You are on page 1of 70

HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

VỢ NHẶT
ĐỀ 1: Diễn biến tâm trạng - vẻ đẹp của tình mẫu tử ở nhân vật bà cụ Tứ trước tình huống nhặt đc
vợ của Tràng.
A. MỞ BÀI:
             Công việc của một nhà văn tựa hồ giống như công việc của một người đánh cá, anh phải tung tấm
lưới tinh thần xuống biển cả thế gian để thu về những gì tinh túy nhất, những gì “đời” nhất nhưng cũng là
những gì “người” nhất. Bởi nếu chỉ nói những điều sáo rỗng, hư vô thì phải chăng văn chương rồi mai
đây cũng sẽ tới buổi điêu tàn, những tác phẩm sẽ chẳng còn là những “sân - khấu - cuộc - đời” khiến bạn
đọc rung cảm theo từng nhịp chữ. Đứng trước ngã ba đường đầy thử thách ấy, Kim Lân đã chọn trở về
với đồng quê và viết về người nông dân bằng một giọng điệu nhân văn và tình cảm nhất, người nghệ sĩ
thuần hậu kia đã cất lên thanh âm để soi rọi vào nhân cách con người. Đặc biệt, qua truyện ngắn “Vợ
nhặt”, ông càng thể hiện rõ ràng hơn cốt cách của “một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy” (Chekhov) khi sử
dụng nạn đói làm phông nền để bật nổi được phẩm giá con người, điển hình là tình mẫu tử thiêng liêng
của người mẹ nghèo khổ - bà cụ tứ trước tình huống “nhặt vợ” của con trai.
B. THÂN BÀI:
I. Giới thiệu khái quát
1. Tác giả
- Cây bút chuyên viết truyện ngắn.
- Ông am hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lý của những người nhân dân nông dân nghèo
2. Tác phẩm:
- Xuất xứ: tập “Con chó xấu xí”
- Hoàn cảnh ra đời: 1945-1954: là kết quả của quá trình suy ngẫm lâu dài gắn liền với những
trải nghiệm về con người và cuộc đời của nhà văn, đồng thời nó cũng là kết quả của sự ngọt
dũa kỹ lưỡng về phương diện nghệ thuật.
 Được đánh giá như một kiệt tác, là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân, thể hiện một
cách toàn diện ngòi bút tinh tế, chân thực, xúc động của một “người nhà quê nói thật” khi trở về
“với đất, với người, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn” (Nguyên Hồng).
3.  Bối cảnh của truyện
- Nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã được tác giả miêu tả bằng những chi tiết nghệ thuật đầy
ám ảnh.
4. Tình huống truyện độc đáo
- Câu chuyện xoay quanh một tình huống bi hài, vừa tạo sự hấp dẫn, vừa làm xúc động lòng
người. Tình huống được hé mở ngay từ nhan đề “Vợ nhặt”,“vợ nhặt” là vợ theo không, đem
đến nỗi ngậm ngùi xót xa về giá trị rẻ rúng, thấp hèn của con người.
- Tình huống: anh cu Tràng nhặt được vợ - người đàn bà đói khát ngoài đường đến một cái tên
cũng không biết trong những ngày đói.
 Bất ngờ, éo le
- Bất ngờ: 
 Vì người nhặt được vợ là Tràng - hội tụ nhiều yếu tố để ế vợ: vừa xấu xí, ngờ nghệch, gia cảnh
nghèo khó, nhà neo người,.. ⇒ hiện thân cho sự gọt đẽo sơ sài của tạo hóa, sự trớ trêu của số
phận.
 Lấy vợ lấy chồng vốn là một việc trọng đại thường được thực hiện với lễ nghi trang trọng thì
Tràng có vợ qua hai lần gặp gỡ, mấy câu đùa tầm phơ tầm phào và bốn bát bánh đúc. Tràng nhặt
được vợ như nhặt cỏ rác ngoài đường.
- Éo le: 
 Vì cái đói đã se duyên cho con người, miếng ăn ngày đói trở thành sự khởi đầu trong mối quan hệ
thiêng liêng. 
 Tràng đã đưa người đàn bà chủ động theo không Tràng về làm vợ giữa những ngày đói quay đói
quắt, ở cái lúc tưởng như người ta không nghĩ đến cái gì khác ngoài cái đói và cái chết.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

 Có vợ và việc nên vợ nên chồng trong hoàn cảnh này thật sự là nguy cơ, một sự mạo hiểm mà
người ta thậm chí phải đánh đổi bằng cả mạng sống của mình.
 Tình huống đã khiến cho tất thảy mọi người ngạc nhiên, bất ngờ, sự lo lắng, ái ngại còn đến
trước cả sự mừng vui.
- Là nhân vật xuất hiện ở khoảng giữa câu chuyện, là người cuối cùng biết đến tình huống éo le
“Tràng nhặt được vợ” bà cụ Tứ đã để lại cho người đọc nhiều nỗi xúc động trước tấm lòng của
người mẹ nghèo khổ, giàu tình yêu thương con, bao dung, nhân hậu, giàu hi vọng sống. Nhân vật
được nhà văn khắc họa chân thực, sâu sắc, sinh động từ ngoại hình, cử chỉ, hành động, những lời
đối thoại và những dòng độc thoại nội tâm.
1. Nhân vật bà cụ Tứ:
a. Khái quát:
- Nhân vật xuất hiện với những chi tiết:
 Ho húng hắng
 Dáng đi lọm khọm
 Miệng lẩm bẩm tính toán
 Người mẹ già nua còm cõi; in hằn dấu ấn thời gian, tuổi tác; trĩu nặng lo toan của một cuộc đời
nhiều khó nhọc
b. Tâm trạng của bà cụ Tứ (trước tình huống bất ngờ, éo le đã được miêu tả chân thực, tinh tế =>
vẻ đẹp trong tâm hồn và tấm lòng của người mẹ) 
 Khi vừa về đến nhà: thái độ ngạc nhiên ngơ ngác đến tội nghiệp của bà cụ Tứ trong linh
cảm về một chuyện bất thường trước thái độ khác lạ của anh con trai.
- Thấy chàng “reo lên”, “lật đật chạy ra đón”, thái độ vồn vã, trang trọng khác thường, bà lão “phấp
phỏng” - vừa có sự hồi hộp vừa có sự lo lắng bởi linh cảm có một sự việc rất trọng đại đang diễn
ra
- Nhìn thấy người đàn bà đứng trong nhà, gọi u => cả sự hồi hộp lo lắng ngạc nhiên đẩy lên đến tột
cùng => Nó được thể hiện trong những câu hỏi, những lời đối thoại nội tâm, trong bức chân run
rẩy lập cập, trong cử chỉ đứng sững lại, trong đôi mắt đã nhoèn ra. 
 Dù trái tim nhạy cảm của người mẹ đã nhận ra có điều gì thật trọng đại, thiêng liêng nhưng
trong hoàn cảnh đói khát, nhất là trong hoàn cảnh khốn khổ của gia đình, bà lão không dám
tưởng tượng, không dám tin rằng con mình có vợ. Điều này khiến người đọc vừa cảm thông,
vừa thương xót với người mẹ.
 Khi hiểu ra: cúi đầu nín lặng với biết bao nỗi niềm
- “Lòng người mẹ nghèo khổ hiểu ra biết bao cơ sự”: hiểu hết những uẩn khúc trớ trêu, những éo le
trong việc Tràng nhặt được vợ - điều con bà không nỡ nói ra, điều bà không nỡ hỏi. Bởi vì đó
chính là điều làm cho người đàn bà đói rách kia lo sợ, tủi hổ bẽ bàng.
 Sự hiểu ra hiểu hết của một người mẹ từng trải và cũng là người có trái tim nhân hậu.
- Trước cả mừng vui là nỗi ai oán, thương xót cho số kiếp con mình, là những day dứt về bổn phận
của người làm mẹ. 
 Thương con tủi cho con vì thông thường người ta cha mẹ dựng vợ gả chồng khi gia đình ăn nên
làm nổi, mong sinh con đẻ cái, mở mặt mở mày; con mình nhặt được vợ trong cảnh đói khát,
người ta vì đói khát mới lấy đến con mình.
- Thương con mà đầy lo lắng trong những ngày đói quay, đói quắt này liệu có nuôi nổi nhau, có
sống nổi qua cơn đói khát. Hồi tưởng cả một cuộc đời dài dằng dặc, cực khổ của mình mà ngậm
ngùi “Cuộc đời nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?”
- Người mẹ thương con mà xót tủi cho con, mà lo cho con âu cũng là lẽ thường. Bà cụ Tứ không
chỉ thương con mình mà còn thương xót, bao dung đón nhận người đàn bà rách rưới, xa lạ kia và
vun vén cho hạnh phúc của con. 
 Không phản đối, không tra xét, không rẻ rúng, không coi khinh người đàn bà đã theo không con
mình. Bà lão “đăm đăm” nhìn người đàn bà đang “cúi mặt, tay vân vê tà áo đã rách bợt” cái nhìn
“đăm đăm” là nhìn chăm chú nhưng không phải để phán xét mà để cảm thương. Bà cảm thấy hết
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

cái rách dưới đến cùng cực trong “tà áo rách bợt”, hiểu hết những nỗi lo âu, tủi buồn, bẽ bàng
trong cử chỉ tay vân vê tà áo.        
 Người đàn bà hiện ra trong cái nhìn của bà cụ Tứ không đáng ghét, đáng khinh mà đáng
thương, tội nghiệp, trong cái nhìn đầy thương xót ấy có sự đồng cảm của những con người
cùng cảnh đói rách, có sự xót thương cho số phận người đàn bà và có tình thương bằng tấm
lòng người mẹ.
 Người mẹ với tấm lòng bao dung đã chấp nhận người đàn bà chấp nhận sự việc trớ trêu, éo le. Sự
chấp nhận đầy bao dung ấy được thể hiện trong những lời đối thoại và độc thoại nội tâm. Bà cụ
Tứ gọi người đàn bà là con, những lời nói của bà cụ Tứ vừa mộc mạc vừa giản dị vừa ấm áp tình
người, tình mẹ “các con phải duyên phải kiếp…u cũng mừng lòng”. Câu nói không chỉ là sự chấp
thuận mà còn gửi gắm tấm lòng người mẹ mừng cho hạnh phúc các con. Người mẹ già nua, quê
mùa nhưng cách ứng xử thật tinh tế, nhân hậu làm vợi đi những lo lắng, căng thẳng của con cái và
nhất là những bẽ bàng, tủi cực của người đàn bà.
 Bà đã bỏ qua cả lễ giáo thông thường, vượt qua nỗi ám ảnh ghê gớm của đói khát, của chết
chóc để đùm bọc, cưu mang cho một con người nghèo khổ và vun vén cho hạnh phúc các con.
- Trong bao nỗi niềm ngậm ngùi, buồn tủi vì những lo lắng cơ cực, người mẹ vẫn mừng cho hạnh
phúc của con, động viên các con bằng niềm tin mơ hồ mà mãnh liệt “Ai giàu ba họ, ai khó ba
đời?”. Trong một tình huống đầy bất ngờ, éo le, trước một sự việc có thể có nguy cơ con người ta
phải đổi bằng mạng sống của chính mình, bà cụ Tứ vẫn gieo vào lòng các con niềm tin vào sự
sống và cuộc sống tốt đẹp hơn.
 Bao nỗi niềm của người mẹ: buồn tủi, lo lắng, ai oán, buồn vui đều xuất phát từ tình thương
“chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Tình thương và tấm lòng nhân hậu, vị tha của
người mẹ nghèo khổ đã được Kim Lân miêu tả thật cảm động qua những chi tiết, cử chỉ, hành
động, lời nói, suy nghĩ, dòng nước mắt - dòng nước mắt của tình người, của tình mẹ. Những
dòng nước mắt làm người ta rưng rưng nhớ đến những điều mà Nam Cao đã từng viết: “Nước mắt
là tấm kính làm biến hình vũ trụ”. Tình thương đã cứu vớt con người khiến sự việc éo le trở thành
khởi đầu của hạnh phúc.
c. Sự thay đổi của bà cụ Tứ trong buổi sáng hôm sau:
- Xuất hiện trong khoảnh khắc chan hòa ánh sáng, người đọc không chỉ cảm nhận ánh nắng của
buổi sáng mùa hè sáng lóa mà còn cảm nhận trong khoảnh khắc ấy ánh sáng lấp lánh của tình
người, ánh sáng của niềm tin hi vọng.
- Cùng con dâu quét tước, dọn dẹp căn nhà rách nát, tuềnh toàng và mảnh vườn xác xơ đem lại
sinh khí, sức sống cho ngôi nhà. Người mẹ già như muốn góp phần vun vén, chăm lo cho cuộc
sống mới của gia đình, cho hạnh phúc mới của các con với một niềm tin, một hi vọng nhà cửa
sạch sẽ, gọn gàng thì cuộc sống cũng khấm khá hơn.
- Bà cụ Tứ hiện ra với nét mặt, với dáng vẻ khác hẳn ngày thường, đó là nét mặt nhẹ nhõm tươi
tỉnh khác hẳn nét trĩu nặng, lo âu của người hôm qua. Khuôn mặt “bủng beo u ám” vì đói khát thì
rạng rỡ hẳn lên, dáng vẻ lọm khọm thường ngày hôm nay đang xăm xắn thu dọn, quét tước.
 Ở người mẹ già như có một sức sống mới. Trong cơ thể già nua, cằn cỗi của người mẹ như có một
sức sống mới. Hạnh phúc của các con đã tiếp thêm sức sống cho người mẹ - một sự thay đổi diệu
kỳ mà chân thực, cảm động.
- Người mẹ chồng đón nàng dâu mới bằng bữa cơm ngày đói:
 Một bữa ăn thảm hại về phương diện vật chất không giấu đi đâu được nhưng có sự ấm áp niềm
vui, niềm hi vọng lan tỏa từ người mẹ đến các con.
 Cả nhà ăn rất ngon lành. Trong bữa cơm, bà lão là người chủ động chuyện trò, kể chuyện làm ăn,
gia cảnh, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Người mẹ đã chủ động tạo ra không
khí đầm ấm, vui vẻ cho các con nhất là nàng dâu mới. Bà còn động viên các con bằng những dự
tính mà trong hoàn cảnh hiện tại ai cũng biết là viển vông, xa vời nhưng trong cách nói của bà
vẫn đầy náo nức, hi vọng rằng nếu may mắn, cố gắng họ vẫn có thể sống, vẫn có thể vượt qua đói
khát, ấm no, sung túc.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

 Chính ở người mẹ già gần đất xa trời ấy, người ta còn cảm nhận một niềm tin thật mãnh liệt vào
những điều tốt đẹp dù con người đang phải sống trong tận cùng của khổ cực đói khát.
 Ở chính người mẹ già nua và còm cõi ấy, người ta còn cảm nhận một sức mạnh, một sự gắng
gượng đầy bản lĩnh khi đối diện với cái đói khát cùng cực, đau đớn. Có một sự thật phũ phàng,
con người để duy trì sự sống mà phải ăn một thứ không phải dành cho người nhưng vẫn cảm thấy
may mắn. Nhưng đối diện với hiện thực nghiệt ngã ấy, bà cụ Tứ được miêu tả với hành động “lật
đật, lễ mễ, vừa khuấy khuấy vừa cười”, với câu nói cố tỏ ra vui vẻ “chè khoán đây ngon đáo để
cơ”. Đó là sự gắng gượng của người mẹ để giữ lấy niềm vui trong bữa cơm đón nàng dâu mới, là
sự gắng gượng của người mẹ giúp các con vượt qua nỗi tủi hờn chua chát khi nuốt những miếng
cám “đắng chát nghẹn bứ trong cổ”.
 Chính người mẹ đã truyền cho các con niềm tin sức mạnh “để đối mặt với khốn khổ để vượt lên
cái khốn khổ, cái đói, cái thảm hại để mà vui, mà hi vọng”.
- Có ngược đời chăng một khi xưa nay, hi vọng và tương lai vẫn gắn liền cùng tuổi trẻ? Nếu cho
đây là nghịch lí thì nó sẽ thuộc về loại nghịch lí bao hàm một cái lí sâu xa. Vì con người già lão
“lọng khọng” này không ao ước cho mình. Người mẹ ấy sống vì con, hi vọng cho lớp cháu con,
tìm thấy ý nghĩa đời mình trong sự chăm lo vun vén cho con, mơ ước cho con. Nhờ đó mà đến
những năm tháng cuối cùng của đời bà, niềm hi vọng không bị tàn theo đói nghèo và tuổi tác. 
d. Khái quát lại
- Đặt nhân vật trong tình huống bất ngờ, éo le, nhà văn đã khắc họa chân thực cảm động hình ảnh
bà cụ Tứ bằng những hình ảnh, chi tiết đặc sắc. Đây là nhân vật để lại nhiều xúc động nhất trong
câu chuyện. Đó cũng là sự cảm động, trân trọng trước tấm lòng yêu thương, nhân hậu, niềm tin,
niềm lạc quan vào những điều tốt đẹp của cuộc sống. Qua nhân vật này, Kim Lân đã gửi gắm
bước thông điệp mang tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
- Nghệ thuật: 
 Dựng tình huống truyện độc đáo.
 Miêu tả tâm lí nhân vật hấp dẫn sinh động, 
 Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, đậm chất nông dân được chắt lọc kỹ lưỡng giàu sức gợi.
C. KẾT BÀI
Những trang xúc động nhất của tác phẩm có lẽ gắn liền với cảm xúc vui buồn lẫn lộn của bà cụ Tứ.
Trái tim người mẹ thật bao dung và cũng thật chua xót. Những mâu thuẫn éo le được đẩy lên cao trào
nhưng cũng được hóa giải phần nào nhờ tình thương của người mẹ. Định mệnh như chà đạp hạnh phúc
nhưng không thể thắng được niềm tin của những người chưa tắt hy vọng vào tương lai. Cái đọng lại cuối
cùng trong tôi vẫn là cách nhìn đời, nhìn người thì xót xa và thương yêu của nhà văn, là niềm tin mà
dường như ông muốn trao gửi đến tất cả chúng ta qua thiên truyện ngắn. Rằng dù cuộc sống có bi thảm
đến đâu thì cái cội nguồn nhân bản lưu giữ trong nhân dân vẫn là bất diệt, rằng con người không còn khao
khát chính đáng nào hơn là khao khát được sống như một con người. Tác phẩm làm ấm ta bởi niềm vui
sống và thứ tình cảm thiêng liêng tuyệt đối. 
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

Đề 2: Những thay đổi ở người đàn bà không không tên - vợ nhặt trong tình huống truyện Tràng
nhặt được vợ. Miêu tả sự thay đổi ấy, tác giả muốn gửi gắm bức thông điệp gì?
A. MỞ BÀI:
Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm
đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý
khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái
chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hy vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con
người". Nhà văn Kim Lân từng viết về Vợ nhặt như thế, và thực sự ông đã gửi gắm điều đó vào mỗi nhân
vật, đặc biệt là trong sự thay đổi diệu kì ở người đàn bà không tên – người vợ nhặt trong tình huống Tràng
nhặt được vợ, từ đó gửi gắm bức thông điệp về sức mạnh của tình người và niềm yêu sống.
B. THÂN BÀI:
I. Giới thiệu khái quát
1. Tác giả
- Cây bút chuyên viết truyện ngắn.
- Ông am hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lý của những người nhân dân nông dân nghèo
2. Tác phẩm:
- Xuất xứ: tập “Con chó xấu xí”
- Hoàn cảnh ra đời: 1945-1954: là kết quả của quá trình suy ngẫm lâu dài gắn liền với những
trải nghiệm về con người và cuộc đời của nhà văn, đồng thời nó cũng là kết quả của sự ngọt
dũa kỹ lưỡng về phương diện nghệ thuật.
 Được đánh giá như một kiệt tác, là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân, thể hiện một
cách toàn diện ngòi bút tinh tế, chân thực, xúc động của một “người nhà quê nói thật” khi trở về
“với đất, với người, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn” (Nguyên Hồng).
3.  Bối cảnh của truyện
- Nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã được tác giả miêu tả bằng những chi tiết nghệ thuật đầy
ám ảnh.
4. Tình huống truyện độc đáo
- Câu chuyện xoay quanh một tình huống bi hài, vừa tạo sự hấp dẫn, vừa làm xúc động lòng người.
Tình huống được hé mở ngay từ nhan đề “Vợ nhặt”,“vợ nhặt” là vợ theo không, đem đến nỗi
ngậm ngùi xót xa về giá trị rẻ rúng, thấp hèn của con người.
- Tình huống: anh cu Tràng nhặt được vợ - người đàn bà đói khát ngoài đường đến một cái tên
cũng không biết trong những ngày đói.
 Bất ngờ, éo le
- Bất ngờ: 
 Vì người nhặt được vợ là Tràng - hội tụ nhiều yếu tố để ế vợ: vừa xấu xí, ngờ nghệch, gia cảnh
nghèo khó, nhà neo người,.. ⇒ hiện thân cho sự gọt đẽo sơ sài của tạo hóa, sự trớ trêu của số
phận.
 Lấy vợ lấy chồng vốn là một việc trọng đại thường được thực hiện với lễ nghi trang trọng thì
Tràng có vợ qua hai lần gặp gỡ, mấy câu đùa tầm phơ tầm phào và bốn bát bánh đúc. Tràng nhặt
được vợ như nhặt cỏ rác ngoài đường.
- Éo le: 
 Vì cái đói đã se duyên cho con người, miếng ăn ngày đói trở thành sự khởi đầu trong mối quan hệ
thiêng liêng. 
 Tràng đã đưa người đàn bà chủ động theo không Tràng về làm vợ giữa những ngày đói quay đói
quắt, ở cái lúc tưởng như người ta không nghĩ đến cái gì khác ngoài cái đói và cái chết.
 Có vợ và việc nên vợ nên chồng trong hoàn cảnh này thật sự là nguy cơ, một sự mạo hiểm mà
người ta thậm chí phải đánh đổi bằng cả mạng sống của mình.
 Tình huống đã khiến cho tất thảy mọi người ngạc nhiên, bất ngờ, sự lo lắng, ái ngại còn đến
trước cả sự mừng vui.
II. Phân tích
1.  Khái quát về cô vợ nhặt
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

- Thị không tên, không tuổi, không quê quán, không chốn nương thân, “ngồi vêu ở của nhà kho,
nhặt hạt rơi vãi…chờ có ai gọi thì đến làm”  người đàn bà tha hương cầu thực trong cảnh đói
kém
 Nhân vật vừa hiện ra cụ thể, vừa khái quát, đại diện cho số phận chung của người dân nghèo
trong nạn đói
-  Chỉ bằng vài ba nét phác họa, Kim Lân đã tái hiện chân dung người vợ nhặt khá rõ: 
 “thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa”
 “thị gầy sọp hẳn đi”
 “trên cái mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai hố mắt” và “cái ngực gầy lép”.
 Cái đói huỷ hoại hình hài - trông như con ma đói, ở thị hiện rõ nguy cơ chết đói.
- Người vợ nhặt xộc xệch cả về mặt nhân tính. 
 Đòi ăn: vịn vào câu hò như một lời hứa hẹn thật. Thế nên gặp lại hai lần sau vài ngày, người đàn
bà ấy mới tự cho mình cái quyền sưng sỉa, trách móc, cong tớn: “điêu, người thế mà điêu. Hôm
ấy leo lẻo cái mồn hẹn xuống thế mà mất mặt”.
 Được mời ăn: “mắt sáng lên”, “ăn một chập bốn bát”, “không chuyện trò”, “không kịp thở”
 Hành động nhanh nhảu sà xuống ăn thật và cách ăn không kịp ngừng là hình ảnh đầy thảm
hại, chua xót, nó phản ánh sự đói khát lâu ngày từ thị. Nạn đói không chỉ tàn phá ngoại hình
mà còn làm cho người ta quên đi ý tứ và phép tắc lễ nghĩa.
 Chủ động, cố tình biến câu nói đùa thành thật, theo không Tràng về làm vợ.
 Sự đói khát đã hủy hoại nhân cách của thị, buộc thị phải vứt bỏ ý thức, phép tắc, sĩ diện, xấu
hổ. Miếng ăn làm cho con người ta trở nên chao chát, chỏng lỏn; cái đói làm cho con người không
còn biết đến thể diện; sự gào thét của cái bụng rỗng khiến con người trở nên trơ trẽn, liều lĩnh làm
sao! Thái độ và hành động của thị trước miếng ăn làm ta xót xa đến rơi nước mắt về tình cảnh thê
thảm, thân phận tủi nhục, giá trị rẻ rúng của con người. Nhưng trong cái điêu tàn và rữa nát, trong
sự bủa vây của cái chết, sự sống vẫn không ngừng trỗi dậy, vươn lên. Từ thoi thóp, leo lét, có lúc
nó mãnh liệt như có phép màu.
- Liên hệ: Các nhà văn này mới chỉ xoáy vào hiểm họa: cái đói cướp đi sinh mệnh con người, đẩy
con người vào bước đường cùng, hoặc cái đói có nguy cơ ghì xát con người xuống mặt đất. Ngòi
bút Kim Lân tiếp nối góc nhìn ấy song còn đem đến cho người đọc một góc nhìn khác đầy chất
nhân văn cao cả. Đó là cái đói có thể hủy hoại, tước đoạt những vẻ đẹp giàu chất nữ tính nhất ở
người phụ nữ, nhưng, họ vẫn không mất đi niềm tin vào cuộc sống, ánh sáng ở tương lai. Hay nói
một cách khác, Kim Lân mượn cái đói để làm nổi bật vẻ đẹp của tình người, của niềm khao khát
sống.
2. Diễn biến tâm trạng của người vợ
- Trên đường về:
 lủi thủi, hơi cúi xuống, nón che nửa mặt,…
 Trước lời bàn tán của dân xóm ngụ cư, thị “ngượng ngùng chân nọ díu vào chân kia, thị chỉ dám
càu nhàu ở trong miệng”, 
 Thẹn thùng, ngại ngùng, xấu hổ trong hoàn cảnh trớ trêu.
 Hỏi dồn dập của thị với Tràng: “Nhà có ai không?”, “Sắp đến chưa?”,”Sao lâu thế?”….
 Tâm trạng lo âu, phấp phỏm, điều này được thể hiện rõ qua những câu
- Về đến nhà:
  Bước vào cổng, thấy“cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổm nhổm những bụi cỏ
dại”, người vợ nhặt không nén nổi tiếng thở dài ngao ngán.
 Sự thất vọng, chua chát 
 Khi bước vào nhà: “mớm ở mép giường, mặt bần thần.”
 Ý tứ, ngại ngùng, lo lắng, buồn tủi, tâm thế bấp bênh.
 Chào bà cụ là “U”, đứng khép nép, tay vân vê tà áo.
 Lời nói lễ phép, dáng vẻ tội nghiệp.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

 Người đàn bà đáng thương trong hoàn cảnh éo le. Thị cũng là người có lòng tự trọng, hiểu lễ
nghĩa.
- Sáng hôm sau
  Được sống trong tình thương ấm áp của gia đình bà cụ Tứ, người vợ nhặt đã có được những thay
đổi rõ nét: dịu dàng, đôn hậu trở lại
 “xăm xắn” quét dọn vườn tược, nhà cửa.”; “tiếng chổi từng nhát sàn sạt”—> chủ động, tự tin, gắn
bó với căn nhà, với tổ ấm mới
 “nom Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao
chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.” 
 “đã lẳng lặng đi vào trong bếp”, chuẩn bị bữa ăn cho tổ ấm.
 Ăn nói hiền hậu, đúng mực
 Thị chỉ là nạn nhân của nạn đói, vì sự nghèo khổ mà đánh mất nét duyên dáng, ngọt ngào. Ẩn sau
vẻ ngoài ấy, thị là người hiền hoà, dịu dàng, biết vun vén cho gia đình và hiếu thảo với bà cụ Tứ.
 Điềm nhiên và miếng cháo cám  tế nhị, thấu hiểu, chấp nhận sẻ chia mọi khó khăn.
 Người vợ hiền, dâu thảo biết chăm lo, vun vén cho gia đình
 Thị mang đến niềm vui, niềm hạnh phúc, sức sống cho ngôi nhà, cho những người đã yêu thương,
cưu mang thị.
 Sự khốn khó khiến người ta thành bèo bọt, rẻ rúm nhưng tình yêu thương, khát vọng hạnh phúc
đã khiến con người trở nên tốt đẹp hơn
 Hình ảnh người đàn bà cùng đường táo bạo liều lĩnh là biểu hiện cho khát vọng sống mãnh liệt, sự
thay đổi ở thị là giá trị của tình thương và hạnh phúc.
3. Ý nghĩa sự xuất hiên của người vợ nhặt.
- Tràng và người vợ nhặt đi đến đâu “có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm
tối” của dân xóm ngụ cư, nhen nhóm cho họ niềm tin và hy vọng. 
- Cô con dâu cũng đem đến niềm vui, hạnh phúc cho người mẹ chồng. Hàng ngày gương mặt bà cụ
Tứ bủng beo, u ám, hôm nay rạng rỡ hẳn lên, bà nhẹ nhõm tươi tỉnh khác ngày thường.
- Ảnh hưởng lớn nhất của cô vợ nhặt là đối với Tràng. Thiếu thị Tràng vẫn chỉ là Tràng của ngày
xưa ấy: ngây dại và đau khổ. Tràng đã có những biến đổi trong tâm lý, trong tư tưởng, biết yêu
thương, biết lo cho gia đình nhỏ của mình và biết nghĩ đến tương lai.
 Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, sinh khí ấy chỉ có được khi trong con người thị dung chứa
một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống, vào tương lai.
III. Tổng kết:    
- Nghệ thuật:
 Dựng tình huống truyện độc đáo.
 Miêu tả tâm lí nhân vật hấp dẫn sinh động, 
 Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, đậm chất nông dân được chắt lọc kỹ lưỡng giàu sức gợi.
- Bức thông điệp: Sự khốn khó khiến người ta thành bèo bọt, rẻ rúm nhưng tình yêu thương, khát
vọng hạnh phúc đã khiến con người trở nên tốt đẹp hơn.
C. KẾT BÀI:
Cô vợ nhặt có vai trò quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng nhân đạp của tác phẩm. Qua số phận
lay lắt của thị, Kim Lân tỏ lòng xót thương vô hạn những con người bất hạnh, mong manh như người vợ
nhặt trong nạn đói khủng khiếp năm ất dậu 1945. Nhà văn gián tiếp tố cáo bọn thực dân, phát xít và tay
sai đã tạo ra nạn đói, hạ thấp nhân phẩm của con người khiến thân phận họ rẻ rúng như cọng rơm, cọng
cỏ. Quả là nhà văn đã đứng về phía nhân dân, về con người để lên án tội ác. Nhân vật cô vợ nhặt góp
phần thể hiện thái độ trân trọng của tác giả trước những phẩm chất tốt đẹp của con người không bị bào
mòn bởi cái đói, cái chết. Đó là niềm tin vào cuộc sống, khao khát hạnh phúc, dù nhỏ bé, bình dị, nhưng
xúc động lòng người. Trong tác phẩm chưa có một cuộc cách mạng nào nổ ra nhưng hình ảnh những
người đi cướp kho thóc Nhật mà người vợ nhặt đề cập đến góp phần khẳng định sức mạnh vùng lên của
con người lao động trong thời đại mới.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

