cao trình độ, cập nhật các kiến thức
khác (như tin học, ngoại ngữ, quản trị kinh doanh, luật pháp…) cần thiết cho
lao động, cho công tác của đông đảo người lao động, trình độ dân trí được
nâng lên một bước đáng kể. Chính điều này đã nâng cao chất lượng đào tạo
nhân lực phục vụ CNH, HĐH đất nước, đồng thời cũng đặt ra vấn đề phải
quan tâm điều chỉnh quy mô đào tạo ở bậc trung học để có kế hoạch phân
luồng, đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động phục vụ đắc lựccho phát
triển kinh tế - xã hội.
Chất lượng GD - ĐT đã có nhiều chuyển biến bước đầu. Chúng ta đã có
một bước tiến lớn trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách đối
với giáo dục. Ngành GD - ĐT đã tập trung chỉ đạo việc khắc phục những yếu
kém như lập lại trật tự, kỷ cương nhà trường, khắc phục các tiêu cực trong thi
cử, chống việc học thêm, dạy thêm tràn lan ở phổ thông.
Tuy nhiên, ngành giáo dục vẫn con một số tồn tại như chất lượng, hiệu
quả của GD - ĐT tuy đã có những chuyển biến nhưng nhìn chung còn thấp so
với yêu cầu. Hiệu quả hoạt động giáo dục còn thấp. Số lượng lao động qua
đào tạo chưa nhiều, hơn nữa, khả năng tiếp thu kỹ thuật, công nghệ mới con
kém. Chưa có giải pháp hữu hiệu trong việc đào tạo nhân lực để tăng năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế, để phát triển nông thôn, thực hiện sự chuyển dịch

39
cơ cấu kinh tế và lao động. Đào tạo đại học và giáo dục nghề nghiệp chưa phù
hợp với nhu cầu về lao động của xã hội, một số đáng kể những người tốt
nghiệp không làm đúng ngành nghề, không đến làm ở những nơi đang cần,
chậm thích nghi với việc làm, thiếu tự giác và trung thực trong lao động, thiếu
trách nhiệm với sản phẩm, không tôn trọng quy trình kỹ thuật, tham ô, lãng
phí nguyên vật liệu, thiếu tinh thần hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Cơ cấu
đào tạo chưa hợp lý, mất cân đối về bậc học, về ngành nghề, về vùng lãnh thổ.
Hầu hết các học sinh phổ thông chỉ chọn một con đường là học lên đại học,
việc học nghề ở các trình độ thấp hơn còn hạn chế. Việc tăng quy mô đào tạo
đại học chưa được định hướng vào nhu cầu của xã hội. Phân bố học sinh, sinh
viên theo ngành nghề, theo vùng, miền chưa phù hợp với nhu cầu kinh tế - xã
hội của cả nước và của địa phương gây nên tình trạng nơi thừa, nơi thiếu.
Khoảng cách về trình độ phát triển GD - ĐT giữa các vùng trong nước chưa
được thu hẹp. Đào tạo nghề chưa gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội. Các hiện tượng tiêu cực trong ngành GD - ĐT còn nhiều, nhưng chậm
được khắc phục, việc giáo dục chính trị, đạo đức trong các trường học chưa
được quan tâm đúng mức.
Như vậy, có thể thấy, kết quả giải quyết các yếu kém trong công tác
GD - ĐT còn nhiều hạn chế, các vấn đề nổi cộm chưa được giải quyết dứt
điểm mà có những biểu hiện ngày càng tinh ti và nghiêm trọng hơn. Đó vẫn
còn là thách thức lớn đối với giáo dục nước ta trong thời gian tới.
Nguyên nhân làm cho giáo dục nước ta chưa thoát khỏi tình trạng yếu
kém, trong khi khả năng và điều kiện khách quan còn hạn chế, chúng ta chưa
đồng thời vừa phát triển nhanh về quy mô, vừa nâng cao chất lượng. Hệ thống
quản lý GD - ĐT chậm đưa ra được những định hướng chiến lược và các
chính sách vĩ mô đúng đắn để xử lý những tương quan lớn trong GD - ĐT
như: số lượng - chất lượng, đào tạo - sử dụng, cung - cầu, chi phí - lợi ích, cơ
cấu kinh tế - xã hội, cơ cấu lao động, cơ cấu đào tạo, tập trung, phân quyền

40
chưa phối hợp tốt và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước và của
xã hội. Một số chủ trương đổi mới đưa ra thực hiện khi chưa có căn cứ đầy
đủ. Các văn bản pháp quy về GD - ĐT chưa được ban hành kịp thời. Năng lực
quản lý của cán bộ lãnh đạo các cấp chưa theo kịp thực tiễn phát triển GD -
ĐT. Hơn nữa quan điểm GD - ĐT là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục
là đầu tư để phát triển vẫn chưa được quán triệt đầy đủ trong hoạt động thực
tiễn. Bên cạnh đó, đất nước khi chuyển sang nền KTTT và thực hiện chính
sách mở cửa đang làm thay đổi thang giá trị xã hội, những giá trị mới chưa
được hình thành vững chắc và ổn định đủ sức định hướng sự phát triển nhân
cách người học.
2.1.2. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa các
loại thị trường phát triển chậm , chưa đồng bộ, thể chế kinh tế thị trường
chưa rõ ràng, chưa mạnh
Để phát triển bền vững nền KTTT định hương XHCN ở nước ta cần có
các điều kiện khác nhau trong đó có việc hình thành và phát triển đồng bộ các
loại thị trường. Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Thúc đẩy sự hình thành,
phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng
XHCN, đặc biệt là quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện nay chưa
có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị
trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ… ” [25, tr.100].
Các loại thị trường cơ bản trong nền kinh tế có quan hệ tương tác và
thúc đẩy lẫn nhau tạo thành một hệ thống thị trường thống nhất. Nếu như một
loại thị trường nào đó không phát triển, hoặc phát triển ở trình độ thấp thì sẽ
tác động đến sự phát triển và chức năng của các loại thị trường khác, làm méo
mó hệ thống thị trường, dẫn đến hiệu quả tăng trưởng thấp. .
Trong các loại thị trường cơ bản ở nước ta, thị trường hàng hoá và dịch
vụ có vai trò khởi đầu, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao
động, thị trường bất động sản, thị trường tài chính, thị trường khoa học và

41
công nghệ… Mặt khác, để phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ đến trình
độ cao, cần thiết phải phát triển và hoàn thiện các loại thị trường lao động, thị
trường bất động sản, thị trường tài chính, thị trường khoa học và công nghệ…
Do đó, việc phát triển đồng bộ các loại thị trường cơ bản ở nước ta là một yêu
cầu cấp thiết đặt ra để phát triển nền KTTT định hướng XHCN.
Ở Việt Nam, quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá
tập trung sang cơ chế thị trường định hướng XHCN đã tạo điều kiện, môi
trường cho sự hình thành, phát triển các loại thị trường. Một số loại thị trường
như thị trường hàng hoá và dịch vụ đã phát triển nhanh chóng và đạt đến trình
độ cao, nhưng một số thị trường vẫn kém phát triển hoặc chưa hình thành một
cách đầy đủ, bị biến dạng. Nhìn một cách tổng quát, hệ thống thị trường ở
nước ta còn đang ở trạng thái phát triển chậm, chưa đồng bộ.
Thị trường hàng hoá, dịch vụ ở nước ta đã có tốc độ tăng trưởng nhanh
trong thời gian dài, đạt đến trình độ phát triển khá cao, với một hành lang
pháp lý tương đối lành mạnh và hợp lý. Trên thị trường này, chi phí giao dịch
luôn có xu hướng giảm dần, tự do trao đổi mua bán được thúc đẩy, quyền sở
hữu được xác định rõ ràng, hạ tầng cơ sở được cải thiện, lưu thông hàng hoá
tăng trưởng nhanh.
Còn nhiều vướng mắc và bất cập nhất là thị trường bất động sản. Các
giao dịch về bất động sản vẫn chưa được đặt một cách đầy đủ trong quan hệ
thị trường, không công khai, minh bạch, thiếu thống nhất. Thị trường phi
chính phủ về bất động sản vẫn còn tồn tại.
Thị trường vốn chưa tạo thuận lợi và cơ hội cho các thành phần kinh tế
trong việc tiếp cận các nguồn vốn. Trong nhiều trường hợp, tổ chức tín dụng
không được tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc cho vay, còn bị can thiệp
bởi mệnh lệnh hành chính của cơ quan nhà nước.
Thị trường lao động còn sơ khai, chưa tạo điều kiện thúc đẩy sự chuyển
dịch lao động, phân bố lại lao động, bảo đảm cho người lao động có nhiều cơ

42
hội lựa chọn chỗ làm việc và có thu nhập thoả đáng. Sức lao động chưa thực
sự được coi là hàng hoá, người lao động chưa có đủ điều kiện tiếp cận với các
cơ hội làm việc phù hợp với nhu cầu và năng lực. Người sử dụng lao động
cũng chưa được quyền tự do lựa chọn, tuyển dụng và trả công xứng đáng cho
người lao động theo cơ chế thị trường, các hình thức đào tạo, đào tạo lại nghề
cho người lao động chưa được xã hội hóa.
Thị trường khoa học và công nghệ chưa gắn với hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, nhất là chưa ứng dụng được công nghệ thích hợp, tiên tiến,
nâng cao chất lượng, tạo sản phẩm, hàng hoá có sức cạnh tranh cao, chiếm
lĩnh thị trường. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp chưa có sức ép phải
ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất, kinh doanh, đồng thời các quy
định về quyền tác giả, bảo hộ sở hữu công nghiệp, chuyển giao công nghệ…
vẫn chưa tạo điều kiện cho việc giao dịch về khoa học, công nghệ hoạt động
theo cơ chế thị trường.
Những yếu kém của các thị trường nói trên không chỉ kìm hãm sự phát
triển sức sản xuất xã hội mà còn làm chậm tốc độ tăng trưởng của thị trường
hàng hoá và dịch vụ. Sự tụt hậu, kém phát triển của các thị trường này so với
thị trường hàng hoá và dịch vụ là biểu hiện rõ nét nhất của sự thiếu đồng bộ
của các loại thị trường trong nền kinh tế nước ta hiện nay.
Vì vậy, để phát triển đồng bộ các loại thị trường, trước hết Đảng và
Nhà nước ta phải có chủ trương, định hướng để thúc đẩy nhanh sự phát triển
động bộ các loại thị trường. Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định
phương hướng phát triển các loại thị trường ở nước ta như sau: “Phát triển
đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ
chế cạnh tranh lành mạnh. Cùng với việc phát triển thị trường hàng hoá, dịch
vụ và thị trường sức lao động, cần phát triển vững chắc thị trường tài chính,
bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu
hoàn chỉnh; phát triển thị trường bất động sản bao gồm thị trường quyền sử

