Professional Documents
Culture Documents
Giao Trinh Tu Phap Quoc Te P
Giao Trinh Tu Phap Quoc Te P
GIÁO TRÌNH
Tư PHÁP
QUỐC TẾ
N H À X U Ấ T. B Ả N C Ô N G A N N H Â N D Â N
GIÁO TRÌNH
Tư PHÁP QUỐC TÊ
Giáo trình
Tư PHÁP QUỐC TÊ
T ập th ể tác giả
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
CHUƠNGI
KHÁI NIỆM VỂ T ư PHÁP QUỐC TÊ
VÀ NGUỔN CỦA T ư PHÁP QUỐC TẾ
Sự hợp tác quốc tế về mọi mặt giữa các quốc gia là hiện
thực tất yếu khách quan trong mọi thời đại. Việc củng cố và
tãng cường hợp tác giữa các quốc gia thể hiện trong quan hệ
dưới nhiều hình thức và phương diện: giữa các quốc gia và
đồng thời cũng như giữa công dân và pháp nhân của họ.
Quan hệ quốc tế là tổng thể các quan hệ giữa các công dân
và pháp nhân của các nước và giữa các nước với nhau.
Mọi lĩnh vực quan hộ pháp lý giữa các quốc gia thuộc đối
tượng điều chỉnh của Công pháp quốc tế. Còn các quan hệ
pháp lý giữa công dân và pháp nhân phát sinh trong đời sống
quốc tế thuộc lĩnh vực điều chỉnh của Tư pháp quốc tế.
Các quan hệ giữa công dân và pháp nhân của các quốc
gia trên th ế giới rất phong phú, đa dạng và cũng rất phức tạp.
Chúng bao gồm những vấn đề như sau:
- Năng lực pháp luật dân sự của thể nhân nước ngoài và
pháp nhân nước ngoài;
Các quy phạm của Tư pháp quốc tế điều chinh các quan
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
hệ pháp luật dân sự, thương m ại, gia đình, lao động có yếu to
nước ngoài (hay còn gọi là yếu tố quốc tế). Các quan hệ này
là các quan hệ nhân thân và các quan hệ tài sản, trong đó các
quan hệ tài sản là chủ yếu. Đ ặc điểm của các quan hệ này là
luôn vượt ra khỏi "biên giới" của quốc gia hay còn nói cách
khác là nó luôn luôn liên quan đến m ột hoặc nhiều quốc gia
khác. N hư vậy, nó phải liên quan hoặc phụ thuộc vào các
quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia này.
Đặc thù của Tư pháp quốc tế là điều chỉnh các quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài, cho nên trong Tư pháp quốc tế
cũng có quy phạm đặc thù để điều chỉnh các quan hệ này, đó
là các quy phạm xung đột (các quy phạm xung đột sẽ được
xem xét kỹ ở Chương lĩ). Q uy phạm xung đột không trực
tiếp giải quyết các quan hệ cụ thể m à chỉ quy định nguyên
tắc "chọn luật" của nước này hay nước kia được áp dụng để
giải quyết m à thôi.
V í dụ: M ột công ty A của H à Nội V iệt N am có quyền
tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp ký kết m ột hợp đồng mua
xe gắn m áy (hai bánh) của m ột công ty B của N hật Bản. Hợp
đồng được ký kết tại Singapo. Khi nhận hàng Công ty A phát
hiện thấy hàng không đủ tiêu chuẩn chất lượng như trong
hợp đồng đã thỏa thuận. Để giải quyết tranh chấp này thì
luật nước nào sẽ được áp dụng để giải quyết. Trường hợp này
vì hợp đồng được ký kết tại Singapo ncn Luật Singapo sẽ có
thể được áp dụng để giải quyết (áp dụng nguyên tac luật nơi
ký kết hợp đồng).
Các quy phạm xung đột về kỹ thuật pháp lý m à nói thì nó
là các quy phạm khá phức tạp của Tư pháp quốc tế. T ổn° thể
các quy phạm xung đột được quốc gia ban hành, hay thỏa
thuận và chấp nhận được gọi là luật xung đột. Tư pháp quốc
10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
tế không chỉ bao gồm luật xung đột. Luật xung đột chỉ là
m ột phần của Tư pháp quốc tế, mặc dù là phần phức tạp và
có thể nói là rất "then chốt" của Tư pháp quốc tế.
T ư pháp quốc tế là tổng th ể các quv phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự, thương mại, hôn nhân và
gia đình, lao động và tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài.
Như vậy, chính đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế (nhóm
quan hệ xã hội mà Tư pháp quốc tế điều chỉnh) nó có ý nghĩa
quyết định đến phương pháp điểu chỉnh của Tư pháp quốc tế.
Có hai phương pháp điều chỉnh của Tư pháp quốc tế, đó là:
- Phương pháp thực chất;
- Phương pháp xung đột.
Cả hai phương pháp cùng được áp dụng đồng thời, nhưng
trong những trường hợp nhất định thì chỉ cần áp dụng
phương pháp thực chất nên có thể nói là nó có ưu thế hơn.
Đây là các trường hợp mà quy phạm thực chất đã được nhất
thể hóa trong các điều ước quốc tế. Trong quá trình hợp tác
quốc tế về mọi mặt: kinh tế, thương mại, kỹ thuật, văn hóa,
giao thông vận tải v.v. Các quốc gia đã nhất thể hóa được rất
nhiều vấn đề và có thể nói rằng đây là quá trình quốc tế hóa
đời sống kinh tế - xã hội giữa các nước.
Các quốc gia không chỉ dừng ở việc nhất thể hóa các quy
phạm thực chất m à còn thống nhất hóa các quy phạm xung
đột trong các điều ước quốc tế. Trong khi các điều kiện về
lịch sử, dân tộc, trình độ phát triển và lợi ích v.v. của các quốc
gia còn khác biệt và thậm chí khác xa nhau thì việc nhất thể
hóa các quy phạm thực chất là khó khăn, nhưng thống nhất
hóa các quy phạm xung đột thì lại dễ hơn và cách này tỏ ra
hữu hiệu và thực tế hơn. v ề mặt nào đó, ta có thể nói là
11
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
quyền xét xử của tòa án (conflict de jurisdiction). Ở Đức, Tư
pháp quốc tế được nghiên cứu như là m ột ngành luật xung
đột, trong đó đề cập cả các vấn đề liên quan đến tố tụng dân
sự quốc tế.
Liên quan đến đối tượng điểu chỉnh của Tư pháp quốc tế
cần phải được nhìn nhận về tên gọi của ngành luật cũng như
ngành khoa học pháp luật này. T huật ngữ Tư pháp quốc tế
(Private international law) được sử dụng lần đầu tiên vào
năm 1834 trong tác phẩm củ a luật g ia nổi tiếng người M ỹ
Dj. Story. Trước đó người ta dùng thuật ngữ L u ật xu ng đột
(Conflict o f Law) để thay cho Tư pháp quốc tế. Ở cấc quốc
gia châu  u thuật ngữ trên được sử dụng vào những năm 40
của th ế kỷ 19 (D roit international privé - tiếng Pháp,
Internationales Privatrecht - tiếng Đức).
Ngày nay thuật ngữ này được thừa nhận trong rất nhiều
ngôn ngữ, và Tư pháp quốc tế vừa được hiểu với tư cách là một
ngành luật độc lập, vừa lại là m ột ngành khoa học pháp lý.
Trong hệ thống pháp luật V iệt N am không chia ra làm
"luật công" và "luật tư", cho nên thuật ngữ Tư pháp quổc tế
được sử dụng theo quy ước m à thôi.
Với nghĩa chung nhất thì nguồn của các quy phạm pháp
luật là các điều kiện vật chất của đời sống xã hội. Còn riêng
trong khoa học pháp lý thì nguồn của pháp luật là các hình
thức chứa đựng và thể hiện các quy phạm pháp luật.
N guồn của Tư pháp quốc tế có những đặc thù riêng biêt
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhất định của mình. Vì các quan hệ Tu pháp quốc tế rất đa
dạng và phức tạp.
Hiện nay, nguồn của Tư pháp quốc tế bao gồm các loại
sau đây:
1. Luật pháp của mỗi quốc gia;
2. Điều ước quốc tế;
3. Thực tiễn tòa án và trọng tài (hay còn gọi là án lệ);
4. Tập quán.
Thực tiễn cho thấy rằng mối tương quan và vị trí giữa các
loại nguồn của Tư pháp quốc tế ở mỗi quốc gia là khác nhau.
Tiếp đến là phụ thuộc vào các quan hệ pháp luật này hay kia
được điểu chỉnh bằng các quy phạm pháp luật ở các loại
nguồn khác nhau giữa các nước.
Khoa học Tư pháp quốc tế Việt Nam đã được kiểm
nghiệm trong những năm vừa qua cho thấy rằng đặc điểm cơ
bản nguồn của Tư pháp quốc tế mang hai tính chất:
Thứ nhất, nguồn của Tư pháp quốc tế là điều ước quốc tế
và tập quán quốc tế, nó mang tính chất điều chỉnh quốc tế;
T h ứ hai, nguồn của Tư pháp quốc tế là luật pháp của
mỗi quốc gia, nó m ang tính chất điều chỉnh quốc nội (điều
chỉnh chỉ trong nội bộ quốc gia). Hai tính chất này luôn
thống nhất với nhau trong điều chỉnh các quan hệ Tư pháp
quốc tế - đó là các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình,
lao động, thương mại và tố tụng dân sự có yếu tố nước
ngoài (hay còn gọi là các quan hộ dân sự ‘theo nghĩa rộng’
m ang tính chất quốc tế).
Về mối tương quan giữa hai tính chất trên đây của nguồn
Tư pháp quốc tế thể hiện rất rõ tại Điều 759 về hiệu lực của
Bộ luật dân sự nãm 2005 của nước ta:
16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
V iệt Nam ta các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan
hệ tư pháp quốc te ichông nam ở một văn bản mà nằm rải
rác ở các văn bản pháp quy khác nhau ở nhiều ngành pháp
luật khác nhau của V iệt Nam.
Hiến pháp năm 1992 là nguồn quan trọng nhất của Tư
pháp quốc tế Việt Nam. Khác với các Hiến pháp trước đây,
Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã
ghi nhận rất nhiều nguyên tắc và quy phạm đặt nền tảng cho
lĩnh vực Tư pháp quốc tế. Đây là những nhiệm vụ cũng như
trách nhiệm cơ bản của Nhà nước ta trong việc tăng cường
củng cố hòa bình và phát triển sâu, rộng sự hợp tác quốc tế về
mọi mặt, thực hiện tốt chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta là đa phương hóa và đa diện hóa hoạt động kinh tế đối
ngoại nhằm củng cố vị trí của nước ta trên thế giới và khu vực.
Trong Hiến pháp đã dành một số điều để quy định các nguyên
tắc hoạt động đối ngoại. Đó là: Nhà nước thống nhất quản lý
và mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển các hình
thức quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế
trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và cùng có lợi, bảo
vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước (Điều 24). Khuyến khích
các tổ chức, cá nhân đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam
phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế và thông
lộ quốc tế (Đ iều 25); Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam
định cư ở nước ngoài (Điều 75); người nước ngoài ở Việt
Nam phải tuân theo Hiến pháp và luật pháp Việt Nam. được
Nhà nước bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính
đáng theo pháp luật Việt Nam (Điều 81).
Các nguyên tấc hiến định điều chỉnh các quan hệ Tư
pháp quốc tế trẽn được pháp điển hóa trong các luật và văn
bản dưới luật sau đáy: Bộ luật dân sự năm 2005 (Phần VII);
17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Luật quốc tịch Cộng hòa xã hội chủ nghĩa V iệt N am năm
1998; Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; Luật đầu tư nãm
2005; Luật thuế xuất khẩu, th u ế nhập khẩu năm 2005; Luật
bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989; Luật hàng hải V iệt
Nam năm 2005; Luật hàng không dân dụng V iệt N am năm
2006; Luật thương mại V iệt N am năm 2005; Luật hải quan
năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2005).
Trong các văn bản pháp quy là nguồn của Tư pháp quốc
tế V iệt N am phải kể đến các pháp lệnh do Uỷ ban thường vụ
Q uốc hội ban hành, đó là: Pháp lệnh vể th u ế sử dụng tài
nguyên thiên nhiên năm 1990; Pháp lệnh lãnh sự năm 1990;
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004; Pháp lệnh nhập
cảnh, xuất cảnh, cư trú, đi lại của người nước ngoài tại Việt
N am năm 2000;
N goài các luật và các pháp lệnh cơ bản nêu trên Chính
phủ V iệt N am đã ban hành hàng loạt các nghị định, quyết
định, điểu lệ, quy c h ế v.v. nhằm quy định hoặc chi tiết hóa
và hướng dẫn việc thi hành các luật và pháp lệnh cũng như
giải quyết các vấn đề về đ ịa vị pháp lý của người nước
ngoài, các vấn đề hoạt động ngoại thương, đầu tư của người
nước ngoài, các vấn để hôn nhân gia đình, vấn đề quản lý
ngoại tệ, thanh toán, tín đụng, ngân hàng của người nước
ngoài tại V iệt Nam. Vị trí, vai trò và nhiệm vụ củ a các vãn
bản này là hết sức quan trọng trong việc điều chỉnh các
quan hệ thực tiễn Tư pháp quốc tế ở nước ta hiện nay. Có
thể dẫn m ột vài văn bản làm ví dụ như: Q uyết định số
122/CP ngày 25/4/1977 của Hội đồng chính phủ về chính
sách đối với người nước ngoài cư trú, làm ăn, sinh sống ở
Việt Nam; Nghị định của Chính phủ số 68/2002/NĐ-*CP
ngày 10/07/2002 quy định về thủ tục kết hốn, nhận con
ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhặn đỡ đầu giữa cỏno (Jan
18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
V iệt Nam và người nước ngoài; các Nghị định sô' 28/CP
ngẩy 6/8/1991, Nghị định số 138/2006/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 15/11/2006 quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ
luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tô' nước ngoài.
Ở các nước tư bản phát triển thì các vãn bản pháp quy là
nguồn của Tư pháp quốc tế có ý nghĩa và giá trị không bằng
so với án lệ (hoặc thực tiễn tư pháp). Những quy phạm Tư
pháp quốc tế được ghi nhận trong các văn bản pháp quy khác
nhau, song các quy phạm đó không nhiều lắm.
V í dụ: như ở Pháp trong Bộ luật đân sự năm 1804 (hay
còn gọi là Bộ luật Napôlêông) có một số điều quy định vẻ
quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài và ở m ột sô' văn
bản pháp quy khác.
Còn ở Cộng hòa liên bang Đức thì cho tới năm 1986 thi
hành bộ luật dẫn về dân sự quy định một hộ thống các quy
phạm xung đột (từ Điều 7 đến Điều 31), nhưng cũng còn rất
nhiều vấn đề chưa được quy định mà trước hết và trên hết là
lĩnh vực trái vụ. Từ 1/9/1986 Bộ luật vể tư pháp quốc tế bất
đầu có hiệu lực (Bộ luật này được thông qua ngày
25/7/1986) nó thay thế cho các điều tương ứng trước đây
trong Bộ luật dẫn về dân sự và rất nhiều điều khoản được bổ
xung cho thiếu sót trước đây như: Các nghĩa vụ về hợp đồng,
hình thức của hợp đồng, kết hôn và ly hôn có yếu tố nước
ngoài các quyền của trẻ em trong quan hệ gia đình, giám hộ
và trợ tá, quyền thừa kế, các quan hệ lao động và các vấn đề
liên quan đến tố tụng dân sự quốc tế.
Riêng ở Anh - Mỹ thì vấn đề pháp điển hóa của các viện,
trường đại học và các khoa học gia pháp lý về án lệ và thực
tiễn tư pháp lại có ý nghĩa thiết thực, ví dụ như ở Anh có
Dicey xuất bản cuốn Luật xung đột (Coflict of Laws, 8th ed.,
19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
London 1967) và ở M ỹ có J.A .Beale xuất bản A treatise on
the Conflict of Laws v.v. I - III New -Y ork 1935 (Luật dẫn
về xung đột luật).
Trong mấy thập niên gần đây, ở Anh nơi m à trước đây án
lệ và thực tiễn tư pháp đóng vai trò ngự trị trong nguồn của Tư
pháp quốc tế, thì nay đã bước đầu ban hành các văn bản phap
quy của N hà nước vé các ván để này. Đ iều này chứng tỏ sự
xâm nhập luật châu  u lục địa vào nước A nh, n hất là trong
các quan hệ kinh tế đối ngoại khi vương quốc A nh là thành
viên chính thức của cộng đồng châu  u, ngày càng rõ nét.
20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
pháp, mà cho tới nay ta đã ký Hiệp định với hàng loạt nưóc
như: với Nga vào năm 1998, Séc và Slovakia (1982), Cuba
(1984), Hungari (1985), Bungari (1986), Balan (1993); với
Lào năm 1998; với Trung Quốc năm 1998 V .V .. và đang tích
cực tiếp tục triển khai ký tiếp với nhiều nước khác. Tiêu chí
của các Hiệp định này là công nhận và bảo đảm việc thực
hiện tôn trọng các quyền nhân thân và tài sản của công dân
(cũng như của pháp nhân) của quốc gia ký kết này trên lãnh
thổ quốc gia nước ký kết kia trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng
bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia với nhau. Các
hiệp định đều chú trọng đến việc hợp tác giữa các cơ quan tư
pháp và bảo vệ pháp luật, quy định thẩm quyền tòa án của
các bên áp dụng luật pháp, các vấn đề liên quan đến tố tụng
của người nước ngoài, các vấn đề ủy thác tư pháp, công nhận
và thi hành án dân sự, dẫn độ tội phạm và các vấn đề tương
trợ tư pháp khác. Như vậy, Hiệp định tương trợ tư pháp đã
giải quyết tổng thể hàng loạt vấn đề về hợp tác tư pháp nhằm
đảm bảo quyền và lợi ích của công dân trên lãnh thổ của
nhau, nó tạo tiền đề cho sự hợp tác sâu, rộng tiến tới ký kết
các hiệp định đa phương về vấn đề này.
Việt Nam đã ký kết hàng loạt các Hiệp định lãnh sự với
nước ngoài, trong đó có các điều khoản bảo vệ quyền lợi của
công dân và pháp nhân giữa các bèn tham gia. Hiện nay Nhà
nước ta đã ký kết các hiệp định lãnh sự với Liên Xô cũ (Nga
kế thừa hiệp định này) vào năm 1978, với Balan năm 1979,
với Bungari năm 1979, với Hungari năm 1979, với M ông c ổ
năm 1979, với Séc và Slovakia năm 1980. với Cuba năm
1981, với Lào năm 1985, với Pháp năm 1981, với Nicaragoa
năm 1985 V . V ..
Việt Nam đã ký kết không ít các Hiệp định thương mại
và hàng hải với các nước khác, nhằm củng cố và tăng cường
21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại m ọi m ặt với nưóe ngoậi
trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi-
Ngoài ra, m ục tiêu hàng đầu của các hiệp định này là các
bên cam kết giành cho nhau được hưởng ch ế độ tối huệ quốc
và những điểu khoản ưu tiên nhất định tạo điểu kiện thuận
lợi cho công dân cũng như pháp nhân hoạt động trên lãnh
thổ của nhau. Các hiệp định này là nguồn q uan trọng củ a Tư
pháp quốc tế, bởi lẽ nó giống n h u tuyẽn ngôn chung củ a các
nước với nước ta vé công nhận pháp lý các p háp nhân của
nhau, về lưu thông hàng h ó a và vận chuyển hàng hải, công
nhận về hiệu lực của bản án và các quyết định trọng tài cũng
như việc thi hành chúng. C húng ta đã ký các hiệp định
thương m ại với các nước như: L iên X ô cũ (nước N ga k ế thừa
hiệp định này); Trung Q uốc, Inđônêxia, Balan, Ai cập, I rắc,
Ấ n Đ ộ, Pháp, I - Ê - m e n , Cu Ba v à H oa Kỳ V.V..
22
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đối với các Điều ước quốc tế đa phương, nước ta đang
dần dần từng phần, từng bước hội nhập vào đời sống quốc tế,
tham gia vào sự phân công lao động quốc tế sâu rộng hơn,
nên trong một số lĩnh vực chúng ta đã gia nhập vào các công
ước quốc tế điểu chỉnh lĩnh vực quan hệ tư pháp quốc tế.
Nãm 1981, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gia nhập
Công ước Pari năm 1883 vé bảo hộ quyển sở hữu công
nghiệp và Hiệp định M ađrít năm 1891 vể đăng ký quốc tế
nhãn hiệu hàng hóa. Năm 1995 gia nhập Công ước New
York nãm 1958 về công nhận và thi hành các quyết định của
trọng tài nước ngoài. Năm 1980 Việt Nam gia nhập Công
ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao và Công ước Viên
1963 về q u a n h ệ lãnh s ự V.V..
Trong lĩnh vực bảo vệ quyển con người Việt Nam đã gia
nhập Công ước nãm 1966 về quyển kinh tế, xã hội vãn hóa
của Liên hợp quốc; Công ước quốc tế năm 1966 của Liên
hợp quốc về các quyển dân sự, chính trị, Công ước Liên hợp
quốc về chống phân biệt chủng tộc, Công ước Liên hợp quốc
năm 1973 về chống chủ nghĩa APacThai, Công ước Liên hợp
quốc nãm l948 về chống tội ác diệt chủng, 4 công ước
Giơnevơ năm 1949 về bảo hộ nạn nhân chiến tranh, Công
ước quốc tế năm 1989 vê quyền trẻ em.
Tất cả các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương
nêu trên đây chứng tỏ rằng ờ chừng mực ít, nhiểu nhất định
chứa đựng các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hộ Tư pháp quốc tế; Nó có thể là các quy
phạm thực chất thống nhất hoặc là các quy phạm xung đột
thống nhất. Tuỳ thuộc vào mức độ cam kết giữa các quốc gia
mà các điểu ước này thể hiện được những vai trò nhất định
của mình trong việc củng cố và phát triển sự hợp tác về mọi
mặt giữa các quốc gia nói chung và giữa Việt Nam với các
nước nói riêng.
23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
4. Thực tiễn tòa án và trọng tài (án lệ)
Thực tiễn tòa án và trọng tài là m ột loại nguồn khá phô
biến ở một số nước tư bản phát triển, nó có ý nghĩa thiết thực
trong việc phát triển hệ thống luật pháp trong nước của cac
nước này. Thực tiễn tòa án (hay còn gọi là án lệ hoặc tiền lệ
án) được hiểu là các bản án hoặc quyết định của tòa án m à
trong đó thể hiện các quan điểm cua các thẩm phán đối với
các vấn đê pháp lý có tính chất quyết định trong việc giải
quyết các vụ việc nhất định và m ang ý nghĩa giải quyết đối
vói các quan hệ tương ứng trong tương lai.
Ở A nh - M ỹ thì thực tiên tòa án là nguồn cơ bản của
pháp luật. Ở vương quốc A nh thực thi m ột hệ thống tiển lệ
pháp - đó là m ột hộ thống các quyết định và bản án của tòa
án có tính chất chỉ đạo giải quyết và thi hành pháp luật,
nhưng đồng thời cũng là quy trình hình thành pháp luật mới.