1. Nhân vật Tràng


      a, Tràng là ai?
- Kim Lân đã miêu tả: Tràng là người có ngoại hình xấu xí, dáng người thô kệch, đôi mắt nhỏ tí,
mặc dù đã lớn tuổi nhưng tính tình vẫn có nét ngờ nghệch, ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch , trêu
đùa với trẻ con.
- Gia cảnh: nghèo khổ, neo người, dân ngụ cư, làm nghề kéo xe bò - hội tụ những sự bất hạnh, thiệt
thòi của số phận, Tràng và gia đình anh không nằm ngoài nguy cơ của sự chết đói đến trong nhãn
tiền.
     b, Hoàn cảnh nhặt được vợ:
- Thực chất chỉ là một câu chuyện đùa hóa thành thật giữa những ngày đói khát, người chết như
ngả rạ, người đàn bà vô danh trong tình trạng sắp chết đói, chao chát chỏng lỏn, quên hết cả
ngượng ngùng, xấu hổ, quên cả sĩ diện, chủ động đòi ăn, chủ động theo không Tràng về làm vợ.
- Sự việc đã đặt Tràng vào tình huống bất ngờ, trớ trêu, đầy éo le.
      c, Tâm trạng và hành động của Tràng:
- Tràng chỉ gặp gỡ người đàn bà đúng hai lần, lần thứ hai thậm chí Tràng còn không nhận ra vì
trông thị rách quá, thảm hại như một con ma đói, cái nhìn của Tràng chứa đựng sự xót xa, hé mở
bản tính của một người đàn ông hiền lành, nhân hậu. Cách Tràng đối đãi với người đàn bà xấu xí,
xuồng xã, táo bạo đang chao chát cong cớn đòi ăn ấy đã bộc lộ sự rộng rãi và phóng khoáng dù
Tràng rất nghèo khổ.
- Khi khi người đàn bà chủ động biến câu đùa của Tràng thành chuyện thật, theo Tràng về thật thì
“mới đầu anh chàng cũng chợn”. Đây chính là phản ứng tâm lý rất thật của con người trong nỗi
ám ảnh về cái đói, về cái chết, một người vốn nghĩ đơn giản như Tràng nhưng cũng không thể
không lo lắng bởi đây đúng là một sự mạo hiểm. Có vợ là thêm một miệng ăn, là tăng thêm nguy
cơ chết đói trong khi thân chàng cũng chả biết có nuôi nổi không.
- Sau giây phút với những nỗi lo sợ thì Tràng đã tặc lưỡi với một quyết định liều lĩnh, táo bạo của
một chàng trai vốn đơn giản “ Chậc, kệ!”. Trong quyết định ấy, có lẽ cũng có phần xuất phát từ
sự thương cảm cho tình cảnh của người đàn bà xa lạ, khốn khổ đang đứng trước mặt Tràng, y như
một con ma đói, niềm mong ước sâu kín về hạnh phúc mà có lẽ người đàn ông ấy cũng không
dám nghĩ tới trong hoàn cảnh trong tình cảnh hiện tại: một gia đình có vợ có chồng
- Trên đường về
 Tràng đưa người vợ nhặt về trong một buổi chiều xác xơ, heo hút, lạnh lẽo, tối tăm trong cảnh thê
lương, tiêu điều vì đói khát. Nhưng khác hẳn với mọi ngày, không phải dáng vẻ mệt mỏi, vẻ mặt
đăm chiêu lo lắng, Tràng xuất hiện với dáng vẻ, với vẻ mặt mà người ta thấy niềm vui sướng như
không giấu  vào đâu được. Nhà văn đã dùng những chi tiết miêu tả ngoại diện để diễn tả niềm
hạnh phúc, sung sướng, thậm chí là hãnh diện, tự đắc của Tràng “mặt phởn phơ khác thường”,
“tủm tỉm cười nụ một mình”, “hai mắt thì sáng lên lấp lánh”, “cái mặt cứ vênh lên tự đắc với
mình”. Niềm sung sướng hân hoan ngập tràn tâm hồn, mơn man khắp da thịt khiến con người
dường như quên cái cảnh đói khát đang hiển hiện trước mắt. Đó cũng là niềm khao khát hạnh
phúc gia đình bấy lâu giờ mới được bộc lộ.
        ⇒ Dẫu chỉ là vợ nhặt, dẫu chỉ vì miếng ăn mà người đàn bà theo Tràng về nhưng Tràng đã có vợ,với
Tràng, đấy không phải là điều tủi hổ mà là sung sướng, hãnh diện, Kim Lân đã miêu tả tâm trạng ấy của
nhân vật với một cái nhìn trìu mến, yêu thương, gieo vào lòng người đọc bao nỗi xúc động.
- Khi về đến nhà
 Ở Tràng vừa có cái ngượng nghịu, băn khoăn, lo lắng, vừa đầy nôn nóng, háo hức.
 Tràng sờ sợ, đứng tây ngây ra giữa nhà, đầy băn khoăn lo lắng. Cái băn khoăn lo lắng biểu hiện
trong cái nhìn, trong những câu hỏi “Quái sao nó lại buồn thế nhỉ?... Ồ sao nó lại buồn thế
nhỉ?...”. Những chi tiết này cho thấy sự am hiểu và cảm thông của nhà văn trước trạng thái tâm lý
có phần phức tạp ở một chàng trai vốn đơn giản. Mọi sự việc quá bất ngờ, chính Tràng cũng
không được chuẩn bị tâm lý, chính Tràng cũng ngỡ ngàng trước sự việc đang diễn ra.
 Sự băn khoăn đầy lo lắng của Tràng biểu hiện sự quan tâm đầy áy náy xót xa, bởi có lẽ Tràng
cũng hiểu được phần nào nguyên nhân của nét mặt bần thần đầy buồn tủi kia.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

 Ở Tràng lúc này còn có sự nôn nóng, mong ngóng mẹ về để giới thiệu với mẹ. Sự háo hức hồi
hộp của Tràng đã bộc lộ niềm vui chân thật, tình cảm chân thành, thái độ nghiêm túc với sự việc.
 Giới thiệu với mẹ bằng những lời lẽ mộc mạc, giản dị mà chững chạc, chân thành, vừa ấm áp tình
người vừa đúng đạo lý, Tràng không chỉ thuyết phục được mẹ mà còn xóa đi mặc cảm về nỗi theo
không của người đàn bà. Chàng trai ngờ nghệch bỗng trở nên tế nhị và sâu sắc, lời nói nó bộc lộ
thái độ trân trọng với người vợ, sự mong mỏi và nghiêm túc với mối lương duyên đầy bất ngờ, éo
le này.
- Buổi sáng hôm sau:
 Sau đêm tân hôn, sáng hôm sau, Tràng thức dậy với trạng thái “êm ái lửng lơ như người vừa ở
trong giấc mơ đi ra”. Kim Lân vừa đồng cảm, thấu hiểu, vừa trìu mến yêu thương trước những
cảm giác, cảm xúc của người đàn ông bất ngờ có vợ. Trải nghiệm hạnh phúc đến bất ngờ khiến
Tràng “vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.”
 Tràng nhận ra xung quanh mình giống như có gì thay đổi, mới mẻ, khác lạ, từ ánh sáng chan hòa,
sự gọn gàng sạch sẽ của căn nhà hôm qua còn bừa bộn, từ hình ảnh người vợ, người mẹ đang dọn
dẹp, quét tước, tất cả đã cho Tràng cảm nhận một sức sống mới, sự đầm ấm của mái ấm gia đình
ở chính căn nhà hôm qua còn vắng teo, rúm ró, tuềnh toàng, bừa bộn.
       ⇒ Cảnh tượng thật đơn giản nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động bởi lần đầu tiên trong đời,
hắn cảm nhận được điều này
Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy..,. Hắn 
       ⇒ Tràng đã thực sự trưởng thành với những tình cảm, suy nghĩ sâu sắc: “hắn thấy hắn thương yêu
gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.”; “Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng.” Một nguồn vui sướng,
phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng” “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”. Sự thay đổi của Tràng
không chỉ thể hiện trong tình cảm, suy nghĩ mà biến thành hành động: “xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn
cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. “xăm xăm”không chỉ diễn tả dáng vẻ mà còn
thể hiện sự hăm hở hào hứng đầy trách nhiệm của người đàn ông đã thấy mình nên người.
⇒ Những gì tốt đẹp nhất trong lòng Tràng đã bừng thức. Một sức sống mới, một niềm hy vọng mới tràn
ngập trong tâm hồn người đàn ông này. Cuộc sống với Tràng kể từ bây giờ thực sự có ý nghĩa bởi chàng
đã có một gia đình để gắn bó, yêu thương, để có bổn phận, trách nhiệm. Trao đi yêu thương, Tràng đã
nhận về hạnh phúc, hạnh phúc đã tạo nên những sự thay đổi diệu kỳ.
 Qua diễn biến tâm trạng của Tràng, Kim Lân đã nói rõ với ta một cách dung dị, cảm động và
thấm thía về giá trị của tình yêu thương, giá trị của hạnh phúc gia đình, khát khao hạnh phúc và
vươn tới hạnh phúc là một nhu cầu, một giá trị đích thực của nhân sinh.
 ===> Khái quát: xây dựng tình huống truyện độc đáo, nhà văn đã khắc họa nhân vật bằng những chi tiết
chân thực, tinh tế với thái độ đầy yêu thương, cảm thông. Tràng hiện lên với vẻ đẹp trong tâm hồn, tính
cách của người nông dân dù bị đẩy đến tận cùng của đói khát vẫn mang một tấm lòng nhân hậu, vẫn khao
khát hạnh phúc, vẫn hy vọng vào một tương lai tốt đẹp. Xây dựng nhân vật Tràng vừa thể hiện tài năng
của một cây bút viết truyện ngắn đặc sắc, vừa thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của một con người đầy
trân trọng, yêu thương đối với con người, nhất là của những con người khốn khổ.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

Là nhân vật có tính cách và số phận kỳ lạ nhất, có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự vận động và phát
triển của cốt truyện. Qua nhân vật này, Kim Lân đã đem đến cho tác phẩm của mình những giá trị hiện
thực và nhân đạo sâu sắc. Đặt nhân vật trong tình huống éo le, trớ trêu mà chính thị là người đã chủ động
tạo ra tình huống ấy, nhà văn đã miêu tả nhân vật không phải ở những diễn biến nội tâm như bà cụ Tứ mà
qua những chi tiết về ngoại hình, dáng vẻ, cử chỉ, hành động. Nhân vật đã để lại trong lòng người đọc
những ấn tượng sâu sắc, những nỗi ám ảnh về sự khốn khổ của thân phận con người. Đồng thời gieo vào
lòng người đọc niềm tin về bản chất tốt đẹp của con người, sức mạnh của khát vọng sống mãnh liệt.
a. Qua hai lần gặp gỡ với Tràng
- Người đàn bà đói khát, cùng đường, liều lĩnh.
- Hiện thân cho khát vọng sống mãnh liệt.
 Biểu tượng thê thảm của con người trong nạn đói
- Lai lịch: nhân vật chẳng rõ lai lịch, không quê quán, gia đình, chẳng tên tuổi, ngồi rêu ra ở cửa
nhà kho để nhặt hạt rơi vãi hoặc chờ ai có việc gì thì đến làm. Tình cảnh của thị cũng là tình cảnh
chung của bao con người tha phương cầu thực, thị lẫn trong đám người đói khát xanh xám đến
mức nhà văn không buồn đặt tên cho nhân vật của mình.
- Cái đói đã hủy hoại ghê gớm hình dạng, dáng vẻ của thị, cái đói đã làm cho thị thảm hại đến mức
Tràng vừa ngạc nhiên, vừa tội nghiệp khi không thể nhận ra thị trong lần gặp thứ hai.
 “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “gầy sọp hẳn đt”, “khuôn mặt xám hẳn”, “hai con mắt trũng
hoáy”..
 Hình ảnh của người rách rưới, nghèo khổ, đói khát lâu ngày, trông thị như con ma đói và hiện rõ
nguy cơ chết đói: “chỉ nay mai”. Chỉ ngày mai thôi, thị có thể là một trong những cái xác nằm
còng queo bên đường.
- Cái đói và nguy cơ chết đói còn làm biến dạng, phủ lấp phần tốt đẹp của nhân cách.
 Nhà văn đã miêu tả cử chỉ, hành động, lời nói của thị, của một người đàn bà lăn xả vào miếng ăn
chị xuất hiện với cái mặt sưng sỉa, cong cớn, lời nói chao chát, chỏng lỏn để chủ động đòi ăn, thị
gạt phăng cả miếng trầu của phép xã giao lịch sự để kiếm bốn bát bánh đúc lấp đầy cái cái dạ dày
trống rỗng lâu ngày.
 Mắt sáng lên, đon đả sung sướng khi được mời ăn.
 Thị ăn một chập không chuyện trò gì, ăn nhanh, ăn vội, ăn không kịp thở, ăn như một con ma đói
và mãn nguyện sau khi đã no nê.
 Người đàn bà vừa táo tợn, vừa xuồng xã, không có một chút ý tứ, chẳng có chút duyên dáng,
thậm chí vứt bỏ cả sĩ diện, cố tình biến một câu đùa thành thật để đòi ăn và được ăn.
 Thậm chí thị còn bỏ qua cả lễ nghĩa, vứt bỏ cả thận trọng, liều lĩnh bám lấy một câu đùa tầm phào
để theo không Tràng, một người đàn ông xa lạ. Thị đã chủ động biến mình thành vợ nhặt, vợ theo
không.
 Ca dao xưa có câu “300 một mụ đàn bà, mua về mà trải chiếu hoa cho ngồi”, thế mà trong tình
cảnh đói khát, thị đã tự hạ giá một cách thê thảm giá trị của một người đàn bà, của một người vợ
được đánh đổi bằng bốn bát bánh đúc với mấy câu đùa tầm phào trong hai lần gặp gỡ.
 Hình ảnh của thị chính là hình ảnh của người đàn bà trở nên liều lĩnh vì cùng đường, đói
khát. Kim Lân đã phản ánh chân thực và đầy ám ảnh hiện thực khốn khổ, thê thảm của con
người trong nạn đói khủng khiếp 1945.
- Ở chính người đàn bà đói khát khốn khổ ấy người ta thấy một khát vọng sống thật mãnh liệt. Thị
bám lấy Tràng để được ăn, được sống, để hy vọng có một chốn nương thân chứ không phải là loại
đàn bà lẳng lơ. Thị đã bất chấp tất cả để có cái ăn, để được tồn tại, đó là ý thức bám riết lấy sự
sống. Như thế, ngay khi cận kề với cái chết, người đàn bà ấy không buông xuôi sự sống, quyết
liệt đến độ liều lĩnh, bám lấy những cơ hội, những hy vọng dù rất mong manh chỉ để được sống.
Đó chính là khát vọng nhân bản nhất của con người. Nếu miêu tả sự thê thảm vì đói khát của thị,
Kim Lân thương cảm thì nhà văn đồng thời cũng thông cảm và thấu hiểu cái khát vọng mãnh liệt,
cái khát vọng sống của người đàn bà đói rách, vêu vao, xanh xám như một con ma đói.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

b. Sự thay đổi của người đàn bà sự trở về với bản chất tốt đẹp của con người
 Trên đường về nhà Tràng:
Ngay cả khi miêu tả người đàn bà lăn xả vào Tràng để có miếng ăn, Kim Lân vẫn làm hiện ra nỗi
xấu hổ, khổ sở của nhân vật. Thị lấy cái bỗ bã, chao chát, chỏng lỏn, cong cớn để át đi nỗi tủi hổ,
nhục nhã vì thị cần được ăn để được sống. Nhưng chính cái xấu hổ bị lấn át đi đã cho ta thấy
nhân cách con người chưa hoàn toàn bị hủy hoại. Nhân vật đã miêu tả sự thay đổi của người đàn
bà sau những giây phút liều lĩnh vì đói khát. Đó cũng là sự trở về với những bản tính tốt đẹp của
một người giàu nữ tính, giàu lòng tự trọng, biết yêu thương, sẻ chia.
- Trong buổi chiều tối sầm lại vì đói khát, thị theo Tràng về nhà, đó cũng là bước chân của người
đàn bà lần đầu tiên về nhà chồng. Trước cái nhìn tò mò, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo
của người dân xóm ngụ cư, trong khi Tràng sung sướng, hãnh diện thì thị xấu hổ và ngượng
nghịu. Nó được biểu hiện trong dáng vẻ “đầu hơi cúi, cái nón rách che nửa khuôn mặt”, không
phải bước chân sầm sập với cái mặt cong cớn mà thị có vẻ rón rén, e thẹn, ngượng nghịu, chân nọ
díu cả vào chân kia. Đó là những biểu hiện đầu tiên của nữ tính ở người đàn bà đầy liều lĩnh trước
đó. Kim Lân đã nhìn thấy vẻ ngượng nghịu thẹn thùng của thị đồng thời cũng nhìn thấy cả nỗi tủi
hờn xấu hổ của người đàn bà đã tự theo không một người đàn ông xa lạ, tự biến mình thành vợ
nhặt.
 Khi về đến nhà Tràng:
- Qua những chi tiết miêu tả dáng vẻ cử chỉ, thái độ, hành động của nhân vật, Kim Lân đã giúp
người đọc nhận ra vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà khốn khổ.
 Khi nhìn thấy “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại” thì
“cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài.”. Người đàn bà không giấu nổi sự thất
vọng, nỗi tủi cực, bẽ bàng, thị đã vứt bỏ cả lễ giáo, cả sự thận trọng, sĩ diện để theo không người
đàn ông, để chạy trốn cái đói, thế mà giờ đây, sự đói nghèo lại hiện ra thật thảm hại trong quang
cảnh ngôi nhà.
 Nỗi buồn tủi chua xót còn biểu hiện trong cái cười nhếch mép nhạt nhẽo, trong nét mặt bần thần
khiến chàng vừa băn khoăn lo lắng “Quái sao nó lại buồn thế nhỉ?... Ồ sao nó lại buồn thế
nhỉ?...”. 
 Điều đáng quý là trong nỗi bé bàng chua xót ấy, người đàn bà vẫn cư xử có ý tứ, hiểu lễ nghĩa và
có lòng tự trọng.
 Thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm xuống mép giường”, chi tiết này vừa thể hiện tâm thế bấp bênh,
đáng thương của người đàn bà, vừa thể hiện nét ý từ khi lần đầu tiên thị đến nhà một người xa lạ
trong thân phận và tình cảnh trớ trêu.
 Thị ý tứ, lễ phép chào bà cụ Tứ, còn chào đến hai lần với một thái độ cung kính, đúng mực, đứng
trước bà cụ Tứ, thị cúi mặt, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Cử chỉ và dáng vẻ của thị cho thấy sự
ngại ngùng xấu hổ của người đàn bà đáng thương và có lòng tự trọng.
 Được đón nhận bằng tình yêu thương, sự đùm bọc, chia sẻ, thị đã mang lại niềm vui, niềm
hạnh phúc cho những con người đã yêu thương thị.
Buổi sáng hôm sau:
- Sáng hôm sau, trong ánh nắng chan hòa, trong khung cảnh ngôi nhà được dọn dẹp sạch sẽ,
“Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì
chao chát chỏng lỏn”. Cũng không còn hình ảnh người đàn bà vừa bẽ bàng vừa lo lắng trong tâm
thế bấp bênh ngồi mớm ở mép giường, người ta thấy ở thị một sự chủ động vun vén, chăm lo,
mang đến sức sống mới trong ngôi nhà rách nát, tuềnh toàng. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi
từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Thị đã mang đến một sự mới mẻ, kỳ lạ cho ngôi nhà. Tất cả
đã trở gọn gàng hơn, sạch sẽ hơn và hơn thế, chính sự hiện diện của thị trong một mối quan hệ
gắn bó đặc biệt nên vợ nên chồng với anh cu Tràng đã đem đến sức sống, sự hồi sinh cho người
mẹ già nua khốn khổ. Bà cụ Tứ nhẹ nhõm, tươi tỉnh rạng rỡ hẳn lên. Trên khuôn mặt bủng beo, u
ám vì đói khát, vì lo toan của bà cụ đã có nét rạng rỡ của niềm vui và hạnh phúc. Và hơn hết,
chính thị đã biến người đàn ông thô kệch và ngờ nghệch trở thành người hạnh phúc trong cảm
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

giác êm ái lửng lơ như người vừa từ giấc mơ đi ra. Trong niềm hạnh phúc mới, Tràng đã thật sự
trưởng thành với những tình cảm sâu sắc, với ý thức trách nhiệm, với sự gắn bó, với gia đình.
- Nàng dâu mới đã được người mẹ chồng đón tiếp bằng bữa cơm ngày đói, bằng món ăn đặc biệt:
chè khoán mà thực chất chính là cháo cám. Thị đón lấy bát cháo cám từ tay người mẹ chồng đưa
lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại, đó là nỗi chua chát rất thực trong tình cảnh thê thảm. Để
sống, để tồn tại, con người đang phải ăn thứ thức ăn dành cho loài vật nhưng chính trong tình
cảnh thảm hại đó, cách cư xử của thị lại làm sáng lên bản chất tốt đẹp của con người. Thị điềm
nhiên và vào miệng. Đó là sự ứng xử ý tứ, Thị không muốn làm mất đi niềm vui của người mẹ
già tội nghiệp. Thậm chí cái điềm nhiên như không của thị còn làm vơi đi nỗi cay cực, chua xót
của tất cả mọi người. Đây còn là cách cư xử của một con người trọng nghĩa tình. Bởi có lẽ thị
thấu hiểu và trân trọng những người trong gia đình này. Họ đã yêu thương đón nhận thị bằng cả
tấm lòng. Đó cũng là biểu hiện của sự chấp nhận, dũng cảm đối mặt với tất cả khó khăn để cùng
chia sẻ, cùng vun đắp, cùng nhau sống và vươn tới những điều tốt đẹp.
 So sánh: nếu những hành động của thị trong hai lần gặp gỡ với chàng là vì miếng ăn, liều lĩnh
bám lấy chàng để được ăn, được sống thì những hành động của thị trong buổi sáng hôm sau là
hành động của yêu thương, của đồng cảm, sẻ chia để cùng vun đắp hạnh phúc gia đình.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

VỢ CHỒNG A PHỦ
ĐỀ 1: Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm mùa đông khi Mị cắt dây trói cứu A
Phủ. So sánh và chỉ ra nét riêng trong việc miêu tả, khắc họa nhân vật Mị và A Phủ của Tô Hoài.
A. MỞ BÀI:
Điều gì thôi thúc người nghệ sĩ cầm bút? Với Nêkratxtop đó là “nỗi đau khổ từ lâu bị kiềm chế,
nay sôi sục dâng lên trong lòng”. Với Lepmontop là “những đêm không ngủ, mắt rực cháy, lòng ngập tràn
nhớ nhung”. Còn với Tô Hoài thì đó là niềm rưng rung xúc động về số phận của những lao động nghèo
nơi miền núi Tây Bắc xa xôi của tổ quốc. Và truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm tiêu biểu. Tác
phẩm không chỉ cho người đọc thấy số phận đau khổ của người nông dân dưới ách áp bức của thế lực
thực dân và phong kiến, mà còn là bài ca về sức sống mãnh liệt và khát vọng tự do, hạnh phúc của con
người. Điều đó được thể hiện rõ qua nhân vật Mị, tiêu biểu là đoạn văn miêu tả diễn biến tâm lí và hành
động của Mị trong đêm đông cứu A Phủ. Ta cũng nhận thấy những nét riêng trong việc miêu tả, khắc họa
nhân vật Mị và A Phủ của Tô Hoài.
B. THÂN BÀI:
I. Giới thiệu chung:
1. Tác giả
- Tô Hoài là nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, sáng tác theo xu hướng hiện
thực, thiên về diễn tả những sự thật của đời sống.
2. Tác phẩm:
- Xuất xứ: sáng tác năm 1952, in trong “ Truyện Tây Bắc” - 1953.
 Ba truyện ngắn: “Cứu đất cứu Mường”, “Mường Giơn”, “Vợ chồng A Phủ” → được đánh giá là
thành công, xuất sắc hơn cả.
- Hoàn cảnh ra đời: được tác giả viết sau chuyến đi thực tế của Tô Hoài cùng bộ đội trong chiến
dịch Tây Bắc. Chuyến đi kéo dài tám tháng đã để lại những ấn tượng sâu sắc cho nhà văn về
thiên nhiên, con người ở vùng núi Tây Bắc. Chính điều ấy đã trở thành nguồn cảm hứng mãnh
liệt để nhà văn viết “Truyện Tây Bắc”
“Hình ảnh Tây Bắc đau thương và anh dũng lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm
trí tôi. Ý thiết tha với đề tài là một lễ quyết định. Vì thế tôi viết truyện Tây Bắc.”
- Không chỉ phản ánh cuộc sống đau thương tăm tối của những con người khốn khổ, Tô Hoài còn
thiết tha hướng về phía sự sống và ánh sáng: tấm lòng và tài năng của nhà văn đã đưa ngòi bút
tìm sâu vào tận cùng trong ý thức, tiềm thức của nhân vật để phát hiện và miêu tả sự trỗi dậy của
sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Miêu tả sự hồi sinh của tâm hồn Mị là một trong những thành công
đặc biệt của tác phẩm và thể hiện rõ những giá trị nhân đạo sâu sắc vừa bộc lộ tài năng miêu tả
và phân tích tâm lý nhân vật của một nhà văn thuộc vào những cây bút hàng đầu của văn xuôi
Việt Nam.
- Tóm tắt bối cảnh:
 Mị vốn là cô gái H′Mông hiếu thảo, trẻ trung, xinh đẹp và tài hoa với tài thổi sáo, được bao nhiêu
trai làng đem lòng say đắm. Trong cô còn tràn đầy bản lĩnh và khát khao tự do. Nhưng trớ trêu
thay, vì món nợ truyền kiếp của nhà nghèo và chế độ cho vay nặng lãi của bọn quân phiến miền
núi cùng thủ đoạn xảo trá của A Sử, cô cuối cùng phải cay đắng sống trong cảnh làm người con
dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra, bị đè nặng bởi hai thế lực: cường quyền - sự độc ác của cha
con nhà thống lý pá tra, thần quyền - cúng trình ma.
 Sự đau đớn, nhọc nhằn ở thể xác, sự đè nén, áp bức về tinh thần đã làm một cô rạo rực niềm vui
sống trở nên lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mị bị tê liệt lòng ham sống và ý
niệm sống, cô không thiết chết, nghĩa là sự tha thiết sống cuộc đời đáng sống cũng không còn,
Giờ đây chỉ còn trơ trọi một cái xác thô, tâm hồn gỉ nát, cùn mòn, mặc kệ chảy trôi giữa biển đời
ê chề, nghiệt ngã.
- Nếu khát vọng tự do của Mị trong đêm tình mùa xuân chưa thực hiện được thì trong đêm mùa
đông Mị đã cắt dây trói cứu A phủ và giải phóng chính mình. Đây là bước đột biến quyết liệt đã
làm thay đổi cả cuộc đời Mị, cũng là biểu hiện sự trỗi dậy mãnh liệt của sức sống tiềm tàng của
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

người đàn bà khốn khổ này. Nhà văn đã miêu tả sâu sắc tinh tế diễn biến tâm trạng của Mị từ
một con người bị vùi xuống tận đáy của sự lãnh cảm bỗng vụt đứng dậy trong tinh thần tháo cũi
sổ lồng, giải phóng cho đồng loại và giải phóng cho chính mình.
II. Phân tích:
1. Tình huống
- Sau đêm mùa xuân bị trói đứng trong căn buồng tối tăm lạnh lẽo, Mị lại trở về với trạng thái chai
sạn, thờ ơ, buông xuôi vì tất cả. Chính sự xuất hiện của A Phủ, chính nỗi bất hạnh của A Phủ ,
chính sự tàn nhẫn và độc ác của cha con nhà thống lý pá tra đã làm thức dậy tinh thần phản
kháng ở người đàn bà yếu đuối. A Phủ chính là đứa ở trừ nợ suốt đời cho nhà thống lý pá tra. Đó
là kết quả của vụ kiện đầy vô lý và bất công. Chỉ vì để mất một con bò, A Phủ bị trói giữa những
ngày đông rét mướt. Nguy cơ bị trói đến chết. Sống trong nhà thống lý pá tra, sinh mệnh của
những con người như Mị, như A Phủ thậm chí không bằng một con vật.
- Hằng đêm dậy thổi lửa hơ tay nên Mỹ đã chứng kiến tất cả những tất cả cảnh tượng này, nỗi
khốn khổ này của A Phủ.
2. Chuyển biến tâm lý và hành động của Mị trong tình huống này:
- Đêm nào Mị cũng thức dậy để thổi lửa hơ tay: Mị tìm đến ngọn lửa trong những đêm mùa đông
dài và lạnh. Chi tiết này đã hé mở cho người đọc sâu thẳm trong cõi lòng người đàn bà ấy là nỗi
cô đơn và ở người đàn bà tưởng chừng như không thiết tha một điều gì nữa vẫn le lói một niềm
khao khát mơ hồ.
- Ngay cả khi bị đánh một cách vô lý, Mị vẫn mặc kệ, hôm sau vẫn ra sưởi như đêm trước. Đó là
biểu hiện tâm lý của một con người chai sạn trước sự đánh đập, sự xúc phạm, sự tủi nhục.
- Thái độ ban đầu của Mị: thờ ơ, thản nhiên khi chứng kiến cảnh A Phủ bị trói. Tình cảnh ấy
không làm cho Mị bất ngờ, chẳng sợ hãi và cũng chẳng thấy thương xót.
 Đây chính là phản ứng tâm lý của một người đàn bà đã rơi vào cõi lặng, tê liệt mọi cảm giác,
nguội lạnh mọi cảm xúc.
- Sống trong nhà thống lý Pá Tra, dường như tất cả những sự khổ đau, đọa đầy, tàn nhẫn, bất công
đã trở thành quen thuộc đến mức mà người đàn bà ấy đã chai sạn mọi cảm xúc khi được chứng
kiến.
- Điều gì đã làm thay đổi thái độ thái độ của Mị từ sự lạnh lùng vô cảm đến đồng cảm sâu sắc. Chi
tiết đầu mối của sự biến đổi trong diễn biến tâm lý của Mị chính là dòng nước mắt của A Phủ.
- Giọt nước vô tình bị bắt gặp trong khoảnh khắc lé mắt trông sang, trong ánh lửa bập bùng đã
mang đến những biến đổi mạnh mẽ, bất ngờ. Tô Hoài đã thể hiện sự am hiểu những chuyển biến
bất ngờ nhưng tất yếu, hợp lý ở người đàn bà. Dòng nước mắt hiện thân cho nỗi thống khổ, sự
đau đớn, tuyệt vọng không giấu đi đâu được. A Phủ vốn từng là con người cường tráng giờ đây
hốc hác đến hai hõm má xám đen lại, chàng trai ngang tàng mạnh mẽ như không biết sợ là gì
lặng lẽ khóc xong cay đắng, bất lực. Dòng nước mắt như một lời kêu cứu của người đàn ông
trong sự bất hạnh tuyệt vọng đã làm thức tỉnh cõi lòng Mị.Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi
nhớ.
 Nhớ lại đêm Mị bị A Sử trói.
 Người đàn bà từng bị trói đến chết.
 Hình dung: ngày mai A Phủ chết.
 Trong tâm trí Mị, cả quá khứ, cả tương lai đều là những hình ảnh quay cuồng về cảnh bị trói,
về cái chết. Từ chỗ nghĩ A Phủ có là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi, bây giờ Mị hình dung
ngày mai A Phủ chết với tất cả sự xót xa, thương cảm: “chết đau… phải chết”
- Từ sự vô cảm thì lúc này Mị thương người, thương thân, Mị cảm nhận về nỗi khốn khổ của A
Phủ bằng những trải nghiệm đau đớn, tủi cực, cay đắng của chính mình. Trái tim đầy thương tích
của Mị sống trong một mối xúc cảm, lý trí của mị tỉnh táo nhận ra rằng chúng nó thật độc ác và
nhận ra điều đó trong sự phẫn nộ, phẫn nộ trước cái ác, phẫn nộ trước sự bất công, phi lý. Ở
những đoạn này, Tô hoài đã sử dụng lời độc thoại nửa trực tiếp, suy nghĩ của Mị được bộc lộ như
những lời độc thoại nội tâm, những suy nghĩ không chỉ thể hiện niềm cảm thương với những con
người khốn khổ như mình mà còn suy ngẫm để nhận ra chân dung kẻ bước mình.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

3. Hành động táo bạo, quyết liệt của Mị:


- Hình dung: Mị bị trói thay A Phủ ⇒ Mị phải chết ⇒ Mị không thấy sợ.
 Trong khoảnh khắc ấy, tình thương đã mạnh hơn cả nỗi sợ hãi cường quyền và cái chết.
- Hành động quyết liệt rút dao cắt dây trói cứu A phủ.
 Mị đã thực hiện một hành động mà với chính Mị có lẽ cũng không bao giờ nghĩ mình có thể làm
và dám làm. Nó bất ngờ, táo bạo, ghê gớm tới mức độ chính Mị cũng hốt hoảng.
 A Phủ với bản năng sống mãnh liệt vùng lên, chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối. Kể chi tiết
này, Tô Hoài tách hẳn thành một dòng văn. Đó chính là khoảnh khắc im lặng nhưng có tính chất
bước ngoặt, im lặng nhưng lại đang diễn ra một cuộc đấu tranh: ở lại hay chạy đi?, sống hay
chết?. Và có lẽ chính hình ảnh A Phủ với bản năng sống mạnh mẽ đang vùng chạy đi đã tiếp thêm
sức mạnh cho Mị. Người đàn bà ấy đã vượt qua nỗi sợ hãi, ám ảnh với cả cường quyền và thần
quyền để chọn con đường sống bằng sự giải thoát cho chính mình (những câu văn với một là các
động từ để miêu tả hành động)
- Sau khoảnh khắc Mị đứng lặng trong bóng tối, nhà văn đã miêu tả một chuỗi hành động: vụt
chạy, băng đi, đuổi kịp
 Những hành động nhanh, mạnh mẽ, dứt khoát của người đàn bà vốn lặng lẽ, thờ ơ, vô cảm bây
giờ đang hối hả tự cứu mình. Người đàn bà vốn câm lặng giờ đây cất lên tiếng nói xin được giải
thoát. Đó là những hành động, là tiếng nói chưa từng xuất hiện trong khoảng đời tăm tối của Mị.
Đó biểu hiện một sự lựa chọn dứt khoát, biểu hiện một sự ý thức sâu sắc: Ở đây thì chết. Đó là
hành động thu hút bởi khát vọng sống, khát vọng tự do.
 Khác với chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, chạy ra ngoài trời với tiền đồ tối đen như
mực, không lối thoát, trong sự bế tắc đến cùng cực. Không như Chí Phèo của Nam cao trong đau
đớn tuyệt vọng giết chết kẻ thù và kết liễu cuộc đời mình. Ở Mị, ý thức về quyền sống, khát vọng
sống đã hóa thành hành động phản kháng quyết liệt, táo bạo. Mị đã vùng lên chống lại cường
quyền, chống lại mọi áp bức đã chà đạp, đã vật hoá con người để cứu lấy cuộc đời mình, để
giành lấy quyền hạnh phúc mà mình đã bị cướp đoạt.
4. Nét riêng trong việc miêu tả, khắc họa nhân vật Mị và A Phủ của Tô Hoài.
- Với Mị, tác giả thiên về khám phá, thể hiện diễn biến nội tâm, nguyên nhân, diễn biến của từng
quá trình tâm lí, từ đó thể hiện sức sống tiềm tàng, nét đẹp tâm hồn của người con gái sơn cước
trong hoàn cảnh nghiệt ngã của số phận.
- Nhân vật A Phủ chủ yếu được tác giả khắc hoạ qua chuỗi hành động để làm nổi bật tính cách táo
bạo, gan góc và tinh thần phản kháng của một chàng trai miền núi có tâm hồn tự do, phóng
khoáng. 
5. Tổng kết khái quát
- Nội dung: giá trị hiện thực, nhân đạo sâu sắc
 Phê phán, tố cáo xã hội phong kiến miền núi đã chà đạp con người bằng cường quyền và thần
quyền
 Nhà văn đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc với số phận của những con người nghèo khổ bất hạnh
 Yêu thương những con người khốn khổ, căm giận bọn thống trị và chế độ phong kiến miền núi
tàn bạo. Tô Hoài không chấp nhận nhìn nhân vật của mình rơi vào bước đường cùng với sự bế tắc
tuyệt vọng. Nhà văn đã phát hiện những phẩm chất tốt đẹp và đặc biệt là sức sống mãnh liệt của
những con người khốn khổ đó. Nhà văn không chỉ phản ánh hiện thực mà còn góp phần cải tạo
hiện thực, chỉ ra con đường giải phóng cho những con người bị áp bức, bóc lột. Và đó là khía
cạnh mới của chủ nghĩa nhân đạo sau cách mạng 8/1945
- Nghệ thuật
 Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật trong những tình huống truyện đặc sắc - biện chứng tâm hồn.
 Lối kể chuyện tự nhiên linh hoạt vừa giàu tính truyền thống vừa có những dấu ấn sáng tạo.
 Cách miêu tả giàu tính tạo hình, nhất là khi miêu tả phong cảnh thiên nhiên và phong tục tập
quán.
 Ngôn từ phong phú, đậm tính khẩu ngữ.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

