Professional Documents
Culture Documents
kich bản dân sự
kich bản dân sự
NHÓM 4 :
1. Ngô Long Hạ ( thẩm phán )
2. Nguyễn Nhật Tâm ( HTND )
3. Phan Thanh Long ( HTND )
4. Trần Duy Lâm ( VKS )
5. Mai Thị Thùy ( thư ký )
6. Trần Tuấn Anh ( đại diện nguyên đơn )
7. Trương Quang Đức ( Luật sư bị đơn )
8. Khổng Diễm Chi ( đại diện bị đơn )
9. Nguyễn Văn Đạt ( ông Trần Thanh Dũng )
10. Đỗ Hoàng Phong ( bà Võ Thị Mai Lan )
11. Hồ Trọng Trí ( ông Dương Văn Thắng )
12. Nguyễn Thị Hà My ( bà Đỗ Thị Hoài Nhung )
13. Trần Tuấn Anh ( đại diện nguyên đơn )
KỊCH BẢN
PHIÊN TÒA GIẢ ĐỊNH XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ SƠ THẨM
(TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT)
Bản án
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU
BẢN ÁN 30/2017/DS-ST NGÀY 27/09/2017 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT; ĐÒI LẠI TÀI SẢN VÀ
HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
2
Ngày 27 tháng 9 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đưa ra xét xử công
khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 15/2017/TLST- DSST ngày 06/02/2017 về việc “Tranh chấp
quyền sử dụng đất; Đòi lại tài sản và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2015/QĐST-DSST ngày 08/9/2017, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
+ Ông Trần Kinh Vân, sinh 1954 và bà Lê Thanh Hạnh, sinh 1965.
Địa chỉ: số 82/9/6A đường Trương Công Định, phường 3, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-
Vũng Tàu. (Vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Vũ Đắc Hiệp, sinh năm1951. Địa chỉ: đường
Ngô Đức Kế, phường 7, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. “ Văn bản ủy quyền ngày
06/12/2016”. (Có mặt)
Cùng địa chỉ: số 69/40/12A đường Lê Hồng Phong , phường 7, thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng
Tàu. (Vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Đàm Thị Thiên Lý, sinh năm 1969. Địa chỉ:
69/40/12A đường Lê Hồng Phong, phường 7, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. (Có
mặt)
+Ông Nguyễn Thanh Dung, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị Thu Thúy, sinh năm 1975. Địa chỉ:
số 82/9/6 đường Trương Công Định, phường 3, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
(Vắng mặt).
+Bà Võ Thị Mai Lan, sinh 1959 và ông Trần Thanh Dũng, sinh 1958.
Địa chỉ: số 82/9/18/4/1A đường Trương Công Định, phường 3, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu. (Vắng mặt).
+Bà Đặng Thị Hoài Nhung, sinh 1971. Địa chỉ: Số 163/3 đường Ba Cu, phường 4, thành phố
Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. (Vắng mặt).
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Lập -Chủ tịch UBND thành phố Vũng Tàu ( Vắng
mặt )
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Dương Văn Thắng, chuyên viên Phòng Tài nguyên và Môi
trường thành phố Vũng Tàu.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và tại các bản tự khai người đại diện và nguyên đơn ông Trần Kinh Vân và
bà Lê Thanh Hạnh trình bày:
Năm 2003 ông Trần Thanh Dũng, bà Võ Thị Mai Lan nhận chuyển nhượng một phần đất có diện
tích 28m2 của bà Đặng Thị Hoài Nhung và xây nhà cấp 4 để ở. Đất chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.
Ngày 30/01/2004, ông Dũng bà Lan chuyển nhượng toàn bộ nhà đất cho vợ chồng ông Vân, bà
Hạnh.
Năm 2006 bà Nhung được UBND thành phố Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số AE 620726 ngày 14/5/2006 và đã chồng lấn lên diện tích ông Vân, bà Hạnh.
Năm 2010, vợ chồng ông Dung, bà Thúy nhận chuyển nhượng nhà đất của bà Nhung để ở và đã
đăng ký sang tên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn
liền với đất số BD110081 ngày 13/10/2010 (thửa đất số 383 diện tích 77m2, tờ bản đồ số 11)
chồng lấn lên diện tích 28m2 nhà đất của ông Vân, bà Hạnh
Khi ông Vân, bà Hạnh phát hiện sự chồng lấn nên đã yêu cầu ông Dung, bà Thúy làm lại giấy tờ
nhà đất. Ông Dung, bà Thúy đã nhận của ông Vân, bà Hạnh 10.000.000 đồng từ năm 2011 để tiến
hành chỉnh sửa giấy tờ nhà đất, nhưng đến nay ông Dung, bà Thúy không thực hiện mà cũng
không trả lại tiền.
Tháng 4/2017 ông Dung, bà Thúy đã chuyển nhượng và sang tên giấy tờ nhà đất cho ông Lê
Quang Thuần, bà Thân Khánh Ly.
+Yêu cầu ông Thuần, bà Ly trả lại diện tích 28m2 (đo thực tế 26m2) và hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BD110081 được UBND thành phố Vũng Tàu cấp ngày 10/4/2017 cho bà
Thân Khánh Ly, ông Lê Quang Thuần.
+Yêu cầu ông Dung , bà Thúy trả lại 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).
Tại các bản khai người đại diện và bị đơn ông Lê Quang Thuần, bà Thân Khánh Ly trình bày:
Tháng 3 năm 2017, bà Thân Khánh Ly và ông Lê Quang Thuần có nhận chuyển nhượng của vợ
chồng ông Nguyễn Thanh Dung, bà Nguyễn Thị Thu Thúy một căn nhà cấp 4 trên diện tích đất
77m2 với giá 1.070.000.000 đồng và đã được UBND TP. Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số BD110081 ngày10/4/2017. Khi mua đã có nhà đất của ông Vân bà Hạnh ở kế bên.
Hiện nay, phần diện tích nhà đất của ông Vân bà Hạnh đang sử dụng nằm trong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BD110081 cấp ngày 10/4/2017 của ông Thuần, bà Ly. Nay ông Vân bà
Hạnh khởi kiện, đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.
Tại các bản khai bị đơn ông Nguyễn Thanh Dũng, bà Nguyễn Thị Thu Thúy trình bày:
Năm 2005 ông Dung, bà Thúy nhận chuyển nhượng nhà đất của bà Đặng Thị Hoài Nhung diện
tích đất khoảng 51m2 trên đất có nhà cấp 4 sát bên nhà ông Vân bà Hạnh. Nhà ông Vân, bà Hạnh
4
đã xây nhà ổn định, còn căn nhà ông Dung, bà Thúy mua của bà Nhung đã được bà Nhung xây
dựng trước đó từ năm 2000 và ông Dung, bà Thúy không xây dựng gì thêm. Ông Dung, bà Thúy
xác nhận diện tích đất của ông Vân, bà Hạnh có nằm trong diện tích đất mà ông Dung, bà Thúy
được Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
BD110081 ngày 13/10/2010 cho ông Dung, bà Thúy.