Để giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực Tư pháp quốc tế,
thẩm phán của tòa án A nh hay M ỹ thường áp dụng tiền lệ án
hơn là áp dụng quy phạm luật. Đ ây là m ột xu hướng chung
trong hệ thống luật pháp các nước này: Đ iều chỉnh các quan
hệ dân sự có yếu tố nước ngoài bằng các quy phạm tiền lệ
pháp, hơn là bằng các quy phạm văn bản pháp quy. Đ iều này
chứng tỏ là hầu như tất cả các quy phạm luật pháp là quy
phạm được ghi nhận ở án lệ, còn các quy phạm được ghi
nhận ở văn bản pháp quy thì rất hiếm hoi.
Như vậy. hệ thống các án lệ ở các nước này đóng vai trò
quyết định và cơ bản trong hệ thống luật pháp.
Ở nước ta thực tiễn tư pháp (án lệ) không được nhìn nhân
với tư cách là nguồn của pháp luật nói chung và là nguổn cua
Tư pháp quốc tế nói riêng. Chỉ có các văn bản pháp quy của
N hà nước mới là nguồn của luật pháp. Điều này khảng định
24
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
quan điểm là tòa án của Việt Nam là cơ quan xét xử và khi xét
xử chỉ tuân theo luật pháp, nó không có quyền ban hành văn
bản pháp quy, cũng như các án lệ không thể là nguồn của
pháp luật Việt Nam nói chung và nguồn của Tư pháp quốc tế
Việt Nam nói riêng. Nhưng trong quá trình giải thích pháp
luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật thì án lệ lại có những giá
trị nhất định mà không ai có thể phủ nhận được điều này.
5. Tập quán
Tập quán quốc tế là những quy tắc xử sự được hình thành
trong một thời gian dài, được áp dụng khá liên tục và một
cách có hệ thống, đồng thời được sự thừa nhận của đông đảo
các quốc gia. Tập quán quốc tế đôi khi vừa là nguồn của
Công pháp quốc tế và của cả Tư pháp quốc tế.
Các luật gia nổi tiếng trên thế giới đều cho rằng: Điểm
khác biệt cơ bản giữa tập quán với luật pháp là ở chỗ quá
trình hình thành tập quán, việc áp dụng có hệ thống và tính
thừa nhận rộng rãi, nhưng lại không được ghi nhận ớ đâu cả
(thường được gọi là luật bất thành vãn).
Phụ thuộc vào tính chất và giá trị hiệu lực của tập quán
quốc tế mà có thể chia tập quán ra làm các loại sau:
- Tập quán mang tính chất nguyên tắc;
- Tập quán mang tính chất chung;
- Tập quán mang tính chất khu vực.
Tập quán nguyên tắc là nền tảng, là cơ bản và có tính
chất bao trùm (có thể nói nó mang tính chất mệnh lệnh - Jus
cogens), nó là các cơ sở của chủ quyền và bình đảng giữa
các quốc gia và nó có giá trị bắt buộc chung đôi với các
quốc gia.
Tập quán quốc tế chung là tập quán được nhiều nước
25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
thừa nhận và áp dụng ở rộng rãi mọi nơi trên th ế giới. Có thê
ví dụ như các điều kiện giao dịch thương m ại quốc tế m a
Phòng thương mại quốc tế tập hợp và soạn thảo từ năm 1936
rồi các năm tiếp theo là 1953; 1980... và mới đây là năm 2000
(gọi tắt là Incoterms - International Comm ercial Term s).
Incoterm s là tập hợp các tập quán thuơng m ại quốc tế khác
nhau trong đó quy định các điều kiện m ua bán, bảo hiêm ,
cước vận tải, trách nhiệm giữa các bên tham gia hợp đông,
như FOB, CIF, C FR v.v. được rất nhiều quốc gia trên khắp
th ế giới thừa nhận và sử dụng trong hoạt động thương mại.
T ập quán khu vực (hay còn gọi là tập q uán đ ịa phương)
là các tập quán được sử dụng ở tùmg khu vực, từng nước,
thậm -chí từng cảng biển riêng biệt hoặc cảng hàng không
riêng biệt (cảng thương m ại) ở m ỗi quốc gia.
Tập quán quốc tế chung và tập quán khu vực chỉ có giá
trị pháp lý ràng buộc các quốc gia khi được các quốc gia đó
thừa nhận hoặc chấp nhận ràng buộc đối vói mình.
Ở V iệt Nam hiện nay với tư cách là nguồn của Tư pháp
quốc tế là: Luật pháp trong nước; điều ước quốc tế và tập
quán quốc tế (thông lệ quốc tế). Còn thực tiễn tòa án và
trọng tài (án lệ) chưa được coi là nguồn của Tư pháp quốc tế
như ở các nước A nh - M ỹ V .V ..
26
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
CHUƠNGn
LÝ LUẬN CHUNG VỂ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT
27
28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
hệ thống tổng thể của các quy phạm xung đột, đó là hệ thống
tổng thể các quy phạm xung đột của nước mà toà án ỏ đó có
thẩm quyẽn giải quyết (theo nguyên tắc Lex fori).
Hiện nay, sự phát triển của khoa học Tư pháp quốc tê' cho
thấy rằng không tồn tại Tư pháp quốc tế chung cho tất cả các
quốc gia, có nghĩa là các quy phạm của nó có giá trị chung
cho các nước. Mỗi quốc gia có Tư pháp quốc tế riêng của
mình, và tất nhiên có một hệ thống các quy phạm xung đột
riêng và rất đặc thù của mình được xây dựng trên nền tảng
xã hội của mình.
Chính vì vậy, một vụ việc hay một quan hệ pháp luật
được giải quyết rất khác nhau bởi nó phụ thuộc vào toà án
nước nào giải quyết vụ việc đó hoặc cơ quan tư pháp có thẩm
quyền giải quyết quan hệ pháp luật đó.
Chúng ta có thể dẫn một ví dụ lấy từ thực tiễn để thấy
vấn đẻ trên rõ hơn: M ột cô gái Pháp kết hôn với một nam
thanh niên Việt Nam tại Việt Nam mà không có sự đồng ý
chấp thuận của bố mẹ cô ta ở Pháp. Tương tự như vậy, cô gái
Pháp kết hôn với một nam thanh niên Nga tại Nga cũng
không có sự chấp thuận của bô' mẹ cô ta ở Pháp.
Để giải quyết vấn đẻ này cần xem xét luật pháp Việt
Nam và luật liên bang Nga về kết hôn của công dân của họ
với người nước ngoài.
Luật pháp của mỗi nước đều có các quy phạm xung đột
riêng của mình. Ớ Việt Nam. để giải quyết điều kiện kết hôn
giữa công dân Việt Nam với công dân nước ngoài thì mỗi
bên tuân theo luật nước mình về điều kiện kết hôn (Điều 103
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000). Như vậy. công dân
Việt Nam xét theo luật Việt Nam về điều kiện kết hòn. còn
29
30
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Luật hình sự, Luật hành chính v.v. mang tính hiệu lực
theo lãnh thổ rất nghiêm ngặt (người ta thường gọi là quyền
tài phán công có tính lãnh thổ chặt chẽ).
- Trong Luật hình sự, Luật hành chính không bao giờ có
các quy phạm xung đột và tất nhiên cũng không bao giờ cho
phép áp dụng luật nước ngoài.
Ngoài ra, xung đột pháp luật cũng có thể xảy ra ở các
nhà nước liên bang khi ở giữa các bang (hoặc các nước Cộng
hoà ờ Liên xô cũ) pháp luật cũng quy định khác nhau.
Nhưng ở đó lại có cách giải quyết khác bởi ở đấy đều có luật
toàn liên bang và lại có cả các cơ quan có thẩm quyền giải
quyết ở mức toàn liên bang. Mọi xung đột pháp luật giữa các
bang sẽ giải quyết bàng luật chung của cả liên bang và do
các cơ quan của liên bang ra quyết định.
2. Phương p h á p giải quyết xung đột
Hiện nay, Tư pháp quốc tế Việt Nam cũng như Tư pháp
quốc tế của đa số các nước trên thế giới đều có những cách
thức và biện pháp rất riêng và đặc thù của mình để điều
chỉnh và phân định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia
vào các quan hệ pháp luật dân sự mang tính chất quốc tế.
Đó là hai phương pháp xung đột và thực chất và sự kết hợp
hài hoà, cũng như sự tác động tương hỗ giữa hai phương
pháp này trong việc thiết lập một cơ chế điều chỉnh các
quan hệ Tư pháp quốc tế và bảo đảm một trật tự pháp lý
dàn sự quốc tế.
a. Pliương pháp xung đột
Có thể nói ràng phương pháp xung đột trong Tư pháp quốc tế
là phương pháp được hình thành khá sớm, bời lẽ ngay từ khi
bắt đầu hình thành ngành luật này người ta đã gọi nó là
31
32
34
35
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Các quy phạm thực chất thống nhất còn được ghi nhận
trong ởác tập quán quốc tế (nhất ỉà trong lĩnh vực thương mại
và hàng hải quốc tế). Có thể lấy các quy tắc tập quán trong
Incoterm s (International com m ercial term s) 1990 làm ví dụ,
đó là các điều kiện m ua bán, vận chuyển, bảo hiểm và các
phương thức giao hàng như FO B (free on board) giao hàng
trên tầu, CIF (cost, insurance and freight) tiền hàng, phí bảo
hiểm và cước phí, CFR (cost and freight) tiền hàng và cước
phí, FA S (free alongside ship) g i a o dọc m ạn tàu V.V..
Hệ thống các quy phạm thực chất thống nhất dù là trong
điểu ước quốc tế hay trong tập quán quốc tế không phải là
“luật p h á p " đứng trên luật quốc gia bởi lẽ chính các quốc
gia xây dựng hoặc chấp thuận cấc quy phạm đó và chúng tỏ
rõ khả năng thuận tiện và hữu hiệu trong việc điều chỉnh các
quan hệ của Tư pháp quốc tế. Các nước trong một khu vực về
địa lý hay kinh tế thường tăng cường ký kết các hiệp định
quốc tế trong đó xây dựng các quy phạm thực chất thống
nhất nhằm thiết lập m ột trật tự kinh tế khăng khít hỗ trợ lẫn
nhau trên cơ sở phân công lao động quốc tế một cách hợp lý.
Có thể lấy các nước thuộc khối EU hoặc ASEAN để chứng
m inh cho điều trôn đây.
Ngoài ra, có thể nói trong m ột chừng mực nào đó các
quy phạm thực chất thống nhất được hình thành trên cơ sở
của các quyết định của trọng tài thương mại quốc tế. Luật
pháp của các nước đều thừa nhận trọng tài là công cụ giải
quyết hữu hiệu các tranh chấp thương mại quốc te và các
nước cũng ban hành các văn bàn pháp quy để cóng nhận và
thi hành các quyết định cùa trọng tài nước ngoài (trọno tài
quốc tế), thám chí các quyết định đó là quyết định hoà «lài
36
38
39
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
2. Cơ cấu và phân loại quy phạm xung đột
Trong m ôn học Lý luận về nhà nước và pháp luật đã đưa
ra kỹ thuật xây dựng quy phạm pháp luật, trong đó thành
phần của m ột quy phạm pháp luật thông thường nói chung
được cấu thành bdi ba bộ phận là: G iả định, quy định và chê
tài. K hác với quy phạm pháp luật thông thường, quy phạm
xung đột lại được cơ cấu bởi hai bộ phận (hai thành phẫn) đó
là Phạm vi và H ệ thuộc. H ai bộ phận này là không thể tách
rời nhau trong bất kỳ quy phạm xung đột nào, điều này khác
hẳn với quy phạm pháp luật thông thường là có thể thiếu một
trong ba cũng được. V í dụ: các quy phạm nguyên tắc chỉ cần
giả định và quy định m à không cần bộ phận chế tài.
Phạm vi là phần quy định quy phạm xung đột này được
áp dụng cho loại quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nào.
Cụ thể hơn đó quan hệ sở hữu hay là quan hệ thừa kế, quan
hệ hợp đồng hay quan hệ hôn nhân V .V ..
Ilệ thuộc là phđn quy định chỉ ra luật pháp nước nào được
áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật đã ghi ở phần phạm
vi. Luật pháp được áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật
(phạm vi quan hệ) là luật pháp của một quốc gia cụ thể nào
đó. V i dụ: Luật pháp Việt Nam. Luật pháp Mỹ. Luật pháp Đức
V .V .. được thổ hiện !à luật quốc tịch của đương sự, luật cư trú
của đương sự hoặc luật quốc tịch của pháp nhân chẳng hạn.
Trong hiệp định lương trợ tư pháp và pháp lý vể các vấn
đổ dàn sự và hình sự giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và Liên bang N ga năm 1998 tại Điều 39 có ghi:
/- Q uan hệ pliáp luật vê thừa kê độnq sản ảo p h á p huit
cùa bèn ký kết mà người dè lại thừa ké là công dân Yíìo thời
lũếiiì cliết diêu chính.
4(1
41
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
X ét về m ặt kỹ thuật xây dựng quy phạm thì người ta
phân quy phạm xung đột ra làm hai loại:
- Loại thứ nhất: Là quy p h ạ m xung đột m ột bên (hay còn
gọi là m ột chiều). Đây là quy phạm chỉ ra loại quan hệ dân
sự này chỉ áp dụng luật pháp của m ột nước cụ thể. V í dụ:
Khoản 2 Đ iều 769 Bộ luật dân sự năm 2005 ghi: “H ợp đồng
liên quan đến bất động sản ỏ V iệt N am phải tuân tlieo pháp
luật Cộng hoà x ã hội chủ nghĩa Việt N am ".
- Loại thứ hai: Là quy phạm xung đột hai bên (hay còn
gọi hai chiểu), đây là những quy phạm đê ra nguyên tắc
chung để cơ quan tư pháp có thẩm quyẻn lựa chọn luật của
m ột nước nào đó sẽ được áp dụng để điều chỉnh đối với quan
hệ tương ứng.
V í dụ: Khoản 2 Điều 766 Bộ luật dân sự năm 2005 quy
định: "Quyền s ỏ hữu đối với động sản trên đưctìĩg vận chuyển
được xác định theo p h á p luật của nước nơi động sản được
chuyển đến N hư vậy, nơi động sản được chuyển đến nếu là
V iệt N am thì áp dụng luật V iệt N am , còn nếu là nước ngoài
nào thì áp dụng luật nước ngoài đó. Chính th ế người ta gọi
đây là quy phạm xung đột hai chiều.
N goài cách phàn loại trên, người ta còn phân loại quy
phạm xung đột trong nước và quy phạm xung đột trong điều
ước quốc tế (được gọi là quy phạm xung đột thống nhất)
hoặc là phân loại quv phạm xung đột theo các nhóm quan hệ
xã hội mà nó điều chình.
3. C ác kiểu hệ th u ộ c cơ bản
M ột thực tiễn khách quan là dưới sự ảnh hưởng m ạnh mẽ
của các hệ thốnc pháp luật dân sự nước ngoài, cũng như nhu
42
43
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
đột của nuớc m ình m à tách rời hoàn toàn khỏi luật xung đột
của nước khác là một điều tôi kỵ. V iệc xem xét và nghiên
cứu luật xung đột của nước m ình phải dưới giác độ liên quan
đến tổng thể hệ thống của các nuớc. Phương pháp so sánh
luật trong Tư pháp quốc tế luôn có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc và quan trọng. N ghiên cứu và phân loại các quy
phạm xung đột của các nước khác nhau trong mối tương
quan so sánh có trọng điểm là rất có lợi vì mỗi quy phạm
xung đột cụ thể của m ột quốc gia đều là phương án chung
của m ột số quốc gia (nhóm quốc gia) để tạo nên nền tảng
của các cơ sở giải quyết xung đột pháp luật như những
nguyên tắc lựa chọn pháp luật. Nói cách khác, các quy phạm
xung đột pháp luật của các nước khác nhau trong thực tiễn lý
luận của các nhà nghiên cứa được nhóm hóa lại thành các
kiểu hệ thuộc cơ bản. Tổng kết và khái quát hóa cùng việc
phân loại và đưa vào hệ thống các quy phạm xung đột đó là
m ột phần việc cơ bản của khoa học Tư pháp quốc tế, nó củng
cô' và phát triển ngành khoa học pháp lý này hiện tại cũng
như tương lai.
N ghiên cứu các kiểu hệ thuộc cơ bản cho ta thấy rằng có
m ột số kiểu hệ thuộc trong cấu trúc của một số quy phạm
xung đột sẽ có hiệu lực ở trong nước còn một số khác còn có
hiệu lực ở ngoài lãnh thổ. Ta có thể thấy rất rõ điều trên đây
qua việc quy định của hiệu lực Bộ luật dân sự.
T h ứ nhất: Trên toàn lãnh thổ quốc gia đối với tất cả chủ
thể của nó hiện tại đang ở đó mà không phụ thuộc vào quốc
tịch (tính hiệu lực vổ lãnh thổ).
T h ứ hat: Hiệu lực đối với tất cả công dân của quốc ơia
thậm ch í các công dân đó đang ớ nước ngoài (tính nơoài
44
45
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
pháp lý giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa V iệt N am với Liên
bang Nga năm 1998 quy định: “Quan hệ nhân thân và quan Ị
hệ tài sản giữa vợ chồng được xác định theo p h á p luật cùa
bên ký kết nơi họ cùng thường tr ú ”. Trường hợp trên hệ I
thuộc luật nơi cư trú được sử dụng để giải quyết xung đột
trong quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ chổng. I
H ai kiểu hệ thuộc trên đây đều thuộc quy ch ế dân sự của
cá nhân (Status personalis) của nguyên tắc luật nhân thân
được sử dụng rất rộng rãi trong luật pháp của các nước trên
th ế giới.
Ở cấc nước như Pháp, Đức, Italia V.V.. hệ thuộc luật quốc
tịch được áp dụng rộng rãi trong rất nhiều lĩnh vực quan hệ,
còn ở các nước khác theo hệ thống pháp luật chung
(com m on law) như Anh, M ỹ, N a uy, Đan M ạch và các nước
M ỹLatinh như Á chentina, Braxin, N icaragoa, Paragoay V .V ..
thì hệ thuộc luật nơi cư trú lại được áp dụng ở vị trí hàng đầu
trong rất nhiều lĩnh vực, song ở một số nước khác lại áp
dụng cả hai hệ thuộc luật quốc tịch và luật nơi cư trú một
cách song song như nhau tùy thuộc vào các trường hợp cụ
thể như ở Áo, Thụy Sĩ. M ẽhicô V .V ..
46
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhau. Xuất phát từ quy chế pháp lý sẽ quy định quyền và
nghĩa vụ của pháp nhân đó trong quan hệ với các chủ thể
khác và mặt khác ta lại thấy tổng thể quyền và nghĩa vụ của
pháp nhân chính là quy chế pháp lý của pháp nhân đó.
Tuy có mối quan hệ thống nhất, biện chứng giữa hai
phạm trù trên, song trong khoa học pháp lý cũng cần phải
xem xét giải quyết chúng độc lập dưới giác độ của Tư pháp
quốc tế. Mỗi một loại quan hệ riêng biệt mà pháp nhân tham
gia luôn có mối quan hệ độc lập và được giải quyết bầng các
kiểu hệ thuộc riêng biệt (như là các loại hợp đổng khác nhau
và trong các hợp đồng đó thì hình thức, nội dung V .V .. lại có
các hệ thuộc khác nhau để giải quyết), nhưng trong khi đó
thì tất cả các vấn đề thuộc quy chế của pháp nhân (như tổ
chức đó có phải là pháp nhân không, quyền năng chủ thể cùa
nó thế nào. quá trình thành lập, giải thể, ngừng hoạt động và
phá sản V . V . . ) lại được giải quyết theo một hệ thống pháp luật
nhất định và cụ thể, đó là quy chế nhân thân (hay còn gọi là
quy chê bản quốc) của pháp nhân.
Nói cách khác, mỗi pháp nhân có một quy chế nhân thân
của mình và được công nhận ở nước ngoài. Điều này được
khẳng định trong lý luận cũng như thực tiễn của Tư pháp
quốc tế. Quá trình khẳng định này hình thành như là một tập
quán quốc tế. Quv chế nhân thân xác định pháp nhân mang
quốc tịch nước nào; nhưng hiện nay việc lựa chọn các dấu
hiệu pháp lý để quyết định quốc tịch của pháp nhân giữa các
nước khác nhau lại khác nhau.
Quv chế nhãn thân (Status) của pháp nhân thổ hiện sự
ràng buộc pháp lý giữa pháp nhân đó với một nhà nước
nhất định.
47
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Các dấu hiệu ràng buộc cơ bản hiện nay là:
- Nơi trung tâm quản lý của pháp nhân;
- Nơi đăng ký điều lệ (nơi thành lập) pháp nhân;
- Nơi pháp nhân thực tê tiến h à n h kinh doanh, hoạt động chính.
Phần lớn các nước ở châu Âu lục địa xác định quốc tịch
của pháp nhân theo dấu hiệu nơi trung tâm quản lý của pháp
nhân (Siège Social) như Pháp, Italia, Thụy Sĩ... Các nước
theo hệ thống pháp luật Anh - M ỹ và m ột sô' nước ờ
Mỹlatinh V.V.. xác định quốc tịch của pháp nhân theo nơi
đăng ký điều lệ; còn các nước ở khu vực Ả R ập như Ai Cập,
Xyri... lại xác định quốc tịch của pháp nhân theo nơi kinh
doanh, sản xuất chính của pháp nhân.
Ở V iệt N am , pháp nhân được thành lập theo pháp luật
V iệt N am và đăng ký điều lệ ở V iệt N am thì đương nhiên là
pháp nhân m ang quốc tịch V iệt N am , không phụ thuộc vào
việc nó hoạt động ở đâu, lãnh thổ nào.
c. L uật nơi có vật (Lex rei sitae)
Được hiểu là vật (tài sản) hiện dang tồn tại ở nước nào
thì luật của nước đó được áp dụng đối với lài sản đó.
Hệ thuộc luật nơi có vật thường được áp dụng để giải
quyết các quan hệ về sở hữu có yếu tố nước ngoài (như tài
sản đó có là đối tượng của quyền sở hữu không, xác định các
quyền tài sản, xác định sự phát sinh, thay đổi và chấm dứt
quyền sở hữu...)-
V í dụ: Khoản 1 Điều 766 BLDS Việt Nam năm 2005 quv
định: “Việc xác lập. chấm ehrt quyền sở hữu, nội dung quyền
s ỏ hữu dối \'()i tài sán dược xúc định theo pháp luật của nước
ìuti có lài sán đó...
48
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
d. Luật do các bên kỷ kết hợp đồng lựa chọn (Lex voluntatis)
Theo nguyên tắc này, các bên tham gia hợp đồng được tự
do thỏa thuận lựa chọn hệ thống pháp luật mà họ cho là hợp
lý để giải quyết quan hệ hợp đổng. Hệ thuộc trên đây hoàn
toàn dựa trên nguyên tắc cơ bản của hợp đồng là ý chí tự
nguyện và bình đảng giữa các bên ký kết.