C. KẾT BÀI:
“Nhà văn tồn tại ở đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị
cùng đường, tuyệt lộ” (Nguyễn Minh Châu). Qua diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm
đông cứu A Phủ, Tô Hoài đã làm hiện lên sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người lao động bị áp bức, bóc
lột, bị đày đọa đến đau đớn, ê chề. Sức sống tiềm tàng ấy đã khẳng định được sức mạnh của tâm hồn con
người Việt Nam và chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh. Đó là giá trị hiện
thực và nhân văn ngời sáng của tác phẩm. Và cũng là tấm lòng nhân đạo của nhà văn.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

ĐỀ 2: Phân tích sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị trong đêm tình mùa
xuân, từ đó chỉ ra những giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
A. MỞ BÀI:
Sê đrin đã từng khẳng định: “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó
không thừa nhận cái chết”. Vậy điều gì làm cho những tác phẩm nghệ thuật bất tử, trường tồn với thời
gian? Ở tài năng hay tấm lòng của người cầm bút? Đến với văn học Việt Nam hiện đại, ta làm sao quên
được truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài khi những trang viết của ông rưng rưng xúc
động về cuộc sống và số phận đau khổ của người nông dân nghèo miền núi Tây Bắc dưới ách áp bức của
các thế lực thực dân và phong kiến. Đồng thời tác phẩm còn là bài ca về sức sống mãnh liệt và khát vọng
tự do, hạnh phúc của con người. Điều đó được thể hiện rõ qua nhân vật Mị, tiêu biểu là đoạn văn miêu tả
diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân, qua đó ta thấy được giá trị nhân đạo của
tác phẩm.
B. THÂN BÀI:
I. Giới thiệu chung:
1. Tác giả
- Tô Hoài là nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, sáng tác theo xu hướng hiện
thực, thiên về diễn tả những sự thật của đời sống.
2. Tác phẩm:
- Xuất xứ: sáng tác năm 1952, in trong “ Truyện Tây Bắc” - 1953.
 Ba truyện ngắn: “Cứu đất cứu Mường”, “Mường Giơn”, “Vợ chồng A Phủ” → được đánh giá là
thành công, xuất sắc hơn cả.
- Hoàn cảnh ra đời: được tác giả viết sau chuyến đi thực tế của Tô Hoài cùng bộ đội trong chiến
dịch Tây Bắc. Chuyến đi kéo dài tám tháng đã để lại những ấn tượng sâu sắc cho nhà văn về thiên
nhiên, con người ở vùng núi Tây Bắc. Chính điều ấy đã trở thành nguồn cảm hứng mãnh liệt để
nhà văn viết “Truyện Tây Bắc”
“Hình ảnh Tây Bắc đau thương và anh dũng lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm
trí tôi. Ý thiết tha với đề tài là một lễ quyết định. Vì thế tôi viết truyện Tây Bắc.”
- Không chỉ phản ánh cuộc sống đau thương tăm tối của những con người khốn khổ, Tô Hoài còn
thiết tha hướng về phía sự sống và ánh sáng: tấm lòng và tài năng của nhà văn đã đưa ngòi bút
tìm sâu vào tận cùng trong ý thức, tiềm thức của nhân vật để phát hiện và miêu tả sự trỗi dậy của
sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Miêu tả sự hồi sinh của tâm hồn Mị là một trong những thành công
đặc biệt của tác phẩm và thể hiện rõ những giá trị nhân đạo sâu sắc vừa bộc lộ tài năng miêu tả và
phân tích tâm lý nhân vật của một nhà văn thuộc vào những cây bút hàng đầu của văn xuôi Việt
Nam.
- Tóm tắt bối cảnh:
 Mị vốn là cô gái H′Mông hiếu thảo, trẻ trung, xinh đẹp và tài hoa với tài thổi sáo, được bao nhiêu
trai làng đem lòng say đắm. Trong cô còn tràn đầy bản lĩnh và khát khao tự do. Nhưng trớ trêu
thay, vì món nợ truyền kiếp của nhà nghèo và chế độ cho vay nặng lãi của bọn quân phiến miền
núi cùng thủ đoạn xảo trá của A Sử, cô cuối cùng phải cay đắng sống trong cảnh làm người con
dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra, bị đè nặng bởi hai thế lực: cường quyền - sự độc ác của cha
con nhà thống lý pá tra, thần quyền - cúng trình ma.
 Sự đau đớn, nhọc nhằn ở thể xác, sự đè nén, áp bức về tinh thần đã làm một cô rạo rực niềm vui
sống trở nên lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mị bị tê liệt lòng ham sống và ý
niệm sống, cô không thiết chết, nghĩa là sự tha thiết sống cuộc đời đáng sống cũng không còn,
Giờ đây chỉ còn trơ trọi một cái xác thô, tâm hồn gỉ nát, cùn mòn, mặc kệ chảy trôi giữa biển đời
ê chề, nghiệt ngã.
- Người đọc ngỡ rằng Mị sẽ chết tàn, chết lụi trong căn phòng u tối chỉ có vuông cửa sổ bằng bàn
tay, trông ra ngoài không biết là sương hay nắng. Nhưng không, đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài
đã khiến sức sống tiềm tàng, mãnh liệt trong lòng người con gái Tây Bắc đã được đánh thức. Nhà
văn đã nhìn thấy một ngọn lửa hồng dưới lớp tro tàn nguội lạnh, chỉ chờ ngọn gió mùa xuân thổi
tới là bùng lên mãnh liệt.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

II. Phân tích


1. Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân:
 Tác động của ngoại cảnh:
- Là một nhà văn hiện thực, Tô Hoài hiểu không dễ gì đánh thức một cõi lòng tưởng như đã chết
của Mị, không dễ gì đưa người đàn bà khốn khổ kia thoát khỏi tình trạng vô cảm, thờ ơ trước tất
cả ngay cả với sự sống của chính mình. Sự trỗi dậy của tâm hồn Mị cần có sự tác động, điều gì đã
khiến bên trong “con rùa tâm lặng” ấy khát vọng sống, khát vọng tình yêu, khát vọng được làm
người cho đúng một kiếp người. Đó chính là không khí ngày tết ở Hồng Ngài với những đêm tình
mùa xuân. Nhà văn đã miêu tả không khí tết ở Hồng Ngài bằng những câu văn, đoạn văn đậm
chất thơ từ cái “gió và rét dữ dội”, từ màu cỏ gianh vàng ửng, từ sắc màu rực rỡ của những con
bướm trên những chiếc váy hoa, những âm thanh rộn rã của tiếng nói, tiếng cười và đặc biệt là
tiếng sáo gọi bạn tình. Tất cả gợi nên một không khí có gì thật háo hức, gợi nên một không gian
khiến cho tâm hồn con người ngày càng muốn bay bổng, say sưa.
 Diễn biến tâm trạng:
- Biểu hiện đầu tiên của sự hồi sinh sức sống trong lòng Mị. Người phụ nữ vô cảm, thờ ơ với tất cả
nay không chỉ nghe tiếng sáo thiết tha vang vọng mà còn hình dung bóng người thổi sáo lấp ló
đầu núi, còn nhận ra sắc thái “thiết tha bổi hổi” của tiếng sáo. Không chỉ thế người đàn bà câm
lặng ấy còn ngồi lẩm nhẩm bài hát của người thổi sáo. Bằng cách ấy, Mị đã trở về với quá khứ, đã
nhớ lại những lời bài hát từ xa xôi, đã bắt đầu mở trong lòng mình và hòa vào âm thanh nồng nàn
của tình yêu được gửi trong tiếng sáo.
- Mị lịm mặt -Âm thanh văng vẳng của tiếng sáo không chỉ là âm thanh vang vọng trong không
gian mà còn là âm thanh tha thiết từ quá khứ, hoài niệm đưa Mị trở về quá khứ với tiếng sáo và
người bạn tình năm nào. Nó khiến mị như trở lại là cô gái xinh đẹp, tài hoa, thổi lá cũng hay như
thổi sáo, có bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.
- Mị uống ực từng bát: miêu tả cách Mị uống rượu, nhà văn đã diễn tả tinh tế, chân thực những
biến đổi âm thầm mà dữ dội trong tâm hồn người đàn bà tưởng như đã nguội tắt sức sống. Uống
để say, để quên, uống như một người chết khát, uống để dìm đi những nuối tiếc, khát khao. Uống
như muốn dùng cái cay đắng của rượu để lâu quên đi cái cay đắng trong lòng.
- Trong khoảnh khắc ấy, người đàn bà tưởng như không sợi dây nào liên hệ với quá khứ, thờ ơ vô
cảm với hiện tại trong sự cam chịu, nhẫn nhục “Mình cũng là…ngựa”, không thiết tha gì khi nghĩ
đến tương lai “ngồi như thế …chết thì thôi”. Bây giờ lịm mặt sống về ngày trước với bao khát
vọng của tình yêu và tuổi trẻ.
- Mặc dù lòng Mị đang sống về những ngày trước nhưng bước chân Mị vẫn bước vào căn phòng
như một thói quen cố hữu bao năm nay. Chỉ có điều trong căn buồng như một thứ ngục tù ấy,
trong không gian lạnh lẽo ấy không phải một cô Mị thờ ơ vô cảm mà Mị thấy “phơi phới trở lại,
trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”
 Ảo giác trở về với quá khứ mãnh liệt đến mức gần như xóa mờ những bất hạnh của hiện tại
khiến Mị hầu như quên hết những đau đớn, ê chề để chỉ còn sống trong niềm vui sướng.
- Trong những cảm xúc phơi phới khi chìm đắm trong ký ức của quá khứ, Mị nhận ra Mị vẫn còn
trẻ, nhận ra khát khao đang trỗi dậy trong lòng Mị: “Mị muốn đi chơi”, Mị muốn được hòa vào
không khí nồng nàn , rạo rực của mùa xuân, của tình yêu, của cảm xúc. Cái nhận ra ấy là biểu
hiện sự trở về của ý thức. Ý thức về bản thân, ý thức về quyền sống, ý thức về quyền hạnh phúc
và ý thức cả sự phi lý của cuộc sống mà Mị đang phải sống.
 Cảm giác, cảm xúc, ý thức trở về trong Mị.
- Chính lúc này, Mị lại nghĩ đến cái chết, chết để không phải nhớ lại quá khứ, bởi nhớ đến quá khứ
chỉ thấy nước mắt ứa ra vì tiếc nuối, vì đau đớn, vì buồn tủi cho hiện tại. Trong tình huống này,
muốn chết lại là biểu hiện mãnh liệt nhất, dữ dội nhất của khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc,
của ý thức phản kháng, không thể tiếp tục chấp nhận kiếp sống tủi nhục ê chề này.
 Ý nghĩ muốn chết đã cho thấy Mị đã hoàn toàn thoát khỏi tình trạng lầm lũi, vô cảm suốt bao
năm nay.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

 Nhận xét: nhà văn đã miêu tả quá trình phục sinh của tâm hồn Mị một cách đầy biện chứng bằng
những chi tiết nghệ thuật đặc sắc. Từ sự thức dậy, sự trở về của cảm giác, của cảm xúc, của ý
thức, khát khao và tất yếu dẫn đến sự thay đổi trong hành động. Đó là một quá trình diễn biến tâm
lí âm thầm mà dữ dội.
- Mị thắp sáng căn buồng - hành động vừa cụ thể vừa mang ý nghĩa biểu tượng - biểu hiện một
niềm mong mỏi, khát khao được sống một cuộc sống tươi sáng, mới mẻ và đẹp đẽ hơn. Mị quấn
lại tóc, với cái váy hoa, Mị chuẩn bị đi chơi. Những hành động diễn ra trong lặng lẽ nhưng biểu
hiện sự quyết liệt, táo bạo, là hành động đấu tranh mạnh mẽ với thực tại của cuộc sống tăm tối bị
giam cầm.
- Câu văn ngắn diễn tả những hành động liên tiếp đã cho thấy sự quyết liệt của nhân vật.
- Khi A Sử hỏi, Mị không nói, sự im lặng đó có thể là biểu hiện sự phản kháng nhưng có lẽ sự im
lặng đó là bởi trong tâm trí Mị bây giờ chỉ có tiếng sáo, chỉ còn khát khao bước ra khỏi căn phòng
và hoà vào những cuộc chơi: khát khao ấy mạnh mẽ đến mức Mị quên cả nỗi sợ hãi cố hữu, Mị
hành động như một con người tự do.
- Tuy vậy, sự hồi sinh sức sống, sự hồi sinh của những khát khao trong Mị đã bị A Sử vùi dập bằng
hành động tàn bạo dã man: trói đứng Mị vào cột nhà, sau đó tắt đèn, đóng cửa để Mị bị trói trong
căn buồng ngủ đầy bóng tối, cánh cửa buồng đóng lại cũng giống như cánh cửa cuộc đời đóng
sập lại trước mắt Mị. Mị lại sống trong không gian của sự giam cầm tăm tối và lạnh lẽo.
- Vậy nhưng Mị lại không biết mình đang bị trói. Nhà văn đã lý giải điều này là bởi hơi rượu còn
nồng nàn, điều quan trọng hơn là bởi Mị vẫn còn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi.
Những cảm xúc rạo rực của tình yêu, những khát khao nồng nàn của tuổi trẻ đã khiến Mị dường
như không cảm giác được mình đang bị trói. Cô đã quên cả hiện tại với sợi dây trói và căn buồng
giam đầy bóng tối.
- A Sử với cả thúng sợi dây đay chỉ có thể trói được thân xác Mị, chứ không thể kìm giữ được tâm
hồn người con gái đột ngột nhận ra mình vẫn còn thanh xuân và khát khao được hưởng tình yêu
và hạnh phúc.
- Chỉ đến khi vùng bước đi, sợi dây trói thắt vào tay chân, đau không cựa được, Mị mới tỉnh lại và
trở về với thực tại phũ phàng, nghiệt ngã không phải trong sự vô cảm mà trong cảm nhận cay
đắng: “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.” Tiếng sáo biến mất, chỉ còn tiếng chân
ngựa là minh chứng của thực tại nhắc Mị về hiện thực đau đớn.
- Suốt đêm hôm ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé đau đớn giữa những khát khao cháy bỏng hồi
sinh và thực tại phũ phàng đang hiện hữu “ Lúc thì khắp người…tha thiết nhớ.”
 Dẫu trong đêm tình mùa xuân Mị đã phải trải qua hiện đau đớn và nghiệt ngã nhưng nó mãi mãi
là nỗi ám ảnh thao thức trong lòng Mị. Khi đã nhận ra những khổ ải, bất công, khi đã thức dậy
những khát khao thì có lẽ từ nay, Mị không thể yên ổn với những suy nghĩ buông xuôi như trước
nữa. Khát vọng hạnh phúc, khát vọng tình yêu, tuổi trẻ hồi sinh trong Mị tuy bị vùi dập nhưng chỉ
cần có một ngọn gió, nó sẽ thổi bùng lên lần thứ hai.
 Trong những trang văn miêu tả đời sống tinh thần của Mị thì đây là một trong những trang văn
đặc sắc nhất. Nhà văn đã nhập vào niềm tâm tư sâu kín của nhân vật, của người đàn bà bất hạnh
ấy để diễn tả những nỗi đau, những niềm khao khát. Trong đêm tình mùa xuân, Mị chưa được
giải phóng nhưng sức sống tiềm tàng mãnh liệt ở Mị đã báo trước một sự vùng lên quyết liệt ở lần
sau. Tô Hoài không chỉ cảm thông, cảm thương cho nhân vật khốn khổ của mình mà còn thể hiện
niềm tin, sự trân trọng vào sức sống mãnh liệt, khát vọng tự do, hạnh phúc của con người. Đó
chính là biểu hiện cho tinh thần nhân văn, nhân đạo của tác phẩm. Đó vừa là sự kế thừa của tinh
thần nhân đạo truyền thống, vừa mang theo tinh thần của thời đại mới.
2. Tổng kết khái quát
- Nội dung: giá trị hiện thực, nhân đạo sâu sắc
 Phê phán, tố cáo xã hội phong kiến miền núi đã chà đạp con người bằng cường quyền và thần
quyền
 Nhà văn đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc với số phận của những con người nghèo khổ bất hạnh
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

 Phát hiện những phẩm chất tốt đẹp và đặc biệt là sức sống mãnh liệt của những con người khốn
khổ đó.
- Nghệ thuật
 Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật trong những tình huống truyện đặc sắc - biện chứng tâm hồn.
 Lối kể chuyện tự nhiên linh hoạt vừa giàu tính truyền thống vừa có những dấu ấn sáng tạo.
 Cách miêu tả giàu tính tạo hình, nhất là khi miêu tả phong cảnh thiên nhiên và phong tục tập
quán.
 Ngôn từ phong phú, đậm tính khẩu ngữ.
C. KẾT BÀI:
“Nhà văn tồn tại ở đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị
cùng đường, tuyệt lộ” (Nguyễn Minh Châu). Qua diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm
tình mùa xuân, Tô Hoài đã làm hiện lên sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người lao động bị áp bức, bóc
lột, bị đày đọa đến đau đớn, ê chề. Sức sống tiềm tàng ấy đã khẳng định được sức mạnh của tâm hồn con
người Việt Nam và chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh. Đó là giá trị hiện
thực và nhân văn ngời sáng của tác phẩm. Và cũng là tấm lòng nhân đạo của nhà văn.

ĐẤT
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

NƯỚC
Đề 1 : 
" Đất là nơi anh đến trường...
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ" 
Cảm nhận của anh chị về đoạn thơ trên . Từ đó bình luận về quan niệm về Đất Nước của Nguyễn
Khoa Điềm 
MỞ BÀI:
Leptonxtoi từng khẳng định: “Một tác phẩm nghệ thuật là sự kết tinh của tình yêu”. Tình yêu tha thiết
nhất, thiêng liêng nhất trong tâm hồn Nguyễn Khoa Điềm đã khiến thi nhân cất cánh bay lên “trang giấy
trước đèn” và tạo nên một “Đất Nước” để thương để nhớ. Đoạn trích đã mang đến một định nghĩa rất mới
về đất nước, đem đến cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ về mối quan hệ gần gũi, gắn kết giữa đất nước và
nhân dân, nhất là trong đoạn thơ:
" Đất là nơi anh đến trường...
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ"
THÂN BÀI
I. Giới thiệu khái quát
- Hoàn cảnh ra đời: được hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974.Tác
phẩm ra đời ở giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đòi hỏi sự dồn sức
mang tính tổng lực để đi đến thắng lợi cuối cùng
 Bản trường ca ra đời trong giai đoạn này đã thể hiện quá trình thức tỉnh của tuổi trẻ các đô thị
miền Nam trước thực tại đất nước. Nhận thức rõ bộ mặt của kẻ thù, nhận thức được vai trò to lớn
của nhân dân, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình trong công cuộc giải phóng dân tộc
- Tác phẩm viết về đề tài đất nước - đề tài lớn bao trùm thơ ca cách mạng. Khi đi vào đề tài này,
nhà thơ đã lý giải, khái quát một vấn đề lớn của thời đại - Tư tưởng đất nước của nhân dân. Khi đi
vào thể hiện tư tưởng đó, tác giả đã phân tích, lý giải ở cả hai chiều biện chứng của mối quan hệ: 
 Đất nước hiện diện, gắn bó, làm nên cuộc sống của mỗi con người   thể hiện ở đoạn trích được
phân tích.
 Nhân dân với những đóng góp âm thầm, giản dị và lớn lao đã làm nên đất nước.
- Đoạn thơ có sự kết hợp hài hòa giữa chất chính luận và chất trữ tình, bên cạnh mạch cảm xúc là
mạch suy tư, thể hiện sự khám phá, nhận thức sâu sắc toàn diện về khái niệm đất nước. Đất nước
trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với những điều bình dị, khác với thơ xưa – đất nước
gắn liền với những gì lớn lao- trừu tượng.
II. Phân Tích
- Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra một cách định nghĩa về đất nước vừa thú vị, vừa sâu sắc. Chính sự
cắt nghĩa ấy đã đem đến cho đoạn thơ một màu sắc chính luận đậm đà. Nhà thơ đã tách hai yếu tố
“đất” và “nước” để nhìn đất nước ở nhiều chiều, nhiều bình diện rồi lại hợp lại để nhìn đất nước
trong sự toàn vẹn thống nhất. Đất nước được cảm nhận từ cụ thể đến khái quát. Sự thú vị trong
người các nghĩa này còn ở chỗ: “đất” và “nước” là hai yếu tố vật chất tối thiểu cho sự sống, đặc
biệt có ý nghĩa với các dân tộc lớn lên trong nền văn minh lúa nước.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

- Nguyễn Khoa Điềm định nghĩa về đất nước không phải bằng khái niệm mà bằng những hình
tượng khi gần gũi, khi bay bổng của thơ ca, đất nước được cảm nhận đa chiều, ở cả không gian và
thời gian.
- Nhà thơ giải thích về Đất Nước theo lối chiết tự đi từ cái riêng đến cái chung qua phương diện
địa lý. Đất Nước được tách ra thành hai “Đất” và “Nước” với không gian rộng lớn, mênh mông
mà gần gũi, thân quen.
 Không gian của đất nước
- Không gian gần gũi, riêng tư, đời thường, gắn liền với sinh hoạt hằng ngày - dòng sông nơi em
tắm, ngôi trường anh đang học.
 “Đất là nơi anh đến trường”: con đường đi hàng ngày, là ngôi trường cung cấp hành trang, tri
thức giúp ta tự tin hơn, hoàn thiện mình hơn để làm chủ cuộc sống.
 “Nước là nơi em tắm”: là dòng sông tắm mát, dòng sông chở nặng phù sa làm tươi tốt hoa
lá, những cánh đồng, bãi mía, nương dâu.
 Không gian đất nước ghi dấu những kỷ niệm của tình yêu đôi lứa với xúc cảm tha thiết ngọt ngào,
nồng nàn của hẹn hò, của nhớ thương 
o Khi ta hò hẹn, Đất Nước hòa nhập vào một, trở thành không gian nâng bước và minh chứng cho
tình yêu của đôi lứa.
o Khi hai đứa yêu nhau thì Đất Nước như cùng sống trong nỗi nhớ thầm của cả hai: “Đất Nước là
nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”, câu thơ mang đậm chất ca dao dân ca, đặc trưng
của văn hóa Việt xưa:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai.
⇒ Không gian đất nước với mỗi con người là mảnh đất thấm đậm tình yêu và nỗi nhớ. Cách diễn tả của
nhà thơ vừa gần gũi vừa thấm đậm chất trữ tình, những câu thơ gợi nhắc người đọc về những câu ca ngọt
ngào đầy thương nhớ của ca dao dân ca.
 Đất nước gần gũi sâu sắc, thân quen với mỗi con người 
- Không gian đất nước còn là không gian lãnh thổ, cộng đồng rộng lớn và linh thiêng.

 Đất nước với rừng vàng biển bạc, mênh mông, bao la và tráng lệ. Hai câu thơ lấy ý từ câu hò của
vùng Bình Trị Thiên, đó cũng là hình ảnh bay bổng gợi nên một đất nước rộng lớn với cái mênh
mông, hùng vĩ của rừng, của biển.
 Đó còn là không gian linh thiêng vì đất nước là nơi dân mình đoàn tụ, là nơi Lạc long Quân và
Âu Cơ đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng, là không gian sinh thành của dân tộc, là không gian
cộng đồng trong một mối quan hệ gắn bó, thân thiết như anh em trong một nhà “sinh cơ lập
nghiệp”  theo dòng chảy của thời gian, không gian
 Sử dụng chọn lọc, linh hoạt các yếu tố của ca dao, dân ca, của truyền thuyết dân gian đã tạo nên
những hình tượng vừa gần gũi, vừa bay bổng, nên thơ. Nhà thơ đã đưa người đọc đến với cảm
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

nhận thật thấm thía. Không gian đất nước vừa bình dị, quen thuộc, vừa bao la rộng lớn, linh
thiêng. Đó là nơi gắn bó với cuộc sống mỗi con người, nơi sinh thành, lập nghiệp của bao thế hệ
từ quá khứ, hiện tại với tương lai

 Lịch sử thời gian của đất nước: là gắn với cội nguồn, sự tiếp nối của các thế hệ từ quá khứ
đến hiện tại và tương lai, làm nên Đất Nước trường tồn
- Ở đây đất nước được cảm nhận qua lịch sử thời gian dài đằng đẵng, lịch sử đất nước hiện lên qua
những huyền thoại và truyền thuyết:
 Nhắc đến Lạc Long Quân và Âu Cơ:  sự lý giải nguyên thủy về cội nguồn của tổ tiên dân tộc:
Chúng ta là anh em trong một nhà được sinh ra trong cùng một bọc trứng
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Huyền thoại đã gợi nhắc đến dòng dõi Lạc Hồng, rằng chúng ta là con rồng cháu tiên. Đó còn là
sự gợi nhắc về những tình cảm rất đỗi thiêng liêng trong hai chữ “đồng bào”: tính đoàn kết dân
tộc như anh em, máu mủ, ruột già
  Lịch sử của đất nước còn được gợi ra qua truyền thuyết về các vua hùng dựng nước khi nhắc đến
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
- Lời thơ giản dị, ý thơ hàm súc không chỉ gợi chiều dài lịch sử, ghi ơn công lao dựng nước của các
vua hùng mà còn thể hiện sự thành kính, trang nghiêm, lòng biết ơn từ trong tâm khảm của những
người dân đất Việt nhớ về cội nguồn:
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
 Huyền thoại và truyền thuyết vừa gợi niềm tự hào về lịch sử nghìn năm của dân tộc với bề dày
truyền thống, phong tục, những tình cảm thiêng liêng trong tâm thức con người Việt Nam
LUẬN ĐIỂM SƠ KẾT
 Nghệ thuật
- Thể thơ tự do, phóng khoáng vừa tạo ra nét độc đáo về hình thức cho bài thơ, vừa là cơ hội để
dòng chảy của cảm xúc được phát triển một cách tự nhiên.
- Sử dụng các chất liệu văn hóa dân gian với đa dạng các thể loại: từ phong tục - tập quán đến văn
học dân gian như ca dao - dân ca,truyền thuyết, sự tích,... một cách sáng tạo,
- Giọng thơ trữ tình - chính luận, là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người
trí thức về đất nước và con người.
 Quan niệm đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
- Đất nước là sự thống nhất của ba phương diện chiều rộng không gian địa lý, bề dày thời gian lịch
sử và chiều sâu văn hóa, là sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung. Đất nước hiện diện trong
cuộc sống mỗi con người.
- Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và giản dị biết bao.
Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lý mênh mông từ rừng đến bể mà còn
được cảm nhận bởi không gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, không gian của tình yêu đôi
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

lứa, không gian của nỗi nhớ thương, chiều dài lịch sử miên viễn và chiều sâu văn hóa với nét đẹp
trong tâm hồn người Việt Nam.
KẾT BÀI
Nhà thơ Sóng Hồng đã từng viết: “Thơ là tình cảm, lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ
thuật. Tình cảm và lí trí ấy được diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng
vang lên nhạc điệu khác thường". Và qua những dòng thơ đầy trăn trở của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, ta
thấy ở đó là những vần thơ không đơn thuần chỉ là câu chữ mà là tư tưởng, cảm xúc, tình cảm của tác giả.
Do đó có sức lay động tâm tư người đọc.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

Đề 2 : 
"Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi 
...
Đất Nước có từ ngày đó" 
Cảm nhận của anh chị về đoạn thơ. Từ đó nhận xét về việc sử dụng chất liệu văn hoá dân gian của
nhà thơ.
MỞ BÀI
Ta đã từng bắt hình ảnh của một đất nước “nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì” ở “Bên kia
sống Đuống” của nhà thơ Hoàng Cầm, một đất nước “bay lên bát ngát giữa mùa xuân” trong thơ của Lê
Anh Xuân. Và đến với “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm ta lại thấy sức sống của một đất nước rung
lên mạnh mẽ từng nhịp, như thấm sâu, đập những nhịp mạnh mẽ vào trong tim mỗi chúng ta. Đọc “Đất
Nước” của Nguyễn Khoa Điềm ta không khỏi nghẹn ngào trước một đất nước có từ lâu đời mà gần gũi,
thân thương gắn bó quyện hòa với con người, với lịch sử của nó, vẻ đẹp ấy được hội tụ và tỏa sáng trong
chín câu thơ đầu với nội dung lý giải đất nước có từ đâu cùng những biểu hiện của nó trong hình thức thơ
đậm đà màu sắc văn hóa dân tộc.
THÂN BÀI
I. Giới thiệu khái quát
- Xuất xứ: trích trong phần đầu chương V của Trường ca mặt đường khát vọng
- Hoàn cảnh ra đời: được hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974.Tác
phẩm ra đời ở giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đòi hỏi sự dồn sức
mang tính tổng lực để đi đến thắng lợi cuối cùng
 Bản trường ca ra đời trong giai đoạn này đã thể hiện quá trình thức tỉnh của tuổi trẻ các đô thị
miền Nam trước thực tại đất nước. Nhận thức rõ bộ mặt của kẻ thù, nhận thức được vai trò to lớn
của nhân dân, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình trong công cuộc giải phóng dân tộc
- Nhà thơ đã lý giải, khái quát một vấn đề lớn của thời đại - Tư tưởng đất nước của nhân dân. Khi
đi vào thể hiện tư tưởng đó, tác giả đã phân tích, lý giải ở cả hai chiều biện chứng của mối quan
hệ: 
 Đất nước hiện diện, gắn bó, làm nên cuộc sống của mỗi con người thể hiện ở đoạn thơ được
phân tích
 Nhân dân với những đóng góp âm thầm, giản dị và lớn lao đã làm nên đất nước.
- Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện một vấn đề mang đậm màu sắc chính luật bằng hình thức trò
chuyện tâm tình. Đoạn thơ là lời của người con trai nói với đứa con gái, gửi gắm những tình cảm,
suy tư sâu sắc với đất nước, với nhân dân. Giọng thơ vừa nồng nàn tha thiết, vừa trầm lắng thiêng
liêng.
- Nói về đất nước và nhân dân, nhà thơ đã vận dụng nhuần nhuyễn chất liệu văn hóa dân gian trong
từ ngữ, hình ảnh, câu thơ trong đoạn trích.
- Đoạn thơ có sự kết hợp hài hòa giữa chất chính luận và chất trữ tình, bên cạnh mạch cảm xúc là
mạch suy tư, thể hiện sự khám phá, nhận thức sâu sắc toàn diện về đất nước.
II. Phân Tích
- Đoạn thơ là những cảm nhận và suy ngẫm về quá trình hình thành, phát triển của đất nước,
hướng tới trả lời câu hỏi: Đất nước có từ bao giờ? Sự cảm nhận và suy ngẫm đã đưa con
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

người đến với nhận thức: Đất nước được hình thành từ những từ thẳm sâu trong quá khứ, đất
nước hiện diện và gắn bó trong cuộc sống hôm nay, trong đời thường hằng ngày của mỗi con
người.
- Đoạn thơ với những từ ngữ chỉ thời gian, chỉ sự hiện hữu, chỉ có sự phát triển: có rồi, bắt
đầu, lớn lên, bây giờ, có từ ngày đó, đã gợi ra cả một quá trình hình thành phát triển của đất
nước thật xa xưa nhưng cũng thật gần gũi.
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
 Câu thơ giản dị như một lời tâm tình gợi sự trường tồn từ xa xưa của đất nước, cho nên mỗi
con người sinh ra đều có một đất nước Việt đợi chờ, để ôm ấp, để chở che, nuôi dưỡng
 Câu thơ không chỉ gợi ra chiều dài miên viễn của lịch sử đất nước mà còn đem đến một cảm
giác thật gần gũi giữa đất nước và cuộc sống của con người
- Cảm nhận về đất nước
 Đất nước “có trong những cái ngày xửa ngày xưa” - Đất Nước có từ lâu lắm rồi, Đất Nước
của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền
thuyết. Nói về ý nghĩa của truyện cổ tích, nó không chỉ là lời ru, tiếng hát; là bài học, là sự
giáo dục mà còn là đời sống tinh thần trong mỗi con người.
 Hình ảnh miếng trầu gắn liền với hình ảnh gần gũi, ấm áp của bà - một nét đẹp của phong tục
truyền thống - “ miếng trầu là đầu câu chuyện”, gợi đến câu chuyện cổ tích thật đẹp về nghĩa
tình thủy chung son sắt
 Cảm nhận đất nước qua hình ảnh cây tre: gợi nhắc đến hình ảnh thân thuộc của làng quê được
bao bọc bởi những lũy tre xanh, gợi đến truyền thuyết về người anh hùng Thánh Gióng - biểu
hiện hào hùng cho tinh thần quật khởi đánh giặc cứu nước ngàn đời của dân tộc.
 Cảm nhận đất nước với hình ảnh người mẹ với búi tóc bới sau đầu gợi nét dịu dàng duyên
dáng trong vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam nhưng cũng là gợi thương gợi nhớ về sự tần
tảo lam lũ trong cuộc sống nhiều vất vả.
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
 Thành ngữ gừng cay muối mặn gợi đến sự gắn bó, tình nghĩa vợ chồng thủy chung sâu sắc,
trải qua bao nhiêu khó khăn, cay đắng.
 Cảm nhận đất nước qua hình ảnh:
Cái kèo cái cột thành tên
Câu thơ gợi ta đến hình ảnh quen thuộc của những căn nhà, nếp nhà xưa: căn nhà muốn vững
chắc và có cột có kèo. Nhưng câu thơ còn gợi nhắc đến phong tục đặt tên con mộc mạc, giản
dị cho dễ nuôi, dễ lớn. Ngay trong sự mộc mạc giản dị ấy lại là sự gửi gắm quan niệm sâu
sắc: Anh em trong một nhà phải gắn bó như cái kèo, cái cột thì căn nhà mới vững chắc, nếp
nhà mới bình yên.
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàn
 Đất nước được cảm nhận từ hạt gạo, bát cơm ta ăn hằng ngày. Cụm từ “một nắng hai sương”
cùng các từ “xay”, “giã”, “giần, “sàng” gợi quá trình lao động vất vả, dầm mưa dãi nắng bao
công đoạn để có thể làm ra hạt gạo nuôi người.
 Đất nước không hề xa lạ hay trừu tượng, nó gắn bó với những gì bình dị, gần gũi và thân yêu vô
cùng trong đời sống vật chất của mỗi con người. Đất nước với những con người trong mối quan
hệ ruột già, thân thiết, máu chảy ruột mềm: là mẹ, là ba, là mẹ cha, là dân mình.
- Khi nói với chúng ta về đất nước, tất cả những câu thơ, hình ảnh bình dị trong đoạn thơ đều
đưa người đọc liên tưởng đến vẻ đẹp của con người Việt Nam trong ứng xử, trong lao động,
trong chiến đấu, trong những phong tục tập quán, trong lối sống nghĩa tình. → Tất cả những
vẻ đẹp ấy đã làm nên truyền thống văn hóa của đất nước, của dân tộc.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

