You are on page 1of 61

GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 74

Bài 11:
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (Nguyễn Tuân)

TIẾT: Phân môn: Đọc hiểu văn bản Ngày học:


TÌM HIỂU CHUNG
1) Nhà văn Nguyễn Tuân
Con người
- Là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc: gắn bó với những giá trị văn
hóa cổ truyền của dân tộc.
- Là một người có ý thức cá nhân phát triển rất cao: ông viết văn trước hết để khẳng định
cá tính độc đáo của mình.
- Là một nghệ sĩ rất mực tài hoa, uyên bác: ngoài văn chương, ông còn am hiểu nhiều
ngành văn hóa nghệ thuật khác; do đó thường tìm hiểu và phản ánh đối tượng từ hệ
quy chiếu của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau.
- Là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình, đối với ông: nghề văn là
một nghề cao quý, đối lập với tính vụ lợi kiểu con buôn và đồng tiền phàm tục; nghệ
thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí “khổ hạnh”.
Sự nghiệp văn học
- Nguyễn Tuân là một trong những cây bút văn xuôi xuất sắc nhất; hơn nửa thế kỷ cầm
bút, ông đã có những đóng góp lớn đối với sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại.
- Nguyễn Tuân đã đem đến cho văn học hiện đại VN một phong cách nghệ thuật độc đáo.
Trước Cách mạng Sau Cách mạng
① ………………………………………..: huy động những hiểu biết về nhiều ngành văn hóa
nghệ thuật khác nhau để tiếp cận và phản ánh đối tượng → Tác phẩm của
Nguyễn Tuân bên cạnh giá trị văn học còn có giá trị văn hóa.
- Quan sát, khám phá, diễn tả thế giới từ phương diện …………………………………...
- Quan sát, khám phá, diễn tả con người từ phương diện ………………………………..
② Là một nghệ sĩ suốt đời đi tìm …………………….  Quan niệm về Cái Đẹp:
- Cái Đẹp là những hiện tượng gây ấn tượng mạnh, đập mạnh vào giác quan:
đẹp → tuyệt mỹ, tài → siêu phàm, dữ dội → khủng khiếp.
- Cái Đẹp có ở đâu?
Cái Đẹp chỉ có trong quá khứ, tài Cái Đẹp còn có ngay trong ……………….. (thiên nhiên
hoa nghệ sĩ chỉ có trong những đất nước, cuộc sống lao động & chiến đấu); tài hoa
con người siêu phàm xuất chúng. nghệ sĩ còn có ở …………………………………………..
(những người lao động bình thường giản dị nhưng
cần cù, thông minh, dũng cảm và rất mực tài hoa)
③ Là một cái "tôi" ham "xê dịch".
Để khuây khỏa cảm giác “thiếu Để thể hiện khao khát được ……………….. với đất nước
quê hương”. và cuộc đời.
④ Đưa thể loại ……………………. lên đến đỉnh cao nghệ thuật.
Hướng nội, thiên về diễn tả cái Pha chất bút ký, …………………., thiên về ghi chép hiện
"tôi" chủ quan tràn đầy cảm xúc. thực ………………………….. phong phú sinh động.
⑤ Làm phong phú cho ngôn ngữ văn học dân tộc.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 75

2) "Người lái đò Sông Đà"


- Là kết quả sau nhiều lần đến với vùng Tây Bắc rộng lớn xa xôi trong kháng chiến
chống Pháp; đặc biệt là chuyến đi thực tế gian khổ và hào hứng năm 1960.
- Chuyến đi ấy không chỉ để thỏa niềm khát khao “………………….”, mà còn tìm kiếm
“…………………………………………………………” ở tâm hồn của những con người lao động
và chiến đấu trên nền thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ thơ mộng.

Người lái đò Sông Đà


• Tập tùy bút “Sông Đà” (1960)
 2 hình tượng trung tâm:
• Thiên nhiên và con người ở
những vùng đất mới, trong giai
đoạn xây dựng cuộc sống mới.

- Là bản hùng ca và cũng là khúc


Tùy bút tình ca về thiên nhiên và con
- pha bút ký, kết cấu phóng túng; người Tây Bắc – ngời lên như
- không chỉ “hướng nội” để thể hiện
"chất vàng mười" của cuộc sống.
cảm xúc, suy tư, diễn tả thế giới - Là tác phẩm tiêu biểu cho phong
nội tâm của tác giả; cách nghệ thuật của NT sau CM, và
- mà còn “hướng ngoại” để phản
cũng là đỉnh cao ở thể loại tùy bút
ánh hiện thực cuộc sống. trong văn học VN hiện đại.

Sông Đà Người lái đò


Phần 1 [… người lái đò ấy đã nắm được cái Phẩm chất
Tính cách hung bạo
quy luật tất yếu của dòng nước sông Đà] trí dũng & tài hoa
Phần 2 (còn lại) Tính cách trữ tình
ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1) Hình tượng Sông Đà
Tính cách hung bạo (vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội)
- Trong diện mạo:
+ Ấn tượng đầu tiên về Sông Đà được gợi lên qua lời đề từ: Chúng thủy giai đông tẩu –
Đà giang độc bắc lưu.
• Bằng việc trích dẫn hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích, nhà văn Nguyễn Tuân đã
đặc tả dòng chảy độc nghịch của con sông: mọi dòng sông đều chảy về hướng
đông, một mình sông Đà ngạo nghễ chảy theo hướng bắc.
→ Sông Đà xuất hiện ngay từ những dòng đầu đã bộc lộ cá tính trái khoáy, khác thường.
• Sự khác biệt về dòng chảy thực tế giữa Sông Đà với bao dòng sông khác trên miền
Bắc đã là một phép đối lập tự thân, khách quan cho ngòi bút Nguyễn Tuân nương
vào đó mà thể hiện thủ pháp văn chương. Cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân dễ
khiến ta liên tưởng rằng: Nguyễn Tuân cũng giống như chính dòng Đà giang ấy,
không muốn, không chịu để văn mình phải lụy thói thường, mà sẵn sàng phiêu du
theo những hướng chảy chưa ai từng trải qua để mong tìm ra niềm vui lạ, được
"thay đổi thực đơn cho giác quan".
 Từ đó trở đi, những gì thuộc về Sông Đà đều dữ dội, nguy hiểm từ đá, cát đến nước, gió:

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 76

+ Sông Đà hung bạo nhất là ở những quãng hẹp. Ở đấy, vách đá hai bên bờ sông cao, dốc,
làm cho lòng sông thêm tối và lạnh. Cái hay là tác giả đã tả nó theo nhiều cách khác nhau:
• Có khi là lối miêu tả trực quan: "đá bờ sông, dựng vách thành", "chỉ lúc đúng ngọ mới
có mặt trời"
• Có khi là lối ví von: "Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu".
• Có khi là phép so sánh – liên tưởng, kết hợp với phép điệp đại từ phiếm chỉ (nào) để
tái hiện bằng ấn tượng, cảm giác: "đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình
như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà
thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện".
+ Sông Đà còn hung bạo hơn ở những ghềnh đá và hút nước. Ở đấy, cả âm thanh (tiếng
kêu của nước) và hình ảnh (hút xoáy tít đáy) đều gây ấn tượng mạnh cho người đọc.
• Nhà văn sử dụng một cách triệt để, dày đặc những so sánh – liên tưởng thú vị:
✓ "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc
nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy".
✓ Nước ở những cái hút khi thì "thở và kêu như cửa cống cái bị sặc", khi thì "ặc ặc lên
như vừa rót dầu sôi vào".
• Nét tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân thể hiện ở đoạn này thông qua khả năng huy
động vốn tri thức phong phú từ các lĩnh vực khác nhau để diễn tả đến tận cùng sự
nguy hiểm của con sông: khi thì từ cảm giác hồi hộp của một người đang lái ô tô sang
số ấn ga cho nhanh để vút qua, khi thì từ góc nhìn vừa mạo hiểm vừa lý thú của một
người quay phim đang cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút mà quay
ngược lên bằng thủ thuật contre-plongée để truyền cảm giác lạ cho khán giả.
- Trong tâm địa như "một thứ kẻ thù số một" của con người trên sông nước, bộc lộ qua
những thác nước và thạch trận.
+ Sông Đà hung hãn quanh năm gào rống và gầm thét: khi oán trách, khi van xin, lúc khiêu
khích, lúc chế nhạo; khi lại như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng.
+ Sông Đà còn hung ác bày sẵn những thạch trận, ngàn năm mai phục hết lòng sông, chỉ
chực chờ nuốt chửng những chiếc thuyền vô tình đi ngang qua. Trên thạch trận ấy,
những hòn đá xuất hiện như muôn vàn những con quỷ dữ mặt ngỗ ngược, nhăn nhúm,
méo mó, chúng được phân công và dàn bày thành "trùng vi thạch trận" với ba vòng vây.
• Ở vòng vây thứ nhất: thần sông mở ra năm cửa trận thì có đến bốn cửa tử, chỉ còn
một cửa sinh lại nằm lập lờ phía tả ngạn sông; và huy động hết sức mạnh của sóng
thác đánh vỗ mặt con thuyền. Luồng sóng hung tợn "như thể quân liều mạng vào sát
nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền", "có lúc chúng đội cả thuyền
lên", thậm chí còn nhằm vào người cầm lái mà "đánh đòn tỉa, đánh đòn âm".
• Ở vòng vây thứ hai: dòng sông thay đổi sơ đồ phục kích và cả chiến thuật (tăng cường
thêm nhiều cửa tử để đánh lừa, cửa sinh lại bố trí lệch về hữu ngạn).
• Ở vòng vây thứ ba: thạch trận ít cửa hơn nhưng hai bên đều là luồng chết, cửa sinh
lại nằm giữa lòng sông và có bọn đá hậu vệ canh giữ.
 Qua việc khắc họa hình ảnh Sông Đà hung bạo, nhà văn Nguyễn Tuân hiện lên như:
 Một phù thủy ngôn từ: liên tục sử dụng thủ pháp nhân hóa để con Sông Đà hiện lên như
một sinh thể sống động với tính cách riêng, nhờ đó, người đọc nhìn ra từng sắc diện
người trong những hình thù đá vô tri. Ngôn ngữ của điêu khắc, điện ảnh, quân sự được
vận dụng linh hoạt, hiệu quả để truyền hồn sống vào từng thớ đá.
 Một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của
gió thác xô sóng đá.
 Tất cả nhờ vào tài quan sát tinh tường, trí tưởng tượng, khả năng liên tưởng phong phú.
 Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, con Sông Đà hiện lên như một loài thủy quái khổng
lồ với sức mạnh vô biên, bạo liệt, hoang dại; đồng thời cũng nham hiểm, tàn nhẫn,
rất am hiểu tâm lý con người và sẵn sàng tiêu diệt con người.
 Vẻ đẹp hung bạo, dữ dội của Đà giang đã tạo nên một "địch thủ" tương xứng có khả
năng tôn vinh con người – ông lái đò. Nói cách khác, Sông Đà chính là phông nền, là
môi trường để con người bộc lộ phẩm chất và tầm vóc của mình.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 77

Tính cách trữ tình (vẻ đẹp thơ mộng huyền ảo)
- Trong dáng vẻ:
+ Nhìn từ trên cao, Sông Đà mang dáng hình của một người con gái kiều diễm: "Con Sông Đà
tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân".
• Câu văn giàu chất tạo hình, đã tạ o dá ng cho Sông Đà không chỉ bà ng lối so sánh - liên tưởng bá t
ngờ, kỳ thú "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình" mà cò n chính nhờ câu văn duõ i dà i nhịp
nhà ng như mọ t câu thơ văn xuôi.
• Bức tranh "áng tóc Sông Đà" được cả m nhạ n bằng mà u sá c (mà u trá ng củ a mây trời, mà u hò ng
phớt củ a hoa ban và mà u đỏ rực rỡ củ a hoa gạo) và đường nét của khó i nú i. Quả là một vẻ đẹp rất
riêng của vùng rừng núi Tây Bắc vào mùa xuân!
• Nhịp điệu câu văn biến đổi linh hoạt: ban đầu nhanh, về sau chạ m lạ i, ké o dà i ra, lan tỏ a trong không
gian đé n bá t tạ n. Ngườ i ta có cả m giá c từ trên thượ ng nguò n, Sông Đà chả y ngoà n ngoè o, dích dá c giữa
điẹ p trù ng nú i đá và rừng cây đạ i ngà n, nhưng cà ng vè xuôi Sông Đà cà ng êm ả , thả ng dò ng.
+ Nhìn từ trên cao, sắc nước Sông Đà biến đổi như muôn vẻ sắc diện con người: "Mùa xuân
dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông
Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái
màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về."
• Biện pháp so sánh và nhân hóa khié n cho Sông Đà trở nên gà n gũ i, sinh đọ ng hơn.
• Nhiè u những từ ngữ già u sức gợi hình, biẻ u cả m thể hiện một trường liên tưởng phong phú
(xanh ngọc bích, xanh màu xanh canh hến, lừ lừ chín đỏ, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ).
• Người đọc còn cả m nhạ n được mọ t sự cân bà ng âm – dương, lạ nh – nó ng về màu sắc trong bức
tranh này. Trong tié t xuân rực rỡ nhiè u sá c mà u, Sông Đà lạ i hiẹ n lên với mọ t mà u ngọ c bích êm
dịu hiè n hò a. Và o thu, người ta những tưởng Sông Đà sẽ phả ng phá t mọ t sá c nước ưu tư, nhưng
không, nó lạ i gá t lên cá i sá c "lừ lừ chín đỏ"; trong bức tranh thu củ a Nguyẽ n Tuân, chú ng ta không
bá t gạ p những né t mạ t buò n man má c thường thá y trong thơ văn kim cỏ vié t vè mù a thu, mà chỉ
thá y hiẹ n lên gương mạ t củ a "một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về". Qua đó không chỉ cho
thá y mọ t cả m quan văn hó a trong ngò i bú t NT mà cò n thẻ hiẹ n được cá i nhìn mới mẻ , đọ c đá o.
+ Nhìn sang hai bên bờ, Sông Đà như một xứ thần tiên, một miền huyền thoại hư ảo và đầy
chất thơ: "Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này
cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu
mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu
cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông
hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa."
+ Nhìn xuống mặt nước, Sông Đà hiện lên với vẻ đẹp kiêu sa, trù phú đầy gợi cảm:
✓ Mặt nước loang loáng ánh nắng được tác giả gọi là "cái miếng sáng lóe lên một màu nắng
tháng ba Đường thi ‘Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu’".
✓ Sông Đà còn là nơi hội tụ nhiều sản vật quý hiếm: "Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông
bụng trắng như bạc rơi thoi."
- Trong tâm hồn, Sông Đà là cố nhân của con người. Sông Đà đã trở thành người bạn thân thiết
của con người, gợi bao niềm thi hứng, được tác giả gọi bằng "cố nhân", "một người tình nhân
chưa quen biết".
 Bằng sự quan sát tỉ mỉ, kỹ lưỡng và mẫn cảm nhanh nhạy, thiên bẩm hiếm có của người nghệ sĩ,
Nguyễn Tuân đã khiến nước sông Đà từ một dòng chảy đơn thuần trở thành một bản tụng ca
những gì tinh túy, sâu lắng nhất trong nghệ thuật phối màu sắc của thiên nhiên, tạo nên áng văn
làm rung động lòng người.
Ý nghĩa hình tượng Sông Đà
- Làm nổi bật hình tượng người lái đò.
- Thể hiện tình yêu quê hương đất nước của tác giả: yêu thiên nhiên Tây Bắc, yêu dòng sông Đà
quê hương với vẻ đẹp vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng huyền ảo.
- Góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân:
+ Nguyễn Tuân hay hướng tới cái khác thường, cái phi thường để gây ấn tượng và cảm xúc
mãnh liệt, đẹp phải tới mức tuyệt mĩ, dữ dội phải tới mức khủng khiếp. Sông Đà là một dòng
sông độc lạ, cũng đẹp tuyệt mĩ và dữ dội khủng khiếp như thế.
+ Nhà văn đã vận dụng tri thức của nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau để tiếp cận và miêu tả đối
tượng Sông Đà: địa lý, lịch sử, quân sự, văn hóa, điện ảnh v.v…

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 78

2) Hình tượng người lái đò


Hình tượng người lái đò sông Đà nổi bật lên qua cuộc "giao tranh" với dòng sông nơi
bãi đá ngầm. Đây là cuộc chiến không cân sức: một bên là thần sông, thần đá với lực lượng
hùng hậu của sóng thác và đá; một bên là người lái đò với con thuyền vỏn vẹn sáu tay chèo.
Nhưng người lái đò sông Đà vẫn hiện lên ngời ngời với nhiều tư chất đáng quý.
Vẻ đẹp trí dũng
- Ở vòng vây thứ nhất:
+ Ông lái đò vẫn bình tĩnh giữ chắc mái chèo giúp con thuyền "khỏi bị hất lên khỏi sóng
trận địa phóng thẳng vào mình".
+ Ngay cả lúc trúng đòn hiểm, "mặt méo bệch" vì đau đớn, ông vẫn "cố nén vết thương",
tỉnh táo chỉ huy sáu cái mái chèo vượt qua thạch trận.
 Bằng ngòi bút miêu tả tinh tế, Nguyễn Tuân đã khắc họa hình ảnh một ông lái đò
dũng cảm, lý trí và gan góc, dẫu bị thương vẫn không chịu khuất phục, bằng mọi giá
vượt qua hoàn cảnh khắc nghiệt mà thiên nhiên đưa ra.
- Ở vòng vây thứ hai: ông lái đò chuyển từ thế phòng thủ sang thế tấn công.
+ Ông lái đò "nắm chắc binh pháp thần sông thần đá", "thuộc quy luật phục kích của lũ
đá" nên lập tức nhận ra cạm bẫy của bọn thủy quân nơi ải nước này.
+ Ông không né tránh mà đưa con thuyền cưỡi lên sóng thác như cưỡi hổ: "Nắm chặt
lấy cái bờm sóng… ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào
cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy".
+ Trên đường đi, người lái đò Sông Đà tả xung hữu đột như một chiến tướng dày dặn
kinh nghiệm trận mạc và có thừa lòng quả cảm: "Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa
thì ông tránh… đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến"… Cuối cùng,
ông đã đưa được con thuyền vượt qua cả một "tập đoàn cửa tử" khiến cho những bộ
mặt đá hung hăng, dữ tợn phải "xanh lè thất vọng".
 Đây là những câu văn sinh động, điêu luyện, đầy kiến thức của Nguyễn Tuân. Nhà
văn uyên bác đã vận dụng những tri thức của môn thể thao đua xe cùng những góc
quay đa dạng, lia ống kính táo bạo của nghệ thuật điện ảnh, nên áng văn nổi lên
những chuỗi hình ảnh kịch tính, sống động, thu hút!
- Ở vòng vây thứ ba: Ông đò không lúc nào tỏ ra bất ngờ trước những mưu mô hiểm ác
của chúng. Dưới bàn tay chèo lái điêu luyện của ông, con thuyền đã hóa thành con tuấn
mã hiểu ý chủ: khi thì khéo léo né tránh luồng sóng dữ, khi thì phóng thẳng vào cổng đá
có ba tầng cửa "cánh mở cánh khép". Con thuyền như bay trong không gian: "Vút, vút,
cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua
hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được"…
 Câu văn nhịp nhàng, gấp gáp, mau lẹ, như chính những động tác của ông lái đò. Ở
đây, ông lái đò một cách quyết đoán và bản lĩnh, đã sử dụng chiến thuật đánh áp đảo,
đánh nhanh thắng nhanh!
 Phép so sánh chiếc thuyền với mũi tên tre vừa độc đáo, nghệ thuật nhưng cũng rất
thực tế. Tại sao phải là mũi tên làm bằng tre mà không phải là các chất liệu khác? Xét
về mặt vật lí, tre vốn nhẹ, nên khi phóng đi sẽ lao nhanh, lao vun vút. Từ tốc độ thực
tế ấy liên tưởng đến tốc độ con thuyền và khả năng phản ứng của ông lái đò, ta mới
thấy hết cái tài trí và quyết đoán của ông. Làm sao không say mê cho được những
đoạn văn như thế? Làm sao không khâm phục một tài năng văn chương nhường vậy?
Nguyễn Tuân quả là một nhà văn hiểu biết sâu sắc về cuộc sống, với ông, đã không
biết thì thôi, chứ cái gì đã biết là phải biết đến tường tận, đến tận cùng!
 Miêu tả ba lần "phá vây" này, NT đã tạo nên những "trường đoạn" hào hùng về
người lái đò trí dũng song toàn, "chiến đấu gian lao… trên chiến trường sông Đà"
như một tướng binh dũng mãnh chiến đấu bằng trí tuệ siêu phàm và lòng dũng
cảm tuyệt vời, quả thật là một anh hùng "cưỡi cơn gió mạnh, đạp đầu sóng dữ"!

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 79

Vẻ đẹp tài hoa


- Tài điều khiển đò, tài vượt thác đã tới mức thiện nghệ; nghề lái đò được đẩy lên đến
mức xuất chúng, siêu việt, như một thứ nghệ thuật: Ông lái đò hiểu rõ dòng sông, nắm
chắc binh pháp của thần sông thần đá, nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước
Sông Đà. Ông am hiểu tường tận về Sông Đà như thuộc lòng một bản trường ca – "nhớ
cả những dấu chấm câu và ngắt xuống dòng"!
- Phong thái ung dung bình dị sau cuộc chiến khốc liệt với thác đá sóng nước vừa qua:
Trước thác ghềnh hung bạo, ông lái đò dũng cảm, táo bạo, liều lĩnh, thế nhưng khi vượt
qua thì tất cả đều trở thành bình thường "sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ" (đây là
một chi tiết đắt giá vận dụng thủ pháp điện ảnh). Tác giả đã miêu tả phong thái ung
dung của những người lái đò khi họ "đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, và toàn
bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh… cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến
thắng vừa qua". Cuộc sống của họ thường nhật phải đối diện với thiên nhiên khốc liệt,
"ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay
những cái thác", cho nên với họ tất cả đều "không có gì là hồi hộp đáng nhớ".
 Có thể nói, khi bộ phim "cuộc chiến trên sông Đà", kết thúc, hình tượng nhân vật
ông lái đò lui vào sâu trong trí nhớ, lòng ta không khỏi nghĩ về Nguyễn Tuân với
niềm cảm mến. Quả vậy, chẳng thay đổi gì, niềm yêu thích của ông vẫn là Cái Đẹp,
là chất tài hoa nghệ sĩ. Với Nguyễn Tuân, ông lái đò cũng là một nghệ sĩ, vì sự
thuần thục điêu luyện của ông đã biến việc lái đò thành một nghệ thuật!
 Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Tuân quả thực thần diệu:
 Nghệ thuật đối lập được khai thác tối đa giữa thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội và con
người tuy nhỏ bé nhưng bất khuất, tài trí, dám và đã chinh phục được thiên nhiên,
nâng tầm vóc con người lừng lững, tuyệt đẹp, sánh tầm cùng vũ trụ.
 Nghệ thuật dùng từ điêu luyện vào loại bậc thầy:
 Những câu văn co duỗi nhịp nhàng như có khớp nối, đã làm nên hình hài sức vóc
đẹp đẽ, sống động, cho hình tượng ông lái đò!
 Những phép so sánh, nhân hoá vượt qua mọi thủ pháp thông thường.
Ý nghĩa của hình tượng người lái đò
- Thể hiện lòng yêu nước của tác giả: yêu mến, tự hào trước vẻ đẹp thông minh, dũng
cảm và rất mực tài hoa của con người Việt Nam.
Hình tượng nhân vật ông lái đò là một hình tượng nhân vật đặc sắc, vì không chỉ thể
hiện nét đẹp của một ông lái đò mà còn khái quát được vẻ đẹp của người lao động, tôn
vinh người lao động. Tại sao ông lái đò không tên? Bởi ông đã hoà vào những người lao
động khác trên Tây Bắc, cũng như trên đất nước hình chữ S này, những con người cần
cù, nhẫn nại, tài trí song toàn, những con người yêu lao động, ngày đêm xây dựng Tổ
quốc. Họ đúng là “chất vàng mười” quý giá của Tổ quốc!
- Thể hiện quan niệm mới của Nguyễn Tuân về chủ nghĩa anh hùng: anh hùng còn có ở
những con người bình dị vô danh, có trong cuộc sống lao động sản xuất hằng ngày (một
ông lão đã bảy mươi tuổi lại có những hành động phi thường, sau hàng trăm lần chở
hàng chiến thắng dòng sông "hung bạo" lập nên những kỳ tích, lại trở về với cuộc sống
đời thường mà không hề nghĩ mình đã có những hành động anh hùng). Ông lái đò là
hình tượng đẹp về người lao động mới.
- Góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân:
+ Nguyễn Tuân hay hướng tới cái khác thường, cái phi thường để gây ấn tượng và cảm
xúc mãnh liệt, tài phải tới mức siêu phàm. Với "Người lái đò Sông Đà", tài năng của
ông đò trong nghề sông nước đã đạt tới mức siêu phàm.
+ Nhà văn thường tìm hiểu, miêu tả vẻ đẹp của con người từ phương diện tài hoa nghệ
sĩ (khái niệm tài hoa nghệ sĩ hiểu theo nghĩa rộng: làm bất cứ nghề gì cũng đẩy tới
mức xuất chúng, siêu việt). Trong nghề lái đò, ông đò như nghệ sĩ của sông nước.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 80

TỔNG KẾT
1) Nội dung
Khi tái tạo những kỳ công của tạo hóa và những kỳ tích lao động của con người, tác giả đã thể
hiện lòng yêu nước say đắm, thiết tha:
- Ca ngợi vẻ đẹp vừa kỳ vĩ hào hùng, vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc.
- Tự hào trước những người lao động bình dị ở Tây Bắc trí dũng tuyệt vời và tài hoa rất mực
trong lao động và đấu tranh.
2) Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân qua tác phẩm
Phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác
- Nguyễn Tuân đã vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật khác nhau để tiếp cận
và miêu tả đối tượng (tri thức khoa học về địa lý, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật hội họa, điêu khắc,
điện ảnh để miêu tả sông Đà; tri thức về võ thuật, quân sự để miêu tả cuộc vượt thác của người
lái đò như một trận thủy chiến). Đã tả thì tả triệt để, tả đến "sơn cùng thủy tận", đúng là uống
rượu cả cấn (dĩ tận vi độ). Do vậy, tác phẩm của Nguyễn Tuân không những có giá trị văn học
mà còn có giá trị văn hóa.
- Nhà văn đã tìm hiểu, miêu tả vẻ đẹp con người từ phương diện tài hoa nghệ sĩ (hình tượng
người lái đò).
Cái "tôi" tác giả cũng có thêm nhiều nét đẹp mới
- Vẫn là một nghệ sĩ đi tìm Cái Đẹp, nhưng giờ đây Nguyễn Tuân phát hiện cái đẹp ngay trong
hiện thực đời thường chứ không chỉ là chút vang bóng cô đơn, lạc lõng của quá khứ.
- Cái "tôi" tác giả không ngạo nghễ, khinh bạc, chán chường như thuở trước mà "làm hòa với cuộc
đời" bằng tấm lòng thiết tha gắn bó cùng quê hương xứ sở và niềm trân trọng, nâng niu vẻ đẹp
của nhân dân, đất nước.
- Ngòi bút hướng tới cái khác thường, cái phi thường để gây ấn tượng và cảm xúc mãnh liệt: đẹp
phải tới mức tuyệt mỹ, dữ dội phải tới mức khủng khiếp (hình tượng sông Đà), tài phải tới mức
siêu phàm (hình tượng người lái đò).
Sở trường ở thể loại tùy bút
- Phong cách tài hoa, uyên bác, độc đáo của Nguyễn Tuân đưa tác giả tới thể tùy bút như một
điều tất nhiên. Vì ở thể tùy bút, tác giả có thể tự do, thoải mái bộc lộ hết cái tôi của mình.
Tùy bút pha bút ký, kết cấu phóng túng không chỉ “hướng ngoại” để phản ánh hiện thực cuộc
sống, ghi chép thành tích xây dựng, chiến đấu của nhân dân ta, mà còn "hướng nội" để thể hiện
đậm nét cái tôi của tác giả (đằng sau bức tranh về thiên nhiên và nhân dân Tây Bắc luôn hiện
diện một cái tôi nghệ sĩ tài hoa, giác quan tinh nhạy, trí tưởng tượng dồi dào).
- Trong tay Nguyễn Tuân, thể tùy bút đã lên ngôi, đã hội tụ được sức mạnh của nhiều loại bút
pháp, nhiều kiểu tư duy nghệ thuật và tính chất của nhiều thể loại: "Tư thế trữ tình của kiểu thi
nhân cổ điển phương Đông, truyền thống của các thể tản văn dân tộc, sắc thái lời nói miệng dân
gian, kiểu độc thoại và dòng ý thức của văn xuôi phương Tây đầu thế kỷ, thậm chí cả phong cách
tư liệu của văn xuôi hiện đại…" (Cuộc ra đi vĩnh viễn, Lại Nguyên Ân).
Làm phong phú thêm cho ngôn ngữ văn học dân tộc
+ Từ ngữ: Vốn ngôn ngữ giàu có, sắc sảo, tinh tế tung ra như để thi tài với Tạo hóa (áng tóc trữ
tình, mặt méo bệch, đám tảng đám hòn, nước ặc ặc lên, đòi ăn chết cái thuyền…).
+ Hình ảnh: Tác giả sáng tạo hình ảnh mới lạ, độc đáo (so sánh dòng sông như áng tóc trữ tình,
tiếng thác nước sông Đà như tiếng một ngàn con trâu mộng da bùng bùng cháy, đang lồng
lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa…).
 Một ngòi bút bình thường làm sao có nổi những phép so sánh vừa chính xác, tinh tế, lại vừa bất
ngờ, lạ lùng đến thế. Có cảm giác cái bậc văn nhân hằng biết sợ cái cảnh "mình bỗng chốc trở thành
người cùng đường bên dòng sông chữ quạnh trắng thê lương" ấy luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái
kho ấn tượng đầy ăm ắp để tìm cho bằng ra một cách nói có sức kinh động hồn trí con người.
+ Câu văn biến hóa linh hoạt, khi tầng tầng lớp lớp, khi ngắn gọn đột ngột. Lúc cần thiết, nhà
văn phá vỡ những quy tắc ngữ pháp thông thường để thể hiện cảm xúc, diễn đạt đối tượng.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 81