Hệ thuộc luật do các bên ký kết lựa chọn được sử dụng
phổ biến trong các quan hệ thương mại và hàng hải quốc tế.
Trong quan hệ hợp đồng quốc tế, luật được lựa chọn
thường được các bên ghi nhận ở một điều khoản đặc biệt.
Luật được lựa chọn phải là luật không trái cơ bản với luật
quốc gia của các bên và các điều ước quốc tế mà quốc gia
của họ là thành viên; cũng như là không có ý định lẩn tránh
pháp luật.
Ở nước ta, hệ thuộc luật do các bên ký kết hợp đồng lựa
chọn (Lex voluntatis) cũng được sử dụng để giải quyết xung
đột trong các vấn đề thương mại và hàng hải quốc tế.
V í dụ: Khoản 2 Điều 4 Bộ luật hàng hải Việt Nam quy
định: “Cớc bên tham gia hợp đồng hàng hải mà trong đó có
ít nhất m ột bên nước ngoài tlù có quyền thỏa thuận áp dụng
luật nước ngoài hoặc tập quán hàng liải quốc tế trong các
quan hệ ìưrp đổng”.
đ. Luật nơi tliực hiện hành vi (Le.x loci actus)
Khái niệm nơi thực hiện hành vi rất rộng, do đó luật nơi
thực hiện hành vi có rất nhiều loại.
- Luật nơi ký kết hợp dồng (Lex loci contractus) được
hiểu ]à quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia ký kết hợp
49
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
đồng được xác định theo luật nơi ký kết hợp đồng.
Trên thực tế, hệ thuộc trên đây được sử dụng rộng rãi
trong quan hệ m ua bán quốc tế. Ở Anh, M ỹ, Pháp và m ột số
nước châu  u lục địa có cách giải thích khác nhau về hệ
thuộc này. Nếu các bên tham gia hợp đồng ký kết trực tiếp
trưóc m ặt nhau m ột hợp đồng nào đó thì rất rõ ràng về nơi ký
kết và thời điểm ký kết. Song trong trường hợp khi khả năng
kĩ thuật và thể thức pháp lý cho phép các bên có thể ký kết
họp đồng vắng m ặt nhau (như thư từ, điện tín, fax...) thì về
địa điểm và thời điểm ký kết lại có cách hiểu rất khác nhau
giữa luật A nh - M ỹ vói luật của các nước châu  u lục địa.
Theo luật A nh - M ỹ, thời điểm và địa điểm ký kết hợp
đồng là nơi bên nhận được chào hàng chấp nhận vô điều kiện
chào hàng và gửi chấp nhận vô điều kiện này cho bên chào
hàng (còn gọi là thuyết tống phát).
Còn theo hệ thống luật các nước châu Âu lục địa như
Đức, Pháp và các nước Đ ông Âu thì hợp đồng coi như được
ký kết khi bên chào hàng nhận được chấp nhận vô điều kiện
chào hàng (còn gọi là thuyết tiếp thu).
N hư vậy, nơi ký kết hợp đồng theo luật Anh - Mỹ là nơi
gửi chấp nhận vô điều kiện chào hàng và theo luật của các
nước châu Âu lục địa nơi ký kết hợp đổng là nơi nhận chấp
nhận vô điều kiện chào hàng.
Ở Việt Nam, hệ thuộc luật nơi ký két hợp đồng cũng
được áp dụng. V í dụ: Khoản 1 Điều 770 BLDS năm 2005
ghi: “H ình thức của hợp đồng dân sự ph ả i tuân theo pháp
luật của nước nơi giao kết hợp đồng...'’'.
50
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Luật nơi thực hiện nghĩa vụ (Lex loci solutionis)
Hệ thuộc luật nơi thực hiện nghĩa vụ có ý nghĩa thực tiễn
quan trọng trong việc giải quyết xung đột về thực hiện các
nghĩa vụ của hợp đồng trong thực tế pháp luật Cộng hoà liên
bang Đức, cũng như một sô' loại nghĩa vụ trong hệ thống luật
Anh - Mỹ.
Chúng ta cần phải phân biệt các loại nghĩa vụ với nơi
thực hiện các nghĩa vụ đó của hợp đồng. Chảng hạn, nơi thực
hiện nghĩa vụ khác với nơi giao, trả, nhận hàng trên thực tế
hoặc là nơi thực hiện thanh toán. Nơi thực hiện nghĩa vụ là
nơi đáp ứng đầy đủ các vấn đề về văn bản giao nhận, thời
gian giao nhận, khi nào có thể và cần thiết tiến hành giao
nhận, hình thức và nội dung của các biên lai giao nhận và
thanh toán V .V .. Có thể nói đây là cơ sở, nền tảng được công
nhận rộng rãi trong thương mại quốc tế.
- Luật nơi thực hiện hành động (hoạt động)
Là một biến dạng rất cụ thể của luật nơi thực hiện hành
vi (Lex loci actus). Để giải quyết xung đột về hình thức của
hợp đồng, một số nước còn áp dụng hệ thuộc như: “Hình
thức của hợp đồng được quvếr định bởi luật của nước nơi
thực hiện nó (locus re git actum)", hoặc là “Hình thức kết
hôn được quyết định bởi luật của nước nơi các bên thực hiện
kết hôn (Lex loci celebrationis)”.
e. Luật nước người bán (Lex vendứoris)
Thực tiễn trong quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế, nếu
bên mua và bén bán không có thỏa thuận nào khác thì luật
nước người bán (luật quốc tịch của người bán) thường được
áp dụng để giải quyết các quan hệ của hợp đồns mua bán đó.
52
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
quả thiệt hại (kết quả của hành vi gây hại).
Còn một nhóm nước khác lại giải thích nơi vi phạm
pháp luật trên cơ sở kết hợp cả hai cách giải thích trên đây.
Điều này có nghĩa là nơi vi phạm pháp luật là nơi xảy ra
hành vi gây hại và cũng có thể là nơi hiện diện của hậu quả
thiệt hại. bên bị hại có thể lựa chọn hộ thống luật nào có lợi
hơn cho mình.
Ở Việt Nam ta cũng kết hợp cả hai trường hợp trên như
đã nêu. Cụ thể ở khoản 1 Điều 773 Bộ luật dân sự Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Việc bồi thường thiệt
hại ngoài liựp đổng được xác định theo pháp luật của nước
nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả
thực tế của hành vi gây thiệt h ạ ĩ\
h. Luật tiền tệ (Lex monetae)
Hệ thuộc luật tiền tệ được hình thành và phát triển thực tê
trong hệ thống luật pháp của Đức và Áo. Theo các hệ thống
luật pháp này thì Hệ thuộc luật tiền tệ được hiểu là khi ký
kết hợp đông các bẽn thỏa thuận thanh toán bàng một đơn VỊ
tiền tệ (ngoại tệ) nhất định, do đó các vấn đề quan hệ liên
quan đến tiền tệ đó dược giải quyết theo luật pháp của nước
ban hành và lưu thông đổng tiền dó.
Hệ thuộc này chi có lợi cho các nước phát triển có đồna
tiền mạnh và tự do chuyển đổi và tất nhiên nó cũns bảo vệ
lợi ích cho các trùm tư bản. các tập đoàn lớn trẽn thế giới.
Niiày nay hệ thuộc nàv càn2 ít được quan tàm và áp
dụng, bới lẽ khi ớ châu Âu đã phát hành và đưa vào lưu
thông đổng tiền chung của châu Âu (đồng Euro).
53
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Q ua m ột ví dụ nhỏ trên đây ta thấy được việc cần thiết
phải áp dụng luật nước ngoài để giải quyết các q uan hệ dân
sự quốc tế là m ột nhu cầu khách quan để bảo đảm lợi ích,
công bằng trong xã hội. Song việc áp dụng luật nước ngoài
phải luôn gắn liền với việc bảo đảm độc lập, chủ quyền,
bình đẳng và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; bảo đảm sự an
ninh, ổn định chế độ xã hội chủ nghĩa và nền tảng pháp luật
của nhà nước ta.
2. T hể thức và xác định nội dung luật nước ngoài cần
áp dụng
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ áp dụng luật nước
ngoài khi quy phạm xung đột dẫn chiếu tới.
Quy phạm xung đột có thể là quy phạm xung đột trong
pháp luật V iệt Nam và quy phạm xung đột cũng có thể là
trong các điều ước quốc tế m à Việt Nam tham gia. Trong
trường hợp quy phạm xung đột trong điều ước quốc tế và quy
phạm xung đột trong luật Việt Nam cùng điều chỉnh một quan
hệ hoặc nhóm quan hệ nhất định thì ưu tiên thi hành quy
phạm xung đột trong điểu ước quốc tế Việt Nam tham gia
(khoản 2 Điều 759 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005).
Khi quy phạm xung đột dẫn chiếu tới luật pháp nước
ngoài có nghĩa là dẫn chiếu tới toàn bộ hệ thống pháp luật
của nước đồ (không có ngoại trừ luật nội dung, luật xung đột
hay luật hình thức V . V . ) . Như vậy, khi áp dụng luật nước
ngoài ià áp dụng toàn bộ hệ thống pháp luật nước ngoài nên
nó phải được giải thích, xác định nội dung và áp dụna để
giãi quyết vụ việc đúng như ớ nước đã ban hành nó. Có thể
nói dây là điều kiện tiên quyết để báo hộ một cách thiết thưc
56
57
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
của A nh để giải quyết.
Thậm chí, trong m ột số trường hợp ở A nh các bên đương
sự có thể thỏa thuận về giải thích nội dung các quy phạm
luật nước ngoài cần áp dụng; kết quả của nội dung giải thích
này sẽ được toà án áp dụng để giải quyết, mặc dù toà án có
thể biết rõ nội dung giải thích thỏa thuận trên là không logic
và khỏng phù hợp với nội dung của các quy phạm.
ở Mỹ việc áp dụng luật nước ngoài về thể thức và xác
định nội dung cũng tương tự như ở Anh.
Thực tiễn toà án ở Pháp có khác với hệ thống Anh - Mỹ
về các vấn đề trên. Khi cần thiết phải áp dụng luật nước
ngoài, các bèn đương sự phải chứng m inh được sự cần thiết
phải áp dụng đó; ngoài ra họ phải tự đưa ra các bằng chứng
đổ xác định nội dung luật của nước cần áp dụng. Đây là một
gánh nặng đè lèn vai đương sự trước toà và tất nhiên đương
sự phải thuê luật sư với giá rất cao và với người lao động thì
không phải lúc nào cũng có thể thuê được và đành chịu bó
tay trong việc bảo vệ quyển lợi của mình. Những bằng chứng
mà đương sự trình bày trước toà, các quan toà sẽ kiểm tra
đánh giá và xác định nội dung để xét xử. Nếu các quy phạm
luật nước ngoài là rất quen thuộc với Toà án thì toà án sẽ áp
dụng m à không phụ thuộc vào việc các bên đương sự có đưa
ra được các bằng chứng phù hợp hay không. Toà án Pháp
luôn phải giải thích và m inh chứns nội dung luật nước ngoài
đúng với nội dung đích thực của nó để áp dụng. V iệc những
thiếu sót. khiếm khuyết của luật nước ngoài (đối với luật
pháp của các nước chậm phát trien) không thể là cãn cứ để
kháng án lẽn toà phá án (giỏng toà phúc thẩm ừ nước ta).
60
61
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
tụng các bên đương sự cũng có quyền đưa ra các bằng chứng
về luật nước ngoài trước toà để bảo vệ quyền lợi của mình,
song việc xác định nội dung luật nước ngoài vẫn là nhiệm vụ
chính của cơ quan xét xử (toà án hoặc trọng tài) và các cơ
quan này phải có cơ sở xác đáng để quyết định nội dung
pháp luật phù hợp để áp dụng (Iura novit curia).
Trong trường hợp đã sử dụng các biện pháp cần thiết mà
vẫn không thể xác định được nội dung luật nước ngoài để áp
dụng thì toà ấn phải áp dụng nguyên tắc xét xử Lex fori (luật
toà án) để giải quyết vụ kiện. Đ ây là cách duy nhất và cuối
cùng để đáp ứng yêu cầu giải quyết kịp thời các tranh chấp
dân sự quốc tế.
3. V ấn đề dẫn chiếu tới pháp luật của nước chưa được
công nhận
Khi ban hành pháp luật (các văn bản pháp quy) N hà nước
luôn dựa trên cơ sở bảo đảm lợi ích của thể nhân và pháp
nhân nước m ình cũng như thể nhân và pháp nhân nước
ngoài. V iệc thực hiện và áp dụng các quy phạm xung đột
trong các văn bản pháp luật (trong nước và quốc tế) nhà nước
và các cơ quan thực thi pháp luật không được phép phân biệt
đối xử trong quan hệ với bất kỳ quốc gia nào. Điều này là
hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế và tập quán quốc tế.
Ở nước ta. trong Hiến pháp năm 1992 cũng như trong các
văn bủn pháp quy của nhà nước và cả trong các điều ước
quốc tế mà Việt Nam tham gia đều khẳng định chính sách
đối ngoại nhất quán là chống lại mọi hành vi phân biệt và kỳ
thị giữa các quốc gia và giữa Việt Nam với các nước. Do đo
có thổ nói quan điểm của chúng ta là giữa các quốc °ia Viêt
62
63
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
4. Vấn đề bảo lưu trật tự công cộng (Ordre Public hoặc
Public Policy)
Khi vận dụng và thực hiện các quy phạm xung đột, đôi
khi trong thực tế xuất hiện hiện tượng các cơ quan tư pháp và
cơ quan nhà nước có thẩm quyền không áp dụng luật nước
ngoài, nếu việc áp dụng đó chống lại trật tự công cộng của
nước mình. Tinh huống trên trong lý luận Tư pháp quốc tế
gọi là bảo lưu trật tự công cộng. Nói cách khác, hiệu lực của
quy phạm xung đột khi dẫn chiếu tới luật nước ngoài cần áp
dụng bị hạn ch ế bởi việc bảo lưu trật tự công cộng.
Theo quy tắc “bảo hm trật tự công cộng” trong pháp luật
của các nước trên th ế giới thì luật nước ngoài sẽ bị gạt bỏ
không được áp dụng, nếu việc áp dụng đó dẫn đến hậu quả
xấu. tai hại hoặc mâu thuẫn với những nguyên tắc cơ bản của
chế độ xã hội cũng như pháp luật của nhà nước mình.
Khái niệm “trật tự công cộng” (Public Policy) ở các nước
phương Tây trong thực tiền xét xử cũng như trong các học
thuyết, quan điểm là không đồng nhất và ổn định giữa các
nước với nhau; thậm chí không ít các nhà luật học phương
Tây còn khảng định tính chất không ổn định (luôn thay đổi)
là đặc thù cơ bản của khái niệm này.
Các toà án ở các nước này thường sử dụng “bảo ÌM trật
tự cõng cộng” như là một công cụ sắc bén đổ bảo vệ lợi ích
của giai cấp thống trị với mục đích hạn chế, thậm chí đôi khi
là gạt bó. là phủ nhận việc cần thiết phải áp dụng luật nước
ngoài, trước hét là luật pháp của các nước khác nhau vé chế
độ kinh tẽ - xã hội. M ột giới hạn cho một nội hàm “trật tự
cóìiỊị cọ 11Ị! hoàn toàn do mỗi toà án có thám quyền quvết
64
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
định. Điều này cho thấy ở các nước này khái niệm “trật tự
công cộn g " được sử dụng khá tùy tiện và hậu quả của nó
trên thực tế giống như “những điều khoản cao su”.
Với lý do, nếu việc áp dụng luật nước ngoài mà gây ra
hậu quả xấu làm ảnh hưởng đến “đạo đức”, “thuần phong
m ỹ tục” thì sẽ không được áp dụng đã được hình thành từ thế
kỷ XIV nhưng được hình thành như một trường phái khoa
học pháp lý thì lần đầu tiên nó được xuất hiện ở Pháp với
khái niệm “Trật tự công cộng" (ordre Public interne). Điéu 6
Bộ luật dân sự của Pháp có quy định rằng: “Những thỏa
thuận tư không th ể làm thay đổi hiệu lực của những đạo luật
công mà trong đó quy định trật tự công cộng và đạo lý". Sau
này thực tiễn thi hành pháp luật ở Pháp đã chứng tỏ rằng
“các luật thuộc lĩnh vực trật tự công cộng” loại trừ việc áp
dụng luật nước ngoài, cho dù quy phạm xung đột dẫn chiếu
tới nó. Như vậy, trật tự công cộng hiển nhiên đã hạn chế hiệu
lực của quy phạm xung đột và ở Pháp người ta gọi nó là “trật
tự công cộng quốc tê1' (ordre Public international).
Ở Đức, trong lý luận cũng như thực tiễn tư pháp đều nhìn
nhận “trật tự công cộng'' là những điều khoản cao su để tạo
khả năng và cơ hội cho toà án và các cơ quan tư pháp có
thẩm quyền khác có quyển lúc thì nới rộng, lúc thì thu hẹp
hiệu lực quy phạm xung đột của mình lại với mục đích bảo
đảm lợi ích của giai cấp thống trị trong các tình huống quan
hệ quốc tế cụ thể.
Điều 30 Bộ luật dân sự của Đức quy định: "Việc áp dụnạ
luật nước Iigoài s ẽ phải hủy bỏ nếu như việc áp dụng đó
chống lại đạo lý hoặc là các tiêu chí của pháp luật Đức ”.
65
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Như vậy, cách n h ìn nhận của người Đức có khác với
Pháp ở chỗ ỉà theo Đ iều 30 trên đây thì khái niệm "trật tự
công cộng" ở Đức là rất rộng và các quan toà tha hồ giải
thích theo ý chù quan của m ình.
Ở Anh - Mỹ, quan điểm thống trị trong thực tiễn cũng
như trong khoa học pháp lý về trật tự công cộng là toà án
không buộc phải thực thi (áp dụng) và công nhận luật hoặc
hạn c h ế luật nước ngoài m à luật nước ngoài đó được quy
phạm xung đột luật của A nh hoặc M ỹ dẫn chiến tới, nếu như
việc buộc phải thực thi hoặc công nhận đó không phù hợp
vói “trật tự công cộng” ở các nước này. Trên thực tế, việc
phải viện dẫn “trật tự công cộng" trong toà án của Anh để
gạt bỏ không áp dụng luật nước ngoài là rất hiếm, có thể nói
là ít hơn nhiều so với trong toà án của các nước Châu Âu lục
địa. Đ iều này có thể giải thích một cách đơn giản là luật
xung đột của A nh rất ít khi viện dẫn tói việc cần thiết phải
áp dụng luật nước ngoài và tất nhiên Hệ thuộc luật toà án
(Lex fori) được sử dụng trong rất nhiều phạm vi quan hệ, đối
với nhiều lĩnh vực.
Ớ Việt Nam, quy định về “Bảo lưu trật tự công cộng''
được ghi nhận rất rõ ràng và cụ thể ở Điều 759 Bộ luật dân
sự năm 2005 khoản 4 nếu việc áp dụng hoặc hậu quà
của việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản
của ph á p luật Cộng hoà x ã hội chủ nghĩa Việt N am ". Ở đày
rõ ràng “trật tự cổng cộng" phải hiểu là hệ thống các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam và chúng được quy định
trong Hiến pháp Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992
và các văn bản pháp luật khác.
66
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ngoài ra, vấn đề “Bảo lưu trật tự công cộng” còn được
ghi nhận ở một sô' văn bản pháp luật khác của Việt Nam. Ví
dụ, Điều 101 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định:
"Trong trường hợp luật này, các văn bản pháp luật khác của
Việt N am có quy định hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hoà
x ã hội chủ nghĩa Việt N am ký kết hoặc tham gia viện dẫn thì
pháp luật nước ngoài được áp dụng, nếu việc áp dụng đó
không trái với nguyên tắc quy định trong Luật này".
Ngoài ra, vấn đề “Bảo lưu trật tự công cộng” còn được
ghi nhận trong m ột sô' điều ước quốc tế mà Việt Nam tham
gia hoặc ký kết. V í dụ: Điều 5 Công ước New York 1958 về
công nhận và thực hiện các quyết định của trọng tài nước
ngoài; Điều 7 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam - Liên
bang Nga nãm 1998; Điều 12 Hiệp định tương trợ tư pháp
Việt Nam - Ba Lan nãm 1993 và V.V..
Theo pháp luật Việt Nam được ghi nhận trong các văn
bản trên thì “trật tự công cộng” được hiểu là các nguyên tắc
cơ bản tạo ra một trật tự pháp lý trong chế độ của chúng ta.
Việc thực hiện nguyên tắc bảo lưu trật tự công cộng để loại
bỏ một số quy định của luật nước ngoài không thể áp dụng
không có nghĩa là luật nước ngoài đối kháng, mâu thuẫn với
thể chế chính trị - pháp luật của nhà nước mình mà chỉ là
nếu áp dụng thì gây ra các hậu quả xấu, không lành mạnh có
tác động tiêu cực đối với các nguyên tắc các nền tảng cơ
bản, đạo đức, truyền thống và lối sống ở nước mình, ở đây
cũng phải nói rõ thêm là việc áp dụng bảo lưu trật tự công
cộng không thể hiểu đó là việc phủ nhận các hệ thống luật
nước ngoài trên thế giới mà nó chỉ là không áp dụng một số
67
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
quy định liên quan khổng phù hợp m à thôi.
Các cơ quan tư pháp và cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ở nước ta phải rất cẩn trọng trong việc vận dụhg nguyên tắc
bảo lưu trật tự công cộng, song thực tiễn tư pháp cho thấy là
rất hiếm các trường hợp phải .vận dụng và trong trường hợp
phải bắt buộc vận dụng bao giờ cũng dựa trên những cơ sở
pháp lý đúng đắn và khách quan, bảo đảm thực hiện nghiêm
túc nguyên tắc pháp ch ế xã hội chủ nghĩa.
5. V ấn đ ề lẩ n tr á n h p h á p lu ậ t (fraus legi facta)
N hư chúng ta đã thấy, Pháp luật ở các nước khác nhau thì
khác nhau; do đó có khả nãng là đối với m ột quan hệ pháp
luật nếu giải quyết ỏ nước này thì bất lợi cho đương sự, còn
nếu được giải quyết ở nước khác thì có lợi hơn cho đương sự.
Đ ây là m ột thực tiễn khách quan và là “c ơ hội tốt” cho việc
lẩn tránh pháp luật phát sinh, nảy nở.
L ẩn trán h pháp luật là hiện tượng đương sự dùng những
biện pháp cùng thủ đoạn để thoát khỏi hệ thống pháp luật
đáng nhẽ phải được áp dụng để điểu chỉnh các quan hệ của
họ và nhằm tới m ột hệ thống pháp luật khác có lợi hơn cho
m ình. Các biện pháp và thủ đoạn thể hiện như: di chuyển
trụ sở, thay đổi nơi cư trú, thay đổi quốc tịch, chuyển động
sản thành bất động sản hoặc ngược lại từ nước này sang
nước khác V . V . .