 Đoạn thơ sử dụng nhiều yếu tố của văn hóa dân gian, mỗi câu thơ đều chứa đựng một ý, một hình
một hình ảnh quen thuộc nào đó của ca dao dân ca, của thần thoại cổ tích → đậm đà màu sắc văn
hóa dân gian
- Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào:
Đất Nước có từ ngày đó.
- “Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày ta có truyền thống, có
phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước.
- Sự cảm nhận và diễn đạt của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước không chỉ sâu sắc mà còn mới
mẻ. Trong văn học trung đại, đất nước gắn liền với những khái niệm cao cả, chiều tượng,
cách nói đậm màu sắc ước lệ. Trong văn học hiện đại cũng thường tạo ra khoảng cách sử thi
thiêng liêng, tôn kính để chiêm ngưỡng về đất nước với những hình ảnh kỳ vĩ tráng lệ
Nước Việt Nam từ máu lửa rũ bùn đứng dậy sáng lòa
 Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa điểm dung dị, gần gũi, đời thường. Cái dung dị ấy vừa gợi lên
trong tâm thức người đọc chiều sâu lịch sử nghìn đời của dân tộc, bề dày của truyền thống văn
hóa với những nét đặc thù rất đáng tự hào. Một đất nước thật gần gũi để thương, để nhớ, để tự
hào. Đoạn thơ không chỉ là những suy ngẫm, nhận thức về đất nước mà còn là sự đánh thức trong
mỗi con người tình yêu, sự gắn bó, tự hào về đất nước mình.
LUẬN ĐIỂM SƠ KẾT
 Chất liệu văn hoá dân gian của nhà thơ .
- Vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống
đánh giặc, truyền thống nông nghiệp
- Sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ… Tất cả làm nên một đoạn thơ đậm
đà không gian văn hóa người Việt.
- Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang
đậm hồn thơ triết lí.
 Nội dung: Đất nước thành gắn liền với văn hóa, lối sống, phong tục tập quán của người Việt
Nam. Những gì làm nên Đất Nước cũng đã kết tinh thành linh hồn dân tộc. Đất Nước vì thế
hiện lên vừa thiêng liêng, tôn kính lại gần gũi thiết tha.
KẾT BÀI
Nhà thơ Sóng Hồng đã từng viết: “Thơ là tình cảm, lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ
thuật. Tình cảm và lí trí ấy được diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng
vang lên nhạc điệu khác thường". Và qua những dòng thơ đầy trăn trở của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, ta
thấy ở đó là những vần thơ không đơn thuần chỉ là câu chữ mà là tư tưởng, cảm xúc, tình cảm của tác giả.
Do đó có sức lay động tâm tư người đọc.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

Đề 3:
Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước những núi vọng phu…..
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta”
Từ đó nhận xét về sự kết hợp chất chính luận và chất trữ tình trong đoạn thơ.
MỞ BÀI:
Chủ đề về đất nước đã như một dòng suối thấm nhuần vào biết bao trang văn, đặc biệt là khi nước
ta còn trong những ngày chiến đấu... Tuy nhiên, Nguyễn Khoa Điềm đã có một sáng tạo vô cùng
mới mẻ với bản trường ca Mặt Đường Khát Vọng của mình với một đóng góp Nguyễn Khoa
Điềm về mặt tư tưởng cho nền văn học nước nhà: tư tưởng Đất Nước của nhân dân. Tư tưởng ấy
“như một sợi chỉ đỏ” xuyên suốt văn bản đã thực sự làm tăng thêm giá trị cao đẹp cho tác
phẩm.Đoạn thơ sau đây là sự khẳng định của nhà thơ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên
không gian địa lí - bức tranh văn hóa đất nước muôn màu muôn vẻ:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng Phu
....
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
THÂN BÀI:
I. Giới thiệu khái quát
- Xuất xứ: trích trong phần đầu chương V của Trường ca mặt đường khát vọng
- Hoàn cảnh ra đời: được hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974.Tác
phẩm ra đời ở giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đòi hỏi sự dồn sức
mang tính tổng lực để đi đến thắng lợi cuối cùng
 Bản trường ca ra đời trong giai đoạn này đã thể hiện quá trình thức tỉnh của tuổi trẻ các đô thị
miền Nam trước thực tại đất nước. Nhận thức rõ bộ mặt của kẻ thù, nhận thức được vai trò to lớn
của nhân dân, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình trong công cuộc giải phóng dân tộc
- Tác phẩm viết về đề tài đất nước - đề tài lớn bao trùm thơ ca cách mạng. Khi đi vào đề tài này,
nhà thơ đã lý giải, khái quát một vấn đề lớn của thời đại - Tư tưởng đất nước của nhân dân. Khi đi
vào thể hiện tư tưởng đó, tác giả đã phân tích, lý giải ở cả hai chiều biện chứng của mối quan hệ: 
 Đất nước hiện diện, gắn bó, làm nên cuộc sống của mỗi con người 
 Nhân dân với những đóng góp âm thầm, giản dị và lớn lao đã làm nên đất nước.  thể hiện ở
đoạn trích được phân tích.
- Đoạn thơ có sự kết hợp hài hòa giữa chất chính luận và chất trữ tình, bên cạnh mạch cảm xúc là
mạch suy tư, thể hiện sự khám phá, nhận thức sâu sắc toàn diện về khái niệm đất nước. Đất nước
trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với những điều bình dị, khác với thơ xưa – đất nước
gắn liền với những gì lớn lao- trừu tượng.
II. Phân Tích
- Tư tưởng ấy đã quy tụ mọi cách nhìn nhận đưa đến những phát hiện sâu sắc và mới mẻ của
tác giả về địa lý, lịch sử, văn hóa, của đất nước không gian đất nước được gợi ra qua những
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

danh lam thắng tích, một đất nước với những cảnh đẹp của sông, của núi chạy dài từ Bắc vào
Nam. Đó là một đất nước với rừng vàng biển bạc, với những thằng cảnh vừa hùng vĩ, vừa nên
thơ.
- Đoạn thơ với những câu thơ, hình ảnh địa danh gợi nhớ đến những thần thoại, truyền thuyết,
sự tích gắn liền với danh lam thắng tích. Ta hiểu rằng: nếu tác giả dân gian sáng tạo thần
thoại, truyền thuyết để lý giải hình sông, dáng núi, để gửi gắm ước mơ, khát vọng, tình yêu,
nỗi đau thì Nguyễn Khoa Điềm gợi nhắc đến những sự tích này để thể hiện một cái nhìn mới
về không gian đất nước, về đóng góp của nhân dân để làm nên đất nước.
- Đoạn thơ liên tiếp lập lại những từ, cụm từ “góp cho”, “góp nên”, “góp mình” và chủ thể của
sự đóng góp đó là những người vợ nhớ chồng, là cặp vợ chồng yêu nhau, là “người dân nào
đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”, đó chính là nhân dân qua năm tháng bền
bỉ, kiên cường đã dựng xây đất nước, đã in dấu sâu đậm trên dáng hình núi sông.
- Mỗi danh lam thắng tích vì thế không còn là cảnh vật thuần túy vô tri mà đều mang một dáng
hình, một ao ước, một lối sống ông cha.
 Phân tích cụ thể hình ảnh:

 Những núi vọng phu: trải dài từ Bắc vào Nam, từ đỉnh Lũng Cú xuống mũi Cà Mau chính là
sự hóa thân của những người vợ, người chồng  Đó là người vợ nhớ chồng, tình yêu, nỗi
đau kết tinh thành tượng đá người phụ nữ đau đáu chờ chồng - tình nghĩa thủy chung.

 Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh là biểu tượng đẹp đẽ cho tình yêu
thắm thiết nồng nàn. Một kẻ trần thế, một người cõi tiên bất chấp luật lệ thiên đình, nguyện
hóa đá để muôn đời ở mãi bên nhau.
 “gót ngựa Thánh Gióng”: truyền thống chống giặc hào hùng, bất khuất
 Nền văn hóa đậm đà của dân tộc “chín mươi chín con voi”.
 Những ao đầm dày đặc ở vùng đất Sóc Sơn là những hình ảnh bất tử về tinh thần yêu nước
nồng nàn, khí phách kiên cường bất khuất của những người dân đất Việt.
 Không có tinh thần vượt khó, hiếu học, không có núi bút non Nghiên.
 Những địa danh gắn liền với “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” gợi nhắc đến những
cuộc đời của những con người khai hoang mở cõi.
⇒ Nhân dân âm thầm mà lớn lao, bằng tình yêu và nỗi đau, bằng sự dũng cảm và cần cù nhẫn
nại, bằng ước mơ và khát vọng đã làm nên đất nước.
- Đâu chỉ có những địa danh như núi vọng phu, hòn Trống Mái,sự hóa thân diệu kì của nhân
dân mà tất cả ruộng đồng, đồi nương, gò bãi đều in dáng hình, bàn tay, khối óc, ước mơ, khát
vọng, lối sống của ông cha ta.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
- Từ sự cảm nhận về không gian đất nước qua những địa danh cụ thể với cái nhìn sâu sắc mới
mẻ, nhà thơ đã đi đến sự khái quát vừa mang tính triết lý sâu sắc, vừa thể hiện niềm xúc động
chân thành.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
- Đất nước chính là sự hóa thân của tâm hồn và cuộc đời nhân dân. Động từ “hóa” đã diễn đạt
ở mức độ cao nhất sự gắn bó, cống hiến và thiêng liêng hơn hết là sự hy sinh của nhân dân vì
đất nước, cho đất nước.
- Ngẫm về công lao to lớn của nhân dân, về truyền thống của ông cha thuở trước, Nguyễn
Khoa Điềm không khỏi rưng rưng bồi hồi xúc động, rạo rực niềm mến yêu, tự hào. Thán từ
“ôi” và dấu ba chấm cuối đoạn đã truyền đến người đọc nguyên vẹn cảm xúc ấy. Khúc thơ
tiêu biểu cho vẻ đẹp của thơ Nguyễn Khoa Điềm.
 Không chỉ hướng ngòi bút đến sự trù phú, tươi đẹp của thiên nhiên đất nước mà tác giả Nguyễn
Khoa Điềm còn thể hiện sự suy ngẫm mang tính triết lý sâu sắc về vẻ đẹp tâm hồn của con người,
lịch sử Việt Nam. Đó là truyền thống hiếu học, là tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của
của những con người Việt Nam để làm nên những truyền thống hào hùng
 Mỗi danh lam là một bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn người Việt. Ngợi ca núi sông hùng
vĩ, diễm lệ thực chất là ngợi ca, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân. Không có nhân dân bao
đời với tâm hồn cao quý, khát vọng lãng mạn thì không có những thắng cảnh kỳ thú để con cháu
đời đời chiêm ngưỡng.
 Đó còn là thái độ yêu thương, trân trọng, tự hào trước những đóng góp lớn lao của thế hệ cha ông
đi trước.
LUẬN ĐIỂM SƠ KẾT:
- Nhân dân, những con người bình dị cùng nhau sinh sống trong đất nước, đó là những con
người vô danh nhưng những con người vô danh ấy đã cùng nhau gây dựng nên cái hữu danh
của đất nước. Mỗi người đều lặng lẽ góp phần làm nên vẻ đẹp, sự kì thú của thiên nhiên cũng
như làm phong phú hơn cho những truyền thống văn hóa của đất nước.
 Sự kết hợp chất chính luận và chất trữ tình trong đoạn thơ
- Chính luận:
 Tập trung thể hiện một tư tưởng lớn của thời đại “Đất nước của nhân dân”- hệ quy chiếu đưa
đến sự phá hiện, khái quát.
 Phân tích, lí giải, khái quát, tư duy đi từ cụ thể đến khái quát
 Sự định nghĩa, lối cắt nghĩa
- Trữ tình
 Bộc lộ cảm xúc, thể hiện xúc cảm trong thơ, thể hiện tư tưởng lớn của thời đại bằng giọng
điệu tâm tình, chất liệu văn hóa dân gian.
 Xúc cảm nồng nàn, lắng đọng về dất nước, nhân dân
 Nội dung:
- Đất nước hùng vĩ, nhân dân anh hùng, cần cù, hiếu học, ân nghĩa thủy chung… được nhà thơ cảm
nhận với tất cả lòng yêu mến tự hào.
- Qua hình tượng Đất Nước mà nhà thơ ca ngợi tâm hồn Nhân Dân, khẳng định bản lĩnh nòi giống
và dáng đứng Việt Nam. Thiên nhiên Đất Nước đã được Nhân Dân sáng tạo nên. Nhân Dân là
chủ nhân của Đất Nước.
KẾT BÀI:
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

Thơ đích thực khơi gợi hồn người trở nên trong sáng, phong phú và cao thượng. Đoạn thơ như một tiếng
nói tâm tình “dịu ngọt”, nhà thơ như đang đối thoại cùng ta về Đất Nước và Nhân Dân. Đọc lại đoạn thơ,
lòng mỗi chúng ta bâng khuâng, xúc động nghĩ về hai tiếng Việt Nam thân thương:
“Ôi! Việt Nam! Yêu suốt một đời…”
(Tố Hữu)
Ta cảm thấy hãnh diện và lớn lên cùng Đất Nước.

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ


HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

Đề 1: Hãy phân tích vẻ đẹp của ông đò qua đoạn trích thể thấy được thứ vàng mười đã qua thử lửa
trong tâm hồn của con người lao động trên miền sông núi sông hùng vĩ và thơ mộng Tây Bắc:
“Ông đò cố nén vết thương hai chân vẫn kẹp..... họ nghĩ thế lúc dừng chèo” (Trích người lái đò sông
đà Nguyễn tuân, sách giáo khoa ngữ văn 12, tập một)
Từ đó nhận xét về sự vận động trong tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn tuân sau cách mạng tháng
Tám
MỞ BÀI:
“Sông Đà” là một mốc son trong lộ trình nửa thế kỉ sáng tác, đánhdấu bước chuyển quan trọng của nhà
vănNguyễn Tuân đi từ thế giới của cái “tôi” đến thế giới của cái “ta”. Hay nói như nhà thơ Pháp Êluya
“từchân trời một người đến chân trời tất cả”. “Người lái đò Sông Đà” là mộttrong những thiên tùy bút
xuất sắc, thêm một lần nữa khẳng định phong cách tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân và là một minh
chứng tiêu biểu cho quá trình “ngòi bút ấy đã đạt tới độ chín mới về tư tưởng và nghệ thuật.” Điều đó đã
được thể hiện rõ qua hình tượng người lái đò được miêu tả trong đoạn trích: “Ông đò cố nén vết thương
hai chân vẫn kẹp..... họ nghĩ thế lúc dừng chèo”
THÂN BÀI:
I. Giới thiệu khái quát
- Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.
 In trong Sông Đà, xuất bản năm 1960. Tác phẩm xuất sắc thể hiện những nét đặc sắc nhất trong
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
 Hoàn cảnh sáng tác: là kết quả của chuyến đi thực tế đến miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi, không
chỉ thỏa mãn niềm khát khao xê dịch mà còn tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc, khám
phá chất vàng mười đã qua thử lửa của tâm hồn con người Việt Bắc → Chuyến đi và sự ra đời
của tập tùy bút đã đánh dấu sự chuyển biến xấu cái viên tư tưởng của Nguyễn tuân
- Phong cách nghệ thuật độc đáo, tài hoa, uyên bác
- Cách tiếp cận con người và cuộc sống của Nguyễn Tuân:
 Tiếp cận thế giới sự vật ngược về phương diện văn hóa thẩm mỹ
 Tiếp cận con người nhưng về phương diện tài hoa nghệ sĩ
- Sự vận động trong tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Tuân: trước và sau Cách mạng tháng 8,
quan niệm về cái đẹp và đối tượng nghệ thuật của Nguyễn Tuân có sự thay đổi  Sự chuyển
biến ấy đã được thể hiện rõ nét trong đoạn trích
- Đoạn văn miêu tả cuộc vượt thác của ông đò qua đoạn trích đã làm sáng lên thứ vàng mười
đã qua thử lửa trong tâm hồn của con người lao động trên miền sông núi sông hùng vĩ và thơ
mộng Tây Bắc: tài – trí – dũng
- Bối cảnh tình huống
 Miêu tả Sông Đà hung bạo khúc thượng nguồn, Nguyễn Tuân đã tạo dựng một phông nền thiên
nhiên vừa kỳ vĩ vừa dữ dội, xứng đáng với sự xuất hiện của người lái đò, người anh hùng trên
sông nước trong một cuộc chiến sinh tử.
 Tình huống: để khắc họa vẻ đẹp của người lái đò, Nguyễn Tuân đã miêu tả cuộc vượt thác nguy
hiểm trong đó nổi bật với sự tương phản giữa thiên nhiên ác hiểm hung bạo dàn quân mai phục
với trùng vi thạch trận, một bên là người lái đò Sông Đà, con thuyền bé nhỏ, đơn độc.
 Nguyễn tuân luôn đặt nhân vật của mình trong những tình huống thử thách có tính chất nghiệt
ngã. Đó là ranh giới giữa sự sống và cái chết, là cuộc chiến quyết liệt, không khoan nhượng để
giành giật sự sống từ tay thiên nhiên về tay mình, một cuộc chiến không chấp nhận bất kỳ sự sơ
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

hở, chủ quan, sai lầm nào, bởi đây chính là nơi Sông Đà hiện lên với diện mạo và tâm địa của một
thứ kẻ thù số một trong cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường Sông Đà. Cuộc
vượt thác Sông Đà là một trận thủy chiến.
II. Phân Tích
- Cuộc vượt thác Sông Đà ( trận thủy chiến của người lái đò trên sông nước) diễn ra qua ba
vòng vây, mỗi vòng vây lại là một thử thách, những khó khăn đòi hỏi người lái đò không chỉ
có sức mạnh mà còn phải có kinh nghiệm, thậm chí sự điêu luyện tài hoa. Người lái đò đã
vượt thác thật ngoạn mục thể hiện rõ ba phẩm chất: trí - dũng - tài hoa:
 Trí: trí tuệ, kinh nghiệm dày dặn.
 Dũng: dũng cảm, nghị lực phi thường, bản lĩnh.
 Tài hoa: khéo léo, điêu luyện.
- Vòng vây thứ nhất: dũng
 Bước vào vòng vây thứ nhất cũng là bước vào thạch trận vừa bày xong, sông Đà dàn quân mai
phục quyết bắt chết con thuyền. Đội quân đá nước đông đảo, hùng hậu, hung hãn với diện mạo
gớm ghiếc, tâm địa ác độc, hình tượng hoang dại, dữ dội. Người lái đò như bước vào trận hỗn
chiến vang trời tiếng hò reo của sóng nước, sự liều mạng của nước, của đá với những món đòn
hiểm độc nhất: cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò.
 Trước đội quân hùng hậu, đông đảo ấy, người lái đò với con thuyền sáu tay chèo trở nên bé nhỏ,
đơn độc, ông đò vật lộn với đội quân liều mạng trong trạng thái đau đớn tột cùng: “mặt méo bệch
đi” - cách sử dụng ngôn từ tài hoa làm hiện lên khuôn mặt biến dạng vì đau đớn, nhợt nhạt vì dầm
lâu trong nước lạnh.
 Sự đau đớn con đường gián tiếp miêu tả trong cảm nhận của thị giác: “Mặt sông trong tích tắc loà
sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng.” Đó chính là
khoảnh khắc nỗi đau của thể xác như vượt qua ngưỡng chịu đựng của con người - cảm nhận của
thị giác biến thành ảo giác - “nổ đom đóm mắt”
- Chi tiết về thái độ và hành động:
 “ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái”, “vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn
gọn tỉnh táo” ⇒ Người lái đò dũng cảm, ngoan cường, một người chỉ huy đội đầy bản lĩnh trong
tột cùng đau đớn về thể xác vẫn là một tâm trí tỉnh táo, sáng suốt. Ông đò đã đưa con thuyền vượt
qua cửa ải, phá xong trùng vi thạch trận vòng thứ nhất.
- Vòng vây thứ hai. Trí
 Không có một phút nghỉ ngơi, con thuyền ngay lập tức bước vào vòng vây thứ hai.
 Mỗi vòng vây chỉ có một cửa sinh duy nhất được bố trí ở những vị trí khác hẳn → vượt thác Sông
Đà chỉ cần một sơ hở, một sai lầm là đồng nghĩa với cái chết.
 Ở vòng vây thứ hai, sông Đà với “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá.”. Một
câu văn đặc biệt giàu tính tạo hình với cách nói ẩn dụ tài hoa thể hiện một sức liên tưởng tưởng
tượng phóng khoáng khiến người đọc sống trong cảm giác tột cùng sợ hãi: thác nước Sông Đà tự
như một loài mãnh thú trong cơn cuồng loạn với tốc độ ghê người như muốn lao vào ăn tươi nuốt
sống con thuyền. Sức mạnh dữ dội của thiên nhiên như vượt quá sức tưởng tượng của con người
→ Nguyễn Tuân gọi đó là binh pháp của thần sông thần đá - một sức mạnh phi phàm.
 Đối diện với một thiên nhiên hung bạo và hiểm ác đến mức ấy, chỉ sức mạnh thể chất của con
người là không đủ, tình huống ấy đòi hỏi một nghị lực phi thường và hơn hết là một kinh nghiệm
dày dặn, phẩm chất của trí tuệ: “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”.
 Ông đò đã bộc lộ sự hiểu biết, kinh nghiệm của người lái đò dày dặn, “ông nắm chắc binh pháp
của thần sông thần đá”, “ thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở”, ông hiểu
“Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ.”, trước đội quân cuồng loạn, “đứa thì
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến.”. Đoạn
văn dày đặc các động từ đã miêu tả một cách sống động, hào sảng hình ảnh người lái đò trong
cuộc chiến trên sông nước. Ông đò như một dũng tướng ngoan cường với chiến thuật hợp lý, ứng
phó linh hoạt, hành động mạnh mẽ dứt khoát.
- Vòng vây thứ 3: tài hoa
 Thử thách đặt ra ở vòng vây thứ ba: “ít cửa hơn”, “bên phải bên trái đều là luồng chết”, “chỉ có
một luồng sống”, “chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ”
 Đây chính là cửa ải cuối cùng trong trận chiến sinh tử, nơi cả thiên nhiên và con người quyết
dành sự sống từ tay mình
 Trong tình huống ấy, đầy mạnh mẽ và quyết đoán, người lái đò Sông Đà dày dặn kinh nghiệm
phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa. Câu văn ngắn, nhịp điệu nhanh như diễn tả sự khẩn
trương không một chút chần chừ, do dự.
 Sau khi đã chọc thủng đúng cửa sinh duy nhất, con thuyền “vút qua cổng đá cánh mở cánh khép”,
“ Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua
hơi nước, vừa xuyên vào từ động lái được lượn được.”, Câu văn với sự lặp lại của các động từ
“vút”, các danh từ “cửa ngoài”, “cửa trong”, thủ pháp so sánh “thuyền như một mũi tên tre” đã
diễn tả đầy ấn tượng tốc độ phi thường của con thuyền. Điều khiển con thuyền như vậy không chỉ
đòi hỏi một sức khỏe phi thường, bản lĩnh kiên cường, kinh nghiệm dày dặn mà còn là sự khéo
léo, điêu luyện tài hoa. Ông đò không chỉ là người chỉ huy tài ba trên sông nước mà còn là người
nghệ sĩ tài hoa, “một tay lái ra hoa” như sự ca ngợi của Nguyễn Tuân.
 Miêu tả cuộc chiến của người lái đò trên Sông Đà, Nguyễn tuân đã tạo nên những trang viết vừa
đầy kịch tính, vừa hào sảng, vừa cho người đọc cảm nhận tính chất ác liệt của trận chiến, vừa lâng
lâng sung sướng trong niềm vui chiến thắng.
 Cuộc vượt thác của người lái đò sông Đà được tái hiện sống động bằng sự giàu có tưởng như bất
tận của ngôn từ, bằng sự phóng khoáng độc đáo, bất ngờ trong những liên tưởng tưởng tượng.
- Lúc dừng chèo: sau chiến thắng, chẳng thấy ai bàn thêm lời nào về cuộc chiến vừa qua, thái độ
bình thản ấy đã tô đậm tầm vóc lớn lao của những người lái đò, những người lao động, những
người anh hùng trên sông nước, với họ, cuộc chiến đấu và sự chiến thắng sông Đà dữ dội hiểm ác
chỉ là chuyện thường ngày.
 Tiểu kết
 Với sự miêu tả người lái đò trên Sông Đà, bài tùy bút là thiên anh hùng ca ca ngợi vẻ đẹp của con
người trong cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên. Người lái đò không chỉ là người lao động mà
còn là người anh hùng, người nghệ sĩ tài hoa đã chiến thắng ngoạn mục trước thiên nhiên hiểm dữ
bằng sức mạnh, lòng can đảm, sự dày dặn kinh nghiệm và sự điêu luyện tài hoa. ⇒ Nguyễn tuân
đã phát hiện ra chất vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn những con người lao động bình dị
của Tây Bắc.
 Khắc họa hình tượng người lái đò Sông Đà đã thể hiện sự vận động trong tư tưởng và nghệ thuật
của Nguyễn tuân. Thể hiện sự độc đáo trong phong cách nghệ thuật của nhà văn tài hoa khám phá
con người qua các phương diện tài hoa thẩm mỹ.
LUẬN ĐIỂM SƠ KẾT
 Sự vận động trong tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Tuân
- Trước cách mạng tháng tám: bất mãn, bất hòa với xã hội kim tiền ô trọc, viết về cái đẹp vang
bóng một thời, nét văn hóa thẩm mỹ thuộc về quá khứ, đối tượng chủ yếu là nhà nho tài hoa bất
đắc chí, kiểu nhân vật xuất chúng đặc tuyển, bậc kỳ tài hiếm có.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

- Sau cách mạng tháng tám: Tồn tại sự thống nhất mà vận động trong tư tưởng nghệ thuật Nguyễn
Tuân - vẫn là một nhà văn săn tìm cái đẹp, nhưng cái đẹp ở đây thuộc về hiện tại, đối tượng văn
học còn là những con người lao động bình thường trong cuộc sống thường nhật.
 Nghệ thuật
- Ngôn ngữ đa dạng không chỉ mô tả trực quan mà còn xúc giác, so sánh...
- Câu văn co duỗi nhịp nhàng, giàu giá trị tạo hình
- Nhịp điệu nhanh, khẩn cấp và căng thẳng như một trận chiến thực sự.

KẾT BÀI
Viết về người lái đò sông Đà, ngòi bút Nguyễn Tuân hiện lên với tràn đầy cảm hứng lãng mạn. Cảm hứng
ấy thấm sâu và lan tỏa trong những câu văn viết về đời thực, viết về con người thực. Cảm hứng lãng mạn
được sử dụng trong tùy bút, đặc biệt khi viết về người lái đò đã tạo nên một khúc ca tươi đẹp, hào sảng
khi viết về con người lao động. Nguyễn Tuân còn là một người có cá tính vô cùng độc đáo. Ông quan
niệm “đời là một trường du hí”, “sống là chơi mà viết cũng là chơi”.Vì vậy nghề viết với Nguyễn là một
cuộc dạo chơi nhưng là chơi ở đỉnh cao – chơi một cách nghệ thuật.