43
dụng đất và bất động sản gắn liền với đất…; phát triển thị trường khoa học và
công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn sản phẩm khoa
học và công nghệ… trở thành hàng hoá” [26, tr.27].
Trên cơ sở thực trạng của các loại thị trường ở Việt Nam và quan điểm,
phương hướng của Đại hội X, để phát triển đồng bộ các loại thị trường cần
thực hiện một số giải pháp sau:
- Đổi mới tư duy, tạo nhận thức mới về sự phát triển các loại thị trường.
Đó là sự nhất quán thực hiện việc kết hợp các yêu cầu và quy luật của KTTT
hiện đại với tính định hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế ở nước ta.
- Hoàn thiện môi trường thể chế, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà
nước, tập trung vào các nội dung chủ yếu như tạo môi trường và điều kiện cho
tự do sản xuất, kinh doanh, tự do lưu thông hàng hoá trên các thị trường.
- Đầu tư, tạo tiền đề, cơ sở cho sự hình thành và phát triển các loại thị
trường. Đối với các vùng kinh tế chậm phát triển, kinh tế tự cấp, tự túc còn
phổ biến thì phải đầu tư xây dựng hệ thống giao thông thuận lợi cho giao lưu
hàng hoá giữa các vùng, xây dựng chợ hoặc trung tâm thương mại để có nơi
trao đổi, mua bán hàng hoá. Ở các nơi kinh tế và thị trường phát triển chủ yếu
là đầu tư theo chiều sâu, phải phát triển dịch vụ hỗ trợ, hình thành các trung
tâm thông tin và định hướng thị trường như thị trường bán buôn, trung tâm
giao lưu kinh tế với nước ngoài, sở giao dịch hàng hoá, trung tâm đào tạo và
cung cấp nguồn nhân lực…
- Tiếp tục đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá sở hữu, phát triển nền kinh
tế với nhiều loại hình sản xuất, kinh doanh, vừa tạo ra sức cung, vừa tạo ra
sức cầu cho các loại thị trường.
2.1.3. Mục tiêu, chức năng và lĩnh vực hoaṭ động của giáo dục đào
tạo còn có biểu hiện lệch lạc
* Số lượng các trường đại học và cao đẳng và sự mất cân đối về cơ cấu

44
ngành nghề đào tạo.
Để đáp ứng nhu cầu đào tạo ngày càng tăng nên có rất nhiều trường đại
học cao đẳng được thành lập tăng nên với rất nhiều chuyên ngành mở ra.
Theo số liệu điều tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính đến tháng 9/2009 cả
nước có 376 trường đại học và cao đẳng. Đồng thời ngày càng có nhiều
trường, các cơ sở đào tạo ngoài công lập khác nhau được thành lập. Đến tháng
9 năm 2009 có 81 trường đại học và cao đẳng ngoài công lập chiếm 21,5%.
Tuy nhiên, do sự tăng lên nhanh chóng về số lượng các trường đại học
và cao đẳng, việc đưa các trường cao đẳng lên đại học và mở nhiều đại học dân
lập trong khi chưa chuẩn bị đủ điều kiện cần thiết, đồng thời chưa đổi mới về
cơ chế quản lý chất lượng các trường này nên đã dẫn đến chất lượng đào tạo
không được tốt, và xảy ra nhiều vấn đề tiêu cực nghiêm trọng diễn ra trong một
thời gian dài. Trong một số trường, kể cả một số trường công lập mới mở chưa
có cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ giảng dạy cơ hữu phù hợp vẫn tuyển sinh
ngay một lúc nhiều ngành đào tạo trong đó có cả các ngành kỹ thuật.
Việc phân bố các trường đại học, cao đẳng chưa đều, tập trung đông ở
một số trung tâm văn hóa, kinh tế lớn còn các vùng cao, miền núi, vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn còn ít. Điều này dẫn tới hạn chế số lượng
sinh viên ở các vùng kinh tế khó khăn có khả năng theo học.
Hiện nay, ngày càng có nhiều ngành đào tạo được mở ra đáp ứng được
nhu cầu của thị trường nhưng tồn tại tình trạng mất cơ cấu về ngành nghề đào
tạo. Theo số liệu điều tra “trong 50 năm qua chúng ta đã đào tạo được hơn 1
triệu cán bộ các ngành khoa học, kỹ thuật có trình độ đại học với cơ cấu là: sư
phạm chiếm 33,3%; khoa học kỹ thuật là 25,5%; khoa học xã hội là 17%; y
dược là 9,3%; nông nghiệp là 8,1%; khoa học tự nhiên là 6,8%. Với một nước
nông nghiệp như nước ta hiện nay mà chỉ có 8,1% cán bộ có trình độ đại học
được đào tạo thuộc ngành nông nghiệp thì cơ cấu trên là bất hợp lý” [43].

45
* Nội dung chương trình đào tạo và tình trạng thiếu giáo trình ở nhiều
môn học.
Nội dung chương trình đào tạo có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào
tạo và giáo trình là một công cụ để chuyển các kiến thức đó đến cho sinh viên.
Tuy nhiên, hiện nay, chương trình đào tạo và vấn đề giáo trình ở nước ta còn
nhiều bất cập. Đa số các trường vẫn đang trong tình trạng thiếu giáo trình, có
nhiều môn học sinh viên không có giáo trình để nghiên cứu. Còn có những
môn đã có giáo trình nhưng nội dung chủ yếu được biên soạn từ rất lâu. Qua
thực tế điều tra ở một số trường đại học và cao đẳng ở nước ta cho thấy, giáo
trình ở các trường chủ yếu được biên soạn từ cách đây khoảng 20 đến 30 năm
và các thông tin trong đó đã quá lỗi thời không còn phù hợp với sự phát triển
mạnh mẽ hiện nay của xã hội.
Nội dung chương trình đào tạo của ta hiện nay còn nặng về lý thuyết, ít
gắn với thực tiễn, chương trình học tập quá tải, chiếm hết thời gian phát huy
khả năng tư duy sáng tạo của sinh viên gây ra tâm lý chán học, sợ học. Cụ thể
là chương trình đào tạo đại học bốn năm ở các nước phương Tây gồm 125
đến 130 tín chỉ [67], trong khi đó chương trình đào tạo đại học hệ bốn năm ở
nước ta trung bình khoảng 250 [60], trong khi kiến thức tiếp thu lại ít hơn.
Hiện nay, ở nước ta, việc biên soạn và in ấn giáo trình được khoán
trắng cho các trường đại học tự lo, do đó dẫn đến tình trạng bất cập về nội
dung lẫn kinh phí thực hiện. Điều đó dẫn đến giá sách hiện tại tương đối cao
so túi tiền của sinh viên.
* Phương pháp dạy và học.
Phương pháp dạy học chuyên nghiệp phải nhằm phát huy tính tự học,
tự nghiên cứu của sinh viên nhằm phát huy tư duy sáng tạo, tư duy độc lập
của sinh viên, người thầy chỉ giảng cho sinh viên những phần cơ bản nhất,
khó nhất trong giáo trình. Phần còn lại là sinh viên tự nghiên cứu. Nhưng hiện

46
nay, ở nước ta, phương pháp được sử dụng phổ biến trong các trường chuyên
nghiệp chủ yếu là thầy giảng, học sinh ngồi nghe và ghi chép, với số lượng
giờ lên lớp không dài nên chưa khuyến khích được tính chủ động tích cực của
sinh viên, chính vì vậy làm cho sinh viên trở nên thụ động trong việc tiếp thu
kiến thức. Mặc dù hiện nay, phương pháp dạy học ở nước ta đã có những đổi
mới nhưng còn diễn ra chậm. Vì vậy, trong thời gian tới cần phải đẩy nhanh
việc đổi mới phương pháp dạy và học ở giáo dục chuyên nghiệp theo hướng
phát huy tính độc lập, tư duy sáng tạo của sinh viên.
* Thiếu sự hợp tác giữa các cơ sở đào tạo với các đơn vị sử dụng.
Qui mô đào tạo của các trường liện tục mở rộng nhưng do các trường
thiếu sự hợp tác với các đơn vị, các doanh nghiệp, tổ chức lao động về nhu
cầu thực tế về lao động của các đơn vị sử dụng nên dẫn tới tình trạng mất cân
đối giữa cung và cầu đào tạo. Có ngành số sinh viên được đào tạo quá nhiều
so với nhu cầu nên nhiều người không tìm được việc làm phù hợp, trong khi
có những ngành nhu cầu tương đối lớn thì lại thiếu nhân lực. Vì vậy, nhiều
người sau khi được đào tạo không tìm được việc làm đã được đào tạo nên
phải chuyển sang làm những công việc khác không đúng chuyên môn hoặc
theo học những nghành đào tạo khác để có thể tìm được việc làm. Qua điều
tra cho thấy, hiện nay, có trên 32% số lao động trong các doanh nghiệp không
được sử dụng đúng chuyên ngành. Theo kết quả khảo sát của đề tài KX. 07.
14 chỉ có 48,8% nhân lực qua đào tạo được sử dụng đúng ngành nghề đã được
đào tạo. Như vậy đã lãng phí 51,2% nhân lực có trình độ. Hiện nay nhiều
doanh nghiệp đã có sự liên hệ với các cơ sở đào tạo như hàng năm đến kỳ thì
tốt nghiệp các doanh nghiệp đều cử người đến các trường xin tuyển người
đồng thời trao đổi về kế hoạch lao động trong tương lai cũng như yêu cầu đối
với sinh viên tốt nghiệp của đơn vị mình để có thể thu hút được ngày càng
nhiều nhân lực có trình độ.

47
2.2. Một số giải pháp bảo đảm phù hợp quan hệ giữa giáo dục đào
tạo và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay
2.2.1. Kiên trì mục tiêu, chức năng và lĩnh vực hoaṭ động cơ bản của
ngành giáo dục đào tạo nhằm “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài”.
Trong bối cảnh nước ta hiện nay và từ thực trạng nguồn nhân lực đã
trình bày ở trên, để phát huy nguồn nhân lực có chất lượng, đáp ứng những
đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, chúng ta cần xây dựng một hệ thống các giải pháp, từ giải pháp về
giáo dục đào tạo, về chăm sóc sức khoẻ, nâng cao chất lượng dân số, cải thiện
môi trường sống, về tạo việc làm, tổ chức khai thác lực lượng lao động, đến
giải pháp về phát triển văn hoá, tạo ra các động lực kích thích tính tính cực
cho con người.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người, GD - ĐT
luôn chiếm vị trí trọng yếu. Ngày nay, có lẽ không một quốc gia nào trên thế
giới lại không thấy rõ vị trí nền tảng, vai trò then chốt của GD - ĐT với công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng,
một trong những yếu tố tạo nên sự phát triển bền vững, sự tiến bộ vượt bậc cho
mỗi quốc gia là GD - ĐT. Cùng với sự đóng góp lớn lao đó, GD - ĐT đã tham
gia một cách trực tiếp và đóng vai trò quyết định trong chiến lược phát triển
con người. Đó là một lĩnh vực quan trọng không thể thiếu được để nâng cao
trình độ văn hoá, trình độ học vấn, trình độ khoa học kỹ thuật, xử lý công nghệ,
tổ chức quản lý và năng lực hoạt động thực tiễn của người lao động. Trong xã
hội hiện đại, trình độ và năng lực ấy của người lao động đã trở thành nhân tố
quan trọng và là điều kiện thiết yếu cho một xã hội phát triển bền vững.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước đòi hỏi chúng ta
phải tiếp tục phát triển sự nghiệp GD - ĐT. Bởi lẽ, hiện nay nguồn nhân lực ở
48
nước ta không chỉ có những ưu thế, lợi thế như lực lượng lao động rẻ, dồi
dào, có truyền thống yêu nước, cần cù lao động, thông minh, năng động, sáng
tạo... mà còn có cả những hạn chế như thể lực và trình độ văn hoá chưa cao,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng lao động chưa đáp ứng được nhu cầu
ngày càng mới của CNH, HĐH. Do vậy, để nhanh chóng có được một nguồn
nhân lực có chất lượng, có trí tuệ, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục phát triển sự
nghiệp GD - ĐT, làm cho nó thực sự trở thành "quốc sách hàng đầu", tham
gia ngày càng trực tiếp hơn và đóng vai trò quyết định trong chiến lược phát
triển con người, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Giáo dục có vai trò tạo cơ sở, tạo nền móng cần thiết ban đầu, là tiền đề
cần thiết cho đào tạo nguồn nhân lực và là một nhân tố cơ bản của phát triển
nguồn nhân lực. Vì vậy, trong việc đánh giá phát triển nguồn nhân lực của
một quốc gia, trước hết người ta dựa vào trình độ giáo dục phổ thông, phổ cập
giáo dục, số năm giáo dục bắt buộc... coi đó là nhân tố thuận lợi hay trở ngại
cho việc đầu tư và hoạt động kinh doanh. Trong các chính sách giáo dục thì
chính sách phổ cập giáo dục là trọng tâm và trở thành một trong những chính
sách phát triển nguồn nhân lực của nhiều quốc gia trên thế giới, tuy nhiên, tuỳ
vào từng điều kiện cụ thể của từng quốc gia mà đặt ra mục tiêu phổ cập trong
những thời kỳ nhất định.
Thể hiện chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam được ghi
nhận trong các nghị quyết của đại hội Đảng và các nghị quyết của hội nghị
toàn thể ban chấp hành Trung ương, gần đây nhất là Nghị quyết Đại hội VII,
VIII, IX, X. Nội dung chính sách GD - ĐT của Đảng tập trung vào những vấn
đề cơ bản sau:
- Xác định vị trí của GD - ĐT trong tổng thể những vấn đề kinh tế xã
hội trong sự phát triển của đất nước. GD - ĐT là vấn đề quốc sách hàng đầu
của sự phát triển nước ta.
- Xác định mục tiêu phát triển sự nghiệp GD - ĐT ở nước ta đó là