Khi biết có sự chồng lấn thì ông Vân bà Hạnh có đưa có ông Dung bà Thúy
10.000.000 đồng để đi chỉnh lý giấy tờ thì ông Dung bà Thúy đã giao số tiền này cho bà Nhung
chủ đất đi làm giấy tờ.
Vào tháng 3/2017, ông Nguyễn Thanh Dung, bà Nguyễn Thị Thu Thúy đã chuyển nhượng nhà
đất cho bà Thân Khánh Ly và ông Lê Quang Thuần và được UBND thành phố Vũng Tàu cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD110081 ngày 10/4/2017 cho bà Thân Khánh Ly và ông
Lê Quang Thuần.
Nay ông Vân, bà Hạnh khởi kiện đòi ông Dũng, bà Thúy trả số tiền 10.000.000 thì ông Dung, bà
Thúy không đồng ý vì đây là chi phí hợp lý hỗ trợ cho bà Nhung đi về quê làm lại giấy tờ chứng
minh nhân dân, hộ khẩu đã mất để tách thửa nhưng không tách được.
Theo các bản khai người có quyền lợi liên quan bà Đặng Thị Hoài Nhung trình bày:
Năm 2000 bà Nhung xây nhà, có dư một phần đất khoảng 28m2 bà Nhung bán cho bà Võ Thị
Mai Lan và ông Trần Thanh Dung với giá 90.000.000 đồng, bà Lan và ông Dũng xây nhà cấp 4
để ở. Năm 2004, bà Lan, ông Dũng bán lại nhà, đất cho vợ chồng ông Vân bà Hạnh Năm 2005,
bà Nhung bán nhà đất cho ông Dung, bà Thúy bằng giấy tay với diện tích đang ở khoảng 51m2.
Bà Nhung công nhận diện tích nhà đất ông Vân, bà Hạnh đang ở là của bà Nhung bán cho ông
Dung bà Lan, ông Dung bà Lan bán lại cho ông Vân, bà Hạnh.
Số tiền 10.000.000 đồng ông Dung, bà Thúy cho rằng đã đưa cho bà Nhung là đúng, mục đích
đưa là để đi làm lại chứng minh nhân, hộ khẩu bị thất lạc để hoàn thiện hồ sơ tách thửa cho ông
Vân, bà Hạnh, nhưng không tách thửa được là vì lý do khách quan diện tích nhà, đất của ông
Vân, bà Hạnh không đủ diện tích tách thửa. Ông Vân bà Hạnh đòi ông Dung bà Thúy trả lại số
tiền này là không đúng.
Tại các bản khai người có quyền lợi liên quan bà Võ Thị Mai Lan, ôngTrần Thanh Dũng trình
bày:
Năm 2003, ông Dũng , bà Lan có nhận chuyển nhượng của bà Đặng Thị Hoài Nhung diện tích
đất 28m2, tại số 82/9/6 đường Trương Công Định, phường 3, thành phố Vũng Tàu với giá
90.000.000 đồng. Sau đó, ông Dũng, bà Lan xây dựng nhà cấp 4 trên đất diện tích28m2. Đến năm
2004 ông Dũng, bà Lan bán lại cho ông Vân, bà Hạnh nhà đất trên với giá145.000.000 đồng bằng
giấy viết tay và ông Dũng, bà Lan có giao cho ông Vân, bà Hạnh “giấy bán đất” giữa bà Nhung
với ông Dũng, bà Lan, việc chuyển nhượng đã hoàn tất.
Nay, ông Dũng, bà Lan không có ý kiến gì và đề nghị Tòa án xét xử theo quy định của pháp luật.
Tại các bản khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND thành phốVũng Tàu, ông Dương
Văn Thắng trình bày:
5
Việc cấp giấy chứng nhận cho các đương sự là đúng quy định của pháp luật, nguyên đơn yêu cầu
hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD110081 mà UBND thành phố Vũng Tàu cấp ngày
10/4/2017 cho bà Thân Khánh Ly, ông Lê Quang Thuần thì UBND thành phố Vũng Tàu không
đồng ý. Đề nghị Tòa án xét xử theo quy định của pháp luật.
Sự vắng mặt của các đương sự Tòa án đã tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập
tham gia phiên tòa hợp lệ, các đương sự đã có đơn xin xét xử vắng mặt, có giấy ủy quyền.
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Tại phiên tòa phía nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc đòi vợ chồng ông Dung, bà
Thúy trả lại 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).
Các đương sự thỏa thuận được với nhau về nội dung giải quyết vụ án.
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã
thực hiện đúng trình tự thủ tục quy định Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Việc nguyên đơn rút mội phần yêu cầu khởi kiện về việc đòi vợ chồng ông Dung,
bà Thúy trả lại 10.000.000 đồng và sự thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện và phù hợp với
quy định của pháp luật, không trái với đạo đức nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết
quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về thủ tục tố tụng.
Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:
[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng: Nguyên đơn ông Vân bà Hạnh tranh chấp quyền sử dụng đất
với bị đơn ông Thuần bà Ly và đòi ông Dung bà Thúy trả lại tài sản là10.000.000 đồng. Yêu cầu
Tòa án xét xử hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà Ủy ban nhân dân thành phố Vũng Tàu
đã cấp cho ông Thuần bà Ly. Đất tranh chấp tọa lạc tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng
Tàu và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nguyên đơn yêu cầu hủy do Ủy ban nhân dân thành
phố Vũng Tàu cấp. Căn cứ khoản 9 Điều 26; khoản 4 Điều 34; điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố
tụng dân sự; Khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính thì vụ án dân sự này thuộc thẩm quyền
giải quyết sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Ông Vân, bà Hạnh khởi kiện yêu cầu ông Thuần, bà Ly trả lại diện tích 28m2 và yêu cầu hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD110081 được UBND thành phố Vũng Tàu cấp ngày
10/4/2017 đứng tên bà Thân Khánh Ly, ông Lê Quang Thuần.
+Khởi kiện buộc ông Dung, bà Thủy trả lại cho ông Vân, bà Hạnh 10.000.000 đồng(Mười triệu
đồng).
6
Tại phiên tòa phía nguyên đơn ông Vân bà Hạnh rút một phần yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu
ông Dung, bà Thủy trả 10.000.000 đồng nữa, mà chỉ khởi kiện yêu cầu trả lại diện tích đất 26 m2
và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD110081 mà UBND thành phố Vũng
Tàu cấp ngày 10/4/2017 cho bà Thân Khánh Ly, ông Lê Quang Thuần.
Căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét thấy nguyên đơn ông Vân
bà Hạnh rút một phần yêu cầu khởi kiện là tự nguyện và phù hợp quy định của pháp luật nên chấp
nhận và đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện đã rút số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu
đồng).
[3] Xét nội dung khởi kiện của ông Vân, bà Hạnh yêu cầu Tòa án buộc bị đơn ông ông Thuần bà
Ly trả lại 26m2 đất và hủy giấy chứng nhận QSD đất.
Đất tranh chấp đo thực tế 26m2 có nguồn gốc: Năm 2003 ông Trần Thanh Dũng, bà Võ Thị Mai
Lan chuyển nhượng một phần đất có diện tích 28m2 của bà Đặng Thị Hoài Nhung và xây nhà
cấp 4 để ở. Đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngày 30/01/2004, ông Dũng bà Lan chuyển nhượng toàn bộ nhà đất cho vợ chồng ông Vân, bà
Hạnh.
Năm 2006 bà Nhung được UBND thành phố Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số AE 620726 ngày 14/5/2006 và đã chồng lấn lên diện tích ông Vân, bà Hạnh.
Năm 2010, vợ chồng ông Dung, bà Thúy nhận chuyển nhượng nhà đất của bà Nhung để ở và đã
được cấp giấy chứng nhận QSD nhà đất số BD 110081 ngày13/10/2010 tại thửa đất số 383
diện tích 77m2, tờ bản đồ số 11 chồng lấn lên diện tích 26m2 nhà đất của ông Vân, bà Hạnh.
Tháng 4/2017 ông Dung, bà Thủy đã chuyển nhượng và sang tên giấy tờ nhà đất cho ông Lê
Quang Thuần, bà Thân Khánh Ly. Ông Thuần, bà Ly đã được UBND thành phố Vũng Tàu cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD110081 ngày10/4/2017 tại thửa đất số 383 diện
tích 77m2, tờ bản đồ số 11 chồng lấn lên diệntích 26m2 nhà đất của ông Vân, bà Hạnh.
Tại phiên tòa đại diện ông Vân bà Hạnh và đại diện ông Thuần bà Ly thỏa thuận được với nhau
về giải quyết toàn bộ nội dung vụ án như sau:
+Ông Trần Kinh Vân và bà Lê Thanh Hạnh được quyền sử dụng diện tích đất 26m2 thuộc thửa
383 tờ bản đồ 11 tọa lạc tại phường 3, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
+Ông Lê Quang Thuần và bà Thân Khánh Ly được quyền sử dụng diện tích đất51,2m2 thuộc
thửa 383 tờ bản đồ 11 tọa lạc tại phường 3, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Theo sơ đồ vị trí khu đất do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố Vũng Tàu lập ngày
28/8/2017.
+Hủy giấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD110081 ngày10/4/2017 mà UBND
thành phố Vũng Tàu đã cấp cho bà Thân Khánh Ly và ông Lê Quang Thuần.
7
+Về chi phí định giá, đo vẽ, thẩm định: Căn cứ Điều 157, 165 Bộ luật tố tụng dân sự. Mỗi bên
chịu một nửa là 3.678.000 đồng : 2 = 1.839.000 đồng. Bên phía ông Vân bà Hạnh đã ứng ra nộp
trước, nay ông Thuần bà Ly có trách nhiệm trả lại cho ông Vân bà Hạnh là 1.839.000 đồng.
+Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 8 Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định án phí lệ phí Tòa án. Mỗi bên chịu một nửa:
Giá trị đất tranh chấp 26 m2 x 8.556.000 đồng/m2 = 222.456.000 đồng x 5% = 11.122.800 đồng :
2 = 5.561.400 đồng.
Căn cứ Điều 246 Bộ luật tố tụng dân sự , sự thỏa thuận của các đương là tự nguyện, không vi
phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Từ những phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của
ông Vân bà Hạnh. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 9 Điều 26; khoản 4 Điều 34; Điều 37; điểm c khoản 1 Điều39 và Điều 244, 246 Bộ
luật tố tụng dân sự; Khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính. Điều 12, khoản 5 Điều 166 luật đất
đai. Điều 472, 473,474, 481,482 Bộ luật dân sự. Khoản 8 Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày30/12/2016 quy định án phí lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Kinh Vân và bà Lê Thanh Hạnh.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Kinh Vân và bà Lê Thanh Hạnh về việc
buộc ông Nguyễn Thanh Dung, bà Nguyễn Thị Thu Thủy phải trả10.000.000 đồng (Mười triệu
đồng) .
+ Ông Trần Kinh Vân và bà Lê Thanh Hạnh được quyền sử dụng diện tích đất26m2 thuộc thửa
383 tờ bản đồ 11 tọa lạc tại phường 3, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
+Ông Lê Quang Thuần và bà Thân Khánh Ly được quyền sử dụng diện tích đất 51,2m2 thuộc
thửa 383 tờ bản đồ 11 tọa lạc tại phường 3, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Theo sơ đồ vị trí thửa đất do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố Vũng Tàu lập ngày
28/8/2017. (Có sơ đồ kèm theo bản án)
+Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD110081 ngày 10/4/2017 mà Uỷ ban nhân dân
thành phố Vũng Tàu đã cấp cho bà Thân Khánh Ly và ông Lê Quang Thuần.
+Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
ông Lê Quang Thuần, bà Thân Khánh Ly và ông Trần Kinh Vân, bà Lê Thanh Hạnh theo quy
định của pháp luật.
8
(Theo sơ đồ vị trí, diện tích thửa đất do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố Vũng
Tàu lập ngày 28/8/2017).
+Ông Lê Quang Thuần và bà Thân Khánh Ly có nghĩa vụ giao lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BD110081 cấp ngày 10/4/2017 cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được cấp lại
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khác phù hợp với vị trí diện tích đất thực tế được quyền sử
dụng.
4.Về chi phí định giá, đo vẽ, thẩm định: 3.678.000 đồng.
Căn cứ Điều 157, 165 Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn mỗi bên chịu một nửa là
1.839.000 đồng.(Một triệu tám trăm ba mươi chín ngàn đồng).
Ông Vân bà Hạnh đã ứng ra nộp đủ trước 3.678.000 đồng (Ba triệu, sáu trăm bảy mươi tám ngàn
đồng). Ông Thuần bà Ly có trách nhiệm trả lại cho ông Vân bà Hạnh là 839.000 đồng.(Một triệu
tám trăm ba mươi chín ngàn đồng).
Căn cứ khoản 8 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định
án phí lệ phí Tòa án. Nguyên đơn, bị đơn mỗi bên chịu một nửa là 5.561.400 đồng (Năm triệu,
năm trăm sáu mốt ngàn, bốn trăm đồng).
