You are on page 1of 228

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

NGUYỄN QUANG NGỌC - LÊ THỊ THU HƯƠNG


(Đồng chủ biên)
NGUYỄN QUANG ANH - NGUYỄN THỊ THANH HOÀ
NGÔ THỊ MINH - BÙI VĂN TUẤN

GIÁO TRÌNH
HÀ NỘI HỌC

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


MỤC LỤC

LỜI GIỚI THIỆU.................................................................................................................................................... 5

Chương 1. NHẬP MÔN HÀ NỘI HỌC


1.1. Hà Nội - Không gian hội tụ và lan toả......................................................................................................... 9
1.2. Nghiên cứu Hà Nội và Hà Nội học............................................................................................................. 11
1.3. Đối tượng của Hà Nội học......................................................................................................................... 15
1.4. Phương pháp tiếp cận.............................................................................................................................. 17
1.5. Cơ sở dữ liệu............................................................................................................................................. 19
1.6. Về nội dung nghiên cứu, đào tạo.............................................................................................................. 21
1.7. Học liệu.................................................................................................................................................... 24
Câu hỏi thảo luận............................................................................................................................................. 25

Chương 2. VỊ THẾ ĐỊA LÍ VÀ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN HÀ NỘI
2.1. Địa lí hành chính...................................................................................................................................... 26
2.2. Tài nguyên thiên nhiên............................................................................................................................ 35
2.3. Vị thế địa lí của Hà Nội.............................................................................................................................. 56
Câu hỏi thảo luận............................................................................................................................................. 62

Chương 3. DÂN CƯ VÀ CON NGƯỜI HÀ NỘI


3.1. Quá trình tụ cư và sự hình thành cộng đồng cư dân Hà Nội...................................................................... 63
3.2. Người Hà Nội............................................................................................................................................ 67
Câu hỏi thảo luận............................................................................................................................................. 87

Chương 4. ĐẶC TRƯNG LỊCH SỬ THĂNG LONG - HÀ NỘI


4.1. Hà Nội thời tiền Thăng Long (trước năm 1010)......................................................................................... 87
4.2. Hà Nội thời kỳ Thăng Long (từ năm 1010 đến năm 1802)........................................................................ 97
4.3. Hà Nội thời Nguyễn (từ năm 1802 đến năm 1945)................................................................................. 106
4.4. Hà Nội từ năm 1945 đến nay.................................................................................................................. 114
Câu hỏi thảo luận........................................................................................................................................... 123
4 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Chương 5. VĂN HOÁ THĂNG LONG - HÀ NỘI


5.1. Đặc trưng văn hoá Thăng Long - Hà Nội qua các thời kì.......................................................................... 124
5.2. Di sản văn hoá Thăng Long - Hà Nội ...................................................................................................... 137
5.3. Bảo tồn và khai thác giá trị di sản văn hoá Thăng Long - Hà Nội phục vụ phát triển du lịch.................... 151
Câu hỏi thảo luận........................................................................................................................................... 164

Chương 6. ĐÔ THỊ VÀ ĐÔ THỊ HÓA NÔNG THÔN HÀ NỘI


6.1. Đô thị Thăng Long - Hà Nội cổ truyền..................................................................................................... 165
6.2. Đô thị Hà Nội thời Cận đại...................................................................................................................... 171
6.3. Hà Nội từ năm 1945 đến nay.................................................................................................................. 173
6.4. Đô thị hoá nông thôn ngoại thành Hà Nội.............................................................................................. 181
6.5. Tổ chức và quản lí Thành phố Hà Nội...................................................................................................... 190
Câu hỏi thảo luận........................................................................................................................................... 200

Chương 7. MỘT SỐ THÀNH TỰU CỦA HÀ NỘI TRONG 30 NĂM ĐỔI MỚI
7.1. Thành tựu phát triển kinh tế - xã hội...................................................................................................... 201
7.2. Thành tựu về văn hoá - giáo dục............................................................................................................ 214
7.3. Thành tựu về hoạt động đối ngoại......................................................................................................... 219
Câu hỏi thảo luận........................................................................................................................................... 222
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................................................... 223
LỜI GIỚI THIỆU

Hà Nội học là môn học sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến những tri thức
về mọi mặt và nhận thức tổng hợp về con người và mối quan hệ giữa con
người với thiên nhiên trên địa bàn hàng nghìn năm liên tục là trung tâm
chính trị, xã hội, kinh tế và văn hoá hàng đầu của đất nước; phục vụ trực
tiếp cho các chiến lược phát triển Thủ đô. Do vị trí hết sức đặc biệt của Hà
Nội học trong nền học thuật nước nhà mà từ rất sớm đã xuất hiện khá
nhiều các chuyên gia chuyên tâm nghiên cứu về Hà Nội theo các chuyên
ngành, các lĩnh vực chuyên môn cụ thể (tức là Hà Nội học truyền thống),
trong đó hai lĩnh vực thu được nhiều thành tựu hơn cả là Văn hóa và Lịch
sử Thăng Long - Hà Nội.
Bước sang thế kỷ XXI, nhu cầu nghiên cứu Hà Nội theo hướng tiếp
cận tổng hợp, liên ngành để xử lý hiệu quả những vấn đề mới đang đặt
ra trong chiến lược phát triển bền vững Thủ đô đã trở nên bức thiết và
Hội thảo khoa học quốc tế Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội Văn hiến Anh
hùng, vì Hòa bình được tổ chức nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long
- Hà Nội được xem như một cột mốc đánh dấu sự ra đời của một ngành
Hà Nội học mới - Hà Nội học hiện đại. Trên cơ sở kinh nghiệm và thành tựu
của Hà Nội học truyền thống, Hà Nội học hiện đại thông qua phương pháp
tiếp cận Liên ngành gắn với Khu vực học và Khoa học phát triển nhằm đạt
tới nhận thức tổng hợp hơn và sâu sắc hơn về toàn bộ không gian lịch sử
- văn hóa và con người Hà Nội.
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội với sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực
trình độ cao, chất lượng cao cho xây dựng và phát triển Thủ đô, trong
những năm gần đây đã triển khai chương trình nghiên cứu và đào tạo
về Hà Nội học. Trên cơ sở những kinh nghiệm bước đầu của tập thể cán
bộ giảng dạy trong Khoa, trong Trường, được sự hợp tác của Trung tâm
Hà Nội học và phát triển Thủ đô, Viện Việt Nam học và Khoa học phát
triển, Đại học Quốc gia Hà Nội, chúng tôi tổ chức biên soạn giáo trình
6 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Hà Nội học theo hướng tiếp cận mới phục vụ cho các chương trình đào
tạo của nhà trường. Cuốn sách do GS.TS.NGND. Nguyễn Quang Ngọc,
Giám đốc Trung tâm Hà Nội học và phát triển Thủ đô và TS. Lê Thị Thu
Hương, Trưởng Khoa Văn hóa - Du lịch - Dịch vụ Hà Nội làm Đồng Chủ
biên. Trên cơ sở bàn bạc nhất trí của chủ biên và tập thể tác giả đã quyết
định tổ chức cuốn sách thành 7 chương và phân công cụ thể cho các tác
giả như sau:
Chương 1: Nhập môn Hà Nội học do GS. Nguyễn Quang Ngọc viết.
Chương 2: Vị thế địa lý và tài nguyên thiên nhiên Hà Nội do ThS. Nguyễn
Quang Anh viết.
Chương 3: Dân cư và con người Hà Nội và Chương 4: Đặc trưng lịch sử
Thăng Long - Hà Nội do TS. Lê Thị Thu Hương viết.
Chương 5: Văn hóa Thăng Long - Hà Nội do ThS. Nguyễn Thị Thanh
Hòa viết.
Chương 6: Đô thị và đô thị hóa nông thôn Hà Nội do TS. Bùi Văn Tuấn viết.
Chương 7: Một số thành tựu của Hà Nội trong 30 năm đổi mới do ThS. Ngô
Thị Minh viết.
Mặc dù đã có quá trình hình thành và phát triển lâu dài, trên cơ sở
thừa hưởng thành quả của Hà Nội học truyền thống, nhưng Hà Nội học hiện
đại là ngành học mới hình thành, có rất nhiều những vấn đề còn phải
được tiếp tục đi sâu nghiên cứu thảo luận. Cuốn sách thật ra mới chỉ là
tập hợp bước đầu của một nhóm tác giả phần lớn là cán bộ nghiên cứu
và giảng dạy trẻ, phục vụ nhiệm vụ giảng dạy và học tập về Hà Nội học ở
Khoa Văn hóa - Du lịch - Dịch vụ, Trường Đại học Thủ đô, nên chắc chắn
không tránh khỏi có những thiếu sót nhất định. Chúng tôi hy vọng sẽ
nhận được nhiều ý kiến đóng góp quý báu của bạn đọc cả về nội dung,
hình thức, phương pháp nghiên cứu và trình bày, để tập thể tác giả có
thêm cơ hội nâng cao và hoàn thiện cuốn sách nhằm phục vụ ngày một
tốt hơn, hiệu quả hơn cho các chương trình giảng dạy, học tập và nghiên
cứu về Hà Nội học.
Sách được tổ chức biên soạn và hoàn thành trong khuôn khổ chương
trình giáo trình đại học của Trường Đại học Thủ đô, được sự động viên,
Lời giới thiệu 7

tạo mọi điều kiện thuận lợi của Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội,
được sự quan tâm đóng góp ý kiến của các chuyên gia Hà Nội học và các
cán bộ lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn ở Thủ đô Hà Nội. Chúng tôi xin được
gửi lời cám ơn chân thành và sâu sắc đến tất cả những giúp đỡ quý báu
cho sự ra đời của cuốn sách này và hy vọng sẽ nhận được sự chia sẻ, cảm
thông và lượng thứ của bạn đọc.

Hà Nội, ngày 22 tháng 3 năm 2017


Đồng Chủ biên
GS.TS.NGND. Nguyễn Quang Ngọc
TS. Lê Thị Thu Hương
Chương 1
NHẬP MÔN HÀ NỘI HỌC

1.1. Hà Nội - Không gian hội tụ và lan toả


Địa bàn Hà Nội ngày nay mà trung tâm hạt nhân là Đại La - Thăng
Long - Đông Đô - Đông Kinh - Kẻ Chợ, mở rộng ra và tích hợp vào những
bộ phận quan trọng nhất của cả bốn xứ/ trấn Đông - Đoài - Nam - Bắc.
Đây chính là vùng đất gốc hình thành nên người Việt cổ và nền văn
minh Sông Hồng, nơi chứng kiến quá trình hình thành và phát triển của
những nhà nước sơ khai với kinh đô đầu tiên của đất nước, nơi tôi luyện
và kết quyện thành các giá trị cốt lõi của truyền thống Việt Nam, chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam.
Đây cũng chính là địa bàn đi đầu trong các phong trào đấu tranh
chống Bắc thuộc, chống đồng hoá của các đế chế Trung Hoa. Trên cơ sở
đó mà Ngô Quyền, người anh hùng đất Đường Lâm mới có thể trở thành
vị Tổ Trung hưng của dân tộc Việt Nam, kết thúc vĩnh viễn nghìn năm đô
hộ của phương Bắc, mở ra thời kì độc lập lâu dài và phát triển rực rỡ của
đất nước: Thời kì Văn hoá Thăng Long, văn minh Đại Việt.
Lý Công Uẩn, người tạo lập vương triều Lý, định đô Thăng Long “ở
giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa Nam Bắc Đông
Tây, tiện nghi núi sau, sông trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế
đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi
tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ hội tụ quan
yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”1. Bằng tầm
nhìn và sự nghiệp Thiên niên kỉ, Lý Công Uẩn từ đây đã kéo được toàn

1
Đại Việt sử kí toàn thư, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993, tr.241.
10 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

bộ thiên nhiên, kinh tế, văn hoá và đặc biệt là con người tứ trấn (Đông,
Đoài, Nam, Bắc) trở thành nguồn lực, thành nội lực cho công cuộc xây
dựng, bảo vệ và phát triển Thăng Long suốt cả nghìn năm, để đến năm
2010, UNESCO vinh danh Trung tâm Hoàng thành Thăng Long là Di sản
văn hoá của nhân loại.
Những giá trị mang tính nổi bật toàn cầu của khu Trung tâm Hoàng
thành Thăng Long chính là kết tinh lịch sử - văn hoá nghìn năm của cả
khu vực thành phố Hà Nội hiện nay. Trong quá trình lịch sử lâu dài ấy,
quy mô Hà Nội cũng có khi mở rộng hay thu hẹp; lịch sử Hà Nội cũng
nhiều lúc thăng, trầm…
Tên Hà Nội thật ra mới chỉ xuất hiện từ năm 1831, khi vua Minh
Mệnh quyết định chia đặt các tỉnh, trong đó tỉnh Hà Nội bao gồm 4 phủ
(Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hoà, Lí Nhân), 15 huyện (Thọ Xương, Vĩnh
Thuận, Từ Liêm, Thượng Phúc, Thanh Trì, Thanh Oai, Chương Đức, Sơn
Minh, Hoài An, Nam Xang, Duy Tiên, Bình Lục, Phú Xuyên, Kim Bảng,
Thanh Liêm). Hà Nội lúc đó theo đúng nghĩa của chữ là một tỉnh “trong
sông”, được bao bọc bởi sông Hồng ở phía Bắc và phía Đông, sông Đáy ở
phía Tây và phía Nam, mà hạt nhân là khu đô thị cổ truyền từ Vạn Xuân,
Tống Bình, Đại La cho đến Thăng Long, Đông Đô, Đông Kinh, Kẻ Chợ,
tương đương với địa bàn hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận từ thời Lê
cho đến cuối thế kỉ XIX.
Trong thời Pháp thuộc, Hà Nội vừa là thủ đô của Liên bang Đông
Dương thuộc Pháp, vừa là thủ phủ của Bắc Kì, từ khu nhượng địa bên
bờ sông Hồng, Hà Nội trở thành thành phố nhượng địa gồm toàn bộ
khu đô thị cổ truyền (hai huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận trước đây) và
thêm một phần huyện Từ Liêm ở phía Tây và một phần huyện Thanh
Trì ở phía Nam. Năm 1903, lần đầu tiên địa bàn Hà Nội mở rộng sang
bờ Bắc sông Hồng gồm đất đai của một số xã thuộc tổng Gia Thụy,
huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh.
Hà Nội ngày đầu tiếp quản chỉ có 36 khu phố nội thành và 4 quận (46 xã)
ngoại thành, với khoảng hơn 40 vạn dân, trong đó tuyệt đại đa số là thị
dân buôn bán nhỏ và nông dân nghèo khổ.
Từ sau ngày tiếp quản Thủ đô (ngày 10 tháng 10 năm 1954) cho đến
nay, Hà Nội đã trải qua nhiều thay đổi tuỳ thuộc vào mỗi thời điểm và
Chương 1. Nhập môn Hà Nội học 11

hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nhưng trên cơ bản theo hướng lấy khu đô thị
cổ truyền làm trung tâm cốt lõi và toả rộng ra cả hai bên tả ngạn và hữu
ngạn sông Hồng, theo đủ các hướng Đông, Tây, Nam, Bắc.
Năm 1961, thành phố Hà Nội được tích hợp thêm 18 xã, 6 thôn, 1 thị
trấn thuộc tỉnh Hà Đông (một phần đất thuộc các huyện Đan Phượng,
Hoài Đức, Thanh Trì); 29 xã, thị trấn thuộc tỉnh Bắc Ninh (gồm huyện Gia
Lâm, một phần huyện Từ Sơn và Thuận Thành); 17 xã và một nửa thôn
của tỉnh Vĩnh Phúc (huyện Đông Anh và một phần của huyện Yên Lãng,
Kim Anh); 1 xã của huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên; quy mô này về cơ
bản được giữ ổn định cho đến năm 1978.
Ngày 29 tháng 12 năm 1978, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã phê chuẩn việc sáp nhập các huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch
Thất, Đan Phượng, Hoài Đức, thị xã Sơn Tây và thị xã Hà Đông cùng 17 xã
của các huyện Chương Mĩ, Thanh Oai, Thường Tín, Quốc Oai tỉnh Hà Sơn
Bình; toàn bộ huyện Sóc Sơn, 18 xã và 1 thị trấn của huyện Mê Linh tỉnh Vĩnh
Phú vào thành phố Hà Nội. Quy mô thành phố Hà Nội trở nên rất rộng lớn.
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, Quốc hội lại có nghị quyết chia tỉnh Hà Sơn Bình
thành hai tỉnh Hoà Bình và Hà Tây trong đó chuyển toàn bộ phần đất của
tỉnh Hà Sơn Bình mới nhập vào Hà Nội 13 năm trước về cho tỉnh Hà Tây.
Huyện Mê Linh dịp này cũng được chuyển trả về tỉnh Vĩnh Phú.
Ngày 29 tháng 5 năm 2008, theo quyết định điều chỉnh địa giới hành
chính thành phố Hà Nội thì toàn bộ tỉnh Hà Tây, toàn bộ huyện Mê Linh
tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã (Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung) huyện
Lương Sơn tỉnh Hoà Bình được sáp nhập vào thành phố Hà Nội. Thành phố
Hà Nội có diện tích tự nhiên là 334.470,2 ha và dân số là 6.232.940 người.

1.2. Nghiên cứu Hà Nội và Hà Nội học


Hà Nội đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành chuyên
môn từ rất lâu, nhưng những công trình được xếp loại theo tiêu chí học
thuật có lẽ chỉ bắt đầu từ thế kỉ XIX với hệ thống sách địa chí tổng hợp từ
cấp tỉnh, phủ cho đến huyện, xã. Truyền thống này được nâng dần lên và
được gia cố bằng các phương pháp khoa học hiện đại của phương Tây
trong thời kì Pháp thuộc, nhưng những tác phẩm để lại cho đến ngày nay
12 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

cũng hết sức nhỏ nhoi. Chương trình điều tra sưu tầm văn hiến Thăng
Long - Hà Nội giai đoạn 1 hoàn thành vào năm 2010 cho biết tính đến
năm 2008 đã có 9130 cuốn sách, bài báo và các kết quả nghiên cứu về Hà
Nội được công bố1 gồm 5 lĩnh vực chủ yếu là Lịch sử, Văn hoá, Kinh tế
- xã hội, Nhân vật (con người) và Địa lí. Nếu chia ra theo 3 giai đoạn gắn
với lịch sử phát triển của Hà Nội thì giai đoạn trước Cách mạng tháng 8
năm 1945 chỉ có 284 công trình, giai đoạn từ sau tháng 8 năm 1945 đến
tháng 5 năm 1975 cũng chỉ có 370 công trình, nhưng giai đoạn từ sau tháng 5
năm 1975 cho đến 1 tháng 8 năm 2008 có đến 8.476 công trình. Như thế giai
đoạn hơn 30 năm sau ngày đất nước thống nhất, Hà Nội trở thành Thủ đô
của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, số lượng các công trình
nghiên cứu về Hà Nội đã gấp hơn 13 lần tất cả các giai đoạn trước cộng
lại. Đó là chưa nói đến các công trình chuyên khảo có giá trị chuyên môn
cao cũng chủ yếu được hoàn thành trong những thập kỉ cuối thế kỉ XX và
thập kỉ đầu thế kỉ XXI. Điều này cho phép hình dung trong thực tế Hà Nội
học chuyên ngành (hay Hà Nội học truyền thống) đã hình thành trong giai
đoạn 1975 - 2008, lấy Văn hoá và Lịch sử làm hai trụ cột học thuật chủ yếu.
Ngay từ năm 2005, trên cơ sở đội ngũ các nhà nghiên cứu Hà Nội học
đã trưởng thành, thành tựu về Hà Nội học đã được khẳng định, GS. Trần
Quốc Vượng2, trước khi qua đời đã khẩn thiết kiến nghị: “Có thể và nên
thành lập một Trung tâm Hà Nội học (Centre for Hanoi Studies), phi chính phủ
(NGO), vô vụ lợi (non frofit), hoặc bán công (đặt dưới sự bảo trợ của Chủ tịch

1
Đành rằng cũng có một số công trình cả tên gọi và nội dung bao lấy nhiều lĩnh vực chuyên
môn nên trong khi khảo sát chúng tôi phải có những tính toán rất cụ thể và một số cuốn sách
hay công trình nghiên cứu tổng hợp mặc nhiên phải được tính lớn hơn một lĩnh vực chuyên
môn, nên tổng số các công trình khoa học thống kê theo các lĩnh vực và số lượng các công
trình khoa học theo danh mục có xê dịch đôi chút. Trong 5 lĩnh vực khoa học được nêu ra ở
trên, chúng tôi nhận thấy số công trình tập trung cao nhất trong các lĩnh vực Văn hoá (3.985
công trình); Lịch sử (2.149 công trình); tiếp đến là Kinh tế - xã hội (1.617 công trình) và cuối
cùng là Địa lí (698 công trình), Nhân vật (682 công trình).
2
GS. Trần Quốc Vượng (1934-2005) là người đi tiên phong xây dựng ngành Hà Nội học. Ông
được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học Công nghệ năm 2012 cho cụm công
trình Lịch sử - Văn hoá chủ yếu về Hà Nội học. Năm 2016 Thành phố Hà Nội đã quyết định
lấy tên Trần Quốc Vượng đặt cho đường phố cạnh Trường Đại học Sư phạm và Đại học
Quốc gia Hà Nội thuộc địa bàn quận Cầu Giấy, để ghi công và vinh danh những đóng góp
của ông cho Hà Nội và cho ngành Hà Nội học.
Chương 1. Nhập môn Hà Nội học 13

và UBND Thành phố) nhằm mục đích tập hợp các nhà Hà Nội học thuộc đủ các
ngành tự nhiên và xã hội - nhân văn để tiến tới khắc hoạ rõ ràng dần một chân
dung Thăng Long - Hà Nội trên tảng nền mảnh đất “ngàn năm văn vật”, nơi
“hội tụ - kết tinh - giao lưu - lan toả” của một nền văn hiến Âu Lạc - Vạn Xuân
- Đại Việt - Việt Nam, nơi lắng hồn núi sông ngàn năm”.
Trong quá trình chuẩn bị kỉ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, có
một sự kiện không ồn ào, không hoành tráng, mà sâu lắng và ghi đậm dấu
ấn, góp phần làm nên tầm vóc và vị thế của 10 ngày Đại lễ, đó là Hội thảo
khoa học quốc tế Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội văn hiến anh hùng vì hoà
bình được tổ chức trong 2 ngày 7 và 8 tháng 10 năm 2010. Đây thực sự là
một tổng kết lịch sử các công trình nghiên cứu về Thăng Long - Hà Nội
của các học giả trong nước và quốc tế từ trước đến nay, làm cơ sở cho việc
xây dựng các chương trình phát triển trước mắt và lâu dài của Thủ đô Hà
Nội. GS. Sakurai Yumio1 đánh giá: “Trong dịp kỷ niệm một nghìn năm
Thăng Long Hà Nội, tôi nghĩ rằng các lĩnh vực khoa học Hà Nội (Hanoi
Sciences) và Hà Nội học cũ (Hanoi Studies) đã may mắn có được sự thảo
luận và hợp tác với nhau trong những ngày diễn ra Hội thảo kỉ niệm một
nghìn năm Thăng Long Hà Nội. Mặc dù chưa đi đến hồi kết, song hội
thảo đó được coi là một trong những điều kiện tốt để tiến hành xây dựng
Hà Nội học mới (Hanoiology/ Hanoi Study)”2.
Đánh giá cao thành công của Hội thảo cả ở tính khoa học và tính
thực tiễn của nó, nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của Hà Nội học,
GS.NGND. Phan Huy Lê trong Diễn văn bế mạc Hội thảo khẳng định đây là
thời điểm đã chín muồi cho việc xây dựng một ngành Hà Nội học hiện đại.
Theo ông: “Đội ngũ nghiên cứu về Hà Nội ở trong nước và quốc tế càng ngày
càng phát triển. Trên cơ sở đó, lãnh đạo Hà Nội cần sớm thành lập Viện hoặc

1
GS.TS. Sakurai Yumio (1945-2012): GS.TS. danh dự Đại học Quốc gia Tokyo (Nhật Bản) và
Đại học Quốc gia Hà Nội (Việt Nam), Chủ tịch Hội Nhật Bản nghiên cứu Việt Nam, người
có công đầu trong việc giới thiệu và truyền bá phương pháp Khu vực học và phương pháp
Liên ngành tại Việt Nam. GS.TS. Sakurai Yumio cũng là người khởi xướng và dành nhiều
tâm sức xây dựng ngành học Hà Nội học mới trên nền tảng của Hà Nội học cũ hay Hà Nội học
truyền thống.
2
GS.TS. Sakurai Yumio, “Hà Nội học mới là gì”? in trong Hội thảo khoa học Hà Nội học:
Phương pháp tiếp cận và nội dung nghiên cứu, Hà Nội ngày 24 tháng 12 năm 2011.
14 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Trung tâm nghiên cứu về Hà Nội. Nhưng điều quan trọng, đây phải là Viện
nghiên cứu toàn diện, liên ngành và đa ngành về Hà Nội. Có thể bộ phận tổ chức
của nó không lớn lắm, phải có những người lãnh đạo có tầm cỡ và phải có một số
nhà nghiên cứu khoa học chuyên ngành trên những lĩnh vực cần thiết. Phương
hướng phát triển chủ yếu của nó là phải tạo lập được sự liên kết và sự hợp tác
trong nước và quốc tế. Có thể nói là hợp tác liên ngành, hợp tác quốc nội và hợp
tác quốc tế là cơ sở có ý nghĩa quyết định cho sự thành công của tổ chức nghiên
cứu này. Và nếu đi theo phương thức đó thì tổ chức này chỉ cần thành lập, tôi hy
vọng sau một thời gian không dài sẽ trở thành trung tâm rất mạnh và sẽ đóng
góp phần quan trọng cho phát triển bền vững của Hà Nội, vừa cung cấp các cứ
liệu khoa học, vừa trực tiếp tư vấn cho các nhà quản lí, lãnh đạo Hà Nội”1.
Sau khi hoàn thành việc tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế Phát triển
bền vững Thủ đô Hà Nội văn hiến anh hùng vì hoà bình, chúng tôi được giao
trách nhiệm biên tập xuất bản chính thức cuốn sách Phát triển bền vững
Thủ đô Hà Nội2 đưa vào Tủ sách Thăng Long ngàn năm văn hiến và thông
qua đó tập hợp các ý kiến, tổng hợp thành các cơ sở lí luận và thực tiễn
cho việc xây dựng một ngành Hà Nội học khoa học và chuyên nghiệp,
phục vụ hiệu quả cho các chiến lược phát triển bền vững Thủ đô.
Cho đến nay, tuy vẫn có nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhưng trên căn
bản các nhà khoa học trong nước và quốc tế đều đã thống nhất xây dựng
một ngành học Hà Nội học hiện đại3 như là một lĩnh vực của Khu vực học
(Area Study), dưới sự tổng hợp tối thiểu từ hai chuyên ngành khoa học trở
lên bằng phương pháp tiếp cận Liên ngành (Inter-disciplinary approach).
Hà Nội học là môn học sưu tầm, tìm hiểu, nghiên cứu và phổ biến những
tri thức mọi mặt và nhận thức tổng hợp về con người và mối quan hệ giữa con
người với thiên nhiên trên địa bàn hàng nghìn năm liên tục là trung tâm chính
trị, xã hội, kinh tế và văn hoá hàng đầu của Việt Nam, phục vụ cho các chiến lược
phát triển bền vững Thủ đô và đất nước.

1
GS.NGND. Phan Huy Lê, “Tiến tới một tổ chức nghiên cứu toàn diện và liên ngành về Hà Nội”,
trong Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội, Nxb Hà Nội, 2012, tr 1507-1508. Đề xuất này đã
được hoàn toàn nhất trí và thông qua thành nghị quyết của Hội thảo.
2
Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội, Nxb Hà Nội, 2012 gồm 5 phần, 1564 trang.
3
GS.TS Sakurai Yumio gọi là “Hà Nội học mới”.
Chương 1. Nhập môn Hà Nội học 15

Vấn đề đặt ra ở đây là các Nghiên cứu Hà Nội (Hanoi Studies) hay
các Khoa học Hà Nội (Hanoi Sciences) tức là Hà Nội học truyền thống1 cần
phải hướng đến và gắn kết với Hà Nội học tổng hợp, Liên ngành, Khu
vực học tức là Hà Nội học hiện đại như thế nào. Trái lại Hà Nội học hiện
đại cũng cần phải biết “đứng trên vai” của Hà Nội học truyền thống, khai
thác và nâng tầm các thành tựu của Hà Nội học truyền thống ra sao. Câu
chuyện tưởng như đơn giản, nhưng nếu như không có sự đầu tư công
sức, trí tuệ một cách bài bản, căn cơ thì chưa chắc đã tìm ra được lời giải
thoả đáng.

1.3. Đối tượng của Hà Nội học


Hà Nội học hiện đại theo như định nghĩa được nêu ở trên, là bộ môn
nghiên cứu các lĩnh vực hoạt động của con người và mối quan hệ giữa
con người với thiên nhiên nhằm đạt tới nhận thức tổng hợp về không
gian lịch sử - văn hoá và con người Hà Nội.
Vấn đề đặt ra ở đây là hoạt động của con người và mối quan hệ giữa
con người với thiên nhiên không bị cắt khúc thời gian (cả trong quá khứ,
hiện tại và tương lai); có những hằng số trong suốt quá trình phát triển
nhưng cũng có những biến số của mỗi giai đoạn chuyển đổi. Hoạt động
của con người và mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên có thể được
phân ra theo các không gian cụ thể, trong đó quan trọng hơn cả và là nhân
lõi tạo nên các giá trị đặc trưng của tất cả các không gian Hà Nội nói chung
là khu vực Hà Nội cổ truyền2.
Hà Nội cổ truyền là một đô thị “trong sông”, khép mình sau đê sông
Hồng và căng sức hoạt động trên hai nhánh sông Kim Ngưu, Tô Lịch,
đúng như dân gian mô tả quy hoạch bất biến của nó: “Hồng Hà tây vắt
qua đông/ Kim Ngưu Tô Lịch là sông bên này”. Trong quá trình phát triển và
biến đổi, tuy cũng có lúc Hà Nội được mở rộng sang bờ Bắc sông Hồng,

1
GS.TS. Sakurai Yumio gọi là “Hà Nội học cũ”.
2
GS.TS. Philippe Papin (Trường Cao học Thực hành Paris, Pháp) trong báo cáo Phương pháp
tiếp cận và nội dung của ngành Hà Nội học tại Hội thảo khoa học Hà Nội học: Phương pháp tiếp
cận và nội dung nghiên cứu ngày 24 tháng 12 năm 2011 lại cho rằng Hà Nội học chủ yếu chỉ
nên tập trung vào khu đô thị cổ truyền, vì chính nơi đó mới tạo nên các giá trị tiêu biểu và
bản sắc của Hà Nội.
16 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

nhưng cho đến trước năm 1961, Hà Nội vẫn là một đô thị “trong sông”
hoàn toàn đúng như cái tên Hà Nội (河内) được chính thức đặt vào năm
Minh Mệnh thứ 12 (1831). Vì thế vòng thứ hai của đô thị Hà Nội cần được
tính bao gồm cả đô thị cổ truyền ở trung tâm và vùng nông thôn ven đô
(hay các làng xã thôn trại ở ngoại thành đang trong quá trình đô thị hoá
thuộc các tỉnh Hà Nội, Hà Đông cũ), tức là cả vùng thành thị và nông
thôn nằm kẹp giữa sông Hồng và sông Đáy tính từ khu vực trung tâm
và ngược lên phía Bắc. Hà Nội vòng thứ ba theo chúng tôi nên được tính
từ quy mô thành phố lần Hà Nội mở rộng năm 1961 ra cả 4 hướng Đông,
Tây, Nam, Bắc, đặc biệt là sự mở rộng sang phía bên kia sông Hồng, phá
vỡ cái quy hoạch bất biến của một thành phố “trong sông”. Địa bàn Hà
Nội có giai đoạn (1978-1991) được mở rộng đến cực đại, lại có giai đoạn
(1991-2008) bị thu hẹp lại giống như 13 năm trước đó; rồi lại được mở
rộng ra gần tương đương với giai đoạn mở rộng cực đại trước đây (tính
từ năm 2008 đến nay). Trong giai đoạn hiện nay, khu đô thị trung tâm của
Hà Nội không chỉ mở rộng trong phạm vi “truyền thống” ở “trong sông”
mà đang có hướng chuyển mạnh sang phía Bắc và phía Đông, hình thành
đại đô thị hai bên sông, giống như các đại đô thị hay các siêu đô thị hàng
đầu trên thế giới.
Vấn đề được đặt ra là có hay không có một Hà Nội thống nhất, thuần
nhất hay Hà Nội bao gồm vùng đô thị trung tâm và các tiểu vùng phụ
cận; có những giá trị chung của toàn vùng Hà Nội và cũng có những đặc
trưng riêng của mỗi tiểu vùng. Chúng tôi nghiêng về quan niệm Hà Nội
có 3 vùng như 3 vòng tròn đồng tâm với các bán kính khác nhau, trong
đó vòng tròn nhỏ nhất ở trong cùng là vùng đô thị cổ truyền, đô thị nhân
lõi, một Hà Nội nguyên gốc - trung tâm hội tụ và lan toả các giá trị cốt
lõi của Thăng Long - Đông Đô - Đông Kinh - Hà Nội, “nơi lắng hồn núi
sông ngàn năm”. Hà Nội vòng thứ hai ở giữa bao gồm các quận nội thành
Hà Nội, các đô thị vệ tinh và các làng xã ven đô đã đô thị hoá thuần thục
nhưng vẫn còn nằm trong cơ cấu của các huyện ngoại thành và Hà Nội
vòng thứ ba tương đương với phạm vi của thành phố Hà Nội được mở
rộng từ năm 2008, bao gồm những vùng đô thị lõi, đô thị thuần thục và
cả những vùng nông thôn tuy có xa trung tâm nhưng lại đang được cuốn
Chương 1. Nhập môn Hà Nội học 17

rất mạnh, rất nhanh vào vòng xoáy của quá trình đô thị hoá của thành
phố - đô thị trực thuộc trung ương đứng đầu đất nước và đứng vào hàng
thứ 17 trên thế giới về diện tích và dân số.
Như thế đối tượng của Hà Nội học là tất cả các lĩnh vực hoạt động
của con người và mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên trên toàn
bộ địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay, trong đó chủ yếu dựa theo lịch sử
phát triển đô thị mà phân ra thành địa bàn đô thị Thăng Long - Hà Nội cổ
truyền, địa bàn đô thị Hà Nội thuần thục và địa bàn đô thị Hà Nội đang
trong quá trình đô thị hoá1.

1.4. Phương pháp tiếp cận


Hà Nội học hiện đại đòi hỏi dứt khoát phải triển khai nghiên cứu
tổng hợp, liên ngành, gắn với Khu vực học, nhưng vẫn triệt để khai thác
lợi thế và sử dụng hiệu quả phương pháp nghiên cứu của các chuyên
ngành (theo phương pháp của Hà Nội học truyền thống). Ở đây có vấn
đề đặt ra là các phương pháp Liên ngành và Khu vực học và Khoa học
phát triển chỉ có thể phát huy được lợi thế nếu như nó biết triệt để khai

1
Năm 2015, kỉ niệm 70 năm Cách mạng tháng Tám và Hà Nội trở thành Thủ đô nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Thành phố Hà Nội
phối hợp với Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức hội thảo Thủ đô Hà Nội: Truyền thống, nguồn
lực và định hướng phát triển, có 48 báo cáo khoa học của 71 tác giả tập trung nghiên cứu trình
bày các nguồn lực phát triển đô thị và định hướng phát triển Thủ đô Hà Nội. Hội nghị cũng
nhất trí xác định nội dung trọng tâm và quan trọng nhất của Hà Nội học chính là nghiên cứu
và đào tạo về đô thị Hà Nội. Xem Nguyễn Quang Ngọc: Báo cáo đề dẫn Hội thảo “Thủ đô Hà
Nội: Truyền thống, nguồn lực và định hướng phát triển” trong Thủ đô Hà Nội: Truyền thống,
nguồn lực, định hướng phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2015, tr 18-22.
Gần đây có một số tác giả cũng chia đối tượng nghiên cứu của Hà Nội học thành 3 lớp là
lớp không gian lịch sử - văn hoá Thăng Long - Hà Nội tương ứng với địa giới hành chính của
Hà Nội trước tháng 8 năm 2008; lớp thứ hai là không gian bền vững của Thủ đô Hà Nội với địa
giới hành chính được mở rộng vào năm 2008 và lớp thứ ba là không gian vùng Thủ đô đang
có chủ trương xây dựng, nhưng chưa trở thành hiện thực. Khi xác định phạm vi không
gian, chúng tôi chủ yếu dựa vào tiêu chí phát triển đô thị và đô thị hoá, tuy có tham khảo ở
mức độ nhất định các đơn vị hành chính, nhưng hoàn toàn không có ý định đóng cứng vào
phạm vi của Thành phố Hà Nội trước và sau tháng 8 năm 2008. Do đó, giữa chúng tôi và tác
giả nêu trên tuy cùng chia 3 lớp không gian và cũng có lớp xét về hình thức bề ngoài có vẻ
trùng nhau, nhưng trong thực tế có sự sai khác đáng kể. Chúng tôi xin được nêu ra để cùng
trao đổi, thảo luận.
18 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

thác tính cụ thể, chi tiết, khách quan và xác thực của đối tượng nghiên
cứu chuyên ngành và khắc phục một cách hiệu quả những vách ngăn, rào
chắn hạn chế tầm nhìn, cách nghĩ khi đang chìm sâu dưới “đáy giếng”
hay len lỏi trong “ngõ ngách” quá hẹp của chuyên môn. Trong nghiên
cứu Hà Nội học, trước sau và bao giờ cũng rất cần “có tầm nhìn hệ thống
và phương pháp biện chứng”1.
Các phương pháp cụ thể, tùy theo mỗi đề tài, có thể bao gồm phương
pháp tiếp cận Khu vực học; phương pháp tiếp cận Lịch sử; phương pháp
tiếp cận Không gian di sản văn hoá; phương pháp tiếp cận Mối quan hệ
giữa bảo tồn và phát triển; phương pháp tiếp cận Thông tin khu vực học;
phương pháp Điều tra điền dã và phương pháp tổ chức các hội thảo khoa
học liên ngành...
Từ chỗ quan niệm Hà Nội học là khoa học thuộc lĩnh vực Khu vực
học nên phương pháp tiếp cận chủ yếu phải là phương pháp chuyên
ngành trong quan hệ tương hỗ đa ngành, liên ngành. Có thể hình dung
các khoa học được vận dụng nghiên cứu Hà Nội là Địa lí, Địa chất, Khí
hậu, Thuỷ văn, Môi trường sinh thái, Chính trị học, Luật học, Kinh tế học,
Lịch sử, Văn hoá học, Ngôn ngữ học, Văn học, Nghệ thuật, Giáo dục học,
Xã hội học, Tâm lí học, Dân số học, Nhân học, Tôn giáo học và ứng dụng
Công nghệ thông tin...
Những khoa học nêu trên vừa cung cấp các phương pháp tiếp cận
trong hoạt động nghiên cứu chung, vừa có tư cách chủ thể nghiên cứu
riêng biệt. Hà Nội học có nhiệm vụ tổng hợp, tổng hoà các kết quả nghiên
cứu, khái quát thành những nguồn lực tự nhiên, nguồn lực lịch sử, văn hoá
truyền thống để phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo,
xây dựng con người, đảm bảo quốc phòng, an ninh, mở rộng hoạt động đối
ngoại, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị2.