49
“nâng cao dân trí đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, đào tạo một
lớp người có sức khoẻ, trí tuệ và đạo đức trong sáng.
- Xác định trách nhiệm của nhà nước, của các tổ chức xã hội và toàn
thể xã hội đối với sự nghiệp GD - ĐT. Trong đó nhấn mạnh vai trò của nhà
nước trong quản lý và đầu tư, sự cần thiết xã hội hoá sự nghiệp GD - ĐT.
- Xác định các phương hướng mở rộng các hình thức GD - ĐT theo
hướng đa dạng hoá mọi điều kiện, cơ hội cho người dân tham gia GD - ĐT.
Có thể khẳng định rằng, nếu như nguồn nhân lực là vấn đề số một của
mọi quốc gia trong đó có Việt Nam, thì cái cách, phát triển GD - ĐT phải là
khâu đột phá mang tính tiên phong. Những giải pháp trong lĩnh vực GD - ĐT
là những giải pháp cơ bản, đầu tiên và quan trọng nhất. Vì GD - ĐT là
phương tiện chủ yếu để xây dựng, phát triển nguồn nhân lực. Trong khi đó,
mặc dù vấn đề đổi mới công tác GD - ĐT đã được bàn luận rất nhiều và đã
được thực hiện khá lâu nhưng cho đến nay kết quả vẫn rất hạn chế. Vì vậy,
cần có những giải pháp thiết thực hơn và thực hiện một cách quyết liệt hơn.
Tăng cường nguồn lực cho phát triển GD - ĐT cả về nhân lực, vật lực
lẫn tài lực. Về nhân lực, cần phải bằng mọi biện pháp để có được một đội ngũ
các nhà giáo từ lãnh đạo, quản lý đến giáo viên ở tất cả các cấp học có đủ tài,
đủ đức nghĩa là có đủ năng lực và phẩm chất cần thiết đáp ứng được yêu cầu
và nhiệm vụ. Về vật lực, cần tăng cường đầu tư một cách thoả đáng cho các
nhà trường vể cơ sở vật chất - kỹ thuật. Về tài lực, cần tăng nguồn tài chính
đầu tư cho GD - ĐT trên cả hai phương diện: đầu tư cho phát triển và chính
sách đãi ngộ cho nhà giáo. Đầu tư cho giáo dục luôn là đầu tư có lợi nhất vì
“đầu tư cho người đàn ông ta được người chồng tốt, đầu tư cho người phụ nữ
ta được một gia đình tốt, đầu tư cho nhà giáo ta được cả một thế hệ tốt”. Phải
xã hội hoá hơn nữa đầu tư cho GD - ĐT, trong đó ngân sách nhà nước giữ vai
trò chủ đạo.
Tiếp tục đổi mới mục tiêu, phương pháp GD - ĐT. Về mục tiêu: Cần

50
thừa nhận rằng trong điều kiện KTTT, mục tiêu GD - ĐT cũng nhất thiết phải
có tính kinh tế, cụ thể là sản phẩm đầu ra của GD - ĐT phải đáp ứng được yêu
cầu của người sử dụng sản phẩm ấy. Nói cách khác, mục tiêu GD - ĐT phải
được điều chỉnh theo hướng đề cao tính hiệu quả thiết thực của GD - ĐT.
Trong đó sản phẩm của GD - ĐT phải đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước trong điều kiện KTTT và hội nhập quốc tế hiện nay. Về
nội dung GD - ĐT, phải chú trọng trang bị cho người học những kiến thức
chuyên môn nghề nghiệp, trình độ tay nghề, kỹ năng lao động. năng lực sáng
tạo để người lao động đạt được tính chuyên nghiệp cao và tinh thông nghề
nghiệp. Cùng với đó, trong điều kiện KTTT và hội nhập quốc tế hiện nay,
trong nội dung GD - ĐT không thể xem nhẹ nội dung bồi dưỡng lòng yêu
nước, tinh thần tự tôn dân tộc, lối sống, đạo đức nghề nghiệp, văn hoá lao
động, đặc biệt là bản lĩnh chính trị cũng như là khả năng thích nghi với hướng
hoà đồng, hoà nhập, hoà giải và hợp tác. Đó là vì khả năng đoàn kết, hợp tác,
biết tôn trọng sự đa dạng, khác biệt không chỉ là một yêu cầu không thể thiếu
trong điều kiện lao động tập thể và sản xuất công nghiệp, mà còn là một trong
những phẩm chất đạo đức quan trọng của người lao động hiện nay. Về
phương pháp, cần sử dụng một cách phổ biến và triệt để các phương pháp GD
- ĐT tiên tiến theo hướng kết hợp hiện đại với truyền thống sao cho kích thích
và phát huy được tốt nhất tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
Phát triển về quy mô phải gắn chặt với nâng cao chất lượng và hiệu quả
của GD - ĐT. Cần thấy rằng trong điều kiện hiện nay, việc phát triển quy mô
GD - ĐT là yêu cầu cấp bách của đất nước ta. Có nhiều lý do để nền GD - ĐT
nước ta phải phát triển mạnh mẽ hơn về quy mô GD - ĐT, đặc biệt là đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao. Đó là tình hình chung của thế giới đang
chuyển sang nền kinh tế tri thức. Do tác động của cuộc cách mạng khoa học,
công nghệ hiện đại làm cho yếu tố vật chất trong lực lượng sản xuất phát triển
rất nhanh, đòi hỏi người lao động phải nhanh chóng nâng cao tri thức, trình độ

51
tay nghề cho tương xứng. Hiện nay, ở nước ta, các trường đại học, cao đẳng
mới chỉ tiếp nhận được khoảng 1/3 số lượng học sinh tốt nghiệp phổ thông
trung học, trong khi đó nhu cầu học tập còn rất cao và ngày càng tăng. Mặc
dù trong những năm gần đây, quy mô GD - ĐT ở nước ta đã phát triển khá
nhanh nhưng chất lượng và hiệu quả còn nhiều hạn chế, bất cập, gây lãng phí
lớn. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là phải vừa phát triển về quy mô GD - ĐT,
vừa nâng cao chất lượng, hiệu quả GD - ĐT.
Để nâng cao chất lượng, nội dung GD - ĐT phải cập nhật được những
thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, phải đạt tới mức “chuẩn hoá”, “hiện
đại hoá”. Việc tiếp thu những tiến bộ khoa học - công nghệ hiện đại ở đây là
cả nội dung kiến thức lẫn phương pháp GD - ĐT. Để tăng cường áp dụng các
chương trình và phương pháp đào tạo tiên tiến của thế giới trong các lĩnh vực
kinh tế, kinh doanh và công nghệ, kết hợp giữa đào tạo tinh hoa và đào tạo đại
trà, đẩy mạnh liên kết đào tạo trong và ngoài nước.
Để nâng cao hiệu quả GD - ĐT phải gắn kết chặt chẽ GD - ĐT với thị
trường lao động, lấy nhu cầu của thị trường lao động trong điều kiện KTTT
và hội nhập quốc tế làm cơ sở để hoạch định phương hướng phát triển, mục
tiêu, nội dung và phương pháp GD - ĐT thích hợp. Phải lấy thực tiễn khai
thác, sử dụng nguồn nhân lực trên thị trường lao động làm căn cứ để kiểm
định, đánh giá, điều chỉnh chương trình, nội dung và phương pháp GD - ĐT.
Việc khai thác hợp lý, có hiệu quả lực lượng lao động sẽ tạo ra điều kiện
thuận lợi, đem lại phương tiện vật chất và kích thích tinh thần cho sự phát
triển nguồn nhân lực. Ngược lại, phát triển tốt nguồn nhân lực sẽ là điều kiện
tiên quyết để nâng cao chất lượng và hiệu quả khai thác nguồn nhân lực. Vì
vậy, phải đảm bảo sự thống nhất giữa khai thác và phát triển, giữa GD - ĐT
nguồn nhân lực với sử dụng lao động. Do đó, cần đẩy mạnh sự liên kết cung -
cầu giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp, cung cấp kịp thời và đầy đủ thông
tin về cầu của thị trường lao động cho các cơ sở đào tạo, khuyến khích mô

52
hình đào tạo theo đơn đặt hàng từ doanh nghiệp.
Thực tế những năm qua cho thấy, nhiệm vụ hàng đầu hiện nay không
chỉ là nhận thức mà quan trọng hơn là quyết tâm đưa nhận thức về tầm quan
trọng của GD - ĐT, đưa quan điểm của Đảng coi “GD - ĐT là quốc sách hàng
đầu” vào thực tiễn cuộc sống.
2.2.2. Lấy nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội làm mục tiêu trung tâm
Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương khoá IX, Đảng ta lần đầu tiên
sử dụng thuật ngữ nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao thông qua con đường phát triển GD - ĐT, khoa học, công nghệ
chính là khâu then chốt để nước ta vượt qua tình trạng nước nghèo và kém
phát triển.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh
thuật ngữ này khi đưa ra định hướng chính sách tập trung phát triển nhanh
nguồn nhân lực chát lượng cao. Trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu
ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kĩ thuật viên lành nghề và công nhân
kĩ thuật có tay nghề cao. Chính sách thu hút các nhà công nghệ giỏi trong
nước và ngoài nước, trong cộng đồng người Việt định cư ở nước ngoài. Như
vậy, theo quan niệm của Đảng ta, nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm đội
ngũ các nhà khoa học và công nghệ, các công trình sư, kĩ sư, các công nhân kĩ
thuật có tay nghề cao. Trong lĩnh vực xã hội và nhân văn, các nhà nghiên cứu
Việt Nam cũng đã bắt đầu hình thành nên những quan niệm xung quanh vấn
đề nguồn nhân lực chất lượng cao. GS,TS Phạm Minh Hạc cho rẳng, nguồn
nhân lực chất lượng cao là đội ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao, là
lực lượng xung kích tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến thực hiện có
kết quả việc ứng dụng vào điều kiện nước ta, là hạt nhân trong lĩnh vực của
mình vào CNH, HĐH được mở theo kiểu “vết dầu loang” bằng cách dẫn dắt
các bộ phận công nhân có trình độ và năng lực thấp hơn đi lên với tốc độ