+Ông Vân và bà Hạnh nộp 5.561.400 đồng, nhưng được trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp 3.875.000
đồng theo biên lai số 0002243 ngày 23/01/2017 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa-Vũng
Tàu. Ông Vân và bà Hạnh còn phải nộp 1.686.400 đồng (Một triệu, sáu trăm tám mươi sáu ngàn,
bốn trăm đồng).
+Ông Thuần và bà Ly phải nộp 5.561.400 đồng (Năm triệu, năm trăm sáu mốt ngàn, bốn trăm
đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án, có đơn yêu cầu thi hành nếu bên phải thi hành án chưa thanh
toán hết số tiền trên, thì còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ
luật dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành
án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định
tại các Điều 6, 7, 7a,7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo
quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
6. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu
Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân cấp cao xét xử theo trình tự phúc thẩm (đương sự vắng mặt kể từ
ngày nhận được bản án hoặc niêm yết).
Sau đây tôi sẽ thẩm tra sự có mặt hoặc vắng mặt của những người tham gia phiên tòa theo giấy
triệu tập của Tòa án. Khi tôi gọi tên những người được triệu tập, đề nghị người được gọi mang
theo giấy báo, giấy triệu tập, giấy tờ tùy thân lên để kiểm tra:
1. Mời đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:
Ông Vũ Đắc Hiệp, sinh năm 1951
Mời đại diện theo ủy quyền của bị đơn :
- Người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Khánh Lý: Bà Đàm Thị Thiên Lý, sinh
năm 1969
- Người đại diện thep ủy quyền của ông Nguyễn Thanh Dung : Ông Trương Quang Đức,
sinh nắm 1975.
Mời những người có quyền và nghĩa vụ liên quan:
- Bà Võ Thị Mai Lan, sinh năm 1959
- Ông Trần Thanh Dũng, sinh năm 1958
- Bà Đặng Thị Hoài Nhung
- Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Lập: ông Dương Văn Thắng
Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án, tôi xin phổ biến nội quy phiên tòa ( đề nghị mọi
người tham gia phiên tòa giữ trật tự) :
1. Khi vào phòng xử án, mọi người đều phải chấp hành việc kiểm tra an ninh của lực lượng có
trách nhiệm bảo vệ phiên tòa.
2. Nghiêm cấm mang vào phòng xử án vũ khí, hung khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng
xạ, đồ vật cấm lưu hành, truyền đơn, khẩu hiệu và tài liệu, đồ vật khác ảnh hưởng đến sự tôn
nghiêm của phiên tòa, trừ vật chứng của vụ án phục vụ cho công tác xét xử hoặc vũ khí, công
cụ hỗ trợ được người có thẩm quyền mang theo để làm nhiệm vụ bảo vệ phiên tòa.
3. Người tham gia phiên tòa theo yêu cầu của Tòa án phải xuất trình giấy triệu tập, giấy mời, các
giấy tờ có liên quan khác cho Thư ký phiên tòa tại bàn thư ký chậm nhất là 15 phút trước giờ
khai mạc phiên tòa và ngồi đúng vị trí trong phòng xử án theo hướng dẫn của Thư ký phiên
tòa; trường hợp đến muộn thì phải xuất trình giấy triệu tập, giấy mời, các giấy tờ có liên quan
khác cho Thư ký phiên tòa thông qua lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ phiên tòa.
4. Nhà báo tham dự phiên tòa để đưa tin về diễn biến phiên tòa phải chấp hành sự điều khiển của
chủ tọa phiên tòa về khu vực tác nghiệp. Nhà báo ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng
xét xử phải được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa. Việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của
đương sự, người tham gia tố tụng khác phải được sự đồng ý của họ.
5. Mọi người tham dự phiên tòa phải có trang phục nghiêm chỉnh; có thái độ tôn trọng Hội đồng
xét xử, giữ trật tự và tuân theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa.
6. Không đội mũ, nón, đeo kính màu trong phòng xử án, trừ trường hợp có lý do chính đáng và
được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa; không sử dụng điện thoại di động, không hút thuốc,
không ăn uống trong phòng xử án hoặc có hành vi khác ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của
phiên tòa.
7. Người tham gia phiên tòa theo yêu cầu của Tòa án phải có mặt tại phiên tòa trong suốt thời
gian xét xử vụ án, trừ trường hợp được chủ tọa phiên tòa đồng ý cho rời khỏi phòng xử án khi
10
có lý do chính đáng.
Người dưới mười sáu tuổi không được vào phòng xử án, trừ trường hợp được Tòa án triệu tập
tham gia phiên tòa.
8. Mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án và khi
tuyên án, trừ trường hợp đặc biệt được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa.
9. Chỉ những người được Hội đồng xét xử đồng ý mới được hỏi, trả lời hoặc phát biểu. Người
hỏi, trả lời hoặc phát biểu phải đứng dậy, trừ trường hợp vì lý do sức khỏe được chủ tọa phiên
tòa đồng ý cho ngồi để hỏi, trả lời, phát biểu.
Mọi người đã nghe rõ nội quy phiên tòa không?
Có ai chưa nghe rõ phần nào không?
Đề nghị những người trong phòng xử án giữ trật tự, tắt ĐTDĐ hoặc chuyển sang chế độ rung.
Đề nghị mọi người trong phòng xử án đứng dậy!
Mời Hội đồng XX vào phòng xử án.
Thư ký phiên tòa: “Mời Hội đồng xét xử vào phòng xử án”.
Chủ tọa: “Hôm nay ngày….tháng…năm Tòa án nhân dân TP.Vũng Tàu tiến hành xét xử
công khai sơ thẩm vụ án dân sự "Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất " . Căn cứ vào các điều 48, 203 và 220 của Bộ Luật Tố Tụng Dân sự.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 15/2017/TLST-DS ngày 06 tháng 02
năm 2017.Thay mặt HĐXX, tôi tuyên bố khai mạc phiên tòa, mời tất cả mọi người ngồi
xuống, riêng các đương sự đứng tại chỗ.”
