Professional Documents
Culture Documents
Chữa các đề Bình Ngô đại cáo
Chữa các đề Bình Ngô đại cáo
Đề 1: Cảm nhận của anh (chị) về bản cáo trạng tội ác của giặc Minh
xâm lược trong đoạn trích sau đây
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
….
Nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Từ đó rút ra NX lý giải vì sao đoạn văn trên đc coi là bản cáo trạng
tội ác giặc Minh xâm lược
I. Mở bài
Nguyễn Trãi là 1 nhà văn, nhà thơ lớn của văn học trung đại
VN. Ông từng đc Tô Thế Huy ví là “Sông Giang, sông Hán trong các
sông và sao Ngưu, sao Đẩu trong các sao, đc Nguyễn Mộng Tuân
vinh danh là “kinh bang hoa quốc cổ vô tiền”. Ông đã để lại cho đời
1 gia tài văn chương vô cùng quý giá. “Văn chương của tiên sinh ….
Sáng sủa, mạnh mẽ, dồi dào, không có gì có thể cheo lấp được
(Nguyễn Năng Tĩnh). “Đại cáo bình Ngô” là tác phẩm lớn của Nguyễn
Trãi, đc xem là áng “thiên cổ hùng văn” (bài văn hùng tráng của
muôn đời). Đọc áng văn này, độc giả không khỏi ấn tượng với bản
cáo trạng tội ác giặc Minh xâm lược trong đoạn trích sau đây:
“ Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
….
Nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung
- Hoàn cảnh ra đời: sau năm 1428
- Bố cục
- Vị trí đoạn trích: (đoạn trích trên thuộc phẩn …., nội dung (= bản
cáo trạng tội ác)
Sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn viện
binh của giăc, Vương Thông buộc phải giảng hòa, chấp nhận rút
quân về nước, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết “Đại cáo bình Ngô“.
“Đại cáo bình Ngô” có ý nghĩa như 1 bản tuyên ngôn độc lập đc công
bố vào tháng Chạp, năm Đinh Mùi (trức đầu nằm 1428). Bài đại cáo
này mang dặc trưng cơ bản của thẻ cáo nói chung, đồng thời có
những sáng tạo riêng của Nguyễn Trãi với kết cấu chặt chẽ 4 phần:
nêu luận đề chính nghĩa, vạch rõ tội ác của kẻ thù, kể lại quá trình
chinh phạt gian khổ và tất thằng của cuộc khởi nghĩa, tuyên bố
chiến quả, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa. Đoạn trích trên thuộc
phần 2 của tác phẩm, là bản cáo trạng đanh thép tội ác giặc minh
xâm lược
2. Cảm nhận đoạn trích
Sau khi mở đầu bài cáo bằng luận đề chính nghĩa, NT đã dựa trên
cơ sở vững chãi đó để vạch trần tội ác của quân xâm lược. Tác giả
vừa đứng trên lập trường dân tộc vừa đứng trên lập trường nhân
bản để tố cáo giặc minh
a. Đứng trên lập trường dân tộc, Nguyễn Trãi vạch trần luận điệu
bịp bợm “phù Trần diệt Hồ” của giặc Minh, chỉ rõ âm mưu cướp nước
ta của chúng:
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong lòng nước dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hại
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”
Việc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần chỉ là 1 nguyên nhân, 1 nguyên cớ
để giặc Minh “thừa cơ gây họa”. Những từ “nhân”, “thừa cơ” trong
bản dịch đã góp phần lột trần luận điệu giả nhân giả nghĩa của
giặc. “Phù Trần diệt Hồ” chỉ là 1 cách “mượn gió bẻ măng”. Âm mưu
thôn tính nước ta vốn có sẵn, có từ lâu trong đầu óc của “thiên
triều”. Nêu cao tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với yêu nước chống xâm
lược, Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu nhân nghĩa xảo trá của
địch: “Nước mày nhân việc nhà Hồ trái đạo, mượn cái tiếng thương
dân đánh kẻ có tội, thật ra là làm việc bạo tàn, lấn cuớp đất nước
ta, bóc lột nhân dân ta …. Nhân nghĩa mà như thế ư? (Thư số 8 – Gửi
Phương Chính)
b. Khi vạch rõ tội ác của giặc Minh, NT đứng trên lập trường dân
tộc khi tố cáo chủ trương cai trị thâm độc và tội ác của giặc Minh
với nhân dân thì NT đứng trên lập trường nhân bản. Nguyễn Trãi
đứng trên lập trường nhân bản. Tác giả đi sâu tố cáo những chủ
trương cai trị phản nhân đạo của giặc Minh:
- Chúng vơ vét tài nguyên, sản vật quý hiếm: ngọc quý , vàng bạc,
hươu đen….