Bài tập 26- "Bút pháp đối lập trong Người lái đò Sông Đà" (Đoàn Minh Tâm)
hoang dã, kinh nghiệm, đáng sợ, ngọn lửa, cái tĩnh, hiểm nguy, cô độc, bạo nghiệt, hùng vĩ dữ dội,
bản lĩnh, tận thiện tận mỹ
[…] Bút pháp đối lập trong Người lái đò Sông Đà được Nguyễn Tuân thể hiện trước nhất
trong việc miêu tả thiên nhiên – cụ thể là con sông Đà, khách thể trữ tình. […] Qua ngòi bút
tài hoa và uyên bác của ông, dòng sông Đà hiện lên với vẻ đẹp trữ tình hiếm thấy […] đối
lập với vẻ đẹp …………………………………………… của chính dòng sông Đà.
[…] Tuy nhiên, bút pháp đối lập được Nguyễn Tuân thể hiện rõ nhất trong phần miêu
tả người lái đò vượt sông. Ở trong trường đoạn này, chúng ta bắt gặp hàng loạt sự đối lập.
Đó là sự đối lập giữa đối tượng miêu tả và thủ pháp miêu tả. Sự hung tợn, dữ dội của
nước được Nguyễn Tuân tái hiện qua sức mạnh của …………………. Trong đoạn ông miêu tả
ông lái đò vượt thác, Nguyễn Tuân đã hai lần sử dụng đến ánh lửa. "Tiếng nước thác nghe
như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.
Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng
tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy
bùng bùng" và "Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống
mà châm lửa vào đầu sóng".
Đó là sự đối lập giữa tĩnh và động trong việc miêu tả sự hung tợn của thiên nhiên. Nước
sông Đà trong trường đoạn ông lái đò vượt thác biến động khôn lường, bọt tung trắng xóa
như "muốn đội cả thuyền lên", cuồn cuộn chảy như "hùm beo đang hồng hộc tế mạnh".
Đối lập với cái động vô cùng của dòng nước là …………………. đến chết người của những
tảng đá. Đá đứng yên, lặng lẽ đến vô cùng nhưng đó là cái lặng lẽ ………………… Thạch trận
gồm ba lớp, mỗi lớp chỉ có một cửa sinh còn toàn là cửa tử. Va vào đá, hay xô vào con sóng
dữ ắt đều gặp một kết cục bi thảm. Dù động, dù tĩnh, con sông Đà vẫn luôn ẩn chứa những
…………………. đối với con người.
Đó là sự đối lập giữa một bên là thiên nhiên rộng lớn vô biên, vô định, vô cùng với một
bên là ông lái đò …………………. Sông Đà với hàng trăm thác nước, hàng trăm viên đá to nhỏ
khác nhau như một thạch trận trên sông đang chờ đợi ông lái đò với chiếc thuyền nan bé
nhỏ. Không có thuyền bạn trợ giúp, không có người chèo phụ, mình ông lái đò đối đầu với
thiên nhiên …………………. và …………………..
Đó còn là sự đối lập giữa sự hung dữ, bạo tàn của thiên nhiên và sự bình tĩnh, tự tin pha
chút hài hước của ông lái đò. Đối chọi với sông nước mênh mông hung dữ, với cảnh "mặt
nước hò la", "sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào
bụng và hông thuyền", với thạch trận trên sông gồm hàng trăm hòn đá to nhỏ khác nhau
lúc nào cũng muốn chực chờ ăn tươi nuốt sống con thuyền bé nhỏ là …………………. dày dặn,
sự bình tĩnh, tự tin đầy …………………. của ông lái đò. Ông am hiểu dòng nước, ông vật mình
với sóng dữ, chịu đau đưa thuyền uốn lượn qua những thác ghềnh nguy hiểm, vượt qua
trùng trùng thạch trận và nở nụ cười mãn nguyện khi nhìn thấy cái mặt của "thằng đá
tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh
trúng vào cửa sinh nó trấn lấy". Bằng những vũ khí đó, ông đã đưa con thuyền vượt qua
đoạn sông dữ để xuôi về bến an toàn.
Có thể nói bút pháp đối lập là thủ pháp được Nguyễn Tuân rất ưa chuộng. Chúng ta có
thể bắt gặp bút pháp này trong hầu hết các sáng tác của ông. Và Người lái đò Sông Đà là
một trong những tác phẩm mà bút pháp đó đã được Nguyễn Tuân đẩy lên đến mức
…………………..

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 82

Bài tập 27- Nhịp điệu câu văn trong Người lái đò Sông Đà (Bùi Việt Thắng)
Đọc Người lái đò Sông Đà một cách kỹ càng rồi ngẫm ngợi – từ góc nhìn văn hóa – sẽ
thấy cái nhã thú văn chương mà nhà văn neo vào lòng ta. Neo vào lòng ta cái đẹp cuộc
sống, cái đẹp thiên nhiên, cái đẹp con người. Đã đành. Nhưng những cái đẹp đó đi qua, lọc
qua, thẩm thấu, ánh lên qua ngôn từ. Không phải là tất cả, mà độc giả tinh hoa và giới phê
bình có con mắt xanh đều nhận ra "tính nhịp điệu" trong văn xuôi Nguyễn Tuân. (…)
"Trong văn xuôi, nhịp điệu của tổ chức lời văn được hình thành trên cơ sở sự phân tách
văn bản thành chương, hồi, đoạn. Câu văn dài, ngắn, khúc khuỷu được lặp lại cũng tạo nên
nhịp điệu cảm nhận đời sống" (Từ điển thuật ngữ văn học).
[…] "Đọc lại Sông Đà của Nguyễn Tuân, câu văn Nguyễn Tuân viết như đem vật từng
tảng đất trên trang giấy. Từng termes dans la phrase có cái chất uy nghi chung của hình
thức như cái đỉnh ba chân cao đặt trước sân rồng. Nói chung câu văn Nguyễn Tuân câu
nào cũng nặng, nhịp điệu nặng, vì thế nếu ý mà nhẹ, nhẹ tếch đi là chết. Câu văn của ông ta
cũng như khổ người của ông ta nặng nề, chậm một cách đủng đỉnh, bệ vệ và uy nghi, vì thế
khi cái nội dung bên trong khuyết đi ít nhiều, chỉ cần ít nhiều, là thứ văn Nguyễn Tuân bị
hẫng" (Nguyễn Minh Châu). (…) Nói văn Nguyễn Tuân có cái "nhịp điệu nặng" có thể vì câu
văn của ông thường tầng tầng lớp lớp, bề bộn chữ, nặng trĩu ý, đa tầng nghĩa. Có người nói
quá đi là nhà văn thích bày biện câu chữ. Có lẽ nói như Nguyễn Minh Châu thì đúng hơn,
mỗi khi viết nhà văn như một thợ đấu "vật từng tảng đất trên giấy".
[…] "Để có thể khách thể hóa được đối tượng và đóng đinh nó vào trí nhớ độc giả,
Nguyễn Tuân đã tung ra nhiều ‘độc chiêu’ ngôn ngữ tưởng chỉ mình ông mới có. Khi miêu
tả những con thác vô cùng ‘độc dữ, nham hiểm’ câu văn của ông mang nhịp điệu dồn dập,
kích thích. Nhưng khi ngợi ca ‘con Sông Đà gợi cảm’ câu văn lại thư duỗi hết sức êm ả nghe
như tiếng hát ngân nga" (Phan Huy Dũng). Như vậy, nhịp điệu văn xuôi Nguyễn Tuân trong
Người lái đò Sông Đà bao hàm cả "nhịp điệu nặng" (nhịp điệu dồn dập, kích thích) và "nhịp
điệu thư duỗi" (nhịp điệu êm ả, ngân nga).
[…] Nguyễn Tuân đã "trồng" những câu văn dài ngắn khác nhau. Bút pháp này cũng tạo
nên cái nhịp "khúc khuỷu" của văn xuôi Nguyễn Tuân. (…) Những câu văn ngắn chen giữa
những câu văn dài (trên 40 chữ, dài nhất 47 chữ) tạo ra cái nhịp như ngựa phi (có thể gọi
là "mã nhịp" chăng?), lúc nước kiệu, lúc nước đại. Khúc khuỷu và dồn dập. Văn Nguyễn
Tuân vì thế năng động, khẩn trương nhưng không ồn ào, vội vã. Một lối văn khi đọc lên hối
thúc tư duy.
Nhịp điệu thơ/văn chính là ánh phản "điệu tâm hồn" của nghệ sĩ ngôn từ. Nếu có thể
nói thì, Nguyễn Tuân không thuộc số người sống nhanh, nhưng cũng không thuộc số người
sống chậm. Điệu hồn nào thì sản sinh ra cấu trúc thơ/văn ấy. Nói Nguyễn Tuân không
thuộc số người sống nhanh là bởi (…) ngay cả trong bối cảnh khẩn trương sôi sục của thời
đại cách mạng, một ngày bằng hai mươi năm, mà ông vẫn ngắm nghía và nhẩn nha thưởng
thức. Nhưng cũng không thể nói là ông sống chậm được. Bởi lẽ ông là người nhạy cảm với
thời thế. (…) Một người chỉ thu lu trong nhà mình, nhấm nháp quá vãng làm sao có thể hít
thở không khí đời sống mới, làm sao có thể có một vốn từ vựng mới, cảm xúc mới, nhãn
quan mới mẻ để viết được Người lái đò Sông Đà? Và trong máu là một người thích "xê
dịch" thì làm sao mà nhà văn lại có thể án binh bất động được. Nguyễn Tuân là con người
đa nhân cách. Ông là một khối tưởng như mâu thuẫn nhưng thống nhất giữa "hướng ngoại"
và "hướng nội", giữa "kiêu hãnh" và "khiêm tốn", giữa "bảo thủ" và "đổi mới", giữa "an
nhiên" và "dấn thân".
Một điệu tâm hồn, như Nguyễn Tuân, luôn luôn yêu quý, nâng niu và trân trọng cái Đẹp.
Đôi khi vì thế người ta gọi ông là người duy mỹ (nghệ thuật vị nghệ thuật). Nhưng có lẽ
con đường đến với cái Đẹp của Nguyễn Tuân phản ánh đúng quy luật của những tài năng
nghệ thuật chân chính – sáng tạo ra cái Đẹp không phải như một phương tiện mà là như
một mục đích. Độc giả tinh anh nhận ra Nguyễn Tuân chính là người nghệ sĩ đích thực suốt
cuộc đời cầm bút mê mải đi tìm cái Đẹp và cái Thật bằng nghệ thuật ngôn từ.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 83

Bài tập 28- Đọc đoạn văn sau và trả lời những câu hỏi bên dưới:
Cái dáng đá hất hàm ấy trông nó xấc xược, hỗn hào, du côn một cách rất hiện đại. Nhưng
đọc cả đoạn văn, tôi vẫn cảm tưởng thấy tác giả Người lái đò Sông Đà cứ như muốn vừa
tìm sự hòa ứng vừa như muốn tranh đua với ca khúc thứ XVII của Odyssey bất hủ, đoạn tả
chiếc thuyền của Uy-li-xơ vượt qua khoảng cách giữa hai con quái thạch Karip và Xila. Hãy
nghe lại âm vang hào tráng của Homer từ bao nhiêu nghìn năm trước: "Chúng tôi… chèo
thuyền tiến thẳng vào eo biển hiểm nghèo một bên là Xila, một bên là Karip ùng ục ngốn
nước biển. Mỗi lần nó nhả nước ra, cả biển khơi đều chuyển động, sôi lên như nước trong
chảo đặt trên một bếp lửa hồng… Rồi khi nó lại nuốt nước mặn vào thì làm biển sùng sục
cuộn lên; vách đá xung quanh kêu réo ghê sợ, và đáy biển lộ ra với mặt cát đen thẫm…". Có
phải là ta đã gặp lại trong cái hung bạo của sông Đà hôm nay rất nhiều thần thái của cái
hung bạo của chốn eo biển nào rất xa xôi tận thời cổ đại?
Người ta bảo trong các nhà văn thật lớn thường vẫn còn một đứa trẻ thơ, và đứa trẻ ấy
giúp nhà văn giữ được cái nhìn cảm tính trong trẻo hồn nhiên mà người lớn vẫn để cằn cỗi
héo tàn đi trên đường đời khó nhọc. Trường hợp Người lái đò Sông Đà có lẽ cho phép ta
được nghĩ thêm: trong đôi mắt của nhà văn lớn hôm nay hình như vẫn lấp lánh tia mắt
không chỉ của tuổi thơ đời người mà còn của cả thời ấu thơ nhân loại. Và của cả những giai
đoạn vẫn cổ xưa nhưng có gần gũi chúng ta hơn. Đọc những dòng viết về thạch trận Đà
giang, tôi cứ cảm thấy nó phảng phất những trận đồ trường xà, bát quái, cũng có đủ cửa tử
cửa sinh trong truyện cũ. Rồi lại chợt nhớ ra Gia Cát Khổng Minh cũng đã có lần lấy đá làm
binh. Cứ thế, sự dữ dội của sông Đà được nhân mãi lên trong trùng trùng liên tưởng.
(Đỗ Kim Hồi)
1/ Hoàn thành bảng so sánh sau:
Sông Đà Eo biển Người lái đò Ulysses
Điểm
giống

Điểm
khác

2/ a- Anh/chị hiểu thế nào là “đứa trẻ thơ” bên trong “các nhà văn thật lớn”?
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
b- “Đứa trẻ thơ” bên trong Nguyễn Tuân được thể hiện như thế nào trong Người lái đò
Sông Đà?
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
3/ a- Tác giả liên tưởng thạch trận Đà giang với điều gì?
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
b- Vì sao ở cuối đoạn, tác giả lại nhắc đến Gia Cát Khổng Minh?
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 84

Bài 12:
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG (Hoàng Phủ Ngọc Tường)

TIẾT: Phân môn: Đọc hiểu văn bản Ngày học:


TÌM HIỂU CHUNG
1) Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Là một nhà văn chuyên về bút ký.
- Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và
tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức
phong phúc về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý,…
- Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.
2) Bài ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
- Trích từ tập bút ký cùng tên, viết tại Huế, vào tháng 1/1981.
+ Tập sách gồm 8 bài ký, viết ngay sau chiến thắng mùa xuân 1975 nên vẫn còn bừng
bừng khí thế chống giặc ngoại xâm và cảm hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng.
+ Nhưng ở Hoàng Phủ Ngọc Tường, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc thường gắn với
tình yêu sâu sắc đối với thiên nhiên đất nước và với truyền thống văn hóa, lịch sử
lâu đời của dân tộc mà ông đã bỏ công tìm tòi, tích lũy một cách say mê và tràn đầy
trân trọng, đồng thời cố gắng truyền đạt bằng một ngòi bút tài hoa với những lời văn
thật đẹp, thật sang.
- Bài ký thực chất thuộc thể tùy bút.
+ Đặc điểm của tùy bút là hết sức tự do, không tuân theo một quy phạm chặt chẽ nào.
Nhà văn Nguyễn Tuân gọi tùy bút là lối văn “độc tấu”, nghĩa là nhân vật trung tâm
của tùy bút chính là “cái tôi” của tác giả. Sự hấp dẫn của tùy bút, xét đến cùng là sự
hấp dẫn của “cái tôi” ấy.
+ Qua bài ký Ai đã đặt tên cho dòng sông?, ta thấy nổi lên hình tượng “cái tôi” Hoàng
Phủ Ngọc Tường – tài hoa, uyên bác, giàu tình cảm và trí tưởng tượng lãng mạn, say
mê cái đẹp của cảnh và người xứ Huế.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 85

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 86

ĐỌC HIỂU VĂN BẢN


Vẻ đẹp của dòng sông Hương, của xứ Huế
1) Sông Hương với vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên – gắn với thủy trình bốn chặng
Chặng 1: Ở nơi khởi nguồn
❖ Theo tác giả, nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành mà không chú ý tìm hiểu
sông Hương từ nguồn cội, người ta khó mà hiểu hết vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu
thẳm của dòng sông mà chính nó đã không muốn bộc lộ. Nói đến dòng sông độc đáo
này, người ta thường chỉ nghĩ đến vẻ đẹp dịu dàng thơ mộng. Nhưng tìm hiểu từ ngọn
nguồn, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn thấy được một phương diện khác. Sông Hương nhìn
từ cội nguồn là dòng chảy có mối quan hệ đặc biệt sâu sắc với dãy Trường Sơn.
- Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương được cảm nhận từ góc độ: âm nhạc và đặc tính con người.
+ Từ góc độ âm nhạc, sông Hương được ví như “một bản trường ca của rừng già”, đậm
chất sử thi, với nhiều tiết tấu đa dạng, đối lập:
• khi thì “rầm rộ” và “mãnh liệt” (“rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, “mãnh liệt qua
những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”);
• khi thì “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên
rừng”.
 Nghệ thuật sử dụng từ ngữ: Hình ảnh so sánh gợi hình, sinh động. Câu dài, nhiều
vế, liệt kê hàng loạt các động từ mạnh, tính từ cực tả như phơi bày những vẻ đẹp
phong phú, đặc sắc của dòng chảy. Tác giả đã huy động tất cả các giác quan của
người đọc để cảm nhận sông Hương một cách đa chiều, toàn diện: từ thanh âm
(“rầm rộ”), hình ảnh (“cuộn xoáy”), đến sắc màu (“dặm dài chói lọi màu đỏ”), ấn
tượng cảm giác (“mãnh liệt”, “say đắm”, “dịu dàng”) v.v…
+ Khi liên tưởng đến những đặc tính của con người, sông Hương hiện ra như một “cô
gái Di-gan” mang bản chất “phóng khoáng và man dại”, với “một bản lĩnh gan dạ, một
tâm hồn tự do và trong sáng”.
 Hình ảnh so sánh vô cùng đặc sắc, hình dáng cô gái Di-gan ấy đẹp kỳ ảo trong
những cuộn xoáy, những âm thanh, những sắc màu rực rỡ. Phải chăng đó cũng là
một phát hiện sâu sắc và bất ngờ về Huế: bên trong nét dịu dàng thơ mộng vẫn ẩn
chứa một sự hoang dại mãnh liệt đầy bất ngờ và bí ẩn!
- Khi ra khỏi rừng, chỉ trong một chớp mắt của trí tưởng tượng, sông Hương nhanh chóng
thay đổi hình hài, lại mang một vẻ đẹp khác, vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”, biến thành
“người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.
 Cụm từ “người mẹ phù sa” của một vùng văn hóa là một ẩn dụ đa nghĩa mà nhà văn
muốn nhân hóa vẻ đẹp dồi dào, phong phú của sông Hương. Dòng sông không chỉ
bồi đắp những dưỡng chất tốt tươi cho ruộng đồng, vườn tược mà còn hoài thai biết
bao giá trị thơ ca nhạc họa, nâng đỡ biết bao chiến công lịch sử cho con người vùng
châu thổ Thừa Thiên và thành phố Huế. Người mẹ phù sa mang tên Hương Giang ấy
từng là cô gái Di-gan giàu bản lĩnh, tự do, giờ đã trưởng thành, làm một người mẹ trẻ
trung tràn đầy sức sống.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 87

Chặng 2: Ở ngoại vi thành phố Huế


❖ Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô, sông Hương đã trải
qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng
mạn của tác giả, toàn bộ thủy trình của dòng sông tựa như “một cuộc tìm kiếm có ý thức”
người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu
cổ tích.
- Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoang dại, sông Hương là “người gái đẹp nằm ngủ mơ
màng”, nhưng ngay sau khi ra khỏi vùng núi, cũng như nàng tiên được đánh thức, sông
Hương bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân trong sự “chuyển
dòng liên tục”, rồi “vòng giữa khúc quanh đột ngột” uốn mình mềm mại qua nhiều địa
danh: giữa Ba Tuần, Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán rồi ôm lấy chân
đồi Thiên Mụ.
→ Trong những khúc quanh uốn lượn ấy, dòng sông thật mềm mại, duyên dáng với
những màu sắc dịu dàng, tươi trẻ. Phải chăng, sông Hương đang ngủ mơ màng ở cánh đồng
Châu Hóa đợi chờ thành phố tương lai, thành phố Huế đánh thức? Và cuộc gặp gỡ duy nhất
giữa sông Hương và thành phố ấy đẹp như một mối tình ấp ủ hàng ngàn năm vậy.
- Mỗi đoạn, mỗi khúc, sông Hương lại có vẻ đẹp riêng, vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, lần
lượt hiện lên trên trang giấy qua sự quan sát và sự gợi tả tinh tế của tác giả:
+ có lúc “mềm như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo;
+ có khi ánh lên “những mảng phản quang nhiều màu sắc” “sớm xanh, trưa vàng, chiều
tím” đầy biến ảo lúc qua những dãy đồi núi phía tây nam thành phố;
+ có lúc mang “vẻ đẹp trầm mặc” “như triết lý, như cổ thi” khi qua bao lăng tẩm, đền đài
mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông, cho đến khi
“gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung
du bát ngát tiếng gà” trong thanh bình, yên ả.
Chặng 3: Đến giữa thành phố Huế
- Bắt đầu vào thành phố, như đã tìm thấy chính mình khi gặp người tình mong đợi, sông
Hương “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng
sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc” để hòa với vẻ
đẹp của chiếc cầu trắng Tràng Tiền “nhỏ nhắn như những vành trăng non”.
 Hình ảnh so sánh rất ấn tượng, vừa đúng với màu sắc của những vòng cung nhịp cầu,
vừa hợp với ánh sáng bầu trời, vui tươi mà không ồn ào, bừng lên phía chân trời xa
nhưng không quá chói chang.
- Vậy là cuộc gặp gỡ giữa người con gái đẹp và người tình trông đợi nghìn năm đã trở
thành hiện thực. Vì vậy, nhà văn nhìn thấy “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ…
làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng ‘vâng’ không nói ra của tình yêu”.
 Hình ảnh so sánh quả là tinh tế, tài hoa, diễn tả được cái uốn mình mềm mại của dòng
Hương. Thực ra tình yêu có cách nói riêng, có tiếng “vâng”riêng của nó, biểu hiện sự
thuận tình mà không nói ra vì e lệ (chẳng hạn một cách chớp mắt, một cách cúi đầu
như thế nào đó). Qua cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương hiện rõ dáng
hình, tiếng nói và tâm hồn cô gái Huế tình tứ mà kín đáo.
- Chảy giữa lòng thành phố Huế, sông Hương tỏa thành nhiều nhánh như những cánh tay
ôm ấp các phố thị. Toàn bộ mặt sông “trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt
hồ yên tĩnh”. Sông Hương lúc này không còn cái phóng khoáng, man dại nữa mà trở nên
mềm mại, nhu mì và mang nét nhỏ nhẹ, ngoan hiền như cô gái kinh thành. Dòng Hương
lúc này không còn rầm rộ, mãnh liệt, cuộn xoáy như trước kia mà trở nên lững lờ đầy
tâm trạng. Sông Hương và những chi lưu tại những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ
đẹp cổ kính của cố đô, điệu chảy nhẹ nhàng của nó đẹp như điệu slow chậm rãi, sâu
lắng, trữ tình. Lưu tốc của dòng nước chợt giảm hẳn đi và cái điệu chảy lững lờ như
thương như nhớ cũng chính là một nét độc đáo, gợi thi tứ dạt dào của dòng Hương.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 88

Chặng 4: Khi từ biệt Huế


❖ Trong cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sông Hương là một người tình dịu dàng
và chung thủy. Điều này được tác giả diễn tả với một phát hiện thú vị: điệu chảy chậm
của sông Hương chứa đầy tình ý, đó chính là tâm tư của dòng sông sắp rời khỏi kinh
thành. Nếu ở thượng nguồn, dòng sông ấy ầm ào, cuộn xoáy để mong nhanh đến gặp
thành phố tương lai, gặp “người tình mong đợi” của mình, thì khi sắp rời khỏi kinh
thành này, sông Hương lại trôi lững lờ trong bao nỗi ưu tư, bao niềm vương vấn.
- Đầu tiên là cái ôm thật chặt đầy lưu luyến trước khi chia ly: “Rời khỏi kinh thành, sông
Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương
khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của
vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ”.
Nhưng đã quá nặng tình với Huế, đâu dễ dứt đi một cách dễ dàng, vậy nên “như sực nhớ
lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp
lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ
chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình”. Theo tác giả, “riêng với sông Hương, vốn
đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết
bao”. (…)
→ Lối nói so sánh và nhân hóa bàng bạc khắp câu văn, những vế câu ngắn, kết hợp cùng
từ ngữ chính xác, gợi hình, giúp người đọc hình dung được dòng chảy của con sông
(“sực nhớ”, “đột ngột”, “rẽ ngoặt”…).
- Trước sự tạo tác thú vị và hữu tình của tạo hóa, cuộc chia tay giữa dòng sông Hương
với Huế khiến cho tác giả cũng bất ngờ.
Chính Hoàng Phủ Ngọc Tường phải thốt lên: “có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất
giống con người ở đây”. Cũng theo tác giả, khúc quanh tựa như một “nỗi vấn vương” và
dường như còn có cả “một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. (…)
→ Phép đối “lạ với tự nhiên – giống con người”, cặp tính từ tưởng chừng đối lập nhưng
lại đặt cạnh nhau “lẳng lơ – kín đáo” cho thấy một nghịch lý trong tự nhiên, nhưng lại là
thuận lý trong tình yêu: như một cô gái đang yêu, Hương Giang cũng nặng tình, chung
thủy, chủ động, táo bạo, nhưng vẫn dịu dàng, thầm lặng như một nét nữ tính vốn có.
- Sông Hương trở thành cô gái đa tình nhưng kín đáo, có chút lẳng lơ nhưng rất đỗi chung tình.
“Và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm
Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả: ‘Còn non, còn nước, còn dài, còn về,
còn nhớ…’. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm
lòng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”.
→ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ví von cái phút dùng dằng trước khi về với biển cả ấy của
dòng Hương một cách đầy yêu thương và thấu hiểu! Câu hò dân gian được lồng vào lời
văn một cách khéo léo, nhịp nhàng. Cái “tình tự, chí tình, tấm lòng, chung tình” đó của
Hương Giang không chỉ còn của riêng một nàng Kiều, mà đã trở thành giá trị đạo lý
chung cho cả một vùng đất, một dân tộc! Đó chính là sức khái quát trong văn HPNT!
 Tác giả đã có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ, giữa sự trải nghiệm, cảm xúc
của bản thân và đối tượng miêu tả, nên khiến con sông Hương trở nên lung linh, biến
ảo, sinh động như đời sống và tâm hồn con người. Qua đó, tác giả đã bộc lộ tình yêu say
đắm của mình đối với dòng sông.
 Tình cảm ấy được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu trí tuệ, tổng hợp từ một
vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa, lịch sử, địa lý và văn chương, kết hợp với những liên
tưởng, tưởng tượng phong phú. Văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế, tài hoa. Các biện
pháp tu từ (nhân hóa, so sánh, ẩn dụ) được sử dụng đa dạng và phát huy triệt để hiệu
quả biểu đạt. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, thấm đẫm cảm xúc. Tất cả đã tạo nên áng văn đặc
sắc này.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 89

2) Sông Hương với vẻ đẹp từ chiều sâu văn hóa


- Từ góc độ thi ca:
+ Sông Hương “không bao giờ tự lặp lại mình” trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Qua sáng tác của
nhiều nhà thơ Việt Nam, sông Hương hiện lên đầy biến ảo: khi là “dòng sông trắng – lá cây
xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, lúc “như kiếm dựng trời xanh” tựa khí phách Cao Bá
Quát, lúc là “bóng chiều bảng lảng” trong nỗi quan hoài vạn cổ của Bà Huyện Thanh Quan, rồi
“bỗng đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn” trong thơ Tố Hữu và “sông Hương quả
thực là Kiều, rất Kiều”. (…)
+ Sông Hương nhiều vẻ đẹp, nhiều màu sắc nhưng sông Hương có một điểm chung – đó là sự
gợi cảm, gợi thi hứng, sông Hương hút hồn bao nghệ sĩ bởi đó là dòng sông của thi ca.
- Từ góc độ âm nhạc:
+ Tác giả mơ màng, đắm say với những gợn sóng chao nhẹ trên mặt nước trong những
đêm hoa đăng hội rằm tháng bảy trên sông Hương để rồi trong khoảnh khắc chùng
lại, ông ngỡ như sông Hương bỗng trở thành một “người tài nữ đánh đàn”. Ông nhớ
tới Nguyễn Du bao năm lênh đênh trên quãng sông này, viết ra những câu Kiều tuyệt
bút. Tác giả đã dẫn ra câu chuyện của một nghệ nhân già “chơi đàn hết nửa thế kỷ”
đã nhận ra trong những vần thơ Kiều (Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng
suối mới sa nửa vời) có âm hưởng của giai điệu bài “Tứ đại cảnh”. Sông Hương đã
đánh thức cảm hứng của Nguyễn Du và tấu lên những bản đàn đi suốt đời Kiều. Sông
Hương trong tưởng tượng, sáng tạo của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chuyển từ vẻ đẹp
của tình yêu sang vẻ đẹp của âm nhạc.
+ Nhà văn đã cho rằng: “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của
dòng sông này”. Đã mấy ai hiểu rằng, phải nghe ca Huế trên sông Hương vào lúc đêm khuya
mới cảm nhận được hết linh hồn của nó. Có lẽ vào những đêm khuya, trong không khí tĩnh
lặng có thể nghe được cả tiếng động rất nhẹ của nhịp chèo và những giọt nước rơi, những
nghệ nhân xưa, nhìn mặt nước sông Hương in bóng trăng thanh, đã cảm hứng soạn ra những
bản nhạc cổ điển và cả những điệu hò mái nhì, mái đẩy để gửi lòng mình với quê hương xứ sở.
Ca Huế là dòng âm nhạc riêng của sông Hương. Thêm lần nữa, ta thấy được cái nhìn tinh tế và
có chiều sâu văn hóa của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
- Từ góc độ đời sống:
+ Sông Hương càng mang chất Huế đến kỳ lạ khi nó khoác lên mình chiếc áo đậm màu sắc nơi
đây. Khi thấy hai bờ sông thấp thoáng bóng người phơi áo, một sắc áo cưới của Huế ngày xưa,
rất xưa: “màu áo điều lục của loại vải vân thưa màu xanh chàm lồng lên một màu đỏ ở bên trong,
tạo thành một màu tím ẩn hiện, thấp thoáng theo bóng người” tác giả đã cho rằng đấy là “màu
của sương khói trên sông Hương, giống như một tấm voan huyền ảo của tự nhiên”. Dòng sông
trở thành những cô gái, hay những cô gái bên sông đã tô điểm một sắc màu kỳ diệu ẩn giấu
khuôn mặt đời thường cho dòng sông duyên dáng, thủy chung?
+ Khi liên tưởng độc đáo màu sương khói huyền ảo trên dòng Hương với hình ảnh các cô dâu
trẻ trong sắc áo cuối màu điều lục vào những ngày thu đầy khói sương, có lẽ tác giả muốn kín
đáo gửi đến ta một ý nghĩa sâu sắc: từ một đường cong, một nét uốn lượn đến cái sắc tím
huyền ảo, sông Hương đều mang những dáng hình rất đặc trưng cho Huế. Nói khác đi, bản sắc
văn hóa nơi này đã ngấm vào dòng sông lúc nào không biết, trở thành một bảo tàng sống về
văn hóa cổ xưa của cố đô Huế.
 Trong cách thể hiện của tác giả, sông Hương được cảm nhận tinh tế với nhiều góc độ:
bằng con mắt của hội họa, qua cách cảm nhận âm nhạc và với cái nhìn đắm say của một
trái tim đa tình.
 Đoạn tả sông Hương trong quan hệ với lịch sử, cuộc đời và thi ca bộc lộ nét lịch lãm, tài
hoa trong lối hành văn của tác giả. Qua đó, tác giả cũng đã bộc lộ tình yêu say đắm của
mình với dòng sông. Tình cảm này được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu trí
tuệ, tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa, lịch sử, địa lý và văn chương.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 90