1
GS.TS. Trần Ngọc Hiên, Nội dung và phương pháp phân tích tác động của bối cảnh trong nước
và quốc tế đối với quá trình phát triển của Thủ đô Hà Nội, trong Hội thảo khoa học Hà Nội học:
Phương pháp tiếp cận và nội dung nghiên cứu, Hà Nội ngày 24 tháng 12 năm 2011.
2
PGS.TS. Phạm Xuân Hằng, Một số vấn đề tiếp cận Hà Nội học, trong Hội thảo khoa học Hà Nội
học: Phương pháp tiếp cận và nội dung nghiên cứu, Hà Nội ngày 24 tháng 12 năm 2011.
Chương 1. Nhập môn Hà Nội học 19

1.5. Cơ sở dữ liệu
“Có bột mới gột nên hồ”, “bột” là chất liệu quyết định “hồ” có thực
là “hồ” hay không. Nếu xem Hà Nội học như là “hồ” thì cơ sở dữ liệu
chính là hay có vai trò như là “bột” vậy.
PGS.TS. Nguyễn Thừa Hỷ đề xuất: “Muốn đi tới những luận điểm khái
quát mang tính khoa học và thuyết phục cao, nhà nghiên cứu Hà Nội học cần
trang bị cho riêng mình một kho tàng tư liệu nhiều nguồn, liên ngành, phong
phú đa dạng và tốt nhất là những tư liệu gốc đương thời, chưa chế biến. Việc xử
lí và phân tích tư liệu cũng nên theo một quy trình khoa học. Trong một đống
lộn xộn những tư liệu nhiều khi là mâu thuẫn, tương phản nhau, cần tìm được
đâu là xu thế chủ đạo, phổ quát, tiếp cận đến việc phản ánh bản chất thực tế, chứ
không phải là tuỳ tiện nhặt ra rồi phóng đại lên một số chi tiết có lợi cho việc
chứng minh những kết luận sẵn có chủ ý trong tư duy nhận thức của mình”1.
Có thể hình dung tư liệu về Hà Nội là vô cùng phong phú và đa
dạng, trong đó quý giá hơn cả và đặc biệt nhất là những tư liệu nguyên
gốc phản ánh từ hoạt động của các Vương triều, các Nhà nước, các thể
chế chính trị, cho đến đời sống dân sự của người dân Thăng Long - Hà
Nội từ thuở định đô Thăng Long cho đến nay. Đó là các loại thư tịch cổ
(mà một phần đã được tập hợp trong bộ Tư liệu Văn hiến Thăng Long); các
tư liệu văn kiện của Nhà nước, bộ Châu bản triều Nguyễn, các công văn,
giấy tờ, văn bản hành chính của các triều đại, thể chế chính trị tại Hà Nội.
Nguồn tư liệu lưu trữ trong các kho lưu trữ trung ương, Hà Nội, trong
nước và nhiều nước trên thế giới; nguồn tư liệu trong các thư viện, trong
các tủ sách, các bộ sưu tập ở Hà Nội, ở trong nước và nước ngoài. Nguồn
tư liệu vật chất, hiện vật đã được sưu tập trong các bảo tàng hay được lưu
giữ tại các di tích lịch sử - văn hoá tại Hà Nội, trong các phố phường, thôn
xóm và các gia đình, dòng họ… Tư liệu trong dân gian, văn hoá, văn học,
nghệ thuật dân gian, tư liệu đặc chủng của các ngành Địa lí, Môi trường

1
PGS.TS. Nguyễn Thừa Hỷ, “Suy nghĩ về kinh tế - xã hội Thăng Long - Hà Nội hôm qua,
hôm nay và ngày mai” trong Hội thảo khoa học Hà Nội học: Phương pháp tiếp cận và nội dung
nghiên cứu ngày 24 tháng 12 năm 2011. Tác giả là chuyên gia Lịch sử - Văn hoá - Xã hội,
chuyên tâm nghiên cứu về Hà Nội và đã được tặng Giải thưởng Nhà nước cho công trình
Kinh tế - xã hội đô thị Thăng Long - Hà Nội thế kỉ XVII, XVIII, XIX, Nxb Hà Nội, 2010.
20 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

sinh thái, Khảo cổ học, Lịch sử, Văn hoá, Kinh tế, Xã hội… về Hà Nội hay
có liên quan đến Hà Nội.
Có thể kể ra dưới đây một số bộ tư liệu đã được phân tích, tổng hợp,
đánh giá, phân loại và trình bày một cách hệ thống theo các nội dung/ vấn
đề thuộc Hà Nội học hay có liên quan đến Hà Nội học.
Trong thập kỉ đầu thế kỉ XXI, Hà Nội đã xuất bản bộ Bách khoa thư
Hà Nội (trên địa bàn Hà Nội trước năm 2008) 18 tập với trên 7.000 trang
in, gồm Lịch sử (tập I), Địa lí (tập II), Chính trị (tập III), Luật pháp (tập IV),
Kinh tế (tập V), Khoa học và Công nghệ (tập VI), Khoa học xã hội và nhân văn
(tập VII), Giáo dục (tập VIII), Y tế (tập IX), Văn học (tập X), Tiếng Hà Nội
(tập XI), Nghệ thuật (tập XII), Thông tin xuất bản (tập XIII), Di tích - Bảo tàng
(tập XIV), Du lịch (tập XV), Tín ngưỡng - Tôn giáo (tập XVI), Phong tục -
Lễ hội (tập XVII), Thể dục - Thể thao (tập XVIII). Bước vào thập kỉ thứ hai
của thế kỉ XXI, Hà Nội lại triển khai Bách khoa thư Hà Nội phần mở rộng 14
tập đến nay Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã hoàn thành khâu biên tập
xuất bản: Địa lí (tập I), Lịch sử - Chính trị - Pháp luật (tập II), Kinh tế (tập III),
Khoa học và Công nghệ (tập IV), Khoa học xã hội và nhân văn (tập V), Giáo dục
(tập VI), Văn học (tập VII), Nghệ thuật (tập VIII), Du lịch (tập IX), Tín ngưỡng
- Tôn giáo (tập X), Phong tục - Lễ hội (tập XI), Di tích - Bảo tàng (tập XII),
Y tế (tập XIII), Thể dục - Thể thao (tập XIV).
Chương trình khoa học cấp Nhà nước KX09 Phát huy tiềm lực tự nhiên,
kinh tế, xã hội và giá trị lịch sử - văn hoá, phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội
đến năm 2020 đã hoàn thành các đề tài nghiên cứu và tổng kết một thiên
niên kỉ xây dựng và bảo vệ Thăng Long - Hà Nội. Nhà xuất bản Hà Nội
năm 2010 đã xuất bản 11 tập sách của Chương trình bao gồm: “Tập thứ
nhất giới thiệu tổng quan môi trường địa lí tự nhiên - một không gian vật chất,
nơi người Thăng Long - Hà Nội, thế hệ tiếp nối thế hệ, lao động tranh đấu không
mệt mỏi để sáng tạo nên một kinh đô - thủ đô ngàn năm. Chín tập tiếp theo, tập
trung phân tích đánh giá, tổng kết những nét đặc sắc, những giá trị lịch sử - văn
hoá nổi bật trên những lĩnh vực hoạt động chủ yếu, chung đúc thành trí tuệ,
khí phách của Thăng Long - Hà Nội văn hiến, anh hùng. Tập cuối của bộ sách,
tập thứ mười một, chắt lọc, nâng cao kết quả nghiên cứu của các tập trước gắn
Chương 1. Nhập môn Hà Nội học 21

với phân tích tình hình hiện nay, dự báo chặng đường sắp tới, đề xuất phương
hướng phát triển bền vững Thủ đô trong một vài thập niên đầu thế kỉ XXI”1.
Tủ sách Thăng Long ngàn năm văn hiến đã xuất bản trên 100 đầu sách
thuộc các mảng Địa lí, Lịch sử, Kinh tế, Văn hoá - xã hội, Văn học - nghệ thuật,
Tư liệu - tổng hợp.
Chương trình điều tra sưu tầm văn hiến Thăng Long giai đoạn I (tính cho
đến năm 2010) đã tập hợp được hơn 40.000 trang tư liệu và 6.014 công
trình nghiên cứu của 2.962 tác giả, tổ chức dịch, nghiên cứu, hệ thống và
giới thiệu trong 3 bộ thư mục đề yếu và 26 tuyển tập tư liệu văn hiến về
Thăng Long - Hà Nội... Trên cơ sở những thành quả này, Hà Nội quyết
định triển khai giai đoạn II (bắt đầu từ năm 2014) mở rộng điều tra tập
hợp tư liệu, xây dựng bộ dữ liệu chung cho toàn bộ khu vực Hà Nội và
triển khai biên soạn các bộ sách công cụ, từ điển, xây dựng thư viện điện
tử tổng thể về Hà Nội...
Trong quá trình chuẩn bị tiến tới kỉ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà
Nội, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin và Thời báo Kinh tế năm 2007 đã
xuất bản bộ Tổng tập nghìn năm văn hiến Thăng Long gồm 4 tập được chia ra
thành 28 phần, với trên 8000 trang in cỡ lớn, không chỉ là bộ sách lớn nhất
trong toàn bộ lịch sử xuất bản sách Việt Nam mà còn là bộ sách cung cấp
một nguồn thông tin tư liệu đặc biệt phong phú và đồ sộ thuộc hầu hết các
lĩnh vực giúp cho người quan tâm tiếp cận tư liệu Hà Nội học một cách
toàn diện để có thể làm cơ sở triển khai nghiên cứu liên ngành.

1.6. Về nội dung nghiên cứu, đào tạo


Hà Nội học hiện đại không chỉ tập trung vào các chương trình nghiên
cứu đầy đủ và tổng thể toàn bộ không gian lịch sử - văn hoá Thăng Long -
Hà Nội, mà còn đặt ra yêu cầu rất cao cho những nghiên cứu về từng lĩnh
vực, từng địa phương cụ thể, với một yêu cầu dứt khoát các đề tài khoa
học này phải đặt trong các mối tương quan chung với yêu cầu rất chặt chẽ
của phương pháp liên ngành. Có thể nêu lên một số nội dung chủ yếu của
Hà Nội học trong một vài thập kỉ tới:

1
Lời giới thiệu bộ sách của GS.TS. Phùng Hữu Phú, Chủ nhiệm chương trình khoa học cấp
Nhà nước mã số KX.09.
22 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

- Vị thế địa lí và tài nguyên thiên nhiên Hà Nội: Giới thiệu khái quát vị
trí địa lí, điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái;
địa lí hành chính và có đề cập đến ở mức độ nhất định địa lí các ngành
kinh tế và sự phân hoá lãnh thổ kinh tế. Trên cơ sở đó đưa ra nhận xét và
đánh giá về tổng quát nguồn tài nguyên vị thế - một nguồn tài nguyên
đặc biệt nổi bật, “làm cho các tài nguyên vốn có khác của Hà Nội, cả về tự
nhiên, kinh tế - xã hội đều có thêm giá trị gia tăng”1 - cắt nghĩa vì sao Thăng
Long - Hà Nội lại trở thành kinh đô “mãi muôn đời” của đất nước.
- Dân cư và người Hà Nội: Nói đến người Hà Nội không thể không nói
đến quá trình tụ cư, hình thành cộng đồng cư dân với những phẩm chất
và tính cách đặc trưng của người Thăng Long - Hà Nội. Lâu nay các công
trình nghiên cứu thường quan tâm đến nét đẹp thanh lịch, văn minh và
coi đó như phẩm chất vốn có của người Hà Nội, mà bỏ qua những hạn
chế, những cái cái thiếu, cái yếu khó tránh khỏi của khối cộng đồng cư
dân nông nghiệp trồng lúa nước từ bốn phương tụ hội. Hà Nội học, xét
cho cùng, là môn học nghiên cứu về người Hà Nội trong môi trường tự
nhiên, xã hội, trong cuộc sống làm ăn và đánh giặc của cộng đồng dân
cư luôn ở vị trí đầu não nắm giữ vận mệnh của đất nước, nên nội dung
này cần được đặc biệt quan tâm, trình bày một cách đầy đủ các mặt của
vấn đề.
- Đặc trưng lịch sử Thăng Long - Hà Nội: Lịch sử Thăng Long - Hà
Nội có thể được hình dung giống như nhân lõi của toàn bộ lịch sử đất
nước. Có sự kiện lịch sử trọng đại nào của đất nước hơn nghìn năm qua
lại không được quyết định từ đây, khai mở ở đây và tác động mạnh mẽ
tới đây. Vì thế để tránh trở thành một cuốn lịch sử Việt Nam giản lược,
chúng tôi chỉ trình bày những dấu ấn lịch sử tiêu biểu và những giá trị
lịch sử đặc trưng nhất chia ra theo 4 thời kì: Tiền Thăng Long (trước thế
kỉ XI); Thăng Long (từ thế kỉ XI đến giữa thế kỉ XIX); Hà Nội thời Nguyễn
(từ giữa thế kỉ XIX đến năm 1945) và Thủ đô Hà Nội từ 1945 đến nay.
- Di sản văn hoá Thăng Long - Hà Nội: Văn hoá Thăng Long - Hà Nội
có giá trị hội tụ, kết tinh, lan toả rất mạnh. Vấn đề giao lưu, giao thoa,

1
GS.TS. Nguyễn Viết Thịnh, “Vị trí địa lí và tài nguyên vị thế của Thủ đô Hà Nội”, trong Thủ đô
Hà Nội - Truyền thống, nguồn lực, định hướng phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2015, tr 358.
Chương 1. Nhập môn Hà Nội học 23

tiếp biến và phục hưng các giá trị văn hoá truyền thống Thăng Long -
Hà Nội trong thời cận - hiện đại. Đặc biệt, các nội dung chính yếu này
được kết tinh lại trong các di sản văn hoá (vật thể, phi vật thể) của Thăng
Long - Hà Nội. Trên khắp đất nước Việt Nam không có địa phương nào
hội được một khối lượng rất lớn với các di sản văn hoá tiêu biểu đại diện
chung của nhân loại, của quốc gia như ở Hà Nội. Di sản văn hoá Thăng
Long - Hà Nội là nguồn tài nguyên du lịch quan trọng nhất và nguồn
lực hàng đầu cho phát triển bền vững Thủ đô, cần phải được nghiên cứu
và khai thác một cách khoa học và hiệu quả. Vì thế, trách nhiệm bảo tồn
và phát huy giá trị di sản văn hoá Thăng Long - Hà Nội càng ngày càng
đặt ra cho Hà Nội trách nhiệm nặng nề và khó khăn hơn bất cứ một địa
phương nào của Việt Nam.
- Đô thị và đô thị hoá nông thôn Hà Nội: Hà Nội vốn là đô thị trung đại
đặc trưng nhất của Việt Nam nên trình bày của chúng tôi bắt đầu từ đô
thị Thăng Long - Hà Nội cổ truyền, rồi chuyển sang đô thị Hà Nội thời
cận đại và hiện đại. Làng xã ở đây cũng mang những nét tiêu biểu của
làng xã người Việt châu thổ sông Hồng nên có giá trị đại diện chung của
cả nước. Đây cũng là vùng nông thôn có quan hệ đối thoại thường xuyên
và trực tiếp với đô thị trung tâm, nên quá trình đô thị hoá diễn ra sớm và
liên tục hơn nhiều vùng nông thôn khác. Quy hoạch đô thị, nông thôn và
mô hình tổ chức, quản lí Thành phố Hà Nội với tư cách là thành phố trực
thuộc trung ương cũng có rất nhiều nét đặc thù. Định hướng phát triển
Thủ đô Hà Nội, mô hình phát triển bền vững Thành phố Hà Nội cũng
như các nguồn lực phát triển Thủ đô Hà Nội cũng sẽ được đề cập đến và
bàn thảo trong phần giới thiệu này.
- Những thành tựu tiêu biểu của Hà Nội: Chúng tôi sẽ cố gắng trình bày
một cách khai quát nhất những thành tựu cơ bản của Hà Nội trên các lĩnh
vực kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, đối ngoại… tính từ sau năm 1986
cho đến nay. Có thể coi đây là bước nhảy vọt về chất để “phát triển Thủ đô
Hà Nội xứng đáng với vai trò là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung
tâm lớn về văn hoá, khoa học giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế, một động lực
phát triển của vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước…”1.

1
Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển Thành phố Hà Nội.
24 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Ngoài ra còn có thể tổ hợp triển khai các đề tài nghiên cứu thuộc các
lĩnh vực kinh tế - xã hội; văn hoá, di sản văn hoá và các tiểu vùng văn hoá;
nghiên cứu thiên nhiên và mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên;
nghiên cứu địa lí tự nhiên và môi trường sinh thái; nghiên cứu Hà Nội cổ
truyền và các vùng mở rộng; nghiên cứu đặc trưng đô thị, quá trình đô
thị hoá, các vùng nông thôn ven đô, ngoại thành; nghiên cứu các nguồn
lực tự nhiên, chính sách, khoa học công nghệ và con người phục vụ phát
triển bền vững Thủ đô Hà Nội...

1.7. Học liệu


Hà Nội học là một bộ phận của Khu vực học thuộc phạm trù Khoa học
xã hội và nhân văn nên người quan tâm đến Hà Nội học không thể không
trang bị cho mình những hiểu biết chung hết sức cần thiết về không
gian lịch sử - văn hoá đặc biệt có một không hai này. Dưới đây chúng tôi
chỉ xin giới thiệu 10 cuốn sách làm tài liệu tham khảo ban đầu để người
đọc có cơ sở đi sâu tìm hiểu những nội dung cụ thể và chuyên sâu của
Hà Nội học:
1. Lê Xuân Tùng (Tổng Chủ biên), Bách khoa thư Hà Nội (18 tập), Nxb Thời đại,
2010.
2. Nguyễn Quang Ngọc (Chủ trì), Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội, Nxb
Hà Nội, 2012.
3. Nguyễn Viết Thịnh (Chủ biên), Địa lí Hà Nội, Nxb Hà Nội, 2018.
4. Phạm Tất Dong, Những phẩm chất nhân cách đặc trưng của người Thăng
Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội, 2010.
5. Phan Huy Lê (Chủ biên), Lịch sử Thăng Long - Hà Nội, T1&T2, Nxb
Hà Nội, 2011.
6. Phùng Hữu Phú (Chủ biên), Phát huy tiềm lực tự nhiên, kinh tế, xã hội và
giá trị lịch sử - văn hoá phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội đến năm 2020,
Nxb Hà Nội, 2010.
7. Thành uỷ - HĐND - UBND - UBMTTQVN thành phố Hà Nội, 60 năm
giải phóng Thủ đô: Thành tựu, thời cơ, thách thức và phát triển, Nxb Chính trị
Quốc gia, 2015.
Chương 1. Nhập môn Hà Nội học 25

8. Thành uỷ - HĐND - UBND - UBMTTQVN Thành phố Hà Nội, Đại học


Quốc gia Hà Nội, Thủ đô Hà Nội Truyền thống, nguồn lực, định hướng phát
triển, Nxb Chính trị Quốc gia, 2015.
9. Trần Quốc Vượng, Đất thiêng ngàn năm văn vật, Nxb Hà Nội, 2010.
10. Vũ Văn Quân, Đỗ Thị Hương Thảo (Đồng Chủ biên), Thăng Long - Hà Nội:
Thư mục công trình nghiên cứu, Nxb Hà Nội, 2010.

Câu hỏi thảo luận


1. Hà Nội học là gì? Sự giống và khác nhau giữa Hà Nội học truyền
thống và Hà Nội học hiện đại?
2. Đối tượng và nội dung chính yếu của Hà Nội học?
Chương 2
VỊ THẾ ĐỊA LÍ VÀ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN HÀ NỘI

2.1. Địa lí hành chính

2.1.1. Vị trí địa lí


Thành phố Hà Nội nằm ở toạ độ địa lí từ 21o23’9” (xã Bắc Sơn, huyện
Sóc Sơn) đến 20o33’56” (xã Hương Sơn, huyện Mĩ Đức); từ 105o16’58” (xã
Thuần Mĩ, huyện Ba Vì) đến 108o1’6” (xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm), có diện
tích tự nhiên1 3324 km2. Lãnh thổ Hà Nội trải dài theo chiều Bắc - Nam
khoảng 91 km, theo chiều Tây - Đông khoảng 77 km. Phía Bắc giáp tỉnh
Vĩnh Phúc và tỉnh Thái Nguyên. Phía Tây - Bắc giáp tỉnh Phú Thọ. Phía
Tây - Nam giáp tỉnh Hoà Bình. Phía Đông - Bắc giáp hai tỉnh Bắc Giang
và Bắc Ninh. Phía Đông Nam giáp tỉnh Hưng Yên và phía Nam giáp tỉnh
Hà Nam.
Hà Nội nằm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, có 2 khối núi trung bình
là núi Sóc ở phía Bắc và núi Ba Vì ở phía Tây. Sông Hồng là con sông chính
chảy qua thành phố Hà Nội từ đỉnh phía Tây Bắc qua phía Đông Nam
đi vòng qua phía Bắc sang phía Đông khu vực trung tâm nội thành. Một
phần sông Đà trước khi đổ vào sông Hồng là ranh giới tự nhiên giữa Hà
Nội và Phú Thọ. Sông Hồng có những đoạn là ranh giới tự nhiên giữa Hà
Nội với các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hưng Yên ở phía Đông…
Đồng bằng sông Hồng là một vùng đất cổ, có dân số đông, tốc độ đô
thị hoá nhanh, nên đã hình thành nhiều đô thị lớn, trong đó, thành phố
Hà Nội là đô thị đặc biệt, trung tâm và động lực phát triển của toàn vùng.
Nếu xem xét theo quy hoạch vùng Thủ đô Hà Nội, với thành phố Hà Nội
là đô thị trung tâm, các thành phố, thị xã của các tỉnh lân cận (Phú Thọ,

1
Theo Niên giám thống kê năm 2012.
Chương 2. Vị thế địa lí và tài nguyên thiên nhiên Hà Nội 27

Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương,
Hà Nam và Hoà Bình) là các đô thị vệ tinh, thì vùng Thủ đô Hà Nội thực
sự là một chùm đô thị có sức mạnh vượt trội cả về vị thế địa chính trị, địa
kinh tế. Thành phố Hà Nội là một “đỉnh” của tam giác trọng điểm phía
Bắc: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, sau này phát triển thành vùng
kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, gồm các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Vĩnh Phúc,
Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng và Quảng Ninh.

2.1.2. Các đơn vị hành chính


Tính đến 2014, thành phố Hà Nội có 30 quận/ huyện/ thị xã, trong
đó nội thành gồm 12 quận, ngoại thành gồm thị xã Sơn Tây và 17 huyện.
Toàn thành phố gồm 584 đơn vị hành chính cấp xã/ phường/ thị trấn (bao
gồm 177 phường, 386 xã và 21 thị trấn).
Bảng 2.1: Danh sách các đơn vị hành chính cấp quận/ huyện thuộc Hà Nội

Số thứ tự Tên đơn vị hành chính Đơn vị trực thuộc Dân số (theo tổng điều tra dân số 2009)
Quận
1 Quận Ba Đình 14 phường 225.910
2 Quận Hoàn Kiếm 18 phường 147.334
3 Quận Tây Hồ 8 phường 130.639
4 Quận Long Biên 14 phường 271.913
5 Quận Cầu Giấy 08 phường 260.643
6 Quận Đống Đa 21 phường 410.117
7 Quận Hai Bà Trưng 20 phường 370.726
8 Quận Hoàng Mai 14 phường 380.509
9 Quận Thanh Xuân 11 phường 223.694
10 Quận Hà Đông 17 phường 260.136
11 Quận Bắc Từ Liêm 13 phường 320.414
12 Quận Nam Từ Liêm 10 phường 232.894
Thị xã
13 Thị xã Sơn Tây 9 phường và 6 xã 125.749
Huyện
14 Huyện Ba Vì 30 xã và 1 thị trấn 246.120
15 Huyện Chương Mĩ 30 xã và 2 thị trấn 267.359
16 Huyện Đan Phượng 15 xã và 1 thị trấn 142.480
28 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

17 Huyện Đông Anh 23 xã và 1 thị trấn 333.337


18 Huyện Gia Lâm 20 xã và 2 thị trấn 251.735
19 Huyện Hoài Đức 19 xã và 1 thị trấn 191.106
20 Huyện Mê Linh 16 xã và 2 thị trấn 191.490
21 Huyện Mĩ Đức 21 xã và 1 thị trấn 169.999
22 Huyện Phú Xuyên 26 xã và 2 thị trấn 181.388
23 Huyện Phúc Thọ 22 xã và 1 thị trấn 159.484
24 Huyện Quốc Oai 20 xã và 1 thị trấn 160.190
25 Huyện Sóc Sơn 25 xã và 1 thị trấn 282.536
26 Huyện Thạch Thất 22 xã và 1 thị trấn 177.545
27 Huyện Thanh Oai 20 xã và 1 thị trấn 167.250
28 Huyện Thanh Trì 15 xã và 1 thị trấn 198.706
29 Huyện Thường Tín 28 xã và 1 thị trấn 219.248
30 Huyện Ứng Hoà 28 xã và 1 thị trấn 182.008

Hình 2.1: Bản đồ hành chính thành phố Hà Nội


Chương 2. Vị thế địa lí và tài nguyên thiên nhiên Hà Nội 29

Lần mở rộng địa giới hành chính Thành phố Hà Nội năm 2008 trả
lại cho Hà Nội gần như toàn bộ diện tích tự nhiên của Hà Nội thời kì
1979-1990 (trừ một phần huyện Mê Linh trước đây được tách ra để thành
lập Thị xã Phúc Yên, nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc; xã Tân Đức huyện Ba
Vì chuyển về Thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ), cộng thêm diện tích tự
nhiên của các huyện, thị nửa phía Nam tỉnh Hà Tây lúc bấy giờ (thành
phố Hà Đông, các huyện Quốc Oai, Chương Mĩ, Thanh Oai, Thường Tín,
Phú Xuyên, Ứng Hoà và Mĩ Đức) và 4 xã của huyện Lương Sơn. Sự mở
rộng này, đã thay đổi căn bản vị trí địa lí và tài nguyên của Hà Nội so với
thời kì trước đó.

2.1.3. Sự thay đổi địa lí hành chính của Hà Nội trong lịch sử
Để có được diện mạo thành phố Hà Nội ngày nay, trong lịch sử đặc
biệt là trong thế kỉ XX và đầu thế kỉ XXI đã có rất nhiều lần Hà Nội thay
đổi địa giới hành chính.
Giai đoạn trước 1954:
Theo sách Đất nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh, thì vào
thời Hán, vùng Hà Nội mở rộng thuộc các huyện Mê Linh, Chu Diên và
một phần huyện Liên Lâu.
Kinh thành Thăng Long vào thời phong kiến trước năm 1831 có
phạm vi tương đương với 4 quận Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng và
Đống Đa ngày nay. Từ sau cải cách hành chính của Minh Mệnh với việc
chia cả nước thành 29 tỉnh, tỉnh Hà Nội được giới hạn bởi sông Hồng (ở
phía Bắc và phía Đông) và sông Đáy (ở phía Tây và phía Nam). Tỉnh Hà
Nội gồm thành Thăng Long, phủ Hoài Đức của trấn Sơn Tây, và ba phủ
Ứng Hoà, Thường Tín, Lí Nhân của trấn Sơn Nam. Phủ Hoài Đức gồm 3
huyện: Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm. Phủ Thường Tín gồm 3 huyện:
Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên. Phủ Ứng Hoà gồm 4 huyện: Sơn
Minh, Hoài An, Chương Đức. Phủ Lí Nhân gồm 5 huyện: Nam Xang,
Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục.
Năm 1888, vua Đồng Khánh ra chỉ dụ cắt phần lớn đất huyện Thọ
Xương và huyện Vĩnh Thuận cho Pháp làm nhượng địa. Ngày 18-7-1888,
Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội. Phần đất nhượng
30 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

địa của hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận được sáp nhập làm huyện
Hàm Long. Năm 1889, thành lập ngoại thành Hà Nội gồm một số xã của
các huyện Vĩnh Thuận, Thọ Xương, Từ Liêm và Thanh Trì.
Năm 1890 tách phủ Lí Nhân thành lập tỉnh Hà Nam và đến năm
1902 thành lập tỉnh Cầu Đơ bao gồm phần còn lại của tỉnh Hà Nội trước
đó. Lúc này thành phố Hà Nội là địa danh duy nhất mang tên Hà Nội.
Năm 1904, tỉnh Cầu Đơ được đổi thành tỉnh Hà Đông. Tỉnh Hà Đông thời
thuộc Pháp gồm thị xã Hà Đông, các phủ Hoài Đức, Mĩ Đức, Ứng Hoà;
các huyện Chương Mĩ, Đan Phượng, Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên,
Thanh Oai.
Cho đến năm 1954, Hà Nội có phần nội thành không mở rộng so với
nội thành cuối thế kỉ XIX, khi vua Đồng Khánh ra chỉ dụ cắt thành Hà Nội
làm nhượng địa cho Pháp (1888). Phần ngoại thành (Đại lí Hoàn Long)
chỉ bao quanh phía Bắc đến hết Hồ Tây, phía Tây dọc theo sông Tô Lịch,
phía Nam đến Hoàng Mai, Vĩnh Tuy (nay thuộc quận Hoàng Mai).

Hình 2.2: Bản đồ Hà Nội năm 1873

Nguồn: Phạm Đình Bách


Chương 2. Vị thế địa lí và tài nguyên thiên nhiên Hà Nội 31

Giai đoạn 1955-2008:


Từ năm 1955 trở lại đây, Hà Nội đã trải qua nhiều lần điều chỉnh địa
giới, quan trọng nhất là vào các năm 1961, 1978, 1991 và 2008.

Hình 2.3: Bản đồ Hà Nội năm 1955 Hình 2.4: Bản đồ Hà Nội thời kì 1961-1978
Nguồn: Trương Quang Hải, Atlat Thăng Long Hà Nội 2010

Hình 2.5: Bản đồ Hà Nội 1979-1990 và 1990-1995


Nguồn: Trương Quang Hải, Atlat Thăng Long Hà Nội 2010
32 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Từ năm 1961 đến năm 1978:


Năm 1961, theo Nghị quyết của Quốc hội khoá II ngày 20-4-1961,
Hà Nội mở rộng lần thứ nhất, với việc sáp nhập 18 xã, 6 thôn và 1 thị
trấn thuộc tỉnh Hà Đông, 29 xã và thị trấn thuộc tỉnh Bắc Ninh, 17 xã và
một nửa thôn của tỉnh Vĩnh Phúc và 1 xã thuộc tỉnh Hưng Yên. Sau đó,
theo Quyết định số 78/QĐ ngày 31-5-1961 của Hội đồng Chính phủ chia
thành phố Hà Nội thành lập 4 khu phố nội thành là khu phố Ba Đình,
khu phố Hoàn Kiếm, khu phố Hai Bà, khu phố Đống Đa; 4 huyện ngoại
thành là huyện Từ Liêm, huyện Thanh Trì, huyện Gia Lâm và huyện
Đông Anh.
Từ 1979 đến 1991:
Quốc hội khoá 6, kì họp thứ 4 (29-12-1978) đã ra Nghị quyết phê
chuẩn việc sáp nhập một số huyện, thị xã, xã và thị trấn sau đây của tỉnh
Hà Sơn Bình và Vĩnh Phú vào thành phố Hà Nội.
Tỉnh Hà Sơn Bình gồm các huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan
Phượng, Hoài Đức, thị xã Sơn Tây và thị xã Hà Đông, xã Tiến Phương, xã
Phụng Châu, phần bắc đường số 6 thuộc xã Ngọc Hoà và xã Ngọc Sơn của
huyện Chương Mĩ, xã Hữu Hoà và phần bắc đường số 6 thuộc xã Phú Lâm
của huyện Thanh Oai, các xã Liên Minh, Việt Hưng, Thanh Hưng, Đại
Thanh của huyện Thường Tín, các xã Tam Hiệp, Hiệp Thuận, Liên Hiệp,
Cộng Hoà, Tân Hoà, Tân Phúc và Đại Thành của huyện Quốc Oai.
Tỉnh Vĩnh Phú gồm huyện Sóc Sơn, các xã Chu Phan, Đại Thịnh, Liên
Mạc, Mê Linh, Tam Đồng, Thạch Đà, Thanh Lâm, Tiền Châu, Tiền Phong,
Tiến Thắng, Tiến Thịnh, Tự Lập, Tráng Việt, Hoàng Kim, Văn Khê, Vạn
Yên, Quang Minh, Kim Hoa, và thị trấn Phúc Yên thuộc huyện Mê Linh.
Thị xã Hà Đông vẫn được giữ lại là tỉnh lị của tỉnh Hà Sơn Bình.
Ngày 17-2-1979, Hội đồng Chính phủ có Quyết định số 49-CP về việc
điều chỉnh địa giới một số xã, thị trấn của các huyện Sóc Sơn, Mê Linh,
Hoài Đức, Phúc Thọ, Thanh Trì thuộc thành phố Hà Nội.
Về tổ chức địa lí hành chính, vào năm 1981, các khu phố nội thành
chính thức đổi thành quận, đơn vị hành chính cơ sở là phường (tương
đương cấp xã).
Chương 2. Vị thế địa lí và tài nguyên thiên nhiên Hà Nội 33

Từ tháng 9-1992 đến tháng 7-2008:


Cuộc điều chỉnh địa giới tháng 12-1978 mở rộng Hà Nội gấp 14 lần
so với năm 1955, gấp 3,6 lần năm 1961. Trong điều kiện kinh tế - xã hội
có nhiều khó khăn ở thập niên 1980, một vùng ngoại thành rộng lớn làm
phân tán đầu tư (cho cả vùng thành thị và vùng nông thôn), giảm hiệu
quả quản lí. Chính vì thế, theo Nghị quyết của Quốc hội ngày 12-8-1991,
Hà Nội lại được điều chỉnh địa giới, với việc chuyển huyện Mê Linh của
thành phố Hà Nội về tỉnh Vĩnh Phú; chuyển thị xã Sơn Tây và 5 huyện:
Hoài Đức, Phúc Thọ, Đan Phượng, Ba Vì, Thạch Thất của thành phố Hà
Nội về tỉnh Hà Tây. Như vậy là từ cuối năm 1991, Hà Nội có 5 huyện
ngoại thành là Từ Liêm, Thanh Trì, Gia Lâm, Đông Anh và Sóc Sơn.
Trong thời gian từ 1991 đến trước 1-8-2008, có một số điều chỉnh địa
giới hành chính, liên quan chủ yếu đếu việc thành lập các quận mới, mở
rộng nội thành.
Quận Tây Hồ được thành lập theo Nghị định số 69/CP ngày 28-10-1995.
Quận Thanh Xuân được thành lập theo Nghị định số 74-CP ngày
22-11-1996.
Quận Cầu Giấy được thành lập theo Nghị định số 74-CP ngày 22-11-1996.
Quận Long Biên được thành lập theo Nghị định số 132/2003/NĐ-CP
ngày 6-11-2003.
Quận Hoàng Mai được thành lập theo Nghị định số 132/2003/NĐ-CP
ngày 6-11-2003.
Hà Nội mở rộng từ 1-8-2009:
Ngày 29-5-2008, Quốc hội khoá 12, kì họp thứ 3 đã ra Nghị quyết số
14/2008/QH12, theo đó, chuyển xã Tân Đức thuộc huyện Ba Vì tỉnh Hà Tây
về thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ;
Cùng ngày, Quốc hội đã ra Nghị quyết số 15/2008/NQ-QH12 điều
chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan,
theo đó:
- Hợp nhất toàn bộ diện tích tự nhiên là và dân số của tỉnh Hà Tây vào
thành phố Hà Nội;
34 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

- Chuyển toàn bộ huyện Mê Linh tỉnh Vĩnh Phúc về thành phố Hà Nội;
- Chuyển toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số hiện tại của 4 xã
Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung thuộc huyện Lương Sơn
tỉnh Hoà Bình về thành phố Hà Nội.
Đây là lần mở rộng địa giới hành chính thành phố Hà Nội lớn nhất từ
trước đến nay.
Theo Nghị quyết 15/2008/NQ-QH12, sau khi điều chỉnh địa giới
hành chính, thành phố Hà Nội có diện tích tự nhiên là 334.470,02 ha và
dân số hiện tại là 6.232.940 người, bao gồm diện tích tự nhiên và dân số
hiện tại của các quận Hoàn Kiếm, Đống Đa, Ba Đình, Hai Bà Trưng, Tây
Hồ, Cầu Giấy, Hoàng Mai, Long Biên, Thanh Xuân, các huyện Đông
Anh, Từ Liêm, Sóc Sơn, Gia Lâm, Thanh Trì, Ba Vì, Chương Mĩ, Đan
Phượng, Hoài Đức, Mĩ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai, Thạch
Thất, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hoà, Mê Linh, các thành phố Hà
Đông, Sơn Tây và các xã Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung.
Ngày 8-5-2009, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 19/NQ-CP chuyển
4 xã thuộc huyện Lương Sơn về Hà Nội, trong đó xã Đông Xuân thuộc
huyện Quốc Oai; các xã Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung thuộc huyện
Thạch Thất. Thành phố Hà Đông trở thành quận Hà Đông. Thị xã Sơn
Tây sau một thời gian ngắn được nâng cấp lên thành phố, nay được xếp
trở lại thị xã Sơn Tây như trước đây.
Ngày 27-12-2013, Chính phủ ra Nghị quyết số 132/NQ-CP về việc điều
chỉnh địa giới hành chính huyện Từ Liêm để thành lập 2 quận và 23 phường
thuộc thành phố Hà Nội.
- Quận Bắc Từ Liêm được thành lập, gồm Thượng Cát, Liên Mạc,
Thụy Phương, Minh Khai, Tây Tựu, Đông Ngạc, Đức Thắng, Xuân Đỉnh,
Xuân Tảo, Cổ Nhuế 1, Cổ Nhuế 2, Phúc Diễn, Phú Diễn.
- Quận Nam Từ Liêm được thành lập, gồm Trung Văn, Đại Mỗ, Tây
Mỗ, Mễ Trì, Phú Đô, Mĩ Đình 1, Mĩ Đình 2, Cầu Diễn, Phương Canh,
Xuân Phương.
Chương 2. Vị thế địa lí và tài nguyên thiên nhiên Hà Nội 35

Hình 2.6: Bản đồ Hà Nội từ năm 2008


Nguồn: Atlat Thăng Long - Hà Nội

2.2. Tài nguyên thiên nhiên


2.2.1. Tài nguyên khoáng sản
Khoáng sản của thành phố Hà Nội tương đối phong phú về chủng
loại. Tuy có một số khoảng sản kim loại, nhưng hạn chế về trữ lượng ít có
giá trị thực tế để khai thác. Phong phú nhất là vật liệu xây dựng, như cát,
sạn, sỏi, sét gạch ngói, đá vôi và đá ong.
36 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Nhiên liệu:
Than đá: Khoáng sản nhiên liệu của thành phố Hà Nội có than đá với
điểm khoáng sản Ninh Sơn, tuổi Permi muộn. Nhìn chung, than có chất
lượng thấp, ít giá trị công nghiệp. Trước đây, dân địa phương đã khai
thác than bằng phương pháp thủ công, hiện nay điểm than đá Ninh Sơn
đã ngừng khai thác.
Than bùn: Than bùn ở thành phố Hà Nội được phát hiện ở nhiều nơi
trong trầm tích Đệ tứ. Đến nay đã phát hiện và tìm kiếm đánh giá một số
mỏ và điểm khoáng sản than bùn với tổng trữ lượng khoảng trên 30 triệu
tấn. Trong đó lớn nhất là các mỏ ở Ứng Hoà, Ba Vì, Thạch Thất.
Kim loại:
Các mỏ kim loại của Hà Nội có sắt, đồng và vàng đều phân bố quanh
khu vực núi Ba Vì. Các mỏ này đều nhỏ, không có giá trị công nghiệp và
đã ngừng khai thác.
Khoáng sản công nghiệp:
Pyrit: Pyrit gặp ở 2 mỏ khoáng: Ba Trại, Minh Quang, cùng các biểu
hiện khoáng sản đồng (Cu) ở nông trường Phú Mãn và Ba Vì.
Kaolin: Kaolin là sản phẩm phong hoá từ các ổ mạch pegmatit và đá
trầm tích phun trào acit. Các mỏ kaolin đều có quy mô nhỏ, có chất lượng
tốt đến trung bình, dùng để sản xuất gốm sứ. Đến nay, ở Hà Nội đã phát
hiện, tìm kiếm và đánh giá 12 mỏ và điểm khoáng sản kaolin điển hình là
Ba Trại, Thủ Trung, Mĩ Khê, Vị Nhuế và Thái Học.
Asbest: Asbest phân bố xung quanh núi Ba Vì. Hiện nay đã tìm kiếm
đánh giá 3 mỏ: Khu Mon (57.000 tấn), Khu Quýt (31.944 tấn), Đồng Chang
(855 tấn) và 1 điểm khoáng sản: Lố Ngố. Tổng trữ lượng khoảng 76.830 tấn.
Vật liệu xây dựng:
Cuội sỏi: Thuộc loại khoáng sản này có 2 điểm không lớn là cuội
sỏi Xóm Ban (567.500m³) và Trung Hà (750.000m³). Các tài liệu cho thấy
cuội sỏi có thể sử dụng cho xây dựng nhà cửa, cầu cống. Cuội sỏi trong
hệ tầng Hà Nội có chất lượng tốt, điều kiện khai thác dễ dàng và giao
thông thuận lợi.
Chương 2. Vị thế địa lí và tài nguyên thiên nhiên Hà Nội 37