Đề 2: Trong bài tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, nhà văn Nguyễn Tuân viết :
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

“Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách
thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như
một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã
có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy
lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái
tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
Lại như quăng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hang cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió. Cuốn
cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng
thuyền ra.Còn xa lắm mới đến cái thác dưới
…Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng
nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà
chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng
tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. 
.....
Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn
xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ
bóng mây dưới chân mình. Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc
ẩn hiện trong mây trời tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai va cuồn cuộn mù khói Mèo đốt
nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây
mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà
không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông đà lừ lừ chín đỏ như
da mặt một nguời bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi
độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta
ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.”
Anh/chị cảm nhận hình tượng con sông Đà qua những đoạn trích trên. Từ đó bình luận về sự độc
đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân ( hoặc nhận xét về ngôn ngữ văn chương của
Nguyễn Tuân)
MỞ BÀI
Cho đến nay và mãi nhiều năm về sau nữa, chắc chắn không ai nghi ngờ vị trí hàng đầu trong làng văn
Việt Nam hiện đại lại thuộc về NguyễnTuân. "Ông là một trong mấy nhà văn lớn mở đường, đắp nền cho
văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX" (Nguyễn Ðình Thi). Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một giá trị hiển
nhiên, gợi nhắc một vùng trời riêng, xôn xao thanh âm ngôn ngữ dân tộc. Sự độc đáo trong dòng sông văn
chương của ông đã được phản chiếu rõ nét khi ông miêu tả vẻ đẹp độc đáo của dòng sông Đà với hai vẻ
đẹp tưởng chừng đối lập lại hiện diện trên cùng một sinh thể: hung bạo, dữ dội và thơ mộng, trữ tình. Ta
sẽ cùng phân tích đoạn thơ trên để làm rõ cá tính lạ lùng của nhà thơ tài hoa.
THÂN BÀI:
I. Giới thiệu khái quát
- Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.
 In trong Sông Đà, xuất bản năm 1960. Tác phẩm xuất sắc thể hiện những nét đặc sắc nhất trong
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
 Hoàn cảnh sáng tác: là kết quả của chuyến đi thực tế đến miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi, không
chỉ thỏa mãn niềm khát khao xê dịch mà còn tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc, khám
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

phá chất vàng mười đã qua thử lửa của tâm hồn con người Việt Bắc → Chuyến đi và sự ra đời
của tập tùy bút đã đánh dấu sự chuyển biến xấu cái viên tư tưởng của Nguyễn tuân
- Là nhà văn suốt đời đi săn tìm cái đẹp với những khám phá, tiếp cận thế giới sự vật ở phương
diện văn hóa thẩm mỹ, Nguyễn tuân đã quan sát miêu tả Sông Đà với hai đặc điểm đối lập nhau:
một dòng sông hung hung bạo dữ dội cũng là một dòng sông đằm thắm trữ tình. Sông Đà hiện lên
qua trang viết Nguyễn tuân thực sự là một công trình tuyệt mỹ của tạo hóa  được thể hiện ở
đoạn trích
- Nguyễn tuân thực sự trở thành người chơi độc tấu ở thể loại tôi tùy bút, ông đưa tùy bút lên một
thành một thị sang trọng văn hóa văn học Việt Nam
- Nguyễn Tuân là nhà văn của những cảm giác mạnh, ông thích những gì gây những cảm giác, cảm
xúc mãnh liệt, ông có sở trường miêu tả những cái dữ dội hoặc đẹp một cách tuyệt đỉnh ⇒ Nét
hung bạo của dòng sông ở khúc thượng nguồn đã kích thích mạnh mẽ những giác quan và xúc
cảm của người nghệ sĩ. Khi cảm hứng được khơi dậy, sở trường được phát huy, Nguyễn tuân đã
tung ra cả một kho ngôn từ phong phú đầy giá trị tạo hình để miêu tả mọi sắc thái, mọi hình thù,
mọi âm thanh và những hình tình huống oái oăm nhất mà dòng sông ấy tạo ra.
- Phong cách nghệ thuật độc đáo, tài hoa, uyên bác
II. Phân Tích
a. Dòng sông hung bạo
Trên sự quan sát và miêu tả của Nguyễn tuân, Sông Đà hiện lên như một sinh thể sống động có
tính cách, có hành động, có diện mạo, có tâm địa, dòng sông ấy là hiện thân cho sức mạnh dữ dội,
hoang dại của thiên nhiên Tây Bắc
 Cảnh đá bờ sông dựng vách thành
- Hình ảnh ẩn dụ gợi đến sự vững chãi, thâm nghiêm, sự hiểm trở với sức mạnh đầy bí ẩn của
những vách núi hun hút như thành cao trên Sông Đà.
- Những chi tiết miêu tả bâng quơ, tản mạn: “đúng ngọ mới có mặt trời”, “Đứng bên này bờ nhẹ
tay ném hòn đá qua bên kia vách.”, “con nai con hổ … vọt từ bờ này sang bờ kia.” ⇒ gợi tả gián
tiếp độ hẹp của dòng sông, độ cao của vách đá.
- Những ấn tượng của tác giả được tô đậm bởi hình ảnh so sánh độc đáo: “Có vách đá thành chẹt
lòng Sông Đà như một cái yết hầu.” Động từ “chẹt” và hình ảnh so sánh đã đem đến ấn tượng
mạnh mẽ về độ hẹp của lòng sông bị đá chèn hẹp đến độ nghẹt thở.
- Nhà văn đã miêu tả cảm giác đi qua Sông Đà quãng ấy bằng một sự so sánh bất ngờ, thú vị “đang
mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một
khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện..” ⇒ Nguyễn Tuân đã lấy
ngõ phố để tả mặt sông, lấy cảm giác ngóng vọng lên nhà cao tầng để diễn tả cảm nhận hoàn về
độ cao của vách đá - lấy cái quen thuộc để diễn tả cái bí hiểm hoang sơ giúp người đọc hình dung
sự lạnh lẽo tăm tối của những khúc sông với những vách đá hun hút trên lòng sông.
 Cảnh cảnh mặt gần Hát Loóng
- Cảnh mặt gần gần Hát Loóng được miêu tả trong câu văn dài nhưng ngắt nhịp ngắn, nhanh, dồn
dập với những điệp từ nối tiếp. Một câu văn giàu nhịp điệu, giàu giá trị tạo hình, diễn tả sống
động như sự chuyển vần dữ dội của quần thể thiên nhiên với sóng to, gió lớn và đá trên Sông Đà
 Với những câu văn này, Nguyễn tuân đã buộc ngôn từ dựng lên ghềnh thác, buộc nhịp điệu tạo
thành sóng gió
- Từ láy mang màu sắc nhân hóa, “gùn ghè” vừa gợi âm thanh, vừa gợi thái độ, tính cách, kết hợp
với sự so sánh đầy bất ngờ: “Cuốn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ
xuýt” đã đặc tả sức mạnh của những luồng gió trên ssông Đà vừa hung hãn, vừa lì lợm, cuồng
bạo, đầy đe dọa.
 Thác và đá ngầm trên sông:
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

- Còn xa lắm mới đến cái thác dưới: Ấn tượng về âm thanh + Vốn ngôn từ giàu có và phong phú
trong những câu văn giàu giá trị tạo hình:
- Từ ngữ không chỉ gợi ra âm lượng mà còn giàu sắc thái cảm xúc, được xếp theo trình tự tăng dần
trong cảm nhận về âm thanh, to dần, dữ dội hơn, chấn động hơn, còn là sự tăng dần về sắc thái
cảm xúc, sự dữ dội, đe dọa, tức giận, đem đến cảm giác ghê rợn, sợ hãi
 Giảm dần trong khoảng cách, cự ly quan sát, tăng dần với cảm giác sợ hãi.
- Những từ ngữ giàu sắc thái “réo”, “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “giọng gằn” “chế
nhạo”,.. → Sông Đà với những cái thác nước giống như một loại thủy quái khổng lồ vừa xảo
quyệt, hung hãn, tráo trở.
 Câu văn giàu giá trị tạo hình - so sánh bất ngờ đầy lý thú, chỉ có thể xuất hiện ở một nhà văn với
sức liên tưởng, tưởng tượng phong phú, phóng túng.
- Những từ ngữ “rống lên”, “lồng lộn”, “gào thét” đã đem đến ấn tượng mãnh liệt về những thanh
âm trong một thảm họa kinh hoàng của một trận động đất, một trận cháy rừng.
- Nguyễn Tuân đưa cảm nhận của người đọc đến tột cùng sợ hãi trong một sự so sánh đầy bất ngờ
chính xác để diễn tả sức mạnh hoang dã của thiên nhiên. m thanh của thác nước là tiếng rống lên
của “một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa,..., rừng lửa cùng
gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.”
 Nguyễn Tuân đã lấy hình ảnh để tái hiện âm thanh, lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông.
b. Dòng sông thơ mộng trữ tình
- Cảm nhận nét trữ tình đầu tiên của dòng sông là hình ảnh con Sông Đà tuôn dài. Ở tầm quan sát ở
độ cao trong một cái nhìn bao quát toàn cảnh, “Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ
tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai va cuồn
cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân”
 Câu văn dài với dấu phẩy duy nhất dường như đã mô phỏng dáng tuôn chảy của dòng sông, đem
đến cảm giác về một sự liền mạch bất tận. Đó là con sông tuôn chảy từ vùng rừng núi hùng vĩ nơi
thượng nguồn Tây Bắc, miên man chảy xuống đồng bằng, êm đềm hòa vào sông Hồng rồi đổ về
biển cả.
 Hình ảnh so sánh “Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình” thật đẹp khiến dòng sông hiện lên
với nét mềm mại, đằm thắm, vẻ duyên dáng trẻ trung ngời ngợi sức sống.
 Sự thú vị là ở chỗ ngay cả khi miêu tả Sông Đà thơ mộng, trữ tình thì hình ảnh “áng tóc” vẫn gọi
lên cảm nhận về sự hùng vĩ, về sức mạnh của dòng sông.
 Câu văn với định ngữ rất dài ấy gợi ra cả một hành trình của Sông Đà, trong hành trình ấy, Sông
Đà đã thu nhận vào dòng chảy của mình nét thơ mộng của mây trời Tây Bắc, cái tươi tắn rực rỡ,
trẻ trung của hoa ban hoa gạo, cái gần gũi ấm áp của cuộc sống đời thường với khói núi mèo đốt
lương Xuân.
 Vẻ thơ mộng của dòng sông hiện ra qua những sắc màu đầy biến ảo, Nguyễn TTuân đã quan sát
sắc nước của dòng sông ở những thời điểm khác nhau với những sắc thái khác nhau.
 “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích” - sự miêu tả không chỉ gợi ra sắc xanh mà còn cảm nhận về độ
trong đến lạ lùng của nước Sông Đà, gợi cảm nhận về niềm say mê trước một vẻ đẹp vừa trong
sáng, vừa quý giá.
 Vẫn là dòng chảy vẫn là dòng sông ấy nhưng “Mùa thu nước Sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt
một nguời bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì” . → Từ
ngữ tượng hình là và từ so sánh từ ngữ tượng hình và từ so sánh vừa gợi sắc màu, vừa gợi cái
chậm rãi của dòng sông đỏ nặng phù sa, vừa thể hiện sức mạnh tiềm tàng đầy đe dọa ngay cả khi
tắt hình đã xa.
 Như thế, ngay cả khi miêu tả Sông Đà thơ mộng trữ tình, hình ảnh con sông hung bạo vẫn ám ảnh
trong cảm nhận của nhà văn say mê cảm giác mạnh.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

LUẬN ĐIỂM SƠ KẾT


 Phong cách nghệ thuật độc đáo, tài hoa, uyên bác
- Độc đáo được thể hiện trước hết ở cách tiếp cận con người và cuộc sống
 Tiếp cận thế giới sự vật ngược về phương diện văn hóa thẩm mỹ
 Tiếp cận con người nhưng về phương diện tài hoa nghệ sĩ
 Người nghệ sĩ suốt đời đi săn tìm cái đẹp
- Tài hoa thể hiện ở sự giàu có về ngôn từ, cách sử dụng từ ngữ linh hoạt, phong phú, khả năng tổ
chức những câu văn giàu giá trị tạo hình, giàu nhạc điệu
 Nguyễn Tuân thực sự trở thành người chơi độc tấu ở thể loại tôi tùy bút, ông đưa tùy bút lên một
thành một thị sang trọng văn hóa văn học Việt Nam
- Uyên bác: Nguyễn tuân luôn thể hiện sự công phu khảo cứu, khám phá đối tượng trên nhiều
phương diện, vận dụng những hiểu biết sâu sắc về nhiều lĩnh vực để quan sát, tìm hiểu và miêu tả
đối tượng trong những trang viết của mình.
- Nguyễn Tuân ưa mạo hiểm, thích khác biệt. Ông là nhà văn của những tính cách độc đáo, những
tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của nhữngphong cảnh tuyệt mĩ với núi cao, rừng thiêng, gió bão và
thác ghềnh dữ dội. Ông chán ghét mọi sự nhợt nhạt, bằng phẳng của văn chương.
(Ngôn ngữ văn chương của NT: Ông có cả một kho từ vựng mới lạ, ấn tượng, giàu sức biểu cảm.Từng
câu văn xuôi ông viết như thể biết co duỗi nhịp nhàng màng đầynhạc điệu. Đọc văn ông người ta không
chỉ thấy hình tượng văn học nhưnhảy múa, cựa quậy trước mắt người đọc mà còn thấy chữ nghĩa tiếng
Việt giàu đẹp, biết bao.)
 Nghệ thuật
- Những hình ảnh, âm thanh, sự kiện trong tác phẩm được nhà văn mô tả bằng những từ ngữ mới lạ
có khi chưa từng xuất hiện ở những trang văn vào khác ví như từ "gùn ghè", "đòi nợ xuýt", "hồi
lùng", "trùng vi thạch trận",...
- Mỗi một lĩnh vực khác nhau Nguyễn Tuân lại dùng những từ ngữ chuyên thuộc lĩnh vực ấy để
diễn đạt ý của mình, từ quân sự, lịch sử, địa lý, văn học, âm nhạc, hội họa, điện ảnh, ...
- Đặc sắc trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ của Nguyễn Tuân còn nằm ở cách thành lập câu văn
giàu chất tạo hình.
 Nội dung
- Sông Đà hùng vĩ, dữ dội với tính cách hung bạo
- Sông Đà với vẻ đẹp thơ mộng và tính cách trữ tình
KẾT BÀI:
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh nhận định: “Hạt nhân của phong cáchnghệ thuật Nguyễn Tuân có thể
gói gọn trong một chữ ngông”. Thái độ ngông trong văn chương đã giúp Tuấn Thừa Sắc tạo ra cho
mình “giọng điệu riêng” không tìm thấy trong cổ họng của bất kì một nhà cầm bút nào khác.

Đề 3: Phân tích cuộc giao tranh giữa người lái đò sông đà và dòng sông đà trong đoạn sau
để chứng minh rằng: “Nguyễn tuân đã tìm kiếm thành công: “Chất vàng của thiên nhiên”
cùng “thứ vàng mười” đã qua thử lửa ở tâm hồn con người lao động và chiến đấu trên
miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

Thạch trận dàn bày vừa ... thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa
xuyên vào từ động lái được lượn được.
MỞ BÀI:
Người lái đò Sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha
của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng vừa trữ tình thơ
mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Tác phẩm còn
cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc cùng sự tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân
trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì côngcủa tạo hóa và những kì tích lao động của con
người. Đặc biệt, qua cuộc giao tranh giữa người lái đò sông đà và dòng sông Đà trong đoạn
“Thạch trận dàn bày vừa ... thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên
vào từ động lái được lượn được.”, Nguyễn tuân đã tìm kiếm thành công: “Chất vàng của thiên
nhiên” cùng “thứ vàng mười” đã qua thử lửa ở tâm hồn con người lao động và chiến đấu trên
miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng.
THÂN BÀI:
I. Giới thiệu khái quát
- Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.
 In trong Sông Đà, xuất bản năm 1960. Tác phẩm xuất sắc thể hiện những nét đặc sắc nhất
trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
 Hoàn cảnh sáng tác: là kết quả của chuyến đi thực tế đến miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi,
không chỉ thỏa mãn niềm khát khao xê dịch mà còn tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên
Tây Bắc, khám phá chất vàng mười đã qua thử lửa của tâm hồn con người Việt Bắc →
Chuyến đi và sự ra đời của tập tùy bút đã đánh dấu sự chuyển biến xấu cái viên tư tưởng
của Nguyễn Tuân
- Cách ông tiếp cận con người và cuộc sống
 Tiếp cận thế giới sự vật ngược về phương diện văn hóa thẩm mỹ
 Tiếp cận con người nhưng về phương diện tài hoa nghệ sĩ
- Nguyễn Tuân thực sự trở thành người chơi độc tấu ở thể loại tùy bút, ông đưa tùy bút lên
một thành một thị sang trọng văn hóa văn học Việt Nam
- Nguyễn Tuân là nhà văn của những cảm giác mạnh, ông thích những gì gây những cảm
giác, cảm xúc mãnh liệt, ông có sở trường miêu tả những cái dữ dội hoặc đẹp một cách
tuyệt đỉnh ⇒ Nét hung bạo của dòng sông ở khúc thượng nguồn đã kích thích mạnh mẽ
những giác quan và xúc cảm của người nghệ sĩ. Khi cảm hứng được khơi dậy, sở trường
được phát huy, Nguyễn tuân đã tung ra cả một kho ngôn từ phong phú đầy giá trị tạo hình
để miêu tả mọi sắc thái, mọi hình thù, mọi âm thanh và những hình tình huống oái oăm
nhất mà dòng sông ấy tạo ra.
 Làm rõ đề bài:
- “chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc”: nét hùng vĩ với con sông Đà dữ dội, hiểm trở của
thiên nhiên miền núi Tây Bắc được thể hiện qua trùng vi thạch trận.
- thứ vàng mười” đã qua thử lửa ở tâm hồn con người lao động: phẩm chất đẹp của con
người, thể hiện qua trận giao tranh của người lái đò với thiên nhiên kì vĩ: kết tinh của trí-
dũng-tài hoa.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

II. Phân Tích


1. Thiên nhiên Tây Bắc: hùng vĩ với con sông Đà dữ dội, hiểm trở được thể hiện qua
thác và đá ngầm trên sông
- Trong sự quan sát tỉ mỉ, công phu vừa có cái bao quát toàn cảnh, vừa có cái cụ thể chi
tiết. Sức mạnh của Sông Đà được cảm nhận ở sự kết hợp của nước và đá ngầm trên sông.
Nhà văn đã hình dung Sông Đà bày thạch trận, dàn quân mai phục với khí thế áp đảo:
quyết bắt chết những con thuyền đi qua quãng này.
- Đá ngầm và nước như một đội quân và hùng hậu, vừa hiểm ác, hung hãn, đầy thách thức
đối với con người.
- Nhà văn đã miêu tả cực kỳ sinh động, thú vị mọi hình dạng, kích cỡ của đội quân đá
ngầm trên sông bằng những từ ngữ giàu sức tạo hình, đặc biệt là từ láy: “ngỗ ngược”,
“nhăn nhúm”, “méo mó” gợi sự gồ ghề, xù xì, có hòn thì bệ vệ, oai phong, to lớn, có hòn
thì “hất hàm”- hình dung về sự sắc nhọn, nhẵn thín, xanh lè.
- Những từ ngữ vừa giàu tính tạo hình mang đậm màu sắc nhân hóa gợi hình ảnh của một
đội quân đông đảo, lắm dáng vẻ, nhiều hình thù nhưng đều toát lên sự hung bạo, ác
hiểm.
- Để miêu tả thạch trận trên sông, Nguyễn tuân đã sử dụng một loạt các thuật ngữ thể thao,
quân sự võ thuật “dàn quân mai phục”, “bày thạch trận”, “đánh giáp lá cà”, boong ke,
pháo đài chim. Sự miêu tả không chỉ cho chúng ta cảm nhận về một Nguyễn tuân tài hoa,
một Nguyễn tuân giàu có về ngôn từ mà còn là của Nguyễn Tuân uyên bác về kiến thức
phong phú ở nhiều lĩnh vực.
- Không khí căng thẳng, quyết liệt của một trận hỗn chiến còn được tái hiện với những câu
văn ngắt nhịp ngắn với mật độ dày đặc của các động từ - cái nhanh mạnh, dồn dập, khí
thế lấn lướt, áp đảo của dòng sông cuồng bạo
- Sức mạnh hoang dại của Sông Đà với những thác dữ được miêu tả đầy ám ảnh trong
những hình ảnh so sánh, ẩn dụ: “Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi
hổ.”; “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá.”
 Tốc độ kinh hoàng, sự giận dữ kinh người của sông nước được so sánh như hùm beo,
động từ “tế mạnh” và “hùng hục” đã nhấn mạnh cả tốc độ, cả sức nước như loài thú
hoang dã trong một cơn giận điên người.
- Sự hung bạo của Sông Đà ở những quãng ngày thậm chí còn vượt qua sức tưởng tượng,
sự lý giải của con người, nhà văn gọi đó là sức mạnh phi phàm của thần linh - “binh pháp
của thần sông thần đá”
 Với sự quan sát, miêu tả của Nguyễn tuân, thác và đá Sông Đà đã khiến dòng sông mang
một diện mạo khủng khiếp, tâm địa ác độc, hành động hoang dại, cuồng bạo, dữ dội, đi
qua Sông Đà quãng ấy là bước qua một trận hỗn chiến sinh tử, ác liệt giữa con người với
thiên nhiên.
 Tổng kết: Miêu tả Sông Đà hung bạo, hiểm trở ở khúc thượng nguồn, nhà văn của những
cảm giác mạnh truyền cho người đọc khao khát được tận mắt chiêm ngưỡng sự hùng vĩ,
dữ dội, hoang dại của thiên nhiên bằng niềm say mê, sự quan sát công phu, tinh tế, sức
liên tưởng mãnh liệt, những kiến thức phong phú, sự tài hoa hiếm có trong nghệ thuật sử
dụng ngôn từ. Nguyễn tuân đã tạo nên những trang văn thật hấp dẫn
2. Người lái đò sông đà
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

- Bối cảnh tình huống


 Miêu tả Sông Đà hung bạo khúc thượng nguồn, Nguyễn Tuân đã tạo dựng một phông nền
thiên nhiên vừa kỳ vĩ vừa dữ dội, xứng đáng với sự xuất hiện của người lái đò, người anh
hùng trên sông nước trong một cuộc chiến sinh tử.
 Tình huống: để khắc họa vẻ đẹp của người lái đò, Nguyễn Tuân đã miêu tả cuộc vượt
thác nguy hiểm trong đó nổi bật với sự tương phản giữa thiên nhiên ác hiểm hung bạo
dàn quân mai phục với trùng vi thạch trận, một bên là người lái đò Sông Đà, con thuyền
bé nhỏ, đơn độc.
 Nguyễn tuân luôn đặt nhân vật của mình trong những tình huống thử thách có tính chất
nghiệt ngã. Đó là ranh giới giữa sự sống và cái chết, là cuộc chiến quyết liệt, không
khoan nhượng để giành giật sự sống từ tay thiên nhiên về tay mình, một cuộc chiến
không chấp nhận bất kỳ sự sơ hở, chủ quan, sai lầm nào, bởi đây chính là nơi Sông Đà
hiện lên với diện mạo và tâm địa của một thứ kẻ thù số một trong cuộc chiến đấu gian lao
của người lái đò trên chiến trường Sông Đà. Cuộc vượt thác Sông Đà là một trận thủy
chiến.
 Cuộc vượt thác Sông Đà ( trận thủy chiến của người lái đò trên sông nước) diễn ra qua ba
vòng vây, mỗi vòng vây lại là một thử thách, những khó khăn đòi hỏi người lái đò không
chỉ có sức mạnh mà còn phải có kinh nghiệm, thậm chí sự điêu luyện tài hoa. Người lái
đò đã vượt thác thật ngoạn mục thể hiện rõ ba phẩm chất: trí - dũng - tài hoa:
 Trí: trí tuệ, kinh nghiệm dày dặn.
 Dũng: dũng cảm, nghị lực phi thường, bản lĩnh.
 Tài hoa: khéo léo, điêu luyện.
- Vòng vây thứ nhất:
 Bước vào vòng vây thứ nhất cũng là bước vào thạch trận vừa bày xong, sông Đà dàn
quân mai phục quyết bắt chết con thuyền. Đội quân đá nước đông đảo, hùng hậu, hung
hãn với diện mạo gớm ghiếc, tâm địa ác độc, hình tượng hoang dại, dữ dội. Người lái đò
như bước vào trận hỗn chiến vang trời tiếng hò reo của sóng nước, sự liều mạng của
nước, của đá với những món đòn hiểm độc nhất: cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp
chặt lấy hạ bộ người lái đò.
 Trước đội quân hùng hậu, đông đảo ấy, người lái đò với con thuyền sáu tay chèo trở nên
bé nhỏ, đơn độc, ông đò vật lộn với đội quân liều mạng trong trạng thái đau đớn tột cùng:
“mặt méo bệch đi” - cách sử dụng ngôn từ tài hoa làm hiện lên khuôn mặt biến dạng vì
đau đớn, nhợt nhạt vì dầm lâu trong nước lạnh.
 Sự đau đớn con đường gián tiếp miêu tả trong cảm nhận của thị giác: “Mặt sông trong
tích tắc loà sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu
sóng.” Đó chính là khoảnh khắc nỗi đau của thể xác như vượt qua ngưỡng chịu đựng của
con người - cảm nhận của thị giác biến thành ảo giác - “nổ đom đóm mắt”
- Chi tiết về thái độ và hành động:
 “ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái”, “vẫn nghe rõ tiếng chỉ
huy ngắn gọn tỉnh táo” ⇒ Người lái đò dũng cảm, ngoan cường, một người chỉ huy đội
đầy bản lĩnh trong tột cùng đau đớn về thể xác vẫn là một tâm trí tỉnh táo, sáng suốt. Ông
đò đã đưa con thuyền vượt qua cửa ải, phá xong trùng vi thạch trận vòng thứ nhất.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

- Không có một phút nghỉ ngơi, con thuyền ngay lập tức bước vào vòng vây thứ hai.
 Mỗi vòng vây chỉ có một cửa sinh duy nhất được bố trí ở những vị trí khác hẳn → vượt
thác Sông Đà chỉ cần một sơ hở, một sai lầm là đồng nghĩa với cái chết.
 Ở vòng vây thứ hai, sông Đà với “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông
đá.”. Một câu văn đặc biệt giàu tính tạo hình với cách nói ẩn dụ tài hoa thể hiện một sức
liên tưởng tưởng tượng phóng khoáng khiến người đọc sống trong cảm giác tột cùng sợ
hãi: thác nước Sông Đà tự như một loài mãnh thú trong cơn cuồng loạn với tốc độ ghê
người như muốn lao vào ăn tươi nuốt sống con thuyền. Sức mạnh dữ dội của thiên nhiên
như vượt quá sức tưởng tượng của con người → Nguyễn Tuân gọi đó là binh pháp của
thần sông thần đá - một sức mạnh phi phàm.
 Đối diện với một thiên nhiên hung bạo và hiểm ác đến mức ấy, chỉ sức mạnh thể chất của
con người là không đủ, tình huống ấy đòi hỏi một nghị lực phi thường và hơn hết là một
kinh nghiệm dày dặn, phẩm chất của trí tuệ: “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”.
 Ông đò đã bộc lộ sự hiểu biết, kinh nghiệm của người lái đò dày dặn, “ông nắm chắc binh
pháp của thần sông thần đá”, “ thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở”,
ông hiểu “Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ.”, trước đội quân
cuồng loạn, “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra
để mở đường tiến.”. Đoạn văn dày đặc các động từ đã miêu tả một cách sống động, hào
sảng hình ảnh người lái đò trong cuộc chiến trên sông nước. Ông đò như một dũng tướng
ngoan cường với chiến thuật hợp lý, ứng phó linh hoạt, hành động mạnh mẽ dứt khoát.
- Thử thách đặt ra ở vòng vây thứ ba: “ít cửa hơn”, “bên phải bên trái đều là luồng chết”,
“chỉ có một luồng sống”, “chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ”
 Đây chính là cửa ải cuối cùng trong trận chiến sinh tử, nơi cả thiên nhiên và con người
quyết dành sự sống từ tay mình
 Trong tình huống ấy, đầy mạnh mẽ và quyết đoán, người lái đò Sông Đà dày dặn kinh
nghiệm phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa. Câu văn ngắn, nhịp điệu nhanh như
diễn tả sự khẩn trương không một chút chần chừ, do dự.
 Sau khi đã chọc thủng đúng cửa sinh duy nhất, con thuyền “vút qua cổng đá cánh mở
cánh khép”, “ Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên
tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vào từ động lái được lượn được.”, Câu văn với
sự lặp lại của các động từ “vút”, các danh từ “cửa ngoài”, “cửa trong”, thủ pháp so sánh
“thuyền như một mũi tên tre” đã diễn tả đầy ấn tượng tốc độ phi thường của con thuyền.
Điều khiển con thuyền như vậy không chỉ đòi hỏi một sức khỏe phi thường, bản lĩnh kiên
cường, kinh nghiệm dày dặn mà còn là sự khéo léo, điêu luyện tài hoa. Ông đò không chỉ
là người chỉ huy tài ba trên sông nước mà còn là người nghệ sĩ tài hoa, “một tay lái ra
hoa” như sự ca ngợi của Nguyễn Tuân.
 Miêu tả cuộc chiến của người lái đò trên Sông Đà, Nguyễn tuân đã tạo nên những trang
viết vừa đầy kịch tính, vừa hào sảng, vừa cho người đọc cảm nhận tính chất ác liệt của
trận chiến, vừa lâng lâng sung sướng trong niềm vui chiến thắng.
 Cuộc vượt thác của người lái đò sông Đà được tái hiện sống động bằng sự giàu có tưởng
như bất tận của ngôn từ, bằng sự phóng khoáng độc đáo, bất ngờ trong những liên tưởng
tưởng tượng.
- Tiểu kết
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

 Với sự miêu tả người lái đò trên Sông Đà, bài tùy bút là thiên anh hùng ca ca ngợi vẻ đẹp
của con người trong cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên. Người lái đò không chỉ là
người lao động mà còn là người anh hùng, người nghệ sĩ tài hoa đã chiến thắng ngoạn
mục trước thiên nhiên hiểm dữ bằng sức mạnh, lòng can đảm, sự dày dặn kinh nghiệm và
sự điêu luyện tài hoa. ⇒ Nguyễn tuân đã phát hiện ra chất vàng mười đã qua thử lửa
trong tâm hồn những con người lao động bình dị của Tây Bắc.
 Khắc họa hình tượng người lái đò Sông Đà đã thể hiện sự vận động trong tư tưởng và
nghệ thuật của Nguyễn tuân. Thể hiện sự độc đáo trong phong cách nghệ thuật của nhà
văn tài hoa khám phá con người qua các phương diện tài hoa thẩm mỹ.
LUẬN ĐIỂM SƠ KẾT
 Nghệ thuật:
- Ngôn ngữ đa dạng không chỉ mô tả trực quan mà còn xúc giác, so sánh...
- Câu văn co duỗi nhịp nhàng, giàu giá trị tạo hình
- Nhịp điệu nhanh, khẩn cấp và căng thẳng như một trận chiến thực sự.
 Nội dung
- Qua hình tượng con sông Đà hung bạo, trữ tình và ông lái đò bình dị nhưng tài hoa, trí
dũng, nhà văn muốn ngợi ca vẻ đẹp của thiênnhiên và con người trên vùng Tây Bắc của
Tổ quốc.
- Thiên nhiên dữ dội, hoang dại:
- Người lái đò đã vượt thác thật ngoạn mục thể hiện rõ ba phẩm chất: trí - dũng - tài hoa:
 Trí: trí tuệ, kinh nghiệm dày dặn.
 Dũng: dũng cảm, nghị lực phi thường, bản lĩnh.
 Tài hoa: khéo léo, điêu luyện.
- Tùy bút “Người lái đò Sông Đà” là áng văn nhiệt tình ca ngợi non sông, đất nước và nhân
dân của một trái tim tràn đầyhứng khởi khi đứng giữa Tổ quốc mình nhưng không còn
thấy “thiếu quê hương”.
KẾT BÀI:
Nguyễn Đình Thi gọi Nguyễn Tuân là “người suốt đời đi tìm cái Đẹp, cái Thật”. Ông cũng tự
nhận mình là người “sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa”. Cuộc đời sáng tác của ông
là hành trình đi tìm cái đẹp nên trong con mắt của nhà văn mọi hình ảnh, mọi đối tượng từ thiên
nhiên đến con người đều được miêu tả sóng đôi cùng chuẩn mực của cái đẹp.