3) Sông Hương với vẻ đẹp trong bề dày lịch sử


- Trong mối quan hệ nghiêm trang với lịch sử, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những
thế kỷ vinh quang từ thuở còn là một dòng sông bảo vệ biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, lúc nó
mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng) trong sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi.
- Sông Hương là “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc
Đại Việt qua những thế kỷ trung đại”, “nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh
hùng Nguyễn Huệ” vào thế kỷ XVIII, “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỷ mười chín với máu của
những cuộc khởi nghĩa”. Dòng sông cũng đã chứng kiến thời đại mới với Cách mạng tháng Tám
năm 1945 và bao chiến công rung chuyển qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc sau này. (…)
- Như vậy, sông Hương xứng đáng được gọi là một thiên sử thi, trước hết vì đã từng kiên cường
chặn đứng nhiều đội quân xâm lược. Dòng sông đâu chỉ có vẻ đẹp mềm mại đầy nữ tính, mà còn
tiềm tàng trong chiều sâu lịch sử của nó một sức mạnh quật cường của dân tộc từ những ngày
mở nước hàng nghìn năm về trước.
 Nhất quán với cách nhìn sử thi, tác giả đã làm ngời lên những vinh quang chói lọi của sông Hương trong chiều
dài lịch sử. Sông Hương trở thành nhân chứng lịch sử và chính dòng sông cũng trở thành dòng sông lịch sử.
Bản thân Hương Giang cũng là một pho sử.
 Khi viết về chất sử thi của Hương Giang, ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đậm chất trữ tình: “Sông Hương
là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Thông thường, sử thi là
chiến công, là sự hào hùng hay đi với màu đỏ, nhưng sông Hương lại là “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biết”:
sử thi mà trữ tình, là bản hùng ca và cũng là bản tình ca dịu dàng tươi mát. Cách so sánh này rất phù hợp với
Huế, làm nổi bật lên nét độc đáo của Huế đẹp và thơ.
TỔNG KẾT
1) Nội dung: Tình yêu quê hương, đất nước của tác giả qua bài ký
- Bài ký ca ngợi dòng sông Hương và rộng hơn là vùng đất cố đô Huế:
+ Sông Hương gắn với thiên nhiên mang vẻ đẹp hùng vĩ và đặc biệt là vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng.
+ Sông Hương gắn với vẻ đẹp văn hóa Huế và tâm hồn Huế.
+ Sông Hương gắn với lịch sử vẻ vang của Huế.
- Bài ký thể hiện niềm yêu mến, tự hào của tác giả đối với xứ Huế và rộng hơn là tình yêu Tổ quốc.
Lòng yêu quê hương, đất nước của Hoàng Phủ Ngọc Tường có những nét biểu hiện đặc sắc:
+ Yêu thiên nhiên.
+ Tự hào trước truyền thống lịch sử, truyền thống văn hóa dân tộc.
+ Tự hào trước vẻ đẹp tâm hồn của con người quê hương xứ sở.
2) Nghệ thuật
Hình ảnh đầy sáng tạo
Những so sánh liên tưởng của Hoàng Phủ Ngọc Tường phong phú, đa dạng và cũng thật
đặc sắc, độc đáo, đặc biệt là những hình ảnh so sánh nhân hóa:
- Tác giả nhìn dòng sông như người thiếu nữ, có lúc như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man
dại, nhưng nói chung sông Hương được cảm nhận như một thiếu nữ Huế.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường đã liên tưởng sông Hương như thiếu nữ Huế với vẻ đẹp phong phú, đa dạng của tính
cách: tài hoa, dịu dàng mà sâu sắc; đa tình và kín đáo, lẳng lơ nhưng rất mực chung tình; khéo trang sức song
không lòe loẹt, phô phang, mà giống như cô gái Huế ngày xưa trong sắc áo diều lục…
Lời văn giàu chất thơ
- Ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường thiên về chất thi vị, ngọt ngào.
- Viết về sông Hương, về miệt vườn xứ Huế hầu như tác giả không nói đến thiên nhiên khắc nghiệt
mà chỉ tập trung thể hiện vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên và con người.
Những cảm xúc sâu lắng được tổng hợp từ một vốn hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử,
địa lý và văn chương cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa
Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 91

Bài 13:
VỢ CHỒNG A PHỦ (Tô Hoài)

TIẾT: Phân môn: Đọc hiểu văn bản Ngày học:


TÌM HIỂU CHUNG
1) Nhà văn Tô Hoài
- Vị trí:
Tô Hoài là một nhà văn lớn, có sức sáng tạo dồi dào, là một trong những cây bút văn
xuôi hàng đầu trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
- Phong cách sáng tác:
+ Sáng tác của Tô Hoài thiên về diễn tả những sự thật của đời thường. Theo ông: “Viết
văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường,
cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”.
+ Sáng tác của Tô Hoài thể hiện vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập
quán và sinh hoạt đời thường của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta.
+ Nghệ thuật văn xuôi của Tô Hoài có nhiều đặc sắc, nổi bật ở lối kể chuyện tự nhiên,
sinh động của người từng trải; cách miêu tả giàu chất tạo hình; ngôn ngữ phong phú
và đậm tính khẩu ngữ.
2) Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”
- Xuất xứ & đóng góp:
“Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn đặc sắc hơn cả trong ba tác phẩm của tập “Truyện Tây
Bắc” - một trong những áng văn xuôi tiêu biểu của văn học thời kỳ kháng chiến chống
thực dân Pháp.
- Hoàn cảnh sáng tác:
+ Tác phẩm là kết quả chuyến đi của tác giả cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, cùng
sống với đồng bào các dân tộc thiểu số trong suốt tám tháng năm 1952. Chuyến đi
đã giúp nhà văn thấu hiểu, gắn bó và yêu mến sâu sắc hơn thiên nhiên, cuộc sống,
con người Tây Bắc.
+ Sau này, chính tác giả kể lại: “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám
tháng ấy là đất nước và con người miền Tây Bắc đã để thương, để nhớ cho tôi nhiều
quá, tôi không thể bao giờ quên” (“Một số kinh nghiệm viết văn của tôi”). Trước và sau
khi sáng tác “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã và vẫn giữ một tình cảm sâu nặng với đồng
bào miền núi. Chính vì vậy, truyện ngắn này còn là kết quả của một quá trình chuyển
biến đến độ chín muồi của tư tưởng nhà văn.
- Chủ đề:
Truyện ngắn phản ánh chân thực và đầy xúc động cuộc sống bị áp bức và quá trình vùng
lên đấu tranh của nhân dân nơi đây thông qua số phận của những con người tiêu biểu
như Mị và A Phủ.
- Tóm tắt:
Đoạn trích kể về cuộc đời của Mị và A Phủ. Mị là cô gái trẻ đẹp, hiếu thảo vì món nợ của
bố mẹ mà cô trở thành con dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra. Mị sống kiếp nô lệ hết
năm này qua năm khác cho đến khi gặp A Phủ - một chàng trai nghèo mồ côi, dũng cảm,
lao động giỏi, do đánh con quan nên phải ở đợ không công cho nhà thống lí. Vì để hổ ăn
mất con bò nên A Phủ bị trói đứng vào cột suốt mấy đêm liền. Cảm thương cho A Phủ,
Mị đã cởi trói cho anh và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 92

ĐỌC HIỂU VĂN BẢN


1) NHÂN VẬT MỊ
Trong nhân vật Mị có hai mặt tưởng chừng như đối lập nhau nhưng thực ra lại thống
nhất với nhau trong một tính cách:
- Mặt thứ nhất là bị chà đạp, áp bức nặng nề, Mị buồn rầu, chán nản, có phần cam chịu,
mất cả sức sống.
- Mặt thứ hai là ngay trong tình trạng bi đát đó, ở Mị vẫn tiềm tàng một sức sống để từng
bước vươn lên và cuối cùng “tháo cũi sổ lồng”, tìm được lẽ sống, làm chủ cuộc đời mình.
Mị là hiện thân cho những đau khổ của người phụ nữ miền núi trước Cách
mạng: bị chà đạp về cả thể chất lẫn tinh thần
- Về thể chất, Mị bị bóc lột sức lao động và bị đánh đập tàn nhẫn.
+ Làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, Mị làm việc quần quật không kể ngày đêm, khổ
hơn cả con trâu, con ngựa: “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng
gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”.
+ Ngày Tết Mị không được đi chơi, còn bị A Sử trói đứng trong buồng tối. Mị chỉ được cởi
trói khi phải hầu hạ A Sử. Mệt quá, Mị “gục đầu nằm thiếp đi”, liền bị A Sử đạp vào mặt.
- Về tinh thần, cuộc sống của Mị như trong ngục tù.
+ Căn buồng Mị ở âm u, ngột ngạt như một buồng giam. Mị mất ý niệm về thời gian,
không gian, không biết bên ngoài là sương hay nắng, là sáng hay chiều, mùa nào con
chim nào bay qua.
+ Mị bị trình ma, bị “cái ma” vô hình cột chặt cuộc đời nô lệ với nhà thống lí. Có lúc Mị
định ăn lá ngón để chết nhưng vì thương cha, sợ cha lại bị phạt nợ nên Mị không nỡ
chết. Vả lại Mị có trốn vào cõi chết cũng vẫn bị “cái ma” nhà thống lí bắt tội. “Cái ma”
làm Mị tê liệt về tinh thần.
 Cuộc sống của Mị: Mị sống mà như chết. Lúc nào Mị cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
Mị sống vật vờ như cái bóng, lâu dần “quen khổ”, Mị tưởng mình cũng là con trâu, con
ngựa nhà thống lí. Câu tục ngữ “Đau nhất là khi không còn biết đau” thật đúng với
trường hợp của Mị. Có lúc người phụ nữ này trở nên cam chịu, suốt ngày không nói, cứ
“lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
Mị là hiện thân của sức sống tiềm tàng và sức mạnh vùng lên giải phóng
Cái phần cam chịu trong con người Mị là do tình thế bắt buộc, không phải là bản chất.
Ở Mị luôn tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt, ngay cả trong hoàn cảnh con người tưởng chừng
chỉ biết buông tay phó mặc cho số phận. Sức sống tiềm tàng là sức sống tiềm ẩn bên trong,
không bộc lộ ra bên ngoài nhưng hết sức mãnh liệt. Sức sống ấy được thể hiện qua nhiều
chi tiết nghệ thuật đặc sắc, qua đó thể hiện tài năng phân tích tâm lý nhân vật của tác giả.
b1/ Sức sống tiềm tàng của Mị thể hiện tập trung trong đêm tình mùa xuân.
❖ Yếu tố ngoại cảnh tác động:
- Mùa xuân về trên núi cao với bao điều đẹp tươi, rộn rã; con người dù khổ nghèo cơ cực
đến mấy vẫn lại theo quy luật của tự nhiên mà rủ nhau đi chơi trong niềm vui sống có
phần hoang dã và tự do vốn có người Mông: “Gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng”, “những
chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ” và “đám trẻ đợi
Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”.
- Ngoài đầu núi đã có tiếng sáo rủ bạn đi chơi như chạm vào bao nỗi niềm của Mị. Tiếng
sáo được miêu tả bằng những từ láy, đi từ xa đến gần: đầu tiên là “ngoài đầu núi lấp ló”,
sau đó “văng vẳng… đầu làng”, rồi “lửng lơ bay ngoài đường”, và cuối cùng là “rập rờn”
“trong đầu Mị”.
 Tất cả đã hóa thành những lực tác động âm thầm thôi thúc nội tâm, khiến Mị có hàng
loạt những hành động khác thường:
Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 93

(1) Đầu tiên, khi nghe tiếng sáo vọng lại, Mị bừng tỉnh, thoát khỏi trạng thái vô cảm bấy
lâu nay: cô đã cảm nhận tiếng sáo bằng tâm trạng “thiết tha bổi hổi”, Mị “nhẩm thầm
bài hát của người đang thổi”. Ca từ của tiếng sáo rất giản dị, mộc mạc nhưng hàm chứa
cái lẽ sống phóng khoáng, tự do vốn có của người Mông. Lẽ phải đơn sơ ấy, qua tiếng
sáo, đã vọng vào tâm hồn cô gái có một thời từng thổi sáo rất hay. Tiếng sáo gọi bạn
đã đánh thức tâm hồn đã ngủ vùi từ lâu của Mị, đưa Mị từ cõi quên về cõi nhớ.
(2) Sau đó, Mị lén lấy rượu uống với một trạng thái rất lạ: “cứ uống ực từng bát”. Mị uống
như nuốt hận vào lòng, như đang uống đắng cay của cái phần đời đã qua, uống cái
khao khát của phần đời chưa tới. Rượu làm cơ thể và đầu óc Mị say, nhưng tâm hồn
cô thì từ phút ấy, đã tỉnh lại sau bao tháng ngày câm nín, mụ mị vì sự đày đọa.
(3) Từ lúc ấy, lòng Mị sống về những ngày trước, ngày còn tự do, khi mùa xuân về là Mị
thổi sáo và “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Sức sống
trong Mị bắt đầu hồi sinh: “Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên
vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị nhận thức được mình vẫn còn là con
người; mà đã là con người thì phải có quyền sống như một con người: “Mị trẻ lắm. Mị
vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”, và cần có hạnh phúc thực sự: “Bao nhiêu người có chồng
cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với
nhau.”
(4) Đột nhiên, cô nghĩ đến cái chết: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho
chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Nghịch lý
trên cho thấy: khi niềm khao khát sống trào dâng, tự nó đã trở thành một mãnh lực
không ngờ, xung đột gay gắt, quyết một mất một còn với cái trạng thái vô nghĩa lý của
thực tại. Mị nhận ra cuộc sống của mình vô cùng lầm than, tủi cực nên định tìm đến
cái chết để giải thoát khỏi kiếp đời trâu ngựa. Không nên nghĩ rằng tìm đến cái chết là
ở Mị đã cạn nguồn sinh lực sống. Mị muốn giải thoát cuộc đời bằng cái chết, tất nhiên
là một hướng sai, nhưng điều đó cũng đã thể hiện Mị không cam chịu, không chấp
nhận cuộc sống nô lệ trong hiện tại.
(5) Ngay lúc đó, tiếng sáo lại nổi lên với những giai điệu quen thuộc. Tiếng sáo trở thành
tiếng gọi của cuộc sống, kéo Mị từ cõi chết về cõi sống. Lòng yêu đời, yêu sống, khao
khát tự do và hạnh phúc lại trỗi dậy trong Mị mạnh mẽ hơn trước. Do đó, Mị đã hành
động nhanh chóng và dứt khoát: Mị “lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn
cho sáng”. Chi tiết ngọn đèn bừng sáng trong căn phòng tối của Mị vừa tả thực, vừa
mang ý nghĩa biểu trưng sâu sắc: Ánh sáng bừng lên từ ngọn đèn, hay từ tâm hồn Mị,
hay từ ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài?
Tiếp đó Mị “quấn lại tóc… với tay lấy cái váy hoa… rút thêm cái áo”. Mị muốn đi chơi,
Mị cũng sắp đi chơi. Mị thôi không là con rùa lầm lũi nơi xó cửa, Mị muốn là con chim
tung cánh giữa bầu trời cất tiếng hót chào đón mùa xuân.
→ Kết quả là: Khi A Sử thấy Mị chuẩn bị đi chơi, hắn thẳng tay trói Mị một cách thô bạo.
(6) Lúc đầu, “Mị đứng im lặng” không hề phản ứng, vì Mị vẫn còn đang sống trong cõi mơ,
cõi ảo: “hơi rượu còn nồng nàn”, “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc
chơi”. Bị trói chặt vào cột không cựa mình được, thậm chí không cúi, không nghiêng
đầu được, nhựa sống trong Mị chỉ càng dồn tụ thêm.
(7) Nhưng rồi khi “vùng bước đi” mà “tay chân đau không cựa được”, Mị bừng tỉnh, từ cõi
ảo trở về với cõi thực: “không nghe tiếng sáo nữa”, chỉ có thứ âm thanh buồn chán
quen thuộc hằng ngày – “tiếng chân ngựa đạp vào vách”. Và rồi Mị khóc cho thân phận
đắng cay của mình: “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.
 Dù vậy, có thể thấy A Sử trói được thể xác nhưng không trói được tâm hồn Mị. A Sử
giam Mị giữa ngày xuân nhưng không giam được sức xuân trong Mị. Ngọn lửa Mị thắp
lên đã bị A Sử dập tắt, cuộc trỗi dậy ấy đã bị đứt đoạn trong đau đớn nhưng ngọn lửa
của sức sống tiềm tàng sẽ bừng lên mãnh liệt hơn ở tương lai (là tiền đề cho đêm đông
cởi trói và trốn theo A Phủ).

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 94

 Qua việc miêu tả diễn biến tâm lý và hành động của Mị, nhà văn đã bộc lộ sở trường
phân tích tâm lý nhân vật của mình:
+ Sự hồi sinh của tâm hồn nhân vật được miêu tả tinh tế, phù hợp với tính cách của
người con gái ấy.
+ Ngòi bút tác giả đã lách sâu vào những bí mật của đời sống nội tâm, phát hiện nét
đẹp và nét riêng của tính cách.
+ Nhà văn sử dụng khá nhiều những yếu tố bên ngoài tác động vào nhân vật, được
miêu tả rất tự nhiên (khung cảnh mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình, bữa rượu cúng
ma đón năm mới) → Tất cả đã hóa thành những lực tác động âm thầm đánh thức nỗi
căm ghét bất công tàn bạo và ý thức phản kháng cường quyền, đánh thức cả niềm
khao khát cuộc sống tự do, hoang dã, hồn nhiên vẫn được bảo lưu đâu đó trong dòng
máu truyền lại từ lối sống của tổ tiên du mục xa xưa, làm sống dậy cái sức sống ẩn
tàng trong cơ thể trẻ trung và tâm hồn vốn ham sống của Mị.
b2/ Sức mạnh vùng lên giải phóng thể hiện trong đêm lạnh mùa đông
 Sau cái đêm mùa xuân mà tâm hồn Mị nổi loạn rồi bị áp bức nặng nề, Mị trở lại cam chịu,
sống trong trạng thái vô cảm. Nhưng với sức sống tiềm tàng, một khi từng được hồi
sinh thì không thể bị dập tắt, mà nó tất yếu chuyển hóa thành hành động phản kháng
táo bạo. Mị trở thành người phụ nữ biết vươn lên đấu tranh để giải phóng.
❖ Yếu tố ngoại cảnh tác động:
- Đó là vào một đêm trong chuỗi dài hằng đêm Mị thổi lửa hơ tay để xua đi cái lạnh của
“những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn”.
- Mỗi đêm, khi nghe tiếng thổi lửa, A Phủ (đang bị đứng trói) lại mở mắt trừng trừng.
(1) Ban đầu thấy A Phủ bị trói, Mị lạnh lùng vô cảm khi “vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay”,
và nghĩ “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”, “chỉ biết chỉ còn ở với ngọn
lửa”. Vì cô đã quá quen với cảnh này trong nhà thống lí, đã tê dại về tâm hồn. Khi sống
quá nhiều trong đau khổ, người ta không cảm thấy nỗi khổ của chính mình và cũng
không cảm thấy nỗi khổ của người khác.
(2) Nhưng đến một đêm, khi “lé mắt trông sang”, thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò
xuống hai hõm má đã xám đen lại”, Mị hoàn toàn thay đổi. Những giọt nước mắt của A
Phủ như giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước, đưa Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ.
Tình cảnh của A Phủ lúc ấy khiến Mị nhớ đến tình cảnh của chính mình trong đêm
năm trước bị A Sử trói: “Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy
xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”. Mị đã nhận ra sự đồng cảnh giữa cô và
A Phủ.
(3) Từ đồng cảnh, Mị bắt đầu đồng cảm với A Phủ: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người
kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”; và từ đó căm phẫn tội ác của cha con
thống lý: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết… Chúng nó thật độc ác”. Lòng tự
thương đưa con người tới một tình cảm lớn lao là lòng thương người cùng cảnh ngộ.
(4) Rồi sau đó, Mị nhận thấy sự khác biệt giữa mình và A Phủ: cô nghĩ đến thân mình “là
thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở
đây thôi”, còn đối với A Phủ thì đây quả là sự vô lý, Mị “phảng phất nghĩ” “Người kia
việc gì mà phải chết thế”.
(5) Cuối cùng, trong dòng suy nghĩ miên man về đời mình, Mị bắt đầu tưởng tượng cảnh
nếu A Phủ trốn được, người ta nghĩ là do Mị đã cởi trói, Mị sẽ phải bị trói thay và chết
ở đấy. “Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ”, Mị đã chiến thắng
sự sợ hãi, sẵn sàng chết thay cho A Phủ.
→ Kết quả là: Mị đã có hành động cắt nút dây trói nhanh chóng và dứt khoát.
(6) Đến lúc gỡ được hết dây trói thì Mị cũng hốt hoảng, chỉ thì thào được một tiếng “Đi
ngay…” rồi nghẹn lại. “Mị đứng lặng trong bóng tối”.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 95

(7) Nhưng rồi chỉ sau vài phút giây ngắn ngủi, Mị đã “vụt chạy ra” trốn thoát cùng A Phủ.
Thương người, Mị đã cứu người. Nhưng khi sự thương người đã được giải quyết, khi
người đã được giải thoát thì sự thương mình tất yếu sẽ quay trở lại. Thương mình, Mị
lại sợ chết – một biểu hiện của lòng khao khát sống, cho nên, Mị đã tự cứu mình. Vả
lại, đã cứu được người thì tại sao lại không cứu được chính mình? Vì vậy, như một sự
tất yếu, Mị đã chạy theo A Phủ. Trong những ngày làm dâu gạt nợ ở nhà thống lí, Mị
câm lặng, luôn cúi mặt buồn rười rượi. Lần đầu tiên Mị cất lên tiếng nói thì đó là tiếng
nói của khát vọng giải phóng: “A Phủ cho tôi đi”, “Ở đây thì chết mất”.
 A Phủ bị trói đứng suốt mấy ngày đêm là hiện hình cái chết của Mị trong tương lai. Mị
cởi trói cho A Phủ cũng chính là tự cởi trói cho cuộc đời mình. Khi cắt dây trói cứu A
Phủ, cũng là lúc Mị đã cắt đứt sợi dây vô hình của cường quyền và thần quyền đã trói
buộc đời Mị, A Phủ trong vòng nô lệ suốt bao năm qua. Hành động đó là kết quả tất yếu
của sức sống tiềm tàng trước đó đã trỗi dậy ở Mị (trong đêm tình mùa xuân); ngọn lửa
đã bùng lên sau bao ngày âm ỉ dưới lớp tro tàn; ngọn lửa ấy đã chiếu sáng, sưởi ấm cả
cuộc đời Mị và cuộc đời A Phủ.
 Trốn khỏi Hồng Ngài là một bước ngoặt trong cuộc đời Mị và A Phủ. Họ đã tới Phiềng
Sa, trở thành vợ chồng, thành đồng đội của nhau.
+ Về mặt tâm lý, một khi sự sống đã hồi sinh, họ sẽ cầm súng bảo vệ sự sống đó. Mị và
A Phủ đã “đi từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”.
+ Về mặt lịch sử - xã hội, họ được giác ngộ cách mạng, tham gia đội du kích đánh Pháp.
Từ thân phận nô lệ, họ thể hiện tinh thần phản kháng quyết liệt với kẻ ác, khởi đầu
từ tự phát dần đến quá trình tự giác đi theo cách mạng, để rồi trở thành chủ nhân
của cuộc đời mới.
 Khi miêu tả sức mạnh vùng lên phản kháng của Mị, nhà văn đã đi sâu khắc họa đời sống
tâm lí nhân vật với những trang viết đầy xúc động và tài hoa:
+ Ngôn ngữ đầy chất thơ, lời văn giàu chất tạo hình, đặc biệt là ngòi bút đã soi rọi được
vào những chuyển biến dù nhỏ nhất trong nội tâm cũng như hành động nhân vật.
+ Qua đó, tác giả đã phác họa thành công bức chân dung của một người phụ nữ: có tâm
hồn trong sáng, yêu đời, khao khát hạnh phúc, sức sống mãnh liệt, dẫu bị chà đạp
nhưng đã vùng dậy tự giải thoát và mở ra hướng giải thoát cho bao người khác.
 Hình tượng Mị trở thành điển hình cho những đau khổ và sức sống tiềm tàng, sức mạnh
vùng lên giải phóng của người phụ nữ miền núi trước Cách mạng; đồng thời, là một
thành công xuất sắc của Tô Hoài trong nghệ thuật xây dựng nhân vật.
 Có người cho rằng, so với chị Dậu trong “Tắt đèn” thì sức sống tiềm tàng ở Mị không
mạnh mẽ bằng. Tuy nhiên, sức sống ở chị Dậu là sức sống tiềm ẩn không có điều kiện
phát huy, còn sức sống ở Mị thì đã đơm hoa kết trái trong cuộc đời mới. Chị Dậu cũng
như Mị đều vùng dậy thoát khỏi cái địa ngục trần gian trong một đêm tối trời tối đất.
Tuy nhiên, với chị Dậu thì “trời tối đen như mực, tối như cái tiền đồ của chị”. Còn con
đường phía trước của Mị là ánh sáng của hạnh phúc, tương lai. Có được điều này là do
khi viết “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã được chiếu rọi bởi ánh sáng của cách mạng.
2) NHÂN VẬT A PHỦ
A Phủ là hiện thân đau khổ của một nông nô miền núi
- Đau khổ về thể chất:
+ A Phủ vốn là một chàng trai khỏe mạnh, giỏi trồng trọt, săn bắn (chạy nhanh như
ngựa, biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, cày giỏi và săn bò tót rất bạo) nhưng vì nghèo,
mồ côi nên không thể lấy nổi vợ.
+ Chỉ vì đánh A Sử, đánh con quan, đánh con nhà giàu (vì bọn A Sử gây sự với nhóm
bạn A Phủ) mà A Phủ bị bắt về đánh phạt vạ một cách nhục hình, sau đó trở thành
người ở gạt nợ, đi ở không công cho nhà thống lí Pá Tra.
Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 96

- Đau khổ về tinh thần:


+ A Phủ bị trình ma, với lời nguyền độc địa của thống lí: “đời mày, đời con, đời cháu
mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”.
+ A Phủ bị trói đứng, trở thành vật đền mạng cho con bò đã bị con hổ ăn thịt (tính mạng
con người rẻ mạt không bằng con vật).
A Phủ là hiện thân của sức mạnh vùng lên phản kháng
Sức mạnh phản kháng, sức mạnh vùng lên của A Phủ thể hiện qua các chi tiết:
- Khi chứng kiến cảnh A Sử ngang trái hống hách, A Phủ đánh lại A Sử.
- Khi bị đánh phạt vạ, A Phủ im lìm như cái tượng đá (nỗi uất hận dồn nén vào trong, thể
hiện sự bất tuân).
- Khi được Mị cắt dây trói, lúc đầu A Phủ khuỵu xuống vì kiệt sức, sau đó quật sức vùng
lên chạy, lúc đầu là chạy trốn cái chết, sau đó là đến với con đường giải phóng (được
giác ngộ cách mạng, A Phủ trở thành tiểu đội trưởng du kích).
 Nét khác nhau trong nghệ thuật khắc họa nhân vật ở Mị và A Phủ đó là:
Nếu nhân vật Mị được khắc họa từ một cái nhìn từ bên trong, nhằm giúp ta khám phá
và phát hiện vẻ đẹp của nhân vật ở tiềm lực sống của nội tâm; thì nhân vật A Phủ lại
được nhìn từ bên ngoài, tạo điểm nhấn về tính cách ở những hành động, giúp ta thấy rõ
vẻ đẹp của A Phủ qua sự gan góc, táo bạo, mạnh mẽ.
TỔNG KẾT
1) Nội dung:
Giá trị hiện thực
Truyện ngắn xây dựng nên bức tranh hiện thực sống động, chân thực về con đường
vươn lên từ đọa đày đến giác ngộ của người dân Tây Bắc.
Giá trị nhân đạo
- Tiếng nói của tình yêu thương.
+ Tiếng nói cảm thương sâu sắc của nhà văn dành cho những số phận khổ đau như Mị
và A Phủ.
+ Tiếng nói yêu thương của những con người cùng cảnh ngộ (tình hữu ái giai cấp):
thương người cùng cảnh ngộ, Mị cắt dây trói cứu A Phủ.
- Tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo: Cha con nhà thống lí Pá Tra là hiện thân
tội ác của giai cấp thống trị miền núi trước Cách mạng với cả thế lực cường quyền và
thế lực thần quyền.
+ Thế lực cường quyền:
• Cướp đoạt ruộng đất, bóc lột sức lao động một cách tàn nhẫn.
• Đánh đập, hành hạ người lao động bị áp bức một cách dã man.
+ Thế lực thần quyền: Duy trì hủ tục trình ma, áp bức con người về mặt tinh thần
(không những cướp đoạt quyền sống mà còn tước đoạt cả sức sống của một con
người: Mị và A Phủ có lúc trở nên cam chịu đến như mất đi cả sức sống do bị áp bức
quá nặng nề).
- Tiếng nói khẳng định, đề cao những phẩm chất tốt đẹp của người lao động bị áp bức.
+ Nhân vật Mị giàu tình yêu thương, đặc biệt là giàu sức sống tiềm tàng, sức mạnh vùng
lên giải phóng.
+ Nhân vật A Phủ tiềm tàng sức mạnh phản kháng.
- Giải pháp đem lại hạnh phúc cho những số phận bị áp bức, đau khổ:
+ Cứu người đồng thời là tự cứu mình.
+ Đấu tranh từ tự phát đến tự giác đi theo Cách mạng.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 97