Hình 2.7: Bản đồ địa chất và khoáng sản thành phố Hà Nội
Nguồn: Ngô Quang Toàn

Cát xây dựng: Cát xây dựng qui mô nhỏ có các điểm Nhật Tân, Phù
Đổng và Phù Lỗ,... Cát xây dựng phân bố trên bãi bồi các sông lớn như
sông Hồng, sông Đuống, sông Cà Lồ. Nguồn cát xây dựng ở các bãi bồi
khoảng 75 triệu m³ chỉ đáp ứng được một số năm trước mắt, nên trong
khai thác cần phải có quy hoạch và quy định chặt để bảo vệ môi trường.
Sét gạch ngói: Sét gạch ngói là khoáng sản khá phổ biến trên địa bàn
thành phố. Chúng có diện phân bố lớn nhất trong các loại khoáng sản.
38 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Chúng được phân bố chủ yếu ở phía Đông Bắc, Đông và Đông Nam thành
phố, thuộc địa hình đồng bằng. Hiện đã khảo sát đánh giá 5 mỏ gồm: Sơn Tây,
Mĩ Đức, Chúc Sơn, Đa Sỹ, Vân Đình. Nhìn chung, các mỏ đều có chất lượng
đạt yêu cầu làm gạch ngói, chủ yếu phục vụ nhu cầu xây dựng của Thủ đô.
Bột màu: Bột màu tự nhiên màu vàng có điểm Ninh Sơn, xã Phụng
Châu, huyện Chương Mĩ, với trữ lượng khoảng 1,3 triệu tấn.
Puzlan: Puzlan là loại phụ gia phục vụ sản xuất xi măng. Hiện nay
đã đăng kí có mỏ puzlan Sơn Tây (trữ lượng 27,7 triệu tấn) và điểm
khoáng sản Thanh Thắc (500.000 tấn).
Đá bazan: hiện mới đăng kí được 2 mỏ đá Núi Voi và Đồng Vỡ đều
ở xã Phú Mãn, thuộc huyện Quốc Oai, trữ lượng trên 25,8 triệu m³. Chất
lượng đá đảm bảo các chỉ tiêu làm đá xây dựng cao cấp.
Đá ryolit: đã được khai thác từ lâu, qua điều tra sơ bộ cho thấy đá
ryolit thuộc hệ tầng Tam Đảo, diện lộ dài 2000 m, rộng từ vài trăm đến
1.500m; đá có độ bền cơ học tốt.
Đá vôi xi măng: đã có 1 mỏ và 1 điểm khoáng, trong đó có mỏ đá Mĩ
Đức đã được đánh giá khoảng 100 triệu tấn, điểm khoáng sản Làng Rỹ
khoảng 4 triệu tấn.
Đá vôi xây dựng: cũng là khoáng sản tiềm năng của thành phố.
Hiện đã đăng kí 1 mỏ đá vôi Núi Chẹ khoảng 59,287 triệu m³ và điểm
đá vôi xây dựng Miếu Môn khoảng 7,2 triệu m³. Ngoài các mỏ và điểm
quặng vừa nêu, ở các dải đá vôi khu vực phía Tây huyện Chương Mĩ
và huyện Mĩ Đức còn chưa được đánh giá đầy đủ. Hiện nay đá vôi xây
dựng là nguồn vật liệu quan trọng cho thành phố Hà Nội.
Đá ong (Laterit): gặp khá phổ biến trên các bề mặt gò đồi thấp tiếp
giáp giữa đồng bằng với các vùng núi, phân bố chủ yếu ở phía Bắc,
Đông-Bắc, thuộc địa bàn thị xã Sơn Tây, các huyện Thạch Thất, Quốc
Oai và Chương Mĩ. Các mỏ Phương Hài khoảng 18 triệu m³, Thạch
Thất khoảng 15 triệu m³... Có thể khai thác loại đá này ở dạng khối để
xây nhà hoặc rải đường.
Nước khoáng:
Hiện Hà Nội phát hiện 3 điểm nước khoáng là Mĩ Khê, xã Tản
Lĩnh, huyện Ba Vì; xã Định Công, huyện Thanh Trì, Thanh Quang
Chương 2. Vị thế địa lí và tài nguyên thiên nhiên Hà Nội 39

huyện Sóc Sơn, trong đó mỏ Mĩ Khê có kết quả phân tích cho thấy
nguồn nước này thuộc loại nước khoáng sulphat, có giá trị chữa bệnh cao.
2.2.2. Tài nguyên địa hình
Các đặc điểm địa mạo vùng Hà Nội mở rộng đã được trình bày chi
tiết ở trên cho thấy, địa hình Hà Nội rất đa dạng về nguồn gốc. Trong
mỗi loại lại có những thành tạo địa hình vào các thời kì khác nhau và
nằm trên các mực độ cao khác nhau. Mỗi thành tạo địa hình trên địa
bàn thành phố Hà Nội mở rộng đều có giá trị riêng.
Địa hình đồi núi:
Địa hình đồi núi tập trung chủ yếu ở khu vực Ba Vì và lân cận. Về
giá trị khoa học, Ba Vì là một khối núi cao nhất và nằm ở phía Tây-Bắc Hà
Nội. Khối núi này được hình thành từ một sản phẩm phun trào của núi
lửa với thành phần là bazan được phun lên trong 2 pha hình thành vào
đầu kỉ Trias (khoảng 240 triệu năm trước). Với độ cao trên 1200 m, khối
núi Ba Vì đã trở thành một “bộ điều hoà” thời tiết cho Hà Nội.
Về tính đa dạng địa học: Xét về các thành tạo địa chất lộ ra trên bề
mặt, thì vùng Hà Nội mở rộng có nhiều loại nhất so với các địa phương
khác trên cả nước. Tại đây, có tới 17 thành tạo địa chất với thành phần
đất đá (từ gắn kết rắn chắc đến bở rời), nguồn gốc (biến chất, trầm tích,
magma) và tuổi khác nhau (Proterozoi, Paleozoi, Mezozoi và Kainozoi);
cổ nhất là hệ tầng núi Con Voi lộ ra ở khu vực Vị Thuỷ, Yên Mĩ (Sơn Tây)
có tuổi Paleoproterozoi (cách ngày nay trên một tỉ năm) và trẻ nhất là hệ
tầng Thái Bình (chỉ vài ba ngàn năm trở lại đây).
Về giá trị thẩm mĩ: Khối núi Ba Vì kéo dài theo phương Bắc-Nam, có
sườn phía Tây khá dốc, còn sườn phía Đông tương đối thoải. Do đó, khi
đứng ở bờ hồ Suối Hai, cách khoảng 10 km về phía Bắc có thể nhìn thấy
rõ 3 đỉnh. Khi lên đỉnh núi Ba Vì, có thể nhìn thấy rõ phong cảnh xung
quanh. Một trong những vị trí có giá trị thẩm mĩ đáng kể trên núi Ba Vì
nằm ở độ cao 400 m (code 400). Đây chính là một trong những mực san
bằng có diện tích đáng kể và đứng ở đây cũng có thể nhìn về phía Bắc có
các cảnh quan từ đồi núi chuyển tiếp sang đồng bằng và tới Sông Hồng.
Giá trị thẩm mĩ của núi Ba Vì đã trở thành chủ đề cho các sáng tác thơ, ca.
Cảnh đẹp của núi Ba Vì cũng là một trong các tiêu chí để được khắc vào
Cửu Đỉnh của Triều Nguyễn.
40 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Ngoài ra, trên sườn khối núi Ba Vì còn nhiều suối - thác nhỏ có giá
trị thẩm mĩ, như Thác Bạc - Suối Sao, Suối Tiên - Thác Đa, Suối Ngà…
có nước chảy quanh năm. Ngày nay, một số đoạn suối đã ngược ngăn lại
thành hồ, ao, như Ao Vua, hồ Tiên Sa…
Về giá trị văn hoá: Truyền thuyết Sơn Tinh - Thuỷ Tinh về núi Ba Vì đã
đi vào văn hoá tâm linh của người Việt Nam: Sơn Tinh hay Thánh Tản đã
làm cho núi này được nâng cao lên để giành chiến thắng trong cuộc chiến
đấu với Thuỷ Tinh. Để ghi nhớ công ơn đó, trên đỉnh núi Vua Bà, người
Việt đã xây dựng Đền Thượng thờ Đức Thánh Tản (tức Sơn Tinh) - một
trong “Tứ Bất Tử” của tiềm thức tâm linh Việt Nam.

Hình 2.8: Bản đồ địa mạo thành phố Hà Nội 1

1
Đào Đình Bắc, Bản đồ địa mạo thành phố Hà Nội.
Chương 2. Vị thế địa lí và tài nguyên thiên nhiên Hà Nội 41

Vùng núi Ba Vì cũng là căn cứ quan trọng trong 2 cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ. Do địa thế hiểm yếu, thuận lợi cả về đường
sông và đường bộ và gần Thủ đô Hà Nội nên vùng núi Ba Vì, cụ thể là địa
điểm Đá Chông đã được lựa chọn là nơi hội họp của Bộ Chính trị trong
thời kì chiến tranh phá hoại ác liệt của Mĩ. Sau đó trở thành nơi gìn giữ thi
hài của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi giải phóng miền Nam thống nhất
đất nước. Gần đây, Đảng và Nhà nước đã cho xây dựng đền thờ Bác Hồ
trên đỉnh Núi Vua - đỉnh cao nhất của núi Ba Vì 1.296 m.
Về giá trị chức năng: Chức năng tự nhiên, địa hình cũng là trụ cột của
hệ sinh thái. Theo đai cao, núi Ba Vì là trụ cột của các hệ sinh thái đồi và
núi thấp (gồm cả hệ sinh thái dưới nước và trên cạn). Cũng chính từ đa
dạng địa học như đã đề cập ở trên, các hệ sinh thái ở khu vực núi Ba Vì và
lân cận cũng có tính da dạng sinh học cao. Đây cũng là một trong những
lí do để khu vực núi Ba Vì được công nhận là Vườn Quốc gia.
Về giá trị kinh tế, thì giá trị kinh tế dễ dàng nhận thấy của vùng đồi
núi Ba Vì là phát triển du lịch với nhiều loại hình khác nhau: nghiên cứu
khoa học, tham quan ngoại khoá cho học sinh phổ thông và sinh viên một
số ngành liên quan, du lịch sinh thái, văn hoá tâm linh. Hiện nay khu vực
vùng núi Ba Vì và phụ cận cũng được qui hoạch để phát triển vùng du
lịch sinh thái của Hà Nội.
Địa hình đá vôi (karst):
Địa hình trên đá vôi được các nhà khoa học trên thế giới gọi là karst,
địa hình đá vôi có những đặc điểm bên ngoài khác hẳn với địa hình
phát triển trên các loại đá khác, rất dễ nhận ra. Địa hình đá vôi ở vùng
Hà Nội mở rộng được phân bố chủ yếu ở huyện Mĩ Đức, Chương Mĩ
và một vài khối nhỏ ở Quốc Oai. Bản thân đá vôi là một loại tài nguyên
địa chất thuộc nhóm vật liệu xây dựng (sản xuất vôi, đá xây dựng, rải
đường) hoặc nguyên liệu (trong sản xuất xi măng). Về giá trị khoa học:
Đá vôi là loại đá có khả năng bị hoà tan dưới tác động của nước chảy,
đặc biệt là nước tự nhiên, như nước mưa, nước sông, suối. Tác động
hoà tan của nước lên đá vôi đã tạo ra cả các dạng địa hình trên mặt
(từ các dạng đá tai mèo đến các khối đá vôi dạng tháp hay dạng nón,
các hố sụt, thung lũng,...) và các hang động. Trong khối đá vôi Mĩ Đức
42 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

có đầy đủ các thành tạo địa hình nêu trên. Điển hình cho địa hình trên
mặt là các đỉnh karst dạng nón và thung lũng karst - suối Yến được
phát triển trên một đứt gãy cắt qua khối đá vôi theo phương Tây Bắc -
Đông Nam, động Hương Tích ở Mĩ Đức, động Hoàng Xá và hang Cắc
Cớ ở huyện Quốc Oai là các hang động có thạch nhũ - một sản phẩm
được hình thành từ đá vôi.
Về giá trị thẩm mĩ: Bản thân các khối đá vôi là một cảnh quan vô
cùng độc đáo trên bề mặt Trái đất. Hầu hết các khối đá vôi đều rất hùng
vĩ và hiểm trở, đồng thời cũng có nhiều hình dạng kì dị. Đó là phong cảnh
sơn thuỷ hữu tình của suối Yến - núi Hương Tích ở huyện Mĩ Đức, hay
sự nhô cao nổi bật trên nền đồng bằng bằng phẳng của khối núi Sài Sơn
(núi Thày) và Hoàng Xá ở huyện Quốc Oai. Cảnh quan núi đá vôi càng
được tôn thêm vẻ đẹp nhờ xây dựng các hồ nhân tạo kéo dài từ hồ Quan
Sơn đến hồ Tuy Lai ở phía Tây - Bắc huyện Mĩ Đức. Ngoài vẻ đẹp và sự
hùng vĩ của địa hình trên mặt, các hang động trong khối đá vôi cũng có
những nét đẹp riêng. Động Hương Tích đã được chúa Trịnh Sâm thế kỉ
XVIII phong là “Nam Thiên Đệ Nhất Động” (Động đẹp nhất Trời Nam).
Trong động có nhiều thạch nhũ có hình dạng và kích thước khác nhau tạo
nên sự kì lạ của động.
Về giá trị văn hoá: Như một quy luật, hầu như tất cả các khối đá vôi
ở Việt Nam cũng như trên thế giới đều chứa đựng các dấu ấn văn hoá có
giá trị bao gồm cả văn hoá tâm linh lẫn lịch sử, khảo cổ. Các vùng núi đá
vôi ở Hà Nội cũng không nằm ngoài quy luật đó. Tại khu vực núi Hương
Tích, còn có di chỉ khảo cổ Lũng Sàm với nền Văn hoá Hoà Bình có niên
đại khoảng từ 11.000 - 8.000 năm trước, còn được gọi là Văn hoá hang
động. Dấu ấn để lại rõ rệt nhất của nền văn hoá này là các hoá thạch vỏ
ốc núi quan sát được ở cửa động Hoàng Xá giống như ở cửa động Người
Xưa trong Vườn Quốc gia Cúc Phương, tỉnh Ninh Bình.
Địa hình sông, hồ:
Ranh giới của vùng Hà Nội mở rộng được bao quanh bởi Sông Đà ở
phía Tây và Sông Hồng ở phía Bắc. Còn trong phạm vi của nó có các sông
Tích, Đáy, Nhuệ, Bùi và rất nhiều hồ. Vì thế, nhiều nhà nghiên cứu cả
trong nước và quốc tế đều cho rằng, Hà Nội là một “thành phố sông hồ”.
Chương 2. Vị thế địa lí và tài nguyên thiên nhiên Hà Nội 43

Tuy nhiên, hầu hết các hồ ao tự nhiên đã bị lấp hoặc được cải tạo, chỉ còn
lại dấu vết hay các hồ đã được cải tạo. Tiêu chí nổi bật nhất của sông hồ
Hà Nội để trở thành tài nguyên là giá trị khoa học (đối với sông hồ tự
nhiên). Còn các hồ nhân tạo lại có sự tổng hợp của các giá trị đã nêu.
Các hồ nhân tạo hầu hết đều được xây dựng ở phía Tây, nơi có địa
hình đồi núi và núi đá vôi. Các hồ này đều có diện tích tương đối lớn: hồ
Suối Hai có diện tích lúc bình thường khoảng 700 - 800 ha (nếu đạt tới
mực nước thiết kế cao nhất ở cao trình 24,85 m, thì diện tích mở rộng tới
1.200 ha), hệ thống hồ Quan Sơn - Tuy Lai rộng khoảng 700 ha. Các hồ
này đều được xây dựng vào đầu những năm 1960 với mục tiêu phục vụ
sản xuất nông nghiệp và cắt lũ. Sau nửa thế kỉ tồn tại, các hồ này đã mang
lại nhiều lợi ích về nhiều mặt cho cuộc sống của người dân trong vùng.
Việc điều tiết chế độ thuỷ văn, điều hoà vi khí hậu, giảm lũ và phục vụ
cho sản xuất nông nghiệp của các hồ nhân tạo vừa có giá trị khoa học lại
vừa có giá trị thực tiễn. Bản thân các hồ cũng đồng thời là các công trình
văn hoá của con người. Hồ Quan Sơn - Tuy Lai đã được mệnh danh là
“Hạ Long trên cạn của Hà Nội”, bởi vì trong hồ có tới gần 100 “hòn đảo”
và một số “bán đảo” làm nổi bật giá trị thẩm mĩ. Giá trị thẩm mĩ còn được
tôn thêm bởi chức năng sinh thái đất ngập nước với nhiều loài thuỷ sinh,
như cá, rong, sen, súng... Các giá trị nêu trên có ý nghĩa to lớn để phát
triển du lịch và nuôi trồng thuỷ sản mang lại giá trị kinh tế cao.
Các hồ tự nhiên: Hà Nội có rất nhiều hồ tự nhiên với kích thước rất
khác nhau. Các hồ tự nhiên cũng là một thực thể địa lí và là nguồn tài
nguyên quan trọng phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của thành
phố. Ngoài cung cấp nước và nguồn lợi động thực vật, các hồ tự nhiên
còn có các giá trị khoa học, văn hoá - lịch sử và trụ cột cho hệ sinh thái. Về
mặt khoa học, các hồ tự nhiên ở Hà Nội đều có nguồn gốc sông được hình
thành theo 2 cách: hoặc là khúc uốn của sông (còn gọi là hồ móng ngựa)
như Hồ Tây, hồ Linh Đàm, Đầm Viên (xã Cao Viên, huyện Thanh Oai),
hồ ở xã Tam Thuấn (huyện Phúc Thọ)..., hoặc là những đoạn lòng sông
bị bỏ rơi (hay còn gọi là lòng sông cổ), như các hồ Hoàn Kiếm, đầm Vân
Trì (huyện Đông Anh), Yên Mĩ (huyện Thanh Trì), loạt hồ ở các xã Võng
Xuyên, Long Xuyên (huyện Phúc Thọ)… Thông qua sự phân bố của các
hồ này có thể khôi phục lại các dòng sông trước đây, đặc biệt là sông Đáy.
44 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Về giá trị văn hoá - lịch sử: Giá trị này được nhận ra rõ ràng đối
với Hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm...
Cảnh đẹp Hồ Tây và hồ Hoàn Kiếm đã trở thành chủ đề cho nhiều
thơ ca, nhạc hoạ của cả trước đây và ngày nay. Hồ Tây đã trở thành một
trong những địa điểm du ngoạn được nhà vua và các quan lại ưa thích.
Nhiều lần du ngoạn có sương mù bao phủ làm cho cảnh tượng càng trở
nên huyền ảo và hồ được đổi tên là Dâm Đàm.

2.2.3. Tài nguyên khí hậu


Khí hậu Hà Nội mang đậm bản sắc của khí hậu vùng đồng bằng
sông Hồng thuộc miền khí hậu phía Bắc - khí hậu nhiệt đới gió mùa có
mùa đông lạnh. Điều này cũng tạo ra khí hậu có đủ 4 mùa cho Hà Nội.
Nằm sát chí tuyến Bắc, bức xạ tổng cộng năm ở khu vực Hà Nội đạt
122,8 kcal/cm²/năm, thuộc loại trung bình ở miền Bắc. Trong năm, lượng
bức xạ này có phân bố không đều, cao trong các tháng hè - thu (10-14
kcal/cm²/tháng) và thấp trong các tháng đông - xuân (6-8 kcal/cm²/tháng).
Liên quan với bức xạ là số giờ nắng, tổng số giờ nắng/năm ở Hà Nội là
khoảng 1450-1530 giờ/năm. Các tháng hè nắng nhiều, có khoảng 5-6 giờ
nắng/ngày, các tháng đông ít nắng hơn, có khoảng 2-3 giờ nắng/ngày, lúc
ít nắng nhất cũng chính là thời kì có mưa phùn ở Bắc Bộ - thời kì lượng
mây lớn nhất trong năm.
Là hệ quả của hoàn lưu gió mùa Đông Nam châu Á và đặc điểm hoàn
lưu địa phương - khu vực Bắc Bộ, chế độ gió ở Hà Nội có đặc điểm như sau:
Mùa đông gió Đông Bắc, Bắc và Tây Bắc thịnh hành, trong đó gió Đông Bắc
giữ vai trò chủ đạo (tần suất khoảng 23,6% - 27,3% trong các tháng 12 - 2)
với tốc độ khá cao, khoảng 3,1 - 3,2 m/s. Mùa hè, gió Đông Nam, gió Đông
thịnh hành, trong đó gió chủ đạo chính là gió Đông Nam (tần suất là 40,9%
- 47,6% trong các tháng 3-5) và tốc độ vào khoảng 2,8-3 m/s.
Về tốc độ gió: Trong khi tốc độ gió trung bình ở khu vực Hà Nội
không cao, chỉ khoảng 1,1 - 2,0 m/s thì tốc độ gió mạnh nhất đã từng quan
sát thấy ở khu vực Hà Nội có thể lên đến 24-34 m/s.
Điểm nổi bật của chế độ nhiệt ở khu vực Hà Nội là sự hạ thấp của
nền nhiệt trong các tháng mùa đông và theo độ cao địa hình ở khu vực
Chương 2. Vị thế địa lí và tài nguyên thiên nhiên Hà Nội 45

đồi núi phía Tây Bắc, phía Bắc. Nhiệt độ trung bình năm ở khu vực đồng
bằng phổ biến là khoảng 23,3 - 23,7°C, đảm bảo tổng độ tích ôn khoảng
8600-8500°C. Khu vực đồi núi thấp phía Bắc, Tây Bắc Hà Nội (Sóc Sơn,
Ba Vì), nhiệt độ giảm theo độ cao địa hình rõ rệt, ở độ cao 500 - 700 m,
nhiệt độ trung bình năm khoảng 20 - 19°C, tương đương với tổng độ tích
ôn khoảng 70000C. Lên đến độ cao 900-1000 m nhiệt độ trung bình năm
sẽ chỉ còn vào khoảng 180C và tổng độ tích ôn sẽ chỉ còn khoảng 6500°C.
Mùa hè, từ tháng 5 đến hết tháng 9, thời tiết nóng bức, nhiệt độ
không khí trung bình khoảng 27,9 - 28,3°C. Mùa đông, từ tháng 11 đến
tháng 3 năm sau, thời tiết lạnh - mát, nhiệt độ trung bình khoảng 18,8 -
18,8°C; mùa đông trên phần lớn lãnh thổ đồng bằng Hà Nội có tới 2-3
tháng lạnh (nhiệt độ trung bình tháng lạnh xuống dưới 18°C). Khu vực
đồi núi phía Bắc và Tây Bắc mùa đông còn lạnh hơn do ảnh hưởng của
độ cao địa hình, số tháng lạnh ở vùng đồi núi của Hà Nội có thể lên đến
4-5 tháng.
Quan sát biến trình nhiều năm (1930 - 2012) của nhiệt độ không khí
trung bình năm ở Láng cho thấy: Nhiệt độ không khí trung bình năm cao
nhất đã gặp là 25,1°C (năm 1998) và nhiệt độ trung bình năm thấp nhất
là 22,8°C (năm 1934). Tuy nhiệt độ trung bình năm có lúc tăng lúc giảm,
nhưng gần một thế kỉ qua xu thế chung là tăng và đường xu thế có dạng:
Y = 0,0125*x + 23,152.
Các số liệu nhiệt độ tối cao và tối thấp tuyệt đối đã ghi nhận được
trên toàn khu vực Hà Nội cho thấy nhiệt độ không khí cao nhất đã gặp là:
42,8°C tại trạm Láng vào tháng 5 năm 1926. Và nhiệt độ thấp nhất đã gặp
là 2,7°C cũng ở Láng vào ngày 12 tháng 1 năm 1995.
Biên độ nhiệt độ trong năm ở khu vực Hà Nội là khoảng 12,5-12,8°C,
trong khi biên độ nhiệt ngày-đêm trung bình ở đây không lớn, chỉ
khoảng 6,1-6,6°C.
Như nhiều nơi khác, khu vực Hà Nội có chế độ mưa mùa hè của
vùng nhiệt đới với tổng lượng mưa năm ở vùng thấp dao động trong
khoảng 1500-1900 mm/năm với khoảng 140 - 157 ngày mưa/năm, ở khu
vực đồi, núi thấp phía Bắc (Sóc Sơn), Tây Bắc (Ba Vì) tổng lượng mưa
trong năm tăng lên nhanh chóng, có thể đến 2000-2400mm/năm, tuỳ theo
46 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

từng nơi. Chế độ mưa có sự phân lập tương đối rõ: mùa mưa kéo dài 6
tháng, từ tháng 5 đến tháng 10; và mùa ít mưa kéo dài 6 tháng còn lại, từ
tháng 11 của năm trước đến hết tháng 4 của năm sau. Mức độ khô hạn
của khí hậu Hà Nội không rõ rệt, mùa ít mưa phần lớn các nơi đều chỉ có
khoảng 2 tháng khô (r < 25 mm/tháng).
Qua hơn một thế kỉ (1890 - 2012), tổng lượng mưa năm ở khu vực
Hà Nội có lúc tăng lúc giảm, lấy trạm Láng làm ví dụ cho thấy, năm
có tổng lượng mưa năm lớn nhất: 2536,0 mm (năm 1994) và năm thấp
nhất: 1033,1 mm (năm 1988). Nhìn chung hơn một thế kỉ qua, tổng
lượng mưa năm có xu thế giảm nhẹ và phương trình xu thế có dạng:
Y = - 0,5908*x + 1718.
Các số liệu nhiều năm cho thấy những lượng mưa ngày kỉ lục đã gặp
là Láng: 586,8 mm/ngày trong tháng 7 năm 1902; Ba Vì: 554,6mm vào ngày
24 tháng 7 năm 1980; Sơn Tây: 508,0 mm vào ngày 14 tháng 7 năm 1971.
Độ ẩm không khí trung bình năm trên khu vực Hà Nội là khoảng
83-85%, thuộc loại trung bình ở miền Bắc Việt Nam. Mặc dù trong năm,
độ ẩm biến động không nhiều, tuy nhiên thời kì có mưa phùn ở Bắc Bộ
(tháng 3 và 4), độ ẩm không khí cao hơn rõ rệt, đạt khoảng 86-89%; thời
kì có độ ẩm thấp nhất trong năm là các tháng cuối thu đầu đông (tháng
11 và 12), độ ẩm không khí chỉ còn khoảng 79-82%.
Mặc dù ở giữa mùa mưa (tháng 7 và 8) vẫn có thể gặp những ngày
khô, độ ẩm không khí thấp tuyệt đối xuống đến 35 - 40%. Mùa khô giá
trị thấp tuyệt đối của độ ẩm còn thấp hơn: 15 - 25%. Đặc biệt, giá trị thấp
nhất trên toàn vùng đã gặp là độ ẩm 16% quan trắc thấy trong ngày
16-1-1932 ở Láng.
Là hệ quả của chế độ bức xạ, nắng, mưa và chế độ gió, lượng bốc hơi
không khí trên địa bàn Hà Nội dao động trong khoảng 770 - 900 mm/năm.
Trên địa bàn khu vực Hà Nội có thể gặp các hiện tượng thời tiết đặc
biệt sau:
Sương mù là hiện tượng thời tiết đặc biệt có thể gặp trong các tháng
mùa đông ở khu vực Hà Nội, có khoảng 8 - 15 ngày sương mù/năm.
Sương muối xuất hiện ở khu vực Hà Nội chủ yếu vào các tháng giữa
mùa đông (các tháng 12-1) với tần suất rất thấp, cả trăm năm mới có thể
Chương 2. Vị thế địa lí và tài nguyên thiên nhiên Hà Nội 47

gặp một vài lần.


Ở khu vực Hà Nội hàng năm vào cuối đông đầu xuân thường có
mưa phùn, trung bình có khoảng 7-30 ngày mưa phùn/năm, tuỳ theo
từng nơi.
Ở khu vực Hà Nội trung bình hàng năm có khoảng từ 75 đến
90 ngày dông/năm. Thời điểm đầu hè – mùa mưa (các tháng 5-8) thường
hay gặp nhiều ngày dông nhất trong năm.
Số liệu thống kê hơn ba chục năm gần đây cho thấy trên địa bàn Hà
Nội nơi tố lốc gặp nhiều nhất (6 lần) là ở khu vực quận Đống Đa và thị xã
Sơn Tây, mỗi năm 1 lần, có năm 2 lần. Những nơi khác như Phúc Thọ đã
gặp 2 lần trong 2 năm, các huyện Sóc Sơn, Từ Liêm, Ba Vì, Đan Phượng,
Mĩ Đức qua hơn 30 năm mới gặp 1 lần.
Ở khu vực Hà Nội, trung bình hàng năm có thể có từ 0,06 đến 1,1 ngày
mưa đá/năm. Mưa đá hay gặp nhất là trong các tháng 3-5, là thời điểm
giao mùa chuyển tiếp giữa cuối mùa khô sang đầu mùa mưa.
Các số liệu thống kê trên 50 năm gần đấy cho thấy tần số của bão/áp
thấp nhiệt đới ở khu vực Hà Nội là khoảng 1,67 cơn/năm. Mùa bão nếu
đến sớm có thể bắt đầu trong tháng 6, mùa bão nếu kết thúc muộn có thể
là trong tháng 11, cao điểm hoạt động của mùa bão là các tháng 7 - 9 với
tần số cao hơn hẳn các tháng còn lại của mùa bão.

2.2.4. Tài nguyên nước


Chế độ thuỷ văn:
Mạng lưới sông ngòi, hồ ao thành phố Hà Nội mang những nét đặc
trưng riêng. Sông Hồng là sông chính của Hà Nội, bắt đầu chảy vào Hà
Nội ở huyện Ba Vì và ra khỏi thành phố ở khu vực huyện Phú Xuyên.
Đoạn sông Hồng chảy qua Hà Nội dài 163 km, chiếm khoảng một phần
ba chiều dài trên địa phận Việt Nam. Hà Nội còn có sông Đà hợp lưu
với sông Hồng ở địa phận huyện Ba Vì, phía Bắc Thành phố. Trên địa
phận Hà Nội còn nhiều sông khác như sông Đáy, sông Đuống, sông
Cầu, sông Cà Lồ,... Các sông nhỏ chảy trong khu vực nội thành như
sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu,... là những đường tiêu thoát nước cho
Hà Nội.
48 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Hình 2.9: Sơ đồ mạng lưới sông suối thành phố Hà Nội


Nguồn: Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức, Địa lý Hà Nội

Khu vực sông Hồng có mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5 đến
tháng 9 hoặc tháng 10 với lượng mưa chiếm đến 75 - 85% lượng mưa
năm, mùa khô kéo dài 6 đến 7 tháng, lượng mưa chiếm khoảng 15% - 25%
lượng mưa năm nên chế độ dòng chảy sông Hồng có sự biến đổi mạnh mẽ
theo thời gian và có 2 mùa rõ rệt. Mùa lũ từ tháng 5 đến tháng 10, lượng
dòng chảy mùa lũ chiếm khoảng 70 - 80% tổng lượng dòng chảy toàn năm.
Ba tháng liên tục có lượng dòng chảy lớn nhất thường xuất hiện vào các
tháng 7, 8, 9. Lượng dòng chảy của ba tháng này chiếm khoảng 50 - 60%
tổng lượng dòng chảy năm. Lượng dòng chảy trung bình tháng lớn nhất
Chương 2. Vị thế địa lí và tài nguyên thiên nhiên Hà Nội 49

thường xuất hiện vào tháng 7 hay 8 chiếm khoảng 15 - 20% tổng lượng
dòng chảy năm. Mùa cạn từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau, lượng dòng
chảy trong mùa này chỉ chiếm 20 - 30% lượng dòng chảy năm. Ba tháng
liên tục có dòng chảy nhỏ nhất thường xuất hiện vào các tháng 1 - 3
hay các tháng 2 - 4. Lượng dòng chảy của ba tháng này chiếm dưới
10% lượng dòng chảy năm. Sau khi hồ chứa Hoà Bình đi vào hoạt động
(1989), tuy có nhiệm vụ cắt lũ cho vùng hạ du nhưng dòng chảy bình
quân nhiều năm thay đổi không nhiều. Song do được điều tiết qua đập
thuỷ điện Hoà Bình nên đỉnh lũ được hạ thấp, tuy nhiên quá trình lũ lại
được kéo dài hơn do nước xả từ từ qua tuyến đập Hoà Bình. Qua chuỗi
số liệu quan trắc từ năm 1960 có thể thấy dòng chảy trung bình năm
tại trạm Hà Nội thời kì trước khi khởi công xây dựng công trình thuỷ
điện Hoà Bình là 2.667 m³/s. Trong giai đoạn thi công công trình từ năm
1986 đến 1889 do ngăn dòng, tích nước vào hồ chứa nên lượng nước
xuống hạ du giảm. Lưu lượng dòng chảy năm trung bình giai đoạn
này đạt 2.300 m³/s, giảm 14,6% so với thời kì trước. Dòng chảy mùa
kiệt giảm 13,2%, dòng chảy lũ giảm 19,4%. Khi công trình đã đi vào
hoạt động, dòng chảy bình quân từ năm 1990 đến 2011 đạt 2.426 m3/s,
giảm so với giai đoạn trước khi xây dựng công trình thuỷ điện Hoà
Bình là 3,7%. Do hồ Hoà Bình làm nhiệm vụ điều tiết năm nên dòng
chảy mùa kiệt đã tăng 17,1% so với thời kì 1960 - 1985 trong khi dòng
chảy lũ giảm 2,1%. Độ dài mùa kiệt kéo dài thêm 1 tháng so với thời kì
1956 - 1985 nhưng mức độ gay gắt đã giảm đi. Như vậy có thể nói chế
độ điều tiết của công trình thuỷ điện Hoà Bình đã có ảnh hưởng đến
chế độ dòng chảy vùng hạ du. Hiện nay trên dòng chảy của sông Hồng
và sông Đà mới có thêm một số hồ thuỷ điện lớn như Sơn La, Tuyên
Quang… điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến dòng chảy và chế độ
thuỷ văn của sông Hồng.
Các hồ Hà Nội:
Hà Nội là thành phố nổi tiếng với rất nhiều hồ và đầm, với 154 hồ,
đầm, ao tự nhiên và nhân tạo. Các hồ ở Hà Nội có vai trò quan trọng
trong các hoạt động của Thủ đô. Ngoài ra đã và sẽ có thêm một số hồ
mới được đào thêm như hồ Mễ Trì A, B, C. Trong khi đó, một số ao nhỏ
bị san lấp đất xây dựng. Phần lớn hồ do Công ty Công viên quản lí,
50 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

một số khác do Công ty Thuỷ sản quản lí. Các hồ vừa làm chức năng
cảnh quan, sinh hoạt văn hoá, vui chơi, giải trí, điều hoà không khí
trong khu vực, vừa làm chức năng điều hoà nước mưa, xử lí nước
thải, nuôi cá. Hồ Gươm nằm ở trung tâm đô thị cổ truyền, giữ một
vị trí đặc biệt đối với Hà Nội; Hồ Tây có diện tích lớn nhất, khoảng
500 ha, đóng vai trò quan trọng trong khung cảnh đô thị. Trong khu
vực nội ô có thể kể tới những hồ nổi tiếng khác như Trúc Bạch, Thiền
Quang, Thủ Lệ... Ngoài ra, còn nhiều đầm hồ lớn nằm trên địa phận
Hà Nội như Kim Liên, Linh Đàm, Ngải Sơn - Đồng Mô, Suối Hai, Mèo
Gù, Xuân Khanh, Tuy Lai, Quan Sơn.
Các hồ ở Hà Nội không chỉ là các danh lam thắng cảnh, các cảnh
quan sinh thái mặt nước cây xanh, một nét đặc sắc không thể thiếu được
trong kiến trúc đô thị mà còn góp phần không nhỏ cho tưới tiêu nông
nghiệp, điều tiết lượng nước mưa và tiểu khí hậu trong vùng. Ngoài ra,
một số hồ còn có chức năng tiếp nhận và xử lý nước thải của thành phố.
Bảng 2.2: Danh sách các hồ lớn thành phố Hà Nội

Quận, huyện Diện tích (ha) Quận, huyện Diện tích (ha)
QUẬN HOÀN KIẾM QUẬN HOÀNG MAI
Hồ Hoàn Kiếm 12 Hồ Linh Đàm 52,2
QUẬN BA ĐÌNH Hồ Định Công 20,3
Hồ Bách Thảo Hồ Yên Sở 43
Hồ Trúc Bạch 19 Hồ Giáp Bát 2,4
Hồ Giảng Võ 7,7134 Hồ Rùa
Hồ Thủ Lệ 9,9 Hồ Đồng Mụ
Hồ Ngọc Khánh 3,5 Hồ Đồng Nổi
Hồ Láng Hồ Đồng Vàng
Hồ Thành Công 6,1 Hồ Đồng Riêng
Hồ Ngọc Hà 0,2178 Hồ Đồng Khuyến
Hồ Đầm 1,0429 Hồ Thanh Lan
Hữu Tiệp 0,1479 Hồ Cá Yên Duyên
QUẬN CẦU GIẤY QUẬN LONG BIÊN
Hồ Nghĩa Đô 4,3706 Hồ Công Viên
Ao Cầu Hồ Cầu Tình
Hồ Quận Uỷ 0,2814 Hồ Tai Trâu
Hồ Thọ Tháp 0,1721 Hồ bến xe Gia Lâm
Hồ Trung Kính 0,4078 QUẬN TÂY HỒ
Chương 2. Vị thế địa lí và tài nguyên thiên nhiên Hà Nội 51

Ao Bái Ân 0,9614 Hồ Tây 446


Ao Hoà Mục 0,0704 Hồ Quảng Bá 3,4452
Ao Đại học Sư phạm 0,0389 Hồ Bải Tảo
Hồ Đại học Sân khấu - Điện ảnh 0,1703 Hồ Bụng Cá 2,6446
Ao Văn công 0,1777 Đầm Bảy (Nhật Tân) 5,7135
Ao Mai Dịch (Ngã ba Hồ Tùng Mậu) 1,0553 Ao chùa Phổ Ninh (Quảng An) 2,3565
Ao Đồng Nhân (Mai Dịch) 1,1984 Ao trước KS Praser (Quảng An) 0,3107
Ao Xóm Đa (Quan Hoa) 0,3522 Hồ Trũng (Tứ Liên) 1,4425
QUẬN ĐỐNG ĐA Ao Chùa Bà (Phú Thượng) 0,3543
Hồ Đống Đa 14 Ao Dài (Nhật Tân) 0,4580
Hồ Ba Mẫu 4,5 Đầm Trị (Quảng An) 6,1490
Hồ Nam Đồng 4,2876 QUẬN THANH XUÂN
Hồ Văn Chương 5,2 Hồ Rẻ Quạt
Hồ Linh Quang 1,8 Hồ Mễ Trì
Hồ Hào Nam 0,7904 Hồ Hình Thang
Hồ Xã Đàn HUYỆN ĐÔNG ANH
Hồ Láng Thượng 1,8122 Đầm Vân Trì
Hồ Sót HUYỆN SÓC SƠN
Hồ Ba Giang 0,3598 Hồ Đồng Quan
Hồ Giám 0,6827 HUYỆN THANH TRÌ
Hồ Khương Thượng 0,3939 Đầm Mực
Hồ Kim Liên 2,0422 THỊ XÃ SƠN TÂY
Hồ Hố Mẻ 1,0061 Đồng Mô - Ngải Sơn 1.200
QUẬN HAI BÀ TRƯNG BA VÌ
Hồ Bảy Mẫu 18 Suối Hai 671
Hồ Thiền Quang 5,8686 Cẩm Quỳ 141
Hồ Hai Bà Trưng 1,1451 Xuân Khanh 104
Hồ Thanh Nhàn 1,0736 Mèo Gù 113
Hồ Quỳnh 0,7201 CHƯƠNG MĨ
Hồ Công viên Tuổi trẻ 1,7302 Đồng Xương 90
Hồ 108 (ao Cần) 1,6325 Miễu 47
Hồ Tiền 0,4850 Vân Sơn
Ao Công an quận Hai Bà Trưng 0,2655 THẠCH THẤT
Ao phường Vĩnh Tuy 0,6304 Tân Xã 80
Ao Trại cá 0,1022 MĨ ĐỨC
Ao cá Bác Hồ (Phường Vĩnh Tuy) 2,7709 Quan Sơn, Tuy Lai, Vĩnh An 542
HUYỆN MÊ LINH
Hồ Đại Lải 525
52 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Tài nguyên nước ngầm:


Nước ngầm cũng là nguồn tài nguyên quan trọng của thành phố Hà Nội.
Tuy nhiên, việc khai thác các loại tài nguyên này, hiện nay, chưa được quản
lí chặt chẽ, còn lãng phí nhiều. Trong những năm tới, nhu cầu về các nguồn
tài nguyên này cho phát triển kinh tế - xã hội sẽ tăng lên gấp bội. Vì vậy, cần
có các biện pháp quy hoạch và quản lí tốt việc khai thác và sử dụng vật liệu
xây dựng và nguồn nước ngầm, tránh lãng phí và thất thoát.
Tầng chứa nước Holocen (qh) lộ ra trên bề mặt và phân bố ven sông
Hồng và sông Đuống rồi xuống phía Nam, còn ở phía Bắc chỉ phân bố
thành dải hẹp dọc sông Cầu, sông Cà Lồ với chiều dày nhỏ.
Theo thành phần thạch học thường có hai tập. Tập trên phân bố
không liên tục gồm sét pha thuộc phần trên của hệ tầng Thái Bình
(Q23tb) có chiều dày từ rất nhỏ đến 10m; tập dưới là cát có độ hạt khác
nhau lẫn sỏi, chiều dày trung bình ở vùng Bắc sông Hồng, sông Đuống
là 9,2m; Gia Lâm là 10,1m và Nam sông Hồng là 13,3m chứa nước tốt.
Nguồn cung cấp nước cho tầng là nước mưa, nước tưới, riêng dải
ven sông về mùa lũ thì nước sông là nguồn cung cấp chính, nhưng vào
mùa khô, nước trong tầng lại thoát ra các sông, bị bốc hơi và cung cấp cho
các tầng chứa nước nằm dưới.
Tầng chứa nước này chỉ có ý nghĩa cung cấp nhỏ. Người dân vùng
nông thôn ngoại thành thường đào giếng, khoan giếng đường kính nhỏ,
khai thác nước trong tầng này. Tầng chứa nước dễ bị nhiễm bẩn và nhiều
nơi đã bị nhiễm bẩn.
Tầng chứa nước Pleistocen (qp): Tầng chứa nước này không dày và chỉ
lộ thành các khoảnh thung lũng hoặc ven rìa vùng đồi núi thuộc huyện
Sóc Sơn, Ba Vì, Thạch Thất, Quốc Oai, Chương Mĩ…, phần bị phủ hoàn
toàn phân bố liên tục từ Nam huyện Sóc Sơn trở xuống, chỉ gặp trong lỗ
khoan độ sâu 2-10 m ở phía Bắc sông Hồng, sông Đuống, 5-22 m ở Gia
Lâm và 10-35 m ở Nam sông Hồng.
Tầng chứa nước qp gồm hai lớp. Lớp trên gồm các hạt vừa đến thô lẫn
sạn, sỏi có bề dày trung bình 10-15 m. Lớp dưới là cuội lẫn cát sạn đôi nơi
lẫn cát sét ở đáy. Phía Bắc sông Hồng và sông Đuống có bề dày 12-22 m,
ở Gia Lâm và Nam sông Hồng bề dày 30-35 m.
Chương 2. Vị thế địa lí và tài nguyên thiên nhiên Hà Nội 53

Nguồn cung cấp cho nguồn chứa nước qp chủ yếu là nước sông (về
mùa lũ), nước mưa thấm qua tầng chứa nước qh bên trên, một phần thoát
ra sông (về mùa khô), còn lại cung cấp cho tầng chứa nước bên dưới.
Tầng chứa nước qp có trữ lượng nước lớn nên rất có ý nghĩa trong việc
cung cấp nước sinh hoạt cho thành phố Hà Nội.