TÂY TIẾN
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài với hồn thơ hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Và nét son đẹp nhất, tác
phẩm tiêu biểu cho hồn thơ người nghệ sĩ ấy chính là Tây Tiến. Bài thơ là bức tranh vẽ lên từ những gam
màu nỗi nhớ, là bức tranh hiện thực dữ dội, bi tráng mà không mất đi vẻ lãng mạn nên thơ về thiên nhiên
Tây Bắc, là bức chân dung về người lính, đời lính trong những ngày chống Pháp đầu tiên. Tây Tiến còn là
lời hẹn ước đi lên giành độc lập của những chàng trai trẻ quyết ra đi vì đồng bào, xứ sở. 
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

I. Giới thiệu chung


-HCST: 1948 - Quang Dũng viết bài thơ khi ông đã xa đoàn quân Tây Tiến, đơn vị chiến đấu cũng
đã từng gắn bó trong những năm tháng gian khổ ác liệt. Đoàn quân Tây Tiến (1947) chiến đấu
trên một địa bàn rộng lớn hiểm trở hoang vu với điều kiện thiếu thốn mà ở đó, gian khổ hi sinh là
điều không tránh khỏi. Phần lớn trong số đó là thanh niên Hà Nội, bao gồm cả những người thuộc
tầng lớp trí thức - những con người rất trẻ, chiến đấu dũng cảm, sống lạc quan yêu đời, đặc biệt
vẫn giữ được cốt cách hào hoa của những người trai Hà thành.
- Ban đầu bài thơ có tên là “Nhớ Tây Tiến” nhưng sau đổi thành “Tây Tiến”. Bài thơ không cần nói
nhớ mà nỗi nhớ vẫn ngập tràn. Tây Tiến vang lên như một tiếng gọi thiêng liêng, như một biểu
tượng hào hùng đẹp đẽ về một đoàn quân, một vùng đất đã qua, năm tháng đau khổ mà anh dũng.
Tây Tiến được đánh giá là thi phẩm xuất sắc nhất của đời thơ Quang Dũng, là tác phẩm tiêu biểu
cho phong cách nghệ thuật của nhà thơ tài hoa, là một dấu ấn đặc biệt cho dòng thơ ca kháng
chiến chống Pháp một trong những thi phẩm hay nhất viết về người lính.
- Bút pháp lãng mạn trên cơ sở hiện thực, chất bi tráng đã tạo nên dấu ấn riêng cho tác phẩm.
II. Phân tích 
 Khổ thơ thứ nhất
a. Hai câu thơ đầu
- Hai câu đầu là một lời cảm thán tiếng gọi tha thiết lắng sâu mở ra cảm xúc chủ đạo của cả bài
thơ: Nhớ Tây Tiến
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
- Âm điệu của tiếng gọi: vừa da diết vừa ngân dài, vang vọng bởi sự hiệp vần - vần “ơi” ở hai câu
thơ. Tiếng gọi như âm vang không dứt lan xa trong không gian, vang vọng vào thời gian. Cách
ngắt nhịp 4/3 và điểm nhấn trong vũ điệu rơi vào hai chữ “xa rồi” khiến câu thơ còn là lời cảm
thán đầy tiếc nuối, sau hai chữ ấy như có một phút ngừng lại để nhận ra sự trống trải của thực tại.
Tiếng gọi, lời cảm thán đầy xúc cảm ấy hướng về Sông Mã, về Tây Tiến. Dòng sông ấy trở thành
biểu tượng của thiên nhiên miền Tây với tất cả sự hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội, dòng sông là chứng
nhân của những gì hy sinh, gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng mà đoàn quân Tây Tiến đã trải qua,
và dòng sông ấy đã từng cất lên khúc độc hành bi tráng tiễn đưa bao người lính về đất mẹ. Sự láy
lại của hai chữ “nhớ” trong cùng một câu thơ đã diễn tả nỗi nhớ da diết, ám ảnh trong lòng người.
Ở đây, trong nỗi nhớ da diết, ám ảnh của con người có cái bồi hồi trống vắng như đang sống giữa
cái mênh mang của hoài niệm. “chơi vơi” thật phù hợp để diễn tả nỗi nhớ hướng về một miền
không gian cao xa vời vợi. Hai câu thơ đầu đã mở ra mạch cảm xúc chủ đạo của cả bài thơ: nhớ
thiên nhiên miền Tây, nhớ đoàn quân Tây Tiến.
b. Hình ảnh thiên nhiên miền Tây
- Một ấn tượng không thể phai mờ của những người lính Tây Tiến lần đầu tiên đến với mảnh đất
này và khi xa nó trở thành nỗi nhớ là một thiên nhiên miền Tây hoang vu, hùng vĩ, hiểm trở
nhưng cũng có nét thi vị, trữ tình. Tất cả hiện ra qua cái nhìn lãng mạn của người lính Tây Tiến
qua nét vẽ tài hoa của nhà thơ Quang Dũng. Một mảnh đất miền Tây xa ngái, mờ ảo trong
sương khói. 
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
 Những địa danh Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch đưa người đọc đến với một vùng rừng núi
heo hút, hoang vu. Với rất nhiều người lính Tây Tiến, đây có lẽ cũng là lần đầu tiên nghe đến địa
danh này, đặt chân đến vùng đất này. Trong ấn tượng của những người lính trẻ ấy, đây cũng là
vùng đất, vùng rừng núi đầy sương khói. Cảm nhận ấy cũng được thể hiện qua những câu thơ, từ
ngữ đầy ấn tượng. Nhà thơ đã sử dụng động từ mạnh “lấp”- mạnh hơn về cường độ so với những
từ “che”, “phủ”, gợi sự dày đặc, khắc nghiệt của sương núi nơi lam sơn chướng khí. Sương không
chỉ trùm phủ làm khuất mờ cả núi rừng, sương như muốn vùi lấp cả đoàn quân mỏi mệt. Hai câu
thơ được đặt trong một nét tương phản, nếu câu trên tô đậm sự khắc nghiệt thì câu dưới lại là nét
thơ mộng, thi vị của cảnh vật, con người trong cái nhìn đầy lãng mạn. Cách nói nhân hóa ”hoa
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

về” đã khiến hình ảnh như được lạ hóa, đem đến nhiều cách hiểu thú vị, “hoa về” là hoa rừng thấp
thoáng trong sương đêm, là hình ảnh những người con gái miền sơn cước hay cũng chính là hình
ảnh của những người lính Tây Tiến trong những đêm hành quân. Cách nói lạ hóa kết hợp với
những thanh bằng làm đậm thêm sắc thái hư ảo, cảnh vật như bớt đi chút cụ thể, thông thường để
thêm nhiều thi vị, thơ mộng trong cái nhìn lãng mạn của những người lính trẻ. 
- Ấn tượng sống động về một thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội đến độ khác
thường được gợi ra qua từng hình ảnh, từng câu thơ:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
 Kết hợp với việc sử dụng từ láy “khúc khuỷu” - gợi những con đường gập ghềnh uốn khúc, những
con đường hành quân gắn liền với núi cao vực sâu hay “thăm thẳm” - gợi độ sâu của những dốc
núi, những vực thẳm, là sự lặp lại của từ “dốc” ở đầu mỗi nhịp thơ gợi cảm giác về sự trùng điệp,
dốc nối dốc, đường lên Tây Bắc như lên tận trời xanh. Sự hiểm trở của địa hình còn được gợi ra
qua sự phối hợp dày đặc của năm thanh trắc trong câu thơ bảy chữ. Thanh điệu không chỉ diễn tả
sự gập ghềnh của con đường mà còn gợi sự nhọc nhằn trong bước chân của người lính:
 Heo hút cồn mây súng ngửi trời
 Câu thơ tô đậm ấn tượng về độ cao và sự hoang vu của những đỉnh núi ngập trong mây trời. Từ
láy “heo hút” được đảo lên đầu câu gợi cái hoang vắng không một dấu chân người. Hình ảnh ẩn
dụ “cồn mây” gợi nhiều cách hiểu: là mây dựng thành cồn, thành núi trên bầu trời hay những núi
cao vời vợi ngập trong mây trời thành cồn mây, núi mây. Vế sau của câu thơ với cụm từ súng
ngửi trời tiếp tục tô đậm ấn tượng về độ cao. Giữa nơi núi cao, mây mù, heo hút, súng như chạm
tới trời xanh.
 Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
 Vẫn là những nét vẽ ký họa thô ráp, khỏe khoắn, nhịp thơ 4/3 khiến câu thơ như gãy gập làm đôi
kết hợp với thủ pháp lặp “ngàn thước” cùng phép đối “lên”- “xuống” gợi hình dung đầy ám ảnh
những con đường dốc đứng dựng ngược lên cao rồi vội xuống sâu thăm thẳm. 
 Nếu ba câu thơ trên từ hình ảnh, từ ngữ, thanh điệu đều khiến người đọc như sống trong cảm giác
đầy căng thẳng khi đối diện với sự hùng vĩ nhưng đầy hiểm trở của thiên nhiên thì câu thơ thứ tư
lại bất ngờ gợi ra cảm giác nhẹ nhàng phiêu du với toàn những thanh bằng:
 Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
 Câu thơ gợi cái xa rộng, nhạt nhòa, mênh mang của những ngôi nhà trong những bản làng thấp
thoáng bồng bềnh trong biển mưa. Câu thơ không chỉ gợi cảnh mà còn diễn tả thật tinh tế cảm
giác êm dịu, bình yên, tươi mát có chút bâng khuâng, xao xuyến trong tâm hồn người lính vừa
vượt qua những con đường hiểm trở dừng chân nơi dốc cao, nơi đỉnh đèo, phóng tầm mắt ra xa
nhìn thấy hình ảnh của những bản làng trong màn mưa, một cảm giác gần gũi và ấm áp.
- Thiên nhiên miền Tây cũng chính là chốn rừng thiêng hoang dã bí ẩn đầy dữ dội. Sự hoang dã,
bí ẩn, thâm u của núi rừng được gợi ra qua cảm nhận về thanh âm.
Chiều chiều oai linh thác gầm thét 
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
 Chính sự tĩnh mịch của rừng núi sâu thẳm lúc chiều buông đêm xuống càng làm cho tiếng thác
đổ, tiếng cọp gầm càng trở nên rùng rợn. Chất phương xa xứ lạ của miền biên giới đã được tô
đậm trong những câu thơ này. Cách phối thanh có "thác", "thét" mang thanh sắc ở câu trên gợi
âm thanh tiếng thác nước man dại nơi vòm cao thăm thẳm, và "hịch", "cọp" mang thanh nặng ở
câu dưới lại như mô phỏng bước chân nặng nề của thú dữ. Những âm thanh được miêu tả gắn liền
với những trạng từ chỉ thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm”, thời gian có tính chất miền viễn. Câu
thơ tô đậm sức mạnh dữ dội, bí ẩn ngàn đời của thiên nhiên giữa những cánh rừng đại ngàn
không một bóng người.
 Từ những ấn tượng, sự quan sát chân thực và sự thăng hoa của cảm hứng, bút pháp lãng
mạn, Quang Dũng đã viết lên những đoạn thơ thực sự là thi trung hữu họa, thi trung hữu
nhạc. Người đọc như được chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt mỹ của bức tranh họa bằng ngôn từ có
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

nét pháp thô ráp, khỏe khoắn, có điểm nhấn, có nét màu sắc huyền ảo. Tất cả đem đến ấn
tượng về một thiên nhiên hùng vĩ, hiểm trở, hoang sơ, dữ dội đầy bí ẩn nhưng cũng có những
nét thật thi vị, mơ mộng.
c. Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến
- Quang Dũng đã lấy ngoại cảnh dữ dội của thiên nhiên để tô đậm chí khí của đoàn quân Tây Tiến.
Trên những cung đường hành quân đó, gian nan tột độ mà can trường cũng tột bậc. Một phông
nền xứng đáng cho sự xuất hiện của một đoàn quân anh hùng. Không tô hồng hiện thực, nhớ về
Tây Tiến, Quang Dũng nhớ về những người đồng đội với bao gian khổ, hy sinh trên địa bàn đóng
quân và chiến đấu là những chốn rừng núi hiểm trở hoang vu.
Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi
- Sự mỏi mệt, nhọc nhằn của những người lính. Sương không chỉ che phủ mà còn như đang vùi lấp
đoàn quân nhọc nhằn, gian khổ:
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
- Những người lính đặt chân lên những dốc cao, vực thẳm, đỉnh núi vời vợi không một dấu chân
người. Những vất vả, hy sinh đã được nói chân thực và cảm động trong những câu thơ 
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
- Vẫn là những câu thơ giàu tính tạo hình gợi hình ảnh nhiều xót xa. “dãi dầu” là từ láy gợi sự nhọc
nhằn, vất vả triền miên của người lính trong sương núi mưa rừng. “Gục” là động từ diễn tả tư thế,
hành động gắn với trạng thái mỏi mệt, thậm chí kiệt sức của con người vì sự khắc nghiệt của
thiên nhiên, chiến trường.  Hai câu thơ tựa như một bức ký họa đầy ấn tượng về người lính. Có
thể hiểu đây là hình ảnh người lính phong trần buông mình vào giấc ngủ hiếm hoi trong phút
dừng chân, một giấc ngủ mệt nhọc, vô tư, trẻ trung. Cũng có thể hiểu đây là câu thơ miêu tả thực
tế đau xót trên chiến trường khi người lính kiệt sức, gục ngã, không thể bước tiếp cùng đồng đội.
Rõ ràng hiểu theo cách nào, câu thơ vẫn là sự ám ảnh về những gian khổ, hy sinh mà người lính
Tây Tiến đã trải qua. 
- Quang Dũng không né tránh hiện thực, không né tránh việc nói đến những gian khổ, hy sinh, mất
mát. Nhưng gian khổ mà không hề bi quan, hy sinh mà không hề nản chí sầu lòng. Ý thơ không
rơi vào bi lụy mà còn làm ngời lên tráng trí bởi cách nói của nhà thơ. Cái khí phách ngang tàng
được gợi lên từ cách nói tinh nghịch, trẻ trung, đậm chất lính: “súng gửi trời”. Câu thơ gợi hình
ảnh những người lính phong trần coi thường gian khổ. Sắc thái chủ động trong cách diễn đạt
“không bước nữa”, “bỏ quên đời” gợi khí phách ngang tàng kiêu dũng. Sự khắc nghiệt của hoàn
cảnh không thể bẻ gãy ý chí con người mà chỉ làm tôn lên sự mạnh mẽ, can trường. Hình tượng
thơ mang đậm chất bi tráng. Đó chính là vẻ đẹp hào hùng của những anh lính cụ Hồ đã từng được
Tố Hữu ngợi ca trong bài thơ "Trăng trối":
"Vui vẻ chết như như cày xong thửa ruộng.
Lòng khỏe nhẹ anh dân quê vui sướng
Nằm trên liếp cỏ ngủ ngon lành"
- Dù hình ảnh người lính suất hiện thấp thoáng trong khổ thơ này nhưng cũng đủ để cảm nhận về
sự hào hùng trong khí khách, lãng mạn tài hoa trong tâm hồn. Phải có cái lãng mạn trong tâm hồn
mới có thể cảm nhận giữa muôn vàn gian khổ khắc nghiệt những nét thi vị nên thơ:
Mường Lát hoa về trong đêm khơi
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
- Chất lãng mạn, đa cảm của những người lính trẻ đã biến cái bình dị của cuộc sống thành nỗi xúc
động ngọt ngào, thành nỗi nhớ da diết:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
- Hai chữ “mùa em” thật tình tứ, mùa em là mùa lúa, mùa nếp, là gắn với những con người người
con gái duyên dáng, đằm thắm nơi bản làng xa xôi đã trở thành thân thương.
 Đoạn thơ với sự kết hợp hài hòa cảm hứng lãng mạn và cảm hứng bi tráng, bút pháp lãng
mạn và bút pháp tả thực đã diễn tả một vùng đất hiểm trở, khắc nghiệt, vừa có những nét kỳ
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

vĩ, thi vị, gắn bó với những chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến vừa kiêu dũng,
vừa hào hoa.

2.  Khổ thơ thứ hai: nhớ những kỉ niệm ngọt ngào, vui tươi, nhớ về đẹp của thiên nhiên miền Tây
Bắc.
- Trước hết là kỷ niệm của những đêm lửa trại. Khung cảnh tươi vui rộn ràng có ánh sáng rực rỡ,
có điệu nhạc, có những vũ điệu của cô gái duyên dáng, tình tứ. Ngôn ngữ thơ ca không chỉ tái
hiện một khung cảnh rực rỡ, rộn ràng mà còn gợi những xúc cảm trong tâm hồn những người lính
trẻ.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
 “bừng lên” gợi ấn tượng về thứ ánh sáng đột ngột, chói lòa, xua đi tối tăm lạnh lẽo, một không
gian bập bùng với những ánh lửa, với những ngọn đuốc. “bừng lên” còn diễn tả niềm vui sướng
rạo rực trong lòng người, thể hiện trong ánh mắt, trên gương mặt như bừng sáng trong ánh lửa
bập bùng.
 Trong ánh đuốc hoa, hình ảnh những người con gái vùng sơn cước trong xiêm áo e ấp vừa gợi nét
duyên dáng, vừa thật quyến rũ, tình tứ. Những cụm từ “kìa em”, “tự bao giờ” khiến câu thơ tựa
như một tiếng reo vui ngỡ ngàng, rạo rực, đầy say đắm.
- Niềm vui, niềm say mê của những người lính trẻ còn được diễn tả tinh tế và tài hoa nhờ thanh
điệu của câu thơ:
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
 Câu thơ có tới sáu thanh bằng như diễn tả cảm giác mơ màng, bay bổng, phiêu du trong tiếng
khèn, trong vũ điệu uyển chuyển của các sơn nữ.
 Nỗi nhớ về những kỷ niệm tươi vui trong đời lính của Quang Dũng đã cho chúng ta hiểu thêm về
đoàn quân Tây Tiến. Trong gian khổ, hy sinh, mất mát, họ vẫn là những người lính trẻ với tâm
hồn lãng mạn, trẻ trung, yêu đời. Phải chăng đó cũng chính là sức mạnh giúp con người vượt lên
thực tại khắc nghiệt.
- Tiếp theo là nỗi nhớ chiều Châu Mộc.
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
 Đoạn thơ như một lời nhắn nhủ, gợi nhớ, gợi nhắc, nhắn tới người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
nhắc người có thấy, có nhớ thực chất chỉ là cái cớ để giãi bày, để gửi nhớ, gửi thương về một
vùng đất từng đi qua và gắn bó. Đại từ “ấy” trong câu thơ vừa gợi sắc thái nhớ thương, bâng
khuâng, vừa đem đến cho cảnh sắc màu của hoài niệm.
 Ngòi bút của Quang Dũng thực sự có thần khi chấm phá một vài nét mà gợi ra cả một bức tranh
thiên nhiên cảnh chiều Châu Mộc đẹp như trong cổ tích với những nét vẽ vừa mềm mại, đơn sơ,
lại có nét khỏe khoắn đầy ấn tượng. Đó là khung cảnh chiều sương nhạt nhòa với ngàn lau xám
trắng phơ phất bên bờ sông hoang dại. Hình ảnh gợi ra nét hoang vu vừa gợi cái man mát buồn
thương. Hai chữ “hồn lau” đã thổi hồn vào tạo vật trong cái nhìn hữu tình của nhà thơ.
 Bức tranh còn có những nét khỏe khoắn với hình ảnh dáng người trên độc mộc con người mạnh
mẽ, cứng cỏi trên những con thuyền trôi băng băng trên dòng nước lũ.
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?
 Cảnh vật như có sự kết hợp hài hòa giữa cái mạnh mẽ cứng cỏi với nét mềm mại, duyên dáng,
tình tứ. Ngay trên dòng nước lũ lại là một hình ảnh rất thơ: hoa đong đưa. Quang Dũng không
viết "đung đưa", mà dứt khoát phải là "đong đưa". Vì "đung đưa" chỉ gợi sự chuyển động cơ học,
còn "đong đưa" lại gợi bao nhiêu tình tứ. Dưới con mắt người nghệ sĩ đa tình, đến cả bông hoa
rừng bên dòng nước lũ cũng không hề vô tri, vô giác, ngược lại chúng còn biết làm duyên, làm
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

dáng, gợi cảm và đáng yêu. Cách dùng từ mới mẻ, tinh tế của Quang Dũng đã khiến câu thơ
không chỉ gợi hình mà còn gợi cảm, mang đến ấn tượng về cái hồn rất riêng của chiều sương
Châu Mộc. Thiên nhiên, tạo vật thật duyên dáng và tình tứ.
 Bút pháp lãng mạn đậm nét trong đoạn thơ đã khắc họa những kỷ niệm vui tươi và vẻ đẹp thơ
mộng của thiên nhiên miền Tây, những lời thơ vừa đầy nhớ nhung, đầy say mê tiếp tục đưa
người đọc đến với sự cảm nhận về tâm hồn lãng mạn, hào hoa của những người lính phong
trần.

3. Khổ thơ thứ ba: Nhớ hình ảnh người lính Tây Tiến và sự hy sinh bi tráng của họ. Đoạn thơ trở
thành bức tượng đài bất tử Khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng của lý tưởng, của
ý chí kiên cường, của sự hy sinh dũng cảm và nét hào hoa lãng mạn trong tâm hồn.
- Chân dung người lính Tây Tiến: hình ảnh những người lính hiện ra trong điều kiện sống và chiến
đấu gian khổ, khắc nghiệt. Quang Dũng đã có những nét vẽ chân thực đầy ấn tượng về hình ảnh
những “anh vệ trọc”. Người lính Tây Tiến hiện lên với ngoại hình có những nét thật khác thường.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
 Quân xanh màu lá dữ oai hùm
 Đó là hình ảnh những người lính với cái đầu trọc lốc và làn da xanh xao vì sốt rét, vì ốm đau
trong điều kiện cực kỳ thiếu thốn, kham khổ giữa vùng rừng núi rừng với khí hậu khắc nghiệt. Đó
là những nét vẽ đậm chất hiện thực, Quang Dũng không hề che giấu những sự gian khổ mà người
lính Tây Tiến đã từng trải qua. Đó là hiện thực của chiến tranh. Nói trên thực tế hiện thực nhưng
tinh thần lạc quan và cảm hứng lãng mạn vẫn nâng ý thơ không rơi vào sự bi lụy. Cách nói mạnh
mẽ, ngang tàng pha chút hóm hỉnh của nhà thơ đã làm giảm đi ấn tượng về cái ốm yếu, xanh xao,
tô đậm nét đẹp phi thường, ngời lên vẻ kiêu dũng của những người lính.
 Hai chữ “đoàn binh” kết hợp với sắc thái chủ động của cụm từ “không mọc tóc” khiến lời thơ thật
mạnh mẽ, diễn tả tâm thế chủ động vượt lên hoàn cảnh. Cụm từ “quân xanh màu lá” đã gợi ra
một sự hình dung thật đẹp đẽ và hào hùng. Hình ảnh đoàn quân với màu áo và lá ngụy trang như
hòa vào màu xanh của núi rừng. Câu thơ vì thế nói ốm mà không thấy yếu, không gây ấn tượng
nặng nề về cái xanh xao, tiều tụy. Hơn thế nữa, trên những gương mặt ấy vẫn toát lên nét dữ dội,
kiêu hùng. Cách nói ẩn dụ “dữ oai hùm” gợi nét dữ dội, uy nghi, lẫm liệt của những con người
lấy sức mạnh tinh thần để vượt lên hoàn cảnh. Nét vẽ đặc sắc của chủ nghĩa lãng mạn đã khắc họa
bức chân dung phi thường của người lính Tây Tiến trong hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh. 
- Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến không chỉ hiện ra ở nét dữ dội ngang tàng trong dáng vẻ mà còn
ở chiều sâu tâm hồn. Ý chí, khát vọng lớn lao, cao cả được gửi gắm qua hình ảnh:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
 “Mắt trừng” là ánh mắt mở to, hướng về phía trước, nung nấu sự quyết tâm mạnh mẽ. Câu thơ là
hình ảnh ước lệ khắc họa con người có lý tưởng, khát vọng lớn lao, ánh mắt dữ dội chứa đựng
khát khao chiến đấu b ảo vệ dải đất biên cương của tổ quốc: “gửi mộng qua biên giới”. Câu thơ
và hình ảnh thơ gợi lên liên tưởng tới hình ảnh của những tráng sĩ thời Trần công ngang ngọn
giáo trấn giữ non sông.
- Câu thơ trên là “mộng” thì câu thơ dưới là “mơ”:
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
 Câu thơ gợi nét riêng trong tâm hồn của những người lính Tây Tiến, chất lãng mạn, hào hoa của
những chàng trai trẻ ra đi từ mảnh đất Hà Thành. Mơ là mơ mộng, mơ là nhớ nhung trong những
ngày tháng chiến đấu gian khổ, những người lính vẫn mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm” - là dáng
hình, vẻ đẹp, hương sắc, vóc dáng yêu kiều của người con gái Hà Nội, cũng có thể hiểu là dáng
vóc của thủ đô, của quê hương, của mảnh đất mà những người lính từ đấy đã lên đường.
 Câu thơ cho chúng ta cảm nhận một góc khuất đa tình trong tâm hồn những người lính đầy lãng
mạn, mộng mơ. Những con người ra đi với một tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh nhưng
trong trái tim họ luôn có hình bóng của những gì thân thương và phải chăng chính nỗi nhớ ấy,
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

chính sự mộng mơ ấy đã nâng đỡ tâm hồn người lính, tạo cho họ sức mạnh để chiến đấu vì những
điều lớn lao, cao cả.
- Nhà phê bình Vũ Quần Phương đã từng nhận xét: hai câu thơ chứa đựng cả hai thế giới mộng và
mơ, nghĩa lớn và tình riêng, ý chí phi thường và trái tim mộng mơ. Đó chính là về đẹp tâm hồn
của những người lính Tây Tiến vừa hào hùng nhưng cũng rất đỗi hào hoa.
- Sự hy sinh bi tráng: Tây Tiến là một trong số ít những tác phẩm của thơ ca kháng chiến chống
Pháp thực trực tiếp nói đến sự tổn thất, hy sinh. Nhà thơ đã nhiều lần gợi nhắc đến cái chết.
Những hình ảnh 
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
gợi hình ảnh nấm mồ của những người lính Tây Tiến nằm rải rác trên những chặng đường hành
quân nơi biên cương xa xôi. Trong câu thơ có sự hiệp nghĩa tinh tế gợi sự xa xôi, chia lìa, thưa
thớt ở các từ rải rác, biên cương, viễn xứ. Chữ “mồ”- một từ thuần Việt trong câu thơ gợi hình
ảnh của ngôi mộ cô đơn với sự chôn cất sơ sài nằm hiu quạnh gợi niềm xót xa. Những người lính
ngã xuống
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Nằm lại dọc đường hành quân: xa đồng đội, thiếu hơi ấm quê hương, gia đình. Những câu thơ,
những hình ảnh nhắc đến sự hy sinh, đến cái chết không khỏi gợi cảm giác xót xa, bii thương.
Nhưng bi thương mà không hề bi lụy, cảm xúc bi tráng đã trở thành cảm xúc chủ đạo của bài thơ.
Từ trong cái bi của những mất mát đau thương, nhà thơ đã làm ngời lên cái tráng của tinh thần
dũng cảm, sự hy sinh cao cả vì lý tưởng.
 Đoạn thơ với những từ Hán Việt gợi sắc thái trang trọng, linh thiêng đồng thời tạo ra một tâm
thế ngưỡng mộ, tôn kính ở người đọc khi nghĩ về sự hy sinh của người lính Tây Tiến.
- Cách nói mạnh mẽ, ngang tàng đầy khí phách: 
Chiến trường đi chẳng tiếc trời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
đã làm giảm nhẹ sự đau thương, mất mát nặng nề của chiến tranh và tô đậm lý tưởng cao cả, khí
phách kiên cường của những con người sẵn sàng hiến dâng phần đời đẹp nhất - “đời xanh” - cho
tổ quốc. Những câu thơ còn gợi lên tâm thế thanh thản của người lính: người lính ngã xuống cũng
là trở về với Đất mẹ, nhẹ nhàng ra đi khi đã hoàn thành sứ mệnh cao cả vì tổ quốc
 Bút pháp mỹ lệ hóa của cảm hứng lãng mạn đã biến tấm áo sờn vai, biến manh chiếu đắp thân,
khâm liệm sơ sài của người lính thành tấm áo bào của người chiến sĩ nơi sa trường. Hình ảnh ấy
gợi lên hình ảnh hào hùng của những người tráng sĩ xả thân vì nghĩa lớn. Sự hy sinh cao cả và
thiêng liêng. Những câu thơ gợi nơi tìm hào hùng ngay cả khi nói về cái chết.
- Đoạn thơ khép lại bằng hình ảnh Sông Mã gầm lên như khúc độc hành. Đó là hình ảnh, là âm
thanh kỳ vĩ, tiếng gầm của dòng sông mã như một khúc độc hành bi tráng tiễn đưa người lính về
đất mẹ. Chữ “độc” thể hiện nỗi buồn của khúc độc hành tiễn đưa sự ra đi của người lính. Một chữ
“gầm” không chỉ gợi âm thanh vang dội mà còn đậm sắc thái nhân hóa. Đó là những âm thanh dữ
dội của dòng sông trong tột cùng đau đớn, tiếc thương, cảm phục. Đó là tiếng khóc lớn của non
sông đưa người lính vào trường cửu và nâng cái chết của họ lên tầm sử thi.
 Ngôn ngữ thơ vừa làm giảm nhẹ chất bi lụy vừa tạo nên không khí hào hùng trang nghiêm.
Quang Dũng đã nói về sự hy sinh của đồng đội bằng tất cả niềm xúc động chân thành và niềm
cảm phục sâu sắc. Cảm hứng lãng mạn và cảm hứng bi tráng đã khiến Tây Tiến nói chung và
đoạn thơ này nói riêng trở thành bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến. Tây Tiến trở thành
thi phẩm độc đáo trong dòng thơ ca kháng chiến chống Pháp.
4. Đoạn cuối: Lời nhắn nhủ, lời khẳng định: gắn bó với Tây Tiến. Khúc vĩ thanh đầy nhung nhớ.
- Sau những phút giây sống trong hoài niệm, tác giả đưa ta trở về với thực tại đầy xa cách:
Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
 Sự xa cách vô định của thời gian: ra đi không hẹn ngày trở về và không biết bao giờ có thể trở lại.
 Sự xa cách vời vợi, thăm thẳm, mịt mờ của không gian.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

 Khoảng cách của không gian và thời gian làm đậm thêm nỗi nhớ được gửi gắm trong những lời
nhắn nhủ thiết tha.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
 “ai” – đại từ phiếm chỉ đậm màu sắc thương mến – những người từng gắn bó với đoàn
quân Tây Tiến, những người đồng đội đã nằm lại nơi chiến trường và là chính nhà thơ
Quang Dũng, một người lính Tây Tiến.
“Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
 Câu thơ là lời nhắn nhủ, cũng là lời thề son sắt thủy chung – mãi mãi gắn bó với đoàn
quân ấy, mảnh đất ấy, những năm tháng không thể nào quên ấy.
Tham khảo:
Người đi không hẹn ước -> ra đi chiến đấu không ước hẹn ngày về, tinh thần hi sinh vì nước, xả thân vì
nước. (Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh)
- Lí do:
 Đường lên thăm thẳm một chia phôi: Mỗi bước chân hành quân đi lên, dốc đèo và những bản
làng mờ sương lùi lại phía sau. Hoàn cảnh chiến đấu rất khắc nghiệt, có bao nhiêu gian khổ, thiếu
thốn nên hành trình chiến đấu là những hi sinh tiếp nối, càng khó có hi vọng trở về.
 Do hoàn cảnh lịch sử quá ngặt nghèo, cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn đầu chẳng khác
nào lấy trứng chọi đá, đòi hỏi phải lấy tính mạng để đổi độc lập tự do. Bao thế hệ thanh niên cầm
súng ra chiến trường với tinh thần "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".
=> Ý thơ lột tả lí tưởng chiến đấu cao cả của anh bộ đội cụ Hồ, làm nổi bật phẩm chất yêu nước anh hùng
của họ.
- Do tinh thần bi tráng ấy mà mùa xuân thành lập đoàn quân trở thành một mốc lịch sử ghi nhận công lao
to lớn của những con người anh hùng bỏ mình vì nước. Những trái tim và linh hồn ấy còn ở lại với Sầm
Nưa, tan vào với núi sông nên sẽ bất tử với thời gian. Cách nói chẳng về xuôi thể hiện thái độ bất cần,
khinh bạc, thể hiện chất lãng tử kiêu hùng nên tinh thần hi sinh mang vẻ đẹp lãng mạn.
- Nghệ thuật dùng từ: không hẹn ước, chia phôi, hồn về kết hợp với giọng thơ nhẹ nhàng mềm mại nên
đoạn thơ nói về sự hi sinh lại thấm đượm chất lãng mạn. Đoạn thơ cũng như bài thơ nói về cái chết nhưng
không gieo vào lòng người đọc sự bi quan mà gợi tinh thần lạc quan, tin tưởng.
2. Tâm tư của nhà thơ
- Tây Tiến người đi không hẹn ước -> Người đi ở đây là tác giả. Tác giả đã ra đi không hẹn ngày về lại
đơn vị cũ. Trong khi đoàn binh hành quân càng về phía Tây càng xa cách, hi vọng ngày gặp lại càng
mong manh. Trong khoảng cách không gian dịu vợi, nỗi nhớ đồng đội của nhà thơ càng tỏa ra mênh
mông: Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
- Nỗi nhớ trào lên trong lòng da diết bởi lẽ có bao nhiêu kỉ niệm chiến đấu với đoàn quân kể từ mùa xuân
ấy, do đó người đi xa mà tâm hồn vẫn gần gũi. Nhà thơ ở nơi này mà tâm hồn đã gợi lại nơi Sầm Nưa trên
kia, vẫn gắn bó với đoàn quân. Sự phân thân ấy cho thấy tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của nhà thơ.
 Giọng điệu trữ tình góp phần làm nổi rõ tiếng nói tình cảm của nhà thơ.
 Đoạn thơ có hai giọng, giọng của đoàn binh được tác giả nói hộ và giọng của tác giả nên nội dung
đa nghĩa, tạo ra vẻ đẹp ngôn từ.

Có ai đó nói rằng: Lịch sử dân tộc không bao giờ lặp lại cái thời thơ mộng, lãng mạn, hào hùng như thế
trong một  hoàn cảnh khó khăn gian khổ, khốc liệt như vậy. Vì thế, sự tồn tại của bài thơ là cần thiết, sức
sống của hình tượng người lính Tây Tiến là không thể phủ nhận. Vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến
trong bài thơ giúp mỗi chúng ta hôm nay thêm hiểu và càng tự hào về dân tộc trong quá khứ. Điều đó ý
nghĩa hơn là giúp mỗi chúng ta nhận thức rõ trách nhiệm của bản thân trước hiện tại và tương lai đất
nước.
Thơ là tiếng nói của tâm hồn, tiếng hát của trái tim. Thơ là người, tình là gốc, thanh là hoa, nghĩa là quả.
Một bài thơ hay phải chứa đựng những ý thơ hay, những vần thơ đẹp mà người xưa gọi là "thần cú nhãn
tự" - (hồn câu mắt chữ", vang nhạc sáng hình, khiến người đọc nghĩ suy trăn trở.
=> Bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG ?