Hầu hết thực tiễn tư pháp của các nước trên thế giới đều
coi đây là một hiện tượng không bình thường và đều tìm
cách hạn ch ế hoặc ngăn cấm. Việc quy định hạn chế hoặc
ngăn cấm ở mỗi nước là khác nhau bằng các biện pháp cũng
khác nhau. Nhưng để phân biệt được giữa lẩn tránh pháp luật
68
69
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
điều hành ở một nước mà lệ phí thấp sau đó sang hoạt động
ở nước khác thì hầu như đều được coi là hợp pháp.
Ở V iệt Nam, mọi hành vi lẩn tránh pháp luật là vi phạm
và không được chấp nhận. Thực tiễn ở nước ta vé lẩn tránh
pháp luật hầu như chưa có, nhưng trong m ột số văn bản pháp
quy lại có quy định rất rõ. V í dụ: K hoản 1 Đ iều 20 Nghị
định của Chính phủ số 68/N Đ -CP ngày 10/7/2002 quy định
chi tiết một số điều của Luật hôn nhân và gia đình V iệt Nam
về quan hệ hôn nhân - gia đình có yếu tô' nước ngoài.
Ở các nước khác như Nga, Điều 48 Bộ luật dân sự Cộng
hoà liên bang N ga ghi: “Các hợp đồng ký kết nhằm lẩn tránh
pháp luật bị coi là vô hiệu”.
6. Dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật của
nước th ứ ba (Renvoi au Prem ier derge - renvoi I và Renvoi
au Second derge - renvoi II)
M ột trong những vấn đề rất phức tạp trong việc áp dụng
quy phạm xung đột đó là vấn đề dẫn chiếu ngược.
Trong khoa học Tư pháp quốc tế vấn để dẫn chiếu đến
luật pháp nước ngoài hiện nay có hai quan điểm:
- Nếu hiểu dẫn chiếu đến luật pháp nước ngoài là dẫn
chiếu chỉ đến các quy phạm pháp luật thực chất của nước đó
thì sẽ loại trừ vấn đề dẫn chiếu ngược. Nói cách khác là
không bao giờ xảy ra dẫn chiếu ngược và luật thực chất của
nước được dẫn chiếu đến sẽ được áp dụng.
- Nêu hiểu dẫn chiếu đến luật pháp nước ngoài là dẫn
chiêu đên toàn bộ hệ thống luật pháp của nước đó (kể cả luật
thực chất, cả luật xung đột) thì có nghĩa là chấp nhận dẫn
70
71
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
cồng dân A nh lại cư trú ở Trung Q uốc trong trường hợp này
thì giải quyết th ế nào? R õ ràng là luật V iệt N am sẽ dản
chiếu tới pháp luật cùa Anh và Pháp luật của Anh sẽ lại dẫn
chiếu tới pháp luật Trung Q uốc và nếu V iệt N am đ ã chấp
nhận dẫn chiếu ngược thì cũng đồng nghĩa với việc chấp
nhận dẫn chiếu đến luật pháp nước thứ ba (luật pháp nước
thứ ba ở đây là luật pháp Trung Quốc).
Khi các quốc gia ký kết với nhau các hiệp định song
phương và đa phương (thường là các hiệp định tương trợ tư
pháp) trong đó quy định các quy phạm xung đột thống nhất
thì các quy phạm xung đột thống nhất sẽ được ưu tiên áp
dụng (xem lý luận về Đ iều ước quốc tế và Công ước viên
1969 về Đ iểu ưóe quốc tế) và trong trường hợp này có thể
nói vấn đề dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến luật pháp của
nước thứ ba sẽ không còn nữa.
7. V ấn đề có đi có lại tro n g việc á p d ụ n g luật nước ngoài
V ấn đề có đi có lại trong quan hệ hợp tác về mọi mặt
giữa các quốc gia là nhu cầu thực tiễn khách quan và là động
lực thúc đẩy sự liên kết kinh tế cũng như bảo đảm sự ổn định
cho m ột trật tự pháp lý trên th ế giới. N guyên tắc bình đẳng
giữa các quốc gia bao giờ cũng được thể hiện trong quan hệ
có đi có lại giữa chúng và ngược lại trên cơ sở có đi có lại
mới thể hiện sự bình đẳng giữa các quốc gia.
N guyên tắc có đi có lại được ahi nhận trong luật pháp
của đại đa sô các nước trên thế eiới, cũng như được thể hiện
trong rất nhiều Điều ước quốc tế (cả Điều ước song phương
và đa phương). V í dụ: khoản 1 Điều 1 Hiệp định tương trợ tư
pháp Việt Nam với Liên bang N ga ghi: “Công dán của bẽn
72
73
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
sự hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau nhàm thiết lập m ột ưạt tự
pháp lý ổn định trên th ế giới.
Hiện nay, vẫn còn ở một vài nước trên th ế giới đặt vấn đề
áp dụng luật nước ngoài đòi hỏi phải trên nguyên tắc có đi
có lại. Ví dụ: Điều 25 Bộ luật dân sự của Đức năm 1986 ghi
nhận: Đức s ẽ áp dụng biện pháp trả đũa nếu nước ngoài
không áp dụng luật cùa Đức đ ể giải quyết vấn đ ề thừa kế
của công dán Đức ở đó ‘ặ. Có lẽ đây chỉ là m ột trong những
trường hợp ngoại lệ.
74
I. NGUỜINUỚC NGOÀI
l ệ Khái niệm người nước ngoài
Trong sự phát triển khách quan lịch sử của cộng đồng
các quốc gia trên thế giới, công dân nước này, nưốc kia cùng
chung sống trên lãnh thổ của một quốc gia do những nguyên
nhân khác nhau. Đó là:
- Do chiến tranh dẫn đến việc di cư ồ ạt;
- Do việc chia, tách lãnh thổ quốc gia;
- Do hậu quả của thiên tai (động đất, núi lửa);
- Do thay đổi chế độ chính trị - kinh tế;
- Và cuối cùng là quá trình hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật,
giao lưu văn hoá giữa các nước và các nguyên nhân khác nữa...
Như vậy, việc công dân của các nước khác nhau sống
cùng công dân nước sở tại trong lãnh thổ của một quốc gia là
một hiện thực khách quan. Việc nghiên cứu quy chế pháp lý
của công dân nước ngoài không thể không tìm hiểu sâu khái
niệm "người nước ngoài" đã được hình thành trong khoa học
pháp lý ở nước ngoài và ở nước ta.
75
76
(1). Xem: Quyết định số'I22ICP ngày 24/5/1977 của Hội đồng Chính phủ.
77
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
một vài nước khác hoặc không m ang quốc tịch nước nào.
- Người nước ngoài GÓ thể cư trú trên lãnh thổ V iệt Nam
và cũng có thể cư trú ngoài lãnh thổ V iệt Nam.
2. Phân loại người nước ngoài
Khái niệm người nước ngoài có m ột nội dung pháp lý rất
rộng như ở trên đã phân tích. Để nâng cao khả năng quản lý
của các cơ quan nhà nước liên quan đến người nước ngoài và
bảo đảm lợi ích của N hà nước cũng như quyển và nghĩa vụ
hợp pháp của người nước ngoài, trên cơ sở của các văn bản
pháp quy của N hà nước và các điều ước quốc tế, có thể phân
người nước ngoài thành các nhóm cơ bản như sau:
a. Dựa vào cơ sở quốc tịch
- Người có quốc tịch nước ngoài;
- Người không có quốc tịch.
b. Dựa vào nơi cư trú
- Người nước ngoài cư trú tại V iệt Nam;
- Người nước ngoài cư trú ở nước ngoài.
78
79
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Capacité d'exercice). Theo hệ thống luật pháp Anh - Mỹ
(Common Law) thì năng lực chủ thể (Capacity) bao gồm
năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Hiện nay, trong khoa học pháp lý của V iệt N am cũng
như một số nước, năng lực pháp luật của cá nhân là khả năng
của người đó được hưởng cấc quyền và gánh vác nghĩa vụ
m à theo pháp luật quy định; còn năng lực hành vi của cá
nhân là khả năng của chính người đó bằng các hành vi cùa
mình thực hiện các quyền và gánh vác nghĩa vụ theo pháp
luật quy định (xem Điểu 14 và 17 Bộ luật dân sự V iệt Nam).
Năng lực pháp luật và năng lực hành vi quy định quyển
nãng chủ thể của một thực thể khi nó tham gia vào các quan
hệ pháp luật nhất định.
Để giải quyết xung đột pháp luật về năng lực pháp luật
dân sự cùa công dân nước ngoài, luật pháp các nước thường
quy định người nước ngoài có nãng lực pháp luật ngang hoặc
tương đương với công dân nước sở tại (trừ những ngoại lộ
quy định trong các hệ thống luật cụ thể cùa mỗi quốc gia
hoặc trong các điều ước quốc tế), còn giải quyết xung đột
pháp luật về năng lực hành vi thì đại đa số luật pháp các
nước áp dụng nguyên tắc luật quốc tịch (Lex patriae), riêng
hệ thống luật Anh - Mv (Common law) lại áp dụng nguvên
tắc luật nơi cư trú (Lex domicilie).
Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, Điểu 761 Bộ luật
dân sự năm 2005 quy định: Người nước ngoài có năng lực
pháp luật dân sự tại Việt Nam như công dân V iệt Nam (trù
các trường hợp ngoại lệ); và Đ iểu 762 quv định: Năng lực
80
81
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
dân của họ không phải ở tất cả m ọi m ặt, m à bao g iờ cũng
còn những hạn chế (dù ít, dù nhiều) nhất định đối với người
nước ngoài. Ví dụ: các quyển chính trị như quyền bầu cù,
quyền ứng cử, đề cử hầu như không được hưởng; quyẻn cư
trú bị hạn chế; quyền hành nghề học tập cũng bị những giói
hạn nhất định V.V..
C hế độ đãi ngộ như công dần dành cho người nước ngoài
thường được quy định trước hết là trong luật pháp các nước.
Ở V iệt Nam, theo Quyết định số 122/CP ngày 25/4/1977 của
Hội đồng Chính phủ về chính sách đối với người nước ngoài
cư trú và làm ãn sinh sống ờ V iệt Nam tại Đ iểu 7 và Điẻu 8
quv định rằng: Người nước ngoài định cư ở Việt N am được
hưởng chế độ đãi ngộ như công dân đối với sờ hữu cá nhân
về thu nhập hợp pháp và tư liệu sinh hoạt và các quan hệ
thừa k ế đối với các tài sản trên.
Ngoài ra. chế độ đãi ngộ như công dân còn được ghi
nhận trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương
như là các nguyên tắc pháp luật quốc tế nhằm bảo hộ pháp lý
cho công dân các nước hữu quan làm ãn, sinh sống trên lãnh
thổ của nhau. V í dụ: Trong Hiệp định tương trợ tư pháp về
các vấn đề dân sự. gia đinh, hình sự giữa nước Cộng hoà xã
hội chù nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà nhân dân Bungari
quy định tại khoản 1 Điều 1 như sau: "Công dán nước kỷ két
này được hiíờrig trên lãnli thô nước ký kết kia sự bào hộ pháp
lý vè các quyên nhân thán và tài sàn mà nước ký kết kia
dành cho công dàn nước mình'' (H iệp định ký kết ngày
03/101986). Đối với các điều ước quốc tê đa phương phải kể
82
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
đến các công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ. Đó là Công ước
Becnơ 1886, Công ước Giơnevơ 1952 về bảo hộ quyền tác
giả; Công ước Pari 1883 về bảo hộ quyẻn sở hữu công
nghiệp, m à nội dung cơ bản của các công ước này đều lấy
nguyên tắc đãi ngộ như công dân làm nền tảng bảo hộ trên
cơ sở có đi có lại.
+ Chế độ tối huệ quốc (Most the Favoured nation treatment).
Nội dung cơ bản của chế độ tối huệ quốc là người nước
ngoài và pháp nhân nước ngoài được hưởng một chế độ mà
nước sở tại dành cho người nước ngoài và pháp nhân nước
ngoài của bất kỳ nước thứ ba nào đang được hưởng và sẽ
được hưởng trong tương lai.
Đây là một chế độ pháp lý có tầm quan trọng đặc biệt
trong lĩnh vực quan hệ kinh tế, thương mại và hàng hải. Chế
độ tối huệ quốc dành riêng cho công dân và pháp nhân nước
này hay nước kia cần phải được quy định rõ ràng và cụ thể
trong các hiệp định quốc tế (thường là trong các Hiệp định
thương mại và hàng hải; Hiệp định về thuế quan và mậu dịch;
Hiệp định về thị trường chung hay thị trường tự do V .V .) .
V í dụ: Trong Hiệp định thương mại và hàng hải mà Việt
Nam ký kết với Liên Xô (cũ) vào ngày 12/3/1958 (nay Liên
bang Nga kế thừa hiệp định này) quy định: "Hai bên kỷ kết
dành cho nhau c h ế độ tối huệ quốc trong mọi vấn đ ề liên
quan đến buôn bán và hàng hải và trong mọi quan hệ kinh tế
khác giữa hai nước". Tương tự như vậy, Việt Nam ký kết với
các nước về Hiệp định thương mại và hàng hải.
Theo chế độ tối huệ quốc thì người nước ngoài cũng như
83
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
pháp nhân nước ngoài được hưỏng đầy đủ và hoàn toàn các
quyền hợp pháp m à m ột quốc gia đã giành cho và sẽ giành
cho bất kỳ một nhóm người nước ngoài cũng như pháp nhân
nước ngoài nào đang sinh sống hay hoạt động trên lãnh thổ
của quốc gia đó. Đây chính là sự thể hiện rõ nhất của thuật
ngữ "tối huệ quốc'' được hiểu trong khoa học pháp lý quốc
tế. Như vậy. chế độ tối huệ quốc đưa lại các điều kiện cũng
như các tiêu chuẩn pháp lý như nhau (theo nghĩa bình đẳng,
bình quyền) cho người nước ngoài và pháp nhân nước ngoài
của các quốc gia đã ký kết với nhau H iệp định m à trong đó
có quy định chế độ này.
Tiêu chí của chế độ tôi huệ quốc được ghi nhận dù là
trong các hiệp định song phương, hoặc trong các hiệp định
đa phương là dành cho các công dân cũng như pháp nhân
của các nước ký kết các điều kiện và cơ hội ngang nhau
trong thương mại, hàng hải và các quan hệ kinh tế khác nữa,
đồng thời xoá bò mọi sự kỳ thị, phân biệt đối xử với các lý
do khác nhau trong hoạt động thương mại quốc tế. Ngoài ra,
chế độ tối huệ quốc trong các hiệp định quốc tế còn củng cố
và thúc đẩy sự hợp tác kinh tế thương mại và các quan hệ
toàn diên khác giữa các quốc gia trên th ế giới trên cơ sờ tôn
trọng chủ quyền, binh đẳng và cùne có lợi.
+ C hế độ đãi ngộ đặc biệt.
Thực chất của chê độ này thể hiện ở chỗ là người nước
ngoài, thậm chí pháp nhân nước naoài được hưởng những ưu
tiên ưu đãi đặc biệt hoặc các quyền đặc hưởng m à nước sờ
tại dành cho họ (thậm chí chính côns dân nước sờ tại cũng
không được hường).
84
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Các ưu tiên, uu đãi hoặc các đặc quyền này thường được
quy định trong luật pháp của các quốc gia cũng như trong
các điều ước quốc tế.
Chế độ đãi ngộ đặc biệt thể hiện rất rõ trong các công
ước quốc tế mà các quốc gia tham kết giành riêng cho các
nhân viên ngoại giao và lãnh sự trên lãnh thổ của nhau được
hưởng (có thể nói đây là phần rất quan trọng của Công ước
Viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao và Công ước Viên
năm 1963 về quan hệ lãnh sự).
+ Chế độ có đi có lại và chế độ báo phục quốc.
- Chế độ có đi có lại thể hiện sự phát triển khách quan
thực tại của thế giới ngày nay trong mối tương quan phụ
thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia. Việc củng cố, tăng cường
và phát triển các quan hệ kinh tế, khoa học - kỹ thuật, văn
hoá và các quan hệ khác giữa các quốc gia trên thế giới
không thể có được nếu như nó không được xây dựng trên cơ
sở nển tảng của chế độ có đi có lại. Chính bản thân của chế
độ có đi có lại đã mang nội dung của nguyên tắc bình đẳng
trong quan hệ giữa các quốc gia. V.I.Lênin đã khẳng định
một điều có tính chất nguyên tắc, đó là: "Chỉ có bình đẳng
giữa các quốc gia có các chê độ chính trị khác nhau mới có
quan hệ bình đẳng được".
Nội dung cơ bản của chế độ có đi có lại thể hiện ở chỗ là
một quốc gia dành một chế độ pháp lý nhất định cho thể
nhân và pháp nhân nước ngoài tương ứng như nước đó đã
dành và sẽ dành cho công dân và pháp nhân của mình ở đó
trên cơ sở có đi có lại.
85
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
C hế độ có đi có lại thường được ghi nhận trong các diều
ước quốc tế bởi lẽ các quốc gia m uốn bảo đảm quyền và lợi
ích của công dân và pháp nhân của nước m ình ở nước ngoài.
Do các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau và sự phát
triển của các quốc gia là không đồng đều, cho nên trong thực
tiễn Tư pháp quốc tế ch ế độ có đi có lại được thể hiện dưới
hai cách như sau:
- Có đi có lại thực chất;
- Có đi có lại hình thức.
Có đi có lại thực chất được hiểu là m ột nước dành cho
thể nhân và pháp nhân nước ngoài m ột số quyền và nghĩa vụ
hoặc những ưu đãi nhất định đúng bằng những quyền và
nghĩa vụ cũng như những ưu đãi thực tế m à các thể nhân và
pháp nhân của nước đó đã được hưởng ở nước ngoài kia. Có
đi có lại thực chất đôi khi mới được áp dụng ở những nước
có cùng chế độ kinh tế - chính trị - xã hội. Song cũng gặp
không ít khó khãn khi mà trình độ phát triển kinh tế của các
nước không đồng đểu hoặc phong tục, tập quán và truyẻn
thống dân tộc khác xa nhau.
Ngược lại, chế độ có đi có lại hình thức lại m ang một nội
dung khác và có những ưu điểm trong áp dụng, khắc phục
được những khiếm khuyết m à chế độ có đi có lại thực chất
không thể khắc phục được. Nội dung của chê độ có đi có lại
hình thức thể hiện ở chỗ một nước dành cho thể nhân và
pháp nhàn nước ngoài một chế độ pháp lý nhất định như chế
độ đãi ngộ như cống dân hoặc ch ế độ đãi ngộ tối huệ quốc
86
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
mà ở nước kia cũng đã dành cho công dân và pháp nhân
nước mình một chế độ tuơng ứng như thế. Quy định trên
được áp dụng rất hữu hiệu trong quan hệ giữa các quốc gia
có chế độ chính trị - xã hội khác nhau.
Một mặt, khi áp dụng chế độ có đi có lại hình thức cho
công dân nước ngoài ở Việt Nam tức là được hưởng các quyền
và gánh chịu các nghĩa vụ dân sự và lao động như công dân
Việt Nam, họ có thể được hưởng các quyền mà ở ngay chính
nước họ cũng không được hưởng (bình đẳng giữa nam và nữ
trong quan hệ gia đình mà ở một sô' nước không có). Mặt
khác, người nước ngoài cũng không thể đòi hỏi các quyền mà
tnróc đây họ được hưởng ở nước mình, thì nay cũng được
hưởng ở Việt Nam như là quyền sở hữu đối với đất đai.
Hiện nay, trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước
khác chúng ta thường áp dụng chê độ có đi có lại hình thức
là phù hợp nhất. Có thể dẫn một ví dụ khá cụ thể để thấy rõ
hơn trong việc áp dụng chế độ này. Ở các nước tư bản phát
triển quy định chế độ sở hữu tư nhân đối với đất đai, điền
thổ, còn ở Việt Nam đất đai, điền thổ thuộc sở hữu nhà nước,
sở hữu toàn dân. Như vậy, ở nước ta không thể dành cho
công dân của Pháp hoặc M ỹ quyền sở hữu đối với đất đai,
điển thổ như là ở nước họ đang được hưởng, còn công dân
Việt Nam ở Pháp hoặc ở Mỹ có quyền sở hữu đối với đất đai,
điền thổ; quyền này ở chính Việt Nam thì công dân Việt
Nam cũng không có quyền đó. Ở đây giữa Việt Nam và
Pháp hoặc Mỹ đã áp dụng chế độ đãi ngộ như công dân trên
cơ sở có đi có lại hình thức.
87
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
- C hế độ báo phục quốc.
C hế độ báo phục quốc được áp dụng trên cơ sờ của chế
độ có đi có lại và cùng xuất phát từ tinh thần "có đi có lại"
nên vấn đề "báo phục" được đặt ra trong quan hệ giữa các
quốc gia. Báo phục được hiểu là các biện pháp trả đũa. Nếu
như một quốc gia nào đó đơn phương sử dụng những biện
pháp hoặc có các hành vi gây thiệt hại hoặc tổn hại cho quốc
gia khác hay công dân hoặc pháp nhân của quốc gia khác,
thì chính quốc gia bị tổn hại đó hoặc công dân hay pháp
nhân của nó được phép sử dụng các biện pháp trả đũa như
hạn chế hoặc có các hành động tương ứng đối phó hoặc đáp
lại các hành vi của quốc gia đầu tiên đơn phương gây ra các
thiệt hại đó. Tổng hợp các hành vi đối phó đáp lại được gọi
là các biện pháp báo phục và hoàn toàn hợp pháp trên cơ sở
có đi có lại. Thực tiễn Tư pháp quốc tế coi các quy định này
như nguyên tắc tập quán trong quan hệ giữa các quốc gia.
Mục đích của các biện pháp báo phục là nhầm khôi phục
lại trật tự pháp luật đã bị vi phạm và giống như biện pháp
bảo đảm thực thi pháp luật.
b. Địa vị pháp lý của người nước ngoài ở Việt Nam
Người nước ngoài (ngoại kiều) là người cư trú và làm ăn
sinh sống ở Việt Nam nhưng không m ang quốc tịch Việt
Nam. Như vậy dấu hiệu "quốc tịch" là dấu hiệu cơ bản để
phàn biệt ai là người Việt Nam và ai là người nước ngoài
(Điều 1 Quyêt định 122/CP của Chính phủ Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ban hành 25/4/1977). Trên cơ sờ thời
han cư trú m à pháp luật Việt Nam cũng như nhiều nước phân
biệt người nước ngoài thành hai loại:
88
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Người nước ngoài thường trú;
- Người nước ngoài tạm trú (có thể dài hạn hoặc ngắn
hạn). Dựa vào thời hạn cư trú mà các quốc gia trên thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng quy định các chế độ pháp
lý cho người nước ngoài phù hợp với các điều kiện cư trú cụ
thể của họ.
Địa vị pháp lý của người nước ngoài ở Việt Nam được
quy định trong các văn bản pháp quy của Việt Nam và trong
các điều ước quốc tế của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hiến pháp Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992 quy định tại Điều 81: Người nước ngoài cư trú tại Việt
Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, được
Nhà nước Việt Nam bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền
lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam.