53
nhanh.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là một khái niệm rộng. Nguồn nhân lực
chất lượng cao (hay thấp) phải được đánh giá qua các yếu tố tạo thành chất
lượng nguồn nhân lực (thể lực, trí lực và tâm lực) trong mối tương quan với
những chuẩn mực nhất định.
Yếu tố thể lực của nguồn nhân lực được hình thành và phát triển đầu
bằng con đường di truyền nuôi dưỡng, luyện tập và rèn luyện thân thể. Đối
với yếu tố này, để xác định đánh giá chất lượng thường phải bằng con đường
khảo nghiệm thực tế và đánh giá theo những tiêu chuẩn nhất định về trạng
thái sức khoẻ. Ngày nay, các quốc gia có thể trạng phát triển nhanh là họ đầu
tư cho việc nghiên cứu tạo ra chất dinh dưỡng để hướng dẫn nhân dân thực
hiện chính sách dinh dưỡng quốc gia. Nhờ vậy, mà Nhật Bản và Hàn Quốc đã
cải thiện được thể trạng và sức bền rõ rệt. Chúng tôi cho rằng, Việt Nam cần
học tập họ, cần nhanh chóng chấm dứt tình trạng dinh dưỡng tự nhiên như
hiện nay.
Yếu tố trí lực và tâm lực của nguồn nhân lực được hình thành và phát
triển thông qua con đường GD - ĐT và thực tế lao động. Theo đó, nguồn nhân
lực chất lượng cao là những người có thời gian học tập và đào tạo dài.
Nguồn nhân lực chất lượng cao có tác động quyết định đến phát triển,
ứng dụng khoa học, công nghệ, làm tăng năng suất lao động và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Nhưng hiện nay, đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta đang đứng
trước bài toán về chất lượng đầu ra không đáp ứng được nhu cầu của thị
trường. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB) thì “chất lượng nguồn
nhân lực Việt Nam xếp thứ 11 trong số 12 nước Châu Á tham gia xếp hạng.
Lao động Việt Nam chỉ đạt 32/100 điểm, trong khi đó những nền kinh tế có
chất lượng lao động dưới 35 điểm đều có nguy cơ mất sức cạnh tranh trên thị
trường toàn cầu” [67]. Hiện nay, nước ta đang đứng trước một nghịch lý là:
các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế đang cần một lực lượng lao động có

54
trình độ kỹ thuật cao, nhưng đào tạo không đáp ứng được. Trong khi đó nhiều
sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng ra trường lại không có việc làm. Theo
số liệu điều tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam năm 2006 cho thấy, có
tới 63% sinh viên ra trường không tìm được việc làm, số tìm được việc làm
thì hầu hết phải đào tạo lại và khá nhiều người không làm đúng nghề đã học.
Chúng ta đang thừa lao động phổ thông chưa qua đào tạo, nhưng lại thiếu lao
động kỹ thuật lành nghề, thiếu chuyên gia và những nhà quản lý, cán bộ khoa
học, công nghệ có trình độ cao. Một trong những nguyên nhân là chương trình
đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề còn nặng về lý thuyết,
nhẹ về thực hành, chưa gắn với doanh nghiệp, thị trường và xã hội. Hiện nay,
trong điều kiện KTTT đã đến lúc ta phải đổi mới phương pháp đào tạo. Đào
tạo phải theo nhu cầu xã hội, phải có sự tham gia và gắn bó, liên kết giữa ba
nhà: nhà nước, nhà trường, nhà doanh nghiệp cùng hỗ trợ lẫn nhau trong quá
trình đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực. Cần đổi mới cơ chế phân bổ kinh phí
đào tạo, thực hiện cơ chế đấu thầu, đặt hàng trong giáo dục. Việc phân bổ
ngân sách nhà nước cho các trường cần gắn với nhu cầu và đối tượng được
đào tạo. Việc đánh giá hiệu quả đào tạo cần thông qua chỉ số sinh viên có việc
làm. Như vậy, đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải gắn giảng dạy với nghiên cứu
khoa học, gắn với thị trường, phải đổi mới cơ bản chương trình đào tạo,
phương pháp dạy và học, tăng cường năng lực đội ngũ giảng viên, đổi mới
phương thức quản lý và đào tạo để nâng cao chất lượng mới đáp ứng được
nhu cầu xã hội và nhu cầu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng phải chủ
động đặt hàng với các cơ sở đào tạo, tham gia xây dựng chương trình đào tạo
và hỗ trợ trực tiếp quá trình đào tạo. Cần có cơ chế, chính sách khuyến khích
các chuyên gia có trình độ cao đang làm việc tại các doanh nghiệp tham gia
đào tạo sinh viên.
Chúng ta cần có các chính sách cụ thể để kích thích tài năng phát triển.
Do đó, phải có chính sách phát hiện tài năng, tuyển chọn tài năng, tạo nguồn

55
tài năng, bồi dưỡng tài năng và chính sách sử dụng nhân tài, đãi ngộ và tôn
vinh nhân tài. Đặc biệt, cần có các chính sách cụ thể để thu hút tài năng nhân
tài ở nước ngoài để họ đóng góp sức người, sức của và trí tuệ cho đất nước.
Thay vì đào tạo tiến sĩ khi chưa có thực lực, Việt Nam nên dùng tinh
hoa của thế giới và đầu tư đào tạo số kỹ sư có năng lực thực chất [1].
Những kỹ sư rất cần thiết vì họ là người chuyển từ lý thuyết ra ứng
dụng. Nếu không có họ, những lý thuyết kia trở thành vô dụng. Ở nước ta
hiện nay cần nhiều kỹ sư hơn là tiến sĩ trong giai đoạn xây dựng. Hơn nữa,
đào tạo một kỹ sư lại rẻ, nhanh và thực dụng hơn.
Đào tạo gắn với nhu cầu kinh tế thị trường. Ông Hervé Bolot, Đại sứ
Pháp tại Việt Nam cho rằng, vấn đề chính của đại học đẳng cấp quốc tế là
phải có sự liên kết giữa đào tạo, nghiên cứu với các ngành công nghiệp. Bộ
trưởng bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân cũng cho rằng các
chương trình nghiên cứu cần phải có sự liên kết, dựa vào khoa học và xuất
phát từ nhu cầu thị trường. Thế nhưng, nhu cầu thị trường phát sinh ra từ đâu?
Đấy là từ các hãng xưởng công nghiệp địa phương.
Một viện nghiên cứu, trường đại học được lập ra để phụng sự đất nước
phải tuỳ thuộc vào công nghiệp địa phương, thay đổi cho hợp từng vùng.
Vậy những ngành công nghiệp chính của Việt Nam là gì?
Dựa trên trang điện tử của Tổng cục Thống kê, thuộc Chính phủ, Việt
Nam có 3 ngành công nghiệp, đó là khai thác, chế biến và sản xuất/ phân phối
điện nước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến là lớn nhất (chiếm 85%),
gồm phần nhiều là những ngành tiểu công nghệ. Phân loại ra thì ngành sản
xuất thực phẩm và đồ uống dẫn đầu (Biểu đồ 2.1) với ngành khai thác dầu thô
và khí đốt chiếm vị trí thứ nhì.

56
Biểu đồ 2.1.: Sáu nhóm ngành công nghiệp lớn nhất của Việt Nam

Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế phân theo ngành công
nghiệp.
Nguồn: Tổng cục Thống kê

Biểu đồ 2.1 cho thấy rằng, ngành dầu mỏ chiếm vị trí thứ hai tính trên
giá trị sản xuất công nghiệp, theo giá thực tế phân ngành đã trên 10 năm qua,
vậy mà ở nước ta, chưa có một cơ sở giáo dục tốt để đào tạo những kỹ sư dầu
khí chuyên ngành. Đấy là chưa nói đến cơ sở nghiên cứu, dùng để nghiên cứu
phương pháp khai thác và sản xuất dầu thô có hiệu quả hơn từ những mỏ dầu
đặc biệt, ít nơi nào sản xuất. Ấy là loại mỏ dầu "đá móng nứt".
Còn một vài công nghệ khác mà Việt Nam chưa quan tâm phát triển
nguồn nhân lực. Theo bảng thống kê ở trên, kỹ nghệ đóng tàu không có tên.
Đây là một điều đáng ngạc nhiên vì nước ta có một bờ biển dài trên 3.500 cây
số, nhiều đảo, dân sống về nghề biển và đi lại bằng thuyền bè.
Vấn đề thứ ba về nhu cầu thị trường cần nghiên cứu là thủy động học.
Đề tài cho ngành công nghệ này gồm có thoát nước đọng, phương án chống
nước mặn xâm lấn đồng bằng sông Cửu Long, tính chất của tầng gậm nước

57
ảnh hưởng đến mỏ dầu, v.v…
Ý tưởng về kết hợp các viện nghiên cứu với các trường đại học là điều
nên làm. Không những thế, những viện này và nhất là những đại học chuyên
ngành nên thiết lập gần vùng công nghiệp liên hệ hội tụ thì sẽ đưa đến những
kết quả tốt đẹp hơn.
Việc nước ta xây dựng một hay nhiều viện, đại học đẳng cấp quốc tế để
phát triển kinh tế, xã hội trong tương lai là cần thiết. Nhưng đồng thời, chúng
ta phải xây dựng một nền tảng giáo dục trung và tiểu học vững chắc.
Việt Nam phải lựa chọn chiều hướng của những ngành công nghiệp
trong tương lai, những ngành mà mình có thể đạt được trong vòng 10 đến 20
năm sau.
Ví dụ, Hàn Quốc ban đầu vào những thập niên 60, 70 đã vạch ra đường
lối để tiến tới công nghiệp nặng như sản xuất ô tô, tàu thuỷ. Họ đã gửi những
sinh viên sang học ngành đóng tàu và kỹ thuật hàng hải, tại các viện, đại học
dẫn đầu về lĩnh vực thích hợp. Vào cuối thế kỷ 20, họ lại thêm những ngành
công nghiệp mới như robot, vi điện tử, chíp bộ nhớ, siêu vi hóa, y sinh vật và
hàng không vũ trụ. Singapore thì gồm có công nghệ dịch vụ tài chính, phân
phối hàng hóa (entrepôt trade), sinh học, điện tử, hóa chất, thiết bị khoan dầu,
tinh chế xăng dầu, chế biến cao su, sửa chữa tàu... Phần đông những công
nghệ ấy rất thích hợp với địa thế của Singapore.
Hiện nay, những ngành công nghiệp chính ở nước ta gồm thực phẩm,
đồ uống, sản xuất dầu khí, sản phẩm dệt may, v.v… Đây không phải là những
công nghiệp mới của thế kỷ XXI. Nếu Việt Nam muốn trở thành một nước
công nghệ hóa, thì cần phải đầu tư và phát triền nguồn nhân lực ở những
ngành khoa học ở thế kỷ mới.
Hiện nay, nền kinh tế tri thức đang mang lại những biến động cực kỳ to
lớn trong phát triển nguồn nhân lực. Hiện tại, ở nước ta, nguồn nhân lực đang
ở nhiều cấp độ, trình độ của các nước đã phát triển cao qua các cuộc cách
58
mạng công nghiệp lần thứ nhất, các cuộc công nghiệp lần thứ hai và trong
thời đại công nghệ thông tin. Chúng ta phải đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân
lực để chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế tri thức theo đường
lối hội nhập mở cửa, tức là phải chú ý đến đội ngũ lao động, đại bộ phận là
nông nghiệp, đội ngũ lao động phục vụ cơ khí hoá lẫn tin học hoá có nghĩa là
chúng ta phải tập trung đào tạo một nguồn nhân lực cho cả ba nền kinh tế
công nghiệp, nông nghiệp và tri thức. Thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của trí tuệ và tri
thức, các sáng tạo khoa học công nghệ sẽ tác động mạnh mẽ đến toàn nhân
loại. Trong khi đó Việt Nam vẫn là nước nông nghiệp lạc hậu đất hẹp, người
đông, tài nguyên ít. Con đường để Việt Nam có thể đi lên cạnh tranh và hội
nhập là nhanh chóng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đồng thời người
lao động phải phát truyền thống và bản lĩnh dân tộc. Khâu đột phá quan trọng
nhất là phải cải tiến hệ thống giáo dục để đào tạo nhân lực phục vụ CNH,
HĐH.
2.2.3. Mở rộng hợp tác quốc tế với các trường đại học , cao đẳng đã
có uy tín trong giáo dục đào tạo, phù hợp với mục tiêu phát triển giáo dục
đào tạo Việt Nam
Đại hội X của Đảng khẳng định “tăng cường hợp tác quốc tế về GD -
ĐT, từng bước xây dựng nền kinh tế hiện đại, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH
đất nước” [26, tr.209-210].
Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại, sự thịnh vượng của quốc gia lại
phụ thuộc mạnh mẽ và trực tiếp như vậy vào quy mô và chất lượng GD - ĐT,
đặc biệt là giáo dục đại học. Tuy nhiên, các nước phát triển đang đứng trước
nguy cơ tụt hậu xa hơn về GD - ĐT so với các nước phát triển. Từ năm 1998
đến năm 2001, nếu tỷ lệ nhập học thô ở đại học của các nước đang phát triển
chỉ tăng từ 10,2% lên 11,3% thì ở các nước phát triển tỷ lệ này tăng từ 45,6%
lên 54,6%. Đó là vì trong cuộc đua giáo dục hiện nay, các nước phát triển có
nhiều ưu thế hơn về điểm xuất phát, duy trì dân số ổn định và bảo đảm tiềm

59
lực kinh tế lớn cho giáo dục. Các nước phát triển cũng có động lực mạnh hơn
trong phát triển giáo dục hướng tới nền kinh tế tri thức.
Nếu quốc tế hóa giáo dục được coi như một lời đáp của cộng đồng đại
học trước các thách thức của toàn cầu hóa thì quốc tế hóa giáo dục phải có
nhiệm vụ góp phần rút ngắn khoảng cách tụt hậu nói trên. UNESCO hiện là
đầu mối gắn kết cộng đồng GD - ĐT thế giới trong việc thực hiện nhiệm vụ
trên với sáng kiến triển khai “Chương trình toàn cầu về hợp tác và phát triển
trong GD - ĐT”.
Cùng với quá trình đổi mới đất nước trong hơn hai mươi năm qua, GD -
ĐT Việt Nam đã có bước tiến quan trọng về quy mô, chất lượng, hiệu quả, góp
phần thu hẹp khoảng cách tụt hậu so với GD - ĐT trong khu vực. Tiến trình đổi
mới GD - ĐT Việt Nam trong thời gian qua mang hai đặc trưng chủ yếu:
- Chuyển từ giáo dục phục vụ kinh tế kế hoạch hóa, tập trung sang giáo
dục vận hành trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Chuyển từ giáo dục khép kín sang giáo dục mở, chủ động hội nhập
quốc tế. Vì vậy, tổ chức và hoạt động GD - ĐT đã có sự thay đổi căn bản,
hướng tới sự đa dạng hóa, chuẩn hóa, hiện đại hóa và xã hội hóa. GD - ĐT
không còn bó hẹp trong việc thỏa mãn nhu cầu của các cơ quan và doanh
nghiệp nhà nước mà đã bước đầu đáp ứng nhu cầu rộng rãi của các thành
phần kinh tế và nhu cầu học tập của nhân dân. Từ đó, GD - ĐT không chỉ dựa
vào ngân sách nhà nước mà còn dựa vào các nguồn lực khác có thể huy động
được. Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong việc cung ứng GD - ĐT,
nhưng sự bao cấp hoàn toàn trước đây đã được thay thế bằng cơ chế chia sẻ
chi phí với việc đóng góp bằng học phí của người học. Các nhà cung ứng mới
trong GD - ĐT cũng đã xuất hiện, đó là các tổ chức, cá nhân đứng ra thành
lập các trường cao đẳng, đại học dân lập, tư thục.
Việt Nam cũng đã có những bước đi chủ động trong hội nhập giáo dục,
tiếp nhận giáo dục xuyên biên giới theo cả hai cơ chế: không lợi nhuận và có

60
lợi nhuận. Bên cạnh một số vấn đề nảy sinh liên quan chủ yếu đến công tác
quản lý các cơ sở giáo dục nước ngoài tại Việt Nam và quản lý lưu học sinh,
thành công nổi bật là tạo được sự đóng góp đáng kể của các phương thức
cung ứng đó cho sự phát triển của giáo dục Việt Nam.
Vấn đề đặt ra đối với GD - ĐT Việt Nam hiện nay là, bao giờ, như thế nào
và với điều kiện gì, Việt Nam sẽ có cam kết về tự do hóa thương mại dịch vụ
giáo dục. Để trả lời, Việt Nam có thể lựa chọn một kịch bản trung gian sau đó sẽ
tích cực thực thi những cam kết về tự do hoá thương mại dịch vụ giáo dục.
Giai đoạn chuẩn bị nhằm rà soát, hoàn thiện về luật pháp, chính sách và
con người để nâng cao hiệu lực bộ máy, năng lực quản lý và tiềm lực hệ
thống, đảm bảo thành công khi mở cửa. Đây cũng là giai đoạn làm rõ các đặc
trưng cần thiết của ngành GD - ĐT ở Việt Nam, sự can thiệp của nhà nước để
phát huy mặt tích cực của thị trường, giảm thiểu mặt tiêu cực, bảo đảm yêu
cầu công bằng xã hội trong giáo dục. Một thị trường như vậy không phải là
thị trường tự do như hoạt động kinh tế mà là thị trường gần đúng, một chuẩn
thị trường trong lĩnh vực dịch vụ công, trong đó các nhà cung ứng giáo dục
không theo đuổi lợi nhuận tối đa nhưng vẫn buộc phải cạnh tranh với nhau để
nâng cao chất lượng và hiệu quả, người học sẽ được nhiều cơ hội hơn trong
việc lựa chọn trường học. Chuẩn thị trường GD - ĐT chính là cơ chế tương
thích với thị trường kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với tư cách là nước đi sau trong việc tự do hoá thương mại dịch vụ
giáo dục, Việt Nam phải chịu sức ép lớn hơn về cam kết trong lĩnh vực giáo
dục. Trên thực tế, khi đưa ra bản chào dịch vụ đa phương, mức cam kết của
Việt Nam về dịch vụ giáo dục là khá sâu và rộng đối với GD - ĐT, theo đó ta
mở cửa đối với hầu hết các lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật, nghiên
cứu và quản lý doanh nghiệp, kinh tế, kế toán, ngôn ngữ và luật quốc tế. Việt
Nam sẽ phải tiếp tục tham gia đàm phán ở góc độ kỹ thuật về việc mở cửa
dịch vụ giáo dục trong khuôn khổ vòng đàm phán Đô-ha. Vấn đề cần làm rõ

61
là mở cửa như thế nào và với những điều kiện gì.
Trước hết, về nguyên tắc, cũng giống như nhiều nước khác, Việt Nam
cần chính thức khẳng định giáo dục công lập không thuộc phạm vi điều chỉnh
của GATS (hiệp định chung về thương mại dịch vụ). Việc mở cửa sẽ chỉ thực
hiện trong khu vực giáo dục đại học tư thục. Như vậy GD - ĐT Việt Nam sẽ
tiếp tục tiến trình quốc tế hóa theo cả hai lôgic phi thương mại và thương mại.
Theo lôgic phi thương mại, GD - ĐT Việt Nam sẽ đẩy mạnh và phát huy lợi
thế đã có của hợp tác quốc tế, hội nhập sâu vào GD - ĐT thế giới trong khuôn
khổ của một không gian GD - ĐT và nghiên cứu khoa học thế giới theo định
hướng của UNESCO. Theo lôgic thương mại, khu vực GD - ĐT tư thục sẽ
được mở ra để chào đón các nhà đầu tư nước ngoài. Đó là điều mà chúng ta
đã làm trước khi có GATS. Sự khác biệt khi tham gia GATS là phải tính đến
những rủi ro có thể nảy sinh khi phải tuân thủ các quy định của GATS trong
đó đáng quan tâm là quy tắc tối huệ quốc và quy tắc đối xử quốc gia.
Cần chú ý rằng, thị trường GD - ĐT Việt Nam được các nhà đầu tư
nước ngoài đánh giá là một thị trường giàu tiềm năng do hệ thống các trường
đại học Việt Nam hiện nay, cũng như trong thời gian trước mắt, hoàn toàn
không có đủ khả năng để đáp ứng yêu cầu đại chúng hóa và nâng cao chất
lượng GD - ĐT. Theo xu thế hiện nay, việc đầu tư xây dựng trường mới sẽ
không có nhiều, nhưng các cơ sở liên kết chắc chắn sẽ phát triển rất sôi động.
Vì vậy, sau khi thực hiện cam kết về GATS như nêu trên, bức tranh GD - ĐT
Việt Nam sẽ có biến động mạnh mẽ ở khu vực tư thục với sự ra đời của khá
nhiều cơ sở giáo dục nước ngoài, chủ yếu là các cơ sở giáo dục liên kết. Cục
diện cạnh tranh sẽ hình thành và phát triển. Thị trường GD - ĐT sẽ chuyển từ
tự phát sang tự giác với sự định hướng mạnh mẽ của nhà nước để bảo đảm đó
là một chuẩn thị trường.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, giáo dục Việt Nam được tiếp cận với
những xu thế phát triển hiện đại, những kinh nghiệm tốt của giáo dục thế giới,

62
đẩy mạnh hợp tác trong quá trình phát triển giáo dục. Đồng thời có điều kiện
thu hút các nguồn lực phát triển giáo dục từ nước ngoài, đặc biệt là đầu tư lớn
hơn về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, hiện đại hoá điều kiện học tập và lực
lượng chuyên gia giáo dục, sinh viên Việt Nam có thể “du học tại chỗ”.
Tuy nhiên, hội nhập về GD - ĐT cũng gặp phải những khó khăn, thách
thức không nhỏ. Thách thức lớn nhất là làm sao chúng ta vừa thực hiện những
cam kết về giáo dục trong khuôn khổ của Hiệp định chung về thương mại,
dịch vụ (GATS), đồng thời vẫn bảo đảm giữ vững chủ quyền quốc gia, thực
hiện được các mục tiêu cơ bản về giáo dục. Hiện nay, chất lượng giáo dục
Việt Nam còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực trong bối
cảnh phát triển mạnh mẽ của việc gia nhập WTO; năng lực cạnh tranh của các
cơ sở giáo dục Việt Nam, nhất là các trường đại học và các cơ sở giáo dục
nghề nghiệp rất yếu, chưa đủ sức tham gia vào cuộc cạnh tranh giáo dục quốc
tế, chưa đủ sức thu hút nhiều du học sinh nước ngoài vào Việt Nam.
Xu hướng xuất khẩu giáo dục không lành mạnh từ các nước có nền
giáo dục phát triển xuất hiện trong những năm gần đây, đó là thách thức và rủi
ro rất lớn đối với giáo dục nước ta khi công tác quản lí hoạt động giáo dục
còn nhiều hạn chế, vấn đề liên kết đào tạo với nước ngoài chưa được quan
tâm quản lí chặt chẽ.
Các văn bản pháp luật trong lĩnh vực GD - ĐT chưa được rà soát cho
phù hợp với bối cảnh nước ta đã là thành viên của WTO. Việc tổ chức quản lí
lại phân tán, chồng chéo, đội ngũ cán bộ quản lí từ trung ương đến địa
phương, cơ sở vừa thiếu về số lượng, vừa chưa đủ khả năng quản lý chất
lượng giáo dục trong điều kiện cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế. Vấn đề
đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục là rất quan trọng,
nhưng đây lại là điểm yếu và còn mới mẻ đối với giáo dục nước ta.
Mục tiêu của hội nhập quốc tế về giáo dục là phải làm cho giáo dục
Việt Nam phát triển nhanh về số lượng, vững chắc hơn về chất lượng, đảm