- Chúng hủy hoại môi trường sống, tàn hại giống côn trùng cây cỏ
- Chúng bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy qua thủ đoạn thuế
khóa, phu phen. Dân ta điêu linh, đói khổ bởi nay bắt đi phu xây
đắp đất, mai lại bắt bỏ cả nghề canh cửi. khắp thôn cùng xóm
- Đặc biệt chúng con hủy hoại cuộc sống con người bằng hành động
diệt chủng. Đọc “Đại cáo bình Ngô”, chúng ta thấy hiện lên hình ảnh
người dân vô tội trong tình cảnh bi đát đến cùng cực, không còn
đường sống. Cái chết đợi họ trên rừng, cái chết đợi họ dưới iển,
đúng như lời bài Cáo: “chốn chốn – lưới chăng”, “nơi nơi – cạm
đặt”. Tội ác kẻ thù đc đặc tả trong 2 câu:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Trong bao nhiêu thảm cảnh mà giặc Minh gây ra đối với nhân dân ta
thới bấy giờ còn ghi chép trong sử sách: rút ruột người treo lên cây,
nấu thịt người lấy dầu, phanh thây người phụ nữ có thai, nướng sống
người làm trò chơi, chất thây người làm mồ kỉ niệm,… NT đã khái
quát lại trong 2 hình tượng “nướng dân đen”, “vùi con đỏ”. Những
hình tường này vừa diễn tả 1 cách rất thực tội ác man rợ kiểu trung
cổ của giặc Minh vừa mang tính khái quát, có ý nghĩa khắc vào bia
căm thù để muôn đời nguyền rủa quân xâm lược
- Đối lập với tình cảnh người dân vô tội là hình ảnh kẻ thù xâm lược:
“Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán
Chính ở đây, NT đã trên cơ sở hiện thực để lột tả bộ mặt thật của
quân xâm lược chúng tàn bạo, man rợ như bầy quỷ sứ. CHúng ko chỉ
tham vàng bạc châu báu, tham chim trả, hươu đen, chúng còn có cái
tham của loài quỷ sứ: “máu mỡ bấy no nê chưa chán”. Âm mưu của
chúng “đủ muôn nghìn kế”. Việc làm của chúng: “dối trời lừa dân”.
Tội ác của chúng “Bân nhân nghĩa nát cả đất trời”
-> Để diễn tả tội ác chất chồng của giặc để diễn tả khối căm hờn
chất chứa của nhân dân ta, NT kết thúc bản cáo trạng bằng câu
văn đầy hình tượng:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi”
Lấy cái vô hạn (trúc Nam Sơn) để nói cái vô hạn (tội ác của giặc),
dùng cái vô cùng (nước Đông Hải) để nói cái vô cùng (sự dơ bẩn của
kẻ thù). Câu văn đầy hình tượng đó đã cho ta cảm nhân sâu sắc tội
ác của giặc Minh xâm lược. Nguyễn Trãi đã kết thúc bản cáo trạng
bằng lời tuyên án vô cùng đanh thép:
“Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?”
3. Đánh giá
- Nghệ thuật: Đv có sự kết hợp chặt chẽ của yếu tố chính luận và
yếu tố văn chương
+ Yếu tố chính luận: kết cấu chặt chẽ, lập luận logic sắc bén, lý lẽ
đanh thép hùng hồn, bằng chứng xác thực tiêu biểu
+ Yếu tố văn chương: câu văn biền ngẫu, nhịp nhàng, đăng đối; ngôn
ngữ giàu sức biểu đạt; giọng văn biến hóa linh hoạt (khi thì căm
phẫn trước tội ác của kẻ thù, khi thì thắm thiết, xót xa trước cảnh
lầm than của nhân dân); hình ảnh sinh động, sử dụng thành công
nhiều thủ pháp NT (so sanh, tương phản, liệt kê…)
4. Nhận xét nâng cao: bản cáo trạng tội ác của giặc Minh xâm lược
(nội dung hoặc nghệ thuật)
- Giới thiệu vấn đề cần nhận xét (phải có từ khóa NX)
- Phân tích ngắn gọn = chỉ ra các biểu hiện của vấn đề cần NX
- Nâng cao: đánh giá vai trò của vấn đề cần NX trọng việc tạo nên
các giá trị của tp, phong cách của nhà văn
Đoạn văn trên đúng là 1 bản cáo trạng đanh thép về tội ác
của giặc Minh xâm lược. Bản cáo trạng ấy đã đứng trên lập trường
nhân bản để kết án, vạch trâng những tội ác cướp nước, hại dân của
quân Minh trong suốt 20 năm xâm lược Đại Việt ta. Bản cáo trạng
này có giá trị và ý nghĩa của 1 bản tuyên ngôn nhân quyền đầy tiến
bộ và nhân văn. Và bản cáo trạng thống thiệt này còn làm sáng ngời
1 tư tưởng xuyên suốt toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi:
nhân nghĩa “ưu dân ái quốc”
III. Kết bài
- Nhắc lại tên tác phẩm, tên đoạn trích, từ khóa NX
- Phát biểu cảm nghĩ + câu văn tạo dư âm
“Đại cáo bình Ngô” có sự kết hợp hài hòa giữa cảm hứng chính
trị và cảm hứng nghệ thuật, giữa mục đích chức năng và nghệ thuật
ngôn từ, sự kết hợp đến mức kì diệu mà chưa 1 tác phẩm văn học
chính luận nào đạt tới. Thành công đó thể hiện rõ nhất trong trích
đoạn thứ hai mang giá trị của 1 bản cáo trạng tội ác của giặc Minh
xâm lược. “Đại cáo bình Ngô thật xứng đáng với vinh danh là áng
“thiên cổ hùng văn” không tiền, khoáng hậu