Nhìn chung, về nguyên tắc, địa vị pháp lý của người
nước ngoài tại Việt Nam được quy định trên cơ sở chế độ đãi
ngộ như công dân, trừ những trường hợp mà pháp luật Việt
Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham
gia có quy định khác. Hiện nay, theo các văn bản pháp luật
hiện hành, người nước ngoài ở Việt Nam có các quyền và
nghĩa vụ cơ bản như sau:
b l . Quyền cư trú
Đây là một trong những quyền cơ bản của ngoại kiều.
Trong Quyết định 122/CP của Chính phủ, ngoại kiều được
phép có quyền cư trú trên lãnh thổ Việt Nam. Quy định này
xuất phát từ chế độ đãi ngộ như công dàn và hoàn toàn phù
hợp với xu hướng phát triển tiến hộ của luật quốc tế hiện đại.
89
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nơi cư ư ú của ngoại kiểu do cơ quan có thẩm quyền của
Việt Nam quy định (Điẻu 4 Quyết định 122/CP). Thuờng thì
Uỳ ban nhân dân tĩnh hoặc thành phô' trực thuộc trang ương
có quyền quy định nơi cư trú của ngoại kiều trên cơ sờ bảo
đảm phát triển kinh tế và an ninh quốc phòng của địa
phương mình. Luật pháp V iệt N am cũng như đại đa số các
nước trên th ế giới quy định những khu vực cấm không thể
cho phép người nước ngoài cư trú. Đ ó là các khu liên quan
đến an ninh quốc phòng hoặc bí m ật quốc gia V . V . .
Tùy thuộc vào từng thời điểm cũng như m ối quan hệ của
V iệt Nam với từng quốc gia cụ thể mà N hà nước quy định
thủ tục và thể lệ đăng ký nơi cư trú và cấp thẻ cư trú cho
từng đối tượng người nước ngoài để tiện cho các cơ quan
quản lý người nước ngoài tại Việt Nam.
b2. Quyền hành nghé
Pháp luật Việt Nam cho phép người nước ngoài cư trú ờ
Việt Nam đuợc quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp (hành
nghề) trong khuôn khổ quy định của pháp luật. H ọ làm việc
nào thì được hưởng lương hoặc tiền công theo việc đó và
được pháp luật cũng như các cơ quan có thẩm quyền bảo
đảm cho họ. Song trong lĩnh vực hành nghề do họ là người
nước ngoài nên có những hạn chế nhất định. Đ iều này cho
thấy pháp luật Việt Nam cũng giống như pháp luật một sô'
nước là có một số nghề nghiệp không cho phép người nước
ngoài được làm.
Đó là các nghề liên quan trong lĩnh vực quốc phòng, an
ninh quốc gia, bí m ật quốc gia.
90
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
V í dụ như:
- Sửa chữa, lắp ráp một sô' máy thông tin đặc chủng.
- Điều khiển một số loại phương tiện giao thông.
- Cấm không được làm nghề in, khắc dấu.
- Các nghề trong khoa học liên quan đến an ninh, bí mật
quốc gia V.V..
Hiện nay, theo một sô' văn bản pháp luật hiện hành như
luật báo chí, luật xuất bản thì người nước ngoài không được
làm Tổng biên tập báo chí, Tổng giám đốc, giám đốc các đài
phát thanh, truyển hình; Nghị định 45/HĐBT, Điều 14 cấm
người nước ngoài làm công chứng viên.
Pháp luật Việt Nam cũng như một số nước còn hạn chế
hoặc cấm bổ nhiệm hoặc tuyển dụng người nước ngoài vào
công chức, viên chức nhà nước v.v. để đảm bảo an ninh và
lợi ích kinh tế của đất nước đó.
b3. Quyền sở hữu và thừa k ế
Chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, do đó vấn đề sở hữu của người nước
ngoài ngày càng trở nên là vấn đề phức tạp và cần được xem
xét cẩn thận.
Cho đến thời điểm này pháp luật Việt Nam chưa có một
vãn bản thống nhất chung quy định sở hữu tài sản của các
loại người nước ngoài ở Việt Nam. Do đó, việc xem xét,
nghiên cứu về sở hữu của người nước ngoài ỏ Việt Nam phải
căn cứ vào rất nhiều văn bản pháp luật. Căn cứ vào Điều 7
Quyết định 122/CP ngày 25/4/1977 của Chính phủ thì người
91
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
nước ngoài định cư ở V iệt N am được hưởng các quyền sở
hữu cá ahân về thu nhập hợp pháp, vẽ tư liệu sinh hoạt và tư
liệu sản xuất theo pháp luật V iệt N am ; không có quyẻn sở
hữu bất động sản ở V iệt N am , kể cả nhà ở, ruộng đất v.v.
dưới bất kỳ hình thức nào. Căn cứ vào Luật nhà ở năm 2005
thì có sự m ở rộng hơn quyền này cho người nước ngoài:
"Người nước ngoài có quyền sở hữu nhà ở trong thời gian
tiến hành đầu tư hoặc thời gian định cư, thường trú dài hạn
tại V iệt N am , nếu Điều ước quốc t ế mà Việt N am ký kết
hoặc tham gia không có quy định kh á c”.
Căn cứ vào Luật đầu tư năm 2005 được ban hành trên cơ
sở H iến pháp Cộng hoà xã hội chủ nghĩa V iệt Nam năm
1992 (Đ iều 25), N hà nước bảo đảm , thừa nhận bảo vệ quyền
sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Viột
Nam đối với vốn đầu tư, đối với tất cả các tài sản và các quyẻn
lợi khác của họ khi các quyền đó được hình thành và phát
triển trên cơ sở pháp luật V iệt N am cho phép.
H iện tại, theo tinh thần của rất nhiều văn bản pháp quy của
Việt N am còn thừa nhận quyền sở hữu đối vói các tài sản hợp
pháp của người nước ngoài hiện đang cư trú ở nước ngoài. Đối
với họ không có quyền sở hữu bất động sản ở Việt Nam.
Các quyền sở hữu đối với tài sản hợp pháp của ngoại kiều
ở V iệt N am được pháp luật bảo vệ và quy định.
Song song với việc thực thi quyền sở hữu của người nước
ngoài ở Việt Nam, thì việc bảo vệ quvền thừa k ế đối với các
tài sản đó của họ là tất yếu. Pháp luật Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam bảo đảm quyền thừa kê tài sản hợp pháp cùa
92
93
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
của người nước ngoài tại Việt N am được thể hiệD rất rõ tại
Điều 774 và 775 Bộ luật dân sự Cộng hoà x ã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Ở V iệt N am , người nước ngoài được N hà nước
bảo vệ các quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp cùng
vói các quyền và lợi ích trong lĩnh vực này theo các quy định
của pháp luật V iệt N am và các điểu ước quốc tế m à Việt
Nam ký kết hoặc tham gia.
bó. C ác quyển và nghĩa vụ trong lĩnh vực hôn nhàn và
gia đình
Trong Tuyên ngôn độc lập (2/9/1945) V iệt N am đã trịnh
trọng tuyên b ố tôn trọng quyền mưu cầu hạnh phúc của các
cá nhân. Luật dân sự và Luật hôn nhân và gia đình Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa V iệt N am đã khẳng định rất rõ các quyền
cơ bản đó của con người. Luật pháp V iệt N am quy định các
nguyên tắc hôn nhân gia đình tiến bộ, không ngãn cấm việc
kết hôn giữa công dân V iệt N am với người nưóc ngoài và giữa
những người nưốe ngoài với nhau. Song các quan hệ trên phải
phù hợp pháp luật V iệt N am , tuân thủ các điều kiện của Việt
N am và các tập quán quốc tế mà Việt Nam thừa nhận.
b7. Quyền bảo vệ sức khỏe
94
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
phải chấp hành những quy định pháp luật vê' bảo vệ sức
khỏe nhân dân. Người nước ngoài có th ể vào Việt Nam đ ể
khám bệnh, chữa bệnh...”.
b8. Quyền tố tụng dân sự
Đây là một quyền quan trọng dành cho người nước
ngoài, thể hiện việc bảo đảm sự công bằng cũng như các lợi
ích của người nước ngoài ở Việt Nam khi các lợi ích đó bị
xâm phạm. Theo Điểu 406 Bộ luật tô' tụng dân sự năm 2004
thì người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài khi khởi kiện ở
toà án của Việt Nam được Nhà nước Việt Nam cho hưởng
chế độ đối xử quốc gia trong tố tụng dân sự.
Ngoài ra, chế độ đãi ngộ như công dân trên đây còn được
ghi nhận trong các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết với người nước ngoài.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam dành
riêng và bảo đảm cho người nước ngoài được hưởng các
quyền như trên đây, thì khi cư trú tại Việt Nam họ cũng phải
có nghĩa vụ tôn trọng luật pháp Việt Nam, phong tục tập
quán truyền thống và tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam.
Khi người nước ngoài có những hành vi vi phạm pháp
luật ở Việt Nam thì tùy theo mức độ vi phạm và tính chất
nguy hiểm cho xã hội mà họ có thể bị xử lý hành chính, hình
sự hoặc thậm chí trục xuất khỏi lãnh thổ Việt Nam.
c. Địa vị pháp lý của người Việt Nam ở nước ngoài
Do các điều kiện lịch sử khách quan khác nhau trước đây
và tăng cường hợp tác về mọi mặt giữa Việt Nam với người
95
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
nước ngoài hiện nay, số lượng người Viột N am sống, làm ăn
ở nước ngoài không ít, ước tính khoảng trên 2 triệu người ở
hơn 40 quốc gia trên thế giới (theo số liệu của Uỷ ban người
Việt Nam định cư ở nước ngoài).
Đ ịa vị pháp lý của người Việt Nam ở nước ngoài do luật
pháp của nước nơi họ sinh sống quy định là cơ bản; ngoài ra
nó còn được quy định trong luật pháp V iệt N am và các Điều
ước Quốc tế mà Việt Nam đã ký kết với các nước hữu quan.
Luật pháp nước sở tại dựa trên các điều kiện cụ thể của
nước m ình để quy định và dành riêng các quyển và nghĩa vụ
cho công dân Việt Nam cư trú, làm ăn sinh sống ở đó.
Công dân V iệt N am ở nước ngoài được các cơ quan
ngoại giao và lãnh sự của V iệt N am ở nước ngoài bảo vệ các
quyền lợi hợp pháp của họ.
Pháp nhân là một tổ chức nhất định của con người, được
pháp luật N hà nước quy định có quyền năng chủ thể. Không
phải bất kỳ tổ chức nào cũng được công nhận có tư cách
pháp nhân. Chỉ những tổ chức được thành lập theo trình tự,
thủ tục và có đù các điều kiện do pháp luật của N hà nước
quy định hoặc tồn tại trên thực tế và được Nhà nước công
nhận thì mới có tư cách pháp nhân.
96
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Theo pháp luật Việt Nam Điều 84 Bộ luật dân sự năm
2005, pháp nhân phải là tổ chức có đủ 4 điều kiện sau đây:
- Được cơ quan nhà nước có thẩm quyển thành lập, cho
phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận;
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
- Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu
trách nhiệm bằng tài sản đó;
- Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một
cách độc lập.
Pháp nhân có thể được thành lập theo sáng kiến của cá
nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ đa hội,
quỹ từ thiện hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyển và phải tuân theo thủ tục do pháp luật quy định.
Như vậy, các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang dựa trên
ngân sách nhà nước nhưng có dự toán độc lập, các đoàn thể
quần chúng, tổ chức xã hội độc lập về tổ chức và tài sản, các
tổ chức sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế
được thành lập một cách hợp pháp, có tổ chức và hạch toán
kinh tế độc lập đều được công nhận là pháp nhân. Quy chế
tổ chức và hoạt động của các loại pháp nhân do pháp luật
của Nhà nước quy định tùy thuộc vào mục đích hoạt động
của mỗi loại pháp nhân.
Theo thực tiễn quốc tế, pháp nhân được thành lập theo
pháp luật của một nước nhất định. Nói cách khác, việc công
nhận một tổ chức có tư cách pháp nhân phải dựa trên cơ sở
pháp luật của một nước nhất định. Thông thường một tổ chức
97
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
được công nhận có tư cách pháp nhân ở nước nó được thành
lập thì cũng được công nhận có tư cách pháp nhân ở các
nước khác. Đối với Việt Nam, pháp nhân nưốe ngoài là tổ
chức hưởng tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật
nước ngoài và được công nhận là có quốc tịch nước ngoài.
98
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Theo pháp luật của Pháp, của Đức và của nhiều nước
khác, pháp nhân đặt trung tâm quản lý ở nước nào thì mang
quốc tịch của nước đó, không phân biệt nơi đăng ký thành
lập hay tiến hành hoạt động của pháp nhân. Các luật gia
Pháp cho rằng nơi đặt trung tâm quản lý là nơi đặt trụ sở cơ
quan lãnh đạo, nơi quyết định mọi công việc của pháp nhân.
Khác với pháp luật của Pháp và của Đức, pháp luật của
Anh và M ỹ quy định rằng quốc tịch của pháp nhân tùy thuộc
vào nơi đăng ký điều lệ của pháp nhân khi thành lập, bất kể
nơi đặt trụ sở chính hoặc nơi hoạt động của nó.
Pháp luật của một sô' nước khác như Ai-cập, Xi-ri v.v. lại
quy định áp dụng nguyên tắc quốc tịch pháp nhân tùy thuộc
vào nơi trang tâm hoạt động của pháp nhân, bất kể nơi đặt trụ
sở chính hay noi đăng ký điều lệ pháp nhân khi thành lập.
Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai,
một số nước như Anh, Pháp còn quy định thêm rằng công
dân của nước nào nắm quyền kiểm soát pháp nhân thì pháp
nhân được coi là mang quốc tịch của nước đó. Quy định này
chỉ nhằm khống chế hoạt động và kiểm soát chặt chẽ những
pháp nhân do công dân của các nước địch thủ trong chiến
tranh kiểm soát.
Ở Nga và các nước Đông Âu, hai nguyên tắc: Quốc tịch
pháp nhân tùy thuộc vào nơi thành lập pháp nhân và quốc
tịch pháp nhân tùy thuộc vào nơi đặt trụ sở chính của pháp
nhân đều được áp dụng. Thông thường pháp nhân của những
nước này thành lập ở đâu thì đặt trụ sở chính ở đó và cũng
chủ yếu hoạt động ở đó. Cùng với việc xây dựng nền kinh tế
99
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
thị trường và hoà nhập của mỗi nuớc với nền kinh tế th ế giói,
pháp nhãn của các nưóc này sẽ dần dần m ở rộng phạm vi
hoạt động sang lãnh thổ của các nước khác.
Ở V iệt Nam, từ trước đến nay trên thực tế các pháp nhân
được thành lập theo pháp luật V iệt N am , đồng thời cũng đặt
trụ sờ và hoạt động trên lãnh thổ V iệt Nam. N hững pháp
nhân đó được công nhận là pháp nhân m ang quổc tịch Việt
Nam. Bộ luật dân sự V iệt N am năm 2005 không quy định
nguyên tấc xác định quốc tịch của pháp nhân. Song khi xem
xét vấn đề năng lực pháp luật của pháp nhân nước ngoài,
khoản 1 Đ iều 765 của Bộ luật dân sự năm 2005 quy định
phải căn cứ vào pháp luật của nước nơi pháp nhãn đó thành
lập. Có thể nói Bộ luật dân sự V iệt N am m ột cách gián tiếp
thừa nhận nguyên tắc quốc tịch của pháp nhân tùy thuộc vào
nơi thành lập pháp nhân.
Với tinh thần đó, các x í nghiệp liên doanh có vốn đầu tư
nước ngoài và cả x í nghiệp 100% vốn nước ngoài thành lập
theo Luật đầu tư năm 2005 đều là những pháp nhân mang
quốc tịch V iệt Nam.
Đối với Việt Nam, tất cả những pháp nhân không mang
quốc tịch V iệt N am đều được coi là pháp nhân nước ngoài.
Do quy định của pháp luật các nước về nguyên tắc xác
định quốc tịch pháp nhân không giống nhau, trong thực tiễn
không tránh khỏi trường hợp một pháp nhân được hai hay
nhiều nước đồng thời coi là pháp nhân m ang quốc tịch của
nước mình. Để giải quyết hiện tượng này các nước phải ký
kết với nhau điều ước quốc tế nhằm thống nhất nguvên tắc
100
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
xác định quốc tịch pháp nhân cũng nhu thừa nhận tư cách
pháp nhân của các tổ chức được thành lập và hoạt động theo
pháp luật của các nước hữu quan.
2. Quy ch ế pháp lý dân sự của pháp nhân nước ngoài
a. Đặc điểm quy chê'pháp lý dân sự cùa pháp nhân nước ngoài
Pháp nhân mang quốc tịch của một nước nhất định và
được tổ chức và hoạt động theo pháp luật của nước đó. Nói
cách khác, năng lực pháp luật dân sự, điều kiện và thủ tục
thành lập, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể pháp nhân,
thanh lý tài sản khi giải thể pháp nhân v.v. do pháp luật của
nước pháp nhân mang quốc tịch quy định.
Khi hoạt động với tư cách là pháp nhân nước ngoài ở một
nước nào đó, năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân trên
lãnh thổ nước sở tại tuỳ thuộc vào quy định của pháp luật
nước sở tại. Tuy nhiên, những vấn đề về tổ chức, vấn đề nội
bộ, giải thể, thanh lý tài sản khi giải thể vẫn theo quy định
của pháp luật nước pháp nhân mang quốc tịch.
Việc cho pháp nhân nước ngoài vào hoạt động hay
không, cho phép vào để tiến hành những hoạt động gì, trong
lĩnh vực nào, ở phạm vi nào, cho pháp nhân đó hưởng thêm
những quyền gì và có những nghĩa vụ gì cụ thể, là quyền của
nước sở tại. Những vấn đề này thường được quy định trong
văn bản pháp luật quốc gia (ví dụ: Luật đầu tư nước ngoài...)
và cả trong các điều ước quốc tế mà nước sở tại ký kết hoặc
tham gia (ví dụ: các hiệp định buôn bán và hàng hải, các hiệp
định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa các nước v.v..).
101
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Như vậy, đặc điểm quy ch ế pháp lý dân sự của pháp nhân
nước ngoài thể hiện trước hết ở chỗ cùng m ột lúc pháp nhân
nước ngoài phải tuân theo hai hệ thống pháp luật là pháp luật
của nước mà pháp nhãn m ang quốc tịch và pháp luật nơi
pháp nhân hoạt động, nhưng trước hết phải tuân theo pháp
luật nước sở tại.
Ngoài ra, đặc điểm quy ch ế pháp lý dân sự của pháp
nhân nước ngoài còn thể hiện ở chỗ nếu các quyền và lợi ích
hợp pháp của pháp nhân nước ngoài trên lãnh thổ nước sở tại
bị xâm phạm thì pháp nhân đó được N hà nước của mình bảo
hộ về m ặt ngoại giao.
Nội dung quy chế pháp lý của pháp nhân nước ngoài ở
các nước không giống nhau. N ó tùy thuộc vào thái độ chính
trị, chính sách kinh tế đối ngoại của nước sở tại, vai trò của
vốn, công nghệ, kỹ thuật của nước ngoài đối với sự phát triển
kinh tế xã hội của nước sở tại.
Xu th ế chung hiện nay trên th ế giới là quá trình quốc tế
hoá mọi mặt đời sống, đặc biệt đời sống kinh tế ngày càng
được đẩy mạnh; các nước đều phải thực hiện chính sách mở
cửa (đặc biệt các nước đang phát triển) nhằm tranh thủ vốn,
khoa học - kỹ thuật, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên
tiến của nước ngoài để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
của mình, hoà nhập với nền kinh tế th ế giói. Vì vậy. hoạt
động của các pháp nhân nước ngoài ở mỗi nước sẽ ngày
càng sôi động. Điều đó sẽ làm cho nội dung quy chế pháp lý
của pháp nhãn nước ngoài ngày càng được quy định đầy đủ
và thoáng hơn.
102
103
104
105
106
107
108
109
110
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
những sản phẩm của mình được phép tiêu thụ tại Việt Nam.
Đi đôi với những quyền nêu trên, khi tiến hành hoạt động
đầu tư tại Việt Nam, nhà đầu tư nuớc ngoài phải: Tôn trọng
Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; tôn trọng độc lập, chủ
quyền của Việt Nam. Nhà đầu tư nước ngoài phải nộp các
khoản thuế, lệ phí do pháp luật Việt Nam quy định; phải tuân
theo các quy định của pháp luật Việt Nam về chế độ kế toán,
thống kê, về quản lý ngoại hối, về bảo vệ môi trường V .V ..
- Quy chế pháp lý của các pháp nhân nước ngoài không
thuộc diện đang đầu tư tại Việt Nam.
Các pháp nhân nước ngoài không thuộc diện đang đầu tư
tại Việt Nam cũng ngày càng có nhiều hoạt động ở Việt
Nam. Nhiều pháp nhân nước ngoài cử đại diện đến Việt Nam
tìm hiểu thị trường, giao dịch, ký kết các hợp đồng mua bán
hàng hoá, dịch vụ với các bạn hàng Việt Nam. Tuy nhiên, họ
chỉ có thể ký kết những hợp đồng về những hàng hoá, dịch
vụ mà Việt Nam cho phép nhập khẩu hoặc xuất khẩu, và với
những bạn hàng Việt Nam mà pháp luật Việt Nam cho phép
ký kết hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ
nhất định. Phạm vi thẩm quyển của đại diện cho pháp nhân
nước ngoài do pháp luật của nước mà pháp nhân nước ngoài
mang quốc tịch quyết định.
Trường hợp pháp nhân nước ngoài muốn đặt chi nhánh
hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam thì phải có giấy phép
của cơ quan có thẩm quvền của Việt Nam. Trong thời gian
hoạt động ở Việt Nam. chi nhánh hoặc văn phòng đai diện
của pháp nhân nước ngoài phải tôn trọng Hiến pháp, pháp
112
113
114
Nói đến quy chế pháp lý đặc biệt của quốc gia trong tư
pháp quốc tế là nói đến quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối của
quốc gia.
Quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối của quốc gia thể hiện
trước hết ở quyền miễn trừ xét xử - toà án của quốc gia này
không có quyền xét xử quốc gia kia (Parin parem non habet
jurisdictionem), nếu quốc gia kia không cho phép. Điều đó
cũng có nghĩa là khi tham gia vào quan hệ dân sự với một
quốc gia, cá nhân và pháp nhân nước ngoài không được phép
đệ đơn kiện quốc gia đó tại bất kỳ toà án nào, kể cả tại toà
án của chính quốc gia đó. trừ khi quốc gia đó cho phép; các
tranh chấp phải được giải quyết bằng thương lượng trực tiếp
hoặc bằng con đường ngoại giao giữa các quốc gia. Quốc gia
đồng ý cho cá nhân, pháp nhân nước ngoài kiện mình cũng
có nghĩa là đổng ý cho toà án thụ lý và xét xử vụ kiện mà
quốc gia là bị đơn.
