Professional Documents
Culture Documents
THẢO LUẬN 02
THẢO LUẬN 02
Lớp HC47.1
Nhóm: 03
Thành viên
Câu 2: Những tội phạm mà người thực hiện bị Tòa án tuyên phạt từ 3 năm
tù trở xuống đều là tội phạm ít nghiêm trọng.
Nhận định sai, vì theo khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015 chỉ quy định mức cao
nhất của khung hình phạt chứ không xác định mức tối thiểu, nếu người phạm tội có
những tình tiết giảm nhẹ hoặc người chưa thành niên phạm tội thì Tòa án có thể quyết
định mức phạt nhẹ hơn so với quy định. Mức hình phạt mà nhà làm luật quy định
không phụ thuộc vào mức án Tòa tuyên trên thực tế. Vậy nên những tội phạm mà
người thực hiện bị Tòa án tuyên phạt từ 3 năm tù trở xuống thì cũng có thể là tội phạm
nghiêm trọng, hoặc rất nghiêm trọng.
Câu 3 : trong một tội danh luôn có cả 3 loại cấu thành tội phạm: cấu
thành cơ bản, cấu thành tăng nặng, cấu thành giảm nhẹ.
Trong một tội danh không phải lúc nào cũng tồn tại đầy đủ cả ba loại cấu
thành tội phạm. Có nhiều tội danh chỉ tồn tại một hoặc hai loại cấu thành tội
phạm. Trong đó cấu thành cơ bản là bắt buộc phải có đối với mỗi tội danh.
Ví dụ:
- Tội cướp tài sản quy định tại Điều 168 BLHS 2015: chỉ có cấu thành cơ bản và
tăng nặng.
- Tội giết bỏ hoặc vứt con mới đẻ quy định tại Điều 124 BLHS 2015: chỉ có cấu
thành cơ bản và giảm nhẹ.
Câu 4: Trong cấu thành tội phạm giảm nhẹ không có dấu hiệu định tội
Nhận định sai, vì cấu thành tội phạm giảm nhẹ là cấu thành tội phạm bao gồm
các dấu hiệu định tội và dấu hiệu định khung giảm nhẹ. Đây là dấu hiệu phản ánh tội
phạm mà tính nguy hiểm cho xã hội có mức độ giảm xuống một cách đáng kể (so với
trường hợp bình thường)
Ví dụ: Theo quy định tại khoản 2 Điều 108 BLHS thì người phạm tội phải có
các dấu hiệu định tội của tội phản bội Tổ quốc là CTTP cơ bản được quy định tại
khoản 1 Điều 108 BLHS cộng với dấu hình định khung giảm nhẹ được quy định tại
khoản 2 Điều 108 BLHS.
Câu 5: Một tội phạm mà trên thực tế chưa gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội là
tội phạm có cấu thành hình thức.
Nhận định sai, vì trong cấu thành tội phạm hình thức dấu hiệu bắt buộc của mặt
khách quan là hành vi chứ không phải hậu quả. Chỉ cần thực hiện hành vi được quy
định trong BLHS thuộc cấu thành tội phạm hình thức thì sẽ bị coi là thực hiện hành vi
phạm tội mà không cần tới hậu quả.
Ví dụ: Hành vi giết người được quy định tại Điều 123 BLHS 2015 thì chỉ cần
thực hiện hành vi được quy định tại cấu thành tội phạm cơ bản của Khoản 1 điều này
thì sẽ trở thành tội phạm
Bài 3: Dựa vào cấu trúc của mặt khách quan và quy định của BLHS
về tội phạm cụ thể anh (chị) hãy xác định các cấu thành tội phạm sau đây
thuộc loại CTTP nào?
1. Tội không cứu người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính
mạng ( điều 132 BLHS).
Cấu thành tội phạm vật chất
Hậu quả : nguy hiểm cho xã hội là có người chết
Quan hệ nhân quả là có người chết thì mới phạm tội
2. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi ( điều 145 BLHS )
Cấu thành tội phạm hình thức
Hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại về tình dục trẻ vị thành niên
3. Tội cướp tài sản ( điều 168 BLHS )
Cấu thành tội phạm hình thức
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội là người bị cướp mất tài sản
4. Tội đua xe trái phép (điều 266 BLHS)
Cấu thành tội phạm vật chất
Hành vi nguy hiểm cho xã hội gây thương tích tổn hại sức khỏe người khác tỷ
lệ thương tổn 31% đến 60%, gây thiệt hại về tài sản
Bài 5: Người dưới 15 tuổi có phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi trộm cắp
tài sản của mình không nếu hành vi của họ được quy định tại:
1. Khoản 1 điều 173 BLHS.
2. Khoản 2 điều 173 BLHS.
3. Khoản 3 điều 173 BLHS.
4. Khoản 4 điều 173 BLHS.
* Xét trường hợp 1: Người dưới 14 tuổi
Mặc dù có hành vi phạm tội nhưng lại không thể xử lý hình sự bởi vì không đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, đối với người dưới 14 tuổi phạm tội thì chỉ có
thể áp dụng các biện pháp xử lý hành chính theo Điều 90, Điều 92 Luật xử lý vi phạm
hành chính
* Xét trường hợp 2: Người đó từ đủ 14 tuổi đến dưới 15 tuổi
1. Khoản 1 Điều 173 BLHS 2015: Căn cứ theo khoản 1 Điều 173 thì mức cao
nhất của khung hình phạt là phạt tù đến 03 năm nên theo điểm a khoản 1 Điều 9
thì đây là loại tội phạm ít nghiêm trọng. Do đó, theo khoản 2 Điều 12 thì người
đó không phải chịu trách nhiệm hình sự.
2. Khoản 2 Điều 173 BLHS 2015: Căn cứ theo khoản 2 Điều 173 thì mức cao
nhất của khung hình phạt là phạt tù đến 07 năm nên theo điểm b khoản 1 Điều 9
thì đây là loại tội phạm nghiêm trọng. Do đó, theo khoản 2 Điều 12 thì người đó
không phải chịu trách nhiệm hình sự.
3. Khoản 3 Điều 173 BLHS 2015: Căn cứ theo khoản 3 Điều 173 thì mức cao
nhất của khung hình phạt là phạt tù đến 15 năm nên theo điểm c khoản 1 Điều 9
thì đây là loại tội phạm rất nghiêm trọng. Do đó, theo khoản 2 Điều 12 thì
người đó phải chịu trách nhiệm hình sự vì đây là loại tội phạm rất nghiêm trọng
được quy định tại Điều 173.
4. Khoản 4 Điều 173 BLHS 2015: Căn cứ theo khoản 4 Điều 173 thì mức cao
nhất của khung hình phạt là phạt tù chung thân nên theo điểm d khoản 1 Điều 9
thì đây là loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, theo khoản 2 Điều 12 thì
người đó phải chịu trách nhiệm hình sự vì đây là loại tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng được quy định tại Điều 173.
Bài 6: A là bác sĩ đa khoa có mở phòng mạch riêng. Trong lúc khám bệnh
A đã kê toa thuốc cho bé Hoài Trung (3 tuổi) theo toa của người lớn. Do sơ suất,
A không kiểm tra toa thuốc trước khi trao cho người nhà của bé Trung. Người
nhà của bé Trung đến tiệm thuốc do H đứng bán. H bán thuốc theo toa của A
mặc dù trên toa thuốc có ghi tuổi của bệnh nhân là 3 tuổi. Bé Trung do uống
thuốc quá liều nên bị tử vong.
1. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của A là gì?
Dựa vào khách thể mà A xâm phạm tới đó là quan hệ nhân thân (sức khỏe, tính
mạng), ta xác định đối tượng tác động ở đây là bé Hoài Trung.
2. Hành vi của A đã xâm phạm khách thể trực tiếp nào?
Hành vi của A đã xâm phạm đến quan hệ nhân thân (sức khỏe, tính mạng).
3. Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả trong vụ án này thuộc loại nào?
Tại sao?
Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả trong vụ án này thuộc loại quan hệ
nhân quả kép trực tiếp. Do hành vi kê sai toa thuốc người lớn cho cậu bé 3 tuổi Hoài
Trung và hành vi bán thuốc của H là không kiểm tra kĩ toa thuốc có ghi tuổi của bệnh
nhân nên gây ra hậu quả là bé Trung bị tử vong.
4. Lỗi của A là loại lỗi gì? Tại sao?
Lỗi của A là lỗi vô ý phạm tội do cẩu thả trong vụ án trên. Căn cứ theo khoản 2
Điều 11 BLHS 2015, xét thấy A đã gây nên hậu quả là làm chết bé Trung trong trường
hợp cẩu thả nên không thấy trước được khả năng gây ra hậu quả đó mặc dù điều kiện
khách quan buộc A phải thấy trước hoặc có thể thấy trước hậu quả.
Về lý trí: A không thấy trước được hành vi của mình có thể gây hậu quả nhuy
hiểm cho bé Trung
Về ý chí: A khi thực hiện hành vi thì A không biết được hậu quả sẽ xảy ra, bởi
hậu quả này bất lợi cho A và A cũng không mong muốn nó xảy ra.
Do vậy, lỗi của A được xác định là lỗi vô ý do cẩu thả.
5. H có lỗi trong việc gây ra cái chết của bé Trung không? Nếu có là lỗi gì?
Tại sao?
H cũng có lỗi trong việc gây ra cái chết của bé Trung. Đây cũng là lỗi vô ý
phạm tội vì cẩu thả. H đã bán thuốc cho người nhà bé Trung theo toa người lớn mà
không kiểm tra kĩ toa thuốc mặc dù toa thuốc đã được ghi là tuổi của bệnh nhân là 3
tuổi. Hành vi này của H đã một phần gây nên cái chết của bé Trung.