Chủ tọa: “Đọc QĐXX”
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc
SỐ 38/2017/QĐ-HSST-DS ------------------------------------------
Thành phố Vũng Tàu, ngày 06 tháng 02 năm 2017
*/ Nguyên đơn:
+ Ông Trần Kinh Vân, sinh năm 1954 và bà Lê Thanh Hạnh, sinh năm 1965. Cùng địa chỉ: số 82/9/6A đường
Trương Công Định, phường 3, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
+ Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Vũ Đắc Hiệp, sinh năm 1951. Địa chỉ: số 25 đường Ngô Đức
Kế, phường 7, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
*/ Bị đơn:
+ Ông Lê Quang Thuần, sinh năm 1990 và bà Thân Khánh Ly, sinh năm 1990. Cùng địa chỉ: số 69/40/12A đường
Lê Hồng Phong, phường 7, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
+ Người đại diện theo ủy quyền của bà Thân Khánh Ly: Bà Đàm thị Thiên Lý, sinh năm 1969. địa chỉ: số
69/40/12A đường Lê Hồng Phong, phường 7, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
+ Ông Nguyễn Thanh Dung, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị Thu Thúy, sinh năm 1975. Cùng địa chỉ: số 82/9/6
đường Trương Công Định, phường 3, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
+ Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Thu Thúy: Ông Trương Quang Đức, sinh năm 1975,số
69/40/12A đường Lê Hồng Phong, phường 7, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
*/ Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Võ Thị Mai Lan, sinh năm 1959 và ông Trần Thanh Dũng, sinh năm 1958. Cùng địa chỉ: số 82/9/18/4/1A
đường Trương Công Định, phường 3, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
+ Bà Đặng Thị Hoài Nhung. Địa chỉ số 163/3 đường Ba Cu, phường 4, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu
+ Ủy ban nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Người đại diện theo pháp luật ông Nguyễn Lập -
Chủ tịch UBND thành phố Vũng Tàu, người đại diện theo ủy quyền ông Dương Văn Thắng, chuyên viên phòng tài
nguyên và Môi trường thành phố Vũng Tàu.
Nguyên đơn: tôi xin trình bày yêu cầu khởi kiện của chúng tôi.
Tại Tòa án hôm nay chúng tôi khời kiện gồm bà Thân Khánh Ly, Ông Lệ Quang Thuần và
ông Nguyễn Thanh Dung, bà Nguyễn Thị Thu Thúy.
+ Khởi kiện ông Thuần, bà Ly như sau:
Nguyên đơn khởi kiện ông Thuần, ba Ly trả lại 28m2 đất và hủy giấy chúng nhận quyền
sử dụng đất số BD 110081 được UBND thành phố Vũng Tâu cấp ngày 10/4/2017 đúng tên
bà Thân Khánh Ly, ông Lê Quang Thuần.
+ Khởi kiện ông Dung, bà Thủy như sau:
Trước đây, khi nguyên đơn ông Vân, bà Hạnh phát hiện chứng nhận quyền sử dụng đất,
trả lại diện tích đất 28m² cho nguyên đơn và có đưa ông Dung, bà Thúy 10.000.000 đồng
từ năm 2011 để tiến hành thủ tục sang tên nhưng ông Dung, bà Thúy không thực hiện sang
tên và cũng không trả lại số tiền 10.000.000 đồng. Nay, tại Tòa án nguyên đơn yêu cầu
ông "Dung, bà Thúy trả lại cho nguyên đơn 10.000.000 đồng.
+ tôi kinh mong HĐXX xem xét rõ ràng, minh bạch, công bằng trước pháp luật, tôi xin
hết, mời HĐXX tiếp tục làm việc.
Chủ tọa: yêu cầu đại điện nguyên đơn ngồi xuống
Chủ tọa: yêu cầu diện bị đơn bà Đàm Thiên Lý đứng lên phát biểu ý kiến:
Bị đơn: Kính thưa HĐXX: Tôi Đàm Thiên Lý, luật sự thuộc đoàn luật sư tỉnh Bà rịa –
Vũng tàu ,sinh năm 1969 , địa chỉ số 69/40/12A đường Lê Hồng Phong phường 7, phường
7 Thành Phố Vũng Tàu tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu.
Tôi tham gia phiên tòa hôm nay với tư cách là dại diện bên bị đơn trình bày ý kiến của
mình .Bị đơn nghĩ phần đất của mình đang ở là thuộc quyền sở hữu của mình được cấp
giấy chứng nhận là đúng theo pháp luật không xảy ra bất kì tranh chấp gì , một phần do tôi
không tìm hiểu rõ nguồn gốc đất ra sao và không am hiểu về luật đã nhận chuyển nhượng
từ ông Nguyễn Thanh Dung và bà Nguyễn Thị Thu Thuý .Tôi đã chồng tiền đầy đủ đất với
giá 1.070.000.000 đồng với diện tích 77m2 thửa đất BD 110081 , thửa số 383 , tờ bản đồ
số 11 được UBND thành phố Vũng Tàu cấp ngày 10/04/2017 .
-Nay tại Toà án tôi đồng ý tách 28m2 cho nguyên đơn và yêu cầu HĐXX xét xử nghiêm
minh, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tôi , yêu cầu ông Nguyễn Thanh
Dung và bà Nguyễn Thị Thu Thuý trả lại số tiền gắn liền với giá trị đất lúc đấy.
-Riêng về 10.000.000 đồng ông Dung bà Thuý không câcn phải trả lại mà lấy số tiền đấy
làm lệ phí cho thủ tục sang tên . ( tôi xin hết ).
Chủ tọa : mời đại diện bị đơn ông Trương Quang Đức ngồi xuống.
Quang Đức: Chúng tôi trình bầy ý kiến việc ông bà Trần Kinh Vân, Lê Thanh Hạnh khởi kiện
với chúng tôi, theo thông báo thụ lý vụ án “ tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy
15
chứng nhận quyên sử dụng đất” số 15/TB-TLVA ngày 06/02/2017 cuha3 TAND tỉnh Bà Rịa
Vũng Tàu, như sau:
Về việc ông bà Vân, Hạnh yêu cầu chúng tôi hoàn trả họ 10.000.000 đồng
Ý kiếm cảu chúng tôi: số tiền 10.000.000 đồng ông bà Vân, Hạnh tự nguyện thỏa thuận
đưa cho chúng tôi để đưa cho bà Đặng Thị Hoài Nhung về quê làm giấy CMND và bà
Nhung phải đi lại nhiều lần mới xong giấy chứng minh để đưa cho chúng tôi làm thủ tục
với mục đích sử dụng đất sang đất ở đứng tên bà Nhung, sau đó bà mới ký sang tên cho
chúng tôi 77m² gồm cả phần đất cảu ông Vân bà Hạnh và ông bà Vân Hạnh đã thỏa thuận
tách đất của họ từ giấy tay ra giấy hồng, họ phải trả tiền cho chúng tôi theo hóa đơn đã nộp
cho nhà nước
Số tiền trên chúng tôi đã đưa cho bà Nhung ( tin tưởng nhua nên không viết biên nhận) và
bà Nhung đã thực hiện công việc, nên chúng tôi không có trách nhiệm phải hoàn trả
10.000.000 đồng cho ông Vân bà Hạnh theo đơn khởi kiện
Trên đây là ý kiến của chúng tôi về việc khởi kiện ông Vân bà Hạnh. Đề nghị quý Tòa xem xét
giải quyết theo quy định, không làm ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng, hợp pháp của chúng tôi
– xin cảm ơn. Tôi xin hết.