2) Nghệ thuật
Nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Nhân vật được khắc họa sinh động, có tính cách rõ nét.
Nhân vật Mị và A Phủ có số phận đau khổ giống nhau nhưng mỗi nhân vật là một tính
cách khác nhau:
+ Nhân vật Mị: được miêu tả bằng rất ít hành động, chủ yếu được miêu tả bằng đời
sống nội tâm. Nếu miêu tả hành động thì hành động của Mị thường lặp đi lặp lại, gây
ấn tượng: cúi mặt, mặt buồn rười rượi, lùi lũi… Cách miêu tả này rất phù hợp với
người phụ nữ miền núi bị áp bức đau khổ nhưng tiềm tàng bên trong một sức sống
mãnh liệt.
+ Nhân vật A Phủ: được miêu tả chủ yếu qua hành động, công việc, lời đối thoại ngắn
gọn, giản đơn. Cách miêu tả này phù hợp với tính cách bộc trực, mạnh mẽ của chàng
trai miền núi.
- Tính cách nhân vật được khắc họa qua đời sống nội tâm.
Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật Mị: tinh tế, logic theo trình tự.
+ Dùng hình tượng thiên nhiên để miêu tả tâm trạng: khung cảnh thiên nhiên mùa
xuân tươi đẹp, rộn ràng gợi lên sức sống tuổi trẻ trong lòng Mị.
+ Trực tiếp miêu tả tâm trạng nhân vật: diễn biến tâm trạng Mị trong cảnh đêm mùa
xuân nghe tiếng sáo gọi bạn và đêm mùa đông cắt dây trói cứu A Phủ.
Nghệ thuật tả cảnh
- Cảnh cuộc sống sinh hoạt. Những phong tục tập quán riêng của người dân miền núi:
cảnh ngày Tết cho ta hiểu những sinh hoạt văn hóa, tinh thần của đồng bào H’mông;
cảnh xử kiện là bức tranh tập tục khá sinh động, cho ta biết cách thức thủ tục xử kiện,
phạt vạ ở miền núi trước Cách mạng.
- Cảnh thiên nhiên. Cảnh mang đậm màu sắc miền núi: trong các làng, “những chiếc váy
hoa đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”, “gió thổi vào cỏ gianh vàng
ửng”…
Nghệ thuật kể chuyện
- Cách giới thiệu nhân vật gây sự chú ý.
✓ Cách giới thiệu nhân vật Mị ở đầu tác phẩm, chỉ bằng vài lời kể ngắn gọn mà gây được
ấn tượng về lai lịch nhân vật.
- Cách kể: Ngắn gọn, ngôn ngữ giàu giá trị tạo hình, hồn nhiên, phù hợp với cách cảm,
cách nói của người dân miền núi. Vốn từ vựng giàu có – nhiều khi rất bình dân và thông
tục, nhưng nhờ cách sử dụng đắc địa và tài ba nên có sức lôi cuốn, lay động người đọc.
✓ Đoạn tác giả nói về A Phủ khỏe, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người
mê, nhiều người nói: “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà,
chẳng mấy lúc mà giàu”.
- Giọng kể: Nhiều đoạn dùng ngôn ngữ nửa trực tiếp tạo nên giọng kể của tác giả hòa
nhập với dòng ý nghĩ và tiếng nói bên trong của nhân vật, vừa trực tiếp bộc lộ đời sống
nội tâm, vừa tạo sự đồng cảm giữa nhà văn – nhân vật – người đọc.
✓ Đoạn tả tâm trạng Mị đêm mùa xuân nghe tiếng sáo gọi bạn: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn
trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử
với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau!”
✓ Đoạn tả tâm trạng Mị trong đêm mùa đông cắt dây trói cứu A Phủ: “Trời ơi, nó bắt
trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người
đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác…”

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 98

Bài 14:
VỢ NHẶT (Kim Lân)
TIẾT: Phân môn: Đọc hiểu văn bản Ngày học:
TÌM HIỂU CHUNG
1) Nhà văn Kim Lân
- Vị trí:
Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn hàng đầu của nền văn học hiện đại VN.
- Phong cách sáng tác:
Thế giới nghệ thuật của ông chủ yếu tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng
người nông dân. Ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lý của người dân quê – những con
người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng; do vậy, ông viết rất chân thật và
xúc động về họ.
2) Truyện ngắn “Vợ nhặt”
- Xuất xứ & đóng góp:
“Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, in trong tập “Con chó xấu xí” (1962)
- Hoàn cảnh sáng tác:
Truyện ngắn có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – được viết ngay sau khi Cách
mạng tháng Tám thành công, lấy bối cảnh nạn đói năm 1945, nhưng dang dở và bị mất
bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết
truyện ngắn này.
- Ý nghĩa nhan đề:
+ Nhan đề “Vợ nhặt” đã tạo được ấn tượng, kích thích sự chú ý của người đọc.
+ Nhan đề đã nói lên được tình huống truyện. Đây không phải cảnh lấy vợ đàng hoàng,
có ăn hỏi, cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, mà là “nhặt vợ”. Đúng
là Tràng đã nhặt được vợ chỉ bằng mấy lời bông đùa tầm phào và vài bát bánh đúc.
+ Chỉ riêng hai chữ “vợ nhặt” cũng đã nói lên khá nhiều về cảnh ngộ, số phận của Tràng
và của cả người đàn bà xa lạ nữa. Cái giá của con người chưa bao giờ lại rẻ rúng đến
như vậy! Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi
nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
- Tóm tắt:
Truyện kể về một gia đình nghèo trong nạn đói năm 1945. Tràng là một thanh niên
chưa vợ, sống cùng mẹ ở xóm ngụ cư; chỉ từ một lời bông đùa mà đã có một người phụ
nữ, cũng rất nghèo đói, theo anh về làm vợ. Cả xóm ngụ cư đều thấy ngạc nhiên; đặc
biệt, bà cụ Tứ – mẹ Tràng – cũng hết sức bất ngờ, nhưng vẫn chấp nhận nàng dâu mới
trong nỗi niềm vừa mừng vừa tủi. Sáng hôm sau, bà mẹ chồng đãi nàng dâu bằng món
chè khoán (mà thực ra là cháo cám), họ cắm mặt ngồi ăn trong nỗi hờn tủi len lỏi vào
tâm trí. Qua lời kể của vợ, Tràng mới biết Việt Minh đã phá kho thóc của Nhật để chia
cho người đói. Cuối truyện là những suy nghĩ ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ của Tràng và trong
đầu óc anh hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới của đoàn người đi phá kho thóc.
- Bố cục:
Đoạn 1: Tràng và người “vợ nhặt” trên đường về nhà
Đoạn 2: Nguyên cớ Tràng nhặt được vợ
Đoạn 3: Tràng và người “vợ nhặt” về đến nhà gặp bà cụ Tứ
Đoạn 4: Cảnh sinh hoạt trong nhà Tràng từ khi có người “vợ nhặt”
Đoạn 5: Cuộc đối thoại của họ về việc Việt Minh phá kho thóc Nhật & suy nghĩ của Tràng

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 99

ĐỌC HIỂU VĂN BẢN


1) Tình huống truyện
Giải thích khái niệm “tình huống truyện”
- Tình huống truyện là cái tình thế bất thường của câu chuyện, bắt đầu từ một sự kiện có
vấn đề, chứa đựng trong nó những mâu thuẫn, xung đột tiềm tàng để: cốt truyện diễn
tiến, phát triển; đẩy nhân vật vào hoàn cảnh buộc phải lựa chọn, giải quyết, qua đó, bộc
lộ tính cách, phẩm chất, số phận của nhân vật; từ đó thể hiện rõ tư tưởng của tác giả.
- Tình huống truyện tuy ngắn nhưng có vai trò quan trọng cốt lõi, là “một khoảnh khắc
mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc (…) khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người,
thậm chí cả một đời nhân loại”. Có thể ví tình huống truyện như:
✓ cái chìa khóa vận hành cốt truyện
✓ một lát cắt mà qua đó biết được trăm năm của một đời thảo mộc
✓ một thứ nước rửa ảnh, làm nổi hình, nổi sắc nhân vật (Nguyễn Minh Châu)
✓ một cái huyệt mà người đọc phải điểm trúng (Nguyên Ngọc).
- Việc sáng tạo nên tình huống độc đáo biểu hiện tài năng của nhà văn trong việc quan
sát, khám phá bản chất cuộc sống, bản chất con người.
Gọi tên tình huống
Tình huống độc đáo của truyện ngắn này được bộc lộ ngay trong nhan đề: “Vợ nhặt”.
Đó là tình huống “nhặt vợ” và tổ chức đám cưới trong không khí chết chóc ám ảnh. Một
thứ “vợ” do “nhặt” được, nhặt một cách ngẫu nhiên (chứ không phải “vợ cưới”).
→ Đây là một tình huống vừa kỳ quặc, vừa oái oăm, vừa vui mừng, vừa bi thảm.
Diễn biến tình huống
Đây quả là một cuộc “hỏi vợ” và “cưới vợ” chóng vánh, lạ thường:
- Lời dạm hỏi chỉ là vài câu bông đùa tầm phào của Tràng khi đẩy xe bò:
Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!
- Lời chấp nhận dễ dàng từ người phụ nữ khi cô cho rằng anh nói thật, sau đó thì “sầm
sập chạy đến”, “sưng sỉa”, “cong cớn” mắng Tràng: “Điêu! Người thế mà điêu”. Đáng nói
hơn, cô đã gạt hẳn một bên lời đề nghị ăn trầu, mà trực chỉ vào miếng ăn: “Có ăn gì thì
ăn, chả ăn giầu”. Lễ vật chỉ là bốn bát bánh đúc, người phụ nữ nhận lễ vật một cách sỗ
sàng, kém tế nhị, mất sĩ diện: “hai con mắt… tức thì sáng lên… ngồi sà xuống… cắm đầu
ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt
ngang miệng, thở: - Hà, ngon!”
- Hình ảnh cô dâu ngày vu quy thật đáng thương: “rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy
xọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, “cắp cái thúng
con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”.
- Con đường rước dâu bị cái đói, cái chết ám ảnh: “xác xơ, heo hút… úp súp, tối om”, “người
chết như ngả rạ”, “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”, “tiếng
quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”.
- Cảnh đón dâu hiu hắt, bà mẹ chồng vừa mừng vừa ai oán xót xa, cầu cho hai con “qua
khỏi được cái tao đoạn này”.
- Đêm tân hôn, lẫn trong niềm hạnh phúc là những “tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ
tê lúc to lúc nhỏ” đến từ phía những nhà có người chết đói.
- Bữa cơm sáng sau ngày cưới “thật thảm hại” với món ăn chính chỉ là “niêu cháo lõng
bõng” cùng “lùm rau chuối thái rối” và “một đĩa muối”. Món tráng miệng chè khoán thực
chất là cám “đắng chát, nghẹn bứ” khiến “một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người”.
Chưa ăn xong, họ đã nghe tiếng trống thúc thuế “dồn dập, vội vã khiến đàn quạ… hốt
hoảng bay vù lên”.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 100

Tính chất tình huống


- Đây là một tình huống lạ lùng, bất ngờ:
+ Tràng là một anh nông dân xấu trai, nghèo xác nghèo xơ, lại là dân ngụ cư (bị khinh
bỉ), bỗng nhiên có vợ theo về, không quen biết, cũng chẳng cần đến ăn hỏi, cheo cưới,
chỉ cần mấy lời bông đùa tầm phào và vài bát bánh đúc.
+ Hành động “nhặt vợ” của Tràng đã gây ngạc nhiên cho nhiều đối tượng:
• Cả xóm ngụ cư “nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến”, họ
thấy “lạ lắm”, “họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán”.
• Bà mẹ chồng “càng ngạc nhiên hơn”, tự đặt ra hàng loạt câu hỏi: “Quái, sao lại có
người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường
thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?... Ai thế nhỉ?”. Bà “hấp háy cặp
mắt cho đỡ nhoèn”, “nhìn kỹ người đàn bà”, “quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu”.
• Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, chính Tràng cũng “còn ngờ ngợ như không phải thế.
Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ…”
- Đây cũng là một tình huống trớ trêu, éo le:
+ Tràng có vợ giữa lúc cái đói đang đe dọa, miếng ăn quyết định nhân mạng. Bản thân
Tràng làm lụng nuôi thân mình và mẹ già đã khó, nay lại “đèo bòng” thêm người vợ
nhặt. Họ sẽ sống như thế nào giữa ngày đói?
+ Cho nên đối diện với tình huống này, các nhân vật đã bộc lộ thái độ vừa mừng vừa
lo, vừa hạnh phúc vừa xót xa:
• Đối với cư dân nơi xóm ngụ cư: “Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng
rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối
ấy của họ”. Thế nhưng vẫn có tiếng “thở dài”, “thì thầm” và “họ cùng nín lặng” khi
nhận ra nỗi lo trước mắt: “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi
nhau sống qua được cái thì này không?”.
• Bà mẹ chồng khi hiểu ra sự việc, bà thấu hiểu hoàn cảnh của con trai, sẵn sàng
chấp nhận việc làm của con trong tâm trạng diễn biến phức tạp: “Lòng người mẹ
nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán xót thương cho số kiếp
đứa con mình.” Bà ý thức rõ hơn vợ chồng Tràng về nghịch cảnh của cuộc hôn
nhân, bà đánh giá sự việc bằng sự từng trải của cuộc đời đầy cơ cực.
• Bản thân Tràng cũng có những băn khoăn, lo sợ cho cuộc sống quá bấp bênh, khó
khăn: “đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”.
- Đây còn là một tình huống cảm động lòng người: Từ khi Tràng có vợ, mọi người, từ
Tràng, đến cô “vợ nhặt”, đến bà mẹ chồng đều có những thay đổi về suy nghĩ lẫn hành
động.
Ý nghĩa tình huống
- Về nội dung:
+ Góp phần khắc họa được tính cách của nhân vật.
+ Thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.
- Về nghệ thuật: tình huống truyện được tạo dựng một cách độc đáo bởi sự kết hợp
những nét đặc sắc nghệ thuật khác.
 Có cái tài ấy, trước hết là có cái “tâm” của nhà văn: lòng thương cảm, sự thấu hiểu và
khẳng định con người, niềm tin ở con người. Chân lý mà Kim Lân muốn khẳng định qua
“Vợ nhặt” cũng là chân lý sau này Xuân Diệu từng nói đến: “Sự sống chẳng bao giờ chán
nản”, “phá đời không dễ đâu”.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 101

2) Các nhân vật


Tràng
- Người lao động nghèo khổ bỗng nhiên có niềm hạnh phúc lớn, nên sung sướng đến
bàng hoàng:
+ Nghèo khổ: cái tên cũng gợi lên sự lam lũ, cực nhọc (mang tên một thứ dụng cụ của
người thợ mộc: anh tên Tràng, em gái tên Đục). Tràng có vợ - chuyện trăm năm của
đời người mà đơn giản đến tội nghiệp: không ăn hỏi, không cưới xin, ngay cả đến
một bát cơm cúng gia tiên cũng không có; bữa cơm sáng, cả nhà chỉ ăn cháo cám.
+ Bỗng nhiên có niềm hạnh phúc lớn: đang ế vợ, đột nhiên có vợ quá dễ dàng – vợ theo
không, “vợ nhặt”.
+ Sung sướng đến bàng hoàng:
• Trong cảnh túng đói quay quắt, Tràng có lo, có “chợn”, nhưng sau đó Tràng lại “tặc
lưỡi một cái: Chậc, kệ!”. Đó là cái chậc lưỡi muốn đánh cuộc cùng cái đói để được
sống bình thường như mọi người, cái chậc lưỡi của lòng nhân ái sẵn sàng cưu
mang người khác trong cơn hoạn nạn. Niềm hạnh phúc lớn đã lấn át tất cả. Tràng
quên cả nỗi âu lo, không hiểu được vì sao mình có vợ mà mẹ lại khóc.
• Việc có vợ đối với Tràng như một giấc mơ: “Trong người êm ái, lửng lơ như người
vừa ở trong giấc mơ đi ra”, không tin mình đã có vợ, nhìn vợ ngồi ngay giữa nhà
mà vẫn “ngờ ngợ”, “ngỡ ngàng”.
• Vừa tự hào, vừa vui sướng, vừa ngượng ngùng, nên vốn vụng về, cục mịch, Tràng
càng vụng về, cục mịch hơn: muốn bày tỏ tình cảm nhưng không biết nói thế nào
cho phải.
- Sự thay đổi tâm lý, tính cách từ khi có hạnh phúc gia đình:
+ Buổi sáng đầu tiên khi có vợ, cảm xúc ban đầu của anh khi thức dậy đó là: “Trong
người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”.
+ Tràng cũng có ý thức chăm sóc cho hạnh phúc ngay từ khi chưa về nhà, anh đưa thị
vào chợ tỉnh, bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt. Trên đường
dẫn vợ về nhà thì tâm trạng anh vui mừng xen lẫn những hành động vụng về, lóng
ngóng: “mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường”, “tủm tỉm cười nụ một mình và
hai mắt thì sáng lên lấp lánh”.
+ Trước đây, Tràng sống vô lo, vô nghĩ đến đáng trách. Từ khi có vợ, Tràng cảm thấy
mình đã nên người. Tràng “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng… Cái nhà
như cái tổ ấm che mưa, che nắng”. Tràng thấy được trách nhiệm, bổn phận của bản
thân với vợ con sau này, biết lo toan cho cuộc sống gia đình.
 Quả thật, Tràng lấy vợ không nghiêm túc về hình thức nhưng rất nghiêm túc trong suy
nghĩ, bổn phận trách nhiệm làm chồng. Sự kết hợp liều lĩnh của Tràng và cô vợ nhặt là
một thách thức quyết liệt của khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc trước tai họa của
cái đói đang đe dọa.
Người “vợ nhặt”
- Là người phụ nữ nghèo khổ, đói khát đến cùng đường, bị biến dạng về nhân hình và
nhân cách:
+ Về nhân hình:
• Chị ta nghèo khổ đến nỗi không có cả một cái tên, chỉ được tác giả gọi là “thị”.
• Cái đói làm cho thị tiều tụy cả hình hài: “áo quần tả tơi như tổ đĩa”, “trên cái gương
mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, “cái ngực gầy lép”.
+ Về nhân cách, cái đói khát khiến thị táo bạo đến mức liều lĩnh, mất đi cả sự ý tứ cần
có của người phụ nữ, trở nên suồng sã:
• Lần thứ nhất, trước những câu bông đùa của Tràng, thị tưởng thật, “ton ton chạy
lại đẩy xe cho Tràng”, “liếc mắt, cười tít”.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 102

• Lần thứ hai khi gặp Tràng, thị “sầm sập chạy đến”, “sưng sỉa” mắng Tràng, “cong
cớn” đòi ăn; khi Tràng đồng ý cho ăn thì “hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì
sáng lên, đon đả”, “ngồi sà xuống ăn thật”, “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc
liền chẳng chuyện trò gì”, “ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở” rồi
ton ton theo Tràng về làm vợ.
 Đó là một hình ảnh đáng thương hơn là đáng giận. Thị liều lĩnh nhắm mắt đưa chân về
làm vợ Tràng chỉ vì cần một chỗ dựa, cần miếng ăn để tồn tại, cần một mái ấm gia đình.
- Sự thay đổi tâm lý, tính cách từ khi có hạnh phúc gia đình:
+ Trước đây, thị là người phụ nữ “chao chát”, “chỏng lỏn”.
+ Sau khi có hạnh phúc gia đình, thị trở thành người phụ nữ hiền hậu, đúng mực (qua
dáng vẻ trên đường về xóm ngụ cư, qua cách cư xử với bà cụ Tứ và với Tràng). Từ
đó, có thể thấy trong con người này tiềm ẩn khát vọng hạnh phúc và vươn lên trong
cuộc sống:
• Người “vợ nhặt” đến với Tràng là do cái đói, cái nghèo xô đẩy nhưng cũng là đi
theo tiếng gọi của khát vọng hạnh phúc gia đình.
• Người “vợ nhặt” biết nghĩ đến cuộc sống, lo cho hạnh phúc gia đình. Thị có ý thức
vun đắp cho cái tổ ấm mà mình vừa có được: nhà cửa, sân vườn gọn gàng, sạch sẽ,
nhìn đâu cũng thấy có công sức đôi bàn tay của thị.
• Đặc biệt, cô tỏ ra bình thản trước bữa ăn ngày đói: khi nhận chén cám từ tay mẹ
chồng, dẫu ban đầu “hai con mắt thị tối lại” nhưng rồi sau đó “điềm nhiên và vào
miệng”. Cô chấp nhận số phận khi đã vào bước đường cùng và không muốn làm
bà mẹ già tội nghiệp thêm tủi cực, xót xa.
• Người “vợ nhặt” khơi lên ở Tràng niềm tin vào cuộc sống. Chính người đàn bà đói
khát, tội nghiệp này đã gợi lên ở người đàn ông nghèo khổ hình ảnh những người
nông dân đi phá kho thóc Nhật cứu đói, dưới lá cờ đỏ của Việt Minh.
 Đây là hình tượng có ý nghĩa tiêu biểu cho thân phận tội nghiệp đáng thương của người
nghèo đói, cho khát vọng sống và mái ấm gia đình trong cảnh nghiệt ngã. Khi được sống
trong tình yêu thương, đùm bọc, chở che, cô đã trở về đúng với bản chất tốt đẹp của
mình, gợi lòng trắc ẩn và sự cảm thông sâu sắc cho người đọc. Người phụ nữ ấy hiện
lên trong tác phẩm không lộng lẫy nhưng gợi lên một sự ấm áp, mang đến làn gió tươi
mát cho căn nhà u ám với cuộc sống tăm tối đang bên bờ vực của cái chết.
Bà cụ Tứ
❖ Là điển hình cho người mẹ nông dân nghèo, từng trải, rất mực thương con, và cũng là
một người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha.
❖ Tính cách của bà cụ Tứ được thể hiện chủ yếu qua diễn biến tâm trạng. Trước việc Tràng
có vợ, tâm trạng bà cụ Tứ diễn biến như ba nấc thang tâm lý:
- Khởi đầu là sự ngạc nhiên. Tâm trạng ngạc nhiên của bà cụ ngày một tăng:
+ Trước hết là ngạc nhiên khi thấy Tràng mừng rỡ đón mẹ về, hớn hở khác mọi hôm.
+ Bà ngạc nhiên hơn khi thấy có người đàn bà lạ trong nhà, lại đứng ngay đầu giường
con trai mình, lại chào mình bằng u.
+ Khi biết người đàn bà đó là vợ của Tràng, bà vẫn chưa hết ngạc nhiên, vì người như
Tràng mà đã có vợ, con trai cụ nuôi thân không nổi, lại có vợ giữa lúc gia đình và xã
hội đang trong cảnh chết đói.
- Tiếp đến là các trạng thái tình cảm trái ngược đan xen: vui mừng, buồn tủi, thương lo.
+ Bà vui mừng vì con đã có vợ, “yên bề” gia thất.
+ Bà buồn tủi vì hai lẽ: con có vợ khi gia cảnh quá nghèo, và bổn phận là mẹ mà chẳng
lo lắng được cho con (bà ngậm ngùi: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là
lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình
thì…). Và bà đã khóc vì nỗi buồn tủi đó: “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai
dòng nước mắt”.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 103

+ Bà lo lắng cho con, với nỗi lo trước mắt (không biết “có nuôi nổi nhau sống qua được
cơn đói khát này không”) và nỗi lo lâu dài (nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc
của mình, bà lo “cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không”).
+ Ẩn trong nỗi lo đó là một tình thương vô bờ bến dành cho con trai và cả cô con dâu:
• Bà mẹ già đón cô con dâu mới trong nỗi thương cảm pha chút thầm cảm kích:
“Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà
con mình mới có vợ được”.
• Bà nhẹ nhàng nói với nàng dâu “thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau,
u cũng mừng lòng”. Bà cụ nói “mừng lòng” chứ không chỉ là “bằng lòng”: “bằng
lòng” là buộc phải thừa nhận việc đã rồi, còn “mừng lòng” không chỉ là chấp nhận
mà còn là niềm vui thực sự. Chấp nhận người phụ nữ nghèo khổ làm con dâu trong
lúc mình cũng không nuôi nổi bản thân là một hành động rất bao dung của bà lão.
• Bà vẫn luôn ân cần từ tốn với con dâu, khuyên con hai điều quan trọng nhất: một
là trong lúc này cần chịu khó làm ăn (“Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày
liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá”), hai là về lâu dài thì
phải giữ đạo vợ chồng: “Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi”.
• Bà khổ tâm ao ước được như người ta: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải
đấy, nhưng nhà mình nghèo…”
• Bà đã thương con dâu bằng tấm lòng của người phụ nữ từng chịu cảnh cơ hàn,
nghèo đói: “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”
 Tâm trạng và tình cảm của bà cụ Tứ được tác giả thể hiện tập trung trong ánh mắt (cùng
những giọt nước mắt) và lời nói:
➢ Về ánh mắt:
✓ Thoạt đầu, khi vừa biết con có vợ, bà đã lặng lẽ khóc “trong kẽ mắt kèm nhèm của
bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”.
✓ Lúc nói chuyện với con dâu, khi thì bà “đăm đăm nhìn ra ngoài, bóng tối trùm lấy
hai con mắt”, khi thì “nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót”, điều đó cho thấy
tâm trạng bà cụ vô cùng ngổn ngang.
➢ Về lời nói:
✓ Đối với con dâu, bao giờ bà cũng nói với một giọng “nhẹ nhàng”, “từ tốn”, “hạ thấp
giọng xuống thân mật”.
✓ Nhưng lòng bà chứa đầy tâm trạng nên rất nhiều lần bà “khẽ thở dài”, “khẽ dặng
hắng” để lấy lại giọng bình thường, “thở nhẹ ra một hơi dài”. Tất cả đều “khẽ”,
“nhẹ” vì bà muốn che giấu che giấu nỗi nghẹn ngào trong lòng.
➢ Cuối cùng, khi kết thúc cuộc trò chuyện, bao nhiêu tâm trạng dồn nén đã khiến bà cụ
“nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”.
- Nhưng quan trọng hơn hết, vượt lên trên tất cả là niềm lạc quan, hy vọng vào cuộc sống,
vào tương lai. Niềm vui và hy vọng của bà thể hiện trong ý nghĩ, lời nói, nét mặt và cả
việc làm:
+ Niềm vui và hy vọng được thể hiện trong ý nghĩ với triết lý dân gian giản dị mà sâu
sắc “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”.
+ Niềm vui và hy vọng được thể hiện trong lời nói:
• Trong bữa cơm thảm hại ngày đói, bà nói toàn chuyện vui, vừa ăn vừa kể tương
lai hạnh phúc “toàn chuyện sung sướng về sau này” để động viên hai con, chính bà
tạo nên không khí ấm áp cho ngôi nhà sau một thời gian dài “chưa bao giờ trong
ngôi nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế”.
• Cách nói đùa vui - cháo cám được gọi là chè khoán - đã xua tan đi cái buồn, cái tủi.
+ Niềm vui và hy vọng được thể hiện trong nét mặt: Sáng hôm sau, vui mừng, hạnh
phúc trước cảnh gia đình đầm ấm, bà “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt
bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”.
+ Niềm vui và hy vọng được thể hiện trong việc làm:

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 104

• Cùng với con dâu, bà “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”; cái dáng vẻ già yếu,
lọng khọng đã biến mất, thay vào đó là sự nhanh nhẹn, đầy sức sống và hòa chung
quan điểm với dâu con rằng: “thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời
họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”.
• Khi phải ăn cám, bà “lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một nồi khói bốc lên
nghi ngút” và vẫn vui vẻ.
 Hóa ra trong cái gia đình bi thảm ấy, đặc biệt là trong bữa cơm bi đát, chính bà lão gần
đất xa trời này lại là người nói nhiều đến hy vọng, đến tương lai. Những năm tháng cuối
đời của bà lão tội nghiệp ấy, niềm hy vọng không bao giờ tàn theo đói nghèo và tuổi tác.
 Kim Lân đã dành trọn tình cảm yêu mến, kính trọng của mình khi diễn tả rất chân thật
và cảm động hình ảnh bà cụ Tứ, một bà mẹ chất phác, nhân hậu, nghèo vật chất nhưng
giàu tình mẫu tử, lòng nhân ái, ý thức được trách nhiệm với con và trong hoàn cảnh
nghiệt ngã vẫn hy vọng vào tương lai tốt đẹp. Bà là hình ảnh tiêu biểu cho những phẩm
chất tốt đẹp của người mẹ Việt Nam, một vẻ đẹp đơn sơ mà hồn hậu, sâu lắng.
TỔNG KẾT
1) Nội dung
Giá trị hiện thực: CÁI ĐÓI
❖ Kim Lân là một nhà văn của nông thôn, rất hiểu người nông dân, lại là người trong cuộc
của nạn đói khủng khiếp này, nên ông đã dựng lên trong “Vợ nhặt” một bức tranh hiện
thực cô đúc mà đầy đủ, khái quát mà cụ thể, khắc sâu thành ấn tượng rõ nét:
- Bức tranh toàn cảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945.
Cái đói bao trùm không gian, thời gian, vô cùng ám ảnh:
+ Hình ảnh những người đói như những bóng ma và xác người chết vì đói được lặp lại
nhiều lần: họ “lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm
ngổn ngang khắp lều chợ”, “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những
bóng ma”; “người chết như ngả rạ”, “ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường”.
+ Bóng tối bao trùm xóm ngụ cư: “xác xơ, heo hút”, “úp súp, tối om, không nhà nào có
ánh đèn, lửa”.
+ Mùi tử khí ngập đầy: “không khí vẩn mùi… gây của xác người”, mùi gió “ngăn ngắt”.
+ Âm thanh ghê rợn, ráo riết đòi mạng con người: “tiếng quạ cứ gào lên từng hồi thê
thiết”, “tiếng hờ khóc vẳng đến từ phía những nhà có người chết đói”.
 Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư, ùa vào gia đình anh Tràng, bủa vây và đe dọa số phận
từng con người, không trừ một ai.
- Bức tranh về số phận những con người trên bờ vực thẳm của nạn đói: Ở xóm ngụ
cư là “những khuôn mặt hốc hác u tối”. Trong gia đình Tràng thì bà cụ Tứ già không làm
được gì, anh con trai đẩy xe bò thuê để kiếm sống qua ngày, người con dâu “áo quần tả
tơi như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi”, “hai con mắt trũng hoáy”… Số phận của họ có khác gì “cái
nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại” và bữa cơm
ngày đói với nồi cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”...
- Một hiện thực tuy chưa rõ nét nhưng đã hiện ra ở cuối truyện trong ý nghĩ của
Tràng: “cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá
cờ đỏ to lắm”. Đoàn người đi phá kho thóc Nhật và lá cờ của Việt Minh là hiện thực, đồng
thời cũng là ước mơ của những người như Tràng.
 Nạn đói khủng khiếp, số phận bi thảm của những người đói và lá cờ cách mạng là những
mặt chủ yếu nhất của hiện thực lúc bấy giờ. Tất cả đã được Kim Lân phản ánh hết những
nét bản chất, đã làm nên giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm như một chứng tích văn
học về một sự kiện lịch sử ám ảnh không thể nào quên.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 105

Giá trị nhân đạo: CÁI TÌNH


 Kim Lân từng nói rằng: “Tôi định viết một truyện ngắn nhưng với ý khác là khi đói người
ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống
bi thảm đến đâu, dù là kề bên cái chết nhưng vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh
sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hy vọng ở tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người”.
Chính vì vậy, khi tái hiện chân thực, ám ảnh bức tranh hiện thực ảm đạm, thê lương
trong những ngày đói, đồng thời nhà văn cũng đã khẳng định những phẩm chất đáng
quý của những người lao động nghèo khổ: dù trong hoàn cảnh sống ngặt nghèo, tối tăm
đến đâu họ vẫn kháo khao một gia đình để được thương yêu, chia sẻ và có trách nhiệm
với nhau, họ vẫn hy vọng vào một cái gì tốt đẹp hơn ở tương lai.
Truyện ngắn là:
- Tiếng nói thương cảm sâu sắc.
+ Thương cảm cho bao con người trong nạn đói.
+ Xót xa cho số phận người phụ nữ.
• Bị biến dạng về nhân hình, biến chất về nhân cách.
• Bị biến thành người “vợ nhặt”.
+ Ái ngại cho cảnh đám cưới thật thảm hại.
- Tiếng nói lên án, tố cáo.
+ Truyện ngắn tố cáo sâu sắc và thấm thía tội ác của thực dân Pháp, phát xít Nhật đã
gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945, đẩy con người đến chỗ thân phận rẻ mạt.
+ Việc trăm năm của đời người mà rẻ rúng đến tội nghiệp: chỉ với vài câu bông đùa và
mấy bát bánh đúc mà Tràng có vợ. Cuộc hôn nhân không cưới hỏi, không có nổi mâm
cơm cúng gia tiên, cả nhà phải ăn cháo cám. Người vợ thân phận rẻ mạt, có thể “nhặt”
được nơi đầu đường, góc chợ. Vì đói kém mà thân phận con người mới rẻ rúng đến
thế.
- Tiếng nói khẳng định, đề cao vẻ đẹp của con người:
Truyện ngắn còn khẳng định những tình cảm cao đẹp của con người. Đó là tình mẹ
thương con, tình người thương người.
+ Tác phẩm là bài ca về tình mẫu tử. Bà cụ Tứ khi thấy con có vợ thì vừa vui vừa lo, vừa
mừng vừa tủi, nhưng tất cả đều xuất phát từ tình mẹ thương con: thương con nghèo
không lấy nổi vợ, con có vợ lại lo cho cuộc sống của con, lo nhưng vẫn vui vì con đã
có tổ ấm gia đình. Bà cụ Tứ không khinh rẻ người đàn bà đã theo không con mình,
trái lại vẫn đón nhận con dâu với cả tấm lòng nhân hậu.
+ Truyện ngắn còn là bài ca về tình người. Ngay cả khi người ta tưởng như không còn
cần gì hơn một miếng ăn thì tình người và chỉ có tình người mới là cái làm nên nguồn
hạnh phúc kỳ diệu nhất. Tình người, chứ không phải miếng ăn, đã khiến cho “những
khuôn mặt hốc hác u tối” của người dân xóm ngụ cư “bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên”. “Có
cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ”. “Cái gì” ấy
chỉ có thể là cảm giác về hai con người nghèo khổ đã neo buộc được cuộc đời họ vào
nhau trong khi dòng thác đói nghèo như muốn cuốn phăng đi tất cả. Giữa nạn đói
năm 1945, một miếng ăn là cả sinh mệnh con người nhưng Tràng vẫn cưu mang
người khác – người cũng khổ như mình và khổ hơn mình.
- Tiếng nói khẳng định những khát vọng chân chính của con người:
Bên cạnh những tình cảm cao đẹp là những khát vọng chân chính của con người: khát
vọng hạnh phúc gia đình, khát vọng sống và hy vọng, niềm tin vào cuộc sống, vượt lên
trên nghèo đói, chết chóc.
+ Trong tình huống bi thảm, con người vẫn hướng tới tổ ấm gia đình, vẫn có thể tạo
dựng hạnh phúc.
• Câu nói nửa đùa nửa thật của Tràng với cô “vợ nhặt” đã ẩn chứa niềm khát khao
tổ ấm gia đình và anh đã đánh liều đưa người đàn bà về nhà.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 106

• Nhìn hình thức bên ngoài của sự việc thì người “vợ nhặt” đến với Tràng là do cái
đói, cái nghèo xô đẩy, nhưng bản chất của sự việc là hai người đến với nhau theo
tiếng gọi của hạnh phúc gia đình. Nếu chỉ vì miếng ăn thì người “vợ nhặt” có thể
theo Tràng về nhà và chị ta sẽ dừng lại trước ngôi nhà rách nát nghèo khổ của
Tràng. Nhưng không, người “vợ nhặt” đã bước vào ngôi nhà nghèo khổ đó và với
đôi bàn tay của mình, người “vợ nhặt” đã vun vén cho tổ ấm gia đình mà mình vừa
có được.
• Trong tác phẩm, người đi “nhặt vợ”, người làm “vợ nhặt” vẫn tạo nên mái ấm gia
đình. Hạnh phúc đã đem đến ý nghĩa cuộc sống cho mỗi người. Từ lúc Tràng có
vợ, cuộc sống của mọi người đều đổi khác:
✓ Bà cụ Tứ vui hơn, bà nói nhiều đến ngày mai, bà làm và hy vọng vào ngày mai.
Bà cụ nói toàn những chuyện vui, chuyện tương lai sau này. Bà cụ tin vào ngày
mai với triết lý dân gian bình dị mà sâu sắc: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà
cụ Tứ cùng với người con dâu quét dọn nhà cửa, sân vườn cho sạch sẽ với niềm
tin dân gian: nhà cửa quang quẻ thì điều may mắn sẽ tới…
✓ Tràng thì vui sướng, phấn chấn hẳn lên: “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người,
hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”.
✓ Người “vợ nhặt” không còn chao chát, chỏng lỏn như trước mà trở thành người
phụ nữ hiền hậu, đúng mực.
 Hạnh phúc gia đình không cứu con người khỏi cái đói, cái chết nhưng cứu con
người khỏi tình trạng phi nhân tính, làm cho con người trở nên tốt hơn, đẹp hơn,
“người hơn”. Từ khi Tràng có hạnh phúc gia đình, mọi người đều có thêm nghị lực
và hy vọng để sống, có thêm ý thức trách nhiệm đối với cuộc sống.
+ Tình huống truyện “Vợ nhặt” đã góp phần khẳng định tư tưởng nhân đạo sâu sắc của
tác phẩm: Trong bất cứ hoàn cảnh nào, người lao động vẫn không mất niềm tin vào
cuộc sống, vẫn hy vọng ở tương lai.
• Một người nghèo khổ như Tràng vẫn bỏ ra hai hào để mua dầu thắp. Đêm “tân
hôn”, hai hào dầu thắp thay đuốc tân hôn. Cái ánh sáng ngọn đèn dầu ấy cũng là
ánh sáng của niềm vui, niềm tin bừng lên giữa đêm đen dày đặc.
• Trong tác phẩm, người nói nhiều về tương lai là bà cụ Tứ. Là nghịch lý chăng khi
một bà già “lọng khọng” gần đất xa trời lại nói nhiều về tương lai mà lẽ ra tương
lai phải thuộc về lớp trẻ, những người như vợ chồng Tràng? Nếu là nghịch lý thì
nghịch lý này lại hàm chứa một chân lý sâu sắc: Người già còn nói nhiều về tương
lai đến vậy thì niềm tin và hy vọng ở tương lai của lớp trẻ còn mãnh liệt đến
nhường nào!
• Kết cấu truyện ngắn thể hiện một cái nhìn lạc quan: Truyện mở ra là một buổi
chiều chạng vạng, là một ngày tàn với cái đói thê thảm nhưng kết thúc tác phẩm
là buổi sáng, là ngày mới bắt đầu, là hình ảnh những người nông dân nghèo đi phá
kho thóc của Nhật để cứu đói, phía trước họ là lá cờ đỏ của Việt Minh. Cách kết
thúc với cái nhìn lạc quan này thể hiện niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai.
- Qua việc khắc họa suy nghĩ của Tràng ở cuối tác phẩm, nhà văn đã mở ra cho nhân vật
một hướng đi, một lối thoát tìm đến tương lai tươi sáng.
+ Trong hoàn cảnh bữa cơm sáng nghẹn lại vì cám, tiếng trống thúc thuế lại vang lên
“dồn dập, vội vã khiến đàn quạ… hốt hoảng bay vù lên”. Lúc ấy câu chuyện người vợ
nhặt kể đến thật đúng lúc: “trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu
đóng thuế nữa” mà còn tụ họp nhau “đi phá kho thóc của Nhật, chia cho người đói”.
Câu chuyện này đã tác động mạnh đến suy nghĩ, cảm xúc của Tràng.
+ Phản ứng của Tràng rất phức tạp và đa dạng:
• Đầu tiên anh thấy sợ: “Thần mặt ra nghĩ ngợi… Hắn đang nghĩ đến những người
phá kho thóc Nhật”.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 107

• Sau đó anh nhớ lại: “Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói
ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”; thế nhưng lần đó
vì “không hiểu gì” và “sợ quá” nên anh đã “kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh
đồng đi lối khác”. Khi hiểu ra anh đã có sự nuối tiếc: “À ra họ đi phá kho thóc. Tự
dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu”.
• Cuối cùng, khi mẹ và vợ đã chạy ra ngoài, trong đầu Tràng suy nghĩ về hai hình
ảnh, tượng trưng cho hai con đường nhân vật phải lựa chọn: “Trong óc Tràng vẫn
thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Cả hai hình ảnh đều gợi mở tương
lai phía trước, một u ám bi kịch và một lạc quan tươi sáng. Kết thúc như vậy gợi
ra xu hướng phát triển theo chiều hướng tích cực của tác phẩm: khi bị đẩy vào
tình trạng đói khổ cùng đường, người nông dân lao động sẽ hướng tới cách mạng.
Đây cũng là xu hướng vận động chủ yếu của những sáng tác theo khuynh hướng
hiện thực cách mạng nói riêng và văn học VN giai đoạn 1945-1975 nói chung.
2) Nghệ thuật
Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện:
Tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn
Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Thể hiện chân thực, sinh động diễn biến tâm lý nhân vật.
Nghệ thuật trần thuật
- Đảo lộn trật tự thời gian, không gian một cách hợp lý: Mở đầu truyện, tác giả giới thiệu
nhân vật Tràng, tình huống Tràng đưa vợ về nhà trong con mắt đầy ngạc nhiên của dân
xóm ngụ cư. Đến khi chính Tràng ngạc nhiên “nhìn thị ngồi ngay giữa nhà” mà “ngờ ngợ
như không phải thế” thì tác giả mới qua dòng hồi tưởng của Tràng mà thuật lại đầu đuôi
câu chuyện anh ta “nhặt” được vợ như thế nào. Sau đó, mạch truyện chảy xuôi tự nhiên
cho đến kết thúc.
- Trần thuật thông qua đối thoại giữa các nhân vật: nhiều đoạn đối thoại tự nhiên, hóm
hỉnh, vừa có tác dụng dẫn dắt câu chuyện, vừa góp phần thể hiện tính cách, tâm lý nhân
vật. Ví dụ như đoạn đối thoại giữa Tràng và người “vợ nhặt” khi Tràng chở xe thóc lên
tỉnh và khi ở chợ, đoạn đối thoại giữa bà cụ Tứ với Tràng và cô con dâu ở phần cuối tác
phẩm.
- Tạo không khí cho truyện bằng việc sử dụng các chi tiết nghệ thuật: không khí nông
thôn ảm đạm, thê lương trong nạn đói được tạo nên bỏi chi tiết về âm thanh với tiếng
hờ khóc của gia đình có người chết đói, chi tiết về mùi vị với mùi khói đống rấm, mùi
ẩm thối của rác rưởi, mùi gây của xác người… Không khí vui tươi, hồ hởi của buổi sáng
sau ngày Tràng có vợ được toát lên từ các chi tiết nghệ thuật miêu tả cảnh bà cụ Tứ
cùng người con dâu quét dọn nhà cửa, sân vườn cho gọn gàng, phong quang, sạch sẽ.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 108

BÀI 15:
RỪNG XÀ NU (Nguyễn Trung Thành)
TIẾT: Phân môn: Đọc hiểu văn bản Ngày học:
TÌM HIỂU CHUNG
1) Nhà văn Nguyễn Trung Thành
- Vị trí:
Thuộc thế hệ sáng tác trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Trung Thành (bút
danh khác là Nguyên Ngọc) là nhà văn đầu tiên đưa vùng đất Tây Nguyên vào văn xuôi,
và cho đến nay vẫn là cây bút văn xuôi viết hay nhất về miền núi ấy.
- Phong cách sáng tác:
Sáng tác của Nguyễn Trung Thành đề cập đến những vấn đề trọng đại của vận mệnh
dân tộc và nhân dân (tập trung viết về hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ), xây dựng những tính cách anh hùng; đồng thời mang đậm tính sử thi và cảm
hứng lãng mạn.
2) Truyện ngắn “Rừng xà nu”
- Xuất xứ & đóng góp:
Truyện ngắn “Rừng xà nu” đăng lần đầu trên tạp chí “Văn nghệ Quân giải phóng Trung
Trung Bộ” (1965), được đưa vào tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”.
- Hoàn cảnh sáng tác:
Truyện được viết vào đầu năm 1965, ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung
Bộ, trong không khí sôi sục của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đó là thời điểm sau khi Mỹ
ồ ạt đổ quân vào miền Nam và đánh phá ác liệt miền Bắc, cuộc kháng chiến của dân tộc
ta chuyển sang giai đoạn mới, chống lại cuộc chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ.
- Đề tài và chủ đề:
+ Đề tài: Truyện viết về số phận và con đường giải phóng của dân làng Xô Man ở Tây
Nguyên, trong thời kỳ đồng khởi trước 1960. Từ đó phản ánh số phận và con đường
chiến đấu để giải phóng của nhân dân miền Nam, của cả dân tộc nói chung.
 Đây là một đề tài đậm tính sử thi: hướng đến lịch sử cộng đồng, dân tộc và nhân dân.
+ Chủ đề của truyện được phát ngôn trực tiếp qua lời nhân vật cụ Mết – người đại diện
cho truyền thống cộng đồng: “Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải
nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”. Đó là chân lý lịch
sử, về con đường giải phóng của quần chúng nhân dân trong thời đại cách mạng.
 Chủ đề ấy thể hiện nội dung sử thi của tác phẩm, chi phối việc xây dựng hệ thống
hình tượng và cả hệ thống ngôn ngữ, giọng điệu.
- Tóm tắt:
Truyện kể về Tnú và dân làng Xô Man trong không gian cánh rừng xà nu bạt ngàn
chạy tít chân trời. Sau ba năm đi bộ đội, Tnú trở về thăm làng. Trong đêm ấy, quây quần
quanh bếp lửa, cả dân làng được nghe cụ Mết kể lại câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú
và cuộc nổi dậy của làng Xô Man. Tnú mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được dân làng nuôi dưỡng,
được anh Quyết giác ngộ. Tnú và Mai – sau này là vợ anh – làm liên lạc cho anh Quyết.
Anh Quyết hy sinh, Tnú vượt ngục về lãnh đạo dân làng. Thằng Dục ác ôn nhiều lần tìm
bắt Tnú nhưng không được, hắn bắt vợ con anh tra tấn dã man. Tnú không chịu được,
nhảy ra giữa kẻ thù và chúng đốt mười đầu ngón tay. Dân làng vùng dậy cứu Tnú nhưng
vợ con anh đã chết. Từ đó, Tnú tham gia quân giải phóng. Ở đoạn kết, Tnú chia tay dân
làng đi chiến đấu. Những đồi xà nu vẫn chạy tiếp nối đến chân trời.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 109

ĐỌC HIỂU VĂN BẢN


1) Hình tượng cây – rừng xà nu
Giới thiệu
- Xà nu là loại cây thuộc họ thông.
- Đây là loài cây khỏe, giàu sức sống, sinh sôi rất nhanh và ham ánh sáng mặt trời.
Vai trò
- Hình tượng xà nu đóng vai trò là motif chủ đạo của tác phẩm:
+ Là nhan đề của truyện: “Rừng xà nu”.
+ Là hình tượng trung tâm xuyên suốt toàn bộ tác phẩm
+ Trở thành biểu tượng cho cuộc sống và phẩm chất của nhân dân làng Xô Man.
+ Góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
- Vai trò “chủ âm” của hình tượng xà nu cũng được xác nhận qua chính lời kể của tác giả:
“Bắt đầu đến với ngòi bút, gần như không hề tính trước, là một khu rừng xà nu, những
cây xà nu. […] Đó là một khu rừng xanh tít tắp tận chân trời. Tôi yêu cây rừng xà nu từ
ngày đó. Ấy là một loại cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch, mỗi cây cao
vút, vạm vỡ, ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi…”
Sự xuất hiện
- Truyện ngắn mở đầu và kết thúc đều với hình ảnh hàng vạn cây xà nu “đến hết (hút)
tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi (rừng) xà nu nối tiếp đến chân trời”.
→ Kiểu kết cấu đầu cuối tương ứng này đã tạo nên bối cảnh sử thi làm nền cho câu
chuyện về Tnú và dân làng Xô Man.
- Trong tác phẩm không dưới hai mươi lần tác giả nhắc đến xà nu từ nhiều góc độ khác
nhau. Khi là cây xà nu, đồi xà nu, rừng xà nu; lúc là thân xà nu, cành xà nu, lá xà nu; khi
lại là vỏ xà nu, gỗ xà nu, nhựa xà nu, lửa xà nu, khói xà nu. Cây xà nu lúc hiện về từ trong
kỷ niệm, lúc hiện ra trước mắt, rất phong phú, đa dạng.
Ý nghĩa
(d1) Ý NGHĨA CỤ THỂ:
- Cây xà nu gắn bó mật thiết với từng bản làng, từng đời người Tây Nguyên.
Người dân làng Xô Man sinh ra dưới bóng cây xà nu, lớn lên sinh hoạt cùng với xà nu
và khi yên nghỉ họ cũng nằm dưới cánh rừng xà nu:
+ khói xà nu xông đen bảng nứa giúp Mai và Tnú viết được những con chữ đầu đời, mở
đường dẫn lối hướng về cách mạng;
+ cây, rừng xà nu bảo vệ cho cả làng: “Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực
lớn của mình ra, che chở cho làng”.
+ đồi xà nu là nơi cụ Mết và Dít tiễn Tnú đi bộ đội.
- Cây xà nu còn tham dự vào những sự kiện trọng đại của làng Xô Man, của Tây Nguyên.
Nó chứng kiến sự giác ngộ, sự hy sinh thầm lặng, lòng dũng cảm và ý chí quật khởi của
dân làng Xô Man:
+ Lửa xà nu thử thách ý chí cũng như lòng can đảm của Tnú.
+ Đuốc xà nu soi sáng cho dân làng vào rừng chuẩn bị vũ khí chiến đấu.
+ Lần tiếp theo, ánh lửa đuốc xà nu bừng sáng đỏ rực, lấp loáng ánh giáo mác, với tiếng
hô “Chém hết!” của cụ Mết, đã soi tỏ xác mười tên giặc, trong đó có thằng Dục ác ôn,
nằm sóng soài trên vũng máu, ngổn ngang quanh đống lửa xà nu.
+ Bên bếp lửa xà nu, tại nhà ưng, cụ Mết tập hợp buôn làng, kể về cuộc đời đầy bi tráng
của Tnú, kể về lịch sử hào hùng của bộ tộc.
 Cây xà nu, rừng xà nu đã trở thành một phần của sự sống Tây Nguyên, mang đặc trưng
Tây Nguyên.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 110

(d2) Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG:


❖ Tác giả không chỉ miêu tả xà nu từ góc độ sinh vật học mà còn miêu tả trong mối tương
đồng, mối quan hệ gắn bó với con người, trở thành biểu tượng cho con người.
❖ Trong văn học, ta thường gặp những trường hợp các loài cây mang tính chất biểu tượng:
cây tre tượng trưng cho người Việt Nam, cây trúc tượng trưng cho người quân tử, cây
đa là biểu tượng cho người già, cây kơ-nia là biểu tượng cho tình yêu, lòng chung thủy…
 Nhà văn Nguyễn Trung Thành lại tìm đến cây xà nu để gửi gắm những suy tư sâu sắc
về cuộc sống và con người Tây Nguyên.
- Cây xà nu là biểu tượng cho số phận bi thương của người dân Tây Nguyên:
+ Cây xà nu chịu nhiều đau thương dưới bom đạn của kẻ thù: “Cả rừng xà nu hàng vạn
cây không cây nào không bị thương… ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề… rồi dần
dần bầm ra, đem và đặc quyện thành từng cục máu lớn”, “Có những cây vừa lớn ngang
tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi (…) vết thương không lành được, cứ
loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết”.
+ Điều này cũng tương đồng với những tổn thất, mất mát, hy sinh của làng Xô Man (cái
chết đau đớn của anh Xút, bà Nhan, hai mẹ con Mai; mười ngón tay Tnú bị đốt nên
mỗi ngón mất hết một đốt), của nhân dân Tây Nguyên, dân tộc Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ.
- Cây xà nu là biểu tượng cho những phẩm chất cao đẹp của người dân Tây Nguyên:
+ Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời: “Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến
thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh náng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên
cao xuống từng luồng lớn, thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra,
thơm mỡ màng”.
+ Hình ảnh này tượng trưng cho người Strá nói riêng, của nhân dân Tây Nguyên nói
chung: kiên cường bất khuất, chân thật phóng khoáng, ham tự do yêu hòa bình, luôn
hướng về Đảng và cách mạng.
- Cây xà nu là biểu tượng cho sức sống bất diệt của người dân Tây Nguyên → Ba lứa cây
xà nu là biểu tượng cho ba lớp thế hệ người dân làng Xô Man, tạo nên một hình tượng
tập thể, một khối đoàn kết vững chắc:
+ Những cây xà nu cổ thụ biểu trưng cho lớp người già như cụ Mết:
• Cây xà nu cổ thụ sống lâu đời trên núi rừng Tây Nguyên, to khỏe, gió bão không
quật ngã nổi, che chở cho cánh rừng xà nu.
• Cụ Mết là người già làng, trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ,
giàu kinh nghiệm, là chỗ dựa cho cả buôn làng. Ngực cụ Mết “căng như một cây xà
nu lớn”, bàn tay của cụ “sần sùi như vỏ cây xà nu”, tiếng nói của cụ “ồ ồ, dội vang
trong lồng ngực” như tiếng vang vọng của núi rừng.
+ Những cây xà nu đã trưởng thành biểu trưng cho lớp người lớn lên trong đấu tranh
cách mạng như Tnú, Mai, Dít:
• Những cây xà nu đã trưởng thành mình mang thương tích nhưng không đạn pháo
nào có thể làm chúng gục ngã. “Những vết thương của chúng chóng lành như trên
một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh thay thế những cây đã ngã””.
• Lớp người lớn lên trong đấu tranh cách mạng như Tnú, Mai, Dít là những người
mang trong mình sức sống mạnh mẽ của làng. Tuổi trẻ của họ được thử thách, tôi
luyện trong đấu tranh, trong bom đạn. Vượt lên trên đau thương, họ trụ vững như
cây xà nu, như những chú chim đã đủ lông mao, lông vũ, tràn đầy sức sống.
+ Những cây xà nu mới mọc biểu trưng cho lớp thiếu niên, những người như Heng:
• “Cạnh một cây xà nu mới ngã đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình
nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”, “có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn
hoắt như những mũi lê” lao lên bầu trời.
• Những đứa trẻ mới lớn như Heng đã cứng cỏi, gan góc, linh hoạt, đã tạc mình theo
hình ảnh của thế hệ cha anh.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 111

 Từ đó có thể thấy một sự tương ứng:


➢ Nếu dòng nhựa xà nu truyền lại nguyên vẹn từ cây cổ thụ đến cây non mới mọc, thì
dòng máu Tây Nguyên cũng được truyền lại trọn vẹn từ lồng ngực thế hệ người già
sang trái tim thế hệ trẻ.
➢ Nếu rừng xà nu có một cây gục ngã đã có bốn năm cây khác mọc lên tiếp nối nhau thì
người Tây Nguyên cũng thế hệ nối tiếp thế hệ đứng lên chiến đấu: anh Quyết hy sinh
đã có Tnú và Mai tiếp bước, Mai ngã xuống đã có Dít đứng vào vị trí; Tnú lên đường
chiến đấu đã có Dít và Heng đảm nhận công việc cách mạng và công việc buôn làng
thay anh. Bên cạnh lớp người già từng trải như cụ Mết là cả một thế hệ giàu nhiệt
huyết, những người như Dít, Heng.
➢ Cuộc đồng khởi người dân làng Xô Man được miêu tả như sự nổi giận của cả khu
rừng xà nu: “Suốt đêm nghe cả rừng xà nu ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng”.
 Chính điều này đã góp phần khẳng định chân lý: sức sống của Tây Nguyên là bất diệt,
như chính cụ Mết đã từng nói với Tnú: “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”.
Nghệ thuật miêu tả
- Nguyễn Trung Thành đã sử dụng rộng rãi biện pháp nhân hóa, miêu tả cây xà nu như
con người: thân cây trở thành “thân mình” xà nu, nhựa xà nu như những “cục máu lớn”,
rừng xà nu “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng” v.v…
- Những đoạn miêu tả rừng xà nu ở đầu và cuối truyện đầy chất thơ hùng tráng.
- Những lớp ý nghĩa khác nhau của cây xà nu được người đọc tiếp nhận chính nhờ bút
pháp nhà văn có sự kết hợp giữa gợi và tả: Bút pháp tả đem đến hình ảnh cụ thể, sinh
động về cây xà nu; còn bút pháp gợi lại đem đến tính chất biểu tượng của cây xà nu.

 Sơ kết: Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Trung Thành.
➢ Hình tượng cây xà nu là một biểu tượng nghệ thuật, tượng trưng cho số phận, phẩm
chất, con đường đấu tranh của nhân dân Tây Nguyên, nói rộng ra là của dân tộc Việt
Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ: trải qua nhiều đau thương, nhưng vẫn anh
dũng, kiên cường, cương trực, thẳng thắn, hồn nhiên. Đồng thời hình tượng này cũng
đã giúp người đọc có những hiểu biết sâu sắc, niềm tự hào về con người Tây Nguyên,
sự sống Tây Nguyên.
➢ Kết cấu vòng tròn nhiều ý nghĩa, các biện pháp tu từ được sử dụng phối hợp (nhân hóa,
so sánh, trùng điệp, phóng đại, khoa trương), khiến cho cây xà nu hiện lên sinh động,
giàu đường nét, màu sắc, góp phần tạo nên vẻ đẹp sử thi của tác phẩm.
2) Hình tượng nhân vật Tnú
Qua nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành muốn thể hiện số phận và nhất là con đường
đấu tranh giải phóng của nhân dân Tây Nguyên, nhân dân miền Nam.
Hoàn cảnh
- Mồ côi cha mẹ, anh lớn lên trong tình yêu thương, đùm bọc của dân làng Xô Man, có tấm
lòng trong sạch, tâm hồn tươi sáng theo lời cụ Mết nói: “Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch
như nước suối làng ta”.
- Khi trưởng thành, anh giữ vai trò quan trọng đối với dân làng, có sức mạnh uy hiếp kẻ
thù (biểu hiện qua lời nói của thằng Dục: “Con cọp đó mà không giết sớm, nay nó làm
loạn rừng núi này rồi”). Trong quá trình tham gia cách mạng ở buôn làng, anh đã bị địch
bắt, trên lưng ngang dọc những vết dao chém. Đau xót hơn, anh đã phải chứng kiến
cảnh vợ con bị địch tra tấn dã man đến chết, bản thân anh cũng bị bắt trói, bị giặc đốt
mười ngón tay nên bị thương tật vĩnh viễn khi mỗi ngón đều bị mất đốt đầu tiên.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 112

Vẻ đẹp phẩm chất: Tnú là điển hình cho tính cách Tây Nguyên
- Gan góc, dũng cảm
+ Tính cách đó được thể hiện ngay từ khi còn nhỏ:
• Được được học chữ, nhưng thua Mai, Tnú đã thể hiện quyết tâm bằng cách đập
vỡ bảng, lấy hòn đá đập vào đầu đến chảy máu vì hay quên cái chữ.
• Đi liên lạc cho anh Quyết, Tnú tỏ ra thông minh, nhanh nhẹn: “Tnú hay quên chữ
nhưng đi đường thì đầu nó sáng lạ lùng”. Đặc biệt, Tnú đã “xé rừng mà đi”, “không
thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt trên mặt nước, cỡi
lên thác băng băng như một con cá kình”.
+ Đặc biệt sự dũng cảm gan góc được bộc lộ khi anh trực tiếp đối diện với kẻ thù:
• Giặc tra hỏi cộng sản ở đâu, Tnú đặt tay lên bụng và nói “Cộng sản ở đây này” và
lưng Tnú lại hằn thêm vết dao chém của giặc.
• Bị địch bắt, Tnú nuốt luôn lá thư để bảo mật. Dù bị địch tra tấn dã man nhưng Tnú
kiên quyết không khai báo để chứng tỏ sự trung thành với cách mạng, ý chí bất
khuất trước kẻ thù.
• Để Tnú và dân làng “bỏ mộng cầm giáo mác”; giặc đã đốt tay anh: “Nó quấn giẻ (đã
tẩm dầu xà nu) lên mười đầu ngón tay Tnú. Rồi nó cầm lấy một cây lửa. (…) Một
ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón (…) Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay
đã thành mười ngọn đuốc”. Đau đớn, “anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở
bụng (…) Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Nhưng anh vẫn giữ vững khí tiết của
người cộng sản, “không thèm kêu van”. → Lòng trung thành tuyệt đối với cách
mạng đưa anh đến niềm tin tưởng vững chắc vào sự thắng lợi của cách mạng.
Tiếng thét duy nhất của Tnú chính là hiệu lệnh thúc giục dân làng nổi dậy giết giặc.
❖ Đặc biệt, hình tượng đôi bàn tay Tnú là đôi bàn tay mang tính cách nhân vật.
 Đôi bàn tay khi còn lành lặn là đôi bàn tay nghĩa tình, trung thực: đôi bàn tay
biết cầm phấn học cái chữ của anh Quyết, đôi bàn tay lấy đá ghè vào đầu để tự
trừng phạt mình khi học hay quên cái chữ…
 Đôi bàn tay khi bị giặc đốt là đôi bàn tay gan góc, căm hờn: mười ngón tay bùng
cháy thành mười ngọn đuốc; với đôi bàn tay mỗi ngón cụt một đốt, Tnú vẫn
cầm súng lên đường chiến đấu…
- Sâu nặng nghĩa tình.
Lòng yêu thương của Tnú thể hiện qua tình cảm của anh với quê hương, gia đình.
+ Với quê hương: Tnú yêu những cánh rừng xà nu, từng dòng sông, ngọn núi. Ngày trở
về, bàn tay anh đã vốc nước từ suối, từ máng nước đầu làng. Lòng anh đầy xúc động
khi để cho vòi nước của làng mình giội lên khắp người như ngày trước. → Anh xứng
đáng với công lao người dân làng Xô Man nuôi anh lớn khôn.
+ Với những người thân yêu: Tnú là người bạn nghĩa tình của Mai khi còn nhỏ, là người
yêu chung thủy của Mai khi đã trưởng thành, là người chồng, người cha giàu tình
thương yêu. Chứng kiến cảnh vợ con bị địch tra tấn dã man, đầy lo lắng, đau đớn,
“anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay”. Căm thù tội ác của kẻ thù, “ở chỗ
hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”, bất chấp lời can ngăn của cụ Mết, anh vẫn
“nhảy xổ vào giữa bọn lính” để che chở cho vợ con: “hai cánh tay rộng lớn như hai
cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai”. → Động lực ghê gớm thôi thúc anh
lao vào kẻ thù với sức mạnh của hùm thiêng chỉ có thể được khởi phát từ một trái
tim rực lửa yêu thương và cháy bỏng căm hờn.
- Ý chí quật khởi, tinh thần cách mạng
+ Tnú mang ba mối thù lớn: mối thù của bản thân (lưng Tnú dọc ngang vết dao chém
của giặc, mười ngón tay anh bị giặc đốt), mối thù của gia đình (vợ con anh bị giặc sát
hại), mối thù của cả buôn làng (những người dân làng Xô Man bị giặc giết, những
cánh rừng xà nu bị đạn đại bác của giặc tàn phá). Mang ba mối thù lớn ấy, với đôi bàn
tay cụt đốt, Tnú vẫn lên đường chiến đấu để kiên quyết trả thù.
Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 113

• Sự vùng dậy của dân làng đã cứu thoát Tnú để rồi sau đó anh vượt lên nỗi đau
riêng mà vào giải phóng quân đi chiến đấu vì độc lập tự do của buôn làng, của đất
nước.
• Đôi bàn tay thương tật của anh vẫn sẵn sàng giáng những đòn trừng phạt vào kẻ
thù. Tnú đã kể cho dân làng nghe trong một trận chiến đấu, anh đã bóp chết tên
chỉ huy đồn bằng chính đôi tay của mình khi nó cố thủ trong hầm.
• Tnú tham gia bộ đội với một nhận thức sâu sắc hơn: giết được giặc ở bất cứ nơi
nào trên đất nước cũng là giết được thằng Dục, kẻ thù của gia đình anh, của quê
hương anh. Đó là một nhận thức sâu sắc mà anh rút ra được từ nỗi đau của bản
thân, của buôn làng, của đất nước, và từ cuộc chiến đấu của quê hương.
+ Anh có tính kỷ luật cao của một người chiến sĩ cách mạng: ba năm xa nhà với bao
nhung nhớ, nhưng phải có phép anh mới về và về đúng thời gian quy định.
+ Tnú là nhân vật điển hình cho con đường đấu tranh đi tới cuộc đồng khởi của người
dân Tây Nguyên, làm sáng tỏ chân lý của cuộc chiến tranh cách mạng lúc bấy giờ như
lời cụ Mết đã nói: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”
• Bi kịch của Tnú mang ý nghĩa điển hình cho bi kịch của người dân làng Xô Man
khi chưa cầm vũ khí chiến đấu (Tnú có thừa sức mạnh cá nhân cả về thể chất và
tinh thần, nhưng khi tay không trước kẻ thù tàn bạo có vũ khí thì anh vẫn thất bại
đau đớn: anh không cứu nổi vợ con, bản thân anh cũng bị giặc trói và đốt mười
đầu ngón tay; lửa đốt đôi bàn tay Tnú lại chính là lửa cháy từ nhựa xà nu).
• Tnú chỉ được cứu khi người dân làng Xô Man, dưới sự dẫn đầu của cụ Mết, đã cầm
giáo mác, ào ạt xông lên chém gục tên chỉ huy và tiểu đội lính ác ôn.
• Con đường của Tnú từ sức mạnh bộc phát cá nhân đến đấu tranh cách mạng với
cả sức mạnh tinh thần và sức mạnh vũ trang cũng là con đường của người dân
làng Xô Man, của người dân Tây Nguyên – con đường đấu tranh giải phóng dân
tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
• Hình tượng nhân vật Tnú và cuộc đấu tranh của dân làng Xô Man đặt ra một vấn
đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: “Để cho sự sống của đất nước và nhân
dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên,
cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác”.
 Sơ kết:
- Tác giả đã khắc họa thành công hình tượng Tnú – một anh hùng vừa mang dấu ấn thời
đại vừa tiêu biểu cho một tập thể anh hùng, vừa mang dáng dấp sử thi huyền thoại vừa
đậm chất Tây Nguyên.
- Khi xây dựng nhân vật Tnú, nhà văn đã kết hợp giữa cảm hứng sử thi và khuynh hướng
lãng mạn, ngôn ngữ đậm chất Tây Nguyên.
- Tnú tiêu biểu cho sức mạnh và ý chí, cho số phận và hành động của con người Tây
Nguyên, cho chủ nghĩa anh hùng của nhân dân miền Nam thời chống Mỹ. Chứa đầy
trong ngực anh là sức mạnh mênh mông và hoang dại của núi rừng: Tnú cường tráng
như một cây xà nu lớn, chảy trong huyết quản của anh là dòng máu anh hùng của xứ sở
Tây Nguyên truyền lại từ đời Đăm Săn, Xing Nhã. Hình ảnh Tnú gợi lại hình ảnh của
những dũng sĩ Tây Nguyên trong các bản trường ca cổ.
 Tiếp theo anh hùng Núp trong “Đất nước đứng lên”, Nguyễn Trung Thành (Nguyên
Ngọc) đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tnú mang tính sử thi: là người anh
hùng mang phẩm chất và lý tưởng cộng đồng, với vẻ đẹp hào hùng, tráng lệ.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 114

 Mối quan hệ giữa hai hình tượng: xà nu và Tnú 


Hai hình tượng ấy không tách rời mà gắn bó khăng khít với nhau, bổ sung cho nhau để
cùng trở nên hoàn chỉnh:
- Rừng xà nu sẽ không thể trải mãi tới chân trời trong màu xanh bất diệt, khi con người
còn chưa thấm thía bài học “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!” rút ra từ cuộc
đời Tnú.
- Mặt khác, nếu con người có phải như Tnú, cầm vũ khí đứng lên, thì mục đích sau cùng
của việc làm đó cũng không phải là hủy diệt, mà là để giữ cho sự sống, như cánh rừng
kia, mãi mãi sinh sôi.
 Nói cách khác, sự sống của Tổ quốc, của nhân dân, đó là mục đích; còn cầm vũ khí đứng
lên, đó là con đường duy nhất vào lúc bấy giờ có thể giúp chúng ta đạt được mục đích
cao đẹp ấy.
3) Hình tượng tập thể nhân dân anh hùng
Cụ Mết
- Ngoại hình: Dù đã sáu mươi tuổi nhưng vẫn khỏe mạnh, “vẫn quắc thước như xưa, râu
bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt vẫn sáng và xếch ngược… Ông ở trần, ngực
căng như một cây xà nu lớn”, tiếng nói của ông cụ “vẫn ồ ồ, dội vang trong lồng ngực”.
- Vị trí:
+ Ông cụ là già làng, rất có uy tín với dân làng, được mọi người kính trọng. Mỗi lời nói
của cụ Mết có tác động lớn đến dân làng. Có thể nói cụ là pho sử sống, là chỗ dựa tinh
thần của buôn làng. Khi cụ Mết kể câu chuyện của Tnú, dân làng đã lắng nghe trong
không khí trang nghiêm, xúc động. Lịch sử chiến đấu của làng Xô Man qua lời kể của
cụ Mết thấm sâu vào các thế hệ. Tiếng ra lệnh vang vang của cụ cất lên, dân làng
hưởng ứng mạnh mẽ làm nên đêm đồng khởi hào hùng khiến “cả rừng Xô Man ào ào
rung động… lửa cháy khắp rừng…”.
+ Ông cụ chính là cầu nối giữa truyền thống và hiện đại (trải qua hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và Mỹ), giữa Đảng và đồng bào Tây Nguyên. → Cụ Mết như một bảo tàng
sống của làng Xô Man, của người dân Strá.
• Tin tưởng tuyệt đối vào CM, cụ nói: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”.
• Trong những năm đen tối, cụ cùng dân làng Xô Man, từ thanh niên, ông già bà già,
đến lũ trẻ đi nuôi và gác cho cán bộ, năm năm chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt
hay giết trong rừng làng này.
+ Ông cụ vừa là người chỉ huy vũ trang, vừa là lãnh tụ tinh thần của dân làng:
• Cụ Mết rất có ý thức giáo dục truyền thống cho dân làng. Khi kể cho dân làng nghe
câu chuyện bi hùng của Tnú, ý ông muốn nhắc nhở mọi người về điều đó và phải
truyền lại cho muôn đời sau: “Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi,
thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể
lại cho con cháu nghe…”.
• Chứng kiến cái chết bi thảm của mẹ con Mai và sự bất lực của Tnú trước sự tra
tấn dã man tàn bạo của bọn thằng Dục, cụ Mết càng thấu hiểu: đối với kẻ thù “chỉ
có hai bàn tay trắng, chỉ có hai bàn tay không” thì không thể nào đối đầu với chúng
được, phải cầm vũ khí đứng lên. Do đó cụ đã chỉ ra cho dân làng thấy con đường
sống duy nhất là phải đánh giặc bằng vũ khí: “Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi,
bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo!”.
• Cụ đã cùng dân làng chuẩn bị vũ khí nổi dậy. Trong đêm đồng khởi, mệnh lệnh cụ
phát ra đơn giản nhưng đầy sức nặng: “Thế là bắt đầu rồi, đốt lửa lên!”. Và cụ đã
kêu gọi mọi người đoàn kết đứng lên giết giặc bằng bất cứ vũ khí gì có trong tay:
“Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy
một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm
trăm cây chông”.
Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 115

 Cụ Mết chính là linh hồn của dân làng, là cây xà nu cổ thụ tiêu biểu cho sức mạnh tinh
thần, cho tính cách quật cường của đồng bào Tây Nguyên. Ông vừa là người nối kết bao
thế hệ với truyền thống, với lịch sử quê hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên
trong cuộc chiến đấu hiện tại. Chính vì có một thế hệ cha ông như cụ Mết nên mới có
một thế hệ thanh niên trong cuộc chiến đấu hiện tại và thế hệ của Tnú, của Dít, Heng có
được sự trưởng thành lớn lao.
Dít
- Lúc còn nhỏ, Dít là một cô bé lanh lợi, rất gan dạ, nhanh nhẹn, tham gia đóng góp cho
cách mạng. Trong thời gian dân làng Xô Man chuẩn bị chiến đấu, rồi bị địch bao vây, cụ
Mết và Tnú dẫn đám thanh niên vào rừng, chỉ có Dít “cứ sầm tối lại bò theo máng nước
đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên”.
- Khi bị địch bắt, cô bé đã rất dũng cảm: “Chúng để con bé đứng giữa sân, lên đạn tôm xông
rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh
hai chân của nhỏ Dít… Nó khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười nó chùi nước mắt,
từ đó im bặt. Nó đứng lặng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của
nó lại quật lên một cái nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng”.
- Khi Mai bị giặc sát hại, Dít là cô bé ốm nhách, xót thương chị nhưng lầm lì không nói,
mắt ráo hoảnh, dồn nén đau thương vào trong lòng.
- Cứ thế Dít lớn lên cùng với cuộc đấu tranh của dân làng Xô Man. Cô trở thành người
lãnh đạo cuộc chiến đấu của buôn làng, là bí thư chi bộ, chính trị viên xã đội.
- Dít có tính kỷ luật cao, kiên định nhưng cũng có những tình cảm trong sáng, không kém
phần tha thiết yêu thương. Khi gặp lại Tnú, Dít không khỏi xúc động, nhìn anh rất lâu
với “đôi mắt mở to, bình thản, trong suốt”. Thế nhưng cô không quên trách nhiệm của
mình khi hỏi Tnú: “Đồng chí về có giấy không?” và tuyên bố dứt khoát: “Không có giấy,
trốn về thì không được, Ủy ban phải bắt thôi”. Sau khi xem kỹ giấy của Tnú cô lại buồn
tiếc: “Sao anh về có một đêm thôi?”.
 Dít là hiện thân cho sự lớn lên vượt bậc cùng cách mạng của lớp trẻ Tây Nguyên.
Heng
- Ngày Tnú ra đi lực lượng, bé Heng “mới đứng đến ngang bụng anh, chưa biết mang củi,
chỉ mới đeo xà-lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy”.
- Dần dần bé Heng cũng lớn lên cùng với cuộc chiến đấu ác liệt của làng Xô Man. Khi gặp
lại, Tnú không khỏi ngạc nhiên khi thấy bé Heng ngày xưa hôm nay đã có dáng vẻ của
“một người lính thật sự” khi “đội một cái mũ sụp xin được của anh giải phóng quân nào
đó, mặc một chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng”.
- Hơn thế, Heng thuộc từng lớp hầm bẫy, hố chông, trở thành người liên lạc như Tnú năm
xưa, biết tất cả đường đi nước bước, giúp Tnú tránh những bẫy đặt quân giặc trên
đường vào làng. Hình ảnh bé Heng dẫn đường cho Tnú khi anh về thăm làng gợi nhớ
đến hình ảnh Tnú trước đây dẫn đường cho anh Quyết.
 Heng chính là hình ảnh tiếp nối rất sống động, đầy tin tưởng của Tnú ở tương lai.
Mai
- Giàu tình yêu thương:
+ Với cách mạng: Từ nhỏ Mai đã làm liên lạc, tiếp tế lương thực nuôi cán bộ bảo vệ
Cách mạng.
+ Với chồng con: Mai là người bạn nghĩa tình, người yêu thủy chung của Tnú. Mai đã
chịu đựng trận đòn tàn bạo của kẻ thù, im lặng để bảo vệ Tnú và kiên gan bảo vệ đứa
con nhỏ đến hơi thở cuối cùng.
- Kiên cường, bất khuất: Khi bị giặc bắt, Mai ngẩng cao đầu nhìn thẳng vào kẻ thù, hy sinh
anh dũng.
 Mai cũng là biểu tượng cho số phận bi kịch và phẩm chất kiên cường của người dân TN.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 116

 Sơ kết:
- Những nhân vật này được khắc họa chủ yếu bằng bút pháp lý tưởng hóa với cảm hứng
ngợi ca, khẳng định.
- Tuy nhiên tác giả cũng chú ý miêu tả một số nét đặc trưng riêng cho các nhân vật để
bên cảnh việc thực hiện chức năng đại diện cho quần chúng cách mạng, họ vẫn có được
ít nhiều nét cụ thể, vẫn lấp lánh những vẻ đẹp khác nhau làm nên bộ mặt sinh động của
con người Tây Nguyên nói chung.
- Tuy ở các thế hệ khác nhau nhưng các nhân vật đều thể hiện tính chất đại diện cho cộng
đồng và cũng là cho những con người Việt Nam trong cuộc chiến đấu này. Ở họ nổi bật
là những phẩm chất chung của con người sống và chiến đấu với chủ nghĩa anh hùng
cách mạng của thời đại. Đó là một vẻ đẹp đầy sức sống, quyết tâm chiến đấu để bảo vệ
buôn làng, đất nước bằng tất cả tình yêu làng, yêu nước tha thiết, bằng sự căm thù giặc
sâu sắc, bằng ý chí kiên cường bất khuất và sức mạnh đoàn kết một lòng.

TỔNG KẾT
1) Nội dung
- Tác phẩm tái hiện được vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng của núi rừng, của con người và của
truyền thống văn hóa Tây Nguyên.
- Thông qua câu chuyện về những con người ở một bản làng hẻo lánh, bên những cánh
rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của
dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không
có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác.
2) Nghệ thuật
Nghệ thuật xây dựng cốt truyện, kết cấu
- Hai câu chuyện song hành, đan cài vào nhau: chuyện về cuộc đời Tnú và chuyện về cuộc
nổi dậy của dân làng Xô Man, trong đó chuyện về Tnú là tình tiết chính, là cốt lõi của
câu chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man.
- Kết cấu đầu cuối tương ứng (kết cấu vòng tròn): Mở đầu và kết thúc tác phẩm đều là
hình ảnh “đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới
chân trời”. Tác dụng của lối kết cấu này là tạo bối cảnh sử thi hùng vĩ làm nền cho hai
câu chuyện đan cài vào nhau: chuyện về cuộc đời bi tráng của Tnú và chuyện về cuộc
nổi dậy của dân làng Xô Man.
Nghệ thuật trần thuật: đậm tính sử thi và thích hợp với nội dung, với không gian
Tây Nguyên trong truyện
- Truyện có hai lớp thời gian: thời gian kể chuyện và thời gian các sự kiện được kể.
+ Thời gian kể chuyện chỉ trong buổi chiều và đêm Tnú về thăm làng Xô Man.
+ Còn thời gian của các sự kiện được kể lại rất dài: từ khi Tnú còn là cậu bé cùng Mai
vào rừng tiếp tế cho anh Quyết cho đến khi Tnú đi bộ đội giải phóng và ba năm sau
anh về thăm làng. Quá khứ, hiện tại có khi đan xen nhau.
 Cách phối hợp các lớp thời gian có tác dụng: mở ra được nhiều sự kiện, biến cố, tái hiện
cả một giai đoạn lịch sử trong dung lượng câu chữ của một truyện ngắn; con người, sự
kiện trong quá khứ hiện lên cụ thể, sinh động như đang diễn ra trước mắt.
- Phối hợp điểm nhìn của hai người kể: người kể ở ngôi thứ ba giấu mặt và người kể là
cụ Mết. Tác dụng của sự kết hợp này là khiến cho người đọc không chỉ đứng ngoài quan
sát, chứng kiến mà nhiều khi được nhập vào câu chuyện.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 117

Nghệ thuật xây dựng hình tượng


- Hình tượng nhân vật:
+ Hệ thống nhân vật trong truyện được lựa chọn để đại diện cho các thế hệ tiếp nối
nhau trong cuộc chiến đấu giải phóng của nhân dân:
Những nhân vật như Tnú, cụ Mết tiêu biểu cho người dân làng Xô Man, điển hình cho
tính cách Tây Nguyên. Tnú, cụ Mết có thế đứng vững chắc, ngạo nghễ như núi rừng
Tây Nguyên, có sức mạnh ào ạt như thác lũ Tây Nguyên.
+ Hình tượng nhân vật Tnú qua lời kể của cụ Mết mang vẻ đẹp sử thi như những anh
hùng trong các bản trường ca cổ Tây Nguyên: Đăm Săn, Xinh Nhã, Đăm Bơ-ri…
- Hình tượng xà nu vừa hiện thực vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng, cũng góp phần tạo
nên chất sử thi lãng mạn của tác phẩm:
+ Hình tượng cây xà nu tạo bối cảnh sử thi: mở đầu và kết thúc tác phẩm đều là hình
ảnh “đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới
chân trời”. Bối cảnh sử thi hùng vĩ này làm nền cho hai câu chuyện đan cài vào nhau:
chuyện về cuộc đời bi tráng của Tnú và chuyện về cuộc nổi dậy của người dân làng
Xô Man.
+ Cây xà nu có sức sống mãnh liệt, diệu kỳ như trong huyền thoại, là hình tượng mang
vẻ đẹp sử thi.
Ngôn ngữ nghệ thuật
- Ngôn ngữ sử thi mang vẻ đẹp trang trọng, hào hùng, tráng lệ.
- Lời kể của cụ Mết mang vẻ đẹp sử thi: gợi nhớ tới lối kể “khan” (kể trường ca, kể sử thi)
của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
+ Kể “khan”: Bên bếp lửa chung của làng, những bài “khan” được kể như hát suốt nhiều
đêm. Những trường ca đầy chất sử thi, kể về lịch sử mang màu sắc huyền thoại của
bộ tộc, về những người anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh và khát vọng của cộng đồng
(những Đăm San, Xinh Nhã, Đăm Bơ-ri…). Câu chuyện của Tnú mà cụ Mết kể cho dân
làng nghe là câu chuyện của thời hiện tại, nhưng vẫn được kể như là câu chuyện lịch
sử, với giọng điệu và ngôn ngữ trang trọng của sử thi, với thái độ chiêm ngưỡng qua
một “khoảng cách sử thi” đối với những con người và sự kiện được kể lại.
+ Lời kể của cụ Mết: dưới mái nhà ưng, bên bếp lửa chung của làng, trong không khí
của một đêm thiêng, người dân Strá lắng nghe cụ Mết kể về cuộc nổi dậy của làng Xô
Man và cuộc đời bi tráng của Tnú. Cả hai câu chuyện đều ở hiện tại, nhưng được kể
như câu chuyện của lịch sử, với giọng điệu và ngôn ngữ trang trọng đã gợi không khí
sử thi, tạo nên sự chiêm ngưỡng mang vẻ đẹp sử thi đối với con người và sự kiện sử
thi được kể lại.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 118

BÀI 16:
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (Nguyễn Minh Châu)

TIẾT: Phân môn: Đọc hiểu văn bản Ngày học:


TÌM HIỂU CHUNG
1) Nhà văn Nguyễn Minh Châu
- Vị trí:
Nguyễn Minh Châu “thuộc một trong số nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất
của văn học ta” trong những thập niên 80 của thế kỉ XX – những năm trước và đầu thời
kì Đổi mới. (Nguyên Ngọc).
- Phong cách sáng tác:
+ Sự tinh anh và tài năng của Nguyễn Minh Châu trước hết thể hiện ở quá trình đổi
mới tư duy nghệ thuật, ở những tìm tòi mang ý nghĩa cách tân. Từ cảm hứng sử thi
lãng mạn làm nên vẻ đẹp rực rỡ của các tác phẩm “Mảnh trăng cuối rừng” (1970),
“Dấu chân người lính” (1972), nhà văn chuyển dần sang cảm hứng triết luận về
những giá trị nhân bản đời thường.
+ Nguyễn Minh Châu có một cái nhìn đa diện trong khám phá bản chất con người, như
chính ông từng khẳng định: “Nhà văn có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà
văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.
→ Khi làm cho người đọc ý thức về sự thật, có khả năng nhìn thẳng vào sự thật, phát
hiện nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp, chằng chịt, thì văn chương đã ít nhiều đáp
ứng được cái nhu cầu nhìn nhận và hoàn thiện nhiều mặt nhân cách con người.
2) Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
- Xuất xứ & đóng góp:
+ “Chiếc thuyền ngoài xa” được sáng tác năm 1983, in trong tập “Bến quê” (1985), sau
được in riêng thành tập “Chiếc thuyền ngoài xa”.
+ Truyện ngắn in đậm phong cách tự sự - triết lý của Nguyễn Minh Châu; đồng thời
tiêu biểu cho xu hướng chung của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới: hướng nội, chú
ý khai thác số phận cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống đời thường.
- Chủ đề:
Truyện ngắn là sự day dứt của nhà văn về việc con người phải chấp nhận những nghịch
lý không đáng có. Đằng sau câu chuyện buồn về gia đình hàng chài, trái tim nhân hậu
của NMC vẫn ấm áp niềm tin yêu, sự trân trọng trước vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu
tử, sự can đảm và bao dung của người phụ nữ. Đó không phải kiểu vẻ đẹp chói sáng,
hào hùng mà là những hạt ngọc khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp lam lũ của đời thường.
- Tóm tắt:
Truyện ngắn kể về chuyến đi đến một vùng biển ở miền Trung của nghệ sĩ nhiếp ảnh
Phùng, đây cũng là nơi ngày xưa anh từng chiến đấu, để chụp ảnh nghệ thuật làm ảnh
lịch. Một buổi bình minh, nhiếp ảnh gia Phùng đã bất ngờ thu vào ống kính hình ảnh
tuyệt vời: chiếc thuyền ngoài xa. Nhưng khi chiếc thuyền cập vào bờ, Phùng tình cờ
chứng kiến một bi kịch nghiệt ngã, cay đắng xảy ra trong một gia đình ngư dân. Sau đó
anh lại vô tình có mặt tại tòa án huyện, tại nơi đó, người đàn bà bất hạnh trong gia đình
ấy đã thuật lại cho nhiếp ảnh gia Phùng và chánh án Đẩu (là bạn chiến đấu ngày xưa của
Phùng) về hoàn cảnh, tâm tư, nguyện vọng của mình. Kết thúc câu chuyện là nỗi ám
ảnh, day dứt không thôi của người nghệ sĩ nhiếp ảnh mỗi lần nhìn bức ảnh đen trắng
anh đã chụp hôm nào.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 119

ĐỌC HIỂU VĂN BẢN


1) Tình huống truyện

Giải thích khái niệm “tình huống truyện”


- [Định nghĩa] Tình huống truyện là cái sự kiện bất thường, đẩy nhân vật vào sự lựa chọn,
qua đó bộc lộ tính cách và quyết định số phận của nhân vật, nhờ đó sự sống hiện lên
đậm đặc, đồng thời thể hiện tư tưởng của tác phẩm và phong cách của tác giả.
- Có ba loại tình huống: tình huống hành động, tình huống tâm trạng và tình huống nhận
thức. Tình huống truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” là tình huống nhận thức, chủ yếu cắt
nghĩa giây phút “giác ngộ” chân lý của nhân vật.

Gọi tên tình huống


Tình huống của truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” là giây phút nhận ra chân lý của nhân
vật, gắn với hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng và sự “vỡ ra” của viên chánh án sau khi nghe
câu chuyện của người đàn bà hàng chài.

Diễn biến tình huống

1- Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng

- Phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng, đó là vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa.
+ Vẻ đẹp của chiếc thuyền:
• Sau nhiều lần chờ đợi, bỏ qua những khung cảnh khác, cuối cùng người nghệ sĩ đã
chụp được một bức ảnh nghệ thuật tuyệt vời với hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa.
Con thuyền ấy trong buổi bình minh hiện ra rất đẹp, ấn tượng như “một bức tranh
mực tàu của một danh họa thời cổ”.
• Theo Phùng thì “toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và
đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”:
✓ Về màu sắc: “bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do
ánh mặt trời chiếu vào.”
✓ Về đường nét: “mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe”, “tấm lưới nằm giữa hai
chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi”.
✓ Về con người: “ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang
hướng mặt vào bờ”.
+ Phản ứng của người nghệ sĩ:
• Tràn đầy xúc động, sung sướng vô cùng khi bắt gặp được cảnh “đắt” trời cho. Anh
cảm thấy choáng ngợp trước “cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn” và
đứng trước cảnh ấy, anh trở nên “bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”.
• Với người nghệ sĩ, khung cảnh đó chứa đựng “chân lý của sự hoàn thiện”, chiếc
thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ sương là hình ảnh của cái tận thiện, tận mỹ;
làm dấy lên trong Phùng những xúc cảm thẩm mỹ cao đẹp: khiến tâm hồn anh
cảm thấy “trong ngần”, như được gột rửa, thanh lọc, trở nên trong trẻo, tinh khôi.
Rồi anh chiêm nghiệm rằng “Bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Niềm hạnh phúc
của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc trong khám phá và sáng tạo, của sự cảm
nhận cái đẹp tuyệt diệu.

- Phát hiện thứ hai lại bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống, đó là vẻ
đáng sợ của chiếc thuyền khi lạ gần, là bi kịch trong gia đình người đàn bà hàng chài.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 120

+ Hóa ra đằng sau cái đẹp “toàn bích, toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên mặt biển xa
lại chẳng phải là “đạo đức”, là “chân lí của sự toàn thiện” như anh từng nghĩ, mà chỉ
là một hiện thực đau đớn, phũ phàng phơi bày trước mắt.
• Đó là một cảnh tượng phi thẩm mỹ.
✓ Từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà với
những đường nét xấu xí, mệt mỏi và cam chịu.
✓ Bên cạnh đó là một lão đàn ông thô kệch, ngoại hình nhiều nét độc dữ: “Tấm
lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ
bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt
đầy vẻ độc dữ… mặt đỏ gay”, và lời nói đanh ác khi “nói chõ lên thuyền như quát:
Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”.
• Đó là một cảnh tượng phi nhân tính.
✓ Người chồng đánh vợ thô bạo: “dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người
đàn bà”, “vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két” vừa nguyền
rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết
hết đi cho ông nhờ!”. Ông ta thật độc ác, coi việc đánh vợ như một phương cách
để giải tỏa những uất ức, khổ đau.
✓ Đứa con thương mẹ đã chạy ra cứu bằng cách đánh trả lại cha. Nó “dướn thẳng
người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng”
của người đàn ông, nhưng lão đã “dang thẳng cánh tay cho thằng bé hai cái tát”.
✓ Người mẹ cam chịu, nhẫn nhịn khi bị chồng đánh, giờ đây lại ứng xử lạ lùng:
miệng mếu máo gọi con rồi “ôm chầm lấy nó, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm
chầm lấy”, rồi “buông đứa trẻ thật nhanh, đuổi theo người đàn ông”.
+ Phản ứng của người nghệ sĩ trước cảnh tượng ấy cũng chuyển biến phức tạp.
• Cảnh tượng này khiến người nghệ sĩ choáng váng, bất ngờ đến thẫn thờ: “Tất cả
mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu tôi cứ đứng há
mồm ra mà nhìn”.
• Từng là người lính cầm súng chiến đấu để có vẻ đẹp thanh bình của thuyền biển
mênh mông, anh không thể chịu được khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ
một cách vô lí và thô bạo. Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng Phác, con trai lão,
đã kịp tới để che chở cho người mẹ đáng thương. Chỉ đến lần thứ hai, khi lại phải
chứng kiến cảnh ấy, Phùng mới thể hiện được bản chất người lính không cho phép
anh làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác: “Thế rồi chẳng biết tự bao giờ, tôi đã
vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”.
• Nhưng đồng thời anh cũng cay đắng nhận ra những điều ngang trái, xấu xa, bi kịch
trong gia đình ngư dân kia chính là thứ thuốc rửa quái đản, làm thước phim huyền
diệu mà anh dày công chụp được, bỗng hiện hình thật khủng khiếp, ghê sợ.

2- Câu chuyện người đàn bà hàng chài kể ở tòa án huyện


❖ Đây là câu chuyện về sự thật cuộc đời, nó giúp những người như Phùng và Đẩu hiểu
được nguyên do của những điều tưởng như vô lý.
- Bề ngoài, đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng thường xuyên hành
hạ, đánh đập thật khốn khổ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, vậy mà
vẫn nhất quyết gắn bó với lão đàn ông vũ phu ấy.
- Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản, chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong.
Nhưng nếu nhìn vấn đề một cách thấu suốt sẽ thấy suy nghĩ và xử sự của bà là không
thể khác được. Qua những lời giãi bày thật tình của người mẹ đáng thương đó mới thấy
nhiều điều sâu xa được ẩn chứa:
+ Nguồn gốc mọi sự chịu đựng, hi sinh của bà là tình thương vô bờ đối với những đứa
con: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 121

chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên
dưới chục đứa… phải sống cho con chứ không thể sống cho mình…”
+ Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc
nhỏ nhoi: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng tôi nó ăn no…”, “trên chiếc thuyền
cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”; “Ông trời sinh ra người
đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn..”.
 Qua câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc
nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của cuộc sống.
Ý nghĩa tình huống
- Khía cạnh nghịch lý của tình huống
+ Bức tranh thiên nhiên thì tuyệt mĩ nhưng bức tranh hiện thực thì trần trụi, cay đắng,
tàn nhẫn.
+ Chánh án Đẩu đầy thiện ý giúp đỡ nạn nhân, đề nghị nạn nhân từ bỏ người chồng vũ
phu nhưng lại bị nạn nhân từ chối quyết liệt.
+ Phùng – người nghệ sĩ và Đẩu – người cán bộ trở nên non nớt, ngây thơ trước chân
lí của đời sống, trước người đàn bà ngỡ như ngu muội, thất học.
- Khía cạnh nhận thức của tình huống:
+ Nhận thức về nghệ thuật và cuộc sống của người nghệ sĩ
• Cái đẹp ngoại cảnh có khi che khuất cái xấu của đời sống (ban đầu Phùng ngây
ngất trước vẻ đẹp bề ngoài của con thuyền đẹp như mơ, về sau anh nhận ra vẻ
đẹp ngoại cảnh đó đã che lấp cuộc sống nhức nhối bên trong con thuyền).
• Cái xấu cũng có thể làm cái đẹp bị khuất lấp (tìm hiểu sâu gia đình hàng chài,
Phùng lại thấy cuộc sống nhức nhối ấy làm khuất lấp nhiều nét đẹp của người đàn
ông, thằng Phác, nhất là người đàn bà).
• Từ sự phức tạp ấy, Phùng nhận ra rằng để hiểu được sự thật đời sống không thể
nhìn đơn giản, người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa chiều và sâu sắc hơn.
+ Nhận thức về con người và xã hội của người cán bộ
• Đằng sau cái vô lí là cái có lí (việc người đàn bà bị hành hạ là vô lí, nhưng người
đàn bà ấy không muốn rời bỏ chồng lại có lí riêng: cần chỗ dựa kiếm sống để nuôi
con cái khôn lớn).
• Đằng sau cái tưởng chừng đơn giản lại chất chứa nhiều phức tạp (ban đầu, Đẩu
tưởng li hôn là cách giải quyết bi kịch, sau anh nhận ra cuộc sống có những mối
quan hệ phức tạp hơn nhiều).
• Muốn giải quyết những vấn đề của cuộc sống, không chỉ dựa vào thiện chí, pháp
luật hoặc lí thuyết sách vở mà phải thấu hiểu cuộc sống và cần có giải pháp thiết
thực.

 Sơ kết
- Tình huống truyện có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống và bộc lộ được cái nhìn
nhân đạo của tác giả (mâu thuẫn giữa nghệ thuật giản đơn và cuộc đời phức tạp, mâu
thuẫn nằm ngay trong đời sống, thân phận và bản chất con người...)
- Tình huống nhận thức của truyện đã nhấn mạnh thêm mối quan hệ giữa nghệ thuật và
cuộc đời, khẳng định cái nhìn đa diện, nhiều chiều về đời sống, gợi mở những vấn đề
mới cho sáng tạo nghệ thuật.
- Tình huống truyện độc đáo và những tình huống nghệ thuật đặc sắc khác (thủ pháp đối
lập – tương phản, kịch tính trong hành động và diễn biến mạch truyện, chiều sâu tâm
lý, giàu chất triết lí) đã làm nên sức hấp dẫn cho tác phẩm.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 122

2) Nhân vật người đàn bà hàng chài và ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm
Nổi bật lên trong tác phẩm là hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài – một người
vô danh như bao người đàn bà vùng biển khác nhưng số phận con người ấy lại được tác
giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất. Từ hình tượng nhân vật người
đàn bà hàng chài, nhà văn gợi lên bao suy nghĩ về cuộc sống, về con người với tất cả nghịch
lí éo le, với tất cả sự đa dạng, phức tạp... mang tính triết lí và nhân văn sâu sắc.
- Số phận: ngay từ khi xuất hiện, ngay dáng vẻ đã là sự tương phản với khung cảnh thiên
nhiên trữ tình, thơ mộng, dự báo một số phận éo le.
+ Khung cảnh thiên nhiên thật đẹp, thật nên thơ. Cảnh biển trong ban mai như một
bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ: “mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe
vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời
chiếu vào”, “toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp”.
+ Tương phản với khung cảnh thiên nhiên là hình ảnh người đàn bà “trạc ngoài bốn
mươi”, thô kệch, mặt rỗ, khuôn mặt mệt mỏi, “tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”,
“tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới”.
+ Dáng vẻ đã làm hiện lên số phận lam lũ, khổ ải của người đàn bà hàng chài. Người vợ
này thường xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một
trận nặng” nhưng vẫn nhất quyết không li dị người đàn ông vũ phu ấy. Chính nghịch
cảnh éo le này lại làm ngời lên phẩm chất đẹp đẽ của người đàn bà hàng chài.
- Phẩm chất: một bà mẹ giàu lòng yêu thương, giàu đức hi sinh:
+ Vì cuộc sống của con mà người đàn bà hàng chài nhẫn nhục chịu đựng những trận
đòn vũ phu của người chồng:
• Thái độ cam chịu đầy nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài kì lạ đến mức khó
hiểu. Trước hành động hung dữ của người chồng “trút cơn giận như lửa cháy bằng
cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa
thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két”, người vợ vẫn “không hề kêu một tiếng,
không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Chẳng phải bà ta bị đòn nhiều
đến mức quen rồi không còn biết đau nữa. Cũng chẳng phải bà ta tăm tối, dốt nát
tới mức không còn chút ý thức về quyền sống của mình. Nguyên nhân sâu xa của
sự cam chịu nhẫn nhục ấy là lòng thương con, tất cả vì con của người mẹ.
• Trong cuộc sống mưu sinh đầy cam go, trên chiếc thuyền kiếm sống ngoài biển
xa, người đàn bà cần có người đàn ông khỏe mạnh và biết nghề để làm chỗ dựa
kiếm sống, để nuôi con khôn lớn. Ở hoàn cảnh con đông mà cuộc sống trên sông
nước đầy nhọc nhằn, bất trắc, nỗi lo cơm áo không lúc nào buông tha, liệu người
đàn bà hàng chài có sự lựa chọn nào tốt hơn?
+ Tình thương con của người đàn bà hàng chài thể hiện một đức hi sinh thầm lặng:
• Tình yêu thương thầm lặng thể hiện qua sự thỉnh cầu có vẻ lạ lùng của người đàn bà
hàng chài. Người vợ ấy có một thỉnh cầu duy nhất: xin chồng đừng đánh mình trước
mặt các con, “xin được với lão” đưa lên bờ mà đánh và đánh trong chỗ khuất để các
con không nhìn thấy. Người đàn bà hàng chài không muốn tâm hồn những đứa trẻ
bị thương tổn khi phải chứng kiến cảnh cha đánh đập, hành hạ mẹ. Người mẹ ấy
không muốn trong tâm hồn ngây thơ của con lại nhen nhúm mầm ác hướng vào
chính người cha vũ phu. Trong nỗi đau đớn, tủi nhục ê chề, người mẹ vẫn nghĩ tới
các con.
• Tình thương con của người đàn bà hàng chài còn thể hiện qua tình cảm, cảm xúc
trước việc Phác phản ứng lại cha và bị người cha đánh trừng phạt:
Khi Phác – đứa con của người đàn bà hàng chài bị người cha hung bạo “dang thẳng
cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát”, sau đó lão
bỏ đi thì người mẹ “dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn”. Người đàn bà gọi tên
con, “ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. Tại
sao lúc bản thân chịu đòn, đau đến mấy người đàn bà hàng chài cũng không kêu xin,

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 123

khóc lóc mà khi không bị đòn lại khóc? Người mẹ ấy vái lấy vái để đứa con là để “tạ
tội” với nó hay cầu xin nó đừng căm thù bố, đừng trở nên độc ác như bố nó? Phải
chăng người đàn bà cầu mong tình phụ tử ở con không đổ vỡ, không vì mẹ mà làm
tan nát tình cha con? Người mẹ không nghĩ đến mình mà chỉ nghĩ đến con, tất cả vì
con. “Tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu
thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài” – một sự hi sinh
thầm lặng như thế thật đáng thương và cũng thật đáng trọng.
- Trong đau khổ, tủi nhục ê chề, người đàn bà hàng chài vẫn hướng tới khát vọng hạnh
phúc gia đình:
+ Người đàn bà hàng chài kiên quyết không li dị vì thương con, vì mái ấm gia đình.
+ Người đàn bà hàng chài chắt chiu từng niềm vui hiếm hoi: những lúc trên thuyền vợ
chồng con cái sống hòa thuận, vui vẻ. Với người mẹ, không hạnh phúc nào hơn là lúc
ngồi nhìn đàn con được ăn no.
 Sơ kết
- Nét riêng: Ấn tượng mà nhân vật này gieo vào chúng ta chính là ở chỗ: bà là một thực
thể sinh động của cuộc đời. Cách sống, cách suy nghĩ của bà có tác động mạnh mẽ, sâu
sắc giúp cho hai nhà trí thức bừng tỉnh.
- Nét chung: Dẫu có những yếu tố tiêu cực, hạn chế trong suy nghĩ, hành động song nhân
vật vẫn đáng để chúng ta chia sẻ, cảm thông. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng
dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam sâu sắc, nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha
và đức hi sinh.
3) Những nhân vật khác
Người đàn ông hàng chài
- Vẻ bề ngoài: “mái tóc tổ quạ”,”chân chữ bát”, “hai con mắt đầy vẻ độc dữ”
- Số phận: Cuộc sống đói nghèo, vất vả, quẩn quanh bao nhiêu lo toan, cực nhọc đã biến
“anh con trai cục tính, hiền lành” xưa kia thành người chồng vũ phu, một lão đàn ông
độc ác. Cứ khi nào thấy khổ quá là lão đánh vợ, đánh như để giải tỏa uất ức, để trút cho
sạch nỗi tức tối, buồn phiền: “lão trú cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt
lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”.
- Phẩm chất: Trong đời vẫn có những kẻ như thế, nói như Nam Cao trước kia, chỉ để thỏa
mãn lòng ích kỉ, chúng tự cho mình cái quyền hành hạ mọi người. Lão đàn ông vừa là
nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính
những người thân của mình. Phải làm sao để nâng cao cái phần thiện, cái phần người
trong những kẻ thô bạo ấy.
Chị em cậu bé Phác
❖ Trong một gia đình mà bố mẹ có chuyện lục đục, đáng thương nhất là những đứa trẻ.
Chúng bị đẩy vào tình thế thật khó xử: biết đứng về phía ai, biết làm thế nào để trọn đạo
làm con?
- Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước con dao của thằng
em trai, không cho nó làm một việc trái với luân thường đạo lý. Chắc trong lòng cô bé
tan nát vì đau đớn: bố điên cuồng hành hạ mẹ, chỉ vì thương mẹ mà thằng em định cầm
dao ngăn bố… Cô bé lúc ấy là điểm tựa vững chắc của người mẹ đáng thương, cô đã
hành động đúng đắn khi cản được việc làm dại dột của đứa em, lại biết chăm sóc, lo toan
khi mẹ phải đến tòa án huyện.
- Còn thằng Phác lại thương mẹ theo kiểu một đứa con còn nhỏ, theo cái cách một đứa
con trai vùng biển; “nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như
muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt, nó “tuyên bố
với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 124

đánh”. Mặc dù thật khó chấp nhận kiểu bảo vệ mẹ của nó, nhưng hình ảnh thằng Phác
vẫn khiến người ta cảm động vì tình thương mẹ dạt dào.
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng
- Là một nghệ sĩ: Anh thực sự xúc động, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền
biển lúc bình minh.
- Là một người lính từng vào sinh ra tử, Phùng căm ghét mọi sự áp bức bất công, sẵn sàng
làm tất cả vì điều thiện, lẽ công bằng. Một người nhạy cảm như anh tránh sao khỏi nỗi
tức giận khi phát hiện ra ngay sau cảnh đẹp chiếc thuyền ngoài xa là sự bạo hành của
cái xấu, cái ác.
- Mới đầu, chứng kiến cảnh ông lão đánh vợ và người vợ nhẫn nhục chịu đựng, Phùng
hết sức “kinh ngạc”, anh “há mồm ra mà nhìn”, rồi sau một phản xạ tự nhiên, anh “vứt
chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. → Hành động ấy nỏi được nhiều điều: chiếc
thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo,
nhưng sự thật cuộc đời lại rất gần. Đừng vì nghệ thuật và quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ
thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời.
TỔNG KẾT
1) Nội dung
Tư tưởng nhân đạo:
- Với truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, tác giả đã lên án thói vũ phu tàn bạo, đồng
thời rung tiếng chuông báo động về tình trạng bạo lực trong cuộc sống:
+ Khi kể lại câu chuyện, nhân vật Phùng đã thể hiện thái độ lên án, căm phẫn trước thái
độ tàn bạo của người chồng và miêu tả gã đàn ông này như một con thú dữ: “mái tóc
tổ quạ”, “đi chân chữ bát”, “hai con mắt đầy vẻ độc dữ”, “hùng hổ, mặt đỏ gay”, “rút
trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa”, “trút cơn giận như lửa
cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, “vừa đánh
vừa thở hồng hộc”, “cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ
đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!””.
+ Nghệ sĩ Phùng không chỉ tỏ thái độ lên án, căm giận lão đàn ông vũ phu tàn bạo mà
còn miêu tả hành động của Phác ngăn cản cha, chống lại việc làm của cha. Phác “dướn
thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng”
của người cha. Mặc dù thật khó chấp nhận kiểu bảo vệ mẹ của Phác nhưng hành động
của Phác vừa cho thấy tình thương mẹ dào dạt vừa là thể hiện thái độ chống lại cái
ác. Với bản chất của người lính, Phùng đã không thể làm ngơ trước cái ác, bản thân
Phùng đã từng đánh nhau với lão đàn ông và bị thương nhẹ.
+ Qua truyện ngắn, Nguyễn Minh Châu cảnh báo tình trạng bạo lực đã trở thành hiện
tượng làm nhức nhối xã hội. Nó có thể lây lan, làm cho con người trở nên chai sạn và
khi con người không có lòng trắc ẩn thì rất dễ trở nên hung bạo.
- Truyện ngắn này là sự phát hiện và tôn vinh những vẻ đẹp người còn tiềm ẩn:
+ Người đàn bà hàng chài thầm lặng chịu đựng mọi sự đớn đau, chỉ đơn giản là cần
một chỗ dựa trong cuộc sống để nuôi con khôn lớn. Người đàn bà ấy là hiện thân vẻ
đẹp của tình mẫu tử với quan niệm “phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”.
Một sự cam chịu nhẫn nhục như thế thật đáng chia sẻ, cảm thông.
+ Thấp thoáng trong hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài là bóng dáng của
biết bao người phụ nữ Việt Nam bao dung, nhân hậu, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
- Con mắt nhà văn còn thể hiện nỗi lo âu đầy trách nhiệm đối với cuộc sống, con người:
+ Đó là nỗi âu lo cho một tâm hồn trẻ thơ như Phác có thể bị thương tổn. Còn gì đau
đớn hơn khi người con phải đánh lại cha mình để bảo vệ mẹ? Cậu bé sẽ trở thành
người như thế nào nếu môi trường sống không được thay đỏi tích cực?

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 125

+ Với truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, dường như Nguyễn Minh Châu muốn hướng
tới một giải pháp xã hội. Để con người thoát khỏi cảnh đau khổ, tăm tối, man rợ, cần
có những giải pháp thiết thực chứ không phải chỉ là thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp
đẽ nhưng xa rời thực tiễn.
+ Chính cuộc sống đói nghèo, vất vả, quẩn quanh với bao nhiêu lo toan, cực nhọc đã
biến “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” xưa kia thành một người chồng vũ phu,
thành một người đàn ông độc ác. Do vậy để chấm dứt sự bạo hành thì vừa phải nâng
cao nhân cách người, vừa phải nâng cao mức sống người.
Cách nhìn cuộc sống, mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống:
- Truyện ngắn như muốn nói với mọi người rằng cuộc sống đầy những phức tạp chứ
không đơn giản, một chiều:
+ Muốn chấm dứt những đau khổ của người đàn bà hàng chài, chánh án Đẩu đã khuyên
người vợ ấy li hôn. Anh tin giải pháp mình chọn cho người đàn bà này là đúng. Nhưng
sau khi trao đổi với người đàn bà hàng chài, anh vỡ lẽ ra bao điều mà trước đó anh
chỉ nghĩ đơn giản, một chiều.
+ Hóa ra lòng tốt của anh là lòng tốt phi thực tế. Anh bảo vệ luật pháp bằng sự thông
hiểu sách vở nên trước cuộc sống đích thực anh trở thành kẻ nông nổi, ngây thơ.
+ Anh đã “ngộ” ra những nghịch lí của đời sống – những nghịch lí con người buộc phải
chấp nhận. Trong cái tưởng chừng như nghịch lí lại chứa đựng những điều hữu lí.
Chánh án Đẩu không chấp nhận sự chịu đựng rất phi lí của người đàn bà hàng chài,
nhưng sau đó anh đã nhận ra cái lí sâu sắc: người vợ ấy cần có chỗ dựa trong cuộc
sống, tất cả vì các con.
 Truyện ngắn này như muốn nói: đừng nhìn một cách hời hợt mà cần phải nhìn sâu vào
bản chất đời sống. Chánh án Đẩu có thể có những cách giải quyết khác hợp lí hơn chăng:
xin cho người đàn bà việc làm khác để nuôi con, tránh khỏi người chồng vũ phu; giải
thích và xử lí theo pháp luật những hành vi thô bạo...?
- Truyện ngắn còn đặt ra những suy nghĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống:
+ Nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa” như một gợi ý về khoảng cách, về cự li nhìn nhận
đời sống. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp
huyền ảo, nhưng sự thực đời sống lại ở rất gần mà nhiều khi không nhận ra.
+ Giữa nghệ thuật và đời sống có khoảng cách, có độ chênh. Đó là độ chênh giữa cái
đẹp tuyệt đỉnh ở ngoại cảnh và sự thật trần trụi, khắc nghiệt của đời sống. Nghệ sĩ
Phùng đã chứng kiến chiếc thuyền ngoài xa đẹp như mơ, khi vào bờ thì từ đó bước
ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu, một lão đàn ông dữ dằn, độc ác, coi
việc đánh vợ như một phương cách để giải tỏa những nỗi uất ức, khổ đau.
+ Bức ảnh trắng đen cuối tác phẩm là một chi tiết giàu sức gợi. Mỗi lần nhìn kĩ vào tấm
ảnh, người nghệ sĩ vẫn thấy “hiện lên cai màu hồng hồng của ánh sương mai” – đó là
chất thơ, vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời nhưng cũng là biểu tượng của nghệ thuật. Và
nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà đang bước ra khỏi tấm ảnh”
– đó là hiện thân của những lam lũ, khốn khó, là sự thật cuộc đời. Chi tiết này toát lên
ý nghĩa: nghệ thuật chân chính không thể tách rời, thoát li cuộc sống, nghệ thuật
chính là cuộc đời và phải vì cuộc đời, vì con người. Do vật nó đòi hỏi người nghệ sĩ
đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời, phải trung thực, dũng cảm nhìn thẳng và nhìn
sâu sắc vào hiện thực để từ đó rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc đời.
Chủ nghĩa nhân đạo không thể xa lạ với số phận con người. Trước khi là một nghệ sĩ
biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét, vui buồn trước mọi
lẽ đời, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người.
+ Chính những thông điệp trên đã góp phần làm nên chiều sâu ý nghĩa cho tác phẩm,
thể hiện vẻ đẹp riêng trong văn xuôi của Nguyễn Minh Châu: vẻ đẹp của một cốt cách
nghệ sĩ đôn hậu, mẫn cảm, điềm đạm chiêm nghiệm lẽ đời để rút ra những triết lí

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 126

nhân sinh sâu sắc; và hơn hết là vẻ đẹp toát ra từ tình yêu tha thiết dành cho con
người, luôn khát khao kiếm tìm, phát hiện, tôn vinh những vẻ đẹp còn tiềm ẩn của
con người.

2) Nghệ thuật
Nghệ thuật xây dựng cốt truyện
- Ở tác phẩm này, nét độc đáo trong xây dựng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu, là cách
tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống.
- Nếu coi tình huống là sự kiện có ý nghĩa bộc lộ mối quan hệ, bộc khả năng ứng xử, thử
thách phẩm chất, tính cách, đôi khi tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm,
trong cuộc đời con người, thì với Phùng, việc chứng kiến lão đàn ông đánh vợ là một sự
kiện như thế.
+ Trước đó, Phùng nhìn đời bằng con mắt nghệ sĩ, anh rung động, say mê trước vẻ đẹp
“trời cho” của thuyền biển sớm mai.
+ Chính trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn nhất, anh bất ngờ
chứng kiến đôi vợ chồng từ con thuyền “thơ mộng” bước xuống, rồi lão đàn ông đánh
vợ một cách dã man và vô lí.
+ Tình huống đó được lặp lại một lần nữa, Phùng không chỉ chứng kiến người đàn bà
nhẫn nhục chịu đựng mà còn thấy được thái độ, hành động của chị em thằng Phác
trước sự hung bao của cha với mẹ.
+ Từ đó đến cuối truyện, Phùng đã có một cách nhìn đời khác hẳn. Anh thấy rõ những
cái ngang trái trong gia đình thuyền chài ấy, hiểu sâu thêm tính cách người đàn bà,
chị em thằng Phác, hiểu sâu thêm bản chất người đồng đội của anh (Đẩu) và hiểu
thêm chính mình.
- Tình huống truyện đã được Nguyễn Minh Châu đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy sâu
hơn nữa để phát hiện tính cách con người, phát hiện sự thật cuộc đời.
Ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật
- Người kể chuyện ở đây là nhân vật Phùng, hay nói đúng hơn, đó là sự hóa thân của tác
giả vào nhân vật Phùng.
+ Việc chọn người kể chuyện như thế đã tạo nên một điểm nhìn trần thuật sắc sảo,
tăng cường khả năng khám phá đời sống của tình huống truyện. Lời kể chuyện trở
nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục.
+ Giọng điệu người kể luôn thay đổi theo diễn biến tình tiết giàu kịch tính: lúc khách
quan, khi say sưa hùng biện, lúc hài hước, tự trào... Nổi bật lên là giọng điệu mang
sắc thái suy tư, chiêm nghiệm. Điều này có tác dụng làm cho tác phẩm vừa giàu chất
trữ tình, vừa gợi mở những suy tư mang tính triết lí sâu sắc.
- Ngôn ngữ các nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người:
+ Giọng điệu lão đàn ông thật thô bỉ, tàn nhẫn với những từ ngữ đầy vẻ tục tằn, hung
bao; những lời của người đàn bà thật dịu dàng và xót xa khi nói với con, thật đớn đau
và thấu trải lẽ đời khi nói về thân phận của mình; những lời của Đẩu ở tòa án huyện
rõ là giọng điệu của một người tốt bụng, nhiệt tình…
+ Việc sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo như thế đã góp phần khắc sâu thêm
chủ đề- tư tưởng của truyện ngắn.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 127

Bài 17:
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT (Lưu Quang Vũ)

TIẾT: Phân môn: Đọc hiểu văn bản Ngày học:


TÌM HIỂU CHUNG
1) Nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ
- Vị trí: Những năm 80 của thế kỷ XX, Lưu Quang Vũ nổi lên như một hiện tượng đặc biệt của sân
khấu kịch trường; từ đó trở đi, ông là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn
học nghệ thuật Việt nam hiện đại, với hàng loạt những vở kịch gây chấn động dư luận.
- Phong cách sáng tác:
+ Lưu Quang Vũ là một nghệ sĩ đa tài, sáng tác trên mọi lĩnh vực: làm thơ, viết văn, soạn kịch,
vẽ tranh…; ở lĩnh vực nào cũng bộc lộ một sức sáng tạo dồi dào, độc đáo.
+ Ở Lưu Quang Vũ, khát vọng được tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của đời sống để trao gửi
và dâng hiến, khát vọng về cái đẹp, cái thiện, về sự hoàn thiện nhân cách con người đã trở
thành cảm hứng sáng tác mãnh liệt.
2) Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
- Xuất xứ & đóng góp: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” viết năm 1981 (ra mắt công chúng lần đầu
năm 1984), là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, đã công diễn nhiều lần
trên sân khấu trong và ngoài nước.
- Hoàn cảnh sáng tác:
+ Những năm 80 của thế kỷ XX, ngọn gió của không khí đổi mới tư duy, ý thức dân chủ trong
đời sống xã hội đã ùa vào văn học, đặt ra cho văn học nhiều sứ mệnh mới:
• Hiện thực được phản ánh phải có tính đa diện, đa chiều.
• Số phận con người, vấn đề cá nhân cần được khám phá, thể hiện đầy đủ, sâu sắc hơn.
• Văn học cần đối thoại trực tiếp với công chúng về những vấn đề nóng bỏng của đời sống.
• Đấu tranh chống tiêu cực trở thành cảm hứng nhiệt thành của khá nhiều cây bút.
+ Với Lưu Quang Vũ, viết kịch chính là hình thức “xung trận” trực tiếp, có thể tác động vào quá
trình đổi mới xã hội một cách nhanh nhạy, hiệu quả. Với thể loại kịch, tài năng của Lưu Quang
Vũ đã được phát lộ, thăng hoa.
- Đề tài và chủ đề: Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành một vở kịch
nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, gửi gắm những suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc,
kết hợp phê phán một số tiêu cực trong lối sống hiện thời.
- Tóm tắt diễn biến vở kịch:
(1) Trương Ba giỏi đánh cờ, bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai, nên Nam Tào và Đế
Thích cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác hàng thịt vừa mới chết.
(2) Trú nhờ linh hồn trong thể xác hàng thịt, Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái: lý trưởng
sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, gia đình Trương Ba cũng cảm thấy xa lạ…; đặc biệt,
thân xác hàng thịt làm Trương Ba nhiễm một số thói xấu và những nhu cầu vốn không phải
của chính bản thân ông. → Trương Ba dằn vặt, đau khổ vì phải sống trái tự nhiên, giả tạo;
nhưng đành chấp nhận sự thật trong đớn đau, và ngậm ngùi thấm thía khi nhận thức rằng
phải thoả hiệp cùng xác hàng thịt để tồn tại.
(3) Con người vốn nhân hậu, yêu vợ, quý con thương cháu bị đẩy vào một cảnh ngộ đau xót:
bị người thân xa lánh, chối bỏ.
(4) Trước nguy cơ tha hóa về nhân cách và sự phiền toái do mượn thân xác của kẻ khác,
Trương Ba quyết định trả lại xác cho hàng thịt. Nhân cái chết của cu Tị, Trương Ba từ chối
quyền được tái sinh một lần nữa, nhường quyền sống cho cụ Tị và chấp nhận ra đi mãi mãi,
thoát khỏi kiếp “sống nhờ” với nghịch cảnh “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.
- Vị trí đoạn trích: Đoạn trích là một phần của cảnh VII và Đoạn kết của vở kịch. Đây là khi cuộc
đối đầu giữa Hồn và Xác trong nhân vật Trương Ba lên đến cao trào và Hồn có nguy cơ bị Xác
lấn át, ông càng bị người thân trong gia đình nghi ngờ, xa lánh. Vì thế, nỗi đau khổ, dằn vặt trong
nhân vật phát triển đến đỉnh điểm để từ đó đi tới quyết định cuối cùng vô cùng cao thượng.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 128

ĐỌC HIỂU VĂN BẢN


0) Tình huống kịch
Xác định tình huống
- Tình huống kịch của tác phẩm là bắt đầu từ chỗ kết thúc của tích truyện dân gian.
+ Trong truyện dân gian, khi hồn được nhập vào thân xác anh hàng thịt, nhân vật Trương
Ba tiếp tục sống bình thường, hạnh phúc.
+ Trong kịch của Lưu Quang Vũ, tác giả lại tập trung diễn tả tình cảnh trớ trêu, nỗi đau khổ
giày vò của Trương Ba từ khi “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.
- Đoạn trích là cảnh cuối, nghĩa là lúc xung đột trung tâm của vở kịch (linh hồn và thân xác
trong nhân vật Hồn Trương Ba) lên đến đỉnh điểm.
Tóm tắt diễn biến tình huống
- Khi hồn Trương Ba được sống “hợp pháp” trong xác anh hàng thịt, mọi sự càng trở nên rắc
rối, éo le:
+ Ba tháng “ngụ cư” trong xác lạ, hồn Trương Ba có nguy cơ bị thân xác – đầy ham muốn
bản năng của anh hàng thịt – lấn át.
+ Nó đã phải trải qua những cuộc đấu tranh gay gắt với chính thể xác mà mình trú ngụ.
+ Nó ngày càng trở nên xa lạ, đáng sợ trong mắt người thân, và tự chán chính mình. Tâm
trạng ấy đã được thể hiện qua lời nói của nhân vật ở ngay đầu đoạn trích: “Tôi không
muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi! Cái thân
thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái linh
hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó được tách ra khỏi cái thân xác này, dù chỉ một lát!”
- Có thể thấy tình huống kịch ở đây được diễn biến qua các bước:
(1) Hồn Trương Ba cảm thấy không thể sống như thế này mãi. Hồn muốn tách ra khỏi thân
xác kềnh càng, thô lỗ.
(2) Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác với sự giễu cợt, tự đắc của Xác khiến Hồn càng khổ đau,
cảm thấy bế tắc.
(3) Thái độ, cư xử của những người thân trong gia đình (người vợ, đứa cháu và nhất là chị
con dâu mà Trương Ba hằng thương yêu, tin cậy) khiến ông càng đau khổ, tuyệt vọng
để đi đến quyết định giải thoát.
(4) Cuộc gặp gỡ, đối thoại cuối cùng của hồn Trương Ba với tiên Đế Thích và quyết định
dứt khoát của hồn Trương Ba.
- Trong diễn biến như thế, hồn Trương Ba đã đi đến một quyết định dứt khoát:
+ Nhân vật độc thoại nội tâm, quyết không chịu khuất phục thân xác và tự đánh mất mình:
“Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? (…) Không cần
đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”
+ Sau đó, nhân vật lấy nén hương châm lửa thắp lên để gọi tiên Đế Thích. Bước ngoặt này
chuẩn bị cho việc giải quyết xung đột kịch về sau: hồn Trương Ba đã chấp nhận cái chết
vĩnh viễn, khước từ cuộc sống không phải là mình.
Ý nghĩa tình huống
- Tình huống kịch nói trên thể hiện những bi kịch (những mâu thuẫn xung đột) ở nhân vật
hồn Trương Ba và cách giải quyết mâu thuẫn ở nhân vật này. Qua đó:
+ bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật.
+ đồng thời, làm toát lên ý nghĩa tư tưởng sâu sắc của đoạn trích và tác phẩm.
- Xây dựng tình huống và giải quyết xung đột như vậy, Lưu Quang Vũ đã gửi gắm một triết lí
sâu sắc về lẽ sống, lẽ làm người: Cuộc sống thật đáng quý nhưng không phải sống thế nào
cũng được.
+ Nếu sống vay mượn, sống chắp vá, không có sự hài hòa giữa vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách
và nhu cầu vật chất thì con người chỉ gặp bi kịch mà thôi.
+ Cuộc sống của mỗi con người chỉ thực sự hạnh phúc, chỉ có giá trị khi được sống đúng là
mình được sống tự nhiên trong một thể thống nhất.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 129

1) Mâu thuẫn xung đột giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt
Vai trò của xung đột
Xung đột giữa Hồn và Xác là xung đột trung tâm của vở kịch, được đẩy tới cao trào
và cần được giải quyết ở cảnh VII.
Nguyên nhân của xung đột
- Có thể nói Trương Ba đã chết một cách vô lí. Ai cũng biết cái chết của Trương Ba là do
sự vô tâm và tắc trách của Nam Tào.
- Nhưng sự “sửa sai” của Nam Tào và Bắc Đẩu (theo lời khuyên của Đế Thích) nhằm trả
lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn: linh
hồn mình phải trú nhờ trong thân xác của kẻ khác. → Do phải sống nhờ trong thể xác
anh hàng thịt, hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên của xác
thịt, dần dần bị nhiễm độc bởi cái tầm thường của xác thịt anh đồ tể. → Linh hồn nhân
hậu, trong sạch, bản tính ngay thẳng của Trương Ba xưa kia, nay vì phải sống mượn, gá
lắp, tạm bợ và lệ thuộc, nên chẳng những đã không sai khiến được xác thịt thô phàm
của anh hàng thịt, mà trái lại còn bị cái xác thịt ấy điều khiển.
Diễn biến của xung đột
(c1) Mong muốn của hồn Trương Ba:
Ý thức được điều đó, linh hồn Trương Ba dằn vặt đau khổ và quyết tâm chống lại bằng
cách tách ra khỏi xác thịt:
- Nhân vật bày tỏ tâm trạng chán ghét chính bản thân mình: “Tôi không muốn sống
như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi!”.
- Hồn Trương Ba đã bộc lộ suy nghĩ về cái xác, cho rằng nó chỉ là “cái thân thể kềnh càng
thô lỗ”, thể hiện thái độ đối với cái xác: “bắt đầu sợ” và “chỉ muốn rời xa” ngay tức khắc,
cho thấy ông không thể chịu đựng tình trạng này lâu hơn được nữa.
- Rồi hồn Trương Ba thể hiện mong muốn tha thiết bấy lâu nay của mình: “Nếu cái linh
hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó được tách ra khỏi cái thân xác này, dù chỉ một
lát!”. Đó là cái khao khát được tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể xác.
 Hàng loạt những câu cảm thán với giọng điệu cao trào cho thấy những dằn vặt trong
hồn Trương Ba đã bị dồn nén lâu ngày và phát triển lên đến cao trào, bùng lên thành
một khát khao cháy bỏng.
 Mâu thuẫn xung đột này càng thể hiện rõ hơn trong màn đối thoại giữa Hồn và Xác.
(c2) Lý lẽ của hồn Trương Ba:
- Lúc đầu, khi xác hàng thịt lên tiếng, hồn Trương Ba tỏ vẻ coi khinh xác hàng thịt:
+ Ông cho rằng xác hàng thịt vốn “không có tiếng nói, mà chỉ là xác thịt âm u đui mù”.
+ Ông phủ nhận quyết liệt sự tồn tại của phần xác, cho rằng xác không có đời sống, mà
chỉ là “cái vỏ bên ngoài”, “không có ý nghĩa”, “không có tư tưởng”, “không có cảm xúc”,
hoặc nếu có thì chỉ là những thứ thấp kém mà bất cứ con thú nào cũng có được.
+ Đặc biệt, phần hồn luôn gọi phần xác bằng “mày” và luôn nói với xác bằng giọng điệu
coi thường, mắng mỏ: “Vô lý”, “Nói láo!”, “Im đi!... đã bảo mày im đi”, “Không!” v.v…
- Sau đó, khi xác hàng thịt nhắc lại những hành động bản năng mà hồn Trương Ba đã
“tham dự” vào, hồn Trương Ba đổ tội cho phần xác, cho rằng tất cả sự thay đổi, biến
chất của mình là do phần xác gây nên: “Đấy là mày chứ, chân tay mày, hơi thở của mày...”.
Mỗi một chữ “mày” là một lần gằng giọng, dằn mặt của hồn đối với xác.
- Cuối cùng, hồn Trương Ba đi đến những đúc kết về quan niệm của mình. Ông chỉ ra sự
đối lập về phẩm chất giữa hồn và xác, khẳng định bản thân vẫn luôn cao đẹp, để từ đó
đi đến phủ nhận sự phụ thuộc của hồn vào xác: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên
vẹn, trong sạch, thẳng thắn”, “Ta cần gì đến cái sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo”.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 130

(c3) Phản ứng của xác hàng thịt:


❖ Trước mong muốn được tồn tại độc lập và lý lẽ của hồn Trương Ba, xác hàng thịt đã
phản bác lại và thể hiện hắn vẫn muốn tồn tại mãi trong tình trạng này.
- Ngay từ tiếng nói đầu tiên, xác hàng thịt cũng tỏ ra coi thường hồn Trương Ba:
+ Hắn cho rằng hồn Trương Ba cũng chỉ là “cái linh hồn mờ nhạt”.
+ Hắn phản bác lại hồn Trương Ba, đã ngạo nghễ cho rằng xác thịt cũng có tiếng nói,
đã tự hào tuyên bố về “sức mạnh ghê gớm” có khả năng “sai khiến” và “lấn át” cả phần
“linh hồn cao khiết” của Trương Ba. Rõ ràng đó là lời chế giễu, bỡn cợt Hồn cao khiết
nhưng vô dụng, Xác đui mù nhưng đầy quyền năng.
+ Xác hàng thịt rất ranh mãnh khi xưng “tôi” và gọi “ông Trương Ba”, để khẳng định
chỉ có hồn “nặng lời” với xác, còn hắn thì vẫn “nhã nhặn” với hồn Trương Ba.
- Khi bị đổ tội, xác hàng thịt cười nhạo vào lý lẽ mà hồn Trương Ba đưa ra. Cách nói
chuyện của nó rất điềm tĩnh và đầy mỉa mai, khi cho rằng những biến chất của phần
hồn là do góc khuất đen tối trỗi dậy: “Này nhưng ta nên thành thật với nhau một chút:
Chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì?... đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng
lâng cảm xúc sao? Để thoả mãn tôi, chẳng lẽ ông không tham dự vào chút đỉnh gì?”.
- Trong suốt cuộc đối thoại, xác hàng thịt luôn phủ nhận mong muốn độc lập của hồn:
+ Hắn đã rất nhiều lần khẳng định sự gắn bó, phụ thuộc của hồn vào xác: “ông không
tách ra khỏi tôi được đâu”, “Hai ta đã hòa với nhau làm một rồi!”, “Chẳng có cách nào
chối bỏ tôi được đâu!”
+ Thậm chí, hắn còn cho rằng chính xác mới có vai trò quan trọng, hồn muốn tồn tại
phải nương nhờ vào xác: “Mà đáng lẽ ông phải cảm ơn tôi”, “tôi là cái hoàn cảnh mà
ông buộc phải quy phục”, “Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn.”
+ Cuối cùng, xác hàng thịt đã ve vãn được hồn Trương Ba thỏa hiệp: “Tôi đâu muốn
làm khổ ông, bởi tôi cũng rất cần đến ông. Thôi, đừng cãi cọ nhau nữa! Chẳng còn cách
nào khác đâu! Phải sống hoà thuận với nhau thôi!” vì “chúng ta tuy hai mà một”.
(c4) Phản ứng của Hồn Trương Ba:
- Xác hàng thịt ranh mãnh đã dồn hồn Trương Ba vào thế đuối lý. Rõ ràng trong thân xác
anh hàng thịt, hồn Trương Ba bị lôi kéo, bị tha hóa, không còn là chính mình như trước
đây. Đó là sự thật không thể chối cãi! Cho nên, hồn Trương Ba chỉ còn biết bịt tai lại
không muốn nghe xác hàng thịt nói nữa, đồng thời tỏ ra ấp úng “Nhưng… Nhưng…”
- Trước những “lí lẽ ti tiện” của xác thịt, hồn Trương Ba đã nổi giận, đã khinh bỉ, đã mắng
mỏ xác thịt hèn hạ. Nhưng đồng thời hồn cũng ngậm ngùi thấm thía nghịch cảnh mà
mình đã lâm vào, chỉ còn biết thốt lên tuyệt vọng “Trời!”, rồi đành nhập trở lại vào xác
thịt trong yên lặng.
 Màn đối thoại đến đây là kết thúc trong sự “bần thần”, “lặng lẽ” của xác hàng thịt ngồi
bên chõng giờ đã lại mang hồn Trương Ba.
Ý nghĩa của xung đột
Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt đã khiến cho người xem khám phá
ra nhiều điều về đời sống và bản chất con người, đồng thời gợi nhiều suy ngẫm sâu sắc:
- Trương Ba được trả lại cuộc sống, nhưng lại là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải sống
chung với sự dung tục và bị sự dung tục đồng hóa.
- Qua đó, tác giả cảnh báo: khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu cái dung
tục sẽ ngự trị, sẽ thắng thế, sẽ lấn át và tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý
bên trong con người. Vì vậy cần đấu tranh để loại bỏ sự dung tục, giả tạo để cuộc sống
trở nên tươi sáng, đẹp đẽ và nhân văn hơn.
Nghệ thuật xây dựng xung đột
[Phần III/2]

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 131

2) Mâu thuẫn xung đột giữa hồn Trương Ba và những người thân trong gia đình
Vai trò của xung đột
Xung đột giữa hồn Trương Ba và những người thân trong gia đình chính là phần cao
trào trong bi kịch của nhân vật.
Nguyên nhân của xung đột
- Do sự tắc trách của quan thiên đình và sự vội vàng của Đế Thích, Trương Ba - một nông
dân hiền lành, giỏi đánh cờ - đã bị chết nhầm & được phục sinh trong xác anh hàng thịt.
- Từ khi hồn phải trú ngụ trong thân xác anh hàng thịt để sống, hồn Trương Ba có những
thay đổi ngày càng rõ rệt. Chứng kiến và phải chịu đựng những thay đổi này, trước hết
là những người thân trong gia đình, bạn bè: người vợ, cái Gái (đứa cháu), chị con dâu.
Diễn biến của xung đột
(c1) Phản ứng của vợ Trương Ba
Người gần gũi với Trương Ba nhất, đó chính là vợ ông.
- Bà đã chỉ ra những thay đổi của ông: “Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm
vườn ngày xưa”.
+ Ông thiếu quan tâm đến bà con hàng xóm: “Ông bây giờ còn biết đến ai nữa!”;
+ đã có những biến chất, không còn hết lòng yêu thương vợ con như trước nữa, mà chỉ
“thảnh thơi... với cô vợ người hàng thịt”;.
- Bà đã bày tỏ thái độ:
+ muốn bỏ đi: “Có lẽ tôi phải đi... Đi cấy thuê làm mướn ở đâu cũng được... đi biệt...”;
+ thậm chí bà muốn được chết: “Cái thân tôi thì sao trời lại không bắt đi cho rảnh!”
(c2) Phản ứng của cháu nội Trương Ba
Người tiếp theo đó chính là cái Gái – cháu nội Trương Ba.
- Cái Gái thay đổi cách xưng hô: chuyển thành “ông - tôi”, tiếng gọi “ông nội” được thay
bằng “lão đồ tể”.
- Cô bé đã chỉ ra những thay đổi của ông: Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng
chú không còn khéo léo, nhẹ nhàng khi chăm sóc cây cối, khi chữa diều như trước nữa:
✓ “Lúc ông chiết cây cam, bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái chồi non, chân ông to
như cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm! Ông nội đời nào thô lỗ phũ phàng
như vậy!”
✓ “Còn cái diều của Cu Tị nữa,… ông cầm lấy đòi chữa cho nó, thế là ông làm gãy cả nan,
rách cả giấy, hỏng mất cái diều đẹp mà cu Tị rất quý!”
- Cuối cùng, chính người cháu nội này đã bày tỏ thái độ với ông:
+ khẳng định “Tôi không phải là cháu của ông!”, “Ông nội tôi chết rồi”, “Ông xấu lắm, ác lắm!”;
+ thậm chí còn xua đuổi ông quyết liệt: “Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”
(c3) Phản ứng của con dâu Trương Ba
Người có vẻ thấu hiểu cho Trương Ba chính là cô con dâu.
- Chị đã an ủi ông về chuyện cái Gái: “Nó rất yêu thương ông nội. Đêm nào nó cũng khóc
thương ông... Nó cất giữ nâng niu từng chút kỉ niệm của ông… Chỉ tại nó nghĩ thầy không
phải là ông nội của nó”.
- Chị bày tỏ sự thông cảm, chia sẻ với ông: “con biết giờ thầy khổ hơn xưa nhiều lắm”.
- Nhưng chính chị cũng lo sợ trước những thay đổi của ông, xót xa mong muốn ông trở
lại như xưa: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng
thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần,
mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không
nhận ra thầy nữa... Con càng thương thầy, nhưng thầy ơi, làm sao, làm sao giữ được thầy
ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi!”.
Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 132

Ý nghĩa của xung đột


Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba với người thân đã khiến cho người xem khám phá
ra nhiều điều về đời sống và bản chất con người, đồng thời gợi nhiều suy ngẫm sâu sắc:
- Không phải ngẫu nhiên, tác giả không đưa anh con trai thực dụng của Trương Ba vào
màn đối thoại này. Các cuộc đối thoại với vợ, con dâu, cháu gái càng làm cho Trương Ba
đau khổ hơn. Ông hiểu những gì đã, đang và sẽ gây ra cho người thân là rất tệ hại mặc
dù ông không hề muốn điều đó.
- Sự khác nhau trong thái độ của người vợ, con dâu và cháu gái trước sự biến đổi và tha
hóa của Trương Ba đã thể hiện được đặc tính và phẩm chất của từng người:
+ Vợ Trương Ba buồn bã, đau khổ nhưng vốn bản tính vị tha nên định nhường Trương
Ba cho cô vợ hàng thịt.
+ Con dâu Trương Ba thấu hiểu hoàn cảnh trớ trêu của bố chồng nhưng là người con
hiếu thảo nên chỉ thông cảm và xót xa mà thôi.
+ Trái lại, cái Gái, cháu Trương Ba, thì phản ứng quyết liệt và dữ dội. → Tâm hồn tuổi
thơ vốn trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường, dung tục nên không chấp nhận
người ông trong thể xác anh hàng thịt thô lỗ. Tuy nhiên, họ chỉ là những người dân
thường, họ không giúp gì được cho tình trạng hiện tại của Trương Ba.
- Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật, bằng cách nói riêng của mình, đã khiến hồn
Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi.
+ Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần, muốn vỡ oà, tuôn trào. Con người
vốn nhân hậu, yêu vợ, quý con thương cháu bị đẩy vào một cảnh ngột cô đơn tưởng
chừng như tuyệt vọng.
+ Tác giả đã để cho hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ lên đến
đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng quyết liệt:
“Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ... Nhưng lẽ nào ta lại chịu
thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình?”.
+ Xung đột đến đỉnh điểm, đòi được giải quyết. Tình huống này đã thúc đẩy Trương Ba
phải lựa chọn, và sau màn độc thoại nội tâm đó là hồn Trương Ba thách thức xác anh
hàng thịt bằng những câu hỏi tự vấn: “Có thật là không còn cách nào khác?” và phản
kháng quyết liệt: “Không cần đến đời sống do mày mang lại. Không cần!”
Nghệ thuật xây dựng xung đột [Phần III/2]
3) Cách giải quyết mâu thuẫn xung đột: màn đối thoại giữa hồn TB và Đế Thích
Vai trò của màn đối thoại
- Đối diện với sự tha hóa của bản thân và bi kịch bị người thân xa lánh, Trương Ba đã chủ
động đối thoại với Đế Thích và có những lựa chọn khó khăn nhưng đầy ý nghĩa, khẳng
định được vẻ đẹp tâm hồn của mình.
- Ở cảnh kịch này, cuộc trò chuyện giữa hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác
giả gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết.
Diễn biến màn đối thoại
- Gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết chối từ, không chấp nhận cái
cảnh phải sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” nữa và muốn mình được là
mình một cách “toàn vẹn”.
- Lúc đầu đế Thích ngạc nhiên nhưng khi hiểu ra thì khuyên Trương Ba nên chấp nhận vì
thế giới vốn không toàn vẹn “dưới đất, trên trời đều thế cả”.
- Nhưng Trương Ba không chấp nhận lí lẽ đó. Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế
Thích: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, còn sống như thế nào thì ông chẳng cần
biết”. Lòng tốt hời hợt thực sự chẳng đem lại điều gì tốt cho ai mà sự vô tâm còn tệ hại
hơn, nó đẩy người khác vào nghịch cảnh, bi kịch!

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 133

- Đế Thích tiếp tục việc “sửa sai” của mình và của Tây Vương Mẫu bằng một giải pháp
khác, tệ hại ít hơn là cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị.
- Nhưng Trương Ba đã kiên quyết chối từ, không chấp nhận cảnh sống giả tạo (mà theo
ông là chỉ có lợi cho đám chức sắc tức lão lí trưởng và đám trương tuần), không chấp
nhận cái cuộc sống mà theo ông là “khổ hơn là cái chết”. Trương Ba kêu gọi Đế Thích là
hãy sửa sai bằng một việc làm đúng, đó là trả lại linh hồn cho bé Tị.
- Đế Thích cuối cùng cũng thuận theo lời đề nghị của Trương Ba với lời nhận xét: “Con
người hạ giới các ông thật là kì lạ”.
Ý nghĩa của màn đối thoại
- Trong cảnh này có hai lời thoại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng:
✓ “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.
✓ “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân
tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống
như thế nào thì ông chẳng cần biết!”.
+ Những lời thoại này chứng tỏ nhân vật này đã tự ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy
tính chất bi hài của mình. Đã đến lúc Hồn Trương Ba thấm thía nỗi đau khổ vì nhận
ra tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác. Những nhận xét, cách cư xử của
người vợ, đứa cháu, chị con dâu khiến Hồn Trương Ba càng day dứt, thất vọng. Đồng
thời cũng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật Hồn Trương Ba.
+ Hai lời thoại cũng đã thể hiện được tư tưởng chủ đề của tác phẩm:
 Con người là một thể thống, hồn và xác phải hài hòa, Không thể có một tâm hồn
thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi
những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, thì không
thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn.
 Sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ,
sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.
+ Điều cần chú ý là lời tự giải thích, thanh minh của nhân vật hồn Trương Ba đều thật
yếu ớt, tội nghiệp bởi thực tế quá rõ ràng: từ khi phải mượn thân xác anh hàng thịt
để sống, dâu còn ông Trương Ba chăm chỉ, đôn hậu, khéo léo ngày trước.
- Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián
tiếp, vùa mạnh mẽ, vừa quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về thời chúng ta đang sống. Đó
chính là vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả
tạo để bảo vệ quyền sống toàn vẹn, hợp với lẽ tự nhiên cùng sự hoàn thiện nhân cách.
Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng được bộc lộ ở cảnh này.
- Màn kết: Trương Ba trả xác lại cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được
trong sạch và hóa thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn cạnh những người
thân yêu của mình. Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật của muôn đời.. Màn kết với
chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan đồng thời
truyền đi thông điệp về sự chiến thắng của cái Thiện, cái Đẹp và của sự sống đích thực.
TỔNG KẾT
1) Nội dung
Qua cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác, có thể rút ra rằng: cuộc sống hạnh phúc, có ý
nghĩa phải là sự kết hợp hài hòa giữa linh hồn và thể xác
- Sự tồn tại "hồn này", "xác kia" không những phiền toái mà còn đâu khổ. Không thể có
một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục, tội lỗi.
- Ở trong con người luôn tồn tại cuộc đấu tranh giữa khát vọng vươn lên sự cao thượng,
đẹp đẽ với sự níu kéo của dục vọng, bản năng tầm thường, thấp kém. Chiến thắng cái
bản năng, cái giải đối trong mỗi con người là điều vô cùng khó khăn.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM
GIÁO TRÌNH NGỮ VĂN ⑫ | Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia & Đại học Page | 134

- Khi con người sống chung với sự dung tục sẽ bị sự dung tục lấn ất, chế ngự (sự chế giễu,
bỡn cợt hồn Trương Ba của xác hàng thịt; hồn Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng
đó là cuộc sống đáng thổ hẹn vì Hồn trở nên tầm thường, dung tục trong Xác hàng thịt).
Qua cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba với những người thân và với tiên Đế
Thích, có thể rút ra rằng: Cuộc sống thật đáng quý nhưng không phải là sống bằng
bất cứ cách nào, bằng bất cứ kiểu sống nào
- Sống mà đánh mất bản thân, sống giả dối với người và giả dối với mình thì thà chết còn hơn:
+ Hồn Trương Ba tồn tại trong thân xác anh hàng thịt là sống giả dối với người thân
trong gia đình (mọi người đều không nhận ra Hồn Trương Ba, không thừa nhận Hồn
Trương Ba).
+ Hồn Trương Ba đánh mất bản thân mình (không còn là Trương Ba trước đây nữa:
làm gãy cái chồi non, giẫm nát cây sâm quý mới ươm, làm gãy nan điều của cu Tị...).
- Sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá... thì dù có tồn tại cũng không phải là sống theo đúng nghĩa.
Từ đó, tác phẩm ca ngợi khát vọng vươn tới sự hoàn thiện về nhân cách. Đó là khi:
- Sống chân thật, sống vì mọi người (Hồn Trương Ba xin cho cu Tị được sống lại, xin trả
lại thân xác cho anh hàng thịt).
- Được là chính mình: "Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn
được là tôi toàn vẹn".
Qua đó, tác phẩm còn phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống
- Chạy theo những ham muốn vật chất tầm thường, chỉ thích hưởng thụ nên trở thành
thô thiển, phàm tục.
- Nhấn mạnh đời sống tinh thần một cách cực đoan: lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh
thần là đáng trọng mà không chăm lo thích đáng đến đời sống vật chất, làm cho cuộc
sống thiếu thốn, nghèo khổ, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn (thực chất đây là sự
duy ý chí, duy tâm chủ quan).
- Tình trạng con người phải sống giả dối, không dám và không được là chính bản thân
mình (bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo).
2) Nghệ thuật
Tình huống kịch
- Dựa trên một cốt truyện dân gian, nhưng tình huống của vở kịch lại bắt đầu từ cái kết
thúc của câu chuyện dân gian ấy. Đó là điểm sáng tạo của tác phẩm, qua đó, tác giả đã
mang đến cho người xem nhiều ý nghĩa mới mẻ, sâu sắc.
- Tình huống kịch phát triển tự nhiên, hợp lý:
+ Mâu thuẫn giữa Hồn và Xác được đẩy tới đỉnh cao, cần giải quyết.
+ Cái chết của cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đến chỗ "mở nút" (Hồn Trương
Ba phải nhanh chóng, dứt khoát chọn cách giải quyết bởi lẽ cu Tị mới chết, hồn cần
nhập luôn vào thể xác để cu Tị sống lại).
Hành động kịch
- Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, thể hiện được sự phát triển
tình huống kịch.
- Cùng với diễn biến hành động bên ngoài (hướng ngoại) là những diễn biến hành động
bên trong (hướng nội), phản ánh thế giới tinh thần căng thẳng, tiêu biểu là cuộc đối
thoại giữa Hồn và Xác.
Ngôn ngữ kịch
- Ngôn ngữ nhân vật sinh động, giọng điệu biến hoá, lôi cuốn.
- Đặc biệt có những lời thoại vừa hướng ngoại vừa hướng nội, giàu chất triết lý.

Biên soạn: Th.S Nguyễn Ngọc Đoan Trang – GV Chuyên Văn THPT Nguyễn Thượng Hiền & PT Năng Khiếu ĐHQG.TPHCM

You might also like