115
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Q uyền m iễn trừ tư pháp tuyệt đối của quốc gia còn thể
hiện ở chỗ: N ếu quốc gia đồng ý cho toà án nước ngoài xét
xử vụ tranh chấp mà quốc gia là bên bị đơn, thì toà án nước
ngoài được xét xử, nhưng không được phép áp dụng các biện
pháp cưỡng ch ế bảo đảm sơ bộ đối với đơn kiện hoặc bảo
đảm thi hành phán quyết của toà án. Toà án nước ngoài chỉ
được phép áp dụng các biện pháp cưỡng ch ế đó trong trường
hợp quốc gia cho phép. V à như vậy, tài sản của quốc gia
hưởng quyền bất khả xâm phạm , không thể bị áp dụng trái
với ý nguyện của quốc gia sở hữu chủ.
Quốc gia có quyền đứng tên nguyên đơn trong vụ tranh
chấp dân sự với cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài. Trong
trường hợp đó toà án nước ngoài được phép giải quyết tranh
chấp. Tuy nhiên, bị đơn là cá nhân, pháp nhân nước ngoài
chỉ được phép phản kiện khi được quốc gia nguyên đơn đồng
ý, ngay cả khi nội dung đơn kiện của quốc gia nguyên đơn
và nội dung đơn phản kiện của cá nhân, pháp nhân gắn bó
chặt chẽ với nhau.
Các nội dung nêu trên của quyền m iễn trừ tu pháp tuyệt
đối của quốc gia gắn bó chặt chẽ với nhau. Q uốc gia có
quyền từ bỏ từng nội dung hoặc tất cả các nội dung của
quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối của mình; bởi vì hường
quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối trong lĩnh vực quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngoài là quyền của quốc gia chứ không
phải là nghĩa vụ của quốc gia; Từ bỏ nội dung này không có
nghĩa là đương nhiên từ bỏ nội dung khác; Từ bỏ quyền
miễn trừ trong trường hợp này không có nghĩa là trong
trường hợp khác cũng tù bỏ. V iệc quốc gia từ bỏ quyền miễn
116
117
118
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
CHUÔNG IV
QUY ỂN SỞ HỮU
I. KHÁI NIỆM
Quyền sở hữu là chế định trung tâm trong pháp luật dân
sự của bất kỳ hệ thống pháp luật nào.
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người đã và
đang tồn tại nhiều chế độ sở hữu khác nhau. Dựa trên các
chế độ sở hữu khác nhau, chế định về quyền sở hữu của mỗi
hộ thống pháp luật cũng có những quy định khác nhau.
Ngoài ra, sự khác nhau của các hệ thống pháp luật về quyền
sở hữu còn do tác động bởi các yếu tô' quan trọng khác như:
Trình độ phát triển về kinh tế, văn hoá, phong tục tập quán,
tôn giáo, vị trí địa lý v.v. của từng nước. Bởi vậy, việc hình
thành các quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài cũng thường
làm phát sinh xung đột pháp luật về quyền sở hữu.
Vấn đề đật ra là khi phát sinh xung đột pháp luật về
quyền sở hữu thì pháp luật các nước giải quyết như thế nào.
119
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong lĩnh vực quyền sở hữu đã trở thành một nội dung quan
trọng cùa khoa học tư pháp quốc tế.
M ặc dù vẫn còn tồn tại nhiều sự khác biệt, nhưng pháp
luật của đa sô' các nước hiện nay trên th ế giới đều thống nhất
áp dụng m ột nguyên tắc chung nhàm giải quyết xung đột
pháp luật về quyển sở hữu. Á p dụng pháp luật của nơi có tài
sản (Lex rei sitae hoặc Lex situs obiectus - Luật nơi có tài
sản, luật nơi có đối tượng của quyền sở hữu). Phần lớn pháp
luật của các nước châu Âu lục địa (Bỉ, Hà Lan, Italia, Liên
bang Đức, Thụy Sĩ, Pháp, Hunggari, Ba Lan, Liên bang Nga,
Hy Lạp V.V..) và pháp luật Anh - M ĩ cũng như pháp luật của
A ustralia, N hật Bản, Việt Nam V . V . . đều áp dụng nguyên tắc
này. Chỉ có một số ít hệ thốne pháp luật (Áo, Tây Ban Nha,
A chentina, Braxin và Ai Cập) là còn giữ cách thức giải quyết
xung đột pháp luật vể quvển sờ hữu đã tồn tại từ trước thế kỷ
XIX: Đối với bất động sản thì áp dụng hệ thuộc Lex rei sitae
còn đối với động sản thì áp dụng luật nhân thân của người có
tài sản (m obilia personam sequntur).
2. Luật nơi có tài sản không những quy định nội dung
của quyển sở hữu mà còn ấn định cả các điểu kiện phát sinh,
chấm dứt và chuyển dịch quyền sờ hữu. Nội dung này đã
được quy định trong pháp luật của nhiều nước.
Theo khoản 1 Đ iều 24 Luật về Tư pháp quốc tế của Ba
Lan thì “quyên sở hữu và các quyền tài sản chiu sự điểu
chỉnh của pháp luật nước nơi có tài sân". Khoản 2 Điều 24
của luật này đã chì rõ: “Sự phát sinh và chấm dítt quyền sở
hữii cũng như sự pliát sinli, chuyển dịch hoặc chấm dứt các
120
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
quyền tài sản chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước nơi có
tài sản vào thời điểm xảy ra sự kiện làm phát sinh các hậu
quả pháp lý trên".
Theo khoản 1 Điều 766 Bộ luật dân sự của Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, “việc xác lập, chấm dứt quyền sở
hữu, nội dung quyền sở hữu đối với tài sản được xác định
theo pháp luật của nước nơi có tài sản đó". Như vậy, quyền
sở hữu và các quyền tài sản sẽ do luật nơi có tài sản điều
chỉnh, bất luận đối tượng của quyền sở hữu là động sản hay
bất động sản.
Trong khoa học tư pháp quốc tế, một nguyên tắc chung
được áp dụng phổ biến là: Nếu quyền sở hữu đối với tài sản
là động sản được phát sinh trên cơ sở pháp luật của nước này
nhưng khi tài sản đó được dịch chuyển sang nước khác thì
quyền sở hữu của sở hữu chủ vẫn được pháp luật nước kia
bảo hộ. Tuy nhiên, phạm vi và nội dung của quyền sở hữu
đối với tài sản này - theo quy định của đa số pháp luật các
nước - phải do pháp luật của nước nơi đang có tài sản điều
chỉnh. V í dụ: M ột cá nhân đã thủ đắc quyền sở hữu đối với
một động sản ở nước ngoài theo pháp luật nước ngoài, nhưng
nếu người này m ang tài sản đó vào Việt Nam một cách hợp
pháp thì quyền sở hữu của cá nhân đó vẫn được pháp luật
Việt Nam bảo hộ. Tuy vậy, phạm vi, nội dung của quyền sở
hữu đối với động sản đó phải được xác định theo pháp luật
Việt Nam - pháp luật nơi có tài sản (Lex rei sitae).
3. Pháp luật nước nơi có tài sản giữ vai trò nhất định
trong việc xác định quyền sở hữu đối với tài sản đang trên
đường vận chuyển (rei in transitu) - tài sản quá cảnh qua
121
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhiều quốc gia. Việc xác định quyền sở hữu đối với tài sản
(hàng hoá) đang ư ên đường vận chuyển (quá cảnh qua nhiều
lãnh thổ quốc gia) là m ột vấn đề rất phức tạp đã và đang
được tư pháp quốc tế của các nước quan tâm giải quyết.
Theo pháp luật các nước hiện nay, quyền sở hữu cũng như
các quyền tài sản đối với tài sản đang trên đường vận chuyển
(res in transitu) sẽ được điều chỉnh bời một trong các hệ
thống pháp luật hiện sau đây:
a. Pháp luật nước nơi gửi tài sản đi (Legi loci expeditionis);
b. Pháp luật nước nơi nhận tài sản (Legi loci destinationis);
c. Pháp luật nước mà phương tiện vận tải m ang quốc tịch
(trong lĩnh vực giao thông vận tải bằng tàu biển hoặc máy bay);
d. Pháp luật của nước nơi có trụ sở của toà án có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp (Legi fori);
e. Pháp luật của nước nơi hiện đang có tài sản (Legi rei sitae);
f. Pháp luật của nước do các bèn lựa chọn (Legi
voluntatis) - hoặc pháp luật của nước nơi gửi tài sản đi hoặc
là pháp luật của nước nơi nhận hoặc là pháp luật của nước
nơi hiện đang có tài sản V . V . .
Theo khoản 2 Điều 766 Bộ luật dân sự V iệt Nam thì
quvền sở hữu “đối với động sản trên đường vận chuyển
được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản được
chuyển đến ’ nếu như hai bèn không có sự thỏa thuận khác.
Như vậy. pháp luật V iệt N am áp dụng hệ thuộc pháp luật
của nước nơi tài sản được chuyển đến hoặc hệ thuộc luật
lựa chọn (lex vulontatis).
Để xác định quyền sờ hữu đối với tài sản trên đường vận
123
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
đột pháp luật về đinh danh tài sản. V iệc xác định tài sản là
động sản hay bất động sản là tiền đề cho việc giải quyết
xung đột pháp luật về quyền sở hữu có yếu tô' nước ngoài.
Bởi vậy, pháp luật của đa số cấc nước dựa trên các đạo luật
trong nước và các điều ước quốc tế (các hiệp định hợp tác tư
pháp) thường ghi nhận nguyên tắc áp dụng pháp luật nơi có
tài sản để giải quyết xung đột pháp luật về định danh.
Khoản 3 Đ iều 766 Bộ luật dân sự V iệt N am quy định:
“Việc phán biệt tài sàn là động sàn hoặc bất động sản được
xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản đ ó ”.
N guyên tắc áp dụng pháp luật của nước nơi có tài sản để
giải quyết xung đột pháp luật về định danh đã được ghi nhận
trong các hiệp định tương trợ tư pháp giữa V iệt Nam với
Cộng hoà dàn chủ Đức (cũ) với Liên xô (cũ) (khoản 3 Điều
35), với Tiệp Khắc (cũ) (khoản 3 Điều 35) với Cu Ba (khoản
3 Điều 34), với H unggari (khoản 3 Điều 43), với Bungari
(khoản 3 Điều 33).
6. Nguyên tắc áp dụng pháp luật của nước nơi có tài sản
giữa vai trò trọng yếu trong việc giải quyết xung đột pháp
luật về quyền sở hữu có yếu tô' nước ngoài. Tuy nhiên, trong
Luật hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 và Luật hàng
hải năm 2005 của Việt Nam và thế giới, nguyên tác pháp luật
nơi có tài sản dường như không được áp dụng. V í dụ:
Khoản 1 Điều 4 Luật hàng không dân dụng Việt Nam
năm 2006 quy định: "Plìáp luật của quốc gia đăng ký quốc
tịch tàu bay dược áp dụng đối với quan hệ x ã hội phát sinh
trong tàu bay đang bay và áp dụng đ ể xác định các quyền
đối với tàu b a y ầ’.
124
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Điều 10 Luật hàng không dân dụng của Ba Lan nãm
1962 quy định: “Các quyền sỏ hữu đối với tàu bay cũng như
đối với tài sản trên tàu bay được điều chỉnh bởi pliáp luật
của nước nơi tàu bay đăng ký” (lex libri sitae).
- Điều 7 Bộ luật hàng hải Ba Lan ghi nhận: “Quyền sở
hữu đối với tài sản toàn tàu biển s ẽ do pháp luật của nước
mà tàu mang c ă ' (lex banderae).
Như vậy, đối với các quan hộ sở hữu và các quan hệ tài
sản trong lĩnh vực hàng không dân đụng và hàng hải quốc tế,
hệ thuộc pháp luật của nước nơi có tài sản (lex rei sitae)
không được áp dụng mà chủ yếu là áp đụng các hệ thuộc
luật quốc kỳ (lex banđerae) hoặc hệ thuộc luật nơi đăng ký
(lex libri) hoặc hệ thuộc luật nơi ký hợp đồng (lex loci
contractus). Hệ thuộc pháp luật của nơi có tài sản cũng
không được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ sở hữu phát
sinh trong một số lĩnh vực như:
- Các quan hệ sở hữu đối với các đối tượng của sở hữu trí tuệ;
- Các quan hệ về tài sản của pháp nhân nước ngoài khi
pháp nhân đó bị giải thể;
- Các quan hệ về tài sản liên quan đến các tài sản của
quốc gia đang ở nước ngoài;
- Các quan hệ tài sản liên quan đến các đối tượng của các
đạo luật về quốc hữu hoá.
125
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
hai phạm trù khác nhau. Tuy nhiên, theo quy định của pháp
luật nhiều nước, việc xác định thời điểm chuyển dịch rủi ro
có liên quan m ật thiết với việc xác định thời điểm chuyển
dịch quyền sỏ hữu. Vấn đề này ngày càng có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong giao dịch thương m ại quóc tế. Pháp
luật của các nước quy định về thời điểm chuyển dịch rủi ro
thường không thống nhất. Do vậy, thường phát sinh xung đột
pháp luật trong lĩnh vực này.
2. Pháp luật cùa nhiều nước đã áp dụng nguyên tắc của
luật La M ã, theo đó, thời điểm chuyển dịch rủi ro từ người
bán sang người m ua được tính từ khi ký kết hợp đồng mà
không phụ thuộc vào thời điểm chuyển dịch quyền sở hữu từ
người bán sang người m ua (periculum est em ptoris). Nguyên
tắc này đã được ghi nhận tại Đ iều 185 Bộ luật dân sự Thụy
Sĩ, Đ iều 1496 Bộ luật dân sự Hà Lan, Đ iều 534 Bộ luật dân
sự Nhật Bản và trong hàng loạt các đạo luật cùa các nước
châu M ĩ - La tinh.
3. M ột số nước khác lại áp dụng nguyên tắc “res perit
dom ino” (rủi ro do chủ sở hữu gánh chịu). Theo nguyên tắc
này. thời điểm chuyển dịch rủi ro trùng với thời điểm chuyển
dịch quyền sở hữu. Tuv nhiẽn. thời điểm chuvển dịch quyền
sờ hữu lại được quy định khác nhau. Theo Điều 1138 Bộ luật
dàn sự của Pháp thì thời điểm chuyển dịch quyền sờ hữu và
rủi ro sang sờ hữu chủ được tính từ khi ký kết hợp đồng.
Luật thương mại của Anh (Điều 20) cũnơ xác nhận thời
điểm chuyển dịch rủi ro trù n s với thời điểm chuyển dịch
quyền sờ hữu - thời điểm chuyển dịch quvền sờ hữu lại
thường do các bên ấn định. (Nếu các bên không có thòa
126
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
thuận khác thì thời điểm chuyển dịch được tính từ khi ký hợp
đồng). Theo Điều 30 các nguyên tắc của Luật dân sự Liên xô
cũ, thời điểm chuyển dịch quyền sở hữu cho người mua được
xác định từ thời điểm chuyển giao tài sản (hàng hoá) nếu
pháp luật và hợp đồng không có quy định khác. Nguyên tắc
này cũng được quy định tại Điều 135 của đạo luật này: thời
điểm chuyển dịch rủi ro từ người bán sang người mua được
tính từ khi chuyển dịch quyền sở hữu nếu như các bên không
quy định khác. Tuy nhiên, nếu bên bán giao hàng chậm,
hoặc bên mua nhận hàng chậm thì bên đó phải chịu rủi ro.
4. Theo Điều 440 Bộ luật dân sự Việt Nam thì: bên bán
chịu sự rủi ro đối với tài sản mua bán cho đến khi tài sản
được giao cho bên mua, còn bên mua chịu sự rủi ro đối với
tài sản mua bán, kể từ khi nhận tài sản, nếu không có thỏa
thuận khác. Còn đối với hợp đồng mua bán tài sản mà pháp
luật quy định tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu thì bên
bán chịu rủi ro cho đến khi hoàn thành thủ tục đăng ký, bên
mua chịu rủi ro, kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đãng ký,
kể cả khi bên mua chưa nhận tài sản, nếu không có thỏa
thuận khác.
5. Hiệp ước của Liên hợp quốc về mua bán hàng hoá
quốc tế (được ký tại Viên năm 1980) đã giành hẳn một
chương riêng (Chương IV) để quy định thời điểm chuyển
dịch rủi ro. Theo Điều ước quốc tế này, “khi hợp đồng mua
bán bao gồm m ột sự vận chuyển hàng hoá và người bán
không bị buộc phải giao tại một nơi xác định, các rủi ro
được chuyển sang người mua k ể từ lúc giao hàng cho người
chuyên chở thứ nhất... Nếu người bán bị buộc phải giao
127
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
hàng cho một người chuyên chà tại một nơi xác định, các rủi
ro được chuyển giao cho người mua chuyên chở tại nơi đổ”
(Điều 67). Về các hàng hoá bán trong lúc chuyên chở (res in
transitu), các rủi ro được chuyển sang người m ua kổ từ lúc
ký kết hợp đồng (Đ iều 68). Đối với các trường hợp m ua bán
khác, các rủi ro được chuyển sang người m ua khi người này
nhận hàng (khoản 1 Đ iều 69). Tuy nhiên, nếu người mua bị
buộc phải nhận hàng tại một nơi khác với cơ sở của người
bán, rủi ro được chuyển giao khi việc giao hàng đã được thực
hiện và người m ua phải biết rằng hàng hoá đã đặt dưới quyền
sở hữu của họ tại nơi đó (khoản 2 Đ iều 69).
6. Trong quan hệ thương mại quốc tế, việc xác định thời
điểm chuyển dịch quyén sở hữu và rủi ro có thể được điều
chỉnh bằng các quy phạm thực chất thống nhất (thông qua
việc ký kết các điều ước quốc tế). Tuy vậy, Công ước của
Liên hợp quốc nãm 1980 cũng như các điều kiện giao hàng
quốc tế (INCOTERM S) của ICC, mặc dù trình bày một cách
cụ thể vấn đề phân chia các rủi ro về m ất m át hoặc hư hại
hàng hoá giữa người bán hoặc người mua, nhưng đã không
xác định quyền sở hữu, nói một cách khác là không khảo
cứu những vấn để liên quan đến việc chuyển giao sở hữu và
quyền sỏ hữu trong hợp đồng m ua bán quốc tế.
Do đó, các bên khi tham gia ký kết hợp đồng m ua bán
ngoại thương phải tự m ình lường thấy trước các vấn đề
trên trong hợp đồng và xem xét k ĩ những gì m à luật áp
dụng yêu cầu về việc chuyển giao sở hữu hàng hoá và các
quyền tài sản khác.
128
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
IV. VỀ HIỆU LỤC CỦA CÁC ĐẠO LUẬT QUỐC HŨtJ HOÁ
1. Thông thường, quốc hữu hoá được hiểu là việc chuyển
giao công cụ và tư liệu sản xuất ruộng đất, hầm mỏ, xí
nghiệp, ngân hàng, phương tiện giao thông thuộc sở hữu tư
nhân sang sở hữu nhà nước.
Ngày nay, pháp luật quốc tế thừa nhận quyền quốc hữu
hoá của quốc gia đối với các tài sản, kể cả những ngành
công nghiệp thuộc sở hữu tư nhân. Những biện pháp về quốc
hữu hoá đều xuất phát từ chủ quyền quốc gia. Nhà nước
không những có quyền quốc hữu hoá tài sản thuộc quyền tư
hữu của các công dân nước mình mà còn có quyền quốc hữu
hoá các tài sản của các công dân nước ngoài. Một trong
những ví dụ điển hình về quốc hữu hoá tài sản của người
nước ngoài là việc quốc hữu hoá công ti kênh đào Xuye được
tiến hành theo sắc lệnh ngày 26/7/1956 cùa Tổng thống Ai
Cập. Theo Sắc lệnh này thì mọi tài sản, quyén lợi và nghĩa
vụ của Công ty kênh đào Xuye đều phải được chuyển giao
cho Cộng hoà Ai Cập, còn các cơ quan và Uỷ ban trước kia
quản lý kênh đào này thì phải giải tán.
Ngay sau Cách mạng Tháng Mười Nga, chính quyền Xô
Viết đã ban hành một loạt các đạo luật về quốc hữu hoá
trong những năm 1917 - 1919 (Đạo luật về quốc hữu hoá
ngân hàng ngày 14/12/1917; đạo luật quốc hữu hoá tàu buôn
tư nhân ngày 26/1/1918; đạo luật quốc hữu hoá các ngành
công nghiệp nạng và đường sắt ngày 28/6/1918; đạo luật
quốc hữu hoá ngành bào hiểm ngày 28/1/1919).
ớ Việt Nam. trong quá trình cải tạo và xây dựng nền
129
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
kinh tế xã hội xã hội chủ nghĩa, N hà nước V iệt N am đã tiến
hành quốc hữu hoá các tài sản, xí nghiệp của tư nhân thông
qua các đạo luật như: sắc lệnh ngày 15/1/1946, Luật cải
cách ruộng đất nãm 1953; Q uyết định của Hội đồng Chính
phủ số 111/CP ngày 14/4/1977 V.V..
N hư vậy, quốc hữu hoá là hành vi biểu hiện quyền lực
của N hà nước, dựa trên ý chí độc lập của N hà nước tiến hành
quốc hữu hoá. V iệc chuyển địch sở hữu trên cơ sở đạo luật
quốc hữu hoá khác với việc chuyển dịch quyền sở hữu trong
dân luật ở chỗ là việc chuyển dịch quyền sở hữu trong đạo
luật quốc hữu hoá m ang tính chất cưỡng ch ế và không cần
có sự thỏa thuận giữa các chủ thể thuộc đổi tượng điều chỉnh
của đạo luật quốc hữu hoá. Phạm vi tài sản bị quốc hữu hoá
thông thường được quy định cụ thể ngay trong các đạo luật
về quốc hữu hoá. Các tài sản đều có thể trở thành đối tượng
điều chỉnh của các đạo luật quốc hữu hoá bất luận tài sản đó
thuộc về ai, của công dân và pháp nhân nước sở tại hay của
người nước ngoài.
2. Đa số pháp luật các nước đều thừa nhận rằng các đạo
luật về quốc hữu hoá đều m ang tính chất “trị ngoại lãnh
thổ” . Theo tính chất này, các đạo luật quốc hữu hoá không
những có hiệu lực trên lãnh thổ của quốc gia ban hành mà
còn có hiệu lực cả ở nước ngoài. Trên cơ sở đó, quốc gia tiến
hành quốc hữu hoá phải được thừa nhận là chủ sở hữu của tất
cả những tài sản (thuộc đối tượng điều chỉnh của đạo luật
quốc hữu hoá) - kể cả những tài sản đang ở trên lãnh thổ của
các quốc gia khác.
Tính chất trị ngoại lãnh thổ của các đạo luật quốc hữu
130
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
hoá đã được thừa nhận rộng rãi. Tuy nhiên, lý luận và thực
tiễn tư pháp của mỗi nước đều có những lý giải và vận dụng
khác nhau vể vấn đề này. Nói chung, pháp luật của các nước
phương Tây chỉ thừa nhận tính chất trị ngoại lãnh thổ của
đạo luật quốc hữu hoá đối với những tài sản (đối tượng của
luật quốc hữu hoá) đã bị đưa ra nước ngoài (vì một lý do nào
đấy) sau ngày ban hành đạo luật. Còn đối với những tài sản
đã ở tại nước ngoài trước ngày ban hành đạo luật thì pháp
luật các nước này không chấp nhận việc chuyển giao quyền
sở hữu cho quốc gia ban hành. Để giải quyết xung đột pháp
luật phát sinh trong lĩnh vực quốc hữu hoá, các nước cũng đã
ký kết các hiệp định song phương về cùng công nhận hiệu
lực của các đạo luật quốc hữu hoá của nhau.
