You are on page 1of 15

CHƯƠNG 2: QUY PHẠM PHÁP LUẬT

2.1 Khái niệm quy phạm pháp luật

2.1.1. Khái niệm chung về quy phạm pháp luật


* Khái niệm: Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do
nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị trong xã hội.
* Đặc điểm:
- Quy phạm pháp luật là yếu tố nhỏ nhất và cơ bản nhất cấu tạo lên hệ thống pháp
luật của mỗi nhà nước cũng như pháp luật quốc tế.
- Quy phạm pháp luật trước hết là quy phạm xã hội vì vậy nó mang tính chất vốn có
của quy phạm xã hội, đó là quy tắc xử sự mẫu mực, là tiêu chuẩn đánh giá hành vi của con
người. Thông qua các quy phạm pháp luật chúng ta biết được hành động nào là phù hợp
với pháp luật, hành động nào trái pháp luật.
- So với các loại quy phạm khác, quy phạm pháp luật có những đặc trưng sau:
+ Quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự chỉ do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành hoặc thừa nhận.
+ Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự bắt buộc đối với tất cả mọi người, không có
ngoại lệ. Mọi hành vi lẩn tránh, chống đối, vi phạm các yêu cầu do các quy phạm pháp luật
đưa ra đều phải chịu trách nhiệm pháp lý tương xứng với hậu quả gây ra.
+ Các quy phạm pháp luật là các quy tắc xử sự chung, bởi vì nó không chỉ đích danh
một sự việc cụ thể, một con người cụ thể nào mà chỉ dự liệu trước những hoàn cảnh khi
xảy ra thì mọi người (hoặc một nhóm người nhất định) phải tuân theo các quy tắc xử sự
ghi trong luật.
+ Các quy phạm pháp luật được sử dụng lặp đi lặp lại nhiều lần trong không gian
và thời gian cho đến khi nó hết hiệu lực.
+ Các quy phạm pháp luật có nội dung rõ ràng, chính xác, nó quy định những điều
được làm, không được làm trong các hoàn cảnh cụ thể. Tức là xác định rõ quyền, nghĩa vụ
cũng như các biện pháp xử lý những ai vi phạm các quy định của nó.
+ Về mặt hình thức các quy phạm pháp luật thường được ghi trong các văn bản,
trình bày thành điều khoản, có đánh số rõ ràng.

2.1.2. Quy phạm pháp luật xã hội chủ nghĩa


* Khái niệm: Quy phạm pháp luật xã hội chủ nghĩa là quy tắc xử sự mang tính bắt
buộc chung do nhà nước xã hội chủ nghĩa ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí
và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, để điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội vì mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội.
* Đặc điểm:
- Quy phạm pháp luật xã hội chủ nghĩa mang các đặc điểm của quy phạm pháp luật.
- Trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, các quy phạm pháp luật hết sức đa
dạng, được nhiều cơ quan nhà nước ban hành ở nhiều thời điểm khác nhau, có giá trị pháp
lý khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau về mặt nội dung, có sự liên hệ và phối hợp
chặt chẽ với nhau.
- Quy phạm pháp luật xã hội chủ nghĩa là quy phạm pháp luật thành văn, chúng
được ghi trong các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa.