Chủ tọa: yêu cầu đại diện bị đơn ngồi xuống.
Chủ tọa: những người có quyền và nghĩa vụ liên quan có muốn trình bày nội dung gì thêm không
?
TL: tất cả thưa không.
Chủ tọa: sau khi nghe các bên trình bày, HĐXX cần nắm rõ thêm các tình tiết sau, đề nghị
các bên tham gia hỏi, mời đại diện nguyên đơn tham gia phần xét hỏi.
Nguyên đơn : tôi muốn hỏi người có quyền và nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị Hoài
Nhung.
Chủ tọa: yêu cầu bà Đặng Thị Hoài Nhung đứng lên
Nguyên đơn: có phải ông Dung bà Thúy đã đưa cho bà 10tr để hỗ trợ bà về quê làm giấy
CMND, hộ khẩu hay không ?
Nhung: tôi không nhận 10t đồng của ông Dung, bà Thúy mà chỉ nhận vài triệu đồng thôi, tôi
không nhớ rõ để làm giấy tờ CMND, hộ khẩu bị thất lạc.
Nguyên đơn : bà đã bán đất cho ông Dung, bà Thúy vào thời gian nào?
Nhung : tôi bán đất cho ông Dung, bà Thúy vào năm 2005.
Nguyên đơn: bà đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Dung, bà Thúy vào
thời gian nào ?
Nhung : tôi ký hợp đồng chuyển nhượng vào ngày 7/9/2010
Nguyên đơn: ông Dung, bà Thúy đã khai rằng đã cùng nguyên đơn là ông Vân, bà Hạnh đưa cho
bà 10t đồng để hỗ trợ bà Nhung về quê làm lại giấy CMND, hộ khẩu bị thất lạc, có phải bà đã
nhận 10t từ ông Dung, bà Thúy không ?
Nhung : đúng là tôi có nhận tiền từ ông Dung, bà Thúy để về quê, nhưng không phải 10t mà chỉ
có vài triệu thôi, cụ thể là bao nhiêu tôi không nhớ rõ.
Nguyên đơn: thưa HĐXX, tôi không có câu hỏi gì thêm.
16
Chủ tọa: yêu cầu đại diện nguyên đơn ngồi xuống, đại diện bên bị đơn có muốn xét hỏi ai
không ?
Bị đơn: tôi muốn hỏi người có quyền và nghĩa vụ liên quan Ông Trần Thanh Dũng
Chủ tọa:yêu cầu Ông Dũng đứng lên.
Bị đơn: Ông đã mua đất của bà Đặng Thị Hoài Nhung khi nào ?
Dũng: Tôi đã mua đất của bà Đặng Thị Hoài Nhung năm 2003.
Bị đơn: Ông đã mua đất của bà Nhung với diện tích là bao nhiêu ?
Dũng :Tôi đã mua đất với diện tích 28m2.
Bị đơn: Ngày 30/1/2004 ông đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho nguyên đơn là vợ chồng
ông Vân , bà Hạnh bao gồm những gì ?
Dũng :Tôi đã chuyển nhượng gồm có mãnh đất 28m2 đã có nhà cấp 4 của tôi.
Bị đơn: Vào năm 2006 bà Nhung được UBND thành phố Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận quyển
sữ dụng đấ số AE 60276 ngày 14/6/2006 , đã chồng lấn lên diện tích của ông,ông có biết không ?
Dũng: Tôi không biết.
Bị đơn: Vậy sau đó bà Nhung đã chuyển nhượng quyền sữ dụng đất cho vợ chồng ông Dung , bà
Thúy khi mãnh đất đã có chồng lấn lên diện tích của ông , ông có biết không ?
Dũng :Tôi không biết.
Bị đơn: tôi không có câu hỏi gì thêm mời HĐXX tiếp tục làm việc.
Chủ tọa: HĐXX còn ai có câu hỏi gì không ?
HTND 2: tôi muốn hỏi bà Võ Thị Mai Lan
Chủ tọa: yêu cầu Bà Lan đứng dậy.
HTND 2: Bà và ông Trần Thanh Dũng mua đất của bà Đặng Thị Hoài Nhung vào thời gian
nào ?
Lan: Tôi và ông Trần Thanh Dũng mua đất của bà Nhung vào năm 2003
HTND 2: Diện tích đất mà bà và ông Dũng mua của bà Nhung vào năm 2003 là bao nhiêu
?
Lan: Tôi và ông Dũng mua đất của bà Nhung năm 2003 với diện tích 28m2
HTND 2: Vào ngày 30/01/2004 bà và ông Dũng đã chuyển nhượng cho nguyên đơn bao
gồm những gì
Lan: căn nhà cấp 4 của tôi và ông Dũng gắn liền với đất có diện tích 28m2 thửa đất số 11
HTND 2: Bà có biết vào năm 2005 bà Nhung đã bán đất cho ông Dung bà Thúy với diện
tích 48m2 ko ?
Lan: Tôi không biết
HTND 2: Vậy bà có biết vào ngày 14/06/2006 UBND thành phố Vũng Tàu cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số A 602706 cho bà Nhung đã chồng lấn lên diện tích đất
của bà ko ?
Lan: Tôi không biết nếu biết sẽ báo liền cho nguyên đơn về sự việc này
HTND 2: tôi không có câu hỏi gì thêm
17
Nguyên đơn: nguồn gốc là cảu bà Nhung chuyển nhượng sang cho vợ chồng ông Dũng, bà
Lan, sau đó, vợ chồng ông Dũng, bà Lan bán lại cho ông Vân, bà Hạnh và sử dụng ổn định
từ 2004 đến nay.
KSV: ông Vân, bà Hạnh mua cho bà Lan, ông Dũng giá bao nhiêu, có ai làm chứng hay
không?
Nguyên đơn: giá 145 tr. Chỉ có các bên tham gia ký kết gồm bà Lan, ông Dũng và vợ
chồng ông Vân, bà Hạnh
KSV: ông Vân, bà Hạnh đã đưa tiền đầy đủ cho bà Lan, ông Dũng hay chưa ?
Nguyên đơn: đã đưa đầy đủ
KSV căn nhà trên đất do ai xây ?
Nguyên đơn: do bà Lan, ông Dũng xây dựng năm 2003 và bán lại cho nguyên đơn.
KSV: Tại sao biết ông Dung và bà Thúy lấn chiếm phần đất của mình mà bà lại không kiện ngay
lúc đó mà phải nhún nhường đưa 10.000.000 cho họ làm giấy chuyển tên lại cho mình
Nguyên đơn: Tôi nghỉ lúc đó là có sự nhầm lẫn và thương lượng với họ và họ đồng ý nhưng
không ngờ lại tin lầm con người gian dối và dẫn đến hậu quả như nay.