131
133
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Vốn đầu tư;
- Các khoản tiền và tài sản khác thuộc quyền sở hữu hợp
pháp của mình.
3. Đối vófi nhân viên ngoại giao nước ngoài và của các tổ
chức quốc tế tại V iệt N am , quyền sở hữu của họ sẽ được
điều chỉnh bời các điều ước quốc tế m à V iệt Nam ký kết
hoạC tham gia, tập quán quốc tế và Pháp lệnh vể quyển ưu
đãi, m iễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan
lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam
(công bố ngày 7/9/1993).
134
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
CHUƠNG V
H Ợ P ĐỔNG
I. KHÁI NIỆM
Hợp đổng trong tư pháp quốc tế là hợp đồng dân sự có
yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài của một hợp đổng
trong tư pháp quốc tế được thể hiện ở một trong những dấu
hiệu sau:
Thứ nhất, các bẽn chủ thể ký kết hợp đồng có quốc tịch
khác nhau. Sự khác nhau về quốc tịch của các bên chủ thể đã
là một trong những nguyên nhân dẫn tới xung đột pháp luật.
Bởi vì trong trường hợp này cả hai hệ thống pháp luật (luật
của mỗi bên chủ thể) cùng điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của
các bên phát sinh từ hợp đồng.
Thứ hai, hợp đồng ký kết ở nước ngoài (nước các bên
chủ thể không m ang quốc tịch hoặc không có trụ sở).
Trong trường hợp này. luật điều chinh hợp đồng không chì
là luật của các bên chủ thể mang quốc tịch mà luật nơi ký
kết hợp đồng cũng có thể điều chỉnh các vấn đề liên quan
đến hợp đồng trên cơ sở Lex Loci Contratus. Như vậy, hiện
tượng xung đột pháp luật đã xuất hiện và cần được giải
Nhìn chuns. luật pháp của hầu hết các nước xem xét tính
137
Có hai vấn đề khi xem xét đến điều kiện có hiệu lực của
một hợp đồng là: Khi nào thì một hợp đổng phát sinh hiệu
lực và chủ thể của hợp đồng với điều kiện như thế nào thì
139
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
đủ nãng lực ký kết m ột hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Pháp luật của các nước khác nhau có các quy định không
giống nhau khi điều chỉnh hai vấn đề này. Tuy nhiên, luật
pháp của các nước thường đưa ra các nguyên tắc nhằm xác
định luật điều chỉnh việc xác định các điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng.
T h ứ nhất, để xác định thời điểm phát sinh hiệu lực của
một hợp đồng có yếu tố nước ngoài thì hầu hết luật pháp các
nước áp dụng luật nơi ký kết hợp đồng hoặc luật nơi thực
hiện hợp đồng (tùy theo từng trường hợp).
Theo pháp luật V iệt Nam: Căn cứ vào tinh thần của Điều
769 và 770 Bộ luật dân sự V iệt Nam thì điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng sẽ xác định theo luật nơi ký kết hợp đổng hoặc
theo luật nơi thực hiện hợp đồng. Đối với các hợp đồng liên
quan đến bất động sản thì điều kiện có hiệu lực của chúng sẽ
áp dụng luật nơi có vật.
Bộ luật dân sự Việt Nam quy định: Hợp đổng có hiệu lực
từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác (Điều 405 Bộ luật dân
sự). Đối với một số hợp đồng m à pháp luật quy định phải có
chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của
các cơ quan có thẩm quyển thì việc công chứng hoặc chứng
nhận của các cơ quan này được xem như những điểu kiện có
hiệu lực của hợp đồng.
Thứ hai. về năng lực pháp luật và năng lực hành vi của
các bèn chú thể trong hợp đồng thì hầu hết luật pháp của các
nước quy định việc xác định năng lực pháp luật và năng lực
hành vi của các bên chủ thể của hợp đồng có vếu tố nước
140
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngoài sẽ căn cứ vào luật nhân thân của họ (việc áp dụng luật
quốc tịch hay luật nơi cư trú sẽ được xem xét trong từng
trường hợp cụ thể).
Theo pháp luật Việt Nam, việc xác định năng lực pháp
luật dân sự của người nước ngoài được quy định tại Điều 761
Bộ luật dân sự như sau: “Người nước ngoài có năng lực pháp
luật dân sự tại Việt Nam như công dân Việt Nam", v ề năng
lực hành vi dân sự của người nước ngoài được xác định theo
pháp luật nước mà người đó là công dân; trường hợp người
nước ngoài xác lập, thực hiện giao dịch dân sự tại Việt Nam
thì năng lực hành vi dân sự của họ được xác định theo pháp
luật Việt Nam.
Như vậy, theo pháp luật Việt Nam (tùy theo từng trường
hợp) năng lực hành vi ký kết hợp đồng của các bên chủ thể
được xác định theo luật quốc tịch của họ (Lex Natinonalis)
hoặc theo luật nơi thực hiện hành vi (Lex Loci Actus).
2. Các nước ký kết hoặc tham gia các điểu ưức quỏc tè
đê giải quyết xung đột pháp luật trong việc xác định tính
hợp pháp của hựp đồng
Để giải quyết xung đột pháp luật vổ việc xem xét tính
hợp pháp của một hợp đổng trong tư pháp quốc tế, bên cạnh
việc quy định các nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật ở
trong các văn bản pháp luật trons nước, các quốc gia còn
thường ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế tay đôi
hoặc nhiều bên. Trong đó các quốc gia thỏa thuận một số
nguyên tắc nhất định làm cơ sở để xác định tính hợp pháp
của một hợp đồns có yếu tố nước ngoài.
141
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trong các điều uớc quốc tế tay đôi thì luật nơi ký kết hợp
đồng thường được áp dụng để xác định tính hợp pháp của
hợp đồng. Tuy nhiên, luật nơi có vật cũng được áp dụng nếu
hợp đồng liên quan đến tài sản là bất động sản.
V í dụ: Trong các điều ước quốc tế tay đôi m à V iệt Nam
ký kết với các nước có liên quan đến vấn đề xác định tính
hợp pháp cùa hợp đồng thì luật nơi ký kết hợp đồng hoặc
luật nơi có vật sẽ được áp dụng để xác định tính hợp pháp
của một hợp đổng có yếu tố nước ngoài (Điều 32 Hiệp định
tương trợ tư pháp về dân sự, gia đình và hình sự giữa Việt
Nam và Liên xô (cũ); Đ iẻu 32 H iệp định tương trợ tư pháp
giữa V iệt Nam và Cu Ba).
v ể việc xác định năng lực hành vi ký kết hợp đồng có
yếu tô nước ngoài, các điều ước quốc tế thường quy định sẽ
áp dụng luật quốc tịch của các bên chủ thể để xem xét năng
lực hành vi của các bẽn chủ thể của hợp đồng.
Trong các điểu ước quốc tế đa phương, nguyên tắc tự do
lựa chọn của các bèn chủ thể được xem là nguyên tắc cơ bản
để xác định tính hợp pháp của một hợp đồng có vếu tố nước
ngoài. Theo đó luật do các bên lựa chọn khi xác lập hợp
đồna sẽ là luật xác định tính hợp pháp cùa hợp đồng.
M ột trong những điều ước quốc tế quan trọng nhất liên
quan đến việc xác định tính hợp pháp của một hợp đổng là
Công ước R ôm a 1980 về luật áp dụng cho trách nhiệm hợp
đồng (The Rom e Convention On The Law A pplicable To
C ontractual O bligations). Đ ây là công ước quốc tế được hầu
hết các nước thuộc khối cộng đồng châu Âu tham gia.
142
I. KHÁI NIỆM
Hợp đồng mua bán ngoại thương là hợp đồng mua bán có
yếu tố nước ngoài.
Hình thức của hợp đ ồ n s mua bán ngoại thương chỉ có giá
trị pháp lý khi nó được thể hiện dưới một hình thức nhất
định. Pháp luật của đại đa số các nước đều quv định hợp
đồng mua bán ngoại thương chi có giá trị pháp lý về mặt
hình thức khi nó được thể hiện dưới hình thức văn bàn.
Tuy nhiên. Điều 11 Công ước của Liên hợp quốc năm
1980 về hợp đồng m ua bán hàng hoá quốc tế có quy định:
“Không vêii cầu hợp đổng mua bún phải được ký lioặc phải
144
145
146
147
148
149
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
có giá trị pháp lý.
b. K ý kết hợp đồng giữa các bén vắng m ặt
Trường hợp không có điều kiện gặp m ặt nhau để đàm
phán về các điều khoản của hợp đồng, các bên có thể thoả
thuận với nhau thông qua thư từ, điện tín... Theo quy định
trong pháp luật của hầu hết các nước thì mọi điều khoản để
đàm phán trong trường hợp này đều phải được thể hiện dưới
hình thức viết (điện báo, điện tín cũng được coi là hình thức
viết). Dưới hình thức viết, nội dung của các điều khoản của
hợp đồng do các bên đưa ra mới được thể hiện m ột cách rõ
ràng, cụ thể và mới là cơ sở pháp lý để trở thành hợp đồng
m ua bán ngoại thương. Các hình thức viết thường được sử
dụng để đàm phán trong trường hợp ký kết hợp đổng mua
bán ngoại thương giữa các bẽn vắng m ật là giấy chào hàng,
chấp nhận vô điều kiện chào hàng và chào hàng mới.
+ Chào hàng (offer)
Chào hàng là đề nghị của m ột bên (bén bán hoặc bên
mua) gửi cho bên kia, biểu thị ý m uốn bán hoặc mua một
mặt hàng nhất định. Nội dung của nó bao gồm những yếu tố
cần thiết cho một hợp đồng m ua bán như tên hàng, chất
lượng, giá cả, cách thức thanh toán... dưới hình thức thư hoặc
điện chào hàng.
Công ước cùa Liên hợp quốc về hợp đồng m ua bán hàng
hoá quốc tế năm 1980 quy định chào hàng phải được gửi
đích danh cho một người hoặc một vài người với nội dung
phải rõ ràng về việc xác định m ặt hàng, số lượnơ. giá cả của
hàng hoá (Điều 14).
150
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Có hai loại chào hàng: Chào hàng cô' định và chào hàng
tự do.
- Chào hàng cố định là hình thức gửi chào hàng cho một
người và nó chỉ có hiộu lực pháp luật trong một thời gian
nhất định. Nếu trong thời gian có hiệu lực mà chào hàng
được chấp nhận vô điều kiện thì hợp đồng coi như đã được
ký kết giữa các bên vắng mặt. Thời điểm hợp đồng được ký
kết trong trường hợp này được xác định là lúc bên được chào
gửi chấp nhận vô điều kiện cho người chào hàng (theo thuyết
tống phát các nước Anh Mỹ thường áp dụng) hoặc là lúc mà
người chào hàng nhận đuợc sự chấp nhận vô điều kiện của
người được chào hàng (theo thuyết tiếp thu, thuyết này được
đa số các nước áp dụng).
- Chào hàng tự do là chào hàng gửi cho nhiều bạn hàng
nhằm thăm dò thị trường. Nó không có thời gian hiệu lực
ràng buộc người chào hàng. Chào hàng trong trường hợp này
chỉ có giá trị pháp lý khi bên chào hàng chấp nhận sự chấp
nhận vô điều kiện của người chào hàng.
+ Chấp nhận (Acceptance)
Chấp nhận là biểu thị sự đồng ý của người được chào
hàng đôi với người chào hàng. Để có hiệu lực bắt buộc thì về
mặt pháp lý, chấp nhận phải đáp ứng được các điều kiện sau:
- Chấp nhận vô điều kiện phải gửi trong thời gian có hiệu
lực của chào hàng (đối với chào hàng cố định).
- Chấp nhận vô điều kiện của người được chào hàng phải
được người chào hàng chấp nhận (đối với chào hàng tự do).
Đối với việc chấp nhận vô điều kiện chào hàng được
151
152
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
IV. CÁC HÌNH THÚC TRÁCH NHIỆM VÀ NHŨNG
CẢN CỨMIỄN TRÁCH NHIỆM
156
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
CHUƠNG VI
TH A N H TO Á N Q U Ố C TÊ
Một trong những vấn đề quan trọng dẫn đến xung đột
pháp luật trong thương mại quốc tế là vấn đề thanh toán
quốc tế. Bởi vì trong thương mại quốc tế người ta dùng nhiều
loại phương tiện thanh toán như hối phiếu, séc... mà các
phương tiện thanh toán này được phát hành ở các nước khác
nhau. Như vậy, hình thức và nội dung của các phương tiện
thanh toán cũng như vấn đề năng lực lập các phương tiện này
theo quy định của luật pháp các nước sẽ không giống nhau.
Do đó, một câu hỏi được đặt ra là các phương tiện thanh toán
được lập ở nước này có được chấp nhận thanh toán ở các
nước khác hay không? Để giải quyết vấn đề trên, một số
nước đã ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế liên quan
đến thanh toán quốc tế. Trên thực tế có một số nước tuy
không là thành viên của các điều ước quốc tế về thanh toán
quốc tế nhưng những nguyên tắc được quy định trong các
điều ước quốc tế đó vẫn được các nước này áp dụng rất phổ
biến trong thanh toán quốc tế của mình. Chương này sẽ đề
cập đến một số vấn đề pháp lý cơ bàn trong các điều ước
quốc tế về thanh toán quốc tế đang được áp dụng rộng rãi và
một số quy định về vấn đề này do Phòng thương mại quốc tế
(ICC) soạn thảo và ban hành.
157
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
I. CÁC LOẠI PHUƠNG TIỆN THANH TOÁN QUỐC TẾ
C ơ BẢN
A. HỐI PHIẾU
1. K hái niệm
Hối phiếu là một trong những phương tiện thanh toán cổ
xưa nhất. Nó ra đời vào khoảng th ế kỷ thứ IV trước công
nguyên nhưng nó thực sự được áp dụng rộng rãi trong
thương mại quốc tế từ th ế kỷ thứ XIV.
Theo luật hối phiếu của Anh (1882) thì hối phiếu được
định nghĩa như sau:
“H ối phiếu là tờ lệnh đòi tiền vô điều kiện do m ột người
ký phát cho m ột người khác, yêu cầu người này khi đến một
thời hạn nhất định hoặc m ột thời hạn có th ể xác địnlĩ trong
tương lai phải trả m ột sô' tiền nhất định cho m ột người nào
đỏ, hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác, hoặc
trả cho người cầm liối phiếu” (khoản 1 Đ iều 3).
Định nghĩa về hối phiếu trên đây đã được hầu hết các
nước chấp nhận vì nó đã thể hiện được tất cả những dấu hiệu
pháp lý cơ bản của hối phiếu cùng quyền và nghĩa vụ của
các bên chú thể trong quan hệ phát sinh từ hối phiếu.
a. Đặc điểm của hối plùêìi
Từ định nghĩa trẽn đây có thể nói hối phiếu có một số
đặc điểm sau đây:
- Tính trừu tượng của hối phiếu
* Hối phiếu không ghi nguyên nhân phát sinh việc lập ra
hối phiếu mà chỉ ghi một số tiền phải trả.
158
159
160
161
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Sự chấp nhận hốỉ phiếu được người bị chỉ định thanh
toán ghi chữ “chấp nhận" trên m ặt hối phiếu kèm theo chữ
ký và tên của người đó.
Theo quy định của ULB thì chữ “chấp nhận" có thể được
thay bằng các từ khác nếu nó thể hiện sự đồng ý trả tiền cùa
người chấp nhận thì hối phiếu cũng có giá trị thanh toán
(Điều 25 ULB).
d. K ý hậu hối phiếu (Endorsem ent)
Ký hậu là hành vi pháp lý của m ột người nhằm chuyển
nhượng hối phiếu cho m ột người khác được hưởng một cách
vô điều kiện thông qua việc ký hậu. Theo ULB thì mọi điều
kiện đặt ra đối với việc ký hậu sẽ không có giá trị pháp lý
(Điều 12).
Thông thường việc ký hậu được thực hiện bằng việc
người ký hậu ký vào m ặt sau của hối phiếu. Tuy nhiên, theo
ULB thì khi ký hậu, người ký hậu có thể ký và viết tên mình
lên hối phiếu hoặc lên một m ảnh giấy đính với hối phiếu thì
việc ký hậu vẫn được coi là hợp pháp (Điều 13).
Căn cứ vào giá trị pháp lý của ký hậu thì có 4 hình thức
ký hậu cơ bản sau đây:
- Ký hậu để trắng (blank endorsem ent)
Theo hình thức này hối phiếu không chỉ đinh cụ thể
người được hưởng hối phiếu. Ở hình thức này người nào cầm
hối phiếu sẽ được hưởng hối phiếu. Người được hưởng hối
phiếu này có thể chuyển cho người khác bằng hình thức ký
hậu khác.
- Ký hậu theo lệnh (to order endorsem ent)
Đây là hình thức ký hậu m à người ký hậu chỉ định một
162
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
cách suy đoán người được hưởng lợi bằng cách ghi tên người
được hưởng hối phiếu sẽ được chi trả theo lệnh của ngưòi
hưởng lợi này. Nếu người hưởng lợi im lặng thì đương nhiên
người này sẽ được hưởng hối phiếu.
- Ký hậu hạn chế (restrictive endorsement)
Theo hình thức này người ký hậu chỉ định rõ người được
hưởng lợi bằng cách ghi tên của người được hưởng lợi lên
hối phiếu. Như vậy, chỉ người được chỉ định có tên trong hối
phiếu mới là người được hưởng lợi hối phiếu.
- Ký hậu miễn truy đòi (without Recourse endorsement).
ở hình thức ký hậu này, người ký hậu phải ghi rõ miễn
truy đòi người ký hậu. Đối với loại hối phiếu này, nếu hối
phiếu không được thanh toán thì người được hưởng không có
quyền đòi tiền ở người ký hậu trực tiếp cho mình.
B. SÉC
1ẾKhái niệm
Theo Công ước Giơnevơ 1931 về séc (Công ước này được
các nước: Đức, Pháp, Italia, Đan Mạch, Hà lan, Nauy, Thụy
Điển, Thụy Sĩ, Áo và Bồ Đào Nha ký ngày 19/3/1931) thì
séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một khách
hàng của ngân hàng, ra lệnh cho ngân hàng trích một số tiền
nhất định từ tài khoản của mình mở tại ngân hàng để trả cho
người cầm séc hoặc trả cho người được chỉ định trên séc.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì:
“Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập trên mẩu
do ngân hàng nhà nước quy định, yêu cầu đcni vị thanh toán
trích m ột s ố tiền từ tài khoản gíri tiền tluinli toán của mình
163
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
đ ể trả cho người thụ hưởng có tên ghi trẽn séc hoặc người
cầm séc” (Luật các công cụ chuyển nhượng).
N hư vậy, từ các định nghĩa trên đây, về m ặt nguyên
tắc, người phát h ành séc phải có số tiền dư tro ng tài khoản
của m ình tại ngân hàng và thông thường thì sô' tiền trên
séc không được vượt q u á sô' tiền d u có trên tài khoản tại
n gân hàng. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, người ký
phát séc khi không có sô' dư trong tài khoản củ a mình có
thể ký phát séc nhưng với điều kiện phải vay tiền ngân
hàng để ký phát séc.
2. H ìn h th ứ c c ủ a séc
Séc có giá trị thanh toán trực tiếp như tiền tệ do vậy séc
phải được thể hiện dưới hình thức văn bản theo quy định của
pháp luật. Thông thường séc được in sẵn, người phát séc điền
những yêu cầu của m ình vào những chỗ trống của séc trước
khi ký tên m inh vào séc.
3. Nội d u n g củ a séc
a. Theo quỵ định cúa Công ước Giơnevơ (1931) thì tiêu
đê cùa séc phải được ghi trên m ặt tờ séc. N ếu không có tiêu
để “ séc” thì ngân hàng có quyền từ chối việc thực hiện mệnh
lệnh của người ký phát séc. Tuy nhiên, theo luật của một sô'
nước thì tiêu đề “séc"’ không nhất thiết phải được thể hiện
trên séc. Như vậy. theo luật của các nước này những séc
không có tiêu đề “séc” vẫn có giá trị thanh toán.
b. Séc phải được thể hiện như m ột m ệnh lệnh trả tiền vô
điều kiện. Để đảm bảo tính nguyên tắc này, ngôn ngữ của
séc phải ngắn gọn. rõ ràng và mang tính chất m ệnh lệnh.
c. Số tiền ghi trên séc phải được ghi cụ thổ bằng số và
164
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
bằng chữ. Nếu có sự khác nhau giữa sô' tiền thì sô' tiền ghi
bằng chữ được ưu tiên thanh toán. Trường hợp số tiền trên
séc hoàn toàn bằng sô' hoặc hoàn toàn bằng chữ nhưng số
tiền đó không giống nhau thì số tiền nhỏ hơn sẽ được ưu tiên
thanh toán.
d. Ngày tháng năm ký phát séc phải được ghi trên tờ séc.
e. Tên người trả tiền và người nhận tiền phải được ghi
trên séc.
f. Tài khoản trích tiền.
g. Chữ ký của người phát séc phải được thể hiện trẽn séc.
4. M ột sô séc thường dùng tro n g th a n h toán quốc tê
a. Séc vô danh (checque to bearer): Đây là loại séc không
ghi tên người được hưởng séc mà chỉ ghi “trở cho người cầm
séc” (pay to the bearer). Do vậy người nào cầm séc thì người
đó sẽ là người được hưởng séc.
b. Séc đích danh (nominal checque): Khác với séc vô
danh, séc đích danh ghi tên cụ thể người đirơc hưởng séc.
Theo hình thức này chi người có tên trên séc mới là người
được hưởng séc.
c. Séc theo lệnh (cheque to Order): Séc theo lệnh là loại séc
trả theo lệnh của người được hưởng thông qua thủ tục ký hậu.
d. Séc gạch chéo (crossed cheque): Đây là loại séc mà
trên mặt trước của séc có hai đường song song chạv chéo
qua hai góc đối diện. Đày là loai séc không rút được tiền
mật mà chỉ dùng để thanh toán qua ngân hàng bằng cách
chuyển khoản.
e. Séc chuyển khoản (transferable cheque): Cũng giống
như séc gạch chéo, séc chuyển khoản không rút được tiền
165
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
mặt. Loại séc này chỉ dùng trong việc trích tiẻn từ tài khoản
của con nợ sang tài khoản của chủ nợ, thông qua các hoạt
động của ngân hàng.
f. Séc du lịch (travellers’ cheque): Séc du lịch là loại séc
do m ột ngân hàng phát hành và sẽ được chi trả cho người
hưởng lợi ở bất cứ chi nhánh nào của ngân hàng phát hành
nó. Người được hưởng séc du lịch là người có số dư trên tài
khoản của m ình trong ngân hàng phát hành séc và được
hưởng lợi phải ký đối chứng trước m ặt người phát tiền. Nếu
chữ ký đối chứng phù hợp vói chữ ký trên séc thì chi nhánh
của ngân hàng phát hành séc sẽ chi trả cho người hưởng lợi.
