You are on page 1of 14

TRUNG ƯƠNG ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN THANH THIẾU NIÊN VIỆT NAM

MÔN HỌC
QUÁN LÝ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

TIỂU LUẬN:
Xu hướng cải cách nền công vụ ở nước ta hiện nay

Họ và tên: Nguyễn Văn Diệm


Lớp: Xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước
Khóa: 4

Hà Nội, tháng 8/2023


MỤC LỤC

I. MỞ ĐẦU

II. NỘI DUNG

2.1. Những mô hình công vụ


2.1.1 Mô hình công vụ chức nghiệp
2.1.2. Mô hình công vụ việc làm
2.1.3. Mô hình công vụ hỗn hợp
2.2. Kết quả cải cách chế độ công vụ, công chức thời gian qua.
2.3. Một số hạn chế trong cải cách công vụ, công chức thời gian qua
2.4. Những thách thức đặt ra trong cải cách chế độ công vụ, công chức thời
gian tới.
2.5. Xu hướng và giải pháp cải cách nền công vụ ở nước ta
I. MỞ ĐẦU

Công vụ là hoạt động mang tính quyền lực - pháp lý, được thực hiện bởi
đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, nghĩa là đội ngũ này được Nhà nước trao
quyền nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quá trình
quản lý toàn diện các mặt hoạt động của đời sống xã hội. Công vụ là phục vụ
nhà nước, phục vụ nhân dân, gắn với quyền lực nhà nước. Nói chung, chế độ
công vụ, công chức là chế độ chính trị - pháp lý chịu sự chi phối nhiều bởi yếu
tố chính trị. Do vậy, ở các quốc gia khác nhau, khái niệm về công vụ cũng được
hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Ở Việt Nam, công vụ được hiểu như sau: Với nghĩa rộng, công vụ thuộc
khu vực công, tương ứng với “hệ thống chính trị”; chủ thể trực tiếp hoạt động
công vụ là cán bộ, công chức, viên chức của cả hệ thống này trong thực thi chức
năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền quy định. Như vậy, hoạt động công vụ
bao hàm hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam (là tổ chức lãnh đạo Nhà nước
và xã hội), Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã
hội. Với nghĩa hẹp, công vụ thuộc khu vực của “Nhà nước”, tương ứng với chủ
thể công vụ là các cơ quan nhà nước và chủ thể trực tiếp hoạt động công vụ là
cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước, thực hiện chức năng, nhiệm vụ
công theo quy định của pháp luật.
Hoạt động do cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy của Nhà nước,
trong tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội và nhiều tổ chức xã hội
khác thực hiện, thực chất đều là hoạt động phục vụ lợi ích công. Điều này bắt
nguồn từ bản chất của Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và
mục tiêu chung của hệ thống chính trị. Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy
định: “Hoạt động công vụ của cán bộ, công chức là việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của Luật này và các quy định
khác có liên quan”.
Nền công vụ Việt Nam có lịch sử phát triển hơn 70 năm, kể từ khi nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngày 2-9-1945 với bản Hiến pháp đầu tiên
3
(năm 1946) của một nước tự do và độc lập. Với Sắc lệnh số 18-SL/1945, ngày
18-8-1945, Chính phủ lâm thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chuyển đổi chế độ
quan lại trong hệ thống hành chính thuộc địa của Pháp sang chế độ công vụ dựa
trên năng lực và đạo đức của Chính phủ lâm thời. Đến năm 1950, tại Sắc lệnh
số 76/SL, ngày 20-5-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những quy định xác
định công chức là “những công dân được giao những nhiệm vụ cụ thể trong bộ
máy chính quyền nhân dân”, “dưới sự lãnh đạo của Chính phủ”. Sắc lệnh chính
thức đưa ra những nguyên tắc quản lý công chức, như tuyển dụng công chức
dựa trên thực tài, bao gồm trình độ, kinh nghiệm và bằng cấp, cũng như tuyển
dụng và bố trí thông qua thi tuyển, đồng thời đưa ra một hệ thống trả lương theo
ngạch, cấp bậc và khen thưởng những người có thành tích xuất sắc. Tuy nhiên,
do công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước kéo dài
nên hệ thống công vụ đã được điều chỉnh bằng nhiều văn bản pháp quy khác
nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời chiến.
Bước vào giai đoạn đổi mới, thực hiện Hiến pháp năm 1992, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998, quy
định đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức tốt, năng lực, trình độ
chuyên môn, tận tụy phục vụ nhân dân và trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Cán bộ, công chức và bộ máy tổ chức của nền công vụ đặt dưới
sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà
nước.
Sau hai lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 2000 và
năm 2003, Quốc hội đã tiếp tục ban hành Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và
Luật Viên chức năm 2010, trong đó phân tách rõ cán bộ, công chức, cán bộ,
công chức cấp xã và viên chức; xác lập cơ chế hoạt động công vụ theo vị trí
việc làm và thực tài thay thế cho cơ chế công vụ chức nghiệp. Theo đó, hệ
thống công vụ phát triển theo hướng chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, tách
bạch hoạt động công vụ của cán bộ, công chức với hoạt động nghề nghiệp của
viên chức.

4
II. NỘI DUNG

2.1. Những mô hình công vụ


2.1.1 Mô hình công vụ chức nghiệp
Trong mô hình này, nền công vụ được phân theo ngành, mỗi ngành được
phân chia thành các ngạch và mỗi ngạch chia thành các bậc, mỗi bậc gắn với
một chỉ số tiền lương và tăng dần theo bậc trong ngạch. Công chức được tuyển
dụng dựa vào tiêu chuẩn cho từng ngạch, gắn với bằng cấp chuyên môn được
đào tạo; công chức được trả lương theo ngạch, bậc và thâm niên; việc đánh giá
công chức dựa trên tiêu chuẩn của từng ngạch. Việc trả lương dựa trên ngạch,
bậc mà không gắn với vị trí công việc mà công chức đảm nhận. Mô hình này
được đánh giá là mang lại sự ổn định cho nền công vụ.
2.1.2. Mô hình công vụ việc làm
Trong mô hình này, công chức được tuyển dụng dựa vào tiêu chuẩn của
vị trí công việc với điều kiện là vị trí công việc còn trống. Các vị trí công việc
được sắp xếp căn cứ vào mức độ phức tạp của công việc thay vì căn cứ vào
trình độ đào tạo của công chức. Việc trả lương cho công chức được xác định
theo vị trí công việc, công việc càng phức tạp thì mức trả lương trả cho công
chức càng cao. Mô hình này được đánh giá là năng động, thích ứng với cơ chế
thị trường.
2.1.3. Mô hình công vụ hỗn hợp
Là sự kết hợp giữa chức nghiệp và việc làm. Trong mô hình hỗn hợp
công chức bậc thấp thì áp dụng theo chế độ công vụ chức nghiệp, còn công
chức bậc cao thì áp dụng theo mô hình việc làm. Công chức bậc thấp có thể làm
suốt đời nhưng công chức bậc cao thì thực hiện chế độ hợp đồng.
2.2. Kết quả cải cách chế độ công vụ, công chức thời gian qua.

5
- Hệ thống tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước tiếp tục được kiện
toàn theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh
và bền vững trên cơ sở Hiến pháp năm 2013. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ
chức của các cơ quan hành chính nhà nước được điều chỉnh phù hợp với điều
kiện mới; mô hình bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực tiếp tục khẳng định tính
phù hợp trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý của cơ quan hành chính; các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ đã kiện toàn tổ chức bộ máy của mình theo hướng tinh gọn, hiệu lực,
hiệu quả; rà soát chức năng, nhiệm vụ, kiện toàn tổ chức các cơ quan chuyên
môn cấp tỉnh, cấp huyện, bảo đảm tổ chức quản lý thống nhất, thông suốt đối
với ngành, lĩnh vực từ Trung ương đến địa phương.
- Hệ thống văn bản pháp luật cụ thể hóa quy định của Luật Cán bộ, công
chức, Luật Viên chức tiếp tục được xây dựng, hoàn thiện. Đề án đẩy mạnh cải
cách chế độ công vụ, công chức nhằm xây dựng một nền công vụ “chuyên
nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả” được Bộ Nội vụ và các
bộ, ngành, địa phương tổ chức thực hiện và bước đầu thu được kết quả. Trong
đó, tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý công chức, viên chức theo quy
định của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức; triển khai xây dựng cơ cấu
công chức, viên chức theo vị trí việc làm; tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống
tiêu chuẩn chức danh, công chức, viên chức; tiếp tục đổi mới phương thức đánh
giá công chức, viên chức. Công tác quản lý biên chế được thực hiện nghiêm túc,
chặt chẽ; mục tiêu, quan điểm và các giải pháp đồng bộ để thực hiện tinh giản
biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được xác định rõ.
Việc tuyển dụng công chức tiếp tục được đổi mới, tạo sự công khai, minh bạch,
công bằng, góp phần lựa chọn đội ngũ công chức có đủ năng lực, phẩm chất,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị trong bộ máy hành chính.
Công tác thí điểm thi tuyển cạnh tranh các chức danh lãnh đạo, quản lý đã được
một số bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện đạt kết quả. Công tác thanh
tra, kiểm tra công vụ được đẩy mạnh.

6
- Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngày càng được nâng
cao cả về trình độ, năng lực, kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng quản lý,
điều hành, bảo đảm cơ cấu ngạch, cơ cấu độ tuổi, giới tính... Kỷ cương, kỷ luật
hành chính được duy trì, đạo đức công vụ được đề cao. Mặc dù còn gặp nhiều
khó khăn trong tiếp cận các tri thức quản trị mới theo hướng chuyên nghiệp,
hiện đại trong nền kinh tế thị trường, những khó khăn do tiền lương và thu nhập
còn thấp, lại chịu tác động tiêu cực từ mặt trái của thị trường và tác động của
cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế - tài chính toàn cầu, song đa số cán bộ,
công chức, viên chức vẫn giữ được phẩm chất đạo đức, lối sống, có trách
nhiệm, kiên trì vượt qua khó khăn, thực hành tiết kiệm, luôn vững vàng, sáng
tạo để tích cực tham gia quá trình đổi mới, cải cách của đất nước.
2.3. Một số hạn chế trong cải cách công vụ, công chức thời gian qua
- Bộ máy hành chính còn cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả. Việc tinh
giản biên chế chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức tuy đã được nâng lên so với trước nhưng chưa đáp ứng yêu cầu của
quá trình phát triển. Việc xây dựng cơ cấu công chức, viên chức theo vị trí việc
làm chưa được hoàn thành; công tác cải cách tiền lương triển khai còn chậm,
tiền lương chưa thực sự là động lực thúc đẩy cán bộ, công chức thực thi công
vụ.
- Một số nội dung của Đề án đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức
còn chậm được triển khai thực hiện, như việc triển khai xác định vị trí việc làm
và cơ cấu công chức, viên chức; xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn
chức danh ngạch công chức, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp của viên chức;
xây dựng và đưa vào sử dụng thống nhất phần mềm cơ sở dữ liệu về đội ngũ
cán bộ, công chức; hình thành hệ thống thông tin quản lý cán bộ, công chức trên
phạm vi toàn quốc; triển khai việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác
thi tuyển, thi nâng ngạch công chức; quy định chính sách thu hút, phát hiện,
trọng dụng và đãi ngộ người có tài năng trong hoạt động công vụ...
* Nguyên nhân của hạn chế:

7
- Về khách quan, do quá trình thực hiện đường lối đổi mới, cải cách cơ bản
bộ máy nhà nước cho phù hợp với quá trình chuyển đổi thể chế kinh tế từ tập
trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một
cuộc chuyển đổi với nhiều khó khăn, thách thức nên phải có bước đi thận trọng,
từng bước, hiệu quả, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, tiếp thu các giá trị mới để
thiết lập mô hình, bước đi phù hợp với đặc thù Việt Nam.
- Về chủ quan, chậm đổi mới nhận thức và chuyển đổi cơ chế quản lý,
trong đó có việc chậm tách bạch giữa trách nhiệm lãnh đạo của tổ chức đảng với
trách nhiệm quản lý của Nhà nước cho phù hợp với những thay đổi của thể chế
kinh tế thị trường; kéo dài thời gian nghiên cứu, thử nghiệm; chậm hoàn thiện
đồng bộ thể chế công vụ mới cho phù hợp với yêu cầu chuyên nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Việc xác lập chế độ công vụ theo vị trí việc làm đã được quy định trong
Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức, nhưng bước đi còn thận trọng, cũng
có phần do sức ì của cơ chế quản lý chức nghiệp cũ. Phương pháp xác định vị
trí việc làm và quy trình thiết lập cơ cấu công chức theo vị trí việc làm còn lúng
túng và triển khai thực hiện quá chậm. Công tác tổ chức quản lý cán bộ, công
chức còn thiếu tập trung, thống nhất, còn phân tán bởi các cơ quan khác nhau,
từ đó dẫn tới khó quản lý thống nhất về biên chế, chế độ, chính sách.
2.4. Những thách thức đặt ra trong cải cách chế độ công vụ, công chức
thời gian tới.
- Nhận thức về hệ thống công vụ theo vị trí việc làm thay thế cho hệ thống
công vụ chức nghiệp đã gặp không ít cản trở bởi thói quen được bao cấp. Tư
tưởng “biên chế” kéo theo cả cơ chế quản lý và chính sách gắn với biên chế đã
biến việc “vào biên chế” trở thành mục tiêu của số đông người lao động.
- Sự chuyển đổi theo phương pháp tiếp cận nền công vụ thực tài với ưu
tiên vào năng lực thực sự đang đứng trước thách thức biến tướng của cơ chế thị
trường tác động vào đạo đức, lối sống của cán bộ, công chức, viên chức. Những
biểu hiện thực dụng, vô cảm của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức có
chiều hướng lan rộng. Một bộ phận cán bộ, đảng viên đã có biểu hiện phai nhạt

8
lý tưởng, lợi dụng vị trí lãnh đạo và quyền lực để mưu lợi cá nhân, lo thu vén
cho bản thân, gia đình, họ tộc, coi nhẹ lợi ích tập thể, cộng đồng, coi nhẹ những
giá trị tinh thần cao đẹp, dẫn đến vi phạm kỷ luật, pháp luật.
- Tiền lương và đãi ngộ trong khu vực công còn có tính bao cấp, bình
quân, chưa trả lương theo vị trí việc làm và kết quả công việc, do đó chưa tạo ra
động lực đích thực của người cán bộ, công chức.
- Đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế đòi hỏi phải có nguồn nhân lực
tương xứng, trọng tâm là đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phải có kiến
thức, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng... Do đó, phải chú trọng đào tạo,
bồi dưỡng phẩm chất, nâng cao năng lực đối với đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức.
2.5. Xu hướng và giải pháp cải cách nền công vụ ở nước ta
Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.
Hiến pháp cũng quy định nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước là: “Quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Báo
cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội XII của
Đảng đã xác định nhiệm vụ hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của bộ máy nhà nước là: Đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể
cải cách hành chính nhà nước theo hướng xây dựng nền hành chính dân chủ,
hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, phục vụ nhân dân, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả. Hoàn thiện thể chế hành chính dân chủ - pháp quyền, quy định trách
nhiệm và cơ chế giải trình của các cơ quan nhà nước; giảm mạnh, bãi bỏ những
thủ tục hành chính gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp. Đề cao đạo đức
công vụ, trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo và thực
thi công vụ của cán bộ, công chức; đẩy nhanh việc áp dụng chính phủ điện tử.

9
Đất nước ta đang đứng trước nhiều vận hội phát triển nhưng cũng gặp
không ít thách thức. Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, cả hệ thống
chính trị, cơ quan nhà nước, Chính phủ, cơ quan hành chính các cấp, đội ngũ
cán bộ, công chức đang đồng lòng, quyết tâm xây dựng một chính phủ kiến tạo,
liêm chính, hành động, phục vụ nhân dân, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, xây dựng
đất nước ta phát triển nhanh, bền vững, giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, có vị trí ngày càng cao trên trường quốc tế. Trong thời gian tới, việc thực
hiện cải cách chế độ công vụ, công chức đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây
dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
cần tập trung thực hiện những giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách.
Đổi mới và hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
chế độ trách nhiệm và trách nhiệm giải trình theo hướng: cơ quan nhà nước, cán
bộ, công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép; quyền hạn đến
đâu, trách nhiệm đến đó; phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của tập thể,
cá nhân trong từng công đoạn giải quyết công việc. Hoàn thiện cơ chế phân
quyền, phân cấp, ủy quyền nhằm bảo đảm sự thống nhất, thông suốt trong lãnh
đạo, quản lý, điều hành từ Trung ương đến cơ sở. Kết hợp chặt chẽ giữa quản lý
theo ngành với quản lý theo lãnh thổ.
Rà soát, hoàn thiện các quy định, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý,
điều hành, quy chế làm việc nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, công khai,
minh bạch, gắn kết giữa công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật, xóa
bỏ cơ chế “xin - cho”, “duyệt - cấp”.
Tiếp tục rà soát, hoàn thiện thể chế quản lý công vụ, công chức. Tập trung
tổng kết, sửa đổi, bổ sung Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức và các văn
bản hướng dẫn thi hành. Hoàn thiện các quy định về công tác cán bộ nhằm bảo
đảm tính thống nhất, đồng bộ, chặt chẽ giữa các khâu và liên thông giữa các cấp
và trong hệ thống chính trị. Khắc phục những bất hợp lý trong công tác cán bộ,
như phân công, phân cấp, thẩm quyền quản lý, tiêu chuẩn, quy trình...

10
Hai là, tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức là một yêu cầu quan trọng,
thường xuyên nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng, cơ cấu
hợp lý, chuyên nghiệp, hiện đại. Mục tiêu cơ bản của việc nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức là: Xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức có số
lượng, cơ cấu đồng bộ và hợp lý, phù hợp với yêu cầu thực tiễn quản lý hành
chính nhà nước về chuyên môn, nghiệp vụ, về cơ cấu ngạch, độ tuổi, giới tính,
vùng và dân tộc, từng bước tiến tới chuyên nghiệp, hiện đại; trung thành với
Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; sẵn sàng hy sinh để
bảo vệ sự an toàn, danh dự và lợi ích quốc gia; chấp hành nghiêm chỉnh đường
lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; thi hành nhiệm
vụ theo đúng quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước; tận tuỵ phục vụ
nhân dân; có nếp sống lành mạnh, trung thực, cần, kiệm, liêm, chính, chí công,
vô tư; được đào tạo và trang bị kiến thức về lý luận chính trị, quản lý nhà nước,
pháp luật, ngoại ngữ, tin học và các kiến thức xã hội khác; có đủ kỹ năng
chuyên môn, nghiệp vụ; có đủ năng lực thực tiễn trong xây dựng chính sách, tổ
chức điều hành và thực hiện theo chức trách đảm nhiệm; có đủ sức khỏe thực
hiện nhiệm vụ, phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của
công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, cần tập trung thực hiện những công việc sau:
- Đổi mới công tác tuyển dụng, tuyển chọn, giới thiệu bầu cử cán bộ, điều
động, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, chuyển đổi vị trí công tác, từ chức,
miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật trên cơ sở tiêu chuẩn cụ thể đối với từng chức
vụ, chức danh, theo quy trình chặt chẽ, trách nhiệm rõ ràng, công khai, minh
bạch. Chấn chỉnh, khắc phục tình trạng kén chọn vị trí, chức danh; quy định cụ
thể và thực hiện nghiêm về số lượng công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý cấp
phó trong các cơ quan, đơn vị. Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát hiện, sử dụng
các chuyên gia, người có trình độ cao, có nhiều kinh nghiệm; thu hút, trọng

11
dụng nhân tài vào công tác tại cơ quan đảng, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội
các cấp.
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng; xác lập chế độ bắt buộc đào tạo,
bồi dưỡng, cập nhật kiến thức lãnh đạo, quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ
năng, đồng thời có cơ chế khuyến khích đào tạo trong nước và ở nước ngoài.
- Đổi mới công tác quy hoạch cán bộ và thực hiện quy trình mới về bổ
nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử “5 bước”, gắn với tiêu chuẩn cụ thể đối với
từng chức vụ, chức danh; công khai, minh bạch, dân chủ, khách quan và nâng
cao trách nhiệm của cấp ủy, tập thể lãnh đạo, người đứng đầu và cơ quan tham
mưu về công tác cán bộ. Kiên quyết sàng lọc, miễn nhiệm, thay thế, cho thôi
giữ chức vụ, cho từ chức đối với cán bộ, công chức, viên chức làm việc kém
hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo
đức, tín nhiệm thấp. Đẩy mạnh việc thực hiện thi tuyển các chức danh lãnh đạo,
quản lý các cấp.
- Đổi mới cách thức tổ chức kỳ thi nâng ngạch công chức, nâng hạng viên
chức sao cho nghiêm túc, minh bạch, khách quan, công bằng; thực hiện phân
cấp, ủy quyền tổ chức thi để rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí.
- Đổi mới công tác đánh giá cán bộ, công chức, viên chức: Công tác đánh
giá cán bộ, công chức, viên chức phải căn cứ vào tiêu chuẩn, chức trách, nhiệm
vụ, quyền hạn, trách nhiệm và hiệu quả công việc thực tế của mỗi người. Đánh
giá phải thực chất, trên nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch...
Gắn đổi mới nội dung, phương pháp đánh giá với đổi mới việc lập kế hoạch
công tác; theo dõi, điều chỉnh, bổ sung thường xuyên kế hoạch công tác và thực
hiện điều hành theo kế hoạch công tác.
Ba là, xây dựng, thực hiện chế độ đãi ngộ và khuyến khích đối với cán bộ,
công chức.
Tiếp tục cải cách cơ bản hệ thống tiền lương và các chính sách đãi ngộ
khác đối với cán bộ, công chức. Đây phải là một giải pháp mang tính đồng bộ,
tổng thể trong cải cách chế độ công chức, công vụ, góp phần quan trọng vào

12
việc tinh giản bộ máy, tinh giản biên chế một cách mạnh mẽ, có hiệu quả.
Nghiên cứu trả lương trên cơ sở kết quả thực thi nhiệm vụ và kết quả đánh giá
công việc. Trước mắt, cần xây dựng một số chính sách ưu tiên, thu hút, đãi ngộ
đối với cán bộ, công chức trong nền công vụ đang thực thi quản lý nhà nước.
Bốn là, tiếp tục xây dựng đạo đức, nâng cao phẩm chất và trách nhiệm của
cán bộ, công chức.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các quy định, quy chế về
chế độ trách nhiệm, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, phong cách, lối
sống, quy tắc ứng xử đối với cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng hệ thống
chuẩn mực ứng xử trong các mối quan hệ giữa cán bộ, công chức, viên chức với
doanh nghiệp và nhân dân. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong cơ quan, tổ
chức, đơn vị. Khắc phục tình trạng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, tiêu cực
của cán bộ, công chức. Người đứng đầu và từng công chức phải thường xuyên
rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không suy thoái, “tự diễn
biến”,“tự chuyển hóa”. Các cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải kiểm
tra việc thực hiện của cán bộ, công chức, viên chức ở cơ quan, địa phương
mình.
Năm là, nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối
với cán bộ, công chức.
Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra đối với cán bộ, công chức;
phát huy vai trò của các cơ quan thanh tra, kiểm tra; tập trung chỉ đạo và xử lý
nghiêm, đúng pháp luật các hành vi tham nhũng, lãng phí, những hành vi lợi
dụng chống tham nhũng để vu khống, tố cáo sai sự thật. Xử lý nghiêm, kịp thời
tập thể, cá nhân suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống;
khen thưởng kịp thời tập thể, cá nhân thực hiện tốt, có hiệu quả.
Sáu là, tiếp tục kiện toàn bộ máy quản lý cán bộ, công chức.

13
Bộ máy quản lý cán bộ, công chức cần được tổ chức phù hợp với hệ thống
công vụ chuyên nghiệp, hiện đại. Nâng cao tính trách nhiệm, chuyên môn hóa,
hiện đại hóa và minh bạch trong quản lý để công tác quản lý nhân lực được thực
hiện công tâm, trong sáng, thực chất.

14

You might also like