63
bảo phục vụ yêu cầu phát triển đất nước, phục vụ mục tiêu chính trị cơ bản
của Đảng và nhân dân ta là giữ vững chủ quyền quốc gia, định hướng XHCN
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; phát triển con
người toàn diện, có năng lực thích ứng với tình hình mới.
Khi hội nhập phải coi giáo dục là quyền và lợi ích cơ bản của nhân dân;
Nhà nước phải đảm bảo để mọi người dân có điều kiện học tập, có cơ hội để
phát triển, quan tâm đến nhân dân lao động, những người nghèo, phát huy
tính tích cực, chủ động, khả năng sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân
trong nước và đồng bào ta ở nước ngoài, tạo ra sự đồng thuận cao trong toàn
xã hội.
Cần phát huy tối đa nội lực, độc lập và chủ động trong quá trình hội
nhập giáo dục. Mở rộng hợp tác đi đôi với quản lí chặt chẽ. Tích cực chuẩn bị
tốt các điều kiện để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, ngăn ngừa và hạn
chế rủi ro.
Cạnh tranh trong hội nhập quốc tế, xét đến cùng là cạnh tranh về GD -
ĐT, đây là cuộc đấu tranh gay go và phức tạp. Nắm vững các cam kết của
GATS, tham khảo kinh nghiệm của các nước, đồng thời căn cứ vào chủ
trương, chính sách phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước, làm rõ cái gì
phải tích cực khai thác, cái gì phải bảo vệ, cái gì cần ngăn chặn và phải có
chiến lược và các biện pháp rõ ràng, trong đó quan tâm đến các công cụ pháp
lý và công tác quản lý.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò quản lý
của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân trong tiến trình hội nhập giáo dục
quốc tế.
Có một số vấn đề lớn, cụ thể và khá cấp bách cần được quan tâm xem
xét. Đó là về “thị trường giáo dục”. Đây là vấn đề nhạy cảm không chỉ đối với
nước ta; nhiều nước khác cũng rất quan tâm, đã và đang có ý kiến khác nhau.
Có hay không có “thị trường giáo dục”, có nên “thị trường hóa giáo dục” hay

64
không, giải quyết vấn đề này ra sao sẽ có ảnh hưởng lớn đến phát triển giáo
dục nước ta hiện nay.
Về vấn đề này, quan điểm của cá nhân tôi cho rằng: cần khẳng định,
giáo dục là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt nhằm bảo tồn và phát triển những
giá trị của xã hội, của dân tộc, đồng thời đưa lại những lợi ích cá nhân. Do đó
giáo dục trước hết là lợi ích công, mà mọi xã hội văn minh đều phải có trách
nhiệm đảm bảo; không thể xem giáo dục là dịch vụ thương mại như các lĩnh
vực dịch vụ hàng hoá thông thường, không thể có “thị trường giáo dục”;
không thể "thị trường hóa", "thương mại hóa" giáo dục một cách thuần tuý.
Cần thực hiện công bằng xã hội trong việc cung cấp dịch vụ giáo dục cho mọi
người, chú trọng đến người nghèo, đến vùng sâu, vùng xa và các dân tộc thiểu
số. Nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo trong việc định hướng phát triển giáo
dục, đảm bảo điều kiện hoạt động cho giáo dục, vừa tạo ra những động lực
tiềm tàng cho giáo dục phát triển đồng thời làm cho sự phát triển ấy bảo đảm
mục tiêu vì con người, vì xã hội.
Các hoạt động của những người làm công tác giáo dục là vì lợi ích của
người học và lợi ích của xã hội. Giá trị sử dụng của sản phẩm giáo dục là vì
người học, vì cộng đồng. Tuy nhiên cũng cần phải tính đến các yếu tố “cung
cầu”, “cạnh tranh”, “hiệu quả kinh tế” trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng XHCN, cần phải tổ chức hoạt động giáo dục cho phù hợp với cơ chế
thị trường, chúng ta có thể áp dụng các hình thức dịch vụ giáo dục với tư cách
là dịch vụ có điều kiện, đối với giáo dục phổ thong, đặc biệt là bộ phận giáo
dục cơ bản, tính chủ đạo của Nhà nước càng cần phải được đề cao; ở giáo dục
nghề nghiệp, cao đẳng, đại học, lợi ích cá nhân đan xen với lợi ích xã hội, có
thể mở rộng thực hiện dịch vụ công và các hình thức dịch vụ khác.
Để phát triển GD - ĐT trong quá trình hội nhập quốc tế và nhằm đạt
mục tiêu nước ta có một nền giáo dục tiên tiến, lành mạnh, mang đậm bản sắc
dân tộc, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Hiện

65
tại nước ta đã có mối quan hệ liên kết đào tạo với khoảng 60 nước, 36 tổ chức
quốc tế; 200 chương trình liên kết đào tạo ở những mức độ khác nhau; việc
liên kết bước đầu có những chuyển biến tích cực, song cũng đã bộc lộ một số
hạn chế, bất cập.
* Các loại hình liên kết đào tạo
- Liên kết đào tạo trong khuôn khổ đàm phán, hợp tác song phương ở
cấp nhà nước.
+ Liên kết đào tạo bằng ngân sách của nhà nước.
Nhằm tăng cường lực lượng nòng cốt trẻ tuổi cho đội ngũ nghiên cứu
khoa học, công nghệ, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH, Đảng, Nhà nước ta đã
đầu tư kinh phí từ ngân sách để gửi ra nước ngoài đào tạo, chủ yếu là đào tạo
trình độ thạc sĩ, tiến sĩ, thực tập sinh (theo Đề án 322). Đối tượng du học theo
hình thức này là những người thuộc nguồn giảng viên, nghiên cứu viên trẻ
tuổi, có tiềm năng trở thành cốt cán, chuyên gia trong tương lai. Từ năm 2000
đến nay, mỗi năm có khoảng 400 người được tuyển đi du học. Ngoài việc
thực hiện Đề án 322, Bộ Giáo dục và Đào tạo còn có Đề án đào tạo 20000
tiến sĩ (từ nay đến 2020), trong đó dự kiến gửi ra nước ngoài khoảng 10000
người, số còn lại sẽ đào tạo trong nước.
+ Liên kết đào tạo bằng kinh phí viện trợ.
Tại các cuộc hội đàm cấp nhà nước giữa Việt Nam và một số nước có
nền giáo dục tiên tiến, Chính phủ ta đã đạt được thoả thuận và ký kết hiệp
định hợp tác trong lĩnh vực GD - ĐT. Kinh phí đào tạo từ nguồn “xử lý nợ với
Liên bang Nga” (khoảng 50 triệu USD, bắt đầu từ năm 2000), hoặc “quĩ phát
triển giáo dục Việt Nam - Hoa Kỳ” (5 triệu USD/năm, bắt đầu từ 2001 đến
2016). Bên cạnh đó còn có nguồn kinh phí do các tổ chức phi chính phủ viện
trợ, với điều kiện tuyển đối tượng đào tạo theo các tiêu chí mà tổ chức viện
trợ yêu cầu.

66
- Liên kết đào tạo trong khuôn khổ tự chủ, kí kết giữa các cơ sở đào tạo
của Việt Nam với các cơ sở đào tạo của nước ngoài.
Cả nước có khoảng gần 200 chương trình liên kết thì hình thức liên kết
này chiếm đa số (các chương trình liên kết trong khuôn khổ thoả thuận hợp
tác ở cấp chính phủ chỉ chiếm 50 chương trình). Theo phân cấp quản lý, các
trường đại học, các cơ sở đào tạo của Việt Nam được phép liên kết đào tạo
với các cơ sở đào tạo của nước ngoài. Hình thức liên kết này khá đa dạng và
phức tạp.
+ Có dạng hoàn toàn theo chương trình và qui trình của cơ sở nước
ngoài, do người nước ngoài giảng dạy, được cơ sở nước ngoài cấp bằng.
+ Có dạng vừa tiếp thu một phần chương trình hiện đại của nước ngoài,
vừa đưa thêm một phần chương trình cơ sở trong nước (chủ yếu liên quan đến
các môn lý luận chính trị), bằng do cả 2 bên liên kết cùng cấp, hoặc do phía
cơ sở của ta cấp.
Các chuyên ngành liên kết đào tạo chủ yếu thuộc lĩnh vực quản lý,
công nghệ, tin học; chương trình, giáo trình của nước ngoài, giảng dạy bằng
tiếng nước ngoài; tuy nhiên gần đây đã có những cơ sở giảng dạy hỗ trợ bằng
tiếng Việt.
- Liên kết do người dân tìm kiếm địa chỉ và chi trả kinh phí đào tạo.
Con đường tự túc du học ở nước ngoài hoặc trong nước đang trở thành
trào lưu với một bộ phận con em các gia đình có thu nhập cao (học phí vào
các trường này hoàn toàn vượt ngoài khả năng của các gia đình có mức thu
nhập trung bình và khá). Phạm vi liên kết của loại hình này chủ yếu tại các
thành phố lớn, đối tượng đi học bao gồm mầm non, tiểu học, trung học cơ sở,
trung học phổ thông, đại học, sau đại học. Hình thức liên kết này mang tính tự
phát, người học trực tiếp trả học phí theo qui định của cơ sở giáo dục và đào
tạo, một số ít được trợ cấp học bổng. Việc quản lý loại hình liên kết này hết
sức lỏng lẻo, hiện không do cơ quan, tổ chức nào trong hệ thống quản lý nhà
67
nước chịu trách nhiệm. Phần lớn những phụ huynh cho con em theo học các
cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam đều muốn trang bị tiếng
Anh làm công cụ để đi du học (nên bắt đầu tăng cường học tiếng Anh từ mầm
non).
Đến nay, việc thống kê số lượng học sinh, sinh viên học tập tại các cơ
sở nước ngoài (du học nước ngoài hoặc trong nước) gặp rất nhiều khó khăn,
chưa có cơ quan quản lý nào được giao theo dõi, nắm tình hình cụ thể.
Việc liên kết đào tạo theo con đường ngoại giao đã tạo ra những tiền
đề tốt trong quan hệ đối ngoại, nhất là hợp tác GD - ĐT giữa nước ta với các
nước có nền giáo dục tiên tiến, theo chủ trương mở rộng sự hợp tác đa
phương của Đảng, Nhà nước ta.
Mở ra cơ hội và góp phần tăng thêm một tỷ lệ đáng kể người Việt Nam
được tiếp cận với qui trình đào tạo tiên tiến của nước ngoài, qua đó góp phần
tạo ra sự chuyển biến về phương thức đào tạo, trước hết là tại những cơ sở có
liên kết của ta.
Giúp cho một bộ phận đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu tại những
cơ sở có liên kết đào tạo thuộc trường đại học, viện nghiên cứu của nước ta
được tiếp cận, bồi dưỡng với qui trình đào tạo tiên tiến; mặt khác còn tạo
nguồn lực lượng trẻ làm nòng cốt trong giảng dạy, nghiên cứu cho một số lĩnh
vực khoa học, công nghệ mà nước ta cần quan tâm phát triển.
Thúc đẩy việc đổi mới quản lý nhà nước đối với việc liên kết đào tạo,
trước hết là xây dựng, hoàn thiện các văn bản mang tính qui phạm, chế tài để
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với lĩnh vực hợp tác, liên kết giáo dục
và đào tạo với nước ngoài.
Mở rộng hợp tác quốc tế về giáo dục, tranh thủ các dự án của các tổ
chức quốc tế và nước ngoài. Trong thời gian từ năm 2001 đến nay, chúng ta
đã đàm phán ký kết các thoả thuận công nhận tương đương bằng cấp giữa
Việt Nam với 10 nước trên thế giới. Chúng ta đã gia hạn và đàm phán ký mới
68
hiệp định hợp tác về giáo dục với nước ngoài. Trong 2 năm 2008 và 2009,
Việt Nam đã ký 31 Điều ước quốc tế và thoả thuận quốc tế về hợp tác trong
lĩnh vực GD - ĐT với các nước ở cấp chính phủ và cấp bộ (không kể cấp
trường).
Hiện nay, chúng ta đang mở rộng nhiều hình thức liên kết đào tạo với
nước ngoài, kết hợp với du học tại chỗ; đồng thời chúng ta còn chú trọng việc
quản lý các loại hình trường do nước ngoài đầu tư. Trong gần 10 năm, từ năm
2000 đến tháng 9 năm 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cử 7.039 lưu học sinh
đi học nuớc ngoài bằng ngân sách nhà nước và Hiệp định (trong đó đi học tiến
sĩ là 2.029 người, thạc sĩ là 1.598 người, thực tập sinh là 626 người và đại học
là 2.786 người), bình quân một năm cử trên 700 lưu học sinh đi học nước
ngoài. Năm học 2008- 2009, cử trên 1.000 người đi học nước ngoài, trong đó
có trên 700 người học Tiến sĩ, thạc sĩ, thực tập sinh bằng nguồn ngân sách nhà
nước, không kể các nguồn khác. Riêng 10 tháng đầu năm 2009, đã gửi được
900 người đi học nước ngoài, trong đó có 585 người học sau đại học (330
người học tiến sĩ, 184 người đi học thạc sĩ và 71 thực tập sinh).
Hiện nay, có trên 30 trường đại học có chương trình hợp tác quốc tế có
hiệu quả, đã đạt được thoả thuận công nhận liên thông chương trình với các
trường đại học nước ngoài, theo đó, các trường đại học nước ngoài đã công
nhận những tín chỉ sinh viên Việt Nam tích luỹ trong quá trình học đại học ở
Việt Nam. Nhiều chương trình đại học 3+1 và 2+2 đã được ký kết. Ngày càng
có nhiều chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ phối hợp với nước ngoài có cả
giáo sư Việt Nam và giáo sư nước ngoài đồng hướng dẫn.
Việt Nam đã phối hợp với các đại học nước ngoài triển khai 23 chương
trình tiên tiến ở 17 trường đại học; với Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát
triển Châu Á để xây dựng các đại học xuất sắc theo chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ. Từ năm 2008, đại học Việt - Đức đã đi vào hoạt động.
Trong những năm gần đây, sinh viên nước ngoài đến học tại các trường

69
đại học ở Việt Nam ngày một tăng. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, hiện
nay có gần 10.000 sinh viên nước ngoài đang theo học tại các trường đại học,
cao đẳng của Việt Nam. Ban đầu sinh viên nước ngoài đến Việt Nam học các
chương trình chuyên ngành bằng tiếng Anh.
Tuy nhiên, vấn đề hợp tác quốc tế, liên kết trong lĩnh vực GD - ĐT vẫn
còn có những hạn chế. Điều 20, Luật Giáo dục (2005) đã nêu “... Cấm lợi
dụng các hoạt động giáo dục vì mục đích vụ lợi”. Điều 107 của luật này cũng
khẳng định: “Nhà nước mở rộng, phát triển hợp tác quốc tế về giáo dục theo
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng và các bên cùng
có lợi”. Khi đàm phán vào WTO, cam kết của ta về “mở cửa” lĩnh vực giáo
dục là: chỉ cho phép các cơ sở nước ngoài liên kết đào tạo ở bậc đại học, cao
đẳng, giới hạn trong một số ngành tự nhiên, khoa học, công nghệ, ngoại ngữ,
công nghệ thông tin. Tuy nhiên, trong thực tế liên kết đào tạo, chúng ta cũng
đã có những sơ hở, để cho một số đối tác nước ngoài lợi dụng vì mục đích vụ
lợi, làm ảnh hưởng đến lợi ích của người học.
Việc cấp phép hoạt động liên kết đào tạo hiện tại chưa có sự thống
nhất, ngoài Đề án 322, đề án 20.000 tiến sĩ do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản
lý, còn các loại hình liên kết khác lại do Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội, thậm chí còn có cả những tổ chức phi chính phủ
tham gia vào việc tạo lập mối liên kết.
Liên kết tự phát giữa các cơ sở đào tạo trong nước với các cơ sở đào
tạo của nước ngoài rất khó quản lý chương trình, qui trình, địa điểm, thiết bị;
có những cơ sở dạy chương trình nước ngoài (do cơ sở nước ngoài cấp bằng,
nhưng lại giảng dạy bằng tiếng Việt); dẫn đến chất lượng đào tạo chưa đủ độ
tin cậy, chưa tương xứng với công sức, tiền bạc do người học chi trả.
Sự non kém trong công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm định chất lượng đã
không đủ khả năng ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, nên ngày càng gây bức
xúc cho xã hội, dư luận cho rằng “hình như Nhà nước thả nổi” việc liên kết

70
đào tạo (trong liên kết với nước ngoài và ngay cả liên kết trong nước với
nhau), làm gia tăng tình trạng “mua bằng, bán điểm”.
Để việc liên kết đào tạo đạt được những kết quả cao hơn, chúng ta cần
thực hiện một số vấn đề sau:
Tổng kiểm tra việc liên kết đào tạo với nước ngoài, kể cả giữa các cơ
sở trong nước với nhau; kiên quyết xử lý những cơ sở vi phạm Luật Giáo dục,
đi chệch chủ trương của Đảng, Nhà nước; rà soát lại các văn bản hiện hành,
bổ sung, xây dựng văn bản pháp qui mới, nhằm đảm bảo tính thống nhất, chặt
chẽ trong quản lý nhà nước đối với liên kết đào tạo.
Củng cố và nâng cao vai trò trách nhiệm của các đơn vị chức năng
được bộ chủ quản giao quản lý (nhất là Cục Đào tạo với nước ngoài, Cục hợp
tác quốc tế, Vụ Đại học và Sau đại học thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo).
Những đơn vị này cũng cần phải đẩy mạnh đổi mới công tác quản lý theo
hướng đề xuất, tham mưu cho lãnh đạo Bộ, Chính phủ về cơ chế quản lý, tăng
cường kiểm tra, giám sát, đánh giá đối với các cơ sở liên kết đào tạo. Mặt
khác, các đơn vị chức năng thuộc Bộ cũng phải xây dựng dữ liệu, cung cấp
thông tin tư vấn giúp cho phụ huynh, học sinh, sinh viên lựa chọn được cơ sở
đảm bảo uy tín, chất lượng trong liên kết đào tạo.
Các cấp uỷ đảng, chính quyền cấp tỉnh quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các
ban, ngành thực hiện nghiêm túc việc liên kết giáo dục và đào tạo theo đúng
chức năng, quyền hạn và phân cấp quản lý, tránh những sơ hở trong liên kết,
tránh gây tổn hại đến tiền của và công sức của người học.
Các cơ sở đào tạo trên địa bàn các tỉnh/thành phố chấp hành nghiêm
những qui định của pháp luật, bám sát chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước, thực hiện liên kết đào tạo có hiệu quả, chất lượng, đảm bảo lợi ích cho
người học.
Việt Nam cần cải cách nền giáo dục không những chỉ giáo dục đại học,
cao đẳng mà còn cả trung và tiểu học. Để trong vòng 10 năm tới, tất cả học
71
sinh sau bậc trung học đều có khả năng và cơ hội để tiến thân trên đường học
vấn và học nghề. Lúc đó, văn bằng trung bình để vào thị trường nghề nghiệp
là có ít nhất từ 2 đến 4 năm đào tạo sau trung học.
Riêng về cải cách đại học, Nhà nước nên cải cách và chuyển hướng
những đại học đã có, dựa trên những phương pháp đã được áp dụng thành
công từ các nước trong vùng Đông Á như Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc
và đầu tư chất xám đến từ khắp mọi nơi, đặc biệt ưu tiên cho chuyên viên gốc
Việt. Nhà nước không nên vội vàng đào tạo 2 vạn tiến sĩ trong lúc này vì Việt
Nam chưa có năng lực để đào tạo những tiến sĩ thực sự, mà nên tranh thủ chất
xám của thế giới tham gia giảng dạy, nghiên cứu, hướng dẫn, tư vấn trong
giai đoạn đầu. Nhiệm vụ cấp bách hiện nay là đào tạo số kỹ sư, cán sự có
năng lực thực chất để đem những lý thuyết, phương pháp sẵn có của thế giới
ra ứng dụng vào đời sống.
Những viện, đại học đẳng cấp hay viện nghiên cứu tương lai nên đặt
trọng tâm vào nghiên cứu những ngành công nghệ mới mà nước ta muốn
hướng đến và những công nghệ hiện nay đang gặp khó khăn.
Những viện, đại học nên có những phân khoa liên hệ đến những công
nghệ chính của địa phương để cho tiện việc đi lại, hội họp, thăm quan cơ sở
và sinh viên thực tập.
Thành lập Chương trình Kỹ thuật hợp tác. Các vị lãnh đạo từ các ngành
công nghiệp cũng như từ nhóm giảng dạy ngồi lại cùng nhau để soạn thảo một
sự hợp tác, phác họa chương trình phát triển mới về những khía cạnh quan trọng
trong giáo dục kỹ thuật và nghiên cứu mà các ngành công nghiệp đang cần.
Áp dụng chương trình vừa học vừa làm (hay nghiên cứu), vào chương
trình học của các trường cao đẳng và đại học
Coi trọng vấn đề ngoại ngữ nhất là Anh văn để sinh viên có thể lấy
những môn dạy bằng ngoại ngữ, nghe và thuyết trình, làm thực tập với những
công ty ngoại quốc, v.v..
72
Nhà nước nên tuyển dụng những sinh viên xuất sắc để đưa đi học các
ngành liên hệ đến những công nghệ cần thiết tại các trường dẫn đầu trên thế
giới. Để bảo đảm sự trở về của các sinh viên đã thành đạt, Nhà nước nên ký
một hợp đồng trước khi gửi đi.
Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
vẫn có nhiều triển vọng nhất, nếu có một sự cải tổ đúng đắn được ứng dụng,
để vào được danh sách tốp 500 của các viện, đại học và cao đẳng thế giới.
Thực chất những đại học Á châu đã được vào danh sách tốp 20 như Đại học
Bắc Kinh, Đại học Tokyo và Đại học Quốc gia Singapore là do truyền thống
xây dựng và trưởng thành từ xa xưa.
Khi đánh giá về 12 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương hai (khoá
VIII), Bộ Chính trị đã chỉ ra một trong 7 nhiệm vụ phải thực hiện đối với giáo
dục nước ta trong giai đoạn hiện nay là: “Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo
dục và đào tạo”. Do vậy, việc thúc đẩy liên kết đào tạo cũng phải được quan
tâm chỉ đạo, quản lý, nhằm mục tiêu đưa giáo dục nước ta tiếp cận nhanh hơn
với nền giáo dục tiên tiến, hiện đại trên thế giới, song không vì thế mà để mất
quyền tự chủ trong giáo dục nước nhà.