2.2 Cơ cấu quy phạm pháp luật

Mỗi quy phạm pháp luật được đặt ra nhằm điều chỉnh một quan hệ xã hội nhất định.
Do đó mỗi quy phạm pháp luật cần phải trả lời được ba vấn đề sau:
- Quy phạm pháp luật này để áp dụng vào trường hợp nào, với ai?
- Gặp trường hợp đó nhà nước muốn người ta phải xử sự như thế nào?
- Nếu xử sự không đúng với yêu cầu của nhà nước thì nhà nước sẽ tác động như thế
nào?
Nội dung giải đáp ba vấn đề trên chính là ba bộ phận cấu thành của một quy phạm
pháp luật. Đó là: giả định, quy định và chế tài.
Ví dụ: Luật Giao thông đường bộ quy định: “Người dưới 16 tuổi không được điều
khiển các loại xe cơ giới. Phạt tiền 1 triệu đồng đối với người điều khiển xe không đúng
độ tuổi quy định”.
2.2.1. Giả định
* Khái niệm: là bộ phận nêu ra những điều kiện hoàn cảnh được dự kiến nếu xảy
ra trong đời sống thì sẽ sử dụng quy phạm pháp luật này để điều chỉnh.
* Giả định phải sát với thực tế cuộc sống thì quy phạm mới có thể áp dụng được và
mới phát huy tác dụng thiết thực.
- Muốn dự kiến được các giả định đúng đắn khi xây dựng pháp luật cần phải quán
triệt các đường lối, chính sách của Đảng, am hiểu thực tế, dự kiến sát với khả năng phát
triển của tình hình thực tế cũng như âm mưu thủ đoạn của những phần tử xấu để tránh được
những sơ hở, khiếm khuyết của pháp luật. Tuy nhiên, do quy phạm pháp luật chỉ quy định
những vấn đề chung nên phần giả định thường không đi vào các tình tiết, sự kiện cụ thể.
- Trong việc thực hiện pháp luật cần phân tích chính xác tình hình thực tế, so sánh,
đối chiếu để tìm ra các quy phạm pháp luật có giả định phù hợp, đảm bảo việc áp dụng
đúng pháp luật.
2.2.2. Quy định
* Khái niệm: là bộ phận nêu rõ cách xử sự phải theo khi gặp trường hợp đã nêu ở
phần giả định.
* Đây là bộ phận quan trọng nhất của quy phạm pháp luật vì nó thể hiện ý chí của
nhà nước, xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vào quan hệ xã hội mà nó
điều chỉnh.
Căn cứ vào cách xử sự mà chủ thể phải theo, bộ phận quy định được phân thành ba
loại:
- Quy định mệnh lệnh: Trong loại quy định này nhà nước nêu lên một cách dứt khoát
những điều cấm không được làm hoặc bắt buộc phải làm.
Ví dụ:
+ Quy định bắt buộc: Điều 58 Bộ luật hình sự quy định: “Người đủ 16 tuổi trở lên
phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm”
+ Quy định ngăn cấm: Luật Giao thông đường bộ quy định: “Cấm các xe chở hàng
hóa, hành khách vượt quá trọng tải thiết kế của xe”.
- Quy định tùy nghi: Trong loại quy định này không nêu dứt khoát một cách xử sự
nhất định mà nêu lên vài cách xử sự hoặc một phạm vi xử sự để hướng người ta lựa chọn
hoặc thỏa thuận với nhau.
Ví dụ:
+ Luật khiếu nại, tố cáo quy định: “Cơ quan nhà nước khi nhận được đơn khiếu nại
thì xử lý như sau:
 Đối với đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì phải thụ lý để giải
quyết.
 Đối với đơn khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì cơ quan nhận
được đơn không có trách nhiệm thụ lý mà thông báo và chỉ dẫn cho người khiếu nại
bằng văn bản”
- Quy định giao quyền: Trong loại quy định này, nhà nước quyết định giao cho chủ
thể quyền hạn được xử lý hoặc được hưởng quyền lợi.
Ví dụ: Điều 668 Luật Dân sự có quy định: “Người lập di chúc có thể yêu cầu công
chứng nhà nước lưu giữ hoặc gửi người khác giữ bản di chúc ”.
2.2.3. Chế tài
* Khái niệm: là bộ phận nêu lên những biện pháp tác động mà nhà nước dự kiến sẽ
áp dụng đối với chủ thể nào không thực hiện đúng những điều đã nêu ở phần quy định của
quy phạm pháp luật.
* Chế tài thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, là thái độ nghiêm khắc của nhà
nước đối với những hành vi phạm pháp, vừa có ý nghĩa răn đe, phòng ngừa, vừa có tác
dụng giáo dục chung việc tuân thủ pháp luật.
* Chế tài có nhiều loại, tùy thuộc vào những lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ, tính
chất và mức độ thiệt hại do các hành vi phạm pháp gây ra.
- Chế tài hình sự (hình phạt): Bộ luật Hình sự quy định các chế tài hình sự gồm:
cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Ngoài
ra còn có các hình phạt bổ sung như: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm cư trú, tịch thu tài
sản…
- Chế tài hành chính: Bao gồm các biện pháp sau: cảnh cáo, phạt tiền. Ngoài ra còn
có các hình phạt bổ sung như: tước quyền sử dụng giấy phép, tịch thu tang vật và phương
tiện vi phạm để phòng ngừa tái phạm.
- Chế tài kỷ luật: Bao gồm các biện pháp sau: khiển trách, cảnh cáo, chuyển đi làm
việc khác với mức lương thấp hơn, sa thải theo quy định của Luật Lao động.
- Chế tài dân sự: Bao gồm các biện pháp sau: trách nhiệm vật chất, bồi thường thiệt
hại, phạt bội ước…
* Chế tài quy phạm pháp luật có thể cố định hoặc không cố định.
- Chế tài cố định: là chế tài quy định chính xác, cụ thể biện pháp tác động cần áp
dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật.
Ví dụ:
+ Nghị định 49/CP ngày 26/07/1995 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính về
hành vi vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ có quy định: “Phạt 500 ngàn đồng với
các hành vi sau đây:
- đua xe đạp trái phép.
- gây tai nạn rồi bỏ trốn”
- Chế tài không cố định: là chế tài tùy nghi vận dụng hoặc chỉ quy định mức độ thấp
nhất và mức cao nhất của biện pháp tác động. Việc áp dụng do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng lựa chọn cho phù hợp với đối tượng, hoàn cảnh và điều kiện cụ thể.
Ví dụ: Điều 104 Bộ Luật Hình sự quy định: “Người nào vô ý làm chết người thì bị
phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm”.

2.3 Bàn thêm về cơ cấu của quy phạm pháp luật


Vì trong thực tế các quy phạm pháp luật được thể hiện rất đa dạng trong mỗi văn
bản pháp luật cho nên cũng tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về cơ cấu của quy phạm
pháp luật.
2.3.1. Quan điểm 1
* Cho rằng quy phạm pháp luật chỉ gồm hai bộ phận là giả định và quy định hoặc
giả định và chế tài.
Ví dụ:
+ “Người nào vô ý làm chết người thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm”,
+ “Người dưới 16 tuổi không được điều khiển xe cơ giới”.
* Quan điểm này là không hợp lý bởi vì:
- Quy phạm pháp luật không thể thiếu phần chế tài vì nếu thiếu bộ phận chế tài thì
mệnh lệnh nhà nước ở phần quy định không được đảm bảo thực hiện một cách chính xác
và triệt để.
- Quy phạm pháp luật cũng không thể thiếu phần quy định vì nếu thiếu bộ phận quy
định thì các chủ thể khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh đã nêu ra ở phần giả định sẽ không biết
mình phải xử sự như thế nào.
* Để giải thích việc tồn tại các quy phạm pháp luật chỉ có hai bộ phận như ví dụ nêu
trên có hai trường hợp có thể xảy ra:
- Trường hợp 1: Quy phạm pháp luật chỉ gồm bộ phận giả định và quy định, thực ra
bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật đó được trình bày ở một điều khoản khác trong
cùng văn bản pháp luật ấy hoặc ở một văn bản pháp luật khác.
Ví dụ:
+ Điều 28 Luật Giao thông đường bộ ghi: “Người dưới 16 tuổi không được điều
khiển xe cơ giới”. Nhưng tại điều 13 Nghị định 49/CP ghi: “Phạt tiền 1 triệu đồng đối với
người điều khiển xe không đúng độ tuổi quy định”.
- Trường hợp 2: Quy phạm pháp luật chỉ bao gồm hai bộ phận giả định và chế tài
thì bộ phận quy định đã được trình bày ẩn.
Ví dụ: Điều 104 Bộ luật Hình sự ghi: “Người nào vô ý làm chết người thì bị phạt tù
từ 6 tháng đến 5 năm” thì bộ phận quy định sẽ được hiểu là: “Cấm mọi hành vi gây chết
người dù là vô ý”.
2.3.2. Quan điểm 2
Cho rằng để đảm bảo tính logic chặt chẽ của các quy phạm pháp luật thì chúng phải
bao gồm cả ba bộ phận giả định, quy định và chế tài.
2.3.3. Quan điểm 3
Dung hòa giữa hai quan điểm trên, cho rằng có quy phạm pháp luật gồm ba bộ phận
(quy phạm pháp luật điều chỉnh) và cũng có những quy phạm pháp luật gồm hai bộ phận
(quy phạm pháp luật bảo vệ, giao quyền…).
CHƯƠNG 5: THỰC HIỆN PHÁP LUẬT, ÁP DỤNG PHÁP LUẬT,
VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ

5.1 Thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật

5.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật


* Khi đặt ra các quy phạm pháp luật, nhà nước mong muốn sử dụng chúng để điều
chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí của nhà nước, đáp ứng lợi ích của nhân dân và sự tiến
bộ xã hội. Mục đích đó chỉ đạt được khi các chủ thể thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật trong
đời sống thực tế. Đồng thời nó cũng phản ánh hiệu quả của quản lý nhà nước bằng pháp
luật.
* Khái niệm: Thực hiện pháp luật là một quá trình hành động có mục đích làm cho
những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế
của chủ thể pháp luật.
* Thực hiện pháp luật được thể hiện thông qua những hình thức như sau:
- Tuân thủ pháp luật: là việc chủ thể pháp luật phải tự kiềm chế mình để không thực
hiện những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm.
Hình thức tuân thủ là hình thức bị động không liên quan nhiều đến các quy định chủ
động mà chủ yếu để thực hiện các quy định bắt buộc, ngăn cấm. Điều kiện tối thiểu và
quan trọng nhất để đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa là việc tuân thủ pháp luật.
- Chấp hành pháp luật: là việc chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ của mình bằng
hành vi tích cực.
- Sử dụng pháp luật: là việc chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình
bằng cách sử dụng những nội dung mà pháp luật cho phép chủ thể được thực thi hoặc được
hưởng dụng. (Ví dụ: quyền khiếu nại, tố cáo; quyền được hưởng thừa kế... )
- Áp dụng pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật có sự tham gia của nhà nước.
Nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể thực
hiện những quy định của pháp luật.
Nó vừa là hình thức thực hiện pháp luật vừa là cách thức tổ chức để thực hiện pháp
luật. Chính vì vậy mà trong hình thức áp dụng pháp luật đã bao gồm cả các biện pháp tuân
thủ, chấp hành và sử dụng pháp luật. Áp dụng pháp luật là hình thức quan trọng nhất của
quá trình thực hiện pháp luật.

5.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật


Pháp luật tác động vào các quan hệ xã hội trong cuộc sống đạt hiệu quả cao nhất chỉ
khi tất cả các quy định của nó đều được thực hiện chính xác, triệt để. Nhưng nếu chỉ thông
qua các hình thức tuân thủ, chấp hành và sử dụng pháp luật thì có rất nhiều các quy phạm
pháp luật không được thực hiện. Lý do có thể là các chủ thể không muốn thực hiện hoặc
không đủ khả năng thực hiện nếu thiếu sự tham gia của nhà nước có thẩm quyền (sự đảm
bảo thực hiện quan hệ pháp luật bằng quyền lực nhà nước).
a. Các trường hợp cần áp dụng pháp luật.
Áp dụng pháp luật được tiến hành trong những trường hợp sau:
- Khi quyền và nghĩa vụ pháp lý của một tổ chức hay cá nhân không mặc nhiên phát
sinh. Nghĩa là pháp luật đã quy định quyền và nghĩa vụ của chủ thể nhưng quan hệ pháp
luật chưa phát sinh nếu thiếu sự can thiệp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ví dụ: Hiến pháp nước ta quy định: “Lao động là quyền, nghĩa vụ và vinh dự hàng
đầu của công dân”. Nhưng quyền lao động của công dân A trong nhà máy B nào đó chỉ
phát sinh khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tiếp nhận công nhân A vào làm việc tại
nhà máy B.
- Khi xảy ra sự tranh chấp về quyền, nghĩa vụ pháp lý mà các bên tham gia quan hệ
pháp luật đó không thể tự giải quyết được.
Ví dụ: Vợ chồng thuận tình ly hôn nhưng phải có phán quyết của tòa án thì họ mới
thực sự được tự do. Hay các tranh chấp dân sự.
- Khi phải áp dụng những chế tài đối với một tổ chức hay cá nhân nào đó có hành vi
vi phạm pháp luật
Ví dụ: Phạt hành chính, kỷ luật lao động hoặc hình phạt... phải có quyết định hoặc
bản án của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Trong một số quan hệ pháp luật quan trọng nhà nước thấy cần thiết phải tham gia
để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia các quan hệ pháp luật đó hoặc để xác
nhận sự tồn tại hay không tồn tại một số sự kiện thực tế, biến chúng thành các sự kiện pháp

Ví dụ: chứng thực di chúc, chứng tử, chứng sinh, công chứng hợp đồng...
b. Đặc điểm áp dụng pháp luật
* Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước,
cụ thể:
- Hoạt động áp dụng pháp luật chỉ do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành.
- Hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành do ý chí đơn phương của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng.
- Áp dụng pháp luật có tính chất bắt buộc đối với chủ thể áp dụng và các chủ thể có
liên quan bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
* Áp dụng pháp luật là hoạt động có hình thức thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy
định. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các bên liên quan trong quá trình áp dụng
Pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định có tính chất thủ tục đó
Ví dụ: Các quy định trong quá trình tố tụng.
* Áp dụng pháp luật điều chỉnh các trường hợp cá biệt, cụ thể đối với quan hệ xã
hội.
* Áp dụng pháp luật đòi hỏi phải có tính sáng tạo. Khi áp dụng pháp luật các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phải nghiên cứu kỹ sự kiện pháp lý để lựa chọn quan hệ
pháp luật phù hợp, ra văn bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành. Trong trường hợp
pháp luật chưa quy định hoặc quy định chưa rõ phải áp dụng bằng hình thức áp dụng pháp
luật tương tự.
5.1.3. Văn bản áp dụng pháp luật
* Khái niệm: Văn bản áp dụng pháp luật là văn bản pháp lý cá biệt, mang tính
quyền lực do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ chức xã hội
được nhà nước trao quyền ban hành trên cơ sở những quy phạm pháp luật nhằm xác định
các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các cá nhân, tổ chức hoặc xác định những biện
pháp trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm pháp luật (Hợp đồng lao động, giấy chứng
thực hợp đồng mua bán, các bản án hình sự, dân sự...).
* Đặc điểm:
- Văn bản áp dụng pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (nhà chức
trách hoặc tổ chức xã hội được nhà nước trao quyền) có thẩm quyền áp dụng pháp luật ban
hành và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
- Văn bản áp dụng pháp luật có tính chất cá biệt, môt lần đối với các cá nhân, tổ
chức cụ thể trong nhữg trường hợp xác định.
- Văn bản áp dụng pháp luật phải hợp pháp và phù hợp thực tế.
- Văn bản áp dụng pháp luật thể hiện trong những hình thức pháp lý xác định như:
bản án, quyết định, chỉ thị...
- Văn bản áp dụng pháp luật là một yếu tố của sự kiện pháp lý phức tạp, thiếu nó
nhiều quan hệ pháp luật cụ thể không thể thực hiện được
5.1.4. Cơ chế áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật được tiến hành theo một cơ chế nhất định, bao gồm những khâu,
những hành vi pháp lý và điều kiện pháp lý được thể hiện như sau:
a. Khâu đầu tiên:
Là khâu chuẩn bị mọi điều kiện về pháp luật, về tổ chức và các điều kiện khác để
áp dụng pháp luật.
- Phân tích, đánh giá đúng chính xác mọi tình tiết hoàn cảnh, điều kiện của sự việc
thực tế đã xảy ra.
- Lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp với hoàn cảnh thực tế. Đồng thời, xác định
các giới hạn của quy phạm pháp luật. Mọi quy phạm pháp luật đều có giới hạn như: phạm
vi hiệu lực về thời gian, không gian và giới hạn chủ thể đối tượng phải thi hành, chủ thể
được áp dụng.
- Ra văn bản áp dụng pháp luật: Ở giai đoạn này quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể
của chủ thể pháp luật hoặc biện pháp trách nhiệm pháp lý của người vi phạm được ấn định.
Vì vậy khi ra văn bản áp dụng pháp luật phải phù hợp với Hiến pháp, đạo luật và các văn
bản quy phạm pháp luật khác. Nếu những quy phạm nào trong văn bản cần được quy định
chi tiết hơn thì phải ra văn bản để chi tiết hóa.
- Giải thích văn bản cần áp dụng: nhằm hướng dẫn tìm hiểu những khái niệm pháp
lý, những nội dung cơ bản của điều luật liên quan đến tất cả các mặt mà nội dung đó đề
cập. Người giải thích văn bản có thể là chính cơ quan đã ban hành văn bản đó hoặc có thể
là các cơ quan khác như: Viện khoa học, Hội luật gia...
Trong lý luận về pháp luật, người ta phân biệt các loại giải thích pháp luật sau đây:
+ Giải thích ngữ nghĩa: phương pháp giải thích này nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa của
những từ hay tập hợp từ xét thấy cần phải giải thích, mối liên hệ giữa các cụm từ, các liên
từ, giới từ...
+ Giải thích logic: là phân tích ý nghĩa của các khái niệm, so sánh với các khái niệm
gần với nó. Giải thích về mặt chuyên môn, nghiệp vụ pháp lý trong những trường hợp điều
luật không thể được hiểu đầy đủ nếu không nói rõ những nội dung pháp lý mà chỉ những
người nắm được chuyên môn về pháp lý thì mới hiểu được.
+ Giải thích hệ thống: thể hiện ở việc phân tích ý nghĩa và nội dung của điều luật
thông qua việc xác định vị trí của điều luật đó (hay văn bản đó) trong hệ thống pháp luật,
so sánh nó với những điều luật hoặc văn bản khác và chỉ ra mối liên hệ giữa các điều luật
hoặc các văn bản đó với nhau.
+ Giải thích về mặt lịch sử - xã hội: đó là cách phân tích điều luật thông qua việc
nghiên cứu các điều kiện lịch sử của việc ra đời văn bản hay quy phạm pháp luật, những
kinh nghiệm về việc điều chỉnh bằng văn bản có trước đó hoặc của văn bản cùng loại trong
những điều kiện và bối cảnh xã hội tương tự.
b. Khâu thứ hai:
Khâu thứ hai của cơ chế áp dụng pháp luật là tổ chức thực hiện văn bản áp dụng
pháp luật.
Ở giai đoạn này các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ pháp luật cần:
+ Đảm bảo về vật chất, kỹ thuật cho việc thực hiện đúng văn bản áp dụng pháp luật
được tiến hành.
+ Tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát việc thi hành quyết định áp dụng pháp
luật.

5.2 Vi phạm pháp luật

5.2.1. Khái niệm và dấu hiệu vi phạm pháp luật


* Khái niệm: Vi phạm pháp luật là hành vi xác định của con người trái với các quy
định của pháp luật do lỗi cố ý hoặc vô ý của người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực
hiện.
* Các dấu hiệu của vi phạm pháp luật:
- Vi phạm pháp luật là hành vi xác định của con người cụ thể;
- Hành vi đó trái với các quy định hiện hành của pháp luật. Tính chất trái pháp luật
của hành vi thể hiện ở chỗ nó được thực hiện ngược lại với quy định của pháp luật, xét về
mặt hình thức nó thể hiện ở các dạng sau đây:
+ Làm một việc mà pháp luật cấm không được làm,
+ Không làm một việc mà pháp luật đòi hỏi phải làm (không thực hiện nghĩa vụ
pháp lý),
+ Sử dụng quyền hạn vượt quá giới hạn pháp luật cho phép.
- Hành vi có chứa đựng lỗi cố ý hoặc vô ý của chủ thể;
- Chủ thể của hành vi phải có đủ năng lực trách nhiệm pháp lý theo quy định.
* Như vậy, không phải tất cả các hành vi trái pháp luật đều là vi phạm pháp luật,
chừng nào nó không có đủ các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật.
5.2.2. Cấu trúc của vi phạm pháp luật
Về mặt cấu trúc của vi phạm pháp luật, trong khoa học pháp lý thường xem xét bốn
yếu tố: chủ thể, khách thể, mặt chủ quan, mặt khách quan của vi phạm pháp luật.
a. Chủ thể của vi phạm pháp luật:
Là cá nhân hay tổ chức có năng lực chịu trách nhiệm pháp lý căn cứ vào độ chín
muồi về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi và tùy thuộc vào khách thể được pháp
luật bảo vệ quy định năng lực chịu trách nhiệm pháp lý trong các ngành luật.
b. Khách thể của vi phạm pháp luật:
Là các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh và bảo vệ, bị hành vi vi phạm pháp
luật xâm hại.
Đối tượng tác động của vi phạm pháp luật có thể là con người, hoạt động của con
người hay vật thể.
c. Mặt khách quan của hành vi vi phạm pháp luật bao gồm các yếu tố sau:
- Hành vi trái pháp luật;
- Hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật: được hiểu là các thiệt hại xảy ra có thể là:
thiệt hại về thể chất (con người), có thể là thiệt hại về vật chất hay thiệt hại về tinh thần.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái luật và hậu quả của nó.
- Các yếu tố khác như: thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, công cụ, phương tiện, phương
thức thực hiện hành vi...
d. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật:
- Là thái độ tâm lý của chủ thể, là diễn biến bên trong của con người mà giác quan
người khác không thể cảm giác chính xác được.
- Các dấu hiệu của mặt chủ quan bao gồm lỗi, động cơ, mục đích của chủ thể đối
với hành vi và hậu quả của sự vi phạm pháp luật.
+ Lỗi: là thái độ cố ý hoặc vô ý của chủ thể khi có hành vi vi phạm pháp luật, gồm
4 loại sau:
 Lỗi cố ý trực tiếp: chủ thể vi phạm nhận thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội
của hành vi vi phạm pháp luật song vẫn mong muốn điều đó xảy ra.
 Lỗi cố ý gián tiếp: chủ thể vi phạm nhận thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội
của hành vi vi phạm pháp luật nhưng để mặc cho điều đó xảy ra.
 Lỗi vô ý vì quá tự tin: chủ thể vi phạm nhận thấy trước được hành vi của mình có
thể gây ra hậu quả nguy hiểm nhưng tin rằng nó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa
được.
 Lỗi vô ý do cẩu thả: người vi phạm không nhận thức được hậu quả nguy hiểm do
hành vi của mình mặc dù trách nhiệm phải biết và có thể biết.
+ Động cơ vi phạm pháp luật: là những nguyên nhân bên trong (các nhu cầu cần
thỏa mãn) thúc đẩy chủ thể vi phạm pháp luật.
+ Mục đích vi phạm pháp luật: là những mục tiêu mà chủ thể cần đạt tới khi thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật.
- Để truy cứu trách nhiệm pháp lý chỉ cần xác định được lỗi, động cơ, mục đích của
chủ thể có hành vi trái pháp luật. Nhưng để cải tạo, giáo dục người vi phạm được tốt cần
phải xác định cả thời gian, địa điểm và cách thức vi phạm. Từ đó lựa chọn biện pháp cưỡng
chế chính xác, phù hợp với mục đích cần truy cứu trách nhiệm pháp lý và đạt được hiệu
quả cao trong việc cải tạo giáo dục người vi phạm pháp luật.
5.2.3. Phân loại vi phạm pháp luật
a. Vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm).
Là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ Luật hình sự nước
ta do người có năng lực trách nhiệm hình sự gây ra một cách vô ý hoặc cố ý xâm hại tới
độc lập chủ quyền lãnh thổ, xâm phạm chế độ nhà nước, chế độ kinh tế và sở hữu xã hội
chủ nghĩa, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do tài sản và các quyền
hợp pháp khác của công dân.
Chủ thể vi phạm pháp luật hình sự chỉ là các cá nhân.
b. Vi phạm hành chính.
Là hành vi vi phạm do các cá nhân, tổ chức thực hiện một cách vô ý hoặc cố ý, xâm
phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định
của pháp luật bị xử phạt hành chính.
c. Vi phạm dân sự.
Là những hành vi trái pháp luật có lỗi xâm hại tới những quan hệ tài sản, quan hệ
nhân thân có liên quan đến tài sản... Chủ thể vi phạm dân sự có thể là cá nhân hoặc tổ chức.

d. Vi phạm kỷ luật nhà nước.


Là hành vi trái với quy chế, quy tắc xác lập trật tự trong nội bộ một cơ quan, xí
nghiệp, trường học... Chủ thể của vi phạm kỷ luật là cán bộ, công nhân viên, học sinh, giáo
viên.

5.3 Trách nhiệm pháp lý

5.3.1. Bản chất và chức năng của trách nhiệm pháp lý


Trong lĩnh vực pháp lý, khái niệm trách nhiệm được sử dụng theo hai nghĩa. Theo
nghĩa thứ nhất, trách nhiệm để chỉ bổn phận, nhiệm vụ của chủ thể pháp luật, tức là những
điều pháp luật yêu cầu phải làm. Theo nghĩa thứ hai, là nguy cơ phải gánh chịu hậu quả về
hành vi vi phạm pháp luật của chủ thể. Trách nhiệm pháp lý là sự phản ứng của nhà nước
đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật, vì thế nó gắn liền với sự cưỡng chế của nhà
nước trong những trường hợp cần thiết cho dù chủ thể vi phạm pháp luật có chấp nhận hay
không chấp nhận.
Chức năng: Thực hiện trách nhiệm pháp lý vừa có mục đích giáo dục cụ thể vừa có
ý nghĩa giáo dục chung cho mọi người hướng thiện và tôn trọng pháp luật của nhà nước.
5.3.2. Nguyên tắc áp dụng trách nhiệm pháp lý
* Nội dung cơ bản trong chức năng tư pháp của nhà nước chính là việc xử lý các vi
phạm pháp luật bằng trình tự truy cứu trách nhiệm pháp lý. Trình tự đó cần phải quán triệt
những nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong truy cứu trách nhiệm pháp lý, nghĩa
là chỉ truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những chủ thể có hành vi vi phạm được pháp
luật quy định.
- Nguyên tắc công bằng, hợp lý trong truy cứu trách nhiệm pháp lý.
- Nguyên tắc truy cứu kịp thời trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm pháp luật,
không bỏ sót hành vi vi phạm pháp luật, không để cho bất kỳ ai vi phạm pháp luật mà
không bị truy cứu trách nhiệm pháp lý.
Ngoài ra, việc truy cứu trách nhiệm pháp lý được tiến hành trên cơ sở có đơn của
đương sự hoặc từ phía các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật.
5.3.3. Phân loại trách nhiệm pháp lý
a. Trách nhiệm pháp lý hình sự:
Là loại trách nhiệm pháp lý do tòa án áp dụng đối với cá nhân khi họ phạm tội.
b. Trách nhiệm pháp lý hành chính:
Là loại trách nhiệm pháp lý do cơ quan nhà nước áp dụng với chủ thể khi họ vi
phạm hành chính.
c. Trách nhiệm pháp lý dân sự:
Là loại trách nhiệm pháp lý áp dụng với chủ thể khi họ vi phạm dân sự.
d. Trách nhiệm pháp lý kỷ luật:
Là loại trách nhiệm pháp lý do trưởng cơ quan, trường học... áp dụng với nhân viên,
cán bộ của đơn vị khi họ vi phạm kỷ luật.
Để truy cứu trách nhiệm pháp lý chỉ cần xác định được lỗi, động cơ, mục đích của
chủ thể có hành vi trái pháp luật. Nhưng để cải tạo, giáo dục người vi phạm được tốt cần
phải xác định cả thời gian, địa điểm và cách thức vi phạm. Từ đó lựa chọn biện pháp cưỡng
chế chính xác, phù hợp với mục đích cần truy cứu trách nhiệm pháp lý và đạt được hiệu
quả cao trong việc cải tạo giáo dục người vi phạm pháp luật.
5.3.4. Đấu tranh chống vi phạm pháp luật
Để phòng ngừa, đấu tranh xóa bỏ tội phạm và những hành vi vi phạm pháp luật
trong xã hội cần thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản như sau:
- Mau chóng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Tiến hành
quản lý nhà nước và quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa.
- Các cơ quan chức năng như cảnh sát, kiểm sát, tòa án... phải thực hiện đầy đủ chức
năng, nhiệm vụ của mình, đấu tranh có hiệu quả, xử lý nghiêm, công bằng hành vi vi phạm
pháp luật.
- Phải kết hợp sức mạnh của các tổ chức xã hội và mọi công dân, huy động mọi
phương tiện có thể, kết hợp giữa cưỡng chế và thuyết phục để loại trừ tội phạm và hiện
tượng vi phạm pháp luật ra khỏi đời sống xã hội.
- Cần làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục chính trị, pháp luật, kỷ luật, đạo đức
cho nhân dân. Nâng cao ý thức pháp luật của người dân.
- Tạo ra những hoàn cảnh, điều kiện tốt để mọi người phát huy được những mặt tốt,
tích cực loại trừ những mặt xấu, tiêu cực ra khỏi đời sống xã hội.

You might also like