2.2.5. Tài nguyên sinh vật


Thành phố Hà Nội với vị trí nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới
ẩm gió mùa, đất đai khá màu mỡ, hệ thống sông ngòi dày đặc, nhiều hồ
lớn nên các loài sinh vật rất phong phú và đa dạng. Ở đây có các hệ sinh
thái điển hình sau:
- Hệ sinh thái núi thấp và núi trung bình Ba Vì.
- Hệ sinh thái núi thấp Sóc Sơn.
- Hệ sinh thái núi đá vôi Hương Sơn - Quan Sơn.
- Hệ sinh thái Đồng Mô - Ngải Sơn.
- Hệ sinh thái rừng trồng.
- Hệ sinh thái trảng cỏ, cây bụi.
- Hệ sinh thái nông nghiệp.
- Hệ sinh thái khu dân cư đô thị.
- Hệ sinh thái khu dân cư nông thôn.
Trong các hệ sinh thái, có nhiều loài thực vật, động vật đặc trưng cho
thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa của Việt Nam, có giá trị đa dạng sinh
học cao. Điển hình của thành phố Hà Nội là các hệ sinh thái núi thấp và
núi trung bình Ba Vì với đặc trưng rừng nhiệt đới cây lá rộng. Hệ sinh thái
núi đá vôi thuộc huyện Mĩ Đức. Hệ sinh thái hồ của thành phố Hà Nội đã
và đang là nơi lưu giữ các giá trị lịch sử, văn hoá, nghệ thuật và sinh vật.
Hệ thống cây trồng, vật nuôi của Thành phố luôn luôn được bổ sung trong
quá trình sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp.
Thực vật:
Hệ thực vật của thành phố Hà Nội có đầy đủ cả 6 ngành thực vật
bậc cao có mạch của hệ thực vật nước ta với 1.747 loài (có một số dưới
54 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

loài, thứ và dạng), 865 chi và 215 họ. Hệ thực vật của thành phố Hà Nội
có 100% số ngành, khoảng 71% tổng số họ, 39% tổng số chi và 17% tổng
số loài của hệ thực vật của nước ta.

Hình 2.10: Bản đồ các hệ sinh thái thành phố Hà Nội1

1
Viện Điều tra Qui hoạch rừng, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Bản đồ các hệ sinh
thái thành phố Hà Nội.
Chương 2. Vị thế địa lí và tài nguyên thiên nhiên Hà Nội 55

Theo kết quả điều tra của Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường
Việt Nam, hệ thực vật ở thành phố Hà Nội có 53 loài quý hiếm được ghi
trong Sách đỏ Việt Nam 2007. Trong đó có 13 loài thuộc nhóm nguy cấp
như Khuyết lá thông, Bách xanh, Pơ mu, Nghiến, Ngải cau, Lan kim
tuyến, Lan một lá... Có 36 loài thuộc nhóm sẽ nguy cấp như Đỉnh tùng,
Đội mũ, Gạc ba vòng, Thiết đinh, Chò nâu, Rau sắng...
Thực vật của nước ta và của thành phố Hà Nội nói riêng có giá trị
sử dụng rất đa dạng. Đây là nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng
phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân. Các giá trị sử dụng chủ
yếu như sau:
- Thực vật cung cấp gỗ, củi cho sản xuất và sinh hoạt. Rừng trên núi
đá vôi thuộc khu vực Hương Sơn - Quan Sơn có một số loài gỗ quý như
Trai, Nghiến… Vườn Quốc gia Ba Vì có các loài quý hiếm như Bách xanh,
Đỉnh tùng, Pơ mu...
- Thực vật dùng làm thuốc: Đây là những loài cây có ích, có số lượng
loài khá phong phú. Có thể kể đến các loài Đẳng sâm, Bổ cốt toái, Lan một
lá, củ Bình vôi... ở Vườn Quốc gia Ba Vì, Khu di tích văn hoá lịch sử Hương
Sơn. Rau sắng chùa Hương là một loại sản vật nổi tiếng của Hà Nội.
- Thực vật cho tinh dầu, nhựa, hương liệu, tanin, mỡ, dầu và dùng
để nhuộm.
- Thực vật cho sợi và nguyên liệu giấy.
- Thực vật cho nguyên liệu nghề đan lát, làm đồ mĩ nghệ, vật liệu xây
dựng. Đáng chú ý là các loài cây Sưa, Sồi, Lim xanh...
- Thực vật dùng làm cảnh, cho bóng mát, làm hàng rào.
- Cây cổ thụ thường gắn với các di tích lịch sử, văn hoá, truyền
thống dân tộc, các truyền thuyết và các đền chùa. Có thể coi đây là các
tài sản vô giá cả về cảnh quan tự nhiên, cả về văn hoá và tâm linh của
người dân Việt Nam. Điển hình là 7 cây muỗm ở đền Voi Phục được
vinh danh là cây di sản. Hàng cây ruối ở xã Đường Lâm của thị xã Sơn
Tây, tương truyền, hồi đầu thế kỷ thứ X, Ngô Quyền trong khi chuẩn bị
lực lượng trung hưng dân tộc từng dùng để buộc voi.
56 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Động vật:
Hệ động vật của thành phố Hà Nội khá phong phú với 891 loài thuộc
154 họ của 45 bộ. Trong đó nhóm động vật có xương sống có 382 loài, 112 họ
và 36 bộ với các loài quý hiếm như: Tê tê vàng, Sóc bay trâu, Rái cá vuốt
bé, Cò hương, Vẹt ngực đỏ, Dù dì, Yểng, Tắc kè, Cá mòi cờ hoa…. Nhóm
động vật không xương sống có 320 loài thuộc 42 họ của 9 bộ. Ngoài ra còn
có 76 loài thuộc nhóm thực vật nổi, 59 loài thuộc nhóm động vật nổi và 54
loài thuộc nhóm động vật đáy.
Nguồn gen giá trị:
Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội
năm 2013, có rất nhiều nguồn gen (131 loài cây và 1.357 giống cây), đặc
biệt là gen cây trồng đặc sản cần bảo tồn và phát triển ở đây. Trong đó,
nhóm cây lương thực có 8 loại cây và 378 giống cây (lúa có 143 giống và
ngô có 122 giống). Nhóm cây công nghiệp có 7 loại cây và 208 giống cây
(trong đó đậu tương có 63 giống và lạc có 75 giống). Nhóm cây rau có 36
loại cây và 472 giống cây (trong đó bí đỏ có 81 giống, bầu có 52 giống),
đặc biệt có các nguồn gen cây trồng đặc sản là rau sắng chùa Hương,
khoai tây Thường Tín, cải mào gà Hoài Đức. Nhóm cây hoa, cây cảnh
có 41 loại cây và 81 giống cây (trong đó hoa cúc có 15 giống). Nhóm cây
dược liệu có 17 loại cây và 27 giống cây. Nhóm cây ăn quả có 22 loại cây
và 191 giống cây (trong đó bưởi có 72 giống, cam có 26 giống).
Thành phố Hà Nội có 23 nguồn gen cây trồng đặc sản. Trong đó
cây ăn quả có 14 nguồn gen như là bưởi đỏ Mê Linh, phật thủ Đắc Sở,
Hoài Đức, nhãn chín muộn Hà Tây, mơ Hương Tích, mít, na Sơn Đà,
Ba Vì… Cây rau có 7 nguồn gen đặc sản như: húng láng, rau sắng chùa
Hương, cải bẹ dưa Đông Dư, cải mơ Hà Nội. Hoa cây cảnh có 2 nguồn
gen đặc sản là đào Nhật Tân và sen Tây Hồ.

2.3. Vị thế địa lí của Hà Nội


Vị trí địa lí tạo nên một dạng tài nguyên đặc biệt cho Thủ đô Hà Nội
đó là vị thế. Vị thế của Hà Nội có thể nhìn nhận ở rất nhiều mặt khác nhau
như: vị thế địa chính trị, vị thế tự nhiên, vị thế kết nối giao thông, vị thế
phát triển kinh tế dịch vụ và vị thế về không gian đô thị.
Chương 2. Vị thế địa lí và tài nguyên thiên nhiên Hà Nội 57

2.3.1. Vị thế địa chính trị của Hà Nội


Từ khi vua Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La và đổi
tên là thành Thăng Long, Thăng Long trở thành kinh đô của nhà nước
Đại Việt gần 800 năm. Thăng Long ở vào nơi trung tâm trời đất (Chiếu
dời đô) - vị thế trung tâm về địa chính trị của quốc gia Đại Việt. Trước đó
thì Hà Nội cũng là kinh đô của nước ta thời Âu Lạc (thành Cổ Loa) hay
trong thời Bắc thuộc thì Hà Nội cũng là một trung tâm hành chính, kinh
tế của cả khu vực. Có thể nói trong toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam, Hà
Nội luôn có một vị trí chính trị đặc biệt quan trọng ngay cả trong những
thời kỳ không là kinh đô thì Hà Nội vẫn là trung tâm kinh thế chính trị
của khu vực đồng bằng sông Hồng - khu vực có tầm quan trọng và ảnh
hưởng bậc nhất của cả nước.
Ngày nay, Việt Nam có nền kinh tế phát triển hơn trước nhiều, chính
sách mở cửa, hội nhập ngày càng toàn diện vào đời sống kinh tế, chính
trị, văn hoá trên thế giới và khu vực. Làm cho vị thế địa chính trị của Hà
Nội với tư cách là Thủ đô - trung tâm chính trị của Việt Nam được nâng
cao hơn bao giờ hết. Đây thực sự là nguồn lực phát triển của Thủ đô,
đồng thời cũng tạo điều kiện để Hà Nội phát huy ảnh hưởng đối với đời
sống mọi mặt của đất nước.

2.3.2. Vị thế tự nhiên


Vai trò của sông Hồng đối với Hà Nội đã thay đổi mạnh mẽ trong
mấy thập kỉ qua. Trước đây, Hà Nội được coi là thành phố nằm ở hữu
ngạn của sông Hồng. Vốn là một sông có lũ lên nhanh, một năm có vài
trận lũ, đỉnh lũ có thể trên 14 m. Từ ngày có các công trình thuỷ điện lớn
như: Hoà Bình, Sơn La, Tuyên Quang… thì không còn lũ cao nữa. Đê đã
trở thành đường. Các quy hoạch bớt nỗi lo về lũ, về các công trình làm
hẹp dòng chảy sông, đã đề xuất quy hoạch các dự án xây dựng thành phố
Hà Nội trở thành thành phố 2 bên sông Hồng với các hướng quy hoạch
mở rộng về phía tả ngạn. Sông Hồng trong nhiều thế kỉ là trở ngại cho sự
phát triển đô thị sang bên tả ngạn, do không có cầu. Trước đây, chỉ có cầu
Long Biên (được xây đầu thế kỉ XX) với khả năng giao thông hạn chế. Từ
ngày có thêm cầu Chương Dương (1985), đô thị hoá ở khu vực thị trấn
Gia Lâm (cũ) đã tăng lên. Quận Long Biên được thành lập năm 2003 là
58 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

quận đầu tiên bên phía Đông sông Hồng. Sau khi các cầu Thăng Long,
Thanh Trì, Vĩnh Tuy được đưa vào khai thác, đô thị hoá ở khu vực các
huyện Gia Lâm, Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn trở nên “nóng” dần. Cầu
Nhật Tân được khánh thành tháng 1-2015 đã nối bờ Nam với bờ Bắc sông
Hồng, hai bờ là phường Phú Thượng (quận Tây Hồ) và xã Vĩnh Ngọc
(huyện Đông Anh). Chính phủ đã xây dựng một số cơ chế, chính sách đặc
thù đầu tư xây dựng đô thị hai bên đường Nhật Tân - Nội Bài.

Hình 2.11: Thành phố Hà Nội nhìn từ vũ trụ


Nguồn: Atlat Thăng Long - Hà Nội, 2010
Chương 2. Vị thế địa lí và tài nguyên thiên nhiên Hà Nội 59

Như vậy, sông Hồng đang ngày càng thể hiện là một tài nguyên
quý giá trong quy hoạch và phát triển đô thị Hà Nội. Hà Nội sẽ phát
triển là thành phố có sông Hồng chảy qua nội thành, là thành phố hai
bên sông.
Núi Tản (Ba Vì) là một biểu tượng của xứ Đoài xưa cũng là một ngọn
núi thiêng trong văn hoá Việt Nam gắn với hình tượng Tản Viên. Từ ngày
Hà Nội mở rộng, nhiều ý tưởng quy hoạch phát triển đô thị đã tính đến
vị trí đặc biệt của núi Ba Vì, chẳng hạn như phát triển “trục Thăng Long”,
xây dựng trung tâm hành chính. Vị trí đặc biệt của Ba Vì đã định hướng
cho nhiều dự án phát triển đô thị dọc các trục đường 32, đại lộ Thăng
Long nối trung tâm với vùng ngoại vi ở phía tây, phía chân núi Ba Vì.
Ba Vì, với vị trí không quá xa nội thành, lại tiện giao thông, có khí hậu
mát mẻ ở các núi thấp và trung bình, đang là địa điểm lí tưởng để phát
triển du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng cuối tuần.

2.3.3. Vị thế trung tâm giao thông


Trong những năm qua, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải ở nước ta đã
được hiện đại hoá nhanh. Đối với Thủ đô Hà Nội, cần đặc biệt phân tích
ảnh hưởng của các tuyến đường: đường 18 nối Hà Nội với Quảng Ninh;
đường 5 và cao tốc 5B nối Hà Nội với Hải Phòng. Sự phát triển của các
cảng nước sâu ở Hải Phòng, Quảng Ninh sẽ làm tăng thêm vị trí chiến
lược của Hà Nội trong phát triển kinh tế, khi mà các luồng vận chuyển
hàng hoá giao thương với thế giới chủ yếu thông qua các cảng biển. Các
cảng biển này thực sự là những cửa ngõ của Hà Nội. Việc rút ngắn thời
gian đi từ Hà Nội tới Di sản thế giới Vịnh Hạ Long làm tăng thêm vai
trò của Hà Nội là một trung tâm cung cấp khách du lịch quốc tế, và làm
phong phú thêm sản phẩm du lịch của Hà Nội.
60 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Hình 2.12: Quy hoạch giao thông đường bộ thành phố Hà Nội
Nguồn: Quy hoạch thành phố Hà Nội

Việc hoàn thành đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai từ tháng 9/2014 và
nối thông tuyến này với cửa khẩu Kim Thành (Lào Cai) từ tháng 5/2015
để kết nối với đường cao tốc Hà Khẩu - Côn Minh phía bên Trung Quốc
đang làm tăng vị thế địa kinh tế của Hà Nội với vùng Tây Nam Trung
Quốc. Đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng dài 105 km, nối Thủ đô với
cảng Đình Vũ (Hải Phòng), tốc độ thiết kế lên tới 120 km/h, đã được đưa
vào khai thác, cho phép rút ngắn thời gian cho các phương tiện ô tô, trong
đó có các loại xe siêu trường, siêu trọng, hành lang kinh tế Vân Nam - Hà
Nội - Hải Phòng trở thành hiện thực, Hà Nội có thể mở rộng tốt hơn vùng
nguyên liệu và vùng tiêu thụ sản phẩm, nhất là cho các nguyên liệu và
sản phẩm cần thiết để xuất khẩu. Đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai cùng
với sân bay quốc tế Nội Bài đang được hiện đại hoá (khai thác nhà ga T2)
sẽ tạo động lực cho phát triển thị trấn Sóc Sơn như là một đô thị vệ tinh.
Chương 2. Vị thế địa lí và tài nguyên thiên nhiên Hà Nội 61

Một số tuyến cao tốc khác như Hà Nội - Thái Nguyên, Hà Nội - Lạng Sơn,
Pháp Vân - Cầu Giẽ - Ninh Bình, đại lộ Thăng Long đều tăng thêm khả
năng liên kết vùng của Hà Nội với các tỉnh, thành phố lân cận, tạo cơ sở
vật chất quan trọng cho sự phát triển vùng đô thị Hà Nội.

2.3.4. Vị thế đô thị trung tâm về kinh tế và chuyển biến cơ cấu kinh tế
Các đô thị giai đoạn đầu thường gắn chặt với sự phát triển công
nghiệp, với công nghiệp hoá, nhưng đối với các đô thị có vị thế cao trong
hệ thống đô thị của một nước, một vùng, đặc biệt là với các đô thị toàn
cầu, thì việc phát triển thành các trung tâm dịch vụ chất lượng cao là điều
then chốt. Hà Nội là trung tâm dịch vụ chất lượng cao, đa dạng sẽ tạo ra
sức hút lớn đối với dân cư, tạo ra nhiều việc làm. Sự phát triển các loại
dịch vụ, trong đó có sự cải thiện điều kiện giao thông đối ngoại sẽ làm
tăng mạnh phạm vi ảnh hưởng của Thành phố. Trước đây (khoảng thập
niên 1980) các loại hình giao thông vận tải công cộng của đô thị chưa phát
triển, đặc biệt là xe buýt, nên vùng ảnh hưởng đáng kể của Hà Nội có bán
kính không quá 20 km. Nay nhờ giao thông tốt, vùng ảnh hưởng rõ rệt
của Hà Nội có thể vượt qua bán kính 100 km.
Sự phát triển các hoạt động dịch vụ có vai trò quan trọng trong phát
triển các đô thị vệ tinh của đô thị trung tâm, và tạo ra tính phân vị rõ
trong hệ thống đô thị của vùng, với sự phát triển các đô thị tổng hợp, đô
thị chuyên ngành.
Nếu phải lựa chọn giữa phát triển công nghiệp và dịch vụ để duy trì
và phát huy vị thế cao của Thủ đô, thì dịch vụ mới là lựa chọn đúng đắn.
Việc phát triển công nghiệp cần phải hướng tới các công nghiệp công nghệ
cao, sản phẩm chế biến sâu, an toàn và thân thiện môi trường. Điều này đòi
hỏi không chỉ những ưu thế về cơ sở vật chất kĩ thuật, lực lượng lao động,
mà cả khả năng hợp tác, liên kết rất cao giữa Hà Nội và các cơ sở, các địa
phương trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm này. Điều này cũng
chỉ có được trên cơ sở phát triển dịch vụ. Hà Nội không có nhiều lợi thế về
tài nguyên cho công nghiệp nhất là công nghiệp nặng, và sự phát triển công
nghiệp hiện nay của Thành phố đang gây ra nhiều vấn đề về môi trường.
Sự phát triển giao thông đô thị, phát triển không gian đô thị và sự
thay đổi tài nguyên vị thế nội bộ Thành phố.
62 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Thành phố Hà Nội phát triển từ một thành phố đơn tâm. Trước đây,
các hoạt động dịch vụ chủ yếu tập trung ở lõi đô thị, đặc biệt là ở khu vực
quận Hoàn Kiếm, một phần các quận Hai Bà Trưng, Ba Đình và Đống
Đa. Sự phát triển giao thông đô thị là một phần quan trọng trong phát
triển cơ sở hạ tầng đô thị, nhưng cũng là nhân tố có ảnh hưởng rõ nhất
làm thay đổi cấu trúc không gian đô thị. Sự đô thị hoá nhanh chóng của
của các khu vực như Từ Liêm, Long Biên, Cầu Giấy thể hiện sự mở rộng
của đô thị lõi và hình thành nhiều khu trung tâm đô thị với các đặc điểm
khác nhau. Hà Nội năm 2013 đã có quy mô dân số khoảng 7,1 triệu người,
trong đó dân số thành thị hơn 3 triệu người. Hà Nội, lại là một đầu mối
giao thông vận tải lớn. Vì thế, một trong những ưu tiên trong phát triển
giao thông ở Hà Nội thời gian qua là mở rộng một số tuyến giao thông
huyết mạch nối nội thành với ngoại thành, đồng thời quy hoạch và xây
dựng hoàn chỉnh các tuyến đường vành đai (vành đai 1, vành đai 2, vành
đai 3; sau này là đường vành đai 3,5 và vành đai 4).
Sự phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đô thị đã làm thay đổi căn bản
địa tô chênh lệch 1 của các loại đất ở đô thị, vốn gắn với đặc điểm của vị
trí địa lí của thửa đất. Nếu như trước đây, giá đất giảm rất nhanh khi đi
từ trung tâm về phía ngoại thành, thì nay, giá đất đang tăng lên nhanh ở
các vùng ven. Các khu đô thị mới phát triển bám theo các trục giao thông
thuận lợi, đặc biệt là các đường vành đai. Cấu trúc không gian đô thị đang
và tiếp tục có nhiều thay đổi đặc biệt là ở các quận Cầu Giấy, Nam Từ Liêm
và hứa hẹn sắp tới là các huyện ở tả ngạn sông Hồng.

Câu hỏi thảo luận


1. Cơ hội và thách thức của Hà Nội sau lần mở rộng địa giới hành
chính thành phố năm 2008?
2. Dạng tài nguyên nào là quan trọng của Hà Nội? Vì sao?
Chương 3
DÂN CƯ VÀ CON NGƯỜI HÀ NỘI

3.1. Quá trình tụ cư và sự hình thành cộng đồng cư dân Hà Nội


Trước khi vùng đất Hà Nội được chọn làm trung tâm chính trị qua
các thời kì lịch sử thì Hà Nội với điều kiện thiên nhiên ưu đãi, nằm ở
vùng châu thổ sông Hồng, đất đai phù sa màu mỡ, cư dân thời tiền sử
từ miền núi, trung du đã hội tụ về đây, sinh sống trên những doi đất
cao ven các dòng sông bao quanh Hà Nội, hình thành nên các làng cổ.
Các dấu tích trên vùng đất Hà Nội cho thấy, con người đã xuất hiện trên
vùng đất này từ hậu kì đá cũ. Như một lẽ tự nhiên, ban đầu do điều kiện
tự nhiên thuận lợi, dân từ các nơi đã tụ cư về đây làm nghề nông nghiệp
trồng lúa nước, đánh bắt cá và giao lưu buôn bán chủ yếu bằng đường
sông. Trải qua quá trình lịch sử, vùng đất này còn là trung tâm chính trị
của chính quyền qua các thời kì, vì vậy đây cũng là yếu tố quan trọng
tác động đến quá trình tụ cư và hình thành cộng đồng cư dân trên vùng
đất cổ Hà Nội. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, cộng đồng cư
dân nơi đây đã tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần đặt nền tảng cho
nền văn minh của người Việt cổ. Với trống đồng Cổ Loa (tương đương
với trống đồng Ngọc Lũ); lưỡi cày đồng với đủ loại, đặc biệt là hàng vạn
mũi tên đồng,... tất cả những dấu tích còn lại cho thấy cư dân sống trên
địa bàn Hà Nội là cư dân Việt cổ, mang nhiều yếu tố tiêu biểu của cư
dân Việt cổ vùng đồng bằng Bắc Bộ, sống bằng nghề trồng lúa nước, đi
lại chủ yếu bằng thuyền. Chính cư dân vùng đất này đã bước đầu định
hình cốt cách con người Việt, thể hiện qua lối sống, sinh hoạt, phong tục,
tập quán, tín ngưỡng,…
Khi nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương rơi vào tay nhà Triệu
(năm 179 TCN), vùng đất Hà Nội xưa cũng là một trong những nơi đầu
64 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

tiên chịu sự đô hộ của phong kiến phương Bắc, nơi đây cũng bắt đầu có
sự xáo trộn về dân cư. Dân cư chủ yếu vẫn là những người vốn sinh sống
lâu đời ở vùng đất này. Bên cạnh đó thì cư dân các địa phương trong cả
nước dịch chuyển đến làm ăn sinh sống và có cả những người phương
Bắc sang sinh sống, đẩy mạnh chính sách cai trị và đồng hoá người Việt.
Cùng với cuộc đấu tranh giành độc lập thì cuộc đấu tranh chống đồng
hoá cũng diễn ra không kém phần khốc liệt trên vùng đất Hà Nội xưa.
Trải qua ngàn năm Bắc thuộc, nhiều yếu tố Hán liên tục được đưa vào
đã bị Việt hoá, con người trên vùng đất này vẫn giữ được những nét đặc
trưng của cư dân Việt cổ - những con người tạo dựng nên nền văn minh
sông Hồng. Đây cũng chính là nền tảng căn bản để khi bước vào thời kì
độc lập, những giá trị của văn minh sông Hồng được cư dân Thăng Long
- Hà Nội phát huy cao độ để tạo dựng nên nền văn hiến Thăng Long - văn
minh Đại Việt.
Từ năm 1010, Lý Công Uẩn chọn vùng đất này làm kinh đô với mong
muốn sẽ là kinh sư muôn đời thì yếu tố hội tụ và kết tinh được thể hiện rõ
trong cộng đồng cư dân Thăng Long - Hà Nội. Nền văn hoá Thăng Long
với sự đa dạng, phong phú đã có sự kết tinh từ sức lao động, sự tài hoa,
sáng tạo không chỉ của cư dân gốc Thăng Long - Hà Nội mà còn của các
cư dân nơi khác do những hoàn cảnh khác nhau hội tụ về mảnh đất Kinh
Kì này.
Đến thời nhà Nguyễn với cải cách hành chính của Minh Mệnh năm
1831, Thăng Long đổi tên là Hà Nội với vị thế chỉ là một tỉnh. Tuy nhiên,
trên thực tế Hà Nội vẫn là một trung tâm kinh tế, văn hoá, giáo dục hàng
đầu đất nước. Những giá trị của văn hoá Thăng Long - Hà Nội đã ăn
sâu vào tiềm thức của cư dân nơi đây khiến những nét đặc trưng trong
tính cách người Thăng Long - Hà Nội luôn là niềm tự hào không chỉ của
người Hà Nội mà còn của nhân dân cả nước.
Sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, cho đến năm 1888, Hà Nội
đã chính thức trở thành nhượng địa của thực dân Pháp. Vì là nhượng địa
nên người Pháp đã có cơ sở để quy hoạch Hà Nội theo mục đích của họ.
Người Pháp đã xây dựng những khu phố Tây với kiến trúc rất đặc trưng
của Pháp bên cạnh những khu phố cổ của cư dân Hà Nội xưa. Trong thời
Chương 3. Dân cư và con người Hà Nội 65

gian Pháp cai trị, Hà Nội trở thành thủ phủ của Liên bang Đông Dương1
(gồm 5 xứ: Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì, Ai Lao và Cao Miên) vì thế nơi
đây vẫn tiếp tục có sức thu hút mạnh mẽ dân các vùng đến làm ăn sinh
sống. Mật độ dân cư của Hà Nội đông nhất so với cả nước qua các thời
kì lịch sử. Năm 1945, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Hà Nội
trở thành thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, cộng đồng cư
dân Hà Nội tiếp tục tăng lên. Với vị thế mới, nhân dân Hà Nội tiếp tục
góp phần vào công cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập của dân tộc và xây
dựng đất nước xã hội chủ nghĩa.
Về dân cư Hà Nội bao gồm: Cư dân gốc bản địa - những người đến
sinh cơ lập nghiệp trên vùng đất này từ thời tiền sử, trải qua thời gian
vẫn gắn bó với mảnh đất này; Cư dân từ nơi khác đến Hà Nội, bộ phận
này rất phức tạp và luôn có sự thay đổi về thành phần, số lượng qua các
thời kì lịch sử, gắn với những biến động chính trị và sự thay đổi về địa
giới hành chính.
Xét về bản chất, ban đầu cư dân cổ Hà Nội vốn là cư dân làm nghề
nông nghiệp ven sông, ngoài ra còn các nghề thủ công truyền thống như
đúc đồng, làm gốm. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, vùng đất này là
nơi giao thương buôn bán dễ dàng, vì vậy đa số cư dân gốc ở đây cùng
với thợ thủ công các vùng lân cận đến Hà Nội, dần dần họ chuyển sang
làm nghề thủ công truyền thống gắn với buôn bán. Từ đó hình thành nên
những phố phường gắn với nghề thủ công truyền thống. Thời Lý đã xuất
hiện 61 phường và đến thời Lê, năm 1466, Thăng Long được quy gọn
thành 36 phường vừa gắn với địa giới hành chính vừa gắn với đặc trưng
ngành nghề thủ công nghiệp. Cư dân sinh sống quần tụ theo phường
nghề, vừa làm nghề thủ công vừa buôn bán. Bộ phận cư dân này có thể
coi là cư dân gốc của Thăng Long - Hà Nội. Ngày nay bộ phận cư dân
gốc Hà Nội sống chủ yếu trong các quận nội thành, mà cái lõi là các quận
Hoàn Kiếm, Ba Đình, một phần quận Tây Hồ, Hai Bà Trưng và Đống Đa.
Cư dân Thăng Long - Hà Nội thời phong kiến gồm hoàng gia, quan
lại, binh lính, sư sãi và các tầng lớp bách tính thứ dân như thợ thủ công,

1
Liên bang Đông Dương gồm 5 xứ: Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì, Ai Lao (Lào) và Cao Miên
(Campuchia). Phủ Toàn quyền Đông Dương đặt tại Hà Nội.
66 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

thương nhân và nông dân. Ngoài ra còn một số ít người gốc gác ở Phủ
đô hộ từ trước. Một bộ phận người Hoa đến Thăng Long khá sớm, làm
ăn buôn bán và hình thành cả một khu phố - phố Phúc Kiến (nay là phố
Lãn Ông), chủ yếu làm nghề bốc thuốc Bắc. Phố Phúc Kiến là một trong
36 phố phường cổ của Hà Nội xưa. Trải qua thời gian, nhóm người Hoa
đến Hà Nội làm ăn sinh sống đã Việt hoá, Hà Nội hoá trở thành một bộ
phận nhỏ của cư dân Hà Nội. Với những yếu tố và hoàn cảnh khác nhau,
cư dân khắp các địa phương tụ hội về Thăng Long - Hà Nội: để học tập,
làm các công việc của chính quyền (sĩ tử, quan lại), để làm ăn sinh sống
(thợ thủ công, người buôn bán,...) và có cả một số “tù binh” sau các cuộc
đụng độ giữa các tập đoàn phong kiến cũng tập trung về Thăng Long - Hà
Nội, trong số đó có cả những cá nhân ưu tú, trí thức, nghệ nhân, nghệ sĩ
cũng được đưa về quốc đô. Trong lịch sử có ghi lại sau những lần dẹp loạn
Chiêm Thành, từ thời Lý - thế kỉ XI, có nhiều “tù binh” đã bị bắt về Thăng
Long. Dấu ấn mà cư dân Chămpa góp phần vào phát triển kinh đô Thăng
Long là những viên gạch Chăm góp phần xây dựng các công trình kiến
trúc của Thăng Long. Trong số đó nổi bật là công trình tháp Báo Thiên,
giếng nước có miệng bằng đá, có phong cách kĩ thuật Chăm và đặc biệt là
các hiện vật khai quật được tại Hoàng thành Thăng Long.
Các cuộc xung đột giữa các triều đại phong kiến như thời kì Nam -
Bắc triều, thời kì Trịnh - Nguyễn phân tranh cũng đã kéo theo sự thay đổi
ít nhiều về cư dân và cộng đồng dân cư Thăng Long - Hà Nội. Sự thay
đổi chủ yếu từ nhóm dân cư không phải gốc Hà Nội. Thời kì Lê Trung
Hưng, binh lính Thanh - Nghệ An có mặt khá đông ở kinh thành Thăng
Long, gây ra nạn kiêu binh, dân vùng Thanh - Nghệ An (chủ yếu là gia
đình binh lính) cũng kéo ra Thăng Long sinh cơ, lập nghiệp tăng theo
thời gian. Từ thế kỉ XVII, tại đất Thăng Long cũng thấy sự có mặt của các
thương nhân phương Tây đến buôn bán như người Hà Lan, người Bồ
Đào Nha... Thăng Long trở thành nơi buôn bán nhộn nhịp của một cộng
đồng dân cư khá đa dạng. Làm nên sự phồn thịnh “Thứ nhất Kinh Kì”
chính là cộng đồng cư dân Thăng Long bao gồm cả cư dân gốc bản địa và
cư dân nơi khác đến Thăng Long - Hà Nội.
Như vậy vùng đất Thăng Long - Hà Nội từ rất sớm đã xuất hiện sự
sinh sống của người Việt cổ. Do vị thế địa chính trị thuận lợi nên cũng từ
Chương 3. Dân cư và con người Hà Nội 67

rất sớm nơi đây đã diễn ra quá trình tụ cư và hình thành nên cộng đồng
dân cư Hà Nội với hai thành phần chính là cư dân gốc Hà Nội và cư dân
từ nơi khác do những hoàn cảnh khác nhau tụ về Hà Nội. Mảnh đất Hà
Nội đã sàng lọc một cách tự nhiên để hình thành nên những cốt cách rất
đặc trưng của người Hà Nội.

3.2. Người Hà Nội

3.2.1. Quan niệm thế nào là “người Hà Nội”?


Xét về các góc độ khác nhau sẽ có những quan niệm khác nhau về
người Hà Nội. Trong công trình Hình ảnh người Hà Nội trong văn học, nghệ
thuật cận và hiện đại1, các tác giả cho rằng “người Hà Nội” không chỉ gồm
những người sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, mà còn có những người từ nơi
khác đến nhập cư ở Hà Nội. Tuy nhiên, không phải ai nhập cư đến Hà Nội
đều là “người Hà Nội”. Được coi là “người Hà Nội” khi người nhập cư
đến Hà Nội có một thời gian đủ dài để có thể “hoà nhập lối sống và cách
cảm, cách nghĩ của cư dân gốc Hà Nội”. Theo các tác giả, thời gian đó có
thể là một đời, nhưng cũng có thể phải trải qua 3 đời sống ở Hà Nội mới
trở thành “người Hà Nội”. Một quan niệm khác cũng khiến ta phải suy
ngẫm, đó là nói đến “người Hà Nội” không nên xét ở tất cả các yếu tố: nơi
sinh, hộ khẩu thường trú hay thời gian sống ở Hà Nội bao lâu mà nên xét
đến trong thời gian sinh sống trên mảnh đất Hà Nội đã đóng góp gì cho
sự phát triển của Thủ đô. Trên thực tế, có những người nhập cư vào Hà
Nội chưa quá một đời nhưng do tài năng và sự thích ứng với vùng đất mới
nhanh nên đã làm nên sự nghiệp lớn. Sự nghiệp của họ gắn với Hà Nội,
có ý nghĩa đối với xã hội và con người Hà Nội vì thế họ được coi là “người
Hà Nội”. Một số người sinh ra ở Hà Nội, sống ở Hà Nội một thời gian rồi
đến các vùng miền khác nhưng vẫn giữ được những cốt cách của người Hà
Nội, vẫn phát huy được những phẩm chất, nhân cách của “người Hà Nội”
ở nơi định cư mới thì vẫn nên coi họ là “người Hà Nội”2. Vì thế quan niệm

1
Vũ Khiêu, Bằng Việt, Nguyễn Vinh Phúc (Cb), 2005, Hình ảnh người Hà Nội trong văn học,
nghệ thuật cận và hiện đại, Nxb Văn học, tr.11.
2
Phạm Tất Dong (Cb), 2010, Những phẩm chất nhân cách đặc trưng của người Thăng Long - Hà Nội,
Nxb Hà Nội, tr. 13.
68 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

thế nào là “người Hà Nội” còn có những cách nhìn khác nhau, nhưng theo
chúng tôi quan niệm “người Hà Nội” đúng nghĩa phải là những người có
một khoảng thời gian nhất định gắn bó với Hà Nội, hiểu và học được nếp
sống của người Hà Nội và đặc biệt là phải có những đóng góp nhất định về
một lĩnh vực nào đó, góp phần vào sự phát triển chung của Thủ đô Hà Nội.