73
KẾT LUẬN

Sau hơn hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nước
ta đã thu được những thành tựu đáng kể trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa,
chính trị, xã hội. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã được hình
thành; theo đó, GD -ĐT cũng đã có những bước chuyển biến khá cơ bản.
Tuy nhiên, trong những năm tới để thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đảng
và nhân dân ta đề ra "thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa" thì không chỉ phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN mà còn còn tập trung sức lực , trí tuệ,
tài chính để phát triển GD -ĐT lên một số tầm cao mới. Đó là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là những người hoạt động trong lĩnh vực GD
- DT. Bởi lẽ, họ sẽ là những chiến sĩ hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực này.
Vừa trực tiếp đào tạo và tự đào tạo để trở thành những trí thức có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc; lại có tri thức
về nhiều lĩnh vực, họ sẽ cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân
dân. Nhiệm vụ rất nặng nề nhưng cũng rất vinh quang mà đất nước giao
cho họ là vừa rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức mới, vừa học tập tiếp
thu trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến để làm lực lượng chủ yếu trên
lĩnh vực xây dựng và phát triển kinh tế, như những chiến thắng mà thế hệ
cha ông đã làm nên "Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù
nào".
Những năm qua, sự nghiệp giáo dục đào tạo đã được sự quan tâm chỉ
đạo kịp thời, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và các cấp các ngành. Tuy
nhiên, công tác giáo dục - đào tạo ở nước ta nói chung vẫn còn hạn chế,
chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của đất nước, chưa phù hợp với thị
trường trong nước và quốc tế. Điều đó do nhiều ngyên nhân. Một mặt,
nước ta tuy có truyền thống học tập, con người thông minh sáng tạo nhưng

74
chúng ta trải qua nhiều khó khăn, thiếu thốn trong một thời gian dài đã tạo
nên một tính cách trì trệ cả trong quản lí, cả trong thực hiện, cả với người
học. Mặt khác, thị trường nước ta phát triển chậm, chưa đồng bộ, lại hiểu
sai mối quan hệ giữa GD -ĐT với thị trường nên làm cho GD - ĐT bị lợi
dụng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quy mô, hình thức, số lượng và
chất lượng của GD - ĐT. Thêm nữa, một số công ty nước ngoài mà chủ yếu
là cá nhân đội lốt kết hợp với một số cá nhân tham lợi trong nước đã phần
nào lũng đoạn GD - DT của nước ta. Tuy thế, trong những năm qua, những
tác động tích cực của tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới và sự tác
động của mặt trái của nền kinh tế thị trường phát triển chưa hoàn thiện ở
nước ta đến công tác giáo dục đào tạo đã được được chúng ta nghiên cứu
và đưa ra giải pháp khắc phục. Do vậy, mà giáo dục - đào tạo đã có những
bước phát triển tích cực, bước đầu đã đào tạo được đội ngũ nhân lực chất
lượng cao, đáp ứng thị trường trong nước và quốc tế.
Từ thực tiễn của mối quan hệ giữa vấn đề giáo dục đào tạo với thị
trường ở nước ta hiện nay luận văn đã đưa ra một số giải pháp cơ bản để xây
dựng mối quan hệ này ngày càng có hiệu quả cao hơn. Đó là, kiên trì mu ̣c
tiêu, chức năng và lĩnh vực hoa ̣t đô ̣ng cơ bản của ngành giáo dục đào tạo
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; lấy nhiệm vụ
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển kinh tế - xã hội làm
mục tiêu trung tâm; mở rộng hợp tác quốc tế với các trường đại học , cao đẳng
đã có uy tín trong giáo dục đào tạo, phù hợp với mục tiêu phát triển giáo dục
đào tạo Việt Nam. Phát triển thị trường một cách đồng bộ nhưng không phải
thị trường hoá lĩnh vực GD - ĐT, cần chấm dứt việc liên kết với các công ty
giáo dục nước ngoài, hoặc gửi đi đào tạo những trường không đáng tin cậy
trong đào tạo của họ, hoặc thành lập các công ty GD - DT trong nước để giảm
thiểu rủi ro cho người học, giảm thiệt hại cho xã hội.

75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Dương Nam Anh (Canađa), Giáo dục Việt Nam - Lựa chọn mô hình phù
hợp.
2. Nguyễn Đức Bách, Lê Văn Liêm, Nhị Lê (1998), Một số vấn đề định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội.
3. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Tài liệu nghiên cứu các nghị quyết
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ sáu khoá X dành cho cán
bộ chủ chốt và báo cáo viên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Hoàng Chí Bảo (1998), “Giáo dục văn hóa lao động để nâng cao tay
nghề cho công nhân”, Tạp chí Dân vận, (6).
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội (25/8/1998), Thông tư số 53/1998/TT-LT/BGD&ĐT-BTC-BLĐ,
TB&XH hướng dẫn thực hiện chế độ học bổng và trợ cấp xã hội đối với
học sinh, sinh viên các trường đào tạo công lập.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Đề án đổi mới giáo dục đại học Việt
Nam giai đoạn 2006 - 2020.
7. Nguyễn Trọng Chuẩn (1994), “Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa,
hiện đại hóa”, Tạp chí Triết học, (2).
8. Nguyễn Trọng Chuẩn; Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (2002),
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam lí luận và thực tiễn, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà nội.
9. Nguyễn Trọng Chuẩn (2003), Để có nguồn lực cao nhằm đáp ứng nhu
cầu phát triển đất nước trong thế kỷ thứ XXI, Kỷ yếu hội thảo quốc tế,
Hà Nội.
10. Nguyễn Khắc Chương (2003), “Công tác giáo dục đại học, cao đẳng và
ngành nghề để phát triển nguồn nhân lực ở nước ta”, Tạp chí Lí luận
chính trị, (7).
11. Trần Quang Chiến (2004), Vai trò của tri thức trong việc phát triển chất

76
lượng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học.
12. Con đường đến năm 2015 - Hồ sơ của tương lai, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
13. Nguyễn Văn Cường (1998), Phát triển nguồn nhân lực để xóa đói giảm
nghèo, Tư liệu Viện Thông tin khoa học kỹ thuật.
14. Nguyễn Văn D ân (2008), Diện mạo và triển vọng của xã hội tri thức,
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
15. Phạm Tất Dong (1994), “Suy nghĩ về đội ngũ trí thức nước ta”, Tạp chí
Cộng sản, (4).
16. Phạm Tất Dong (1995), Trí thức Việt Nam, thực tiễn và triển vọng, Hà Nội.
17. Nguyễn Hữu Dũng (1994), “Đổi mới chính sách tuyển dụng và sử dụng
khoa học học kỹ thuật trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam”, Tạp chí Thông tin lý luận số, (11).
18. Nguyễn Hữu Dũng (2009), “Vấn đề phát triển nguồn nhân lực hiện nay
ở Việt Nam”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (253).
19. Đàm Hữu Đắc (2008), “Đổi mới đào tạo nghề, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực cho đất nước”, Tạp chí Cộng sản, (9).
20. Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Đảm bảo chất lượng đào tạo và
nghiên cứu phát triển giáo dục (2005), Giáo dục đại học, Chất lượng và
đánh giá, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ V, tập 1, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh
tế xã hội đến năm 2000, Nxb. Sự Thật, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

77
lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu, khoá
X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Trần Đạt (1995), Kinh doanh trong nền kinh tế thế giới, Nxb. Khoa học và
Kĩ thuật, Hà Nội.
29. Đanien Ben-xai-đơ (1998), Mác - Người vượt trước thời đại, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đàm Hữu Đắc (2008), “Đổi mới đào tạo nghề, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực cho đất nước”, Tạp chí Cộng sản, (9).
31. Nguyễn Văn Điềm, Nguyễn Ngọc Quân (2004), Giáo trình Quản trị
nhân lực, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.
32. Nguyễn Minh Đường (2004), Vấn đề đào tạo và bồi dưỡng lại các loại
hình lao động nhằm đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế,
xã hội trong điều kiện mới, Báo cáo tại hội nghị khoa học quốc tế
“Nghiên cứu con người, giáo dục, phát triển và thế kỉ XXI”.
33. Nguyễn Minh Đường (2006), Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường,
toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
34. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục phát triển con người phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
35. Phạm Minh Hạc (1997), Giáo dục nhân cách đào tạo nhân lực, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỉ
XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển toàn diện con người trong thời kì
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Phạm Minh Hạc (2006), “Đổi mới mạnh mẽ giáo dục nghề nghiệp và

78
phát triển nguồn nhân lực”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (7).
39. Phan Thế Hải (2001), Đặng Tiểu Bình nhà cải cách kinh tế hàng đầu thế
giới, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
40. Mã Hồng (chủ biên - 1995), Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Đặng Hữu (2004), Kinh tế thị trường , thời cơ và thách thức đối với xã
hội Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Đặng Hữu (2004), “Phát triển bền vững dựa trên tri thức”, Tạp chí Cộng
sản, (4).
43. Vũ Thành Hưởng (8/2005), “Một số vấn đề bức xúc trong việc gắn đào
tạo với sử dụng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Kinh tế và
Phát triển, (98).
44. Hồ Chí Minh (1972), Bàn về công tác giáo dục, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
45. Maridon Juarenơ (1996), Sự đảo lộn của thế giới địa chính trị thế kỷ
XXI, Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội.
46. Tery M. More (2005), Sơ lược về các trường học Hoa Kỳ, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
47. Phạm Xuân Nam (chủ biên - 1997), Đổi mới chính sách xã hội - luận cứ
và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Trần Nhâm (chủ biên - 1997), Có một Việt Nam như thế - đổi mới và
phát triển, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Nguyễn Nguyên (2001), Việt Nam định hướng xã hội chủ nghĩa trong
thế giới toàn cầu hoá. Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
50. Nguyễn Văn Oánh (1994), Định hướng xã hội chủ nghĩa: Nội dung cơ
bản và điều kiện chủ yếu thực hiện, luận án Phó tiến sĩ Triết học.
51. Paul A. Samuelson William A. Nordhaus (1997), Kinh tế học, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Philippe Lasserre - Joseph Putti (1996), Chiến lược quản lí và kinh
doanh (2 tập), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

79
53. Vương Lạc Phu và Tưởng Nguyệt Thần (2000), Khoa học lãnh đạo hiện
đại, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Dương Bá Phượng - Nguyễn Minh Khải (9/1998), “Kinh tế thị trường và
định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Cộng sản, (18), tr.27-31.
55. Lương Xuân Quý (chủ biên - 2001), Cơ cấu và thành phần kinh tế ở
nước ta hiện nay - Lý luận, thực tiễn và giải pháp, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
56. Tô Huy Rứa (1996), “Con đường về điều kiện đảm bảo định hướng xã
hội chủ nghĩa”, Tạp chí Cộng sản, (6).
57. Đặng Kim Sơn (2004), Ba cơ chế thị trường, nhà nước và cộng đồng
ứng dụng cho Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Lê Hữu Tầng (chủ biên - 1997), Về động lực kinh tế - xã hội, Nxb. Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
59. Nguyễn Thanh (2005), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Vũ Bá Thể (2005), Phát huy nguồn nhân lực con người, để công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.
61. Nguyễn Thị Thơm (2004), “Những khiếm khuyết của nền kinh tế thị
trường”, Tạp chí Lí luận chính trị, (8).
62. Trung tâm Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực (2002), Từ chiến lược
phát triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội.
63. Trung tâm Thông tin và Tư vấn phát triển (2/2002), Tổng quan quy
hoạch phát triển kinh tế xã hội Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
64. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia - Viện Triết học
(11/2002), Một số vấn đề về triết học - con người - xã hội, Nxb. Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
65. Vũ Huy Từ (Chủ biên) - Lê Chi Mai - Võ Kim Sơn (1998), Quản lí khu

80
vực công, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
66. Chu Thượng Văn - Chu Cẩm Uý (1999), Chủ nghĩa xa hội là gì? Xây
dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào?, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Vnn ngày 25 tháng 3 năm 2008 và một số tin trên Internet.

81

You might also like