KSV: thưa HĐXX, tôi muốn hỏi bị đơn ?
Chủ tọa: yêu cầu nguyên đơn ngồi xuống, yêu cầu bị đơn đứng lên.
KSV: bị đơn có đưa 10t đồng cho bà Nhung không? Tại sao bà Nhung lại cho biết không
nhận đồng nào từ phía bị đơn ?
Quang đức: chúng tôi chắc chắn đã đưa số tiền 10t cho bà Nhung, lỡ như bà Nhung số
tiền đó tiêu xài rồi báo không nhận thì sao và chúng tôi không có trách nhiệm hoàn trả số
tiền đó vì ông bà Vân, Hạnh tự nguyên thỏa thuận đưa cho chúng tôi để đưa cho bà Nhung
làm thủ tục.
KSV: thưa HĐXX tôi không có câu hỏi gì thêm, mời HĐXX tiếp tục làm việc.
Chủ tọa: Khi nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì những người tiến
hành và tham gia tố tụng có yêu cầu hỏi vấn đề gì nữa không ?
TL: tất cả thưa không
Chủ tọa: nếu không ai có yều cầu hỏi vấn đề gì khác, tôi thay mặt HĐXX tuyên bố kết thúc phần
hỏi chuyển sang phần tranh luận tại phiên tòa.
Chủ tọa: yêu cầu nguyên đơn tham gia phần tranh luận
Nguyên đơn: thưa HĐXX, chúng tôi vẫn giữ nguyên đơn khởi kiện của chúng tôi, yêu cầu công
nhận 28m2 đất là của ông Vân, bà Hạnh. Yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số BD110081 được UBND thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà rịa - Vũng Tàu cấp ngày 13/10/2010
( thửa số 383 diện tích 77m2, tờ bản đồ số 11 ) cấp cho ông Dung, bà Thúy đối với diện tích
28m2 và yêu cầu bị đơn trả lại 10 triệu đồng mà nguyên đơn đã đưa cho bị đơn. Tôi xin hết.
19
- Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định
tại điều 48 BLTTDS như thụ lí vụ án, tiến hành thu thập chứng cứ, xác minh chứng cứ, tổ
chức phiên hộp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khái chứng cứ và tiến hành hòa giải,
triệu tập nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên qua.
- Về thẩm quyền thụ lý: ông Trần Kinh Vân, Bà Lê Thanh Hạnh và ông Lê Quang Thuần,
bà Thân Khánh Ly tranh chấp về quyền sử dung đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, đất tọa lạc tại thành phố Vũng Tàu. Do đó căn cứ khoản 9 điều 26,
khoản 1 điều 35, điểm C khoản 1 điều 39 BLTTDS Tòa Án nhân dân Bà Rịa-Vũng Tàu
thụ Lý, giải quyết là đúng thẩm quyền.
-Về xác định tư cách tham gia Tố tụng: thẩm phán đã xác định đúng tư cách của những
người tham gia tố tụng như nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
theo đúng quy định tại điều 68 BLTTDS.
- Về xác minh thu thập chứng cứ, giao nhận chứng cứ được thực hiện đúng quy định tại
điều 96,97 BLTTDS.
-Về trình tự thụ lý thẩm phán đã thực hiện đúng quy định tại điều 195 BLTTDS, thông báo
về việc thụ lý vụ án cho các đương sự,thông báo nộp tiền tạm ứng án phí và VKS theo
đúng quy định tại điều 196 BLTTDS; gửi các văn bản tố tụng theo đúng quy định tại điều
175, điều 177,178 BLTTDS.
- về thời hạn chuẩn bị xét xử: tòa án đã thực hiện đúng theo quy điều 203 BLTTDS.
Chủ tọa: nếu ai trình bày ý kiến gì thêm, thay mặt HĐXX, tôi tuyên bố kết thúc phần
tranh luận, chuyển phần nghị án.
Thư Ký: nói
TUYÊN ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết
quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về thủ tục tố tụng.
Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:
[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng: Nguyên đơn ông Vân bà Hạnh tranh chấp quyền sử dụng đất
với bị đơn ông Thuần bà Ly và đòi ông Dung bà Thúy trả lại tài sản là 10.000.000 đồng. Yêu cầu
Tòa án xét xử hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà Ủy ban nhân dân thành phố Vũng Tàu
đã cấp cho ông Thuần bà Ly. Đất tranh chấp tọa lạc tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng
Tàu và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nguyên đơn yêu cầu hủy do Ủy ban nhân dân thành
21
phố Vũng Tàu cấp. Căn cứ khoản 9 Điều 26; khoản 4 Điều 34; điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố
tụng dân sự; Khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính thì vụ án dân sự này thuộc thẩm quyền
giải quyết sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Ông Vân, bà Hạnh khởi kiện yêu cầu ông Thuần, bà Ly trả lại diện tích 28m2 và yêu cầu hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD110081 được UBND thành phố Vũng Tàu cấp ngày
10/4/2017 đứng tên bà Thân Khánh Ly, ông Lê Quang Thuần.
+Khởi kiện buộc ông Dung, bà Thủy trả lại cho ông Vân, bà Hạnh 10.000.000 đồng(Mười triệu
đồng).
Tại phiên tòa phía nguyên đơn ông Vân bà Hạnh rút một phần yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu
ông Dung, bà Thủy trả 10.000.000 đồng nữa, mà chỉ khởi kiện yêu cầu trả lại diện tích đất 26 m2
và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD110081 mà UBND thành phố Vũng
Tàu cấp ngày 10/4/2017 cho bà Thân Khánh Ly, ông Lê Quang Thuần.
Căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét thấy nguyên đơn ông Vân
bà Hạnh rút một phần yêu cầu khởi kiện là tự nguyện và phù hợp quy định của pháp luật nên chấp
nhận và đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện đã rút số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu
đồng).
[3] Xét nội dung khởi kiện của ông Vân, bà Hạnh yêu cầu Tòa án buộc bị đơn ông ông Thuần bà
Ly trả lại 26m2 đất và hủy giấy chứng nhận QSD đất.
Đất tranh chấp đo thực tế 26m2 có nguồn gốc: Năm 2003 ông Trần Thanh Dũng, bà Võ Thị Mai
Lan chuyển nhượng một phần đất có diện tích 28m2 của bà Đặng Thị Hoài Nhung và xây nhà
cấp 4 để ở. Đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngày 30/01/2004, ông Dũng bà Lan chuyển nhượng toàn bộ nhà đất cho vợ chồng ông Vân, bà
Hạnh.
Năm 2006 bà Nhung được UBND thành phố Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số AE 620726 ngày 14/5/2006 và đã chồng lấn lên diện tích ông Vân, bà Hạnh.
Năm 2010, vợ chồng ông Dung, bà Thúy nhận chuyển nhượng nhà đất của bà Nhung để ở và đã
được cấp giấy chứng nhận QSD nhà đất số BD 110081 ngày13/10/2010 tại thửa đất số 383
diện tích 77m2, tờ bản đồ số 11 chồng lấn lên diện tích 26m2 nhà đất của ông Vân, bà Hạnh.
Tháng 4/2017 ông Dung, bà Thủy đã chuyển nhượng và sang tên giấy tờ nhà đất cho ông Lê
Quang Thuần, bà Thân Khánh Ly. Ông Thuần, bà Ly đã được UBND thành phố Vũng Tàu cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD110081 ngày10/4/2017 tại thửa đất số 383 diện
tích 77m2, tờ bản đồ số 11 chồng lấn lên diệntích 26m2 nhà đất của ông Vân, bà Hạnh.
Tại phiên tòa đại diện ông Vân bà Hạnh và đại diện ông Thuần bà Ly thỏa thuận được với nhau
về giải quyết toàn bộ nội dung vụ án như sau:
22
+Ông Trần Kinh Vân và bà Lê Thanh Hạnh được quyền sử dụng diện tích đất 26m2 thuộc thửa
383 tờ bản đồ 11 tọa lạc tại phường 3, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
+Ông Lê Quang Thuần và bà Thân Khánh Ly được quyền sử dụng diện tích đất51,2m2 thuộc
thửa 383 tờ bản đồ 11 tọa lạc tại phường 3, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Theo sơ đồ vị trí khu đất do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố Vũng Tàu lập ngày
28/8/2017.
+Hủy giấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD110081 ngày10/4/2017 mà UBND
thành phố Vũng Tàu đã cấp cho bà Thân Khánh Ly và ông Lê Quang Thuần.
+Về chi phí định giá, đo vẽ, thẩm định: Căn cứ Điều 157, 165 Bộ luật tố tụng dân sự. Mỗi bên
chịu một nửa là 3.678.000 đồng : 2 = 1.839.000 đồng. Bên phía ông Vân bà Hạnh đã ứng ra nộp
trước, nay ông Thuần bà Ly có trách nhiệm trả lại cho ông Vân bà Hạnh là 1.839.000 đồng.
+Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 8 Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định án phí lệ phí Tòa án. Mỗi bên chịu một nửa:
Giá trị đất tranh chấp 26 m2 x 8.556.000 đồng/m2 = 222.456.000 đồng x 5% = 11.122.800 đồng :
2 = 5.561.400 đồng.
Căn cứ Điều 246 Bộ luật tố tụng dân sự , sự thỏa thuận của các đương là tự nguyện, không vi
phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Từ những phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của
ông Vân bà Hạnh. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 9 Điều 26; khoản 4 Điều 34; Điều 37; điểm c khoản 1 Điều39 và Điều 244, 246 Bộ
luật tố tụng dân sự; Khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính. Điều 12, khoản 5 Điều 166 luật đất
đai. Điều 472, 473,474, 481,482 Bộ luật dân sự. Khoản 8 Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày30/12/2016 quy định án phí lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Kinh Vân và bà Lê Thanh Hạnh.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Kinh Vân và bà Lê Thanh Hạnh về việc
buộc ông Nguyễn Thanh Dung, bà Nguyễn Thị Thu Thủy phải trả 10.000.000 đồng (Mười triệu
đồng) .
+ Ông Trần Kinh Vân và bà Lê Thanh Hạnh được quyền sử dụng diện tích đất26m2 thuộc thửa
383 tờ bản đồ 11 tọa lạc tại phường 3, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
23
+Ông Lê Quang Thuần và bà Thân Khánh Ly được quyền sử dụng diện tích đất 51,2m2 thuộc
thửa 383 tờ bản đồ 11 tọa lạc tại phường 3, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Theo sơ đồ vị trí thửa đất do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố Vũng Tàu lập ngày
28/8/2017. (Có sơ đồ kèm theo bản án)
+Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD110081 ngày 10/4/2017 mà Uỷ ban nhân dân
thành phố Vũng Tàu đã cấp cho bà Thân Khánh Ly và ông Lê Quang Thuần.
+Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
ông Lê Quang Thuần, bà Thân Khánh Ly và ông Trần Kinh Vân, bà Lê Thanh Hạnh theo quy
định của pháp luật.
(Theo sơ đồ vị trí, diện tích thửa đất do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố Vũng
Tàu lập ngày 28/8/2017).
+Ông Lê Quang Thuần và bà Thân Khánh Ly có nghĩa vụ giao lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BD110081 cấp ngày 10/4/2017 cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được cấp lại
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khác phù hợp với vị trí diện tích đất thực tế được quyền sử
dụng.
4.Về chi phí định giá, đo vẽ, thẩm định: 3.678.000 đồng.
Căn cứ Điều 157, 165 Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn mỗi bên chịu một nửa là
1.839.000 đồng.(Một triệu tám trăm ba mươi chín ngàn đồng).
Ông Vân bà Hạnh đã ứng ra nộp đủ trước 3.678.000 đồng (Ba triệu, sáu trăm bảy mươi tám ngàn
đồng). Ông Thuần bà Ly có trách nhiệm trả lại cho ông Vân bà Hạnh là 839.000 đồng.(Một triệu
tám trăm ba mươi chín ngàn đồng).
Căn cứ khoản 8 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định
án phí lệ phí Tòa án. Nguyên đơn, bị đơn mỗi bên chịu một nửa là 5.561.400 đồng (Năm triệu,
năm trăm sáu mốt ngàn, bốn trăm đồng).
+Ông Vân và bà Hạnh nộp 5.561.400 đồng, nhưng được trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp 3.875.000
đồng theo biên lai số 0002243 ngày 23/01/2017 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa-Vũng
Tàu. Ông Vân và bà Hạnh còn phải nộp 1.686.400 đồng (Một triệu, sáu trăm tám mươi sáu ngàn,
bốn trăm đồng).
+Ông Thuần và bà Ly phải nộp 5.561.400 đồng (Năm triệu, năm trăm sáu mốt ngàn, bốn trăm
đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án, có đơn yêu cầu thi hành nếu bên phải thi hành án chưa thanh
toán hết số tiền trên, thì còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ
luật dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành
24
án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định
tại các Điều 6, 7, 7a,7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo
quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
7. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu
Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân cấp cao xét xử theo trình tự phúc thẩm (đương sự vắng mặt kể từ
ngày nhận được bản án hoặc niêm yết).