I. Giới thiệu chung:
1. Tác giả
- Gương mặt tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại 
- Có phong cách nghệ thuật độc đáo - sở trường về bút kí và tùy bút,\; sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến
thức phong phú từ nhiều lĩnh vực; lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm, tài hoa
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

- In trong tập ký cùng tên “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, được đánh giá là bài tùy bút xuất sắc nhất
của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Cả tình yêu, niềm say mê và sở trường của Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã kết tinh trong tác phẩm này.
b. Cảm hứng sáng tác
- Tâm hồn thấm đẫm chất Huế. Ông gắn bó với Huế bằng tất cả máu thịt của mình và bài tùy bút là
một minh chứng
- Mỗi một nhà văn có một phong cách nghệ thuật nổi bật đều có một “vùng thẩm mỹ”, Huế và sông
Hương chính là “vùng thẩm mỹ” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, là “quê hương văn học đích thực”
của ông - nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh.
- Bài tùy bút lấy cảm hứng mãnh liệt từ dòng sông Hương thơ mộng của Huế. Ông viết về đối
tượng này bằng một trái tim, một vốn liếng ngôn từ vừa giàu có vừa đạt đến độ tinh luyện, một
kho tri thức phong phú,... tạo nên những trang viết vừa đẹp, vừa sang, vừa lấp lánh trí tuệ, vừa
chan chứa ân tình.
II. Phân tích:
1. Hình tượng dòng sông Hương
- Dòng sông Hương là hình tượng trung tâm của bài ký. Vẻ đẹp của dòng sông được soi chiếu ở
nhiều góc độ: địa lý, lịch sử, văn hóa. Giá trị của bài ký là đem đến những phát hiện phong phú,
độc đáo, tinh tế về vẻ đẹp nhiều mặt của dòng sông Hương. Đó chính là vẻ đẹp của cảnh sắc thiên
nhiên thơ mộng, là sự bi hùng với những thăng trầm của lịch sử, là chiều sâu, sự phong phú về
văn hóa -> biểu tượng đáng tự hào cho vẻ đẹp của mảnh đất cố đô.
 Trong cảm quan thẩm mỹ của Hoàng Phủ Ngọc Tường - một nhà văn hướng nội, dòng sông
Hương chính là cô gái Huế với tâm hồn thấm đẫm chất Huế. Sông Hương cũng là hiện thân, hiện
tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Huế.
a. Sông Hương từ góc nhìn địa lý
- Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện một sự công phu trong sự khám phá về đối tượng thẩm mỹ
đặc biệt của mình. Dòng sông được quan sát và miêu tả với cả một thủy trình từ thượng nguồn
nơi những cánh rừng Trường Sơn chảy qua vùng đồng bằng Châu Hóa rồi gặp gỡ thành phố Huế
và cuối cùng từ biệt Huế để đổ về biển cả.
- Khám phá thủy trình ấy của sông Hương, người đọc được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của cảnh sắc
thiên nhiên, gắn liền với dòng sông và những vùng đất mà nó đã đi qua
 Trong sự cảm nhận và liên tưởng của Hoàng Phủ Ngọc Tường, thủy trình của sông Hương
hiện ra như một hành trình tìm kiếm tình yêu. Trong cái nhìn của nhà văn lãng mạn, hào hoa,
sông Hương như một người con gái với tâm hồn phong phú, trải qua bao thăng trầm, gian
truân, dòng sông ấy đã bộc lộ vẻ đẹp vừa cá tính, trí tuệ, vừa dịu dàng, duyên dáng. Sông
Hương tìm về với Huế cũng là hành trình đi theo tiếng gọi của tình yêu, sông Hương đã làm
đẹp cho thành phố tình yêu của mình và cũng tự hoàn thành mình để xứng đáng với người
mình yêu.
 Sông Hương ở thượng nguồn
- Đoạn văn được mở đầu bằng một nhận xét mang đậm tính chủ quan “Trong những dòng sông đẹp
ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy
nhất”, câu văn thể hiện niềm tự hào, kiêu hãnh khi nhắc đến sông Hương - “một trong những
dòng sông đẹp” nhưng tự hào hơn khi sông Hương chỉ thuộc về một thành phố duy nhất. Huế là
tình yêu duy nhất, là tình yêu muôn thuở của sông Hương. Nhận xét này của Hoàng Phủ Ngọc
Tường cũng mở ra cách tiếp cận, khám phá độc đáo của nhà văn: vẻ đẹp của sông Hương ở chiều
sâu tâm hồn, ở sự thủy chung gắn bó đặc biệt giữa Huế và sông Hương
- Hoàng Phủ Ngọc Tường không bằng lòng với việc nhìn ngắm sông Hương với khuôn mặt kinh
thành, êm đềm và cổ kính. Nhà văn tìm về cội nguồn của dòng sông, khám phá vẻ đẹp bí ẩn, sức
mạnh tiềm tàng, phần tâm hồn sâu thẳm của nó trước khi về với Huế. Đó vừa là sự công phu của
một cây bút chuyên về ký nhưng cũng là khao khát khám phá xuất phát từ một tình yêu đặc biệt
với dòng sông quê hương
 Sông Hương khi chảy giữa lòng Trường Sơn:
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

 “Sông Hương là bản trường ca của rừng già”. Dòng sông hiện ra với cả chiều dài, độ rộng
và tốc độ của một dòng chảy mãnh liệt giữa không gian hùng vĩ của đại ngàn Trường Sơn
 Câu văn với những định ngữ giàu hình ảnh, với những động từ, tính từ miêu tả những
trạng thái đối lập “rầm rộ”, “mãnh liệt”, “cuộn xoáy” >< “dịu dàng”, “say đắm” đã miêu
tả những sắc thái phong phú, đa dạng của dòng sông. Dòng sông như mang theo cả vẻ
đẹp và sức mạnh của đại ngàn. Đó là cái “mãnh liệt” khi đi qua ghềnh thác, là “cuộn
xoáy” dữ dội như cơn lốc dưới đáy vực, là vẻ đẹp rực rỡ, kiêu sa, đầy vẻ bí ẩn gợi nhiều
say mê của “dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”
 Dòng sông được miêu tả trong một câu văn dài nhiều vế gợi sự hình dung, liên tưởng về
bản hợp âm của rừng già với nhiều âm thanh, nhiều cung bậc sắc thái
 Sự cảm nhận và liên tưởng trong niềm say mê đã đưa nhà văn đến với một sự hình dung
mang đậm màu sắc nhân hóa. Sông Hương như “một cô gái Di-gan phóng khoáng và
man dại”, với “một tâm hồn tự do và trong sáng”. Hình ảnh so sánh mang đậm màu sắc
nhân hóa đã tô đậm sức sống mãnh liệt, trẻ trung và vẻ đẹp hoang dại của dòng sông làm
say đắm lòng người. Đây là một sự phát hiện mới mẻ, thú vị của Hoàng Phủ Ngọc Tường
so với những gì chúng ta thường hình dung về sông Hương.
 Khi ra khỏi rừng:
 Có sự biến đổi đột ngột và nhanh chóng của dòng sông từ một cô gái Di-gan hoang dại
trở thành “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”
 Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lý giải không phải bằng những kiến thức đơn thuần về địa lý
mà còn bằng những suy tư thấm đẫm chất nhân văn. Sông Hương như người con gái
mang bản tính tự do, phóng túng đã chế ngự bản năng của mình để mang một “sắc đẹp
dịu dàng và trí tuệ” trước khi về với Huế. Đó là sự dịu dàng qua bao thác ghềnh, cuộc
xoáy, là trí tuệ sau biết bao trải nghiệm. Sông Hương đã giấu kín nửa đời oanh liệt, giấu
kín những gian truân, sóng gió, đã đóng kín phần tâm hồn sâu thẳm để chỉ còn lại những
đằm lắng, yêu thương bồi đắp cho đồng bằng xứ sở.
 Nhà văn không chỉ quan sát dòng sông từ những biểu hiện bên ngoài mà thực sự đã trở
thành tri kỉ của dòng sông, đã hiểu ngọn ngành, khí chất, hiểu phần tâm hồn sâu thẳm đầy
bí ẩn mà dòng sông không muốn bộc lộ, hiểu cả quá khử nửa đời đã vĩnh viễn ở lại giữa
những cánh rừng Trường Sơn. Sông Hương được miêu tả từ sự yêu thương và thấu hiểu ấy
đã hiện lên với những vẻ đẹp thật phong phú và đầy bất ngờ.
- Với những hình ảnh phong phú, mới mẻ, với một sự giàu có và tinh tế về ngôn từ, nhà văn đã
miêu tả sông Hương ở khúc thượng nguồn với vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, đầy cá tính từ
đó bộc lộ sự quan sát tinh tế những suy nghĩ, cảm nhận lãng mạn và thấm đẫm chất nhân văn.
 Sông Hương chảy về đồng bằng châu thổ
- Hình ảnh sông Hương giữa đồng bằng châu thổ đã được miêu tả trong một câu văn đậm chất thơ
“Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đời mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ
màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại.” Dòng sông và những cánh đồng Châu Hóa đầy hoa
dại đã tạo nên một không gian đẹp như một miền cổ tích khiến người ta như mơ màng giữa thực
và hư.
- Nếu sông Hương được hình dung như một người con gái đẹp thì cô gái ấy đã được đánh thức bởi
những khao khát, bởi tiếng gọi của tình yêu. Dòng sông - cô gái ấy đã làm một hành trình tìm
kiếm người tình trong mong đợi:
 Sông Hương chuyển dòng liên tục, uốn mình theo những đường cong thật mềm “từ ngã
ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó
chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biểu, Lương Quán rồi đột
ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về
Huế”. Hành trình của sông Hương được miêu tả bằng những câu văn thật dài với những
danh từ chỉ hướng và rất nhiều những địa danh nổi tiếng của Huế => Tất cả đã gợi một vẻ
đẹp mềm mại, uốn lượn của dòng sông qua rất nhiều những vùng địa hình khác nhau.
Đồng thời câu văn cũng như diễn tả sự linh hoạt đầy khao khát sau một giấc ngủ dài,
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

sông Hương chủ động, quyết tâm trong một cuộc tìm kiếm có ý thức. Dòng sông đã vượt
qua tất cả những xa xôi, cách trở của không gian để tìm về với Huế.
 Trên hành trình dài, vẻ đẹp của sông Hương biến ảo vô cùng, khi là “sắc nước xanh
thẳm” mang theo cả sức mạnh và vẻ đẹp bí ẩn khi dòng sông vượt qua lòng vực sâu giữa
chân núi Ngọc Trản. Khi đi qua những dãy đồi sừng sững như thành quách với những
điểm cao đột ngột như vọng cảnh, Tam Thai, dòng sông mềm như tấm lụa tạo nên một
nét tương phản thật diệu kỳ. Dòng sông là tấm gương phản quang những sắc màu trên
nền trời tây nam thành phố “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Sông Hương như thấm vào
mình vẻ đẹp u tịch của những dòng sông, nét kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ.
Trong cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đó là vẻ đẹp trầm mặc mặc nhất của sông
Hương bởi có lẽ chính nơi này dòng sông vừa gợi nhớ, sự vang bóng của những vương
triều, sự thâm trầm lắng đọng của những triết lý hưng sinh, nét hưng phế của lịch sử sông
Hương, vừa hài hòa, vừa là sự hắt bóng kỳ diệu vẻ đẹp của quần thể thiên nhiên mơ
mộng và những lăng tẩm, đền đài cổ kính của xứ Huế. Trên hành trình ấy, sông Hương
đã thu nhận vào mình vẻ đẹp của xứ sở đồng thời cũng là sự hoàn thiện mình trước khi
gặp người tình trong mong đợi.
- Sông Hương qua cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường như một cô gái mơ mộng đang khao khát
đi tìm người tình trong mộng. Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên thật gợi cảm qua những so sánh,
nhân hóa, với những hình ảnh đậm chất thơ, nhà văn đã khắc họa vẻ đẹp thơ mộng, lung linh,
huyền ảo vừa trầm mặc cổ kính của sông Hương qua những câu văn thật sang và thật đẹp.
 Sông Hương chảy trong lòng thành phố Huế (Cuộc gặp gỡ giữa Huế và sông Hương)
- Chuẩn bị gặp gỡ: Sông Hương chảy giữa biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long
 “vui tươi hẳn lên”, “kéo một nét thẳng thực yên tâm” vẻ đẹp của dòng sông quãng này
êm đềm, xuôi thẳng dòng về Huế. Dòng sông tươi mát giữa những mướt mát sắc màu của
cây lá vùng ngoại ô.
 Không chỉ cảm nhận dòng sông ở dáng chảy, ở sắc màu, trong cái nhìn của nhà văn hướng nội,
dòng sông mang trạng thái thanh thản, bình tâm, sự tươi vui phấn chấn bởi sau một hành trình
dài, sông Hương đã nhìn thấy tín hiệu của tình yêu, của người tình trong mong đợi. Chiếc cầu
trắng ngần của thành phố in trên nền trời  nhỏ nhắn như những vành trăng non như chờ đợi, như
vẫy gọi dòng sông.
- Giây phút gặp mặt: giáp mặt ở Cồn Hến
 “uốn một cánh cung rất nhẹ”, “dòng sông mềm hẳn đi”: sự mềm mại ấy của dòng sông lại
được cảm nhận trong một sự liên tưởng thật độc đáo, lãng mạn “như một tiếng vâng
không nói ra của tình yêu”. Sự so sánh của Hoàng Phủ Ngọc Tường khiến sông Hương
hiện ra trong dáng vẻ của người con gái duyên dáng, dịu dàng, e ấp trong cái ngại ngùng
kín đáo, lại ẩn chứa niềm hạnh phúc đắm say, những rung động nghẹn ngào. Nhà văn đã
dùng ngôn ngữ của tình yêu để tả cảnh nhưng đây phải là ngôn ngữ tình yêu của người
con gái Huế mới có cái dịu dàng, e lệ như thế và sự so sánh như thế cũng thật tinh tế, tài
hoa. Sự so sánh ấy có lẽ chỉ có thể có trong những trang văn của một nhà văn đa tình, hào
hoa từ trong cốt tủy, đồng thời cũng là con người với tâm hồn thấm đẫm chất Huế.
 “Sông Hương nằm trong lòng thành phố yêu quý”: Câu văn không chỉ miêu tả trong những
quan sát về vị trí địa lý mà còn như ẩn chứa cả một niềm hạnh phúc êm đềm của dòng sông. Cô
gái sau một hành trình dài đầy gian truân được ôm trọn trong vòng tay của người tình bao mong
đời.
- Đô thị cổ - trải dọc; Nhánh sông đào - mang nước sông tỏa đi khắp các phố thị. Sự miêu tả sóng
đôi hình ảnh “đô thị cổ trải dọc đôi bờ sông Hương” và “những nhánh sông Hương đem nước tỏa
đi khắp phố thị” gợi cảm nhận về sự gắn bó, quấn quít, yêu thương và dâng hiến. Sông Hương chỉ
thuộc về một thành phố duy nhất và sông Hương dành tất cả yêu thương cho thành phố tình yêu
của nó.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

- Khắc hẳn với sông Hương khi nó là “một bản trường ca của rừng già” với những cuộn xoáy qua
thác ghềnh, sông Hương chảy trong lòng Huế chậm, thực chậm như một mặt hồ yên tĩnh. Đó
chính là vẻ êm đềm, dịu dàng, thơ mộng mà người ta vẫn cảm nhận về dòng sông
 Hoàng Phủ Ngọc Tường khi miêu tả một vẻ đẹp đã trở thành đặc trưng của sông Hương,
trở thành niềm thương và nỗi nhớ cho tất cả những ai đến với mảnh đất cố đô này lại có
một sự lý giải thật trữ tình và sâu sắc. Điệu chảy lặng lờ của sông Hương đã được cảm
nhận là điệu slow tình cảm, là điệu nhạc trữ tình, êm đềm, thắm thiết mà sông Hương chỉ
dành riêng cho một mình Huế. Cái điệu chảy chậm thực chậm của sông Hương chính là
sự vương vấn, lưu luyến không muốn rời xa, muốn gắn bó mãi mãi với mảnh đất này
- Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh sông Hương với những dòng sông khác để thấy được nét đẹp,
sự dịu dàng, duyên dáng rất duyên của sông Hương. Nhà văn còn kể những câu chuyện tưởng
như tản mạn và những dòng sông, về những cảm xúc của con người khi đứng trước những dòng
sông ấy. Những điều tưởng như tản mạn ấy hóa ra lại để gửi gắm những suy tư, sâu sắc, vẻ đẹp
của sông Hương không phải là thứ người ta có thể cảm hết nếu chỉ quan sát hời hợt bề ngoài,
càng qua những trải nghiệm thăng trầm càng thấm thía sự biến thiên của cuộc đời như Hê-ra-clit
đã từng khóc vì dòng sông trôi quá nhanh lại càng trân quý hơn điệu chảy, vẻ đẹp tâm hồn sâu
lắng, sự gắn bó và lòng thủy chung của sông Hương dành cho Huế. Cái nhìn chứa đầy xúc cảm và
suy tư của nhà văn đã đem đến cho dòng sông vẻ đẹp ở chiều sâu trữ tình sâu lắng.
 Tiểu kết:
 Qua sự miêu tả, so sánh đậm màu sắc nhân hóa, đậm chất trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc
Tường, sông Hương hiện lên như một người con gái si tình, say đắm trong tình yêu
 Hình ảnh sông Hương và Huế chính là hình ảnh của một cặp tình nhân hào hoa và đam
mê. Sông Hương và Huế hòa làm một trong một tình yêu muôn thuở, vẻ đẹp dịu dàng của
sông Hương làm nên vẻ đẹp mộng mơ của Huế, nét cổ tích của Huế tạo nên vẻ trầm mặc,
trầm tư, sâu lắng của sông Hương
 Sự gắn bó giữa Huế và sông Hương đã tạo nên vẻ đẹp mà không một thành phố hiện đại
nào có được, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết về dòng sông ấy, mảnh đất ấy, thành phố ấy
bằng cả niềm say mê và tự hào.
 Sông Hương tạm biệt Huế
- “Ôm lấy đảo Cồn Hến”, “lưu luyến ra đi”, “sực nhớ điều gì”, “đổi dòng rẽ sang hướng đông tây
để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”: cuộc chia tay giữa Huế và sông
Hương được miêu tả bằng những từ ngữ đậm sắc thái nhân hóa, có cử chỉ yêu thương “ôm lấy
đảo Cồn Hến”, có sự bịn rịn, lưu luyến ra đi và đặc biệt sự đổi dòng rẽ ngoặt của sông Hương thật
khó lý giải về phương diện tự nhiên, địa lý nhưng lại thật cảm động về phương diện tâm hồn, tình
cảm. Hoàng Phủ Ngọc Tường gọi đó là “cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây”.
Nhà văn đã không lý giải sự trở lại đột ngột của sông Hương bằng những kiến thức về kiến tạo
địa lý mà bằng sự thấu hiểu nỗi lòng của một cặp tình nhân trong một cuộc chia ly. Sự trở lại của
sông Hương giống như sự chí tình trở lại tìm gặp người tình để nói một lời thề trước khi về biển
cả. Đó chính là hình ảnh của nàng Kiều với tất cả nỗi vấn vương trong đêm tình tự. Đó cũng
chính là tấm lòng của nhân dân Châu Hóa, cung tình với quê hương xứ sở.
 Như thế, từ khi được đánh thức bằng khát vọng của tình yêu, trải qua một hành trình dài gặp gỡ
với Huế cho đến lúc chia tay vẫn là một sông Hương trọn tình với Huế.
 Tiểu kết
- Hành trình của sông Hương từ thượng nguồn ra đến biển đã được quan sát, miêu tả công phu với
những sự khám phá vừa bất ngờ vừa thú vị, thấm đậm chất trữ tình. Trên hành trình ấy, sông
Hương không chỉ hiện ra với vẻ đẹp của cánh sắc thiên nhiên, của một vùng đất trù phú, xanh
tươi, ngời ngợi sức sống, vẻ đẹp của những đô thị cổ, của những lăng tẩm đền đài trầm mặc, cổ
kính. Hành trình của sông Hương được hình dung là hành trình của tình yêu, bộc lộ vẻ đẹp tâm
hồn con người Huế vừa mãnh liệt, lắng sâu, vừa trữ tình thiết tha, vừa đầy bản lĩnh trí tuệ.
- Bài kí là bài thơ văn xuôi về người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Bài thơ được viết lên
bởi ngòi bút tài hoa, bởi tình yêu say đắm, bởi sự gắn bó và niềm tự hào đối với quê hương xứ sở.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

b. Sông Hương từ góc nhìn văn hóa


Bài kí là những khám phá thú vị về sự gắn bó giữa sông Hương và mảnh đất cố đô. Sông Hương là biểu
tượng đáng tự hào của nền văn hóa xứ Huế. Những khám phá của Hoàng Phủ Ngọc Tường về sông
Hương từ góc nhìn địa lý => con người uyên bác, tinh tế, sự mẫn cảm đặc biệt trước cái đẹp nhất là những
cái đẹp thuộc về giá trị văn hóa.
 Dòng sông âm nhạc
- Nhận định “sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”: đây là một nhận
định mang tính chủ quan nhưng tinh tế, cảm xúc của một người yêu, say và am hiểu về âm nhạc
Huế. Nhiều người đến Huế và nghe nhạc Huế nhưng không phải ai cũng hiểu phải nghe nhạc Huế
vào đêm khuya trên sông Hương mới cảm nhận hết linh hồn của nó, mới rung động đến tận tâm
can cái da diết lắng sâu của những câu ca, bản đàn.
- Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển của Huế được sinh ra từ mặt nước của dòng sông này. Câu văn vừa
trữ tình, vừa xúc tích hàm chứa những hiểu biết sâu sắc, những cảm nhận tinh tế về âm nhạc Huế,
về mối liên hệ giữa sông Hương và sự ra đời của những câu ca, điệu hò, những bản đàn đậm chất
Huế. Sông Hương là không gian nghệ thuật, sông Hương là môi trường diễn xướng, sông Hương
là cảm hứng của âm nhạc Huế. Có lẽ vào những đêm khuya trong không gian tĩnh vắng của dòng
sông có thể nghe thấy những tiếng động rất khẽ của nhịp chiều, “của những tiếng nước rơi bán
âm”. Người nghệ sĩ đã đầy cảm hứng mà soạn những bản đàn cổ điển cao nhã, hay những điệu
hò, mái nhì, mái đẩy ngọt ngào da diết.
- Một phát hiện nữa thật thú vị âm điệu của sông Hương còn ảnh hưởng và thấm trong những bản
đàn đi suốt đời Kiều. Nhà văn đã tưởng tượng 200 năm trước, Nguyễn Du từng lênh đênh trên
sông Hương với “một phiến trăng sầu”. Câu văn gợi hình ảnh người nghệ sĩ ôm nỗi cô đơn thấm
thía cảm sâu đến tận đáy lòng, những nỗi sầu của thế nhân, của tài tử đa cung mà viết nên những
vần thơ về những cung đàn bạc mệnh trong truyện Kiều.
- Ông dẫn câu chuyện người nghệ nhân già chơi đàn hết nửa thế kỉ ngồi nghe con gái đọc Kiều mà
nhận ra âm hưởng của nhạc Huế trong những trang thơ của Nguyễn Du.
- Những liên tưởng và những câu chuyện kể có phần phóng túng của nhà văn vừa đem đến sự thú
vị, hấp dẫn cho những trang viết vừa gợi những suy cảm sâu sắc. Chính dòng sông Hương đã
khiến tâm hồn người nghệ sĩ thăng hoa và trở thành nơi gặp gỡ của những người tri âm. Đó là sự
gặp gỡ của con người kim cổ trong mối đồng cảm trước cái đẹp trong những nỗi niềm nhân thế
sâu lắng trên dòng Hương giang
- Sông Hương có một sự gắn bó đặc biệt với âm nhạc Huế và tâm hồn Huế
 Dòng sông thi ca
- Đoạn văn mở đầu bằng một nhận định chứa chan niềm tự hào “Có một dòng thi ca về sông
Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không
bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Sông Hương là nơi khơi nguồn cảm
hứng, là đối tượng thẩm mĩ của thơ ca. Vẻ đẹp của sông Hương phong phú, biến hóa đa dạng,
mỗi một nhà thơ lại có những khám phá khác nhau về những sắc thái, dáng vẻ của dòng sông.
Nhà văn đã đưa ra những minh chứng đầy sức thuyết phục của một con người am hiểu và có
những cảm nhận tinh tế về thơ ca.
- Sông Hương hiện lên với vẻ đẹp tươi sáng trong thơ Tản Đà “dòng sông trắng, lá cây xanh”. Từ
mơ màng, thướt tha, sông Hương đột nhiên hùng tráng như “kiếm dựng trời xanh” với khí phách
ngang tàng trong thơ Cao Bá Quát. Sông Hương là nỗi quan hoài vạn cổ, bảng lảng bóng chiều
trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, là sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu
 Dòng sông gắn với những phong tục tập quán của người dân xứ Huế
- Phải quan sát tinh tế lắm nhà văn mới có thể nhận ra một sự tương đồng thật thú vị, màu sương
khói trên sông Hương gợi sắc áo cưới, màu điều lục của Huế ngày xưa, rất xưa mà các cô dâu trẻ
vẫn mặc sau tết sương giáng. Đó là sự kết hợp giữa những “vân thưa màu xanh chàm, lồng lên
một màu đỏ ở bên trong tạo thành một màu tím ẩn hiện”, đó cùng là sắc màu huyền ảo trên sông
Hương, là vẻ đẹp trầm mặc lắng sâu – một nét rất riêng của Huế - đẹp dịu dàng pha lẫn trầm tư.
Trong sắc ấy có lẽ chính là hình ảnh đẹp nhất và duyên nhất của người con gái Huế.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

c. Sông Hương từ góc nhìn lịch sử


- Sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Sông
Hương từng được ví như một bài thơ trữ tình, là điệu hò da diết trong cảm nhận của nhiều người.
Trong cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương là một thiên sử thi. Đây là một sự phát
hiện bất ngờ, sâu sắc của nhà văn
- Nhà văn đã minh chứng cho nhận định của mình bằng sự công phu tìm hiểu về lịch sử dân tộc và
mảnh đất cố đô để từ đó nhận ra dòng sông thực sự là nhân chứng cho những thăng trầm của quê
hương xứ sở và chính nó đã góp phần viết nên những trang sử bi hùng
 Tìm đọc trong “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi - cuốn sách được coi là cổ xưa nhất và kết
hợp với những tài liệu khảo cổ học về thành cổ Hóa Châu, nhà văn đã nhận ra sông
Hương chính là dòng Linh Giang, dòng sông biên thùy, dòng sông viễn châu đã chiến
đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới Tây Nam trên hành trình mang gươm đi mở cõi của cha
ông.
 Thế kỉ XVIII, sông Hương vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng
Nguyễn Huệ. Nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi
nghĩa.
 Sông Hương đã đi vào thời đại CMT8 bằng những chiến công rung chuyển (Chiến dịch
Mậu Thân 1968, Tổng tiến công mùa xuân 1975)
- Qua sự chia sẻ những thông tin, kiến thức của một nhà văn với sự am hiểu sâu sắc về lịch sử,
sông Hương hiện lên thực sự là một dòng sông anh hùng, sông Hương cũng là dòng sông cùng
với Huế chịu nhiều đau thương, mất mát
- Trong suy tư của Hoàng Phủ Ngọc Tường - một nhà văn hóa, mất mát lớn nhất chính là các di sản
văn hóa bị tàn phá và Huế đã nhận được lời chia buồn sâu sắc nhất của thế giới về những đau
thương, mất mát ấy. Tác giả đã so sánh khi thành Nội Huế bị phá hủy nó giống như sự mất mát
xảy ra với nền văn minh Châu Âu khi các công trình của Hy Lạp La Mã cổ đại bị phá hủy. Trong
sự so sánh ấy, người ta nhận thấy những xúc cảm đau buồn, tiếc nuối trước những di sản đáng tự
hào bị tàn phá. Đó là những so sánh đầy chất trí tuệ thể hiện tinh thần dân tộc và cả tư tưởng nhân
văn cao đẹp của nhân loại.
- Từ góc nhìn lịch sử, trong cảm quan của Hoàng Phủ Ngọc Tường, với tất cả những thăng trầm đã
trải qua, với những đau thương mất mát và sự hy sinh anh dũng, sông Hương chính là hình ảnh
con người xứ Huế, mang theo vẻ đẹp của tâm hồn Huế. Trong chiến tranh, nó biết “tự hiến đời
mình” - tự nguyện chiến đấu, hy sinh đầy quả cảm, quyết liệt để rồi trở về đời thường, với cuộc
sống hòa bình, sông Hương lại là người con gái dịu dàng của đất nước.
- Sông Hương đúng là “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc” vừa anh dũng, oanh liệt mà vẫn rất
đỗi thơ mộng, trữ tình.
2.   Cái tôi tác giả - nghệ sĩ tài hoa
- Quan sát và miêu tả sông Hương từ nhiều điểm nhìn khác nhau nhưng ở điểm nhìn nào cũng là
con mắt của người nghệ sĩ tài hoa với một sự quan sát tinh tế; với một trí tưởng tượng phong phú;
một tâm hồn lãng mạn; thâm trầm sâu sắc trong những suy tư đầy trải nghiệm, uyên bác trong
những kiến thức liên ngành; một tấm lòng đầy ân tình, thủy chung, say đắm tự hào về Huế, về
sông Hương
- Chính cái tôi tài hoa nghệ sĩ ấy đã tạo nên một phong cách viết kí đặc sắc - lối viết hướng nội
phóng túng, tài hoa, giàu chất lãng mạn trữ tình. Những trang viết lấp lánh trí tuệ với những thông
tin phong phú từ lịch sử, văn hóa, địa lý, triết học,... Tất cả được thể hiện trong những câu văn
vừa sang vừa đẹp.
3.   Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
- Nhan đề là một câu hỏi mà nội dung bài kí là một câu trả lời. Người dân Châu Hóa đã đặt cho
dòng sông một cái tên thật đẹp, thật thơ như vẻ đẹp của chính dòng sông ấy. Câu hỏi được trả lời
bằng một huyền thoại đẹp vì quá yêu dòng sông nên đã nấu nước thơm của trăm loài cỏ cây hoa
lá đổ xuống sông
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

- Sự giải thích một huyền thoại không chỉ đơn thuần là một lời lí giải mà còn là tình cảm của người
dân vì quá yêu, quá gắn bó nên đã khiến dòng sông đã đẹp nay lại càng đẹp hơn, thơ hơn.
- Nhan đề còn mang ý cảm thán thể hiện sự ngỡ ngàng, ngưỡng mộ một dòng sông đẹp với cái tên
rất thơ. Câu hỏi ấy thể hiện một niềm khao khát tìm hiểu, khám phá về vẻ đẹp của sông Hương -
hiện thân cho cái đẹp mà người ta hoài vọng ở đời. Phải chăng đấy cũng là một cái cớ để bộc lộ
tình yêu với quê hương, đất nước.

VIỆT BẮC
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

Giá trị của một tác phẩm văn học trước hết là giá trị tư tưởng của nó, nhưng không phải là thứ tư tưởng
nằm thẳng đơ trên trang giấy mà phải được rung lên bởi những cung bậc cảm xúc của người sáng tạo; một
tác phẩm thật giá trị phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi.. 

“Việt Bắc” được sáng tác nhân thời điểm quân và dân ta giành được thắng lợi Điện Biên Phủ, buộc Pháp
phải ngồi vào bàn đàm phán và ký với ta hiệp định Giơnevơ lập lại hòa bình ở miền Bắc. Đây cũng là lúc
cơ quan trung ương đảng và cán bộ cách mạng rời chiến khu Việt Bắc để trở về với Hà Nội- thủ đô sao
vàng nắng Ba Đình. Đây là một cuộc chia tay gợi nhiều xúc động, gợi nhiều nghĩ suy bởi Việt Bắc là quê
hương cách mạng, nơi gây dựng những phong trào cách mạng, là nơi chở che cách mạng trong những
ngày gian khó nhất. Chia tay với Việt Bắc cũng là chia tay với những con người nghĩa tình, chia tay với
những năm tháng gian khổ mà hào hùng. Tố Hữu là nhà thơ của lẽ sống lớn, của những tình cảm lớn,
niềm vui lớn của cách mạng và con người cách mạng. Đặc biệt ở những bước ngoặt trong đời sống cách
mạng của dân tộc, hồn thơ Tố Hữu thường vang ứng nhạy bén và dào dạt cảm hứng. Việt Bắc đã phản
ánh được bức tranh sống động, hào hùng, tình cảm lớn trong đời sống dân tộc, tác phẩm tiêu biểu cho
phong cách thơ Tố hữu - thơ trữ tình chính trị đậm đà tính dân tộc. Tác phẩm được đánh giá là đỉnh cao
của thơ ca kháng chiến chống Pháp.Đúng như lời Chế Lan Viên tâm sự "Anh là một con chim vụ ở đường
bay, hơn là bộ lông bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp"

Việt Bắc là khúc hùng ca tổng kết một giai đoạn lịch sử với cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, hào
hùng, thể hiện sự tự hào về quá khứ, niềm tin tưởng, hy vọng vào tương lai tươi sáng của đất nước. Bài
thơ còn là một bản tình ca thể hiện tình cảm lớn, nghĩa tình thủy chung, son sắt của Việt Bắc với cách
mạng, của người kháng chiến với Việt Bắc, tình cảm của quê hương đất nước, với lãnh tụ. Thơ Tố Hữu vì
thế tiêu biểu cho cái gọi là khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong văn học cách mạng.

 Bài thơ có kết cấu đối đáp, đó là lời của kẻ ở người đi trong một cuộc tiễn đưa, khung cảnh ly
biệt. Những lời đối đáp và đặt cặp đại từ mình ta gợi sự liên tưởng đến những lời ca ngọt ngào da
diết của những khúc hát giao duyên tỏ tình giã bạn trong xa ca dao dân ca. Kết cấu này, cặp đại từ
này thường được dùng để giải diễn tả những mối quan hệ có tính chất riêng tư mặn nồng: bạn bè,
tình yêu, đôi lứa, vợ chồng.
 Tối Hữu đã vận dụng sáng tạo những hình thức nghệ thuật truyền thống để thể hiện nghĩa tình
cách mạng: đây là một sự vận dụng giàu tính thẩm mỹ, góp phần tạo nên tính dân tộc đậm đà của
tác phẩm và trữ tình hóa thơ chính trị.
 Đối đáp chỉ là một thủ pháp để khơi gợi, để bộc lộ đầy đủ hơn ân tình cách mạng. Mình và ta, tuy
hai mà một, phân đôi và thống nhất, hòa hợp trong một trong mối ân tình thuỷ chung, son sắt.
Tiếng thơ không chỉ là lời đối đáp mà còn là lời hộ ứng đồng vọng cùng ngân vang khúc hát
nghĩa tình.
 Bài thơ có giọng điệu tâm tình, ngọt ngào tha thiết - đặc điểm nổi bật của phong cách thơ Tố Hữu
luôn hướng về đồng chí, đồng bào mà tâm sự, nhắn nhủ. Cảm xúc chủ đạo là nỗi nhớ da diết nhớ
cảnh, nhóm người, nhớ những kỉ niệm gian khổ, hào hùng.

II. Phân tích

1. Tám câu đầu: khung cảnh của cuộc chia tay.

Đoạn thơ gợi khung cảnh của một cuộc chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn giữa kẻ ở, người đi, giữa cán bộ
kháng chiến về xuôi và đồng bào Việt Bắc. Kết cấu đối đáp với giọng điệu tâm tình của hai nhân vật mình
và ta gợi đến những khúc hát giã bạn tha thiết trong hai trong ca dao, dân ca:

Người về ta chẳng cho về

Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ


HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

=> Mượn hình thức nghệ thuật quen thuộc, truyền thống của ca dao để thể hiện tình cảm lớn của dân tộc
của thời đại, mượn lời hát ngọt ngào của lứa đôi để thể hiện nghĩa tình cách mạng. 

- Bốn câu thơ đầu là lời của người ở lại lên tiếng trước trong cuộc chia ly, lời hỏi cũng là lời gợi
nhớ, gợi nhắc người đi về những gì đã qua. Giây phút chia li giữa người đi kẻ ở đã được tái hiện
vô cùng chân thực và sinh động:

"Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng"

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”

Sử dụng phép điệp quen thuộc của ca dao, những cụm từ có nhớ được lặp lại khiến lời thơ vừa ra diết nhớ
nhung yêu thương, vừa chứa đựng niềm băn khoăn trăn trở của người ở lại. Hỏi thực chất là một cách để
bộc lộ tâm tình vì lòng mình thực chất đang rất nhớ nhung nhớ thương mới hỏi, mới băn khoăn người đi
có nhớ, còn nhớ. Nhắc đến mười lăm năm ấy làm chiều dài thời gian với bao sự kiện, bao thăng trầm của
cách mạng từ những ngày đầu xây dựng lực lượng, là sự gắn bó thiết tha mặn nồng, là nghĩa nặng tình
sâu. Tố Hữu nói về tình cảm của những người cán bộ cách mạng với đồng bào Việt Bắc mà lại sử dụng
tính từ “thiết tha,mặn nồng”- những từ ngữ thường sử dụng cho tình cảm của đôi lứa, uyên ương. Vậy
mới thấy được chất trữ tình nồng đượm trong tứ thơ của nhà thơ cách mạng Tố Hữu. Chế Lan Viên người
bạn thơ đã đưa ra nhận xét về thơ Tố hữu như sau "thơ là đi giữa nhạc và ý rơi vào cái vực ý thơ sẽ sâu
nhưng rất dễ khô khan, rơi vào cái vực nhạc thì thơ dễ làm đắm say người nhưng cũng dễ nông cạn ,Tố
hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy thơ của anh vừa run người trong nhạc vừa thức
người bằng ý.”

Trong lời tâm tình của người ở lại còn là sự gợi nhắc về không gian

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn

Cây, sông gắn liền với không gian của đồng bằng, của miền xuôi, núi và nguồn là biểu tượng của thiên
nhiên Việt Bắc. Điệp từ “nhìn và nhớ” được nhắc lại hai lần, thể hiện một nỗi nhớ bao trùm không gian
và cả thời gian, như tha thiết thường trực trong lòng của người ở lại. Vẫn là câu hỏi tu từ nhắc nhở người
đi về tình cảm của người ở lại. Lời ướm hỏi nhắc người đi về nỗi nhớ thiên nhiên và con người nơi đây.
Về với Hà Nội của đèn đường của phố thị, nhìn cây còn nhớ núi, nhìn sông có nhớ nguồn, có nhớ Việt
Bắc hay không? Chữ “nguồn” còn có nghĩa là cội nguồn, Việt Bắc chính là nơi khởi đầu của phong trào
cách mạng, của quê hương cách mạng. Hình ảnh thơ vừa cụ thể, vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Câu hỏi
của người ở lại không chỉ gợi nhớ mà còn chứa đựng nhiều băn khoăn, suy ngẫm sâu sắc về nghĩa tình,
đạo lý thuỷ chung “Uống nước nhớ nguồn.”

- Bốn câu sau là lời của người ra đi đáp lại người ở lại nhưng cũng là lời đồng vọng trong nhớ
thương lưu luyến. Người ra đi thấu hiểu nỗi lòng người ở lại, cảm được cái thiết tha đầy lưu
luyến:

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bởi chính người ra đi cũng đang

Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi


HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

Đấy là lấy lòng mình để hiểu lòng bạn. Đại từ phiếm chỉ “ai “vang lên một cách đầy tự nhiên. Đó chính là
người ở lại, nhưng đại từ phiếm chỉ gợi cảm giác tiếng của ai đó chưa rõ mặt chỉ là những âm thanh cách
lên vang vọng từ núi rừng Tây Bắc. Những cặp từ láy “bâng khuâng” “bồn chồn” diễn tả trạng thái tâm lý
nhớ thương luyến tiếc khiến lòng chẳng thể yên. “bâng khuâng” gọi trạng thái cảm xúc khó tả mơ hồ đan
xen bởi buồn vui luyến tiếc nhớ nhung. “bồn chồn” là một trạng thái đầy xúc động, hiện ra trong dáng vẻ,
trong bước đi.

Niềm lưu luyến xúc động thấm đậm trong hai câu thơ:

Áo chàm đưa buổi phân ly đi

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay

Hình ảnh người dân Việt Bắc trong buổi chia tay với sắc áo chàm quen thuộc. Cách nói hoán dụ khiến
hình ảnh hiện lên như sức cô đúc của ấn tượng: sắc áo đơn sơ, giản dị, mộc mạc của người dân Việt Bắc
nghèo khổ, lam lũ mãi mãi là in đậm trong tâm trí người ra đi.

Nếu câu trên là hình ảnh gọi nhiều thương nhớ thì câu dưới là những cử chỉ đầy lưu luyến: cầm tay nhau,
biết nói gì. Cử chỉ biểu hiện niềm xúc động cử chỉ ấm áp mến thương cầm tay nhau và sự im lặng biết nói
gì biểu hiện niềm xúc động, thương nhớ của kẻ ở người đi.“Biết nói gì” có lẽ không phải không muốn nói
gì mà họ có quá nhiều điều muốn nói, mọi lời nói trở nên bất hữu trước tình cảm trào dâng mãnh liệt, bao
nhiêu tình cảm thân thương trìu mến chất chứa trong sự im lặng đầy xúc động. Dấu ba chấm xuất hiện
như một nốt nhạc ngân dài nối tiếp tình cảm hai bên. Cách ngắt nhịp của câu thơ như chứa đựng cái ngập
ngừng, cái bi, cái dùng dằng không nỡ rời xa.

 Người ta cầm tay nhau để truyền sức mạnh, truyền tình cảm. Giống như người lính cụ Hồ trong kháng
chiến “nắm tay” nhau để truyền hơi ấm và gắn kết tình đồng đội:

“Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Đồng chí – Chính Hữu

Đoạn thơ gợi cảnh tiễn biệt đầy lưu luyến trong ngày chiến thắng. Cán bộ kháng chiến chia ly chia tay
đồng bào Việt Bắc để về xuôi, niềm thương nhớ, sự lưu luyến, bị dị trong lời nói, cử chỉ, trong bước chân
của cái ở ngoài đi gợi liên tưởng tới cảnh chia ly đong đầy xúc cảm của đôi lứa trong ca dao, trong truyện
Kiều, trong Chinh phụ ngâm,. Trong hình thức thơ đậm đà bản sắc dân tộc Tố hữu đã trữ tình hóa thơ ca
cách chính trị. Tình cảm lớn, nghĩa tình đạo lý truyền thống của dân tộc được thể hiện tha thiết mặn nồng
như tâm tình của đôi lứa. Tố hữu đã nâng thơ chính trị lên một trình độ rất đỗi trữ tình Xuân Diệu tôi giữ
nó vừa lên tính chất, hạn chế của một nền văn học minh họa.

Đoạn 2
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

Đoạn thơ là những câu hỏi nối tiếp: 12 câu thơ với sáu câu hỏi, những cụm từ mình đi, mình về, có nhớ,
con nhớ được lấy đi lấy lại tạo âm hưởng da diết trả lời thô, cho cô hỏi. Hỏi tổ chức chỉ là hình thức để
bộc lộ tình cảm tha thiết trong lòng người ở lại vì lòng mình đang nhớ thương mới bằng phân người đi có
nhớ có thương nhớ. Mạch cảm xúc trữ tình xuyên suốt cả đoạn thơ là nỗi niềm thương nhớ. Người ở lại
gợi nhắc với người ra đi những gì lớn lao nhất, thân thương nhất, những chuyện niệm không thể nào
quên.

Việt Bắc chiến trường gian khổ:

Đó là một Việt Bắc với mưa nguồn suối lũ, mây cùng mù

Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Việt Bắc với thiên nhiên dữ dội, khắc nghiệt đầy bất trắc, mua chuộc từ thuộc nguồn, suối dâng thành
nước lũ, xương núi mưa rừng. Phép tiểu đối trong câu thơ tô đậm, khắc sâu sự dữ dội của thiên nhiên,
những từ những, cùng chỉ số nhiều, sự lập lại, sự liên tiếp dồn dập, thiên nhiên như thử thách ý chí con
người. Hai câu thơ dưới gợi một Việt Bắc với những gian khổ, thiếu thốn:

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai

Miếng cơm chấm muối gợi sự thiếu thốn, khó khăn, gian khổ về vật chất, gợi hiện thực của những ngày
tháng gian khổ. Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã hữu tình hóa khiến mối thù như kết hình kết khối. Phép
tiểu đối trong câu thơ làm nổi bật sự tương phản trong ý chí con người. Càng khó khăn, càng gian khổ,
càng căm thù luôn nấu quyết tâm diệt thù.

Nơi tột cùng của gian khổ ấy cũng là mảnh đất thấm đẫm tình người:

Mình về rừng núi nhớ ai

Phép nhân hóa mang đến sự biểu đạt tinh tế giàu ý nghĩa. Nỗi nhớ thương người đi mình mang chúa phủ
cả không gian núi rừng. Đâu chỉ có con người thương nhớ mà thiên nhiên núi rừng cũng nhớ thương
người đi

Trám bùi để rụng măng mai để già

Nói đến trám, đến măng là những sản vật quen thuộc của Việt Bắc, của núi rừng, gắn liền với cuộc sống
sinh hoạt của người dân. Câu thơ có thể hiểu theo nhiều nét nghĩa: con người ngơ ngẩn, trống vắng vì xa
cách nên tram bùi để rụng, măng mai để già. Nhưng cũng có thể hiểu là: thiên nhiên như ngưng đọng, úa
tàn trong nhớ thương. Bút pháp tả cảnh ngụ tình của thơ ca truyền thống phát huy tạo nên sức truyền cảm
cho lời thơ.

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Hình ảnh những ngôi nhà với màu lau xám gợi cuộc sống đơn sơ, mộc mạc của những con người nghèo
khổ giữa cái hoang vắng của núi sông, gợi buồn thương. Ở đây, “đậm đà lòng son” là mối tình thuỷ chung
son sắt. Nhà thơ đã dùng tính từ chỉ mức độ cao nhất của tình người để nói về tấm lòng người dân Việt
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

Bắc. Từ ngữ và hình ảnh tương phản đã nhấn mạnh con người Việt Bắc nghèo khổ, thiếu thốn, đơn sơ về
vật chất như sâu đậm nghĩa tình, một lòng gắn bó với cách mạng.

Việt Bắc, căn cứ địa, cội nguồn của phong trào cách mạng

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

Lời gợi nhắc của những người ở lại làm sống dậy cả quả dứa hào hùng, một Việt Bắc với núi non hiểm
trở cũng là nơi:

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

Đó là nơi khởi đầu của những phong trào đấu tranh, nơi gây dựng lực lượng cách mạng từ những ngày
đầu kháng chiến

Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh

Lời gợi nhắc làm gọn nhưng có sức khơi dậy ký ức về những ngày tháng không thể nào quên: đoạn thơ
nhắc đến những địa danh:

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa

Đó là những hình ảnh địa danh cụ thể, vừa mang ý nghĩa biểu tượng gợi nhắc về những sự kiện quan
trọng, đến không khí hào hùng sục sôi của cách mạng, gợi niềm xúc động thiêng liêng, những địa danh đã
trở thành biểu tượng cho tinh thần đoàn kết, cho sức mạnh quật khởi, cho khát vọng độc lập tự do của dân
tộc. Như thế, nhớ về Việt Bắc là nhớ về quê hương, về cội nguồn cách mạng. 

Nhắc tới người đi về về Việt Bắc, về những ngày tháng đã qua, về những địa danh thân quen đã trở thành
thiêng liêng, người ở lại cũng như được trở về với quá khứ, như được sống lại trong kỷ niệm không thể
nào quên. Lời thơ vì thế mà chứa chan niềm xúc động.

Mình đi, mình có nhớ mình

Câu thơ với cách dùng đại từ thú vị, sáng tạo. Với Việt Bắc, những ngày tháng đã qua, những gì gắn bó,
sẻ chia, mình với ta, tuy hai mà một, gắn bó, hòa nhập trong mối đồng cảm sâu sắc, trong ân tình cách
mạng.

Cách dùng đại từ còn là sự gửi gắm ý nghĩa sâu sắc: người cách mạng và người Việt Bắc chính là nhớ quê
hương, của nguồn của cách mạng của chính mình. Lời thơ không chỉ gợi nhắc kỷ niệm không chỉ giãi bày
thương nhớ nó còn là lời gợi nhắc nhắn nhủ về nghĩa tình, về đạo lý “Uống nước nhớ nguồn.”

Đoạn thơ với những câu thơ lục bát vừa gần gũi quen thuộc vừa đạt đến độ tinh luyện, mẫu mực hình ảnh
giản dị mà gợi cảm, phép điệp, phép đối tạo sự luyến láy nhịp nhàng, tạo âm điệu tha thiết cho những lời
tâm tình ngọt ngào.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

Đoạn thơ là lời tâm tình đầy thương nhớ cũ, cũng là lời nhắc nhở thật ý nghĩa, thật đúng lúc, bởi cuộc
sống hòa bình dễ làm người ta quên đi những gian khổ đã qua. Thơ Tố Hữu không chỉ thể hiện tha thiết
những tình cảm lớn mà còn gợi những suy ngẫm sâu sắc về đạo lý, về nghĩa tình thủy chung hướng về cội
nguồn. Đó là chất trữ tình chính trị, màu sắc dân tộc đậm đà trong thơ Tố hữu.

Đoạn 4 là lời tâm tình của người ra đi

Lời nhắn nhủ thiết tha của người ở lại làm tuôn trào bao nhiêu thương của người ra đi với cảnh, người
Việt Bắc, với bao kỷ niệm. Đoạn thơ là lời tâm tình của người ra đi với người ở lại, là lời đồng vọng trong
khúc hát đầy thương nhớ, nhung nhớ.

“nhớ gì”, “nhớ sao”, “nhớ từng” diễn tả nỗi nhớ da diết ám ảnh, nhớ từng nét cảnh, nét người, nhớ từng
con sóng sông, con suối. Những câu thơ ngọt ngào tha thiết đưa người đọc vào thế giới của hoài niệm:
nhớ tất cả những gì thuộc về Việt Bắc.

a, Một VB với không gian núi rừng hùng vĩ, thơ mộng mà thân thương.

Đoạn thơ mở đầu với bằng một sự so sánh nên ngọt ngào

Nhớ gì như nhớ người yêu

Một sự so sánh thú vị khiến câu thơ đậm đà màu sắc ca dao, dân ca với cái tình tứ, duyên dáng, đầy ý nhị
trong cách giãi bày tình cảm của nhân vật trữ tình. Đây cũng là những lời thổ lộ thật đặc biệt tình cảm của
người ra đi, của các cán bộ kháng chiến về xuôi với người ở lại, đồng bào Việt Bắc. Nếu tình yêu là tình
cảm mãnh liệt nhất trong đời sống con người thì nỗi nhớ người yêu lại là trạng thái cảm xúc thật đặc biệt
của trái tim. Nỗi nhớ ấy ám ảnh khiến con người ngơ ngẩn, đứng ngồi không yên. Tố Hữu với những câu
thơ, những sự so sánh ấy thực sự đã trữ tình hóa thơ chính trị. Nghĩa tình cách mạng, tình đồng chí đồng
bào được thể hiện thiết tha mặn nồng như tình yêu đôi lứa. Nỗi nhớ Việt Bắc là nỗi nhớ da diết của tình
yêu, tình cảm mặn nồng khiến mọi cảnh vật trong không gian đều thấm đậm hương vị tình cảm, hình gũi
và thân thương.

Trong nỗi nhớ ấy một Việt Bắc hiện ra vừa thơ mộng vừa hùng vĩ với ánh trăng bàng bạc khắp núi rừng.
Cái kỳ vĩ của núi non hiện ra trong cái dịu dàng trong trẻo của ánh trăng. Nhớ nắng chiều trên những vật
nương lưng đồi, nhớ bản làng huyền ảo thấp thoáng trong sương khói của núi rừng, quấn quýt, vấn vương
cùng khói bếp. Nhớ rừng nứa, nhớ bờ tre, nhớ từng địa danh đã trở thành thân thuộc.

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy

Đoạn thơ với những hình ảnh mộc mạc, gần gũi đã ghi lại những nét đẹp đặc trưng của Việt Bắc ở những
thời điểm khác nhau. Đó là những hình ảnh của ấn tượng, của cảm xúc. Nếu bức tranh thiên nhiên miền
Tây trong thơ Quang Dũng gợi ấn tượng mạnh về cái dữ dội, hiểm trở, hoang dã, đầy bí ẩn ấn tượng chân
thực của những người lính trẻ lần đầu tiên đến những mảnh đất hoang vu, xa xôi. Việt Bắc của Tố hữu,
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

không gian núi rừng với những người ra đi không xa xôi, không hoang vu mà đã là những gì thân thuộc
và thân thương nhất, bởi với những, nơi này đã là

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Và cũng ở nơi đấy có những con người Việt Bắc mà nhà thơ gọi là người yêu, người thương, với sự đồng
điệu, quấn quít:

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nếu Chế Lan Viên đã từng viết

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn

Thì Việt Bắc với người ra đi thực sự đã hóa tâm hồn, đã là những gì bình dị, thân thương nhất.

Việt Bắc là gần gũi vậy, là thân thương vì ở đó có những con người Việt Bắc; nỗi nhớ da diết nhất là nhớ
người Việt Bắc, những câu thơ cảm động chân thành nhất phải là nói với đồng bào Việt Bắc. Nhớ Việt
Bắc với những con người nghèo khổ sâu nặng nghĩa tình. Câu thơ câu thơ đậm chất dân gian:

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…

Đã diễn tả cảm động sự gắn bó của người Việt Bắc với Cách mạng. Cặp đại từ hô ứng sóng đôi “mình
đây”- “ta đó” gợi hình ảnh những con người luôn bên nhau kề vai sát cánh. Trong mọi hoàn cảnh, Việt
Bắc luôn bên cách mạng, người cách mạng luôn có VB để cùng chia sẻ đắng cay ngọt bùi. Đó là sự đồng
cảm, sẻ chia cả niềm vui, nỗi buồn, từ gian khổ đến ngày thắng lợi vinh quang. Câu thơ đầu chỉ là nhớ mà
còn là sự khắc ghi tạc lòng ân tình của Việt Bắc. ÂÂn tình đó được gửi lại qua những hình ảnh mộc mạc,
cụ thể mà cảm động:

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Hình ảnh những “củ sắn lùi”, “chăn sui” gợi nhớ về cuộc sống nghèo khổ, thiếu thốn với cái đói, cái rét,
“củ sắn lùi” thay cơm, tấm chăn suii khô cứng trong những đêm giá lạnh. Vật chất kham khổ, thiếu thốn
nhưng tình người thật ấm lòng. Những động từ “chia”, “sẻ”, “đắp cùng” đã cụ thể hóa nghĩa tình cảm
động giữa người dân Việt Bắc với cán bộ kháng chiến, chia sẻ từng miếng ăn trong ngày đói, từng hơi ấm
trong đêm lạnh. Sự gắn bó, sẻ chia suất phát từ tình thương (“thương nhau”), thương là thấu hiểu, là đồng
cảm. Tình thương mình khiến con người gắn kết để vượt qua những ngày gian khổ nhất. Đó cũng là cội
nguồn sâu xa của nỗi nhớ nhung, của sự lưu luyến bịn rịn trong ngày chia tay.

Tình thương mến đã khiến nhà thơ viết lên những câu thơ chân thực, cảm động về những con người Việt
Bắc lam lũ, tảo tần

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô


HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

Câu thơ gợi hình ảnh thân quen của những người mẹ Việt Bắc địu con đi làm nương, làm rẫy. Cụm từ
“nắng cháy lưng” đã diễn tả thực cái nắng chói chang trên đồi cao làm bỏng rát lưng người. Những cụm
động từ “địu con”, “lên rẫy”, “bẻ măng” đã tô đậm sự nhọc nhằn cơ cực, sự chịu thương chịu khó của
người mẹ hiền miền núi. Câu thơ vừa giàu tính hình tượng vừa đậm chất trữ tình chứa đựng cả niềm đồng
cảm, xót thương, lòng biết ơn chân thành của người ra đi. Chính những con người nghèo khổ, lam lũ ấy
đã chia sẻ, chở che cách mạng.

Nhớ một Việt Bắc với cuộc sống nơi chiến khu gian khổ mà tràn đầy tinh thần lạc quan. Những câu thơ
gợi nhắc những kỷ niệm của những ngày kháng chiến chưa xa:

Nhớ sao lớp học i tờ

Là hình ảnh cảm động của phong trào bình dân học vụ, diệt giặc dốt những ngày đầu kháng chiến. Câu
thơ gợi hình ảnh đồng bào với tiếng đánh vần ngọng nghịu, những nét chữ vụng về nhưng đầy háo hức
khi đi học được cái chữ của Bác Hồ.

Việt Bắc là chiến khu, là khánh cứ địa cách mạng, nhớ Việt Bắc là nhớ những ngày những cảnh sinh hoạt,
nhớ những ngày tháng cơ quan sôi nổi, tràn đầy tinh thần lạc quan

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Nhớ những đêm liên hoan đầm ấm vui tươi giữa muôn vạn dân họ, nhiều tiếng hát vang vọng núi đôi.
Trong nỗi nhớ về cuộc sống ở chiến khu Việt Bắc còn nỗi nhớ về những thanh âm bình dị gợi sự sống êm
ả, thanh bình

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa…

Đó là tiếng mõ lúc chiều ta báo hiệu đàn trâu đã trở về, tiếng chày nện cối giã gạo đều đều ở một dòng
suối xa xa.

Đoạn thơ với hình ảnh, ngôn từ giản dị, gần gũi mà gợi cảm với giọng điệu tâm tình, ngọt ngào. Đó là lời
giãi bày, cũng là lời khẳng định người ra đi mãi nhớ, mãi thương một Việt Bắc thôi mộng, hùng vĩ, mua
về Bắc sâu nặng, nghĩa tình.

Sự tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình chính trị đã ba đặc điểm màu sắc dân tộc: Việt Bắc là khúc tình
ca sâu lắng thể hiện nghĩa tình cách mạng thủy chung, son sắt trong đời sống dân tộc. Cảm hứng sử thi
đậm đà lại được thể hiện trong một hình thức nghệ thuật sau tính truyền thống đó là vẻ đẹp đặc sắc của
Việt Bắc cũng là số truyền cảm sâu sắc, mãnh liệt của thôn tổ hiếu với đồng chí, đồng bào.

5. Đoạn 5

Đây được coi là đoạn thơ đặc sắc nhất, thể hiện sinh động và thấm thía nỗi nhớ của người ra đi với cảnh,
với người Việt Bắc. Việt Bắc hiện lên trong nỗi nhớ với vẻ đẹp bốn mùa, với sự hòa hợp giữa con người
với thiên nhiên. Đoạn thơ hài hòa cân xứng như một bộ tranh tứ bình với bốn mùa xuân hạ thu đông. Mỗi
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

mùa đều có vẻ đẹp riêng để thương để nhớ. Đó cũng là những ấn tượng sâu đậm nhất về Việt Bắc. Đoạn
thơ bắt đầu bằng lời hỏi của người ra đi:

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

Hỏi chỉ là cái cớ để bộc lộ niềm xao xuyến nhớ thương, chỉ là cách giải bày những thương nhớ một cách
duyên dáng và tình tứ. Ngay sau câu hỏi là lời khẳng định, lời thổ lộ của người đi

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Hoa là tượng trưng cho thiên nhiên, cho núi rừng Việt Bắc tươi đẹp. Người ra đi nhớ “hoa cùng người”,
nhớ thiên nhiên, nhớ con người Việt Bắc. Hai câu thơ đầu đã mở ra cảm hứng chủ đạo của cả đoạn thơ.
Tám câu thơ sau chính là Việt Bắc, là thiên nhiên, con người trong nỗi nhớ. Tám câu thơ chia đều thành
bốn cặp câu, trong mỗi cặp cứ một câu gợi cảnh lại một câu nhắc đến con người. Hình ảnh thiên nhiên
con người hài hòa gắn bó trong hiện trong tâm trí người ra đi. Hình ảnh Việt Bắc trong bốn mùa được gợi
tả không theo trình tự thời gian và chi phối bởi ấn tượng, cảm xúc. 

Nhớ về mùa đông Việt Bắc:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Thiên nhiên Việt Bắc mùa đông được gợi ra với những nét vẽ chấm phá trong sự tương phản về màu sắc .
Sắc đỏ thuộc gam màu sáng nóng, sắc xanh lại là có màu trầm lạnh , màu đỏ tươi của hoa chuối rừng nổi
bật trên nền xanh thăm thẳm của núi rừng Việt Bắc. Bức tranh mùa đông vừa có nét hùng vĩ của núi rừng
vừa được tô điểm với sắc đỏ tươi sáng ấm làm bừng sáng cả không gian. Khung cảnh mùa đông nhưng
không lạnh lẽo âm u mà thật tươi sáng và tràn trề sức sống.

Trên nền thiên nhiên ấy là hình ảnh quen thuộc của người dân lao động vùng cao. Con người xuất hiện
giữa không gian khoáng đạt, trên đồi cao, giữa mênh mông núi rừng, với “dao gài thắt lưng”. Ánh nắng
mặt trời như rọi chiếu lấp lóa trên con dao của người đi rừng. Tố hữu thực sự như một người nghệ sĩ với
nét vẽ tài hoa bằng chất liệu ngôn từ. Nét vẽ đơn sơ đầy ấn tượng đã gợi tả vẻ đẹp của con người trong tư
thế chủ động, vững chãi, rắn rỏi giữa thiên nhiên hùng vĩ. Không phải con người bé nhỏ, chim khuất giữa
thiên nhiên bao la trong những bộ tranh tứ bình cổ điển. Ở đây con người hiện ra với tầm vóc lớn lao,
lồng lộng giữa đèo cao đầy nắng. Cái bao la rộng lớn của núi rừng giống như tôn thêm vẻ đẹp trong tầm
vóc, tâm thế của con người thật yêu mến, ngưỡng mộ, tự hào. 

Bức tranh thiên nhiên núi rừng với bạt ngàn sắc trắng của hoa mơ làm bừng sáng cả không gian sau
những ngày đông dài:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Cụm từ nở trắng rừng đã diễn tả tinh tế sự sinh sôi, nảy nở, sự vận động của sắc màu, của sự sống. Sắc
trắng tinh khôi của hoa mơ lan tràn, trùm phủ khắp không gian núi rừng. Câu thơ đem đến ấn tượng thật
đẹp về vẻ nguyên sơ, tươi mát, về sức sống ngời ngợi của thiên nhiên. Vẫn là một sự hài hòa xứng hợp,
không trên tả cảnh, câu dưới tả người:

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang


HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

Vẫn là hình ảnh quen thuộc của con người trong cuộc sống đời thường. Nếu trong bức tranh mùa đông,
con người hiện lên với nét đẹp rắn rỏi thì trong cảnh mùa xuân lại là hình ảnh con người với một nét vẽ
thật mềm mại. Cụm từ “chuốt từng sợi giang” nhấn mạnh sự tỉ mỉ , cần mẫn, khéo léo của con người:
chuốt từng sợi giang cho thật mềm, thật mỏng, thật óng ả. Câu thơ gợi một vẻ đẹp bình dị và cũng rất đỗi
thân thuộc.

Bức tranh mùa xuân qua đi màu trắng cũng mờ dần, để nhường chỗ cho âm thanh tiếng ve kêu rạo rực cả
một góc trời Việt Bắc vào mùa hè. Việt Bắc vào mùa hè được cảm nhận qua âm thanh và sắc màu. 

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Cách dùng từ của Tố hữu thật tinh tế và giàu sức gợi. Động từ “đổ” đã diễn tả sự thay đổi mau lẹ của sắc
màu, đưa đến cảm giác ngỡ ngàng, choáng ngợp. Khi âm thanh của tiếng ve bắt đầu xuất hiện, cả rừng
phách như đồng loạt trổ hoa vàng: âm thanh gọi sắc màu. Trong thiên nhiên như có bàn tay kỳ diệu đổ sắc
vàng lộng lẫy phủ khắp không gian núi rừng. Một khung cảnh ngày hè thật ấn tượng, tràn trề  sức sống,
rộn rã âm thanh, rực rỡ sắc màu. Con người Việt Bắc hiện ra vẫn trong những nét bình dị, thân thương

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Cách gọi “cô em gái” thật trìu mến, chỉ con người trong một mối quan hệ gần gũi, gắn bó, thân thiết. Câu
thơ gợi hình ảnh cô gái bé nhỏ cắm cúi, thầm lặng, cần mẫn giữa mênh mông núi rừng. Câu thơ chứa
đựng nỗi nhớ và bao nhiêu niềm thương mến của người ra đi với con người Việt Bắc chịu thương, chịu
khó.

Khép lại bức tranh tứ bình là cảnh Việt Bắc mùa thu cũng là thời điểm kết thúc thắng lợi cuộc kháng
chiến, là thời điểm cuộc chia tay giữa Việt Bắc và người cách mạng. Những câu thơ vì thế để lại nhiều dư
vị nhớ thương gợi nhiều suy nghĩ ấm. Bức tranh mùa thu không có bất cứ màu sắc nào mà thay vào đó là
hình ảnh của ánh trăng

"Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"

Cảnh núi rừng đêm thu dưới ánh trăng thật yên bình và thơ mộng. Từ “rọi” đã miêu tả ánh sáng xuyên
qua từng tán cây kẽ lá khiến cả khu rừng bát ngát trong ánh trăng. Một không gian trong trẻo, dịu mát ,êm
ả và thanh bình. “Trăng rọi hoà bình” còn có thể hiểu là ánh trăng rọi chiếu khung cảnh hòa bình của quê
hương đất nước. Câu thơ tả cảnh mà thấy cả niềm vui sướng hân hoan của con người trong cảnh thanh
bình tươi sáng của thiên nhiên, đất nước. Nỗi nhớ cảnh vẫn đi liền với nỗi nhớ con người và da diết, lắng
sâu hơn cả vẫn là nỗi nhớ với người Việt Bắc:

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Đại từ “ai” khiến câu thơ vừa mang âm hưởng ca dao vừa đậm đà sắc thái mến thương. Người đi nhớ mãi
Việt Bắc với tiếng hát ân tình thuỷ chung. Tiếng hát là thanh âm của tâm hồn giữa bát ngát ánh trăng thu,
giữa khung cảnh hoà bình tươi sáng, tha thiết tiếng hát của con người Việt Bắc sâu nặng, ân tình, thủy
chung, son sắt. Đó là ấn tượng sâu đậm nhất, là nỗi nhớ, niềm thương da diết của người ra đi về người
Việt Bắc, về tấm lòng Việt Bắc. Khép lại đoạn thơ là tiếng hát ân tình thuỷ chung, đó cũng là lời khẳng
định người ra đi không bao giờ quên ân tình Việt Bắc, mãi mãi thủy chung của Việt Bắc.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANH – 12D2 – THPT VIỆT ĐỨC

Bức tranh Việt Bắc bốn mùa tươi sáng, hài hòa, tràn đầy sức sống, đó cũng là sự kết tinh sâu sắc những
ấn tượng, cảm xúc về thiên nhiên, con người. Đoạn thơ vừa có vẻ đẹp của bộ tranh tứ bình vừa mang
những nét riêng. Thành bốn mùa trong hội họa, thi ca cổ điển thường đẹp, tao nhã, cao sang, đậm chất
ước lệ, Việt Bắc trong thơ Tố hữu mộc mạc, gần gũi, Thân thuộc, mang đậm hơi thở của cuộc sống đời
thường. Thơ xưa cảnh thường tính Tại lại trầm lắng, Việt Bắc trong thơ Tố hữu từ màu sắc, âm thanh thật
tôi sáng mắt sống động. Đặc biệt đó là sự gắn bó, hòa hợp giữa con người với thiên nhiên khiến việc một
biện pháp của thơ mộng, hùng vĩ, vừa gần gũi, thân thương

Với giọng điệu tâm tình ngọt ngào, hình ảnh thơ chân thực, gợi cảm. Đoạn thơ và đậm âm hưởng ca dao
dân ca, vừa có vẻ hài hòa tinh tế của thơ ca cổ điển. Tiêu biểu cho phong cách thơ Tố hữu: thơ trữ tình
chính trị đậm tính dân tộc.

“Thơ là tình, nhưng không phải là những cảm xúc hời hợt, mà là lí trí đã chín muồi nhuần nhuyễn. Bài
thơ hay bao giờ cũng gói thêm bên trong một chiều sâu suy nghĩ, chứa đựng ít nhiều chân lí tinh tế của
cuộc đời” (Phương Lựu)

You might also like