3.2.2. Những đặc trưng nhân cách của người Hà Nội


Qua các công trình nghiên cứu và thực tế cuộc sống cho thấy, nét
tiêu biểu về nhân cách của người Việt Nam được tập trung ở con người
Thủ đô. Điều này không phải là do người Hà Nội có những ưu điểm
bẩm sinh, nổi trội mà do hoàn cảnh đặc biệt của Thủ đô đã đem lại
cho cư dân sống trên vùng đất này phát huy những giá trị chung của
dân tộc, những phẩm chất chung của nhân dân cả nước. Nhân cách của
người Hà Nội suy cho cùng là những nét tính cách tiêu biểu của con
người Việt Nam sống tại Thủ đô. Qua thời gian nó có sự vận động cho
phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới. Tuy nhiên, về bản chất nó không
thay đổi. Nhân cách người Hà Nội gồm có những đặc trưng cơ bản sau:
* Thứ nhất, tinh thần yêu nước, khí phách anh hùng, quả cảm
Thăng Long - Hà Nội hình thành và phát triển gắn với cuộc đấu
tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nơi đây là cơ quan đầu não
qua các triều đại, các thể chế chính trị, là con tim khối óc của cả dân
tộc. Khi có chiến tranh thì Kinh kì là nơi nguy hiểm nhất, nơi mũi nhọn
của kẻ thù hướng tới để nhanh chóng hoàn thành quá trình xâm lược
và thống trị toàn bộ đất nước. Vì vậy, mỗi khi đất nước có chiến tranh,
Thăng Long - Hà Nội là nơi tập trung các anh hùng, hào kiệt. Có người
sinh ra và lớn lên ở đây nhưng cũng có người ở các vùng miền khác, khi
nghe tin kẻ thù đến đe doạ kinh đô thì họ đã dũng cảm sẵn sàng mang
tài đức để bảo vệ kinh thành, bảo vệ đất nước. Sống trong môi trường
mà sức mạnh quật khởi của dân tộc được phát huy cao độ tại vùng đất
Kinh kì nên con người Thăng Long - Hà Nội sớm mang trong mình tinh
thần yêu nước, khí phách anh hùng, quả cảm. Sự thật lịch sử đã minh
chứng rằng, mỗi khi Thăng Long - Hà Nội bị đe doạ thì sức mạnh quật
khởi của con người trên vùng đất này được phát huy cao độ. Những
chiến thắng của nhân dân Thăng Long - Hà Nội qua các thời kì lịch sử
đã chứng minh điều đó.
Chương 3. Dân cư và con người Hà Nội 69

Từ thời Lý, dưới sự lãnh đạo và ảnh hưởng của Lý Thường Kiệt, nhân
dân Thăng Long đã anh dũng chống giặc, chặn đánh địch trên phòng
tuyến sông Như Nguyệt, phía Bắc kinh thành, các hoàng tử con vua Lý
như hoàng tử Hoằng Chân đã cùng nhân dân Thăng Long chặn đánh
giặc, không cho giặc tiến vào kinh thành. Thế kỉ XIII, kinh thành Thăng
Long đã chứng kiến những thời khắc lịch sử khi quân Mông Nguyên
sang xâm lược, tàn phá kinh thành. Người dân Thăng Long đã cùng vua
tôi nhà Trần phải dùng kế “thanh dã” (vườn không nhà trống), để rồi
có những thắng lợi ở Chương Dương, Tây Kết, Hàm Tử Quan, Đông Bộ
Đầu... Tinh thần quả cảm, anh dũng của nhân dân Thăng Long cùng nhân
dân cả nước đã làm nên hào khí Đông A, Thăng Long ca khúc khải hoàn.
Chiến thắng quân Minh ở thế kỉ XV; chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa
đánh tan 29 vạn quân Thanh ở thế kỉ XVIII. Cuối thế kỉ XIX, khi thực dân
Pháp đem quân xâm lược Bắc Kì, nhân dân Hà Nội đã chặn đánh với hai
lần chiến thắng Cầu Giấy (năm 1873 và năm 1883). Đặc biệt những thắng
lợi quyết định ở thế kỉ XX như Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
thành công ở Hà Nội có ý nghĩa quyết định đối với cả nước; nhân dân
Hà Nội tiêu biểu cho tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trong
những ngày cuối năm 1946 đầu năm 1947; Hà Nội cùng cả nước kháng
chiến chống Pháp, giải phóng Thủ đô 10-10-1954; chiến thắng quyết định
của nhân dân Hà Nội tại trận “Điện Biên phủ trên không” trong 12 ngày
đếm cuối năm 1972, bắn rơi nhiều máy bay B52 của Mĩ trên bầu trời Hà
Nội, buộc đế quốc Mĩ phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc, kí Hiệp
định Pari năm 1973, chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam và rút
quân về nước.
Hà Nội tiêu biểu cho tinh thần quả cảm, sức mạnh quật khởi của dân
tộc qua các thời kì lịch sử, vì vậy năm 2000, nhân dịp kỉ niệm 990 năm
Thăng Long - Hà Nội, Đảng và Nhà nước đã trao tặng Hà Nội danh hiệu
cao quý: “Thủ đô Anh hùng”...
* Thứ hai, tinh thần hiếu học, coi trọng tài năng và trí tuệ
Tính cách này được coi là nổi bật của người Hà Nội. Sự thuận lợi
của điều kiện giáo dục đã khiến cho họ có trình độ học vấn cao, phát
huy tinh thần hiếu học của dân tộc. Trường đại học đầu tiên của nước
70 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

ta là Văn Miếu - Quốc Tử Giám đặt tại Hà Nội, đây cũng là một trong
những trường đại học ra đời vào loại sớm nhất thế giới. Quốc Tử Giám
gắn liền với tên tuổi của 2898 vị khoa bảng Việt Nam thời phong kiến,
nhiều người có những đóng góp to lớn vào sự phát triển của nền văn
hiến Thăng Long - Hà Nội. Những dòng chữ khắc trên tấm bia tiến sỹ
năm 1442, rằng “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì
thế nước mạnh và hưng thịnh, nguyên khí suy yếu thì thế nước yếu và
thấp hèn” đã khẳng định tư tưởng coi trọng hiền tài đã trở thành một chủ
trương xuyên suốt của các triều đại, các thể chế chính trị trên đất Thăng
Long - Hà Nội. Do chính sách coi trọng hiền tài nên trong suốt chiều dài
lịch sử 1000 năm, hầu như các nhân tài kiệt xuất nhất của đất nước đều
hội tụ về đất Thăng Long - Hà Nội, từ các nhà chính trị, quân sự tài ba,
đến các nhà văn hoá, khoa học lỗi lạc.
Khi Pháp đô hộ, chọn Hà Nội làm thủ phủ của Liên bang Đông Dương,
nhiều trường đại học ở xứ Đông Dương đã ra đời đầu tiên ở Hà Nội như
Trường Y Dược Đông Dương (1913), Trường Cao đẳng Sư phạm, Cao đẳng
Pháp chính Đông Dương (1917), Cao đẳng Nông Lâm (1918), Cao đẳng
Thương mại và Cao đẳng Công chính (1920). Đầu thế kỉ XX, Hà Nội cũng
là nơi đầu tiên có trường tư thục dạy chữ Quốc ngữ, truyền bá tinh thần
yêu nước và tự cường dân tộc - Trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Người
dân Hà Nội đi đầu trong phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ với sự ra đời
của Hội truyền bá chữ Quốc ngữ của Nguyễn Văn Tố. Chương trình giáo
dục của Hoàng Xuân Hãn với 80 giờ có thể đọc và viết được chữ Quốc ngữ
cũng xuất phát đầu tiên ở Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, Nha Bình
dân học vụ được thành lập tại Hà Nội đã truyền đi một nội dung giáo dục
theo tinh thần dân tộc, dân chủ... Trong bất kì giai đoạn lịch sử nào, Hà Nội
cũng là một trung tâm giáo dục lớn nhất của cả nước, nơi có nhiều nhất các
cơ sở giáo dục và đào tạo. Sống trong môi trường đó, tinh thần ham học
của người Hà Nội càng được phát huy. Hà Nội cũng là một trong những
địa phương đi đầu cả nước hoàn thành việc xoá mù chữ, phổ cập giáo dục
tiểu học và trung học cơ sở vào cuối thế kỉ XX.
Hiện nay hệ thống nghiên cứu khoa học ở Hà Nội phát triển mạnh,
không địa phương nào sánh được. Hà Nội là trung tâm khoa học và công
nghệ lớn của cả nước. Từ các viện nghiên cứu, các trường đại học đã thu
Chương 3. Dân cư và con người Hà Nội 71

hút nhân tài về Hà Nội và đây cũng là môi trường thuận lợi để các nhà
khoa học phát huy tính sáng tạo của mình đóng góp cho sự phát triển của
Thủ đô và đất nước trong thời kì hội nhập.
* Thứ ba, chất tài hoa, tài tử
Người Hà Nội sống trong môi trường đô thị, có nhu cầu về một đời
sống vật chất và tinh thần phong phú đa dạng. Sống trong môi trường
cạnh tranh buộc họ phải khéo tay, làm ra những sản phẩm tinh xảo không
chỉ để trao đổi buôn bán trong nước mà còn bán cho khách nước ngoài.
Họ vốn nổi tiếng: “khéo tay hay nghề, đất lề Kẻ Chợ”. Các sản phẩm
của họ làm ra còn phải thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ, giải trí. Người Hà
Nội có nhiều thú chơi tao nhã, làm phong phú cho cuộc sống tinh thần.
Người Hà Nội sành ăn, sành mặc, sành chơi, có óc quan sát, thẩm mĩ tinh
tế, chuộng cái đẹp và biết thưởng thức cái đẹp. Qua đó, họ cũng muốn
chứng tỏ sự hiểu biết sâu, rộng của mình trước thiên hạ.
* Thứ tư, chất hào hoa, phong nhã, kẻ sĩ
Đó là phong thái phóng khoáng, hào sảng, lịch duyệt, từng trải không
chỉ thấy ở tầng lớp trí thức mà ở cả những người dân bình thường. Đó là sự
hơi ngang tàng, tự trọng, không luồn cúi, không hạ mình, trọng danh dự, trí
tuệ, đạo lí, không trọng tiền bạc.
*Thứ năm, lòng nhân ái, tính cộng đồng, chuộng hoà bình
Đây là nhân cách của con người Việt nhưng được phát huy cao độ ở
chốn Kinh Kì, ở những con người sinh sống trên mảnh đất Thăng Long
- Hà Nội.
Lòng nhân ái của người Hà Nội thể hiện ở việc ứng xử với thiên
nhiên, ứng xử giữa con người với con người. Người Hà Nội yêu thiên
nhiên, Hà Nội là một trong những thủ đô xanh ở khu vực Đông Nam Á.
Trên phố có cây, trong nhà có cây. Thú chơi cây cảnh của người Hà Nội
cũng rất sành và tinh tế, phù hợp với không gian chật hẹp nhưng cuộc
sống luôn tươi xanh. Người Hà Nội yêu hoa, không kể là những ngày lễ
tết, nhiều gia đình vẫn hay có thói quen cắm hoa tươi trong nhà, nơi công
sở; thích trồng hoa, cây cảnh. Hà Nội có cả những khu vườn hoa, cây
cảnh nổi tiếng như hoa đào Nhật Tân, quất cảnh Tứ Liên,...
72 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Lòng nhân ái còn biểu hiện trong quan hệ giữa con người với con
người. Với vị thế là Thủ đô, nơi hội tụ dân mọi miền nên người Hà Nội
có truyền thống sống hoà đồng, thân thiện, sự cố kết cộng đồng rất cao.
Họ coi trọng gia đình, dòng họ, gắn kết giúp đỡ nhau trong cộng đồng
chung. Trong các phố phường Thăng Long - Hà Nội truyền thống, tính
chất truyền nghề, chuyên sản xuất một mặt hàng nào đó thường cho
những người cùng họ hàng với nhau hoặc cho một cộng đồng người
quen đã từng gắn bó với nhau tại quê cũ. Họ không tách bạch khỏi cộng
đồng mà luôn “buôn có bạn, bán có phường”. Ý thức cộng đồng còn thể
hiện người Thăng Long - Hà Nội luôn nhớ đến quê cũ, cội nguồn của
mình bằng việc đi lại thăm hỏi họ hàng ở quê, hoặc thờ vọng thành hoàng
làng, ông tổ nghề, hoặc lấy âm đầu của làng quê gốc ghép vào tên các cửa
hiệu do họ lập ra ở nơi phố phường (như các hiệu dệt gốc làng Cự Đà đều
có tên “Cự”; các hiệu ảnh gốc làng Lai Xá có tên “Lai”....)
Chuộng hoà bình, là nét tính cách tiêu biểu của người Thăng Long - Hà
Nội. Với kẻ thù thì quả cảm trong chiến đấu nhưng khi đối phương thua
trận thì khoan dung độ lượng, giữ thể diện cho nước lớn, cấp lương thảo
cho về nước. Thăng Long đã chứng kiến những lần quân xâm lược bị bại
trận nhưng đều được người Thăng Long - Hà Nội đối xử khoan dung, độ
lượng: Chiến thắng quân Tống của nhà Lý với vai trò của Lý Thường Kiệt
đã khéo léo giữ được mối quan hệ giữa hai nước sau chiến tranh. Hội thề
Đông Quan đã diễn ra tại kinh thành Thăng Long khi ta chiến thắng quân
Minh. Dưới sự chủ trì của Nguyễn Trãi, Hội thề đã thể hiện tấm lòng
khoan dung độ lượng của nhân dân ta với kẻ bại trận. Chiến thắng Ngọc
Hồi, Đống Đa của vua Quang Trung và chính sách ngoại giao mềm dẻo
sau đó với nhà Thanh đã có lợi cho mối quan hệ giữa hai nước.
Người Thăng Long - Hà Nội cũng như dân tộc Việt Nam không muốn
chiến tranh, mong muốn một cuộc sống bình yên. Những câu chuyện
trong truyền thuyết như việc Thánh Gióng sau khi đánh xong giặc Ân
thì bay về trời; An Dương Vương chấp nhận cho Trọng Thuỷ ở rể để có
cuộc sống yên vui cho con gái và để hai nước tin nhau, sống hoà hợp.
Câu chuyện sau khi thắng giặc Minh, vua Lê Lợi trả lại kiếm cho Rùa
vàng trên hồ Lục Thuỷ, sau gọi là hồ Hoàn Kiếm (hồ Trả Gươm). Hà Nội
bắn rơi máy bay B52 nhưng người Hà Nội lại dang tay cứu giúp những
Chương 3. Dân cư và con người Hà Nội 73

viên phi công bị rơi xuống hồ hoặc đang gặp nạn. Hà Nội cũng đã chứng
kiến những giờ phút những tên lính Pháp, lính Mĩ cuối cùng rút khỏi Hà
Nội trong sự bình yên. Lòng nhân ái, khoan dung, yêu chuộng hoà bình
của nhân dân Hà Nội đã được chứng minh qua những hành động, thái
độ của người dân Hà Nội, được quốc tế công nhận. Ngày 16-7-1999, tại
LaPaz, thủ đô Bôlivia, UNESCO đã tổ chức trọng thể lễ trao “Giải thưởng
UNESCO - Thành phố vì Hoà bình” cho 5 thành phố thuộc 5 châu lục trên
thế giới. Thủ đô Hà Nội là thành phố duy nhất của khu vực châu Á - Thái
Bình Dương vinh dự nhận phần thưởng cao quý này.
* Thứ sáu, thanh lịch là tính cách tiêu biểu của người Thăng Long - Hà Nội.
Tính cách thanh lịch của người Hà Nội đã được cả nước ghi nhận, nó
mang yếu tố truyền thống và đặc trưng của người Hà Nội. Sở dĩ thanh
lịch là tính cách tiêu biểu của người Hà Nội là do các yếu tố sau chi phối:
- Hà Nội có vị trí và điều kiện tự nhiên thuận lợi:
Hà Nội là đầu mối giao thông, thuận lợi cho việc phát triển thương
mại, tổ chức đời sống đô thị nên đã trở thành nơi thu hút người dân từ
các vùng miền khác đến đây định cư sinh sống. Họ mang theo những tập
tục, lối sống của quê hương cũ đến Hà Nội và căn cứ vào hoàn cảnh thực
tế ở vùng đất này đã cải biến cho phù hợp, làm phong phú, đa dạng đời
sống vật chất và tinh thần của người Hà Nội.
- Hà Nội là nơi có bề dày văn hoá - lịch sử, có sức hút đối với các vùng lân cận:
Môi trường văn hoá, nhân văn của Thăng Long - Hà Nội không chỉ là
nơi hội tụ mà còn là nơi đào tạo nhân tài cho các vùng miền. Những sinh
hoạt văn hoá phong phú, tập tục tốt đẹp là môi trường tốt để sinh ra và
nuôi dưỡng hiền tài trên mọi lĩnh vực chính trị, quân sự, văn hoá, nghệ
thuật, y học, giáo dục... Ở họ có sự kết tinh những phẩm chất ưu tú của
con người Việt Nam, con người Hà Nội. Họ trở thành những tấm gương
sáng cho quảng đại quần chúng, khiến những nét đẹp được nhân rộng ra
và dần trở thành nếp sống, nếp nghĩ, hành vi ứng xử, trở thành tính cách
của người Hà Nội. Người Hà Nội có may mắn thụ hưởng sự giao thoa
giữa văn hoá bác học và văn hoá dân gian, tạo nên nét đẹp trong văn hoá
ứng xử của người Hà Nội.
74 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

- Hà Nội có điều kiện kinh tế, xã hội phát triển:


Từ trước khi trở thành trung tâm chính trị hoặc có lúc các triều đại
phong kiến Việt Nam không chọn Thăng Long - Hà Nội làm kinh đô thì
một thực tế cho thấy, nơi đây vẫn là một trung tâm kinh tế lớn, một đô
thị sầm uất, phồn vinh, dân cư đông đúc nhất so với các địa phương khác
trong cả nước. Kinh tế, xã hội phát triển vừa là điều kiện thuận lợi, vừa là
động lực đòi hỏi con người Hà Nội phải có nếp nghĩ, nếp hành xử thanh
lịch, văn minh như là các biểu hiện cao của sự phát triển.
- Hà Nội có vị thế của một Thủ đô:
Thăng Long - Hà Nội là kinh sư của các triều đại phong kiến liên
tục gần nghìn năm trong lịch sử, vùng đất Hà Nội còn là thủ phủ của các
chính quyền đô hộ. Vì vậy Hà Nội luôn nhận được sự quan tâm, chú ý
đặc biệt của cả nước, trở thành bộ mặt tiêu biểu của cả nước, vì vậy người
Hà Nội luôn tự hào và cố gắng tu dưỡng, bồi đắp những phẩm chất cao
đẹp để xứng với vai trò là công dân thủ đô. Trong quá trình giao lưu,
hội nhập quốc tế, Hà Nội với vị thế Thủ đô - nơi có nhiều hoạt động đối
ngoại, nơi có nhiều người nước ngoài đến làm việc, du lịch. Đây cũng
là điều kiện tốt để người Hà Nội trau dồi nét đẹp để thể hiện với bạn bè
quốc tế. Đồng thời, đây cũng là điều kiện tốt để học những cái hay cái đẹp
từ bên ngoài, ứng xử cho phù hợp với vai trò là công dân Thủ đô - những
người đại diện cho cộng đồng cư dân Việt Nam.
Như vậy với những điều kiện thuận lợi về tự nhiên, kinh tế, xã hội,
người Hà Nội đã biết phát huy lợi thế, chắt lọc và kết tinh những giá trị
tốt đẹp của con người Việt Nam để làm nên nét tính cách riêng của người
Hà Nội.
- Khái niệm về “thanh lịch”:
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về tính cách “thanh lịch” của người
Hà Nội. Tác giả Phạm Tất Dong trong cuốn Những phẩm chất nhân cách đặc
trưng của người Thăng Long - Hà Nội đã tập hợp, thống kê các ý kiến của
những học giả có các bài viết tại Hội thảo Người Hà Nội: Thanh lịch - Văn
minh do Chương trình KX.09 tổ chức. Hầu hết các ý kiến đều khẳng định:
Thanh lịch là nét đẹp truyền thống của người Hà Nội từ xưa đến nay.
Thanh lịch với người Hà Nội đã được tích tụ, kết tinh qua nhiều đời.
Chương 3. Dân cư và con người Hà Nội 75

Thanh lịch không chỉ là một khái niệm mà là cái tồn tại tích cực, là những
biểu hiện cụ thể trong cuộc sống của người Hà Nội xưa và nay. Đặc biệt,
theo nhiều tác giả, thanh lịch không chỉ là biểu hiện bên ngoài mà còn
chứa đựng cái cốt lõi của bản sắc dân tộc.
Theo các tác giả: “Thanh” là trong sáng, là không tục, không thô lỗ;
“lịch” là lịch thiệp, lịch lãm, lịch sự…; cũng có ý kiến cho rằng: “Thanh”
chỉ sự thanh cao trong tư tưởng, tình cảm, tâm hồn; thanh liêm đối với
của cải xã hội; thanh bạch, thanh đạm trong cuộc sống đời thường; thanh
nhã trong cử chỉ, lời nói. “Lịch” bao gồm lịch lãm, lịch duyệt, lịch thiệp,
lịch sự; là có trình độ hiểu biết. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc
thì: “Thanh lịch là chất cơ bản nhất của người Hà Nội. Đó là lối sống văn
hoá. Từ trong ăn mặc, đối nhân xử thế, từ cách nói năng cho đến hành
động, từ trong gia đình đến ngoài xã hội,... tất cả phải có văn hoá”1.
Thanh lịch còn được biểu hiện trong tính cách của người Hà Nội.
Trong giao tiếp ứng xử, thanh lịch biểu hiện qua “ngôn ngữ trong
sáng”; qua “cử chỉ, thái độ hoà nhã, mực thước”; qua sự “tôn trọng
người khác và tôn trọng chính mình”. Trong cung cách làm ăn, thanh
lịch là “khéo tay hay nghề”. Trong sinh hoạt văn hoá, thanh lịch, là
“sành ăn, khéo mặc”, là tinh tế, chuộng cái đẹp, có những thú vui tao
nhã, có nhiều lễ hội dân gian đặc sắc thể hiện trình độ sinh hoạt văn
hoá cao. Trong lối sống, thanh lịch là giản dị, thanh đạm, thuần hậu, nề
nếp. Ngoài ra, thanh lịch còn được thể hiện bằng chất hào hoa phong
nhã, phong thái nghệ sĩ; bằng sự hiếu học, trọng đạo lí, ham hiểu biết,...
Cụ thể, thanh lịch được biểu hiện qua một số lĩnh vực sau:
Thanh lịch trong ẩm thực: Theo điều tra xã hội học thì có đến hơn 90,1%
số người được hỏi đã cho rằng, nét thanh lịch của người Hà Nội được biểu
hiện trong ẩm thực. Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng cũng cho rằng “cách
ăn uống là cách sống, là bản sắc văn hoá”. Hà Nội là trung tâm chính trị,
kinh tế và giao lưu văn hoá nên có điều kiện tiếp thu kinh nghiệm chế
biến món ăn từ các vùng miền trong cả nước và cả nước ngoài, vì vậy ẩm
thực Hà Nội đạt đến trình độ tinh tuý, đi sâu vào nhiều tác phẩm văn học

1
Hà Đình Đức (2005), Kỉ yếu hội thảo Người Hà Nội thanh lịch, văn minh.
76 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

như Hà Nội 36 phố phường của Thạch Lam, Miếng ngon Hà Nội hay Thương
nhớ mười hai của Vũ Bằng... Nét thanh lịch của Hà Nội không chỉ biểu
hiện trong món ăn mà còn thể hiện trong cách ăn, cách trình bày món ăn.
Người Hà Nội ăn không lấy no mà để thưởng thức vì thế chuyện ăn uống
đã được nâng lên thành “văn hoá ẩm thực”. Ẩm thực của người Hà Nội
còn thể hiện ở sự thanh đạm. Nhà văn Hoàng Đạo Thuý đã nhận xét “ở
chốn phồn hoa mà ăn uống vẫn cứ thanh đạm”. Người Hà Nội ăn thanh
cảnh, ăn từ tốn để thưởng thức hương vị của từng món. Trong ăn uống
coi trọng người cao tuổi, coi trọng lời mời, “tiếng chào cao hơn mâm cỗ”.
Văn hoá ẩm thực của người Thăng Long - Hà Nội không chỉ thể hiện ở
việc chế biến món ăn ngon mà còn ở một trình độ cao về nghệ thuật tổ
chức bữa ăn và cách thưởng thức món ăn. Văn hoá ẩm thực của người Hà
Nội đã trở thành một nét thanh lịch, trở thành nỗi nhớ da diết đối với du
khách trong và ngoài nước khi xa Hà Nội.
Thanh lịch trong giao tiếp, ứng xử: Cùng với ẩm thực thì giao tiếp, ứng
xử được coi là lĩnh vực được đánh giá cao nhất, coi đây là biểu hiện chính
về nét thanh lịch của người Hà Nội. Người Thăng Long xưa và Hà Nội
ngày nay rất coi trọng lễ nghĩa. Sống ở trung tâm chính trị, văn hoá, giáo
dục lớn nhất cả nước nên trong thành phần thị dân nhiều người là nho
sĩ, có trình độ học vấn nên trong cư xử luôn chuẩn mực, ứng xử tao nhã,
coi trọng lễ nghĩa. Cách giao tiếp, ứng xử của họ có sức lan toả trong
một cộng đồng trọng đạo học, trọng tri thức. Giao tiếp, ứng xử trước hết
thể hiện qua lời ăn, tiếng nói. Đó là chất giọng của người Hà Nội “người
thanh nói tiếng cũng thanh”. Qua tiếng nói, người ta nhận ngay ra người
Hà Nội. “Tiếng nói phát ra từ người Hà Nội là tiếng nói tự trọng, tôn
trọng người nghe. Mềm mỏng mà không yếu ớt, tự tin mà không kiêu
ngạo, trí tuệ mà không khoe khoang, chắt lọc mà không kiêu kì, nhanh
nhạy mà không nôn nóng, giản dị mà không đơn giản, kính trọng mà
không nịnh bợ”1. Lời ăn, tiếng nói không chỉ là chất giọng mà còn là cách
ăn nói “có thưa, có gửi”, “dạ, vâng” lễ phép hay tác phong khi nói. Nhà
văn Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Dân Hà Nội xưa cũng có người đẹp, người

1
Nguyễn Chí Kì (2005), Kỉ yếu Các giải pháp xây dựng, gìn giữ và phát huy các phẩm chất nhân
cách đặc trưng của người Thăng Long – Hà Nội trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
hội nhập kinh tế quốc tế của thủ đô.
Chương 3. Dân cư và con người Hà Nội 77

xấu, người trang nhã, người thô tục như các nơi khác thời bấy giờ, nhưng
người ta nhận thấy trong sự giao tiếp giữa con người với con người, ít
khi người Hà Nội xưa có những thói thô bạo, tục tằn”1. Qua đó, có thể
thấy hình ảnh người Hà Nội trong tâm trí mọi người rất thanh lịch trong
cách ứng xử thể hiện ở sự nhẹ nhàng, tế nhị. Nét thanh lịch trong giao
tiếp, ứng xử của người Hà Nội còn thể hiện ở hành vi tiếp khách - một
hoạt động giao tiếp đặc trưng. Trong quan hệ với bạn bè, khách khứa,
người Hà Nội bao giờ cũng có một thái độ hiếu khách truyền thống, nồng
nhiệt mà không thô bạo, niềm nở mà không suồng sã. Khi khách đến nhà,
người chủ dù bận việc cũng phải đứng dậy mời chào. Tiếp khách phải
mặc quần áo dài nghiêm chỉnh, không mặc quần cộc, quần áo ngủ. Trong
cách pha trà đãi khách của người Hà Nội cũng thể hiện trình độ và sự
tinh tế riêng. Chè để đãi khách bao giờ cũng là chè ngon, có nhà cẩn thận
còn đem ướp sen, nhài hay ngâu để tăng thêm hương vị. Khi ăn uống,
người Hà Nội bao giờ cũng giữ nề nếp “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”
và luôn luôn thận trọng, ý tứ khi trong mâm có người già cao tuổi hay
khách khứa, mời khách những món ngon nhất và thậm chí còn nhường
cho khách ăn. Sự chuẩn mực trong giao tiếp, ứng xử đó là biểu hiện rõ nét
nhất đặc trưng thanh lịch của người Hà Nội.
Hiện nay ở một số bộ phận cư dân Hà Nội, đặc biệt là nhóm thanh
niên trẻ đã ít nhiều làm mai một đi nét thanh lịch trong giao tiếp, ứng
xử của người Hà Nội do ảnh hưởng của cuộc sống xô bồ, ít đọc, ít quan
sát lắng nghe... vì vậy để giữ gìn được tính cách giao tiếp, ứng xử thanh
lịch của người Hà Nội, Thủ đô đang tiến hành xây dựng “văn hoá người
Hà Nội”, đây được xem là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong việc tổ
chức, thực hiện các nội dung cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hoá”, bắt đầu từ “nói lời hay, làm việc tốt, phong cách đẹp”
từ trong gia đình đến cộng đồng dân cư và toàn xã hội. Văn hoá ứng xử
là tư chất cần có của người Hà Nội thanh lịch, hiện đại.
Thanh lịch trong trang phục: Trang phục cũng là một biểu hiện của văn
hoá ứng xử. Cách ăn mặc lịch sự thể hiện thái độ tôn trọng người khác.
Theo số liệu điều tra tại Hà Nội, có 84,4% số người được hỏi cho rằng đặc

1
Dẫn theo Nguyễn Xuân Kính (2005), Kỉ yếu hội thảo Người Hà Nội thanh lịch, văn minh.
78 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

trưng thanh lịch của người Hà Nội được biểu hiện trang phục, đứng thứ 3
trong số 9 lĩnh vực1. Đây là một bằng chứng cho thấy trong quan niệm
của người Hà Nội, trang phục cũng là một biểu hiện rõ nét đặc trưng
thanh lịch.
Cách ăn mặc của người Hà Nội xưa vẫn được đánh giá là nền nã, kín
đáo và chỉnh tề, không cầu kì về kiểu dáng và không lòe loẹt về màu sắc.
Nhà văn Băng Sơn đã nhận xét về cách ăn mặc của người Hà Nội “xưa nay
người Hà Nội thường có cách ăn mặc riêng rất đẹp, vừa lịch sự nền nã, hào
hoa trang nhã, vừa lộng lẫy mà vẫn kín đáo”. Nhận định “trong ăn mặc,
người Hà Nội thường khá “chỉn chu”, có phần chải chuốt nhưng không
cầu kì; có phần đài các nhưng không lòe loẹt, đua đòi”. Con gái Hà Nội ăn
mặc rất đẹp, sự thay đổi cách điệu áo dài của phụ nữ Việt Nam cũng bắt
đầu từ những nhà thiết kế áo dài tại Hà Nội. Người càng sống lâu ở Hà Nội
thì càng có quan niệm về cách ăn mặc gần với người Hà Nội xưa.
Thanh lịch trong bài trí, sắp xếp nhà ở: Là trung tâm chính trị, là thủ
đô của một quốc gia, sự gia tăng dân số nhanh, sự chật hẹp khiến người
ta phải có nếp sống gọn gàng, bài trí, sắp xếp nhà ở phù hợp. Đây cũng
là nét thanh lịch của người Hà Nội. Cách bài trí trong nhà người Hà Nội
thường ngăn nắp, sạch sẽ, tinh tế, nhất là trong các khu phố cổ. Trong
nhà dù rất chật hẹp nhưng vẫn có lọ hoa tươi, hoa đã đi vào bức tranh
nổi tiếng của người nghệ sĩ tài hoa có nhiều tác phẩm vẽ về Hà Nội - họa
sĩ Bùi Xuân Phái (bức tranh Thiếu nữ bên hoa huệ). Cách sắp đặt trong nhà
cũng theo phong thuỷ, luôn đưa thiên nhiên vào ngôi nhà của mình khiến
cho tâm hồn con người Hà Nội luôn lãng mạn, giàu chất nhân văn.
Thanh lịch trong lao động sản xuất: khi lao động sản xuất vất vả, đổ
mồ hôi, công sức, ít người để ý đến nét thanh lịch. Thế nhưng, người Hà
Nội trong lao động sản xuất cũng bộc lộ rõ yếu tố thanh lịch trong những
công việc và sản vật làm ra. Thăng Long - Hà Nội ngày nay là nơi tụ hội
các làng nghề từ khắp mọi miền đất nước. Sự phát triển của làng nghề
không chỉ có vai trò nâng cao mức sống, mà còn là dấu ấn truyền thống
văn hoá dân tộc mỗi thời kì lịch sử. Từ ngàn năm trước, những người
thợ tài hoa đã mang theo cả gia đình, bạn bè, họ hàng làng xóm lên Kinh

1
Phạm Tất Dong (Cb), (2010), Những phẩm chất nhân cách đặc trưng của người Thăng Long - Hà Nội.
Chương 3. Dân cư và con người Hà Nội 79

đô mở nhà, lập phố. Bằng sức lao động cần cù và tài năng khéo léo, họ
đã làm ra những sản phẩm hàng hoá tinh xảo cung cấp cho dân chúng
Kinh kì và các vùng lân cận, làm cho phố phường ngày càng trở nên sầm
uất. Qua thời gian người Hà Nội vẫn giữ nếp xưa “buôn có bạn, bán có
phường”. Những con phố gắn với nghề vẫn còn lưu giữ đến ngày nay.
Nhiều con phố bên cạnh cái tên hành chính còn có những cái tên phụ mà
người Hà Nội quen gọi để nhắc đến cái nghề đặc trưng của nó như phố
Bún Chả (Hàng Mành, Mai Hắc Đế), phố Cà Phê (Hàng Hành)...
Nhu cầu tiêu dùng của người đô thị đòi hỏi những sản phẩm chất
lượng tốt khiến những người thợ bộc lộ hết tài năng của mình. Chính vì
vậy, dân gian luôn có câu “Khéo tay hay nghề, đất lề Kẻ Chợ” là để ca ngợi tài
năng của những người thợ đất Thăng Long - Hà Nội trong lao động sản
xuất. Ngày nay, người Hà Nội lao động sản xuất trong nhiều ngành nghề,
nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng nét hào hoa, thanh lịch của con người Hà
Nội vẫn còn được lưu giữ. Có thể nói, “Hà Nội - phố nghề” là sự hội tụ tài
năng, bản sắc văn hoá và từ lâu đã trở thành niềm tự hào của cả nước.
Tuy nhiên, theo điều tra xã hội học, có nhiều ý kiến cho rằng một bộ
phận người Hà Nội tác phong lao động, sản xuất chưa tuân thủ kỉ cương,
chưa có hiệu quả, chưa đáp ứng được thời kì công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và đặc biệt nó đã làm mất đi nét thanh lịch trong lao động sản xuất
của người Hà Nội được hình thành từ ngàn xưa. Những hiện tượng đi
muộn, về sớm, làm qua loa trong công việc, giờ giấc không chính xác,
công việc ì ạch chậm chạp nhất là trong các thủ tục hành chính,... Bên
cạnh đó vẫn còn tồn tại các hiện tượng buôn lậu, làm hàng giả hay lừa
đảo đã làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh người Hà Nội trong kinh doanh.
Hiện tượng chiếm dụng vỉa hè, các địa điểm di tích lịch sử, văn hoá làm
nơi kinh doanh cũng gây mất mĩ quan đô thị. Để nét thanh lịch của người
Hà Nội trong lao động, sản xuất được phát huy thì cần có một giải pháp
đồng bộ, trong đó đẩy mạnh xây dựng người Hà Nội văn minh, thanh
lịch, có ý thức cộng đồng, trong sản xuất kinh doanh phải vừa đảm bảo
sự tinh xảo vừa đảm bảo chất lượng, giữ uy tín với khách hàng.
Thanh lịch trong thưởng thức văn hoá nghệ thuật, trong vui chơi giải trí:
Bên cạnh biết thưởng thức các món ăn ngon đã được nâng lên thành
80 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

nghệ thuật ẩm thực thì người Thăng Long - Hà Nội còn biết thưởng
thức cuộc sống qua vui chơi, giải trí, thưởng thức cái hay, cái đẹp qua
văn hoá nghệ thuật, đề cao giá trị tinh thần. Nhà văn Băng Sơn từ thế
kỉ trước đã phần nào đề cập đến trong “Thú ăn chơi của người Hà Nội”
như xem hát, nghe nhạc...
Hiện nay hầu hết các cơ quan thông tấn, báo chí, xuất bản cấp quốc
gia đều đóng tại Hà Nội. Tin tức của mọi vùng lãnh thổ trên đất nước
cũng được phát ra từ đây, trên sóng phát thanh và truyền hình. Hàng
trăm tờ báo và tạp chí, hàng chục đầu sách mới của gần 40 nhà xuất bản
trung ương phát hành khắp nơi, ra cả nước ngoài, làm phong phú đời
sống văn hoá của nhân dân. Về số lượng nhà bảo tàng, thư viện, nhà văn
hoá, câu lạc bộ, rạp hát, chiếu bóng, hiệu sách, các di tích lịch sử văn hoá,
kiến trúc và cách mạng,... Hà Nội luôn đứng hàng đầu cả nước. Bên cạnh
các nhà hát nghệ thuật quốc gia, riêng Hà Nội có 6 nhà hát và đoàn nghệ
thuật. Vốn nghệ thuật dân gian truyền thống được quan tâm bảo tồn và
phát huy. Đoàn múa rối nước Thăng Long không chỉ sáng đèn hằng đêm
ở nhà hát bên hồ Hoàn Kiếm, mà còn đi lưu diễn nhiều lần ở các nơi trên
thế giới. Sống ở trung tâm văn hoá của cả nước, người Hà Nội có nhiều
điều kiện thưởng thức văn hoá nghệ thuật hơn các địa phương khác. Vào
những dịp cuối tuần, nghỉ lễ, đặc biệt dịp nghỉ Tết Nguyên Đán là thời
điểm cuộc sống bộn bề mưu sinh tạm khép lại, người Hà Nội dành nhiều
thời gian để thưởng thức văn hoá, nghệ thuật, đến các đình chùa, thăm
các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh. Đặc biệt ngày nay Hà Nội đã quy
hoạch các tuyến phố đi bộ vào dịp cuối tuần, đi bộ ngắm cảnh Hồ Gươm,
ngắm phố cổ Hà Nội,... đã tạo nên một nét đẹp trong văn hoá của người
Hà Nội.
Tuy nhiên, trong thưởng thức văn hoá, nghệ thuật ở mỗi tầng lớp xã
hội ở Hà Nội lại có những cách khác nhau, ở từng giai đoạn lịch sử lại
cũng có sự khác nhau. Hiện nay, một thực tế ở Hà Nội là một bộ phận
cư dân vì cuộc sống mưu sinh, ít có thời gian thưởng thức văn hoá, nghệ
thuật, hoặc khi thưởng thức các loại hình văn hoá nghệ thuật lại có lệch
lạc, đặc biệt trong một bộ phận thế hệ trẻ. Các loại hình văn hoá nghệ
thuật truyền thống của Hà Nội thường ít được công chúng quan tâm, nếu
có chỉ rơi vào tầng lớp trung niên, cao tuổi. Trong xu thế hội nhập, các loại
Chương 3. Dân cư và con người Hà Nội 81

hình văn hoá, nghệ thuật của nước ngoài tràn vào Việt Nam mà Hà Nội
là một trong những nơi hấp thụ đầu tiên. Việc hội nhập và tiếp thu cái
mới là cần thiết, nhưng thái độ ứng xử với các loại hình nghệ thuật ngoại
lai, sự hâm mộ thái quá một số nghệ sĩ nước ngoài dẫn đến những hành
động thiếu văn hoá thì không thể chấp nhận. Hoặc các thông tin trên một
số báo chí, truyền thông đôi khi đưa tin thiếu trung thực, ít hấp dẫn khiến
công chúng không mấy quan tâm. Hà Nội có các nhà hát, các rạp chiếu
phim quốc gia nhưng các vở kịch, phim chiếu trong đó chưa thực sự hấp
dẫn công chúng, giá vé lại đắt so với thu nhập của người lao động. Điều
này cũng phần nào ảnh hưởng đến nét thanh lịch của người Hà Nội trong
việc thưởng thức các loại hình nghệ thuật...
Trong vui chơi giải trí, Hà Nội có nhiều loại hình, nhiều hoạt động vui
chơi giải trí hơn các địa phương khác. Là một trong 10 thành phố du lịch
hấp dẫn nhất châu Á, Hà Nội có nhiều loại hình du lịch, vui chơi giải trí
như du lịch văn hoá lịch sử, du lịch thể thao giải trí, thắng cảnh. Các thú
ăn chơi của nhiều vùng miền khi có mặt tại Hà Nội đã được người Hà
Nội làm cho nó trở nên thanh lịch hơn, như thú chơi hoa, chơi cây cảnh,
chơi đồ cổ... với bàn tay và khối óc của các nghệ nhân, các nhà phong
thuỷ nó đã trở nên phù hợp với không gian chật hẹp của Hà Nội, đáp ứng
cả tâm lí của người Hà Nội.
Nét thanh lịch trong hoạt động vui chơi, giải trí của người Hà Nội là
tính chừng mực. Mặc dù ở Hà Nội có nhiều trung tâm vui chơi, giải trí
nhưng người Hà Nội vui chơi ở mức độ vừa phải. PGS. Vũ Ngọc Khánh
đã nhận xét “Nhìn chung, cái chơi Hà Thành không ào ạt, không xả láng.
Ngay những năm đầu của thế kỉ XXI, Hà Nội không làm gì có những địa
điểm ăn chơi kiểu Đại thế giới ở Sài Gòn”1. Hà Nội vẫn giữ nét thanh lịch
trong một số loại hình vui chơi, giải trí đặc trưng. Ví dụ như thú chơi cờ
tướng là một hình thức giải trí tao nhã, trí tuệ thường thấy ở quanh Hồ
Gươm, Hồ Tây; chơi cờ tướng xếp người trong dịp lễ hội đầu năm ở đền
thờ Hai Bà Trưng; một số trò chơi như chọi gà cũng xuất hiện ở Hà Nội
vào dịp đầu xuân...