166
167
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
ký hợp đồng.
3. Phương thức tín dụng chứng từ (Documentary credits)
a. Định nghĩa
Phương thức thanh toán tín dụng chúng từ là phương
thức thanh toán đuợc áp dụng rất phổ biến trong thanh toán
quốc tế.
Theo Đ iều 2 Bản quy tắc và thực hành thống nhất về tín
dụng chứng từ sô' 500 (The U niform Custom s and Practice
for doccum entary Credits UCP 500). (Đ ây là Bản sửa đổi
năm 1993 và có hiệu lực từ ngày 1/1/1994) thì:
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là hình thức
thanh toán m à trong đó ngân hàng phát hành (m ờ tín dụng)
hành động theo yêu cầu và chỉ thị của khách hàng, hoặc
nhân danh chính m ình thực hiện các hành vi sau đầy:
- Tiến hành trả tiền cho người thứ ba (người được hưởng)
hoặc chấp nhận thanh toán hối phiếu cho người ký phát;
- ủ y quyền cho ngân hàng chấp nhận và thanh toán hối
phiếu đó; hoặc
- Cho phép ngân hàng chiết khấu chứng từ quy định
trong tín dụng thư với điều kiện chúng phù hợp với tất cả các
điều khoản và điều kiện của thư tín dụng.
b. Thư tín dựng (Letter o f credit - L/C)
L/C là phương tiện thanh toán trong thanh toán tín dụng
chứng từ. Nó là văn bản pháp lý m à ngân hàng cam kết trả
tiền cho người bán hàng theo những quy định m à các bên đã
thỏa thuận trong việc thanh toán tín dụng chứng từ.
168
169
170
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Thư tín dụng giáp lung: Thư tín dụng g iá p lưng là loại
thư tín dụng mà người bán hàng sau khi nhận được L/C có thể
thế chấp để mở L/C khác cho người hưởng lợi với nội dung
gần giống như L/C ban đầu mà người bán đã được hướng.
e. Quá trình thanh toán tín dụng chứng từ
Quá trình thanh toán tín dụng chứng từ có Ihể được tóm
tắt ở 10 bước sau đây:
1. Hai bên ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu;
2. Người mua xin mở L/C ở ngân hàng phát hành (thông
thường ngân hàng này ở nước người mua) cho nguời bán
được hưởng;
3. Ngân hàng phát hành (ngân hàng mở L/C) mở L/C và
gửi thư tín dụng cho ngân hàng thông báo;
4. Ngân hàng thông báo (thông thường ngân hàng này ở
nước người bán) gửi chứng từ thông báo cho người bán;
5. Sau khi đồng ý, người bán hàng gửi hàng cho người
mua (thông qua người vận tải), đồng thời gửi bộ chứng từ
nhận hàng cho ngân hàng thông báo;
6. Ngân hàng thông báo gửi tiền hàng cho người bán khi
đã nhận đủ chứng từ phù hợp với quy định của L/C để nhận hàng;
7. Ngân hàng thông báo gửi bộ chứng từ cho ngân hàng
mở L/C;
8. Ngân hàng m ở L/C trả tiền hàng cho ngân hàng thông
báo và gửi bộ chứng từ nhận hàng cho người mua;
9. Người mua nhận bộ chứng từ từ ngân hàng mở L/C
đồng thời thanh toán tiền hàng cho ngân hàng mở L/C;
171
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
10. Người m ua xuất trình bộ chứng từ cho người vận tải
để nhận hàng.
N hư vậy, thông qua 10 bước trên đây phương thức thanh
toán tín dụng chứng từ đã được thực hiện. Trong quá trình
thanh toán tín dụng chứng từ, ngân hàng đã đóng vai trò rất
quan trọng, nó đã đảm bảo người bán sẽ thu được tiền và
người m ua sẽ lấy được hàng nếu họ tôn trọng những điều đã
thỏa thuận trong hợp đồng thương mại quốc tế.
172
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
CHTJÖNG VII
THỪA K Ê
Thừa kế là một trong những chế định quan trọng của dân
luật các nước và cũng là một chế định quan trọng trong tư
pháp quốc tế. Chế định thừa kế có mối quan hệ gắn bó hết
sức chặt chẽ với chế định sở hữu. Sự gắn bó đó biểu hiện ở
chỗ việc để thừa kế và hưởng thừa kế sẽ dẫn đến vấn dề
chuyển quyền sở hữu từ người để thừa kê cho người được
hưởng quyền thừa kế chỉ có thể là đối tượng của sở hữu. Từ
đó thấy rõ tính "tối thượng" của chế định sở hữu trong mối
quan hệ với chế định thừa kế, không có quyền sờ hữu sẽ
không phát sinh vấn đề thừa kế.
Về nguyên tắc, các quan hệ nảy sinh trong lĩnh vực thừa
kế trong phạm vi quốc gia nào do pháp luật về thừa kế cùa
quốc gia đó điều chỉnh. Mỗi quốc gia đều có quyền ban
hành các quy tắc giải quyết các vấn đề liên quan đến thừa kê
trong phạm vi lãnh thổ nước mình. Tuy nhiên, trong điều
kiện giao lưu và hợp tác quốc tế ngày càng phát triển thì
nhiều quan hệ về thừa kê đã vượt ra khỏi phạm vi điều chinh
174
175
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
k ế sẽ được xác đinh theo luật nơi cư trú cuối cùng của người
để lại di sản thừa k ế (Lex dom icille). Cách giải quyết này
cũng được nhiẻu nước khác áp dụng (chẳng hạn như Pháp).
Có điểm cần lưu ý là, trong khi áp dụng các nguyên tắc
trên để giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế, các nước đó
có thể áp dụng các nguyên tắc khác nhau giải quyết vấn đề
phân định di sản thừa kế m à người ta thường gọi là giải
quyết xung đột pháp luật về định danh. Chẳng hạn ở Anh,
M ĩ nội dung của bất động sản được xem xét căn cứ vào
nguyên tắc luật nơi có vật (Lex rei sitae) nhưng ờ Pháp thì
thực tiễn tư pháp lại chứng m inh rằng vấn đề này giải quyết
trên cơ sở luật toà án (Lex fori).
Đối với một số nước Tây âu như Cộng hoà liên bang
Đức, Italia, Bồ Đ ào N ha v.v. việc giải quyết các vấn đề thừa
kế có yếu tố nước ngoài dựa trên nguyên tắc thống nhất về di
sản thừa kế. Điều này có nghĩa là pháp luật của các nước này
không phân chia di sản thừa kế ra làm các loại khác nhau để
giải quyết, mà thống nhất giải quyết toàn bộ di sản thừa kế
theo một nguyên tắc là : Luật nhân thân của người để lại di
sản thừa kế, cụ thể là luật quốc tịch của người để lại di sản
thừa kế (Lex patriae).
Cách giải quyết trên về vấn đề thừa kế cũng được một số
nước khác áp d ụ n g , chẳng hạn N hật Bản, Ai Cập V.V..
Ở các nước Đ ông Âu, căn cứ vào Điều 34 luật về tư pháp
quốc tế của Ba lan năm 1965 và Điều 17 luật về tư pháp
quốc tế và tố tụng dân sự quốc tế của Tiệp Khắc (cũ) năm
1964 v.v. nguyên tắc thống nhất về di sản thừa k ế và giải
quyết theo luật quốc tịch của người để lại di sản thừa k ế vào
176
177
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, các nước trên thế giới áp
dụng nhiều nguyên tắc khác nhau.
Theo pháp luật của Anh, Mĩ, năng lực hành vi lập di
chúc cũng như hình thức của di chúc đối với di sản thừa kế
là động sản đều do luật nơi cư trú cuối cùng của người để lại
di sản thừa kế điểu chỉnh (Lex domicilii).
Ở Cộng hoà liên bang Đức (và m ột số nước Tây Âu
khác), năng lực lập và hủy bỏ di chúc, hình thức hợp pháp
của di chúc được pháp luật của các nước này quy định như
sau: Năng lực hành vi lập di chúc được xác định theo luật
nơi cư trú cuối cùng của người lập di chúc, hoặc theo luật
nơi có di sản thừa kế. Còn hình thức di chúc được coi là hợp
pháp nếu nó đáp ứng được yêu cầu của một trong các hệ
thống pháp luật sau:
- Luật nơi có di sản thừa kế;
- Luật quốc tịch của người lập di chúc;
- Luật nơi người đó cư trú;
- Nếu người lập di chúc không tuân thủ quy định về hình
thức di chúc của các hệ thống pháp luật trên m à lại thỏa mãn
yêu cầu đối với luật nơi lập di chúc thì di chúc đó cũng
không bị coi là bất hợp pháp.
Đối với các nước Đông Âu, các quan hệ về thừa kế theo
di chúc, về nguyên tắc, chịu sự chi phối của chê định pháp
luật chung về thừa kế. Song tính hợp pháp của di chúc lại
được xác định theo luật của nước mà người để lại di sản là
công dân vào thời điổm lập di chúc. Luật này cũng điều
chinh cả vấn đề năng lực lập và hủy bỏ di chúc (Điều 35
178
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Luật về Tư pháp quốc tế Ba Lan, Điều 15 của Bộ luật dân sự
Anbani, Điều 18 Luật về Tư pháp quốc tế Tiệp Khắc (cũ).
Trong việc giải quyết vấn đề vẻ hình thức của di chúc,
cùng với luật nơi lập di chúc (Lex loci actus), còn có thể áp
dụng luật quốc tịch của người lập di chúc vào thời điểm lập
đi chúc để điều chỉnh (ví dụ: Điều 35 luật Ba Lan, mục 2
Điều 15 Bộ luật dân sự Anbani).
Theo pháp luật cùa Nga trước đây, năng lực lập và hủy
bỏ di chúc, hình thức của di chúc và các vãn bản hủy bỏ di
chúc xác định theo luật của nước nơi người để lại di chúc cư
trú vào thời điểm lập giấy tờ. Tuy nhiên, di chúc và việc hủy
bỏ di chúc sẽ không bị coi là vô hiệu vì không thỏa mãn đòi
hỏi về mặt hình thức, nếu như hình thức cuối cùng của nó
thỏa mãn các yêu cầu của luật nơi lập giấy tờ hoặc các yêu
cầu của luật Nga. v ề năng lực lập và hủy bỏ di chúc cũng
như về hình thức di chúc đối với các công trình xây dựng
trên lãnh thổ Nga đểu xác định theo luật của Nga.
Pháp luật của Mông c ổ về thừa kế cũng quy định tương
tự như vậy.
Quá trình phát triển giao lưu dân sự quốc tế đã dẫn tới
việc các nước ký kết hàng loạt điều ước nhằm tạo ra các
nguyên tắc chuna giải quyết các vấn đề thừa kế có yếu tố
nước ngoài. Những điều ước này có thể là đa phương hay
179
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
song phương được ký kết giữa các nước với nhau.
Trong số điều ước đa phương, trước hết phải kể đến công
ước La-hay năm 1900. Đây là công ước đầu tiên có mục
đích thống nhất hoá nguyên tắc giải quyết xung đột pháp
luật về thừa kế. Theo quy định của công ước này, luật được
áp dụng để điểu chỉnh các quan hệ thừa k ế có yếu tô nước
ngc ài (kể cả đối vói động sản và bất động sản) là luật nhán
tliân của người để lại di sản thừa k ế m à cụ thể ià luậi quốc
tịch của người để lại di sản thừa k ế (Lex-patriae).
N guyên tấc trên còn được ghi nhận trong hàng loạt công
ước La-hay tiếp theo như các công ước năm 1904, công ước
nám 1925, công ước năm 1928 V.V..
Tuy nhiên, trên thực tế, Công ước La-hay nãm 1900 cũng
như các cóng ước khác cho đến nay vẫn chưa có hiệu lực
pháp luật, bửi vì trong lĩnh vục thừa kế, quvền lợi của các
nước tư bản luôn va chạm nhau gay gắt. M ột nguyên tắc
thống nhất (Lex patriae) được dề ra dể giải quyết các vấn đề
ỉhừa k ế có yêu tô nước ngoài nhu công ước La-hay năm
1900 đ° rh i nhận có thê thuận lợi và dễ chấp nhận với nước
này. vớt nhóm nước này, nhưng khó chấp nhận với nước
khác, vói nhóm nước khác. Đặc biệt là dối với các nước từ
trước đến nay áp dụng m ột nguyên tắc kiẲác hản m à công
ước để ra để giải quyếì xung đột pháp luật: Nguyên tắc luật
nơi cư trú (Lcx Jo m icẦili) chảng hạn. N goài ra, còn phải nói
ràng, i.g u /ê n tac do C jn g ước La-hav năm 1900 để ra trên
thực tế ơ n Ẳộĩ sô u ẨirrẤnào đó không đáp ứrỂg được nhu cầu
phát uiô’iẾ giao '.LU dân sự quốc tế hiện nav và chưa chù hợp
với qua .r n h ru ố c tế hoá r ề r k»nh tế tư bản.
ISO
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
v ề hình thức di chúc, phải kể đến Công ước La-hay năm
1961, sự "mềm hoá" các phương pháp giải quyết xung đột
pháp luật về hình thức di chúc đã được thể hiện trong nội
dung Công ước này. Chính điều đó đã lôi cuốn được nhiều
nước tham gia.
Theo quy định của Công ước La-hav năm 1961, hình
thức di chúc sẽ có giá trị pháp lý nếu nó thỏa mãn các yêu
cầu của một trong số các hệ thống pháp luật sau:
- Luật nơi lập di chúc;
- Luật quốc tịch của người lập di chúc vào thời điểm
lậpdi chúc hoặc vào lúc người đó chết;
- Luật nơi cư trú của người lập di chúc vào thời điểm lập
di chúc hoặc vào lúc người đó chết;
- Đối với di chúc vé bất động sản còn có thể áp dụng luật
nơi có bất động sản.
Ngoài các điểu ước đa phương, các nước trẽn thế giới đã
ký với nhau hàng loạt các điều ước song phương như: Các
hiệp định hợp tác và tương trợ tư pháp về dân sự, hôn nhân
và gia đình, lao động và hình sự; các hiệp định lãnh sự v.v.
nhằm thống nhất các nguvên tắc giải quyết xung đột pháp
luật về thừa kế một cách kịp thời, hợp lý và có hiệu quả. Nói
chung, đa số các hiệp định này ghi nhận việc phân di sản
thừa kế thành động sản và bất động sản và áp dụng luật quốc
tịch của người để lại di sản thừa kê để giải quyết các vấn để
động sản, còn đối với bất độnc sản thì áp (lụng luật nơi có
bất động sản đó. Tuy nhiên, trong một sô hiệp định có
những quv định bổ sung. Chảng hạn trong hiệp định liç'p tác
và tương trợ pháp lý giữa Liên Xô (trirc'c đây) với các nước
181
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
như Á o và Phần Lan quy đinh luật nơi có vật cũng có thể
được áp dụng để đỉều chỉnh các vấn đề thừa kế động sản nếu
như những người thừa kế yêu cầu.
Đ ể điều chỉnh các quan hệ về thừa kế theo di chúc,
nguyên tắc chủ yếu được ấn định trong các hiệp định này là:
Luật nhân thân của người lập di chúc (cụ thể là luật quốc
tịch của người lập di chức). N goài ra, các hiệp định còn ghi
nhận các nguyên tắc khác nữa như: Luật nơi người đó lập di
chúc, luật nơi có bất động sản nếu di chúc về bất động sản
v.v. để xác định hình thức hợp pháp của di chúc.
182
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tuy nhiên, pháp luật nước ta thời kì đó mới chỉ đề cập
trên nguyên tắc chung nhất, còn thiếu những quy định chi
tiết, đạc biệt là các quy phạm xung đột để làm cơ sở giải
quyết đối với những vụ việc cụ thể về thừa kế có yếu tô'
nước ngoài.
Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2006, chế định về thừa kế
có yếu tố nước ngoài đã được quy định trong Phần thứ bảy
Bộ luật dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005. Bộ
luật dân sự mới thay thế Bộ luật dân sự được Quốc hội thông
qua ngày 28/10/1995.
Trong Bộ luật dân sự năm 2005 đã có quy định để điều
chinh vấn để thừa kế có yếu tố nước ngoài.
- vể thừa kế theo pháp luật, Điều 761 Bộ luật dân sự quy
định: ‘Thừa k ế theo pliáp luật pliái tuân theo pháp luật của
nước mà người đ ể lại di sản thửa k ế cố quốc tịch trước khi
chết”. Như vậy, theo quy định trẽn thì di sản thừa kế là động
sản, pháp luật Việt Nam đã áp dụng hệ thuộc luật quốc tịch
của người để lại di sản để giải quyết.
Đối với di sản là bất động sản, khoản 2 Điều 767 Bộ luật
dân sự quy định: “Quyền thửa k ế đối với bất động sán pliải
tuân theo pliáp luật của nước nơi có bất động sản
- Về thừa kê theo di chúc, khoản 1 Điểu 768 Bộ luật dân
sự quy định: “Năng lực lập di chúc, thay đổi và huỷ bỏ di
cliúc phải luân theo pháp luật của nước mà người lập di
chúc là công dân Còn vẻ hình thức của di chúc phải tuân
theo pháp luật của nước nơi lập di chúc” (khoán 2 Điều 768
Bộ luật dân sự).
183
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nhà nước ta bảo đảm quyền thừa kế và quyẻn bình đẳng
về thừa kế; mỗi cá nhân đều có quyền lập di chúc để định
đoạt tài sản của mình, để lại tài sản của mình cho người thừa
kế theo pháp luật, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp
luật; mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của
mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc
hoặc theo pháp luật. Đây là những nguyên tắc chung về lĩnh
vực quyển thừa kế cũng được áp dụng đối với các trường hợp
khi các quan hộ đó có yếu tô' nước ngoài và mặc nhiên có
nghĩa Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo
hộ quyền thừa kế của người nước ngoài đối với tài sản có
trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, trong từng trường hợp cụ
thể, do chế định về quyền sở hữu có quy định khác nhau
giữa địa vị pháp lý của người Việt Nam với người nước
ngoài, cho nên quyền thừa k ế của người nước ngoài cũng có
khác với quyển thừa k ế của công dân V iệt Nam. Thí dụ, đối
với việc thừa kế quyền sử dụng đất (theo Đ iều 181 Bộ luật
dân sự thì quvển sử dụng đất được hiểu là quyền tài sản, do
vậy nó là đối tượng quyên sở hữu và cũng là đối tượng
quyền thừa kế và để lại quyền thừa kế, trong đó đối với
người nước ngoài thì vấn để thừa k ế quyền sử dụng đất
không đặt ra (các điểu 733, 734, 735 Bộ luật dân sự) V . V . .
Về việc thừa k ế của công dân Việt N am đối với tài sản ở
nước ngoài, pháp luật của nước ta không có các quy định
cấm mà trên thực tế N hà nước ta cho phép và bèo hộ công
dân Việt Nam biện đanc cư trú tro n 2 nước được nhận các di
sản thừa k ế n à tm tờ i thân của họ để ’ại ờ nước nẹoài.
Đối với việc thừa kế theo dị chúc của cõng dân V iệt Nam
ớ nước ngoài. Đ iều 660 Bô luật dân sự quy định những di
184
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
chúc bằng văn bản dưới đây cũng có giá trị như di chúc được
công chứng nhà nưốc chứng nhận hoặc uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn chứng thực:
#»
185
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
lập di chúc và người làm chứng.
Đối với những trường hợp nếu công dân V iệt N am lập di
chúc ở nước ngoài theo pháp luật của nước ngoài, thì các di
chúc này được coi là hợp pháp nếu pháp luật nước ngoài
được áp dụng để lập di chúc không trái với các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(khoản 3 Đ iều 759 Bộ luật dân sự).
M ột trong những nội dung quan trọng là Bộ luật dân sự
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa V iệt N am đã có những quy định
nguyên tấc chung áp dụng điều ước quốc tế và pháp luật
nước ngoài đối với các quan hệ dân sự có yếu tô' nước ngoài,
trong đó có các quan hệ về thừa kế có yếu tố nước ngoài
(Điều 759 Bộ luật dân sự).
186
187
188
189
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
tắc luật nơi cư trú (Lex dom icilii) của người để lại di sản
thừa k ế để giải quyết, nếu luật nước đó quy định rằng, Nhà
nước hưởng số di sản với tư cách là người thừa k ế thì sô' di
sản phải chuyển giao cho N hà nước nơi người đó cư trú vào
lúc người đó chết. N hưng nếu quy định rằng, N hà nước
hưởng số di sản này trên cơ sở thực thi quyền chiếm hữu tài
sản vô chủ thì sô' di sản nói trên phải chuyển giao cho Nhà
nước nơi hiện có di sản.
Ở Việt Nam, từ trước đến nay, quan điểm thống nhất là:
Q uyền của N hà nước hưởng số di sản vì lý do nào đó không
có người thừa kế do công dân V iệt Nam để lại là quyền dân
sự, quyền thừa k ế của N hà nước V iệt Nam. Q uan điểm này
thể hiện cụ thể trong Đ iều 644 Bộ luật dân sự nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa V iệt Nam: 'T ro n g trường hợp không
có người tliừa k ế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng
không được quyền hưởng di sản, từ cliối quyền hưởng di sản
thì di sản không có người nhận thừa k ế thuộc vê N hà nước".
Căn cứ vào nội dung của quy định trên, về m ặt nguyên tắc,
quyền thừa kế của N hà nước Việt Nam không chỉ giới hạn
đối với các di sản "không người thừa kế" của công dân Việt
Nam trên lãnh thổ V iệt Nam m à còn đối với cả các di sản
này cùa công dãn V iệt N am chết đi để lại ở nước ngoài.
Trong mọi trường hợp, khi pháp luật của Việt N am được áp
dụng để điều chỉnh các quan hệ thừa k ế thì số di sản này
phải thuộc về N hà nước V iệt Nam với tư cách là người thừa
kế. kể cả những trường hợp pháp luật của nước nơi công dân
Việt Nam chết hoặc nơi có di sản thừa kế đó quv định khác.
T heo Đ iều 27 Pháp lệnh lãnh sự của Việt Nam thì trong
190
191
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
được áp dụng (luật của các bên ký kết) để điéu chỉnh quan
hệ thừa k ế xác định rằng, di sản do công dân Việt Nam dể
lại không còn người thừa kế thì sẽ giải quyết như sau: Các
di sản là động sản chuyển giao cho Nhà nước Việt Nam,
các di sản là bất động sản chuyển giao cho Nhà nước nơi có
bất động sản.
V ấn để phân định động sản và bất động sản sẽ căn cứ
vào nguyên tắc chung ghi nhận trong 7 hiệp đinh này là:
L uật của nước nơi có di sản thừa k ế là luật áp dụng để phán
biệt động sản và bất động sản (khoản 3 Đ iều 35 hiệp định
với Nga; Đ iểu 35 H iệp định với Séc; khoản 3 Điều 34 Hiệp
định với Cu Ba; khoản 3 Đ iều 43 hiệp định với Hungari;
khoản 3 Đ iều 33 H iệp định với Bungari; Đ iều 48 Hiệp định
với Đức).
192
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn