You are on page 1of 10

Tham luận

Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại ngoài tòa án, kinh
nghiệm hòa giải thương mại của Liên minh châu Âu và Anh quốc

Luật sư Nguyễn Mạnh Dũng & Đặng Vũ Minh Hà1

Việc sử dụng phương pháp hòa giải để giải quyết các tranh chấp
thương mại đã được biết đến từ lâu ở châu Âu. Gần đây, phương pháp này
ngày càng được sử dụng một cách rộng rãi và đạt được hiệu quả tích cực. Tuy
nhiên, hòa giải vẫn còn là một vấn đề rất mới tại Việt Nam. Do đó, để xây
dựng hệ thống pháp luật về hòa giải thương mại tại Việt Nam, trước hết cần
phải hiểu rõ hòa giải là gì và phân biệt được hòa giải với các phương thức giải
quyết tranh chấp khác, sau đó tham khảo kinh nghiệm xây dựng luật của
những quốc gia đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực hòa giải để rút ra bài
học xây dựng pháp luật về hòa giải tại Việt Nam.
1. Phân biệt các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại thay
thế tranh tụng tại tòa án: thương lượng, hòa giải, trọng tài.
1.1. Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại thay thế
tranh tụng tại tòa án là gì?
Hiện nay chưa có một định nghĩa chung thống nhất nào cho khái niệm
“Alternative dispute resolution” (ADR) tức các phương thức giải quyết tranh
chấp lựa chọn hay các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế tranh tụng
tại tòa án.
Tuy nhiên, nhìn chung ADR có thể được coi là tất cả phương thức giải quyết
tranh chấp thay thế, ngoài tòa án và mang những đặc điểm chung2 sau đây:
 Có tranh chấp xảy ra giữa các bên liên quan đến các quyền và nghĩa
vụ dân sự. Tranh chấp đó có thể giải quyết thông qua tòa án tuy
nhiên các bên lựa chọn giải quyết bằng một phương thức khác,
thông thường phương thức này có thủ tục linh hoạt hơn tòa án.
 Quá trình giải quyết tranh chấp thường tiến hành không công khai.
 Quá trình giải quyết tranh chấp có thể được tiến hành bởi chính các
bên, luật sư của các bên hoặc có sự tham gia của một bên thứ ba.

1
Luật sư Nguyễn Mạnh Dũng là Thạc Sỹ Luật Giải quyết tranh chấp quốc tế của Trường Luật Queen Mary,
ĐHTH Luân Đôn, Giám đốc Công ty Luật TNHH Tư vấn Độc Lập có tên giao dịch quốc tế là Dzungsrt &
Associates LLC, một hãng luật chuyên sâu về luật hàng hải và ADR: www.dzungsrt.com.

Đặng Vũ Minh Hà là Thạc Sỹ Luật Thương mại quốc tế của Trường Luật Lecester, trợ lý nghiên cứu
2

1
Về cơ bản, có 3 phương thức giải quyết tranh chấp thay thế tranh tụng
tại tòa án chính là: thương lượng, hòa giải (trung gian)3 và trọng tài. Có quan
điểm cho rằng trọng tài không phải ADR bởi nó là một hệ thống xét xử trong
khi có một số quan điểm khác lại cho rằng thương lượng không phải một
hình thức ADR vì nó không có sự tham gia của một bên thứ ba hỗ trợ việc
giải quyết tranh chấp4. Những cuộc tranh cãi vẫn chưa đi đến hồi kết, tuy
nhiên, thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa nhận cả 3 phương thức trên.
1.2. Hòa giải là gì?
Trung tâm Giải quyết tranh chấp hiệu quả (CEDR) của Anh, một trong
những tổ chức cung cấp dịch vụ ADR hàng đầu trên thế giới đã định nghĩa
hòa giải là: “… một quá trình linh hoạt được tiến hành không công khai mà
trong đó một người trung gian sẽ hỗ trợ các bên một cách tích cực trong việc
đạt được thỏa thuận thương lượng về một sự khác biệt hay tranh chấp và các
bên nắm quyền kiểm soát chính về quyết đinh giải quyết tranh chấp và các
quy định về giải quyết tranh chấp”5. Các quốc gia có thể có các định nghĩa
khác nhau về hòa giải nhưng trong đó đều thừa nhận vai trò của hòa giải viên
như là một thành phần trung gian hỗ trợ tích cực cho quá trình hòa giải.

1.3. Phân biệt hòa giải với các các phương thức giải quyết tranh
chấp thương mại thay thế, ngoài tòa án khác
Mặc dù các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế có một số đặc
điểm chung như được nêu ở trên, mỗi phương thức lại có những đặc điểm
riêng biệt. Trong đó, thương lượng và hòa giải có nhiều điểm tương tự nhau
và phân biệt với trọng tài. Sở dĩ trọng tài được coi là khác biệt với hai phương
thức ADR còn lại bởi nó là một hình thức xét xử mang tính chất tranh tụng
được tổ chức có hệ thống. Trọng tài có sự tham gia của một bên thứ ba (trọng
tài viên) là người đứng ra phân xử tranh chấp giữa các bên. Trong khi đó,
thương lượng và hòa giải dù có hay không có bên thứ ba (hòa giải viên) tham
gia thì cũng chỉ là sự dàn xếp, thỏa thuận giữa các bên, không có việc phân xử
mang tính chất tài phán. Hơn nữa, ngoài những thỏa thuận giữa các bên, về
mặt thủ tục, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài phải tuân theo một số
quy tắc nhất định (quy tắc trọng tài của trung tâm trọng tài và luật trọng tài tại
quốc gia diễn ra trọng tài) trong khi gánh nặng này thường ít hơn đối với hòa
giải và gần như không có đối với thương lượng.
3
Hai thuật ngữ này để chỉ hai phương thức tương tự nhau và ngày càng được sử dụng một cách không phân
biệt. Xem thêm “Trọng tài và các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn”, trang 67-68.
4
Susan Blake, Julie Browne, Stuart Sime , A Practical Approach to Alternative Dispute Resolution, Oxford
University Press (2012) 159
5
http://www.cedr.com/news/?item=CEDR-revises-definition-of-mediation

2
Ngoài điểm khác biệt cơ bản là sự tham gia của hòa giải viên, thương
lượng và hòa giải có những điểm chung6 sau:
 Có thể tiến hành trong bất cứ giai đoạn nào của tranh chấp.
 Không buộc phải tuân theo một thủ tục chặt chẽ về hình thức trừ
những gì được thỏa thuận bởi các bên.
 Sự thành công của hai phương pháp đều được thể hiện bằng một
thỏa thuận dàn xếp giữa các bên.

2. Kinh nghiệm hòa giải thương mại của Anh quốc và liên minh châu
Âu
Châu Âu chính là nơi “khai sinh” của phương thức giải quyết tranh
chấp bằng hòa giải. Đây cũng được coi là nơi mà hòa giải được sử dụng nhiều
nhất và thành công nhất hiện nay. Do đó, để rút ra được những kinh nghiệm
xây dựng pháp luật hòa giải trước hết chúng ta cần phải xem xét luật pháp về
hòa giải ở đây.
2.1. Luật pháp về hòa giải ở Anh quốc và liên minh châu Âu
Hòa giải thương mại ở châu Âu được điều chỉnh bởi Chỉ thị
2008/52/EC của Nghị viện châu Âu và Hội đồng châu Âu về một số khía cạnh
của Hòa giải trong các vấn đề Dân sự và Thương mại (link:………). Chỉ thị
này có hiệu lực từ 13/6/2008 và yêu cầu tất cả các nước thành viên của liên
minh châu Âu (trừ Đan Mạch) phải thi hành thông qua việc ban hành, sửa đổi
các văn bản luật, quy định và quy tắc hành chính muộn nhất là ngày
20/05/2011. Tuy nhiên, Chỉ thị này chỉ áp dụng cho hòa giải thương mại và
dân sự “qua biên giới” (tức là khi các bên trong tranh chấp mang các quốc
tịch khác nhau) chứ không phải với việc hòa giải trong nội bộ một quốc gia.
Chỉ thị điều chỉnh các vấn đề chính như sau:
- Chất lượng của hòa giải (Điều 4): các quốc gia phải cam kết sẽ sử
dụng mọi biện pháp mà họ cho rằng hợp lý để khuyến khích sự phát
triển của hòa giải. Việc đảm bảo chất lượng hòa giải (thông qua các
quy tắc hành xử hoặc thông qua các dịch vụ đào tạo hòa giải viên) có
thể do mỗi quốc gia quy định hoặc do thị trường tự điều chỉnh.
- Tòa án và hòa giải (Điều 5): Điều này không quy định nghĩa vụ bắt
buộc hòa giải mà tòa án chỉ khuyến khích và ủng hộ các bên trong việc
giải quyết tranh chấp bằng hòa giải.
- Khả năng thi hành của thỏa thuận hòa giải thành (Điều 6): các quốc
gia thành viên phải đảm bảo một hoặc các bên trong tranh chấp có thể

3
thi hành được thỏa thuận hòa giải thông qua một phán quyết hoặc quyết
định của tòa án hoặc cơ quant thi hành án trừ khi thỏa thuận đó trái với
pháp luật của quốc gia thành viên.
- Tính bảo mật (Điều 7): một trong những đặc điểm nổi bật của việc giải
quyết tranh chấp bằng hòa giải đó là việc nó được tiến hành không
công khai. Chính vì thế các hòa giải viên có trách nhiệm giữ bí mật
thông tin của vụ việc trừ khi các bên có thỏa thuận khác hoặc trừ một
số trường hợp được quy định theo pháp luật.
- Hậu quả của việc giải quyết tranh chấp bằng hòa giải và thời hiệu
(Điều 8): theo quy định này, việc các bên tiến hành hòa giải không tước
bỏ quyền giải quyết tranh chấp bằng tòa án hoặc trọng tài của họ. Đồng
thời, thời gian mà các bên tiến hành hòa giải sẽ được trừ vào thời hiệu
khởi kiện đối với vụ kiện tại tòa án hoặc trọng tài.
- Thông tin về hòa giải (Điều 9 và 10): để nâng cao vai trò và tối ưu hóa
hiệu quả của hòa giải, các quốc gia thành viên được khuyến khích cung
cấp các thông tin đến với đại chúng, đặc biệt là thông qua mạng
Internet, về việc giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, thông tin về các
hòa giải viên, các trung tâm cung cấp dịch vụ và các tòa án hay cơ quan
thi hành án có thể hỗ trợ việc thi hành thỏa thuận hòa giải thành.
Tuy nhiên chỉ thị này chỉ đưa ra những quy định chung nhất và các
quốc gia thành viên được quyền tự do xây dựng luật quốc gia của mình phù
hợp với chỉ thị này. Mỗi quốc gia lại có một cách tiếp cận khác nhau với việc
quy định pháp luật điều chỉnh hòa giải. Về cơ bản có 3 cách tiếp cận chính7 đó
là:
- Quy định chặt chẽ và chi tiết: ví dụ Đạo luật về hòa giải dân sự của Áo
quy định cụ thể về Hội đồng tư vấn hòa giải, đăng ký hòa giải viên,
quyền và nghĩa vụ của các hòa giải viên đã được đăng ký, tạm dừng
thời hiệu, các trung tâm đào tạo hòa giải viên… Bên cạnh đó Quy định
về Đào tạo Hòa giải viên của Áo cũng liệt kê chi tiết nội dung của việc
đào tạo các hòa giải viên đã được đăng ký.
- Chỉ quy định rất ít: ví dụ Bộ quy tắc Tố tụng dân sự của Anh chỉ có
một số rất ít quy định về hòa giải, chẳng hạn như về chi phí, những vấn
đề cơ bản khác như thủ tục hòa giải và đào tạo các hòa giải viên sẽ
được quy định bởi các tổ chức tư nhân khác và được tự điều chỉnh theo
nhu cầu của thị trường hòa giải.

4
- Quy định một cách chọn lọc: cách tiếp cận này nhằm điều hòa giữa tính
tự nguyện của hòa giải và việc lạm dụng một cách thái quá tính tự do.
Đây là cách tiếp cận của Đức được cụ thể hóa trong Luật Hòa giải Đức.
Việc quy định chặt chẽ hay để thị trường tự điều chỉnh không phải là
yếu tố quyết định sự thành công của hòa giải. Điều này còn phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố khác nữa trong đó có nhận thức của các nhà chức trách, cộng
đồng doanh nghiệp cũng như trình độ của hòa giải viên.

2.2. Thực tiễn hòa giải tại Anh quốc và liên minh châu Âu
Anh quốc và Hà Lan là hai quốc gia được coi là hai quốc gia có nhiều
thành tựu nhất tại châu Âu trong việc giải quyết tranh chấp bằng hòa giải.
Theo số liệu thống kê năm 2011 của Trung tâm hòa giải Hà Lan (NMI),
51690 vụ việc đã được giải quyết bằng hòa giải tại NMI. Trái lại, tại một số
quốc gia khác, chẳng hạn như Bungari, hòa giải chỉ được tiến hành vài trăm
vụ trong vòng 1 năm8.
CEDR là trung tâm cung cấp dịch vụ giải quyết tranh chấp thương mại
ngoài tòa án hàng đầu tại châu Âu và một trong những trung tâm ADR lớn
nhất trên thế giới. Ngoài các dịch vụ giải quyết tranh chấp như thương lượng,
hòa giải và trọng tài, CEDR còn cung cấp các dịch vụ quản lý xung đột cho
các doanh nghiệp cũng như các tổ chức của chính phủ và tổ chức các khóa
đào tạo nâng cao trình độ và kĩ năng cho các hòa giải viên. Ngoài ra, CEDR
thường xuyên tiến hành kiểm toán và thống kê các số liệu về ADR.
Theo số liệu kiểm toán năm 20149: số lượng vụ việc về dân sự và
thương mại đạt trung bình 9500 vụ/năm, tăng 9% so với báo cáo kiểm toán
năm 2012; bằng việc nhanh chóng giải quyết tranh chấp so với thời gian có
thể tiêu tốn tại tòa án, hòa giải thương mại năm 2012 tiết kiệm cho các doanh
nghiệp khoảng 2,4 triệu Bảng Anh mỗi năm; kể từ năm 1990, việc giải quyết
tranh chấp bằng hòa giải đã tiết kiệm được khoảng 17,5 triệu Bảng Anh. Theo
báo cáo từ các hòa giải viên của CEDR, hơn 70% các vụ việc được hòa giải
thành trong ngày, 20% thành công sau đó một thời gian ngắn, nâng tổng số vụ
việc hòa giải thành của CEDR lên tới 90%.

3. Đề xuất, kiến nghị xây dựng mô hình hòa giải thương mại phù hợp
với thực tiễn Việt Nam

8
Dr Felix Steffek LLM (Cambridge), Mediation in the European Union: An Introduction, June 2012. Có thể
truy cập tại địa chỉ:
http://www.diamesolavisi.net/kiosk/documentation/Steffek_Mediation_in_the_European_Union.pdf
9
http://www.cedr.com/docslib/TheMediatorAudit2014.pdf

5
Các số liệu trên cho thấy hòa giải thực sự là một biện pháp giải quyết
tranh chấp hiệu quả, tiết kiệm được chi phí và thời gian cho các bên, đồng
thời phần nào giảm gánh nặng cho tòa án. Tuy nhiên để thực sự đạt được hiệu
quả cao nhất của hòa giải tại Việt Nam thì cần phải xây dựng mô hình hòa
giải thương mại thích hợp.
3.1. Nên lựa chọn cách tiếp cận nào?
Vì hệ thống pháp luật của Việt Nam về bản chất là theo hệ thống Dân
luật (Civil Law), nên để hoạt động hòa giải được tổ chức một cách có hệ
thống và hiệu quả thì cần phải có văn bản pháp luật cụ thể liên quan đến vấn
đề này. Tuy nhiên, nền tảng của hòa giải là dựa trên sự tự nguyện của các bên,
đề cao nguyên tắc tự thỏa thuận giữa các bên (party autonomy) nên cũng
không nên quy định quá cụ thể và chặt chẽ. Hướng tiếp cận quy định một cách
có chọn lọc theo như pháp luật của Đức đã được nêu ở trên có lẽ là phù hợp
nhất.
3.2. Pháp luật về hòa giải cần quy định những gì?
 Các hình thức hòa giải
Cần khuyến khích cả hai hình thức hòa giải là : hòa giải có tổ chức
(institutional mediation) và hòa giải theo vụ việc (ad-hoc).
 Tổ chức cung cấp dịch vụ hòa giải
Cần có các quy định về việc thành lập, hoạt động và chấm dứt hoạt
động của các tổ chức cung cấp dịch vụ hòa giải. Có thể tham khảo mô hình
của Trung tâm trọng tài quốc tế Hồng Kong (HKIAC), Trung tâm hòa giải
Singapore (SMC) hoặc trung tâm hòa giải quốc tế Singapore (SIMC) mới
được thành lập, các trung tâm này cung cấp rất nhiều dịch vụ liên quan đến
giải quyết tranh chấp bao gồm cả dịch vụ hòa giải, hòa giải trực tuyến và các
khóa đào tạo hòa giải viên. Các tổ chức hòa giải có thể có bộ quy tắc hòa giải
riêng và danh sách hòa giải viên của mình.
 Tiêu chuẩn của hòa giải viên
Theo tiêu chuẩn chung quốc tế, hòa giải viên phải là người có tính độc
lập và vô tư. Hơn nữa, hòa giải viên cần phải được đào tạo kỹ năng hòa giải
cơ bản để trở thành hòa giải viên chuyên nghiệp phục vụ tại các trung tâm hòa
giải hoặc hoạt động với tư cách hòa giải viên tự do.
Các trung tâm hòa giải có thể quy định quy tắc hành xử của hòa giải
viên mà một trong những nghĩa vụ cơ bản và quan trọng nhất đó là việc đảm
bảo tính bảo mật thông tin của vụ tranh chấp.
 Thủ tục tiến hành hòa giải

6
Vì hòa giải dựa trên nền tảng cơ bản là nguyên tắc tự nguyện thỏa
thuận giữa các bên nên việc quy định các thủ tục tiến hành hòa giải cũng phải
tôn trọng nguyên tắc này. Những quy định về thủ tục tiến hành hòa giải nên
theo hướng ủng hộ cho hòa giải. Chẳng hạn như quy định về thi hành thỏa
thuận hòa giải, cách tính thời hiệu khởi kiện khi diễn ra hòa giải, các quy định
về chứng cứ… Ngoài ra các tổ chức hòa giải cũng có thể có các bộ quy tắc
hòa giải của riêng mình.
 Giá trị pháp lý và hiệu lực thi hành của thỏa thuận hòa giải
và thỏa thuận hòa giải thành
Thỏa thuận hòa giải là nơi ghi nhận những ý chí tự nguyện hòa giải của
các bên. Vì thế cần phải có quy định về giá trị pháp lý của thỏa thuận này và
việc thi hành thỏa thuận.
Bên cạnh đó, thỏa thuận hòa giải thành là kết quả của quá trình hòa
giải. Nó có giá trị như một hợp đồng ràng buộc các bên. Cần phải có sự hỗ trợ
từ tòa án trong việc đăng ký, công nhận và thi hành thỏa thuận hòa giải thành.
Có như vậy thì việc hòa giải mới thực sự đạt được ý nghĩa của nó.

KẾT LUẬN

Theo ông George Lim SC, luật sư thành viên của công ty luật Wee Tay
& Lim: “Trong khi trọng tài hiện đang được coi là một phương thức hấp dẫn
để giải quyết các tranh chấp xuyên biên giới, hòa giải lại tỏ ra là một phương
thức tiết kiệm chi phí và thời gian hơn rất nhiều. Nó chỉ còn là vấn đề thời
gian trước khi cộng đồng kinh doanh quốc tế nhận ra rằng họ nên nỗ lực hòa
giải trước khi đưa tranh chấp ra giải quyết bằng tòa án hay trọng tài”10. Qua
đó có thể thấy rằng hòa giải đang dần được công nhận và ủng hộ như một
phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả, tiết kiệm thời gian, chi phí cho
các bên. Hơn nữa, hòa giải không chỉ giải quyết tranh chấp giữa các bên mà
còn giúp các bên trong tranh chấp giữ được mối quan hệ. Để đảm bảo hoạt
động hòa giải được tiến hành một cách hiệu quả nhất, việc xây dựng khung
pháp luật điều chỉnh hoạt động này là cần thiết. Pháp luật về hòa giải cần phải
tuân theo các chuẩn mực quốc tế dựa trên cơ sở tham khảo Luật mẫu
UNCITRAL và Luật mẫu châu Âu về hòa giải và luật hòa giải của một số
nước trong khu vực như Singapore, Hongkong… nhưng đồng thời cũng đảm
bảo sự thống nhất với hệ thống pháp luật và các ngành luật có liên quan như
10
George Lim SC, Back to “MediAsian”. Truy cập trực tuyến tại
http://whoswholegal.com/news/features/article/31678/back-mediasian/?
utm_medium=email&utm_source=Law+Business+Research&utm_campaign=4607315_WHO+Briefing&dm
_i=1KSF,2QR0Z,9GPHP3,9ZO4J,1

7
luật trọng tài, luật hợp đồng và luật tố tụng dân sự. Bên cạnh đó, để xây dựng
mô hình tổ chức hòa giải hoạt động hiệu quả cũng cần tham khảo và học hỏi
mô hình của các trung tâm hòa giải thành công trong khu vực và trên thế giới
như HKIAC, SMC, SIMC, CEDR…
Ngoài ra, cần chú trọng việc phổ biến thông tin nhằm nâng cao nhận
thức của các nhà chức trách, cá nhân và cộng đồng doanh nghiệp về hòa giải.
Có như vậy thì hòa giải mới thực sự phát huy hết vai trò là một phương thức
giải quyết tranh chấp lựa chọn ngoài tòa án hiệu quả.

8
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Susan Blake, Julie Browne, Stuart Sime, A Practical Approach to Alternative
Dispute Resolution, Oxford University Press (2012)
2. Palmer and Roberts S. 4.1.-4.3., S. 4.5.-4.7.
3. Lon Fuller, “Mediation – Its Forms and Functions”, in Wendy Trachte-Huber and
Stephen Huber, Reaching Agreement in Law and Business (1998)
4. Jeffrey Krivis, “The Five Stages of Mediation”, Mediate.com
5. Gunthia A. Savage, “Culture and Mediation: A Red Herring”, 5 Am. U. J. Gender &
L. 269 (1996-1997)
6. Stages of Mediation, in H. Brown and A. Marriott, ADR : Principles and Practice,
(1999)
7. Kimberlee K. Kovach & Lela P. Love, “Risks of Riskin’s Grid”, 3 Harv. Negot. L.
Rev. 71 (1998) (critique of evaluative-facilitative dichotomy).
8. Robert A. Baruch Bush, “Transformative Mediation: Efficiency and Protection, or
Empowerment and Recognition? The Mediator’s Role and Ethical Standards in
Mediation”, 41 Fla. L. Rev. 253 (1989)
9. Neal Milner, “Mediation and Political Theory: A Critique of Bush and Folger”, 21
Law & Soc. Inquiry 738 (1996)
10. Gary Paquin & Linda Harvey, “Therapeutic Jurisprudence, Transformative
Mediation and Narrative Mediation: A Natural Connection” 3 Fla. Coastal L.J. 167
(2001-2002)
11. Robert A. Baruch Bush, “Substituting Mediation for Arbitration: The Growing
Market for Evaluative Mediation, And What It Means for the ADR Field”, 3 Pepp.
Disp. Resol. L.J. 111 (2002)
12. Leonard L. Riskin, “Understanding Mediators' Orientations, Strategies, and
Techniques: A Grid for the Perplexed”, 1 Harv. Negot. L. Rev. 7 (1996)
13. James K.L. Lawrence, “Collaborative Lawyering: A New Development in Conflict
Resolution”, 17 Ohio St. J. on Disp. Resol. 431 (2002)
14. Leonard Riskin, “The Contemplative Lawyer: On the Potential Contributions of
Mindfulness Meditation to Law Students, Lawyers, and their Clients”, 7 Harv.
Negot. L. Rev. 1 (2002)
15. Kimberlee K. Kovach & Lela P. Love, "Evaluative" Mediation Is an Oxymoron”, 14
Alternatives to High Cost Litig. 31 (1996)
16. Lela P. Love, “The Top Ten Reasons Why Mediators Should Not Evaluate”, 24 Fla.
St. U. L. Rev. 937 (1997)
17. Robert B. Moberly, “Mediator Gag Rules: Is It Ethical for Mediators to Evaluate or
Advise?”, 38 S. Tex. L. Rev. 669 (1997)
18. Joseph B. Stulberg, “Facilitative Versus Evaluative Mediator Orientations: Piercing
the "Grid" Lock”, 24 Fla. St. U. L. Rev. 985 (1997)
19. Murray S. Levin, “The Propriety of Evaluative Mediation: Concerns about the
Nature and Quality of an Evaluative Opinion”, 16 Ohio St. J. on Disp. Resol. 267
(2001)
20. James H. Stark, “Ethics of Mediation Evaluation: Some Troublesome Questions and
Tentative Proposals, from an Evaluative Lawyer Mediator”, 38 S. Tex. L. Rev. 769
(1997)
21. John Bickerman, “Evaluative Mediator Responds”, 14 Alternatives to High Cost
Litig. 70 (1996)
22. Scott H. Hughes, “Facilitative Mediation or Evaluative Mediation: May Your Choice
Be a Wise One”, 59 Ala. Law. 246 (1998)

9
23. James J. Alfini, “Evaluative versus Facilitative Mediation: A Discussion”, 24 Fla. St.
U. L. Rev. 919 (1997)
24. Ellen A. Waldman, “The Evaluative-Facilitative Debate in Mediation: Applying the
Lens of Therapeutic Jurisprudence”, 82 Marq. L. Rev. 155 (1998)
25. Carrie Menkel-Meadow, “When Dispute Resolution Begets Disputes of its Own:
Conflicts Among Dispute Professionals”, 44 UCLA L. Rev. 1871 (1997)
26. Robert A. Baruch Bush & Joseph P. Folger, The Promise of Mediation: Responding
to Conflict Through Empowerment and Recognition (1994)
27. Extract: Paula M. Young, “Take It or Leave It. Lump It or Grieve It: Designing
Mediator Complaint Systems That Protect Mediators, Unhappy Parties, Attorneys,
Courts, the Process, and the Field” 21 Ohio St. J. on Disp. Resol. 721 (2006)
28. W. Lee Dobbins, “The Debate Over Mediator Qualifications: Can They Satisfy the
Growing Need to Measure Competence Without Barring Entry into the Market?”, 7
U. Fla. J.L. & Pub. Pol'y 95 (1995)
29. Stephanie Henning, “A Framework for Developing Mediator Certification
Programs”, 4 Harv. Negot. L. Rev. 189 (1999)
30. CPR-Georgetown Commission on Ethics and Standards in ADR “Principles for ADR
Provider Organizations”, 56 U. Miami L. Rev. 983 (2002)
31. Maurits Barendrecht, Berend R. de Vries, “Fitting the Forum to the Fuss With Sticky
Defaults: Failure in the Market for Dispute Resolution Services?” 7 Cardozo J.
Conflict Resol. 83 (2005)
32. Robert A. Baruch Bush, “One Size Does Not Fit All: A Pluralistic Approach to
Mediator Performance Testing and Quality Assurance”, 19 Ohio St. J. on Disp.
Resol. 965 (2004)

10

You might also like