1
Vũ Ngọc Khánh (2005), Kỉ yếu hội thảo Người Hà Nội thanh lịch, văn minh.
82 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Tuy nhiên, cũng có một bộ phận cư dân Hà Nội nhìn nhận vấn đề vui
chơi giải trí chưa đúng, một số hoạt động vui chơi giải trí bị biến tướng,
phục vụ cho lợi ích kinh doanh “chặt chém” dịp lễ hội, vui chơi nhưng lại
ăn thua bằng hình thức cá cược, ăn tiền. Một hoạt động được quan niệm
chỉ là “một chút cho vui” như đánh số đề vào cuối các buổi chiều của một
bộ phận cư dân lao động (chủ yếu là xe ôm, người bán hàng rong, quán
nước...), nhưng cũng là vấn đề cần được bàn đến khi nói về một góc nhỏ
trong vui chơi, giải trí của một bộ phận cư dân Hà Nội hiện nay.
Thanh lịch trong hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng: Hà Nội, nơi hội tụ đặc
trưng của nhiều vùng miền trên cả nước. Môi trường đô thị ngày càng
phát triển, càng tạo ra nhiều cơ hội phát triển cho con người, nhưng đồng
thời cũng tạo ra những áp lực mới. Sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng giúp
mang lại cho mọi người niềm tin và sự cân bằng trong cuộc sống. Cũng
chính vì vậy mà cùng với sự phát triển của xã hội, số lượng người tham
gia vào các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng càng tăng và càng đa dạng.
Hơn nữa khi kinh tế càng phát triển thì hoạt động tôn giáo tín ngưỡng
cũng có màu sắc mới bởi quan niệm “phú quý sinh lễ nghĩa” giờ còn
đúng đối với cả các bậc thần thánh.
Hà Nội vốn là kinh đô của một nước có lịch sử đấu tranh và là một
nước nông nghiệp lâu đời. Hà Nội có hơn 500 ngôi chùa, gần 300 lễ hội
dân gian, tiêu biểu là lễ hội chùa Hương, lễ hội Cổ Loa, hội Gióng, hội đền
Hai Bà Trưng, hội Gò Đống Đa,… Hàng năm cứ vào dịp Tết Nguyên Đán,
các ngôi chùa, ngôi đình đều tấp nập người đi lễ. Sự đa dạng của các lễ
hội dân gian ở Hà Nội cũng chính là sự đa dạng của con người Hà Nội từ
trước đến nay. Nếu như chùa chiền ở nông thôn chủ yếu dành cho người
cao tuổi thì các ngôi chùa của Hà Nội thu hút đông đảo dân cư thuộc nhiều
lứa tuổi đến lễ vào ngày rằm, mồng một âm lịch hàng tháng. Xu hướng đầu
xuân ngày càng có nhiều nam thanh nữ tú đến chùa cầu may. Nét thanh
lịch trong tín ngưỡng, tôn giáo của Hà Nội là lễ thức. Ở Hà Nội, mọi gia
đình đều coi trọng đời sống tâm linh, thờ cúng tổ tiên; dù không gian nhà
ở không rộng như ở nhiều vùng khác, nhưng hầu hết ở Hà Nội vẫn dành
một vị trí trang trọng trong nhà cho bàn thờ tổ tiên. Các gia đình đầu năm
còn cho cả trẻ con đến chùa để cầu mong sức khỏe và qua đó còn có ý nghĩa
hướng thiện. Vào dịp đầu năm tại các đình, đền, chùa của Hà Nội thường
Chương 3. Dân cư và con người Hà Nội 83

diễn ra lễ giải hạn, giải sao xấu, đến rằm tháng bảy âm lịch lại diễn ra lễ Xá
tội vong nhân, lễ Vu lan báo hiếu. Tỉ lệ người tham gia các hoạt động tín
ngưỡng ở Hà Nội cao hơn các địa phương khác.
Bên cạnh những mặt tích cực, sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của
người Hà Nội đôi khi mang nét tiêu cực. Dòng người ồ ạt lên chùa,
nhiều khi tác động tiêu cực tới ngôi chùa và môi trường xung quanh.
Cuộc sống mưu sinh vất vả trong cơ chế thị trường khiến nhiều khi
người dân quá tin vào số phận, dẫn đến mê tín, dị đoan. Người Hà
Nội nói riêng, người thành phố nói chung mặc dù có học thức nhưng
lại có vẻ mê tín hơn người nông thôn. Những địa điểm nổi tiếng ở Hà
Nội như phủ Tây Hồ, chùa Hà, đền Ngọc Sơn... đã thu hút đông đảo
người dân Hà Nội nói riêng và dân cả nước nói chung đến đi lễ và vãng
cảnh. Nhưng những hiện tượng xả rác bừa bãi, đốt tiền vàng nhiều, để
tiền lên tay tượng Phật... đã làm xấu đi hình ảnh thanh lịch của người
Hà Nội trong đời sống sinh hoạt tôn giáo và tín ngưỡng. Một bộ phận
cư dân Hà Nội hành nghề liên quan đến tâm linh như bói toán, phong
thuỷ, hầu đồng... đã lợi dụng sự mê muội của một bộ phận dân cư để
kiếm lợi... cũng làm mất dần nét thanh lịch của người Hà Nội.
Thanh lịch trong tham gia giao thông và sử dụng phương tiện đi lại: Sống
trong môi trường đô thị, đi lại và sử dụng phương tiện giao thông, ý thức
tham gia giao thông là điều cần bàn đến trong tính cách của người Hà Nội.
Thời phong kiến, trong kinh thành Thăng Long, vua, quan lại đi
lại bằng kiệu, dân thường đi bộ là chủ yếu, có một bộ phận gia đình
khá giả ngồi trên xe kéo (xe do người kéo), sau này chuyển thành xích
lô. Lúc đó người Thăng Long khi tham gia giao thông chưa có gì phải
bàn đến nhiều vì mỗi khi có kiệu của quan lớn đi qua thì dân thường
phải dẹp vào hai bên đường vừa để nhường đường, vừa để thể hiện sự
tôn kính. Khi người Pháp vào Hà Nội, xây dựng các tuyến xe điện đi lại
giữa các phố đã khiến cho người Hà Nội có những thay đổi khi tham gia
giao thông. Tuy “lừ lừ như tàu điện” nhưng cũng phải biết cách mới lên
xuống tàu điện được. Câu thơ “Hà Nội có tàu điện đi về cứ leng keng”
đã trở thành nỗi nhớ của người Hà Nội về những thập kỉ đầu và giữa
thế kỉ XX.
84 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Ngày nay, trong quá trình đô thị hoá, hội nhập quốc tế, vấn đề giao
thông đã trở thành vấn đề nhức nhối ở các thành phố lớn, trong đó có
Hà Nội. Việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nước ta hiện nay đang
chưa theo kịp với sự phát triển kinh tế và nhu cầu của người dân. Bên
cạnh đó là vấn đề ý thức của người tham gia giao thông.
Phương tiện đi lại của người Hà Nội chủ yếu vẫn là xe máy, gần đây
có thêm xe máy điện, xe đạp điện (đối tượng sử dụng chủ yếu là học sinh,
sinh viên) vì đây là phương tiện nhỏ gọn, đi lại thuận tiện trong các con
phố nhỏ của Hà Nội, chỗ gửi cũng dễ dàng hơn gửi ô tô. Vì đi lại trong
đường phố đông nên tốc độ đi xe máy của người Hà Nội cũng chậm
thường 20 km đến 30 km/h. Đa số người Hà Nội đều tuân thủ đúng luật
giao thông và các tín hiệu đèn giao thông. Trên các tuyến xe buýt, chúng
ta vẫn bắt gặp cảnh người trẻ nhường ghế cho người già, phụ nữ. Khi
sang đường vẫn thấy hình ảnh các thanh niên và cảnh sát giao thông giúp
đỡ người già, người khiếm thị qua đường. Khi gặp các tai nạn xảy ra trên
đường, đã có nhiều người xúm vào giúp đỡ. Những hình ảnh đó là nét
thanh lịch của người Hà Nội khi tham gia giao thông.
Bên cạnh đó, có thể dễ dàng nhận thấy việc sử dụng phương tiện đi
lại bao gồm cả việc chọn phương tiện để sử dụng và cách thức sử dụng
phương tiện của người Hà Nội cũng đang có nhiều thay đổi.
Khi tham gia giao thông vẫn còn những hiện tượng phóng nhanh,
vượt ẩu, vượt đèn đỏ, không đội mũ bảo hiểm. Một bộ phận thanh niên
còn tổ chức đua xe, điều này dẫn đến nhiều tai nạn thảm khốc không
chỉ cho người sử dụng phương tiện giao thông mà còn đối với cả những
người tham gia giao thông khác. Trong tham gia giao thông thì nhiều
người rất thiếu ý thức, đi lên vỉa hè dành cho người đi bộ, đi không
đúng phần đường, làn đường, nhất là những giờ tan tầm, hiện tượng
mọi phương tiện tham gia giao thông đều tìm cách luồn lách “điền vào
chỗ trống”. Ý thức của người tham gia giao thông kém này đã trực tiếp
gây ra xung đột giao thông và hiện tượng ùn tắc giữa Thủ đô. Trong bối
cảnh cơ sở hạ tầng đang được nâng cấp thì ý thức tham gia giao thông
của người dân cũng cần phải thay đổi, phải chia sẻ bằng việc thực hiện
đúng luật giao thông. Việc xử phạt chỉ là biện pháp trước mắt. Điều
Chương 3. Dân cư và con người Hà Nội 85

quan trọng là cần giáo dục ý thức của cộng đồng dân cư Hà Nội về vấn
đề tham gia giao thông phải tốt thì mới có tác dụng lan toả đến những
người từ vùng khác khi đến Hà Nội.
Hiện nay Hà Nội đang cải tạo hệ thống giao thông trong thành phố
nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu của người dân Hà Nội và những người từ
nơi khác đến Hà Nội. Việc thực hiện đúng luật giao thông, nhường nhịn
khi tham gia giao thông là điều quan trọng nhất nhằm phát huy nét thanh
lịch của người Hà Nội. Việc sử dụng phương tiện đi lại thân thiện với môi
trường, tiết kiệm, gọn nhẹ là điều nhiều người dân Hà Nội đang hướng
tới. Đồng thời tăng cường cải tiến các phương tiện công cộng, xây dựng
các tuyến xe buýt nhanh, hiện đại cũng là những vấn đề Thủ đô đang
tiến hành. Tuy nhiên, nét thanh lịch của người Hà Nội khi tham gia giao
thông và sử dụng các phương tiện đi lại không phải đợi đến khi có đủ cơ
sở hạ tầng, mà cần thay đổi tư duy, cần thực hiện đúng luật giao thông
cũng là góp phần nâng cao hình ảnh người Hà Nội văn minh, thanh lịch.
Đi liền với tình trạng xuống cấp của ý thức tham gia giao thông là tình
trạng lấn chiếm vỉa hè, lòng đường, biến không gian công cộng của phố
phường Hà Nội thanh bình và cổ kính thành của riêng, không chỉ gây ách
tắc giao thông, mà còn làm mất mỹ quan đô thị, phô diễn không ít những
tệ nạn và những hình ảnh thiếu văn hóa, nhân văn ngay trên mặt phố.
Tóm lại, trải qua hàng ngàn năm lịch sử, từ những làng nhỏ ven
sông, cư dân sống trên vùng đất này cùng với dân “tứ chiếng” đã tụ
cư về đây hình thành một cộng đồng cư dân Hà Nội xưa và nay.
Sống trong điều kiện có nhiều khác biệt so với các địa phương khác trong
nước (điều kiện tự nhiên, vị thế là kinh sư, thủ đô qua các thời kì lịch sử,
điều kiện kinh tế - xã hội phát triển...) qua thời gian, tính cách con người
vùng đất này đã mang những đặc trưng riêng. Đó là sự hội tụ tính cách
của các vùng miền, tiếp nhận cả những giá trị văn minh của thế giới
thông qua các hoạt động giao lưu, buôn bán... để rồi tinh lọc để phù hợp
với cuộc sống ở thủ đô - trung tâm chính trị đầu não của cả nước. Qua
thử thách của lịch sử, những phẩm chất tốt đẹp đó lắng đọng, kết tinh
lại trong nhân cách con người Hà Nội và “trở thành cõi lõi của bản sắc
86 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

bất diệt của dân tộc Việt Nam”1. Trong các tính cách đó thì nét thanh lịch
là đặc điểm của người Hà Nội được nhân dân cả nước ghi nhận, là tính
cách để phân biệt người Hà Nội với người địa phương khác. Nét thanh
lịch của người Hà Nội được thể hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội, trong đó tiêu biểu là các lĩnh vực giao tiếp ứng xử, ẩm thực, trang phục
và thưởng thức văn hoá nghệ thuật. Cùng với đó là một số hành động thể
hiện nét thanh lịch trong các lĩnh vực khác. Thủ đô ngày càng phát triển,
nét thanh lịch của người Thăng Long - Hà Nội xưa và nay cũng có sự thay
đổi ít nhiều. Một bộ phận cư dân trong mọi mặt của lĩnh vực đời sống xã
hội đã có những thái độ, hành vi không đẹp làm tổn hại, đi ngược lại với
những giá trị đạo đức, tính cách tốt đẹp mà các thế hệ người dân Thăng
Long - Hà Nội đã chắt chiu, lưu giữ.
Nhìn chung trong tính cách của người Hà Nội thì “lòng tự trọng,
tính trung thực, thẳng thắn, giàu nghĩa khí; coi trọng trí tuệ và đạo đức
hơn tiền bạc và danh lợi; lịch sự, tinh tế trong cách ứng xử và giao tiếp;
mềm mại, uyển chuyển… nét thanh lịch đó vốn là một tính cách rất Hà
Nội, phải làm sao cho người dân có ý thức gìn giữ và phát huy tính cách
thanh lịch như một tài sản quý của thủ đô”2.

Câu hỏi thảo luận


1. Những yếu tố nào ảnh hưởng đến quá trình hình thành cộng đồng
dân cư Hà Nội? Cộng đồng cư dân này có sự xáo trộn hay không, vì sao?
2. Thế nào là “người Hà Nội”? Những tính cách mang nét đặc trưng
cơ bản của người Hà Nội?
3. Anh (chị) hiểu như thế nào về khái niệm “thanh lịch”? Hãy nêu
những biểu hiện thanh lịch của người Hà Nội? Hãy phân tích sự thay
đổi theo thời gian một số tính cách của người Hà Nội? Những tính cách
nào cần phát huy và những tính cách nào cần thay đổi?

1
Vũ Khiêu, Bằng Việt, Nguyễn Vinh Phúc (2005), Hình ảnh người Hà Nội trong văn học, nghệ
thuật cận và hiện đại, Sđd, tr. 11.
2
Ngô Thị Thanh Hằng (2005), Hội thảo khoa học Người Hà Nội thanh lịch, văn minh.
Chương 4
ĐẶC TRƯNG LỊCH SỬ THĂNG LONG - HÀ NỘI

Hà Nội là một phần đặc biệt quan trọng của đất nước, là trái tim của
cả nước. Lịch sử Thăng Long - Hà Nội nằm trong lịch sử phát triển của
dân tộc, vừa là nhân lõi của toàn bộ lịch sử đất nước vừa mang những nét
đặc trưng của vùng đất trung tâm. Vì vậy ở chương này chỉ nêu những
dấu ấn lịch sử tiêu biểu và những giá trị lịch sử đặc trưng nhất của Thăng
Long, chia ra theo 4 thời kì: Tiền Thăng Long (trước thế kỉ XI); Thăng
Long (từ thế kỉ XI đến giữa thế kỉ XIX); Hà Nội thời Nguyễn (từ giữa thế
kỉ XIX đến năm 1945) và Thủ đô Hà Nội từ 1945 đến nay.

4.1. Hà Nội thời tiền Thăng Long (trước năm 1010)

4.1.1. Thời tiền sử


Hà Nội với vị trí địa lí nằm ở giữa đồng bằng châu thổ sông Hồng,
trong thời tiền sử, vùng đất Hà Nội đang trong quá trình hình thành.
Những dấu tích gò đồi vùng Sóc Sơn, Đông Anh như những cầu nối
giữa trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Cư dân nguyên thuỷ từ vùng núi
và trung du đã tiến dần xuống vùng đất Hà Nội xưa, khai phá mở rộng
địa bàn cư trú, định cư trên những doi đất cao ven các dòng sông, hình
thành những xóm làng nhỏ trên mảnh đất Hà Nội xưa. Dấu vết đầu
tiên về cuộc sống của con người tiền sử trên vùng đất Hà Nội là những
công cụ từ thời kì đá cũ, đó là những hòn cuội được ghè đẽo thô sơ,
được phát hiện trên vùng đất gò Cổ Loa, có niên đại khoảng 2 vạn năm.
Qua các di tích khảo cổ đã được biết đến, “thời tiền sử ở Hà Nội trải
qua hai giai đoạn phát triển không liên tục”1, sớm nhất là hậu kì thời đại
đá cũ. Tập công cụ đá cuội ở Cổ Loa là dấu tích văn hoá tiền sử có niên đại

1
Lê Xuân Tùng (Cb) (2010), Bách khoa thư Hà Nội, tập 1, Nxb Thời đại, Hà Nội, tr. 22.
88 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

sớm nhất trên mảnh đất Hà Nội. Đến thời đại đá mới, cho đến nay vẫn
chưa phát hiện được các di tích trên mảnh đất Hà Nội. Cũng có ý kiến
cho rằng, thời kì này do biển tiến sâu vào đồng bằng Bắc Bộ, con người
phải lui về miền thượng du, vùng núi đá vôi và các thung lũng cao, dẫn
đến sự vắng mặt dấu tích của cuộc sống con người thời đại đá mới trên
vùng đất Hà Nội1.
Đầu thời đại đồ đồng, khoảng 4000 năm trước, con người liên tục
chiếm cứ, khai phá vùng đất cao ven các sông quanh Hà Nội và để lại
nhiều dấu tích. Thời kì văn hoá Phùng Nguyên, trên mảnh đất Hà Nội đã
phát hiện được 6 di tích văn hoá Phùng Nguyên: Văn Điển, Triều Khúc
thuộc huyện Thanh Trì; Ngõa Long thuộc huyện Từ Liêm; Đồng Vông
thuộc Đông Anh; Núi Xây, Yên Tàng thuộc huyện Sóc Sơn và di tích đàn
Xã Tắc, quận Đống Đa... Trong đó di tích Đồng Vông và Văn Điển đã thu
lượm được nhiều hiện vật phong phú và độc đáo, chủ yếu là đồ đá và
mảnh gốm. Các hiện vật phản ảnh đời sống vật chất và tinh thần của cư
dân Hà Nội sống trong thời kì văn hoá Phùng Nguyên.
Đặc biệt tại di chỉ Văn Điển đã phát hiện ra tượng người đàn ông bằng
đá, nó không những phản ánh óc thẩm mĩ của cư dân nơi đây mà còn
phản ánh địa vị của người đàn ông trong xã hội đương thời. Đến trung kì
đồ đồng - văn hoá Đồng Đậu, đã phát hiện ở Hà Nội tại các di tích: lớp
dưới Đình Tràng, Tiên Hội, Bãi Mèn, Xuân Kiều thuộc huyện Đông Anh;
hậu kì đồng thau - văn hoá Gò Mun, tại Hà Nội đã phát hiện một số di
tích thuộc lớp giữa di chỉ Đình Tràng huyện Đông Anh, lớp dưới các di
chỉ Dương Xá, Trung Mầu huyện Gia Lâm; Chùa Thông huyện Thanh Trì.
Như vậy từ thời hậu kì đá cũ đến các giai đoạn phát triển của thời kì
đồng thau (Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun) với các di tích, hiện vật
được phát hiện trên mảnh đất Hà Nội đã cho thấy cư dân nguyên thuỷ
đã sớm định cư trên vùng đất này. Với dấu tích của văn hoá Sơn Vi hậu
kì đá cũ, có thể hình dung người Sơn Vi chính là lớp người mở đất. Với
những dấu tích của văn hoá Phùng Nguyên phát hiện trên vùng đất này
còn cho thấy họ là lớp cư dân nông nghiệp đầu tiên khai phá vùng đất Hà
Nội, trồng lúa nước, đánh cá, làm gốm, luyện kim. Các hiện vật phát hiện

1
Phan Huy Lê (Cb), (2011), Lịch sử Thăng Long - Hà Nội, tập 1, Sđd, tr. 31.
Chương 4. Đặc trưng lịch sử Thăng Long - Hà Nội 89

được cũng đã bước đầu cho thấy đây là một khu vực đông dân cư, thuận
lợi cho việc phát triển kinh tế, cư dân bước đầu tạo nên những giá trị văn
hoá vật chất và tinh thần phong phú, đặt nền tảng cho vị thế là kinh sư
của thời kì dựng nước và giữ nước sau này. Với những dấu tích của văn
hoá Đồng Đậu, Gò Mun, Hà Nội đứng trước buổi bình minh của lịch sử.
Đến văn hoá Đông Sơn, cách đây khoảng 2000 đến 2500 năm, trên mảnh
đất Hà Nội đã phát hiện nhiều bộ sưu tập đồ đồng phong phú như trống
đồng, lưỡi cày đồng, mũi tên đồng... qua một số di tích như Hữu Châu,
gò Chùa Thông ở Thanh Trì; Trung Mầu, Đa Tốn ở Gia Lâm; Đình Tràng,
Đường Mây ở Đông Anh. Tại Hà Nội còn phát hiện ra mộ thuyền cách
ngày nay khoảng 2000 năm, đó là mộ thuyền Sông Tô (phát hiện tại địa
phận Làng Cát, xã Yên Hoà, huyện Từ Liêm) và mộ thuyền Nguyệt Áng
(phát hiện tại làng Nguyệt Áng xã Đại Áng huyện Thanh Trì). Đặc biệt
tại vùng đất Hà Nội các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều bộ sưu tập
mang nét đặc trưng của văn hoá Đông Sơn, đó là trống Cổ Loa 1, trống
Cổ Loa 2, trống đồng Ngọc Hà, lưỡi cày đồng Cổ Loa với nhiều loại (cánh
rộng, cánh bầu, cánh hẹp). Chiếm đa số các hiện vật tìm thấy ở Cổ Loa là
mũi tên đồng gồm hàng vạn chiếc tìm thấy ở Cầu Vực - Đông Anh đã cho
thấy trên vùng đất Hà Nội xưa, cư dân từ khắp nơi đã hội tụ về vùng đất
này gây dựng cuộc sống và đặt nền móng cho thời kì dựng nước.

4.1.2. Hà Nội trong thời kì hình thành nhà nước Văn Lang
Vào thế kỉ VII TCN, nhà nước Văn Lang của các vua Hùng được thành
lập, Đại Việt sử lược chép: “Đến đời Trang Vương nhà Chu (696 - 681 TCN)
ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật qui phục được các bộ lạc, tự
xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang, phong
tục thuần hậu chất phác, chính sự dùng lối kết nút. Truyền được 18 đời
đều gọi là Hùng Vương”1. Vùng đất Hà Nội thời Văn Lang tuy không là
kinh đô nhưng là vùng đất trọng yếu. Con người trên vùng đất Hà Nội
vào đầu thiên niên kỉ I TCN đã tiến lên thời đại đồ sắt sớm với nhiều di
tích thuộc văn hoá Đông Sơn. Đây chính là thời đại dựng nước trong lịch
sử Việt Nam, thời kì hình thành nhà nước đầu tiên, đặt nền móng cho
sự ra đời của quốc gia - dân tộc. Cùng với các di tích khảo cổ học, các

1
Việt sử lược, Q.I -1a, Bản dịch, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội 1960, tr.14.
90 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

truyền thuyết đi kèm cũng đã khẳng định thời kì nhà nước Văn Lang,
con người trên vùng đất Hà Nội đã đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh
chống thiên tai lũ lụt, chống giặc ngoại xâm qua các truyền thuyết về Sơn
Tinh, Thuỷ Tinh; Sông Tô Lịch, Phù Đổng Thiên Vương (Thánh Gióng),
đức Thánh Chèm Lý Ông Trọng, chuyện Rùa vàng trong Lĩnh Nam chích
quái,... Trên vùng đất Hà Nội có hai trung tâm tín ngưỡng dân gian in
đậm dấu ấn thời dựng nước là thần điện Ba Vì - Tản Viên và lễ hội Phù
Đổng. Đây chính là mạch nguồn quan trọng định hình khí phách của con
người Việt trong cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Cho đến nay,
dựa trên việc xác định vị trí và phạm vi của các bộ của nước Văn Lang
thì đất Hà Nội thuộc phạm vi các bộ Tây Vu, Chu Diên và Mê Linh1. Cư
dân vùng đất Hà Nội thời Văn Lang đông đúc hơn, sống chủ yếu vẫn là
nghề nông nghiệp trồng lúc nước kèm theo nghề chài lưới. Nghệ thuật
đúc đồng cũng đạt đến trình độ cao và bắt đầu bước vào thời kì đồ sắt với
những dấu tích của văn hoá Đông Sơn được phát hiện trên vùng đất Hà
Nội. Câu chuyện Thánh Gióng vào đời Hùng Vương thứ 6 cũng phần nào
xác nhận cư dân vùng đất này khi đó đã bước vào thời kỳ đồ sắt.

4.1.3. Hà Nội trong thời kì nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương
Vào năm 218 - 208 TCN, quân Tần do tướng Đồ Thư chỉ huy đem
50 vạn quân mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam và kéo vào nước ta. Dưới
sự lãnh đạo của Thục Phán, nhân dân Tây Âu và Lạc Việt đã chiến đấu anh
dũng và chiến thắng quân Tần. Sau đó Thục Phán thay thế Hùng Vương,
lập ra nước Âu Lạc (sự kết hợp giữa hai nhóm người Tây Âu và Lạc Việt),
chuyển kinh đô từ Bạch Hạc - Phong Châu chuyển xuống Phong Khê (Cổ
Loa - Đông Anh). Thục Phán lên ngôi tự xưng là An Dương Vương. Nhà
nước Âu Lạc chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn (khoảng 30 năm), vì vậy
gộp cả thời Văn Lang và Âu Lạc thành thời kì dựng nước. Trong thời kì nhà
nước Âu Lạc, do yêu cầu bức thiết của cuộc đấu tranh chống ngoại xâm
giữ nước nên nhân dân trên vùng đất Hà Nội đã có sự tiến bộ vượt bậc về
kĩ thuật quân sự với việc đúc được nhiều mũi tên đồng và đặc biệt chế tạo
ra loại nỏ bắn một phát được nhiều phát tên, thường gọi là nỏ Liên Châu,
trong truyền thuyết thì gọi là “nỏ Thần”. Đặc biệt một công trình lao động lớn,

1
Phan Huy Lê (Cb), 2012, Lịch sử Thăng Long - Hà Nội, tập 1, Sđd, tr.114.
Chương 4. Đặc trưng lịch sử Thăng Long - Hà Nội 91

một kiến trúc quân sự nổi tiếng thể hiện nhiều mặt phát triển của nhà
nước Âu Lạc đó là thành Cổ Loa. Đây vừa là một toà thành chính trị
nhưng cũng lại là một toà thành quân sự. Những năm đầu, cư dân vùng
Hà Nội dưới sự lãnh đạo của An Dương Vương với vũ khí tốt, toà thành
kiên cố đã nhiều lần đánh lui sự xâm lược của Triệu Đà. Sau nhiều lần
thất bại, thấy không thể tấn công bằng vũ lực, Triệu Đà đã dùng biện
pháp mua chuộc các tướng giỏi, gây chia rẽ nội bộ chính quyền của An
Dương Vương, cho con trai sang ở rể bên Âu Lạc để ăn cắp bí mật quân
sự. An Dương Vương sai lầm, mất cảnh giác, không nhận ra sự nham
hiểm của kẻ thù nên “nỏ thần vô ý trao tay giặc” để đến nỗi “cơ đồ chìm
đắm biển sâu”. Từ những câu chuyện dân gian truyền lại đến những
di tích tìm thấy qua khai quật trên vùng đất Cổ Loa đều cho thấy nhân
dân Hà Nội thời Âu Lạc đã kiên cường chống giặc ngoại xâm bảo vệ quê
hương của mình. Qua các câu chuyện còn cho thấy cả tài năng, sự sáng
tạo của con người trên vùng đất Hà Nội xưa.

4.1.4. Hà Nội trong hơn nghìn năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc
Năm 179 TCN, Triệu Đà đã chiếm được thành Cổ Loa của An Dương
Vương. Đây cũng là mốc khởi đầu nghìn năm Bắc thuộc đau thương
trong lịch sử Việt Nam. Các triều đại phong kiến Trung Quốc từ Triệu,
Hán, Lục Triều đến Tuỳ, Đường đã kế tiếp nhau cai trị nước ta. Từ đó Âu
Lạc trở thành vùng đất phía Nam thuộc Trung Quốc. Đất Âu Lạc bị chia
đi, chia lại nhiều lần và vùng đất Hà Nội xưa về mặt hành chính cũng
có sự thay đổi. Năm 106 TCN, nhà Hán đặt châu Giao Chỉ thống suất
7 quận nội địa, trong đó có quận Giao Chỉ nằm ở trung tâm, có vai trò
quan trọng bậc nhất. Địa bàn của quận Giao Chỉ cơ bản bao trọn khu vực
Bắc Bộ gồm cả miền đồng bằng châu thổ và rừng núi Đông Bắc. Theo sách
Tiền Hán thư, Địa lí chí thì quận Giao Chỉ gồm có 10 huyện: Liên Lâu (Luy
Lâu), An Định, Câu Lậu, Mê Linh, Khúc Dương, Bắc Đái, Kê Từ, Tây Vu,
Long Biên, Chu Diên. Vùng đất Hà Nội thời thuộc Hán nằm trên phạm vi
4 huyện Mê Linh, Tây Vu, Chu Diên và Liên Lâu (Luy Lâu). Đây là những
huyện ở vị trí trung tâm và quan trọng nhất của quận Giao Chỉ. Đối chiếu
với bản đồ hành chính Hà Nội ngày nay thì toàn bộ vùng đất Hà Nội mở
rộng từ ngày 1-8-2008 nằm trong quận Giao Chỉ dưới thời Tây Hán.
92 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Cho đến trước thế kỉ V, trên vùng đất Hà Nội mở rộng ngày nay,
trước đây đã từng tồn tại những trụ sở của chính quyền cai trị phương
Bắc như Mê Linh, hoặc gần những trụ sở của chính quyền cai trị như
Long Biên, Luy Lâu (thuộc Bắc Ninh). Dù có đặt trụ sở ở vùng đất
này hay không thì đây vẫn là vùng đất có tiềm năng kinh tế lớn, dân
cư nơi đây đông đúc, sớm có tinh thần yêu nước, quật khởi khiến các
chính quyền đô hộ rất lo ngại. Mở đầu cho thời kì đấu tranh chống Bắc
thuộc trên địa bàn Hà Nội là cuộc khởi nghĩa Tây Vu Vương vào năm
111 TCN. Cuộc khởi nghĩa này còn mở đầu toàn bộ trang sử chống Bắc
thuộc oai hùng của dân tộc1.
Năm 40, cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng diễn ra, chống lại ách thống
trị nhà Đông Hán. Theo truyền thuyết thì trên vùng đất nay là Hà Nội đã
có nhiều người theo Hai Bà đánh giặc, trở thành những tướng lĩnh xuất
sắc, cụ thể như: “Ở quận Đống Đa có ba anh em họ Đào; huyện Đông Anh
có Đào Kì, Phương Dung, Đông Bằng, Thuỷ Hải, Đăng Giang, Khổng
Chúng, Vĩnh Huy. Ở huyện Gia Lâm có Thành Công, Ông Đô, Ông Hiển,
Ông Lang, Khoả Ba Sơn, Nàng Quốc, Ông Đống, Ông Hựu. Huyện Thanh
Trì có Nàng Tía, Triệu Tam Trinh. Huyện Từ Liêm có Quách Lãng, Tĩnh
Lương, Bạch Lương, Vĩnh Gia, Ả Lã, Nàng Đế....”2. Cuộc khởi nghĩa Hai
Bà Trưng biểu hiện cho ý chí độc lập và tinh thần đấu tranh chống ngoại
xâm của dân tộc, nó để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm thức người dân Hà
Nội với đền thờ Hai Bà Trưng tại quận Hai Bà Trưng và nhiều đền miếu
thờ các tướng lĩnh nghĩa quân tại nội thành và ngoại thành Hà Nội.
Thế kỉ thứ V, huyện Tống Bình thuộc quận Giao Chỉ được thành lập,
huyện lị ở bờ Bắc sông Tô, tức vùng đất Hà Nội ngày nay. Sau đó huyện
Tống Bình trở thành quận Tống Bình (gồm ba huyện, huyện Xương Quốc
bờ bắc sông Hồng, đến tận Cổ Loa - Đông Anh ngày nay; huyện Nghĩa
Hoài, Tuy Ninh vùng đất phía Nam sông Hồng thuộc nội thành Hà Nội

1
Phan Huy Lê (cb), 2012, Lịch sử Thăng Long - Hà Nội, tập 1, Sđd, tr.168. Tây Vu Vương là thủ
lĩnh huyện Tây Vu, là dòng dõi của An Dương Vương. Sau khi Âu Lạc bị rơi vào tay nhà
Triệu, Tây Vu Vương đã lấy thành Cổ Loa căn cứ lãnh đạo nhân dân nổi dậy khởi nghĩa
nhằm giành lại độc lập nhưng đã bị thất bại.
2
Lê Xuân Tùng, Bách khoa thư Hà Nội, tập 1, Sđd, tr.74.
Chương 4. Đặc trưng lịch sử Thăng Long - Hà Nội 93

ngày nay). Bắt đầu từ đây trụ sở của chính quyền cai trị dần dần dịch
chuyển vào vùng đất nội thành Hà Nội ngày nay.
Mùa xuân năm 542, Lý Bí đã phất cờ khởi nghĩa. Đây là sự kiện đánh
dấu một mốc son quan trọng trong lịch sử ngàn năm chống Bắc thuộc. Nhà
Tiền Lý không chỉ đánh bại các cuộc phản kích của quân Lương ở phía Bắc
và cuộc xâm lấn của quân Chămpa ở phía Nam mà còn xây dựng một triều
đình riêng, có quy mô đế vương. Theo Đại Việt sử kí toàn thư “Mùa xuân,
tháng giêng, vua nhân thắng giặc, tự xưng Nam Việt Đế, lên ngôi, đặt niên
hiệu, lập trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân, ý mong cho xã tắc truyền
đến muôn đời vậy. Dựng điện Vạn Thọ làm nơi hội triều, lấy Triệu Túc làm
Thái phó, bọn Tinh Thiều, Phạm Tu đều làm tướng văn, tướng võ”1. Ngay
từ đầu cuộc khởi nghĩa, lực lượng tham gia đã có những người con trên
đất Hà Nội như Phạm Tu (có đền thờ tại Thanh Liệt, Thanh Trì - Hà Nội),
Lý Phục Man (quê ở Yên Sở - Hoài Đức - Hà Nội ngày nay)… Lý Nam Đế
đặt quốc hiệu là Vạn Xuân với ước nguyện “mong xã tắc truyền đến muôn
đời”. Tên nước mà Lý Nam Đế đặt còn lưu lại trong địa danh thành Vạn
Xuân của Thăng Long thời Lý và tên đầm Vạn Xuân (hay Vạn Xoan) còn
được nhắc đến trong sử sách. Lý Bí là người đầu tiên trong lịch sử Việt
Nam nhận ra vị trí trung tâm bờ cõi của vùng đất ngã ba sông Nhị Hà - Tô
Lịch và đã chọn khu vực cửa sông Tô Lịch thông với Nhị Hà (tức vùng đất
Thăng Long - Hà Nội cổ) làm vùng đất đóng đô. Về tư tưởng, tôn giáo Đạo
Phật từ Ấn Độ đã được truyền vào nước ta từ sớm mà trung tâm là Chùa
Dâu (Luy Lâu - Thuận Thành - Bắc Ninh). Một phần do ảnh hưởng của đạo
Phật và một phần ước nguyện mở đầu một thời kì mới xây dựng đất nước
độc lập nên Lý Bí đã cho xây dựng chùa Khai Quốc (Mở Nước), lúc đầu
xây ở ngoài đê, sau chuyển vào phía trong đảo Cá Vàng của Hồ Tây mà dấu
tích ngày nay chính là Chùa Trấn Quốc ở Hà Nội.
Đầu thế kỉ thứ VII, nhà nước Vạn Xuân sụp đổ, miền đất ngã ba sông
Tô - sông Hồng không còn là kinh đô của cả nước, nhưng không phải vì
vậy mà vị trí trung tâm của nó không còn. Các triều đại đô hộ phương Bắc,
như nhà Tuỳ, nhà Đường đều đóng trụ sở tại đây, thay vì đóng tại Luy Lâu,
Long Biên như những triều đại trước. Năm 607, nhà Tuỳ chuyển trụ sở

1
Đại Việt sử kí toàn thư, tập 1 (2010), Sđd, tr.179.
94 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

quận Giao Chỉ về Tống Bình (nội thành Hà Nội). Từ đây, vùng đất trung
tâm nội thành Hà Nội ngày nay chính thức trở thành thủ phủ của chính
quyền đô hộ phương Bắc. Đây cũng là sự kiện mở đầu cho quá trình hình
thành đô thị với hệ thống thành luỹ và thị dân tại vùng đất Hà Nội. Đặc
biệt đến thời nhà Đường cai trị, trong suốt ba thế kỉ thống trị nước ta, nhà
Đường đã không ngừng xây dựng, gia cố, sửa đắp thành luỹ, trong đó
đợt đắp thành lớn nhất là năm 866, Tiết độ sứ Cao Biền đã tổ chức đắp
lại La Thành, đây là toà thành có qui mô lớn nhất được đắp trên miền
trung tâm của Hà Nội. Một trong những mục đích củng cố và sửa đắp
La Thành là để đối phó với các cuộc nổi dậy và tấn công của nhân dân cả
nước trong đó đặc biệt là các cuộc nổi dậy của nhân dân Hà Nội xưa. Các
cuộc khởi nghĩa chống ách đô hộ của nhà Đường đều có sự tham gia tích
cực của nhân dân vùng đất Hà Nội. Từ cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc
Loan (713 -722) tại vùng Đường Lâm, Mai Thúc Loan đã liên kết với hào
trưởng Phùng Hạp Khanh (cha của Phùng Hưng) xây dựng lực lượng,
chuẩn bị tấn công vào thành Tống Bình. Truyền thuyết cho biết, trong đội
quân của Phùng Hạp Khanh có sự tham gia của đông đảo nhân dân vùng
Đường Lâm và những thành viên trong gia đình ông. Hiện nay tại đền
Dục Anh (thôn Hoà Mục, xã Trung Hoà, Từ Liêm - Hà Nội) vẫn còn thờ
một vị nữ tướng đã từng tham gia khởi nghĩa của Mai Thúc Loan, đó là
bà Phùng Thị Thảo, con gái của Phùng Hạp Khanh.
Nửa sau thế kỉ thứ VIII, nhân lúc chính quyền trung ương nhà Đường
ngày càng suy yếu, bọn quan lại đô hộ nước ta ra sức bóc lột nhân dân,
đánh thuế nặng, lòng dân oán giận. Lợi dụng khi quân lính ở thành Tống
Bình nổi dậy chống quan lại đô hộ, Phùng Hưng đã phát động một cuộc
khởi nghĩa lớn chống lại ách đô hộ của nhà Đường. Năm 766, Phùng
Hưng cùng em trai là Phùng Hải lãnh đạo nghĩa quân nổi dậy làm chủ
Đường Lâm, trên đà thắng lợi kéo về thành Tống Bình, nhân dân các
vùng lân cận tham gia hưởng ứng. Ông tổ chức vây thành Tống Bình,
viên quan đô hộ giữ thành lúc đó là Cao Chính Bình bị vây hãm lâu ngày,
lo lắng quá đã phát bệnh mà chết. Phùng Hưng vào ở phủ thành, tổ chức
việc cai trị được 7 năm thì mất, con là Phùng An lên thay, làm chủ thêm
được 2 năm thì nhà Đường cử Triệu Xương sang làm Đô hộ An Nam.
Chương 4. Đặc trưng lịch sử Thăng Long - Hà Nội 95

Triệu Xương dùng thủ đoạn mang lễ vật đến dụ Phùng An ra hàng.
Năm 791, Phùng An đã hàng nhà Đường, cuộc khởi nghĩa thất bại.
Tiếp sau khởi nghĩa của Phùng Hưng, vào năm 819, khi Dương
Thanh cùng con là Chí Liệt khởi nghĩa đánh chiếm thành Tống Bình,
nhân dân trên vùng đất Hà Nội xưa đã tích cực hưởng ứng.

