Professional Documents
Culture Documents
Bài 3. Các Thiết Kế Nghiên Cứu Dịch Tễ Học - edited
Bài 3. Các Thiết Kế Nghiên Cứu Dịch Tễ Học - edited
Mục tiêu:
1. Phân loại các thiết kế nghiên cứu dịch tễ học
2. Giải thích được giá trị bằng chứng của các thiết kế nghiên cứu
3. Phân tích được các tiêu chuẩn chọn lựa loại nghiên cứu thích hợp.
4. Giải thích được các yêu cầu về tính tin cậy và tính giá trị của kết quả nghiên cứu DTH
trong tình huống cụ thể
Nội dung
1. Các thiết kế nghiên cứu dịch tễ học cơ bản
1.1. Nghiên cứu dịch tễ học
Nghiên cứu dịch tễ học đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ của dịch tễ
học và y tế công cộng. Các nghiên cứu dịch tễ học thường là các nghiên cứu quần thể, được
tiến hành nhằm đáp ứng các mục đích khác nhau của dịch tễ học, như xác định sự hiện diện
và phân bố của một tình trạng sức khỏe, các yếu tố nguy cơ hay căn nguyên của sự phân bố
tình trạng sức khỏe đó cũng như việc xác định biện pháp can thiệp có hiệu quả nhằm nâng cao
sức khỏe quần thể.
1.2. Các thiết kế nghiên cứu dịch tễ học cơ bản
Trong nghiên cứu dich tễ học, có 2 dạng thiết kế nghiên cứu cơ bản: Nghiên cứu quan sát
(Observational study) và nghiên cứu thử nghiệm (Experimental study)
Ngang
Thuần Bệnh-
phân
tập Chứng
tích
Trong nghiên cứu lâm sàng, ngoài cách như trên còn có thể chia thành ba nhóm theo mục
đích: nghiên cứu phục vụ chẩn đoán, nghiên cứu can thiệp điều trị và nghiên cứu tiên lượng.
Tổng hợp các nhóm thiết kế nghiên cứu cơ bản trong bảng sau:
Bảng 1. Các thiết kế nghiên cứu và thời gian (+: phù hợp/ -: không phù hợp)
Thiết kế nghiên cứu
Phân tích
Thời gian
Mô tả Ngang Can thiệp
Thuần tập Bệnh-chứng
phân tích
Trên thực tế, mức tiêu thụ thịt của mọi người có thể rất khác nhau ở mỗi quốc gia và mức phơi
nhiễm được tính là mức độ tiêu thụ thịt trung bình của tất cả mọi người. Nếu xét về mức độ
tiêu thụ thịt trung bình thì lượng tiêu thụ thịt trung bình sẽ tương quan với tần suất bệnh trung
bình ở mỗi quốc gia. Hay nói cách khác, nghiên cứu này đưa ra thông tin cho thấy tần suất
ung thư đại tràng tăng lên khi lượng tiêu thụ thịt tăng lên.
Đặc điểm của các nghiên cứu sinh thái là không có thông tin về từng cá thể riêng lẻ, do vậy
nếu dữ liệu được tóm tắt trong một bảng tính sẽ chỉ thấy được sỗ liệu về mức độ hiện thị trung
bình trong nhiều nhóm.
- Ưu điểm:
+ Dữ liệu tổng hợp được sử dụng thường có sẵn, do đó thu thập được nhanh và không tốn kém
+ Hiệu quả cho việc sớm hình thành các giả thiết về các mối quan hệ phơi nhiễm- bệnh tật
+ Có thể so sánh các hiện tượng trên nhiều quần thể và địa điểm khác nhau
+ Một số phơi nhiễm quan trọng chỉ có thể được nghiên cứu dựa trên thông tin tổng hợp của
quần thể (ví dụ như nghiên cứu về ảnh hưởng của việc cấm hút thuốc và tỷ lệ xuất hiện các
cơn đau tim)
- Hạn chế:
+ Để phơi nhiễm có thể gây ảnh hưởng trên một cá thể, thì phơi nhiễm và ảnh hưởng phải xảy
ra ở cùng một người, tuy nhiên nghiên cứu sinh thái không có số liệu của từng cá thể, do vậy
không thể biết được tình trạng có hay không bị phơi nhiễm của từng đối tượng. Ví dụ: Khi
không có thông tin về tình trạng bệnh tật của từng cá thể, không thể liên kết trực tiếp yếu tố
nguy cơ cho bệnh trạng đó. Trong ví dụ về lượng thịt tiêu thụ và ung thư đại tràng ở trên
không chỉ ra được những người ăn nhiều thịt có thực sự là những người bị ung thư đại tràng
hay không. Sai lầm này được coi là “ngụy biện sinh thái”.
+ Không có biện pháp hiệu quả để có thể điều chỉnh các yếu tố phơi nhiễm ảnh hưởng đến
tình trạng bệnh tật. Kết quả là, một mối tương quan rõ ràng hoặc không có mối tương quan
mà một nghiên cứu sinh thái chỉ ra có thể gây hiểu nhầm. Ví dụ: Nghiên cứu sinh thái cho
thấy mối tương quan chặt chẽ giữa trung bình số giờ xem TV/ngày và tỷ lệ bệnh mạch vành
giữa các quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, điều này không nhất thiết có nghĩa là TV là một yếu
tố nguy cơ đối với bệnh mạch vành. Có thể có một số khác biệt khác giữa các nhóm dân số có
liên quan đến tỷ lệ xem TV cao hơn như: ít tập thể dục hơn, thực phẩm chế biến sẵn nhiều
hơn v.v. Và ngược lại, việc thiếu mối tương quan không nhất thiết có nghĩa là không có sự
liên kết.
+ Nghiên cứu sinh thái có thể gây hiểu lầm khi đánh giá các mối quan hệ phi tuyến tính. Ví
dụ: một nghiên cứu sinh thái về tương quan giữa việc tiêu thụ rượu bình quân đầu người với
tỷ lệ tử vong do bệnh mạch vành (CHD) ở các quốc gia khác nhau. Kết quả cho thấy một mối
tương quan nghịch giữa hai yếu tố nghiên cứu (1):
Lượng tiêu thụ rượu/bia trung bình tại các nước (lít)
(1) Tỷ suất tử vong do các bệnh mạch (2) Số lần uống mỗi ngày
vành ở nam giới độ tuổi 55-64
Adapted from AR Dyer et al. Prev. Med. 1980; 9(1):78-90.
Tuy nhiên, một nghiên cứu thuần tập với dữ liệu về mức tiêu thụ rượu ở từng đối tượng (theo
mức độ cá nhân) cho thấy người uống vừa phải có tỷ lệ tử vong thấp hơn những người không
uống chút nào, nhưng ở những người uống nhiều rượu/bia thì lại tồn tại một mối tương quan
tuyến tính mạnh về việc tăng mức độ tử vong và tăng sự tiêu thụ rượu/bia (2).
Do vậy có thể thấy kết quả của nghiên cứu sinh thái có thể dẫn đến một kết luận không chính
xác do dựa trên số liệu tổng hợp quần thể.
o Nghiên cứu mô tả các bệnh hiếm bao gồm: 1 ca bệnh hiếm (case report) và chùm bệnh
hiếm (case series)
o Nghiên cứu mô tả một loạt các trường hợp bệnh
Nghiên cứu mô tả
Bệnh
Can thiệp
điều trị
Không bệnh
Quần Sự ngẫu
thể nhiên
Không điều trị Bệnh
hoặc nhóm đối
Sự loại trừ
chứng hoặc
nhóm an thần Không bệnh