4.1.5. Hà Nội thời kỳ độc lập đầu tiên (Khúc - Dương - Ngô - Đinh - Tiền Lê)
Vào cuối thế kỉ thứ IX, nhà Đường đổ nát, nội tình bên Trung Quốc
bị phân liệt thành cục diện “Ngũ đại thập quốc” (907 - 960), đây chính là
điều kiện khách quan thuận lợi để nhân dân ta đứng lên đấu tranh giành
lại nền độc lập.
Năm 905, Khúc Thừa Dụ - một hào trưởng vùng Hồng Châu (Hải
Dương), tài đức vẹn toàn, được sự ủng hộ của nhân dân đã đứng lên
khởi nghĩa, kéo đại quân tiến vào thành Đại La, lật đổ chính quyền đô
hộ của nhà Đường, tự xưng Tiết độ sứ. Trên thực tế, Khúc Thừa Dụ đã
xây dựng một chính quyền tự chủ. Nhà Đường đã buộc phải công nhận
Khúc Thừa Dụ là Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ. Đầu năm 906, vua Đường
phải phong thêm cho Khúc Thừa Dụ tước Đồng bình chương sự, coi giữ
đất An Nam. Từ vùng đất Đại La, con trai Khúc Thùa Dụ là Khúc Hạo
khi lên thay cha đã có nhiều cải cách cải thiện đời sống nhân dân, chăm
lo xây dựng nền độc lập dân tộc. Sau Khúc Hạo là Khúc Thừa Mĩ lên
nắm quyền. Đến năm 930 thành Đại La lại bị rơi vào tay quân Nam Hán.
Trong khoảng thời gian từ năm 905 đến năm 930, tuy chưa trọn vẹn,
nhưng họ Khúc đã đặt nền móng vững chắc cho cuộc đấu tranh tiến tới
độc lập hoàn toàn.
Sau họ Khúc đến thời kì họ Dương. Dương Đình Nghệ người Thanh
Hoá, vốn là một viên quan từ thời họ Khúc. Khi Khúc Thừa Mĩ bị quân
Nam Hán bắt, ông đã ra sức chiêu mộ binh lính chuẩn bị chiến đấu
chống quân Nam Hán. Năm 931, Dương Đình Nghệ từ Châu Ái đưa
quân ra chiếm được thành Đại La, xưng làm Tiết độ sứ. Đến năm 937,
Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết hại. Sau khi đoạt được chức
Tiết độ sứ, Kiều Công Tiễn cầu cứu quân Nam Hán. Nhân dân cả nước
nói chung và nhân dân Hà Nội lúc đó nói riêng, rất căm phẫn trước hành
động này. Năm 938, Ngô Quyền (người làng Đường Lâm) kéo quân từ
96 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

châu Ái ra hạ thành Đại La, tiêu diệt Kiều Công Tiễn. Sau đó ông tổ chức
đóng cọc trên sông Bạch Đằng để chặn đánh quân xâm lược Nam Hán.
Chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938 là một chiến
công hiển hách, một bước ngoặt vĩ đại của lịch sử Việt Nam. Nó chấm
dứt vĩnh viễn ách đô hộ nghìn năm của phương Bắc, mở ra thời kì độc
lập lâu dài cho dân tộc.
Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, quyết định đóng đô ở Cổ Loa -
kinh đô cũ của nước Âu Lạc. Cổ Loa lại trở thành kinh đô lần thứ hai sau
thời kì An Dương Vương. Đến năm 944, Ngô Quyền mất, các thế lực địa
phương nhân đó nổi dậy cát cứ, đất nước rơi vào loạn 12 sứ quân. Sau
khi dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, năm 968 Đinh Bộ Lĩnh
lên ngôi hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư. Tuy
không còn vị thế trung tâm đất nước như trước, nhưng Hà Nội xưa vẫn
là nơi đất có sức hút đối với các vùng lân cận, dân chúng tụ họp về đây
đông vui và buôn bán tấp nập.
Như vậy, thời kì tiền Thăng Long (trước thế kỉ XI), đặc trưng nổi
bật của lịch sử của vùng đất này:
Là cái nôi của nền văn minh sông Hồng, là một trong những nơi
định hình tính cách và lối sống của người Việt cổ.
Là vùng đất sớm bước vào thời kì dựng nước và giữ nước, điển
hình với thành Cổ Loa - kinh đô của nhà nước Âu Lạc.
Là vùng đất sớm nằm trung tâm cai trị của chính quyền đô hộ
phương Bắc, chịu ảnh hưởng ít nhiều của văn hoá Trung Hoa nhưng
không bị Hán hoá mà đã Việt hoá các yếu tố văn hoá, kinh tế, xã hội,
thậm chí cả con người (nhiều thủ lĩnh của các cuộc khởi nghĩa chống
phong kiến phương Bắc vốn gốc là người phương Bắc).
Đây là nơi đầu tiên diễn ra các cuộc đấu tranh chống chế độ cai trị
của các triều đại phong kiến phương Bắc, mở đầu cho cuộc đấu tranh
lâu dài chống Bắc thuộc (khởi nghĩa Tây Vu Vương, khởi nghĩa Hai Bà
Trưng) và luôn luôn là tâm điểm của các cuộc đấu tranh khi đã phát triển
trên quy mô lớn và hướng đến mục tiêu đánh đổ toàn bộ chính quyền đô
hộ (các cuộc khởi nghĩa chống ách đô hộ của nhà Đường)...
Chương 4. Đặc trưng lịch sử Thăng Long - Hà Nội 97

Là nơi khởi đầu cho ý tưởng đặt kinh đô, xây dựng nền tự chủ lâu
dài cho đất nước (Lý Bí là người đầu tiên chọn đặt kinh đô Vạn Xuân trên
vùng đất này) và đây cũng là địa bàn mà ngay từ khi sáng lập Vương
triều Lý, Lý Công Uẩn đã nhận thấy nó đã hội đủ được các yếu tố “thiên
thời”, “điạ lợi”, “nhân hòa” cho việc xây dựng kinh đô mãi mãi muôn đời
cho đất nước.

4.2. Hà Nội thời kỳ Thăng Long (từ năm 1010 đến năm 1802)

4.2.1. Thăng Long từ năm 1010 đến năm 1400


Thời Tiền Lê sau khi vua Lê Long Đĩnh mất, được sự tiến cử của Chi
hậu Đào Cam Mộc, được các quần thần trong triều ủng hộ, năm 1009 Lý
Công Uẩn lên ngôi Thiên tử. Với tầm nhìn của một nhà chiến lược thiên
tài, Lý Công Uẩn đã chọn vùng đất Đại La làm nơi định đô. Lý Thái Tổ
xác định vị thế tối quan trọng của khu vực này: “... Ở trung tâm bờ cõi đất
nước, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi; vị trí ở giữa bốn phương Đông, Tây, Nam,
Bắc; tiện hình thế núi sông sau trước. Ở đó địa thế rộng mà bằng phẳng, vùng
đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ về ngập lụt, muôn vật rất phong phú tốt
tươi. Xem khắp nước Việt ta, chỗ ấy là nơi hơn cả, thật là chỗ hội họp của bốn
phương, là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời”1. Mùa thu năm 1010,
Lý Công Uẩn từ thành Hoa Lư, dời đô ra kinh phủ ở thành Đại La, tạm đỗ
thuyền dưới thành, “có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên
thành là Thăng Long”. Kể từ đó, Thăng Long chính thức trở thành kinh
đô của quốc gia Đại Việt và Thăng Long đã giữ vai trò này gần như liên
tục trong gần 10 thế kỉ qua.
Thăng Long thời Lý được quy hoạch rộng rãi, định hình rõ qui mô
của một đô thị - kinh kì. Bên trong thành nội, Hoàng thành có 4 cửa mở
ra 4 hướng vừa là bốn cửa thành vừa là bốn cửa chợ. Quanh Thăng Long
và ở khu vực phía ngoài Hoàng thành dân cư, xóm làng đông đúc và vẫn
còn nhiều rừng rậm, đầm lầy,...
Năm 1054, Lý Thánh Tông lên ngôi, chính thức đặt quốc hiệu Đại Việt.
Một trong những chính sách rất quan trọng thời Lý là tổ chức, xây dựng

1
Đại Việt Sử kỉ toàn thư, Sđd, tập 1, tr. 241.
98 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

lực lượng vũ trang theo chính sách “ngụ binh ư nông” (gửi binh ở nhà
nông), nhờ vậy nông nghiệp cũng có lực lượng sản xuất và khi đất nước
có chiến tranh huy động cũng dễ dàng. Thế kỉ XI, nhân dân Thăng Long
đã cùng cả nước đánh tan quân xâm lược Tống, bảo vệ kinh đô, bảo vệ
đất nước. Trong số những người con của Thăng Long nổi bật là nhân
vật Lý Thường Kiệt. Ông vốn tên là Ngô Tuấn, người phường Thái Hoà,
huyện Thọ Xương. Từ nhỏ là người đã có chí hướng, đọc sách, nghiên
cứu binh thư, luyện tập võ nghệ. Từ một chức quan thị vệ trong cung thời
Lý Thái Tông, do tài năng và đức độ, ông đã trở thành một võ tướng mưu
lược, giữ chức Thái Phó thời Lý Thánh Tông. Năm 1069, ông đã được cử
làm tướng tiên phong cùng Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, bắt
được vua Chiêm là Chế Củ. Do có nhiều công lao, ông được vua nhận
làm con nuôi và đổi sang họ Lý (Lý Thường Kiệt). Trước âm mưu xâm
lược của quân Tống, Lý Thường Kiệt đã dùng kế “tiên phát chế nhân”
(ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của
giặc). Sau đó lại cùng nhân dân Thăng Long và nhân dân cả nước xây
dựng phòng tuyến chặn giặc ở các lộ, các châu ở phía Bắc. Đồng thời ông
còn đích thân kinh lí xuống phía Nam để tuyên cáo tin thắng trận, vẽ lại
địa đồ ba châu Bố Chính, Địa Lí, Ma Linh (thuộc Quảng Bình, Quảng Trị
ngày nay), chiêu mộ dân chúng đến ở và tăng cường lực lượng trấn giữ
biên giới, vì vậy Chiêm Thành và Chân Lạp không dám động binh theo
chiếu dụ của triều Tống.
Trong cuộc chiến đấu chống quân Tống (1075-1077) còn có những
người con của Thăng Long, không kể xuất thân quyền quý, khi đất nước
lâm nguy thì lao vào đánh giặc, sẵn sàng làm mọi việc để lo giữ gìn giang
sơn, xã tắc. Đó là hai hoàng tử con vua: Hoằng Chân và Chiêu Văn đã anh
dũng hy sinh khi đem quân chặn địch, không cho giặc tiến vào Thăng
Long. Đó là Nguyên phi Ỷ Lan, người phụ nữ tài ba, chăm lo việc nước,
chăm lo hậu phương để vua Lý đi đánh phương Nam. Khi đất nước yên
bình thì người Thăng Long chăm lo sản xuất, khi đất nước nguy nan thì
họ anh dũng quả cảm, sẵn sàng chiến đấu hy sinh.
Nhà Lý đóng đô ở Thăng Long từ 1010 đến 1226, qua 9 đời vua trong
đó vua cuối cùng là vua bà Lý Chiêu Hoàng.
Chương 4. Đặc trưng lịch sử Thăng Long - Hà Nội 99

Nhà Trần được thành lập nhờ mưu kế của Thái sư Trần Thủ Độ,
thông qua cuộc hôn nhân giữa Lý Chiêu Hoàng với Trần Cảnh. Năm 1226,
Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng, bắt đầu thời kì nắm quyền của
nhà Trần từ năm 1226 đến năm 1400.
Kinh thành Thăng Long đời Trần được quy hoạch lại thành hai khu
riêng là cung Thánh Từ (cung Thượng Hoàng) và cung Quan Triều (cung
Vua). Bên cạnh Thăng Long, Thiên Trường cũng được xây dựng thành
kinh đô thứ hai, chủ yếu làm nơi ở và làm việc của Thái Thượng Hoàng.
Dưới thời Trần, kinh thành Thăng Long ba lần thắng quân xâm lược
Mông - Nguyên.
Kháng chiến lần thứ nhất với chiến thắng Đông Bộ Đầu năm 1258:
Thế kỉ XIII, vó ngựa của quân Mông Cổ có mặt ở nhiều nơi trên thế
giới (Đông Á, Trung Á, Tây Á và Đông Âu). Quân Mông Cổ do Khubilai
(Hốt Tất Liệt) thống lĩnh đã đánh chiếm nửa phía Bắc của Trung Quốc và
chuẩn bị kế hoạch tấn công Đại Việt, để từ đó mở thêm hướng đánh lên
phía Bắc, tiêu diệt Nam Tống. Trước khi vào Đại Việt, quân Mông Cổ đã
nhiều lần cho sứ giả đến Thăng Long dụ hàng vua Trần Thái Tông nhưng
nhà vua đã không một chút kiêng sợ, đã ra lệnh tống giam tất cả các sứ
giả Mông Cổ vào ngục. Đồng thời, ra lệnh cho cả nước chuẩn bị vũ khí
đánh giặc Mông Cổ. Trần Quốc Tuấn được cử làm tổng chỉ huy quân
đội. Cuối năm 1257, tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy
khoảng 4 vạn kỵ binh kéo vào nước ta, theo đường bộ dọc sông Hồng
tiến về Thăng Long. Trước thế giặc mạnh, nhà vua đã quyết định rút khỏi
kinh đô Thăng Long để bảo toàn lực lượng. Cuộc rút lui chiến lược của
quân đội và triều đình được chuẩn bị chu đáo. Tinh thần chiến đấu của
vua tôi nhà Trần không hề nao núng dù phải rút lui nhưng bên cạnh vua
đều có những bề tôi yêu nước. Trần Thủ Độ với câu nói “Đầu tôi chưa rơi
xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” đã củng cố tinh thần và quyết tâm của vua
tôi nhà Trần và cũng là ý chí của toàn quân, toàn dân Đại Việt khi đó. Khi
quân Mông Cổ kéo vào Thăng Long, chỉ thấy một kinh thành vắng bóng
người, chỉ có mấy tên sứ giả bị nhốt trong ngục, bọn giặc điên cuồng tàn
phá kinh thành, đốt cung điện để trả thù. Quân Mông Cổ bị rơi vào thế
thiếu lương thảo cho cả người và ngựa, chúng phải đi cướp phá những
100 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

vùng xung quanh, đi đến đâu cũng gặp phải sự kháng cự của nhân dân
các làng ngoại thành. Tiêu biểu là cuộc chiến đấu bảo vệ xóm làng của
dân làng Cổ Sở (nay là xã Yên Sở - Thanh Trì - Hà Nội), khiến cho quân
Nguyên phải chùn bước.
Quân giặc vào Thăng Long không có lương thảo, chúng không dám
đóng quân trong thành, cũng không dám phân tán lực lượng mà phải ra
đóng trại ở bến Đông Bộ Đầu (phố Hàng Than - Quận Ba Đình ngày nay).
Chiến lược đánh nhanh thắng nhanh và cướp lương thực tại chỗ nuôi quân
của giặc bị thất bại, chúng phải án binh bất động. Nhân cơ hội đó, vua
Trần Thái Tông và Thái sư Trần Thủ Độ bàn với các tướng đánh úp giặc.
Quân Trần chia làm hai cánh thuỷ bộ, tấn công vào đại bản doanh của
địch. Bị bất ngờ địch tháo chạy, có tên không kịp mặc giáp, ngựa không
kịp đóng yên chạy về hướng Vân Nam - Trung Quốc. Trên đường chúng
chạy, đến trại Quy Hoá (Phú Thọ) lại bị dân binh dưới sự chỉ huy của Hà
Bổng đánh bại. Như vậy sau 9 ngày chiếm đóng Thăng Long, quân Mông
Cổ đã hoàn toàn bị thất bại.
Chiến thắng Đông Bộ Đầu vang vọng mãi trong lịch sử kinh thành
Thăng Long. Đó là niềm tự hào và sự cổ vũ to lớn của quân dân Thăng
Long và nhân dân cả nước, tạo niềm tin để nhân dân ta tiếp tục giành
thắng lợi ở những trận tiếp theo.
Kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ hai (1285): Tiêu biểu là trận
Chương Dương - Thăng Long (6-1285):
Sau khi diệt Nam Tống (Trung Quốc), Hốt Tất Liệt lên làm vua, lập
lên triều Nguyên (1271-1368). Trong quan hệ ngoại giao, nhà Nguyên
ngày càng lấn tới đe doạ và thậm chí còn ép triều đình nhà Trần phải đầu
hàng, đây là cớ để phát động chiến tranh xâm lược.
Trước nguy cơ chiến tranh đến gần, triều đình cùng nhân dân chuẩn
bị mọi mặt để chống giặc. Năm 1282, vua Trần tổ chức Hội nghị Bình Than,
cùng với các vương hầu tướng lĩnh bàn kế phòng, đánh quân Nguyên. Tại
Hội nghị Bình Than những mâu thuẫn nội bộ trước đây trong giới quý tộc
nhà Trần được gỡ bỏ, tất cả đều chung lòng để chuẩn bị bảo vệ Tổ quốc.
Trần Quốc Toản còn nhỏ tuổi không được đi đánh giặc đã bóp nát quả cam
và về chuẩn bị lực lượng dẫn quân giương cao ngọn cờ có thêu sáu chữ
Chương 4. Đặc trưng lịch sử Thăng Long - Hà Nội 101

“Phá cường địch, báo hoàng ân” gây xúc động lòng người. Sau đó tại điện
Diên Hồng ở kinh thành Thăng Long, nhà vua đã mời các bô lão trong cả
nước đến để bàn kế đánh giặc. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn được
phong làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh quân đội và ban bố Hịch tướng
sĩ cổ vũ quyết tâm kháng chiến trong toàn quân. Lời hịch là tiếng gọi tha
thiết của non sông đất nước, lay động hàng vạn con tim, tràn đầy hùng khí
thôi thúc tất cả mọi người đứng lên chống giặc.
Năm 1285, khoảng 60 vạn quân Nguyên theo ba hướng tấn công vào
Đại Việt. Trước thế địch mạnh, lần thứ hai, vua tôi nhà Trần lại rút khỏi
kinh thành Thăng Long. Đến mùa hè năm 1285, quân Nguyên kéo vào
nước ta, một mặt bị vua tôi nhà Trần cùng nhân dân phục kích tiêu diệt,
mặt khác do thời tiết nóng bức, địch không quen thuỷ thổ, sinh bệnh ốm
đau cùng lúc lại thiếu lương thảo, đây là thời cơ thuận lợi để ta tiêu diệt
địch lấy lại kinh thành Thăng Long. Nổi bật trong cuộc kháng chiến chống
quân Nguyên lần hai tại Thăng Long có chiến thắng ở A Lỗ, Tây Kết - Hàm
Tử gắn với công lao của Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản... và đặc biệt là
trận Chương Dương, với công lao của Trần Quang Khải. Sách Việt sử thông
giám cương mục chép: “Trước đây, Thượng tướng Quang Khải, Hoài Văn
hầu Quốc Toản đem quân dân đánh các lộ đánh bại được quân Nguyên ở
Chương Dương, thu phục kinh thành”1. Âm hưởng về những chiến công
của vua tôi nhà Trần còn vang mãi trong bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư của
Trần Quang Khải:
“Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san”
(Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu).

1
Việt sử thông giám cương mục, tập 1, Sđd, tr. 524.
102 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ ba (1287 -1288):


Sau hai lần thất bại, Hốt Tất Liệt lại tổ chức xâm lược nước ta lần thứ
ba. Khác với hai lần trước, lần này có thêm cánh quân thuỷ mang theo
lương thảo đầy đủ. Lần thứ ba này, quân Nguyên dồn sức lực của cả đế
chế mạnh để quyết tâm xâm chiếm nước ta.
Qua kinh nghiệm dầy dạn của hai lần kháng chiến trước, đến lần thứ
ba, Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã chủ động
đề ra kế hoạch đánh giặc. Lần thứ ba, cả triều đình bước vào cuộc kháng
chiến với khí thế quyết tâm tự tin. Đến lần thứ ba, vua tôi nhà Trần cùng
nhân dân lại tiếp tục rút khỏi kinh thành Thăng Long.
Khi đoàn lương thảo của giặc do Trương Văn Hổ chỉ huy đã bị phó
tướng nhà Trần là Trần Khánh Dư tổ chức đánh bại, giặc hoảng hốt rút
chạy về nước. Thoát Hoan đóng quân ở kinh thành Thăng Long 32 ngày
rồi cũng phải rút chạy về Vạn Kiếp. Trên đường từ Vạn Kiếp rút về nước,
hai cánh quân thuỷ, bộ của Thoát Hoan bị quân dân Đại Việt chặn đánh.
Đặc biệt là trận đánh trên sông Bạch Đằng, dưới sự chỉ huy của Quốc
công Tiết chế Hưng Đạo Vương vừa kết hợp hoả công vừa lợi dụng thuỷ
triều lên, bên dưới là bãi cọc nên đã tiêu diệt toàn bộ cánh quân thuỷ của
địch. Thắng lợi này thể hiện tài thao lược của Trần Hưng Đạo, sự sáng tạo
của nhân dân, luôn biết kế thừa kinh nghiệm của cha ông trong cuộc đấu
tranh bảo vệ nền độc lập của dân tộc.
Thăng Long thế kỉ XIII, ba lần bị quân Mông - Nguyên tàn phá, vua
tôi phải rút khỏi kinh thành nhưng bài học về tinh thần đoàn kết, lòng
quyết tâm của toàn quân, toàn dân dưới sự chỉ huy của bộ máy lãnh đạo
giỏi sẽ chiến thắng mọi kẻ thù thì luôn luôn đúng ở mọi thời đại.

4.2.2. Thăng Long từ năm 1400 đến năm 1802


Cuối thế kỉ XIV, vương triều Trần suy yếu, có những biến động chính
trị dẫn đến kinh tế, xã hội đều lâm vào tình trạng khủng hoảng, rối ren.
Trong bối cảnh đó, tể tướng Hồ Quý Ly đã phế truất vua Trần Thiếu Đế,
giành ngôi lập ra vương triều Hồ (1400-1407).
Trước khi lên ngôi, từ mùa xuân năm 1397, Hồ Quý Ly đã cho xây
đô thành mới ở An Tôn (Vĩnh Lộc - Thanh Hoá). Sau ba tháng công việc
Chương 4. Đặc trưng lịch sử Thăng Long - Hà Nội 103

hoàn thành, Hồ Quý Ly đưa vua Trần Thuận Tông về đóng ở đây. Thành
mới gọi là Tây Đô, Thăng Long lúc đó đổi là Đông Đô. Tuy mất vị thế
trung tâm chính trị cả nước nhưng Thăng Long - Đông Đô vẫn là trung
tâm kinh tế, văn hóa lớn nhất của đất nước, nơi tụ hội bốn phương và
còn vì Tây Đô “ở nơi chật hẹp, hẻo lánh, cuối nước, đầu non”, thiên về là một
thành đô về quân sự nên khó có thể thay thế được vị thế của Đông Đô.
Trước âm mưu xâm lược của nhà Minh, triều đình nhà Hồ cũng tổ
chức chuẩn bị kháng chiến nhưng đường lối kháng chiến sai lầm, một
phần vị thế của nhà Hồ trong lòng nhân dân vẫn bị coi là triều đại do
“tiếm đoạt” mà có. Vì vậy mà lòng dân chưa thuận, cuộc kháng chiến của
nhà Hồ thất bại. Từ năm 1407 đến năm 1427, giặc Minh sang xâm lược, đô
hộ nước ta, chúng thi hành các chính sách đàn áp dã man làm lòng người
uất hận. Thành Đông Đô lúc đó bị quân Minh đổi thành Đông Quan.
Ngay khi quân Minh đóng ở thành Đông Quan, nhiều cuộc nổi dậy
của nhân dân ngay trong thành và vùng ngoại ô đã thôi thúc, nhen nhóm
khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân cả nước trong cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc, đồng thời tạo tiền đề, chỗ đứng cho các cuộc khởi
nghĩa ở giai đoạn sau.
Năm 1418, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa từ miền Tây Thanh Hoá. Hào
kiệt bốn phương về Lam Sơn tụ nghĩa với ý chí quyết tâm xả thân cứu
nước, cứu dân. Trong những hào kiệt đến với Lê Lợi, có những người
con của Thăng Long - Đông Đô, đó là Nguyễn Trãi và Phạm Văn Xảo.
Nguyễn Trãi sau này đã trở thành người sát cánh cùng Lê Lợi lãnh đạo
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn; Phạm Văn Xảo cũng là vị tướng có nhiều
công lao trong hai trận quyết chiến chiến lược Tốt Động - Chúc Động
(1426) và Chi Lăng - Xương Giang (1427).
Sau khi nghĩa quân giành thắng lợi, để giữ “thể diện” cho “thiên
triều” và chính thức xác nhận những điều khoản đã cam kết, lễ đầu hàng
được tổ chức dưới hình thức Hội thề, địa điểm được chọn nằm ở phía
Nam thành Đông Quan. Hội thề Đông Quan là hội thề có một không hai
trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Lần đầu tiên trong lịch sử,
trên vùng đất Hà Nội xưa đã ghi nhận sự kiện những tướng lĩnh, quan
quân nhà Minh đã phải đầu hàng dưới hình thức một hội thề.
104 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, mở đầu triều đại nhà Lê, hiệu là Lê Thái Tổ.
Kinh đô của nhà Lê lại là Thăng Long xưa, còn được gọi là Đông Kinh.
Thăng Long dưới các triều vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông
đã đạt được một số thành quả trong việc củng cố vương triều và xây dựng
đất nước. Tuy vậy vẫn tồn tại bên trong nhiều mâu thuẫn cung đình phức
tạp với những vụ giết hại công thần và những mưu đồ tranh ngôi đoạt
quyền. Thăng Long đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực trong thời
kì Lê Thánh Tông nắm quyền (1460-1497): cải cách bộ máy nhà nước; ban
hành bộ luật Hồng Đức, định bản đồ cả nước gồm các phủ, châu, huyện,
xã của 12 đạo thừa tuyên, (đến năm 1471 thêm đạo thừa tuyên thứ 13
tại Quảng Nam). Khu vực kinh thành đầu thời Lê gọi là phủ Trung Đô,
đến thời Lê Thánh Tông đổi làm phủ Phụng Thiên gồm 2 huyện Quảng
Đức và Vĩnh Xương (về sau huyện Quảng Đức đổi thành huyện Vĩnh
Thuận, huyện Vĩnh Xương đổi thành huyện Thọ Xương). Cư dân của hai
huyện gồm nông dân, thợ thủ công, thương nhân sống trong các làng, các
phường. Thăng Long có 36 phường, mỗi huyện có 18 phường, quy hoạch
36 phường của Thăng Long - Hà Nội cũng bắt đầu từ đây. Phố phường
ở Thăng Long có các chợ buôn bán tấp nập. Đứng đầu phủ Phụng Thiên
là chức Phủ Doãn, thời Lê Thánh Tông có 13 Phụng Thiên Phủ Doãn thì
có 12 người đỗ tiến sĩ, trong đó có nhiều người có tài năng, uy tín, được
nhân dân mến mộ.
Dưới thời Lê sơ, Hoàng thành Thăng Long trải qua hai lần mở rộng
vào thời Lê Thánh Tông và Lê Tương Dực. Thời Lê Thánh Tông còn ban
hành luật Hồng Đức, bản đồ Hồng Đức, tổ chức quân đội qui củ, đào
tạo võ bị tại kinh thành (khu Giảng Võ). Đến thời nhà Lê giáo dục Nho
học rất được coi trọng, đặc biệt thời Lê Thánh Tông, thi cử đã trở thành
“đường thẳng của quan trường”. Bên cạnh hình thức tiến cử thì hình thức
thông qua thi cử để tuyển chọn quan lại được thể hiện rất rõ ở thời Lê sơ.
Năm 1484, Lê Thánh Tông cho lập bia đá khắc tên tiến sĩ dựng trước cửa
nhà Thái Học để ghi danh các tiến sĩ bắt đầu từ khoa thi Hội đầu tiên của
nhà Lê sơ vào năm 1442. Nhà Lê sơ lấy danh dự “bảng vàng bia đá” để cổ
vũ các sĩ tử và đề cao khoa cử của vương triều.
Đầu thế kỉ XVI, vương triều Lê bắt đầu suy yếu, bộc lộ nhiều yếu kém
trong điều hành đất nước. Năm 1527, Mạc Đăng Dung lên nắm quyền lập
Chương 4. Đặc trưng lịch sử Thăng Long - Hà Nội 105

lên triều Mạc (1527-1592). Thăng Long vẫn có vị trí là Kinh đô dưới vương
triều Mạc. Tôn thất nhà Lê chạy vào Thanh Hoá, được sự phò trợ của hai
dòng họ: Nguyễn (Nguyễn Kim) và họ Trịnh (Trịnh Kiểm) mạch lên đã
trở về Thăng Long đánh bại nhà Mạc, nhà Mạc phải chạy lên Cao Bằng.
Như vậy đến năm 1592, nhà Lê đã trở về Thăng Long, tiếp tục nắm quyền,
giai đoạn này gọi là giai đoạn Lê Trung Hưng.
Thế kỉ XVII, Thăng Long trở thành một đô thị phát triển, hàng hoá
phong phú, thương nhân nước ngoài đến định cư và buôn bán trong khu
đô thị nổi tiếng “Kẻ Chợ” sầm uất.
Thăng Long thế kỉ XVIII chứng kiến chế độ phong kiến suy yếu,
nhà Trịnh lộng hành, Thăng Long bị nạn kiêu binh, đời sống nhân dân
bị ảnh hưởng.
Năm 1771, khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ, lật đổ nhà Nguyễn ở Đàng
Trong. Năm 1786, Tây Sơn kéo quân ra Đàng Ngoài, tiêu diệt họ Trịnh,
trao lại quyền cho vua Lê, vua Lê Hiển Tông đã gả cô con gái yêu
của mình là công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ. Đến khi Lê Chiêu
Thống lên nắm quyền, quân Thanh kéo sang xâm lược. Vận mệnh dân
tộc bị lâm nguy. Nguyễn Huệ đã lên ngôi Hoàng đế, hiệu là Quang
Trung tiến quân ra Bắc. Thăng Long lừng lẫy chiến công với trận Ngọc
Hồi - Đống Đa, đánh tan 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh. Vương
triều Quang Trung đóng đô Phú Xuân (Huế), Thăng Long không còn là
kinh đô của cả nước, mà chỉ còn là lị sở của Bắc Thành.
Tóm lại, trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê, Mạc, Lê Trung Hưng
(từ thế kỉ thứ XI đến thế cuối kỉ thứ XVIII), Thăng Long - Đông Đô - Đông
Kinh không ngừng được củng cố, hoàn thiện và trở thành đầu não chính
trị của nhà nước phong kiến tập quyền. Từ cuối triều đại Tây Sơn tiếp sau
là nhà Nguyễn đã đóng đô ở Phú Xuân - Huế, Thăng Long không còn vị
thế là kinh đô. Trong khoảng thời gian từ thế kỉ XI đến cuối thế kỉ XVIII,
Thăng Long luôn là mục tiêu đánh chiếm hàng đầu của các thế lực ngoại
bang. Tại Thăng Long những quyết sách đánh giặc quan trọng đã được
đề ra và làm nên những chiến công vang dội của quân dân Đại Việt.
106 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

4.3. Hà Nội thời Nguyễn (từ năm 1802 đến năm 1945)
4.3.1. Hà Nội thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Năm 1802, Nguyễn Ánh lật đổ vương triều Tây Sơn, lập ra nhà
Nguyễn, Nguyễn Ánh lên ngôi hiệu là Gia Long. Thăng Long không còn vị
trí trung tâm chính trị mà chỉ là vị trí trấn lị của trấn Bắc Thành1. Năm 1804,
Gia Long đổi tên nước thành Việt Nam. Năm Gia Long thứ tư (1805), đổi
phủ Phụng Thiên thành phủ Hoài Đức, Thăng Long với nghĩa “Rồng bay”
đã đổi thành Thăng Long với ý nghĩa “thịnh vượng”. Đến năm 1831, Minh
Mệnh thực hiện cuộc cải cách hành chính, bãi bỏ địa danh Bắc Thành, chia
cả nước làm 31 tỉnh, đổi tên Thăng Long thành Hà Nội với vị thế chỉ còn
là một tỉnh. Dưới thời Nguyễn, Hà Nội bị thu hẹp, thành Thăng Long xưa
bị hạ thấp hơn. Tuy vị trí hành chính giảm nhưng Hà Nội vẫn là một trung
tâm kinh tế - văn hoá lớn và tiêu biểu của cả nước. Phần “thị” - kinh tế vẫn
có những mặt phát triển độc lập và nhờ đó, Thăng Long - Hà Nội vẫn giữ
được bộ mặt thành thị của nó. Các làng nghề truyền thống vẫn được phát
huy, buôn bán với nước ngoài vẫn diễn ra ở Thăng Long. Về giáo dục cũng
đạt được nhiều thành tựu, các “làng khoa bảng” như Đông Ngạc, Hạ Đình,
Kim Lũ... vẫn liên tục có nhiều người đỗ đại khoa. Thăng Long - Hà Nội
vẫn là nơi hội tụ và lắng đọng văn hoá dân tộc của hàng ngàn năm lịch sử.
Nhiều nhà thơ đã từng sinh ra tại Thăng Long hoặc có nhiều thời gian sinh
sống, làm việc ở mảnh đất này, họ đã góp phần làm phong phú nền văn
hoá dưới thời Nguyễn, tiêu biểu như Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh
Quan, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu,...
Khi Pháp xâm lược nước ta (1858) và mở rộng đánh chiếm Bắc Kì
lần thứ nhất vào năm 1873, Tổng Đốc Nguyễn Tri Phương cùng con trai
là Nguyễn Lâm đã anh dũng giữ thành nhưng cuối cùng do tương quan
lực lượng, quân Pháp vẫn chiếm được thành. Nhân dân Hà Nội phối hợp
với nghĩa quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đã giành thắng lợi trong trận
Cầu Giấy (12-1873), giết tên chỉ huy là Francis Gacnier. Đang lúc nhân
dân Hà Nội cùng nhân dân Bắc Kì giành được những thắng lợi thì triều

1
Bắc Thành gồm 5 nội trấn (Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Kinh Bắc, Tây Sơn và Hải
Dương) và 6 ngoại trấn (Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Cao Bằng, Quảng Yên và
Hưng Hoá). Thủ phủ Bắc thành đặt tại Thăng Long.
Chương 4. Đặc trưng lịch sử Thăng Long - Hà Nội 107

đình nhà Nguyễn đã chấp nhận kí với Pháp Hiệp ước Giáp Tuất 1874.
Điều 1 của Hiệp ước có ghi: “Sẽ có hoà bình, hữu nghị và liên minh vĩnh viễn
giữa nước Pháp và vương quốc An Nam”1. Tuy nhiên đó là một nền hoà bình
mong manh, vì đây chỉ là thủ đoạn của Pháp để tiến tới xâm lược toàn bộ
Bắc Kì. Sau Hiệp ước 1874, quân Pháp rút khỏi thành Hà Nội, xuống Hải
Phòng, những người Pháp ở lại thành phố nằm yên, xây dựng, củng cố
lực lượng chờ thời cơ, co cụm trong một khu nhượng địa.
Năm 1882, Pháp tiến hành xâm lược Bắc Kì lần hai. Tại Hà Nội,
Tổng Đốc Hoàng Diệu đã cùng nhân dân anh dũng chiến đấu giữ thành.
Nhưng không may, kho thuốc trong thành bị trúng đại bác của Pháp
cháy, quan quân toán loạn. Biết không giữ được thành, Hoàng Diệu đã
tuẫn tiết. Trong cuộc chiến đấu chống Pháp xâm lược Hà Nội lần hai này,
một lần nữa nhân dân Hà Nội lại cùng với quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh
Phúc giành thắng lợi ở Cầu Giấy lần hai (1883), giết chết tên chỉ huy của
giặc là Rivie.
Năm 1883, nhân lúc triều đình nhà Nguyễn rối ren, vua Tự Đức mất,
thực dân Pháp tấn công vào Thuận An, buộc nhà Nguyễn phải chấp nhận
Hiệp ước Hácmăng (J.Harmand), và đến năm 1884 là Hiệp ước Patơnốt
(Patenotre), chấp nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn bộ đất nước ta. Liên
quan đến thành phố Hà Nội, điều 18 của Hiệp ước 1884 đã quyết định
việc giới hạn khu nhượng địa, và đến năm 1888 bằng mọi sức ép và thủ
đoạn, người Pháp đã biến toàn bộ nội thành Hà Nội thành một thành
phố nhượng địa. Ngày 1-10-1888, vua Đồng Khánh ban đạo dụ ghi nhận
“Những lãnh thổ thuộc các thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng được
chuyển thành đất nhượng địa của người Pháp, Chính phủ An Nam nhường cho
Chính phủ Pháp mọi quyền hành trên những vùng đất đó”2.
Từ năm 1887, Pháp đã thành lập Liên bang Đông Dương, lấy Hà
Nội làm thủ phủ. Phủ Toàn quyền Đông Dương đóng tại Hà Nội. Thủ
phủ của Bắc Kì cũng đóng tại Hà Nội. Bộ phận lãnh đạo cao nhất gọi là
Dinh Thống sứ còn cơ quan cao nhất của thành phố gọi là Toà Đốc lí.
Đứng đầu các bộ phận này đều là người Pháp. Triều đình nhà Nguyễn

1
Phan Huy Lê (Cb), Lịch sử Thăng Long - Hà Nội, Sđd, Tập 2, tr.42.
2
Papin Ph, Hanoi et ses territoires, BEFO 1995, tr.205.
108 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

cũng có cử quan Kinh lược sứ Bắc Kì để nắm tình hình chung ở miền
Bắc, nhưng ngay cả viên quan này vẫn phải nằm dưới sự kiểm soát của
các quan chức người Pháp.
Những viên Toàn quyền Đông Dương đặt trụ sở ở Hà Nội, tính cả
chính thức và tạm thời có tới hơn 40 nhiệm kì. Hai viên Toàn quyền có
dấu ấn đậm tại Hà Nội là Jean Louis De Lannessan, nhậm chức năm 1891.
Lannessan đã cho xây dựng ở Hà Nội một số xưởng và nhà máy phục vụ
cho tư bản Pháp và ngoại kiều, quy hoạch chỉnh trang đô thị, nhất là cho
xây dựng đại lộ vành đai xung quanh hồ Hoàn Kiếm, xây dựng bệnh viện
mang tên ông - Bệnh viện Lannessan, nhân dân quen gọi là Nhà thương
Đồn Thuỷ (nay là cụm Bệnh viện 108 và Bệnh viện Hữu Nghị). Đặc biệt
viên Toàn quyền Đông Dương P. Đume (P. Doumer), nhậm chức năm
1897 đã cho xây dựng cây cầu Long Biên bắc qua sông Hồng, cùng với
đó là các khu phố Tây được xây dựng trong những năm cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX.
Hà Nội thời kỳ này trải qua bước quá độ chuyển biến từ một đô thị
truyền thống sang một đô thị cận đại mang tính thuộc địa. Dù có nhiều
chuyển biến về địa giới hành chính, về luật pháp, chính quyền... nhưng
tinh thần yêu nước, chống Pháp của nhân dân thì không gì lay chuyển,
thậm chí còn mạnh mẽ hơn và mang một màu sắc mới. Các nho sĩ - văn
thân, khoa bảng đã trở thành những người lãnh đạo nhân dân nổi dậy
khắp nơi chống lại sự cai trị của Pháp, khiến người Pháp khó khăn trong
việc thiết lập chính quyền cai trị tại Hà Nội.
Đầu thế kỉ XX trong lĩnh vực đời sống văn hoá, giáo dục của Hà Nội
có nhiều chuyển biến. Nền giáo dục Hán học truyền thống dần dần bị loại
bỏ, thay vào đó là các trường mới do người Pháp lập ra nhằm đào tạo một
lực lượng trí thức phục vụ cho công cuộc cai trị Đông Dương của Pháp. Tuy
nhiên, lực lượng thanh niên trí thức Hà Nội đã trở thành bộ phận đầu tiên
tiếp cận với luồng tư tưởng tiến bộ, cách mạng và tiên phong trong cuộc
đấu tranh chống thực dân Pháp đầu thế kỉ XX ở Hà Nội. Đầu thế kỉ XX,
tại Hà Nội nhiều thanh niên đã tham gia phong trào Đông Du (1905
-1908) do Phan Bội Châu khởi xướng. Năm 1907, một trường học kiểu
mới được thành lập ở Hà Nội - Trường Đông Kinh Nghĩa Thục do các
Chương 4. Đặc trưng lịch sử Thăng Long - Hà Nội 109

sĩ phu nho học cấp tiến lập ra, Lương Văn Can làm Thục trưởng. Trường
được mở với mục đích đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục đổi mới
như đề cao chữ Quốc ngữ, thức tỉnh tinh thần yêu nước, tấn công vào
hệ tư tưởng phong kiến, tuyên truyền tư tưởng mới, đẩy mạnh các hoạt
động chấn hưng thực nghiệp và hoạt động kinh doanh. Trường Đông
Kinh Nghĩa Thục đã có ảnh hưởng lớn ở Hà Nội và các vùng phụ cận, nó
chuẩn bị về tinh thần cho các phong trào yêu nước ở Hà Nội nói riêng và
cả nước nói chung giai đoạn tiếp theo. Trước ảnh hưởng lớn của Đông
Kinh Nghĩa Thục, thực dân Pháp cho đây là “cái lò phiến loạn ở Bắc Kì” nên
tháng 12-1907 đã ra lệnh đóng cửa trường và bắt đi nhiều nhân vật chủ
chốt trong đó có Lương Văn Can.
Đầu thế kỉ XX, tại Hà Nội còn có các hoạt động phối hợp với nghĩa
quân Yên Thế như vụ Hà Thành đầu độc 1908, các hoạt động của Việt Nam
Quang Phục hội năm 1913 (vụ ném tạc đạn tại Khách sạn Gà Trống Vàng,
tháng 4-1913). Ngoài ra tại Hà Nội còn diễn ra cuộc đấu tranh của công
nhân xe kéo, công nhân và viên chức hãng L’ U.C.I... Các cuộc đấu tranh
của công nhân ở Hà Nội đã bước đầu đánh dấu sự phát triển mới của
phong trào công nhân trong phong trào dân tộc dân chủ giai đoạn sau.

4.3.2. Hà Nội sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến trước khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, thực dân Pháp tiến hành khai
thác thuộc địa lần thứ hai ở Việt Nam, Hà Nội tiếp tục vị thế là thủ phủ
của Liên bang Đông Dương, nơi đề ra những quyết sách cai trị của chính
quyền thực dân. Hà Nội có nhiều chuyển biến về kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội.
Về không gian, do những đòi hỏi cấp thiết về chính trị, kinh tế, văn
hoá và xã hội của một Hà Nội với ba vị thế quan trọng: Thủ đô của Liên
bang Đông Dương, Thủ phủ xứ Bắc Kì bảo hộ và Thành phố cấp I, Hà Nội
thời kì này không chỉ mở rộng không gian đô thị cho xứng tầm mà còn
có sự quy hoạch rõ ràng các chức năng của từng khu vực. Thành phố Hà
Nội được quy hoạch, thiết kế với hệ thống đường phố hình bàn cờ. Có hai
khu vực chính, khu phố Tây và khu phố cổ. Khu vực 36 phố phường vẫn
bảo lưu được những giá trị truyền thống của Thăng Long xưa. Khu phố
Tây với các cơ sở hạ tầng và công trình kiến trúc kiểu Pháp đã khiến cho
Hà Nội mang một dáng vẻ hiện đại.
110 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Về giáo dục, thời kì cầm quyền của Toàn quyền Đông Dương Anbe
Xarô (Albert Saraut) đã bước đầu định hình một nền giáo dục hiện đại
ở Hà Nội với số lượng trường lớp tăng ở các bậc học, tuy nhiên nó chỉ
phát triển theo “bề ngang”, chủ yếu là các trường tiểu học, các trường
đại học nhìn chung số lượng ít, chất lượng chưa tương xứng với tên gọi
của nó.
Về văn hoá, đặc biệt đối với các di sản văn hoá chính quyền Pháp đã
có chính sách bảo tồn. Viện Viễn Đông Bác cổ được thành lập, bảo tồn các
di tích của Quốc gia và của Hà Nội. Năm 1927, ra Nghị định 351 về việc
quản lí các đình chùa thuộc công sản của thành phố. Các luồng văn hoá
truyền thống và hiện đại đan xen và thể hiện rất rõ ở Hà Nội, nơi dễ dàng
tiếp nhận và ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hoá ngoại lai.
Về xã hội, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, ở Hà Nội có sự chuyển
biến mạnh về giai cấp. Lực lượng tiểu tư sản trí thức tăng mạnh do Pháp
mở nhiều trường cao đẳng, đại học tại Hà Nội. Hà Nội là nơi tập trung
đông nhất đội ngũ trí thức, không một địa phương nào có thể sánh ngang.
Lực lượng tư sản dân tộc ở Hà Nội cũng tăng về số lượng so với trước
Chiến tranh thế giới thứ nhất. Tiểu tư sản, tư sản là hai giai cấp mới hình
thành sau Chiến tranh thế giới thứ nhất tập trung đông nhất tại Hà Nội.
Giai cấp công nhân ở Hà Nội tăng cả về số lượng và ý thức chính trị.
Trong những năm 20 của thế kỉ XX, Hà Nội là nơi xuất hiện các tổ
chức cách mạng theo hai khuynh hướng dân chủ tư sản và vô sản. Điển
hình là sự thành lập Việt Nam Quốc dân đảng (12-1927) và sự ra đời
của Đông Dương Cộng sản Đảng năm 1929. Phong trào dân tộc dân chủ
những năm đầu thập kỉ 20 của thế kỉ XX cũng phát triển mạnh ở Hà Nội,
điển hình là cuộc đấu tranh đòi nhà cầm quyền Pháp thả Phan Bội Châu
(1925); lễ truy điệu nhà yêu nước Phan Châu Trinh năm 1926, đám tang
Lương Văn Can năm 1927...
Hà Nội là nơi đầu tiên xuất hiện và phát triển mạnh khuynh hướng
cách mạng vô sản. Tháng 3-1929, Chi bộ Cộng sản đầu tiên đã thành lập tại
số nhà 5D phố Hàm Long. Đến tháng 6 năm 1929, Hà Nội là nơi xuất hiện
đầu tiên một chính đảng của giai cấp vô sản: Đông Dương Cộng sản đảng.
Chương 4. Đặc trưng lịch sử Thăng Long - Hà Nội 111

4.3.3. Hà Nội từ năm 1930 đến Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945
Năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ
chức Cộng sản tại Hương Cảng - Trung Quốc và thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam. Với bản Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ
tóm tắt, gọi chung là Cương lĩnh Chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo và thông qua đã vạch ra con đường phát triển đúng đắn cho
cách mạng Việt Nam.
Ngày 17-3-1930, tại số nhà 42 phố Hàng Thiếc, Ban Chấp hành lâm
thời của Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam thành phố Hà Nội được thành
lập, do Đỗ Ngọc Du làm Bí thư Thành uỷ. Tháng 6-1930, tại cuộc họp tại
số nhà 177 phố Hàng Bông, Thành uỷ Hà Nội chính thức thành lập do
Nguyễn Ngọc Vũ làm Bí thư. Thành uỷ Hà Nội đã lãnh đạo nhân dân Hà
Nội giành nhiều thắng lợi trong các giai đoạn cách mạng tiếp theo.
Từ năm 1930 đến năm 1945, Hà Nội có nhiều chuyển biến. Cuộc
khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã tác động đến mọi mặt của Hà Nội.
Mặc dù là trung tâm đầu não của chính quyền thuộc địa lúc đó nhưng
cũng có nhiều hoạt động ủng hộ Xô viết Nghệ Tĩnh. Lần đầu tiên trong
lịch sử, ngày 1-5-1930 Hà Nội đã có nhiều hoạt động phù hợp ủng hộ
ngày Quốc tế lao động. Cũng thời gian này, Thành uỷ Hà Nội đón đồng
chí Trần Phú về ở, làm việc tại căn nhà số 90 phố Bông Nhuộm (nay là
phố Thợ Nhuộm). Tại địa điểm này, đồng chí Trần Phú đã soạn thảo Luận
cương Chính trị của Đảng, sau này trình bày tại Hội nghị tháng 10-1930
tại Hương Cảng - Trung Quốc.
Trong những năm 1932-1935, đã diễn ra các cuộc đấu tranh của các tù
chính trị tại nhà tù Hoả Lò, nêu cao tinh thần bất khuất, biến nhà tù thành
trường học cách mạng.
Hà Nội là trung tâm văn hoá, nơi tập trung đông đảo trí thức vì vậy
đây cũng là nơi đầu tiên xuất hiện ba dòng văn học trong những năm 30
của thế kỉ XX đó là: lãng mạn, hiện thực và cách mạng. Nổi bật với các tác
giả tiêu biểu như: Thạch Lam, Khái Hưng, Nhất Linh,... thuộc dòng văn
học lãng mạn; Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,... thuộc
dòng văn học hiện thực phê phán; Hải Triều, Lê Văn Hiến, Tố Hữu,... thuộc
dòng văn thơ cách mạng.
112 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Mặc dù nằm ở địa bàn có cơ quan đầu não của chính quyền cai trị
nhưng Hà Nội cũng là nơi các cơ sở cách mạng được phục hồi nhanh, các
phong trào đấu tranh diễn ra sôi nổi trong những năm 1936-1939. Điển hình
như cuộc mít tinh kỉ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5-1938 được tổ chức
rầm rộ có tổ chức, thu hút 25.000 người thuộc đủ các tầng lớp tham dự tại
khu Đấu Xảo (nay là Cung Văn hoá Hữu Nghị). Hà Nội là nơi Đảng phát
động phong trào truyền bá Quốc ngữ. Tháng 5 năm 1938, Hội truyền bá
Quốc ngữ do Nguyễn Văn Tố làm Hội trưởng được thành lập tại Hội quán
Trí tri (nay là nhà số 47 phố Hàng Quạt). Từ Hà Nội, phong trào truyền bá
Quốc ngữ đã lan rộng cả nước, sang cả Việt kiều ở Lào và Campuchia.
Ngay khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ năm 1939, Hà Nội
với vị trí cơ quan đầu não của chính quyền thuộc địa của cả xứ Đông
Dương nên chính quyền phản động đã ra lệnh giải tán các tổ chức ái
hữu được thành lập trong thời kì dân chủ 1936-1939, đặt thêm 14 bốt
cảnh sát, tăng thêm mật thám, chỉ điểm, đàn áp các tổ chức cách mạng,
khám xét và bắt đóng của các trụ sở Ái hữu, các hiệu sách, các cơ quan
báo chí công khai của Đảng... Đồng thời, Pháp tăng cường áp bức bóc
lột, thực hiện chính sách “Kinh tế chỉ huy” để chuẩn bị cho chiến tranh.
Tháng 9-1940, phát xít Nhật vào Đông Dương, qua đường biên giới
Lạng Sơn. Đến tháng 10-1940, quân Nhật đã có mặt ở Hà Nội, đóng ở
sân bay Gia Lâm. Ở Hà Nội xuất hiện các tổ chức đảng phái thân Pháp,
thân Nhật...
Phong trào đấu tranh của thanh niên, trí thức Hà Nội phát triển
mạnh, họ tham gia nhiều tổ chức tiến bộ như Hội truyền bá Quốc ngữ,
Tổng hội sinh viên Việt Nam. Ở Hà Nội còn thành lập được Hội hướng đạo
sinh Việt Nam do Hoàng Đạo Thuý đứng đầu. Tháng 6-1944, được sự giúp
đỡ, chắp mối, một số trí thức, tư sản yêu nước tiến bộ đã thành lập Đảng
Dân chủ Việt Nam, địa điểm thành lập là làng Thanh Xuân (nay thuộc
quận Thanh Xuân). Đảng Dân chủ Việt Nam đã tự nguyện tham gia Mặt
trận Việt Minh. Tháng 11-1944, Đội Thanh niên xung phong thành Hoàng
Diệu được thành lập, tổ chức tuyên truyền Việt Minh ở các nơi thúc đẩy
phong trào cách mạng phát triển.
Chương 4. Đặc trưng lịch sử Thăng Long - Hà Nội 113

Tại Hà Nội, ngày tối 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, Pháp chống cự
yếu ớt rồi đầu hàng phát xít Nhật. Ngày 1-4-1945, Đội Danh dự Việt Minh
của Hà Nội được thành lập đã tổ chức vũ trang tuyên truyền, trừ khử Việt
gian, bảo vệ cán bộ và quần chúng cách mạng. Hoạt động của Đội Danh
dự góp phần đẩy mạnh cao trào tiền khởi nghĩa ở Hà Nội.
Vào giữa tháng 8-1945, tình hình thế giới và trong nước chuyển
biến mau lẹ, có lợi cho cách mạng. Hội nghị toàn quốc của Đảng đã họp
ngày 14 và 15-8-1945 tại Tân Trào, đưa ra kế hoạch Tổng khởi nghĩa. Ngày
15-8-1945, Nhật hoàng chính thức đầu hàng Đồng minh không điều kiện,
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Ngay tối 15-8-1945, Thành uỷ Hà
Nội triệu tập hội nghị tại Chùa Hà - Cầu Giấy, quyết định Tổng khởi
nghĩa vào ngày 19-8-1945.
Chiều ngày 17-8-1945, dưới sự lãnh đạo của Việt Minh, cuộc mít
tinh của Tổng hội công chức thân Nhật đã biến thành cuộc mít ủng hộ
Mặt trận Việt Minh. Ngày 18-8-1945, cờ đỏ sao vàng tung bay trên các
tuyến phố của Hà Nội. Ngày 19-8-1945, sau cuộc mít tinh tại Nhà Hát
Lớn, lần đầu tiên bài Tiến quân ca vang lên giữa trời thu Hà Nội. Sau
cuộc mít tinh, đoàn người toả đi các tuyến phố, tiến đến Phủ Khâm
Sai, Toà Thị chính, trại lính Bảo an... và chiều tối ngày 19-8-1945, Hà
Nội giành chính quyền thắng lợi. Sự kiện này đã tạo động lực cho các
địa phương khác nổi dậy giành chính quyền. Đến ngày 28-8-1945, chỉ
trong vòng nửa tháng Cách mạng tháng Tám đã thành công trên phạm
vi cả nước.
Ngày 25-8-1945, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng từ Tân Trào về
Hà Nội, tại ngôi nhà 48 phố Hàng Ngang, Người đã soạn thảo Tuyên ngôn
Độc lập. Ngày 28-8-1945, cũng tại Hà Nội, Hồ Chí Minh cải tổ Uỷ ban Dân
tộc giải phóng Việt Nam thành Chính phủ lâm thời.
Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh đã thay mặt
Chính phủ lâm thời, đọc Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng
bào và thế giới nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Hà Nội từ đây
trở thành Thủ đô của một nước Việt Nam mới.
114 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

4.4. Hà Nội từ năm 1945 đến nay

4.4.1. Hà Nội trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)
Sau Cách mạng tháng Tám, đất nước gặp muôn vàn khó khăn, cùng
với những khó khăn về kinh tế, văn hoá, xã hội thì khó khăn lớn nhất vẫn
là sự có mặt của nước thế lực ngoại bang trên đất nước ta, thêm vào đó là
sự chống phá của các thế lực phản động người Việt trong và ngoài nước.
Với vị thế là thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - trung tâm
chính trị đầu não quan trọng của đất nước, Hà Nội trở thành mục tiêu
chống phá của các thế lực thù địch. Cùng với việc giải quyết những khó
khăn về kinh tế, văn hoá, xã hội thì Hà Nội với vị thế của mình phải là nơi
tổ chức tốt việc bầu Quốc hội và bầu Hội đồng nhân dân thành phố. Trong
một năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, Hà Nội đưa ra những quyết sách
mềm dẻo để đối phó với thù trong giặc ngoài. Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946
kí với Pháp tại Hà Nội đã giúp ta tránh được cùng một lúc đối phó với
nhiều kẻ thù. Tuy nhiên, Pháp không từ bỏ dã tâm xâm lược toàn bộ nước
ta. Hà Nội là nơi chứng kiến rõ nhất sự gây hấn của thực dân Pháp, Hà Nội
đại diện cho cả nước mở đầu cho cuộc kháng chiến toàn quốc 19-12-1946.
Cuộc chiến đấu của các chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô trong gần hai tháng
(cuối năm 1946 đầu năm 1947) đã giam chân địch trong đô thị với tinh
thần Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh, tạo điều kiện để bên ngoài ta chuẩn bị
lực lượng, kháng chiến chống Pháp lâu dài. Ngay khi Toàn quốc kháng
chiến bắt đầu, Trung ương Đảng và Chính phủ phải dời Hà Nội lên chiến
khu Việt Bắc với tư cách là một Chính phủ chính thức của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, tổ chức nhân dân kháng chiến chống Pháp.
Sau khi Trung đoàn Thủ đô hoàn thành nhiệm vụ giam chân địch
trong thành phố thì trung tuần tháng 2-1947 nhận được lệnh rút khỏi
Thủ đô an toàn. Từ đây Hà Nội nằm trong vùng tạm chiến của Pháp.
Dân số Hà Nội giảm do đã tản cư khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Trong thời gian Pháp tạm chiếm, Pháp tiến hành khôi phục và phát triển
kinh tế Hà Nội chủ yếu nhằm phục vụ cho nhu cầu của người Pháp và
nhu cầu chiến tranh xâm lược. Ngay năm 1947, Uỷ ban kháng chiến
Thủ đô được thành lập do ông Khuất Duy Tiến làm đại diện, bí mật
hoạt động ngay trong lòng địch, lãnh đạo nhân dân Hà Nội chiến đấu,
Chương 4. Đặc trưng lịch sử Thăng Long - Hà Nội 115

tiêu hao sinh lực địch ngay giữa trung tâm sào huyệt của chúng. Thực
hiện tốt lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người viết thư khen
quân dân Hà Nội tháng 11-1949 “Hà Nội là quả tim quân sự, chính trị và
kinh tế của địch. Du kích và Vệ quốc quân cần phải thường xuyên quấy rối
quả tim của địch cho đến ngày ta tổng phản công”1. Cuộc đấu tranh toàn
diện trong vùng địch tạm chiếm của nhân dân Hà Nội đã góp phần to
lớn vào những thắng lợi quân sự trên chiến trường chính, nhất là chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954.
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được kí kết (21-7-1954), Hà Nội nằm
trong vùng tập kết 80 ngày của thực dân Pháp. Nhân dân Hà Nội phải
chuẩn bị mọi mặt chờ ngày tiếp quản Thủ đô. Trong thời gian này Pháp
đã thực hiện chính sách thâm độc: ép dân di cư vào Nam, di chuyển tài
sản máy móc, phá hoại các công trình văn hoá lịch sử như việc chúng đã
phá huỷ chùa Một Cột, công trình có giá trị lịch sử nghìn năm. Cuộc đấu
tranh chống âm mưu phá hoại của Pháp diễn ra quyết liệt, đến 16 giờ
ngày 9-10-1954, những lính Pháp cuối cùng rút qua cầu Long Biên sang
phía Gia Lâm. Sáng ngày 10 -10 -1954, Hà Nội vui mừng đón đoàn quân
chiến thắng cùng Chính phủ kháng chiến trở về tiếp quản Thủ đô. Từ
đây, lịch sử Hà Nội lại trở về với tư cách là thủ đô một nước độc lập. Cũng
từ đây, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đóng tại Hà Nội tiếp tục đưa ra
những quyết sách quan trọng, lãnh đạo nhân dân cả nước tiếp tục giành
những thắng lợi mới trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước.

4.4.2. Hà Nội trong hơn 20 năm kháng chiến chống Mĩ (1954 -1975)
Sau khi được giải phóng, Thủ đô Hà Nội, trung tâm chính trị, kinh
tế, văn hoá, trái tim của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, bước vào thời
kì lịch sử mới - thời kì đồng thời thực hiện hai chiến lược cách mạng: tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và tiếp tục thực hiện cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước
nhà. Công cuộc xây dựng và bảo vệ Thủ đô có ảnh hưởng và quyết định
đến tiến trình cách mạng của cả nước.

1
Hồ Chí Minh toàn tập, (1995), tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 527.
116 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Tại Hà Nội đã diễn ra Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần
thứ III (9/1960), vạch ra nhiệm vụ cách mạng cho mỗi miền. Hà Nội với
vai trò là hậu phương quan trọng nhất của miền Bắc, nơi chỉ đạo việc thực
hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), bước đầu xây
dựng cơ sở vật chất cho Chủ nghĩa xã hội và làm nghĩa vụ chi viện sức
người, sức của cho miền Nam.
Từ năm 1965 đến năm 1975, Hà Nội vừa chiến đấu chống chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mĩ, vừa xây dựng và khôi phục kinh tế.
Thủ đô Hà Nội có vị trí chiến lược quan trọng đối với cả nước, là
nơi tập trung các cơ quan trung ương Đảng, Chính phủ, Bộ Tổng tư lệnh,
các đại sử quán, các cơ quan ngoại giao; là nơi có các khu trung tâm
công nghiệp lớn, các đầu mối giao thông quan trọng… Vì vậy, Hà Nội trở
thành mục tiêu trọng tâm phá hoại của đế quốc Mĩ. Đánh phá Hà Nội,
Mĩ nhằm tiêu diệt đầu não lãnh đạo cuộc kháng chiến của quân dân ta,
huỷ nguồn dự trữ chiến lược về kinh tế, quốc phòng, phá huỷ các đầu
mối giao thông quan trọng, cắt nguồn chi viện cho miền Nam. Đánh phá
Hà Nội, Mĩ còn có mục tiêu uy hiếp tinh thần chiến đấu của nhân dân
hai miền, gây sức ép với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để đi
đến chấp nhận các điều khoản có lợi cho Mĩ. Hà Nội được Mĩ coi là “con
bài” quyết định của cuộc chiến tranh. Cuộc chiến đấu chống chiến tranh
phá hoại của Mĩ ở Hà Nội có tầm quan trọng đặc biệt, nó biểu trưng cho
sức mạnh của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, cho sức mạnh và ý chí chống
xâm lược của nhân dân Việt Nam. Trung ương Đảng và Thành ủy Hà Nội
đã lãnh đạo nhân dân Hà Nội cùng nhân dân miền Bắc hai lần đánh bại
chiến tranh phá hoại của Mĩ, lần thứ nhất (1964-1968), đặc biệt là lần thứ
hai vào năm 1972 mà trận quyết định là đánh bại cuộc tập kích đường
không bằng B52 của Mĩ vào Hà Nội, Hải Phòng trong 12 ngày đêm cuối
năm 1972. Hà Nội đã làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, bắn rơi
nhiều B52, đập tan âm mưu của Mĩ, buộc Mĩ phải chấp nhận ngừng ném
bom miền Bắc không điều kiện, đến bàn Hội nghị Pari và chấp nhận kí
văn bản của Hiệp định. Thắng lợi của Hiệp định Pari (27-1-1973) là nhờ có
thắng lợi quân sự quyết định cuối năm 1972, trong đó nhân dân Hà Nội
đã góp phần quan trọng.
Chương 4. Đặc trưng lịch sử Thăng Long - Hà Nội 117

Từ năm 1973 đến đầu năm 1975, Hà Nội khôi phục kinh tế, chi viện
sức người sức của góp phần cùng nhân dân miền Nam giành thắng lợi
ngày 30-4-1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Như vậy, trong 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc (1945-1975),
mặc dù có thời gian Hà Nội bị Pháp tạm chiếm nhưng mọi hoạt động của
nhân dân Hà Nội trên các lĩnh vực luôn đóng vai trò quan trọng đối với hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ của cả dân tộc. Từ năm 1954,
Hà Nội là hậu phương quan trọng bậc nhất của miền Bắc xã hội chủ
nghĩa, đóng vai trò quyết định trong việc đề ra các kế hoạch, các mệnh
lệnh để bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đấu tranh giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước.

4.4.3. Hà Nội trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975-1986)
Sau khi đất nước thống nhất về mặt lãnh thổ năm 1975 nhưng thực
tế hai miền lại tồn tại hai hình thức nhà nước khác nhau, vì vậy tại Hà
Nội đã diễn ra kì họp thứ nhất, Quốc hội khoá VI (từ 24 - 6 đến 3-7-1976),
quyết định nhiều vấn đề quan trọng, trong đó có việc thống nhất đất
nước về mặt Nhà nước. Quốc hội khoá VI quyết định lấy tên nước là
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội lại tiếp tục được chọn làm
Thủ đô một đất nước đã độc lập, thống nhất hoàn toàn. Trong 10 năm đầu
xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, Hà Nội với vị thế Thủ
đô đã đạt được một số thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội an ninh
quốc phòng, đối ngoại. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan,
chủ quan nhưng về cơ bản vẫn là nguyên nhân chủ quan đó là “sai lầm
nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo
chiến lược và tổ chức thực hiện”1 nên đời sống kinh tế - xã hội Thủ đô
nói riêng và đất nước nói chung ngày càng rơi vào khủng hoảng sâu sắc.
Tình hình của Hà Nội tác động mạnh đến tình hình cả nước, vì vậy Hà
Nội phải tìm cách khắc phục khó khăn, tương trợ cho các tỉnh phía Bắc và
thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với Thủ đô Viêng Chăn của Lào và Thủ đô
Phnôm Pênh của Campuchia. Những khó khăn thực tế ở Hà Nội trong 10
năm đầu cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội đã giúp Trung ương Đảng
tại Hà Nội nhìn nhận đúng, kịp thời đề ra đường lối đổi mới đất nước.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật,
Hà Nội, tr. 26.
118 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

4.4.4. Hà Nội trong 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế (1986-2016)
Trước tình hình quốc tế và trong nước có nhiều chuyển biến, đổi mới
đã trở thành vấn đề sống còn đối với đất nước. Tháng 12-1986, tại Hà Nội
đã diễn ra Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, lần đầu tiên chính thức đề
ra công cuộc đổi mới đất nước. Đổi mới toàn diện và đồng bộ, từ kinh tế
và chính trị đến tổ chức, tư tưởng, văn hoá. Đổi mới kinh tế phải gắn liền
với đổi mới chính trị, nhưng trọng tâm là đổi mới kinh tế. Thực hiện chủ
trương đổi mới của Trung ương Đảng, tháng 10-1986, Đại hội lần thứ X
của Đảng bộ thành phố Hà Nội cũng đề ra đường lối đổi mới cho Thủ đô
với nhiệm vụ phải tiên phong đi đầu cả nước.
Trải qua các kì Đại hội Đảng của Đảng bộ Thành phố, công cuộc đổi
mới đất nước, công nghiệp hoá - hiện đại hoá của Thủ đô luôn đi đầu cả
nước. Cùng với công cuộc đổi mới, Hà Nội luôn gắn với nhiệm vụ giữ gìn
những giá trị tốt đẹp, biểu trưng cho dân tộc Việt Nam. Từ khi Việt Nam
và Mĩ bình thường hoá quan hệ và Việt Nam gia nhập tổ chức ASEAN
(tháng 7-1995), Hà Nội càng nâng tầm vị thế của mình, tăng cường mở
rộng quan hệ đối ngoại trong thời kì hội nhập, mở cửa.
Năm 1999, Hà Nội vinh dự được Uỷ ban UNESCO của Liên hợp
quốc tặng danh hiệu “Thành phố vì hoà bình”. Danh hiệu đó vinh danh
truyền thống yêu chuộng hoà bình, hoà hiếu của Hà Nội nói riêng và dân
tộc Việt Nam nói chung.
Năm 2000, Hà Nội được phong danh hiệu “Thành phố anh hùng”,
danh hiệu này xứng đáng với những đóng góp to lớn của nhân dân Hà
Nội trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc.
Tháng 8 năm 2008, Hà Nội mở rộng, tăng cả về diện tích và dân số,
vị thế của Hà Nội cũng được nâng lên, Hà Nội là một trong những thủ
đô có diện tích rộng trên thế giới. Trong công cuộc đổi mới, Hà Nội có
điều kiện mở rộng giao lưu quốc tế, Hà Nội cũng chủ động tăng cường
các hoạt động đối ngoại với thế giới bên ngoài. Quan hệ đối ngoại của
Hà Nội rộng mở, phong phú, đa dạng về chủ thể, đối tượng và lĩnh vực.
Hà Nội tăng cường mở rộng quan hệ với thủ đô và thành phố các nước ở
châu Á và các nước khác trên thế giới. Hà Nội cũng tăng cường mở rộng
quan hệ thương mại và đầu tư nước ngoài. Kim ngạch xuất khẩu của
Chương 4. Đặc trưng lịch sử Thăng Long - Hà Nội 119

Hà Nội tăng trên 20% hàng năm, nhiều mặt hàng của Hà Nội đã chiếm
lĩnh các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Mĩ,...
Thời mở cửa và hội nhập, Hà Nội đã xây dựng và thực thi một
chiến lược đối ngoại đạt được những thành tựu quan trọng, chủ yếu
về kinh tế. Đây là cơ sở để thủ đô mở rộng và phát huy chính sách đối
ngoại theo phương châm: Hà Nội là bạn với tất cả các thủ đô và thành
phố trên thế giới, đa phương hoá, đa dạng hoá các hoạt động đối ngoại,
chủ động hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy nội lực và bảo tồn bản
sắc văn hoá dân tộc1.
Như vậy, trong thời kì đổi mới, hội nhập, Hà Nội với vị thế thủ đô
luôn đi đầu, đạt được nhiều thành tựu quan trọng về các mặt kinh tế, văn
hoá, giáo dục... Hà Nội là là đầu mối quan trọng thúc đẩy quá trình đổi
mới và hội nhập của cả nước. Hà Nội đang vươn lên không chỉ là đầu
não, trung tâm chính trị, văn hoá giáo dục lớn nhất cả nước mà còn là
trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước.
*
* *
Lịch sử Hà Nội từ khi con người xuất hiện trên vùng đất này, nhất là
từ khi định đô Thăng Long năm 1010 cho đến nay, qua các thời kì lịch sử
có thể rút ra những đặc trưng cơ bản sau:
1. Hà Nội luôn là trung tâm của ba kỉ nguyên văn minh trong lịch sử dân tộc
Với những dấu tích lịch sử cùng với những truyền thuyết để lại,
trong buổi đầu dựng nước, con người vùng đất này đã khởi dựng nên
nền văn minh sông Hồng (văn minh lúa nước), tính cách con người Việt
cũng bắt đầu hình thành ở những vùng đất trung tâm và xung quanh
vùng đất Cổ Loa.
Từ thế kỉ II TCN đến thế kỉ X, vùng đất Hà Nội xưa đã dần dần trở
thành trung tâm, trụ sở của chính quyền cai trị phương Bắc và có những
lúc đất nước độc lập trong thời gian ngắn, vùng đất này đã được chọn

1
Vũ Quang Hiển (2010), Đối ngoại của Hà Nội thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế, trích trong Kỷ
yếu Hội thảo khoa học quốc tế Phát triển bền vững thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hoà
bình, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 156.
120 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

làm kinh đô (Mê Linh thời Hai Bà Trưng, Vạn Xuân thời kì Lý Bí...). Cuộc
đấu tranh chống Bắc thuộc kết hợp với đấu tranh chống đồng hoá, bảo
tồn những giá trị của văn minh sông Hồng cũng đã diễn ra mạnh mẽ trên
vùng đất trung tâm này. Nó đã tạo tiền đề để phát triển nền văn minh Đại
Việt sau này.
Từ khi Lý Công Uẩn chọn Thăng Long định đô, trải qua ngàn năm
phong kiến độc lập, trừ một số giai đoạn gián đoạn, còn về cơ bản Thăng
Long - Hà Nội được chọn làm kinh sư của các triều đại phong kiến độc lập.
Vì vậy, trên mảnh đất này đã khởi dựng và phát triển rực rỡ nền văn hiến
Thăng Long, văn minh Đại Việt.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, Hà Nội với vị thế là thủ phủ của
Liên bang Đông Dương, nơi giao thoa các dòng văn hoá nhưng những
giá trị cốt lõi của văn hiến Thăng Long vẫn được giữ vững.
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công ở Hà Nội và trên phạm
vi cả nước. Tại quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn
Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, mở ra một kỉ
nguyên mới cho dân tộc Việt Nam: kỉ nguyên độc lập tự do, tiến lên văn
minh hiện đại1. Với vị thế mới, Hà Nội cùng cả nước tiến hành 30 năm
giải phóng dân tộc (1945-1975) và tiếp tục giữ vai trò trung tâm đầu não
trên con đường đưa đất nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, dù có lúc
thăng trầm nhưng Hà Nội luôn giữ vị trí lãnh đạo, đi đầu cả nước, cùng
cả nước tiến hành công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế bên cạnh đó luôn giữ gìn bản sắc
văn hoá dân tộc. Hiện nay trong kỉ nguyên độc lập tự do, tiến lên văn minh
hiện đại, Hà Nội luôn giữ vững và phát huy vai trò trung tâm chính trị
quốc gia, trung tâm văn hoá, khoa học giáo dục tiêu biểu, trung tâm kinh
tế lớn của đất nước.
2. Thăng Long - Hà Nội luôn tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng của dân tộc.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, kể từ khi chống xâm lược Tần
(214 -210 tr.CN) đến nay là hơn 22 thế kỉ, thì thời gian chống ngoại xâm,
bao gồm cả kháng chiến chống ngoại xâm và kháng chiến chống đô hộ của

1
Phan Huy Lê, Lịch sử Thăng Long Hà Nội, Sđd, tập 2, tr. 978.
Chương 4. Đặc trưng lịch sử Thăng Long - Hà Nội 121

nước ngoài chiếm 12 thế kỉ, chiếm hơn một nửa thời gian lịch sử. Xét cả
về thời gian và tần số xuất hiện thì ít có quốc gia nào trên thế giới có lịch
sử chống ngoại xâm nhiều như Việt Nam. Trong thời kì dựng nước và giữ
nước có 17 cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc (trong đó có 5
cuộc diễn ra thời tiền Thăng Long, 12 cuộc diễn ra trong nghìn năm Thăng
Long - Hà Nội, trong đó có 8 cuộc lan rộng đến mảnh đất Thăng Long -
Hà Nội, trừ cuộc kháng chiến chống Tống (1075 -1077), cuộc kháng chiến
chống Xiêm (1784 - 1785), hai cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và
biên giới phía Bắc năm 1979). Thăng Long - Hà Nội luôn là mục tiêu tấn
công của kẻ xâm lược hòng phá tan đầu não, trung tâm chính trị của đất
nước, nhanh chóng đặt ách thống trị lên đất nước ta. Nhưng tinh thần
chiến đấu của nhân dân Thăng Long - Hà Nội đã tiêu biểu cho tinh thần
chống xâm lược của cả nước. Dù có những lúc cơ quan đầu não phải tạm
dời Thăng Long - Hà Nội nhưng tinh thần yêu nước, hào khí Thăng Long
đã trở lại sau những chiến thắng chống quân Mông - Nguyên thế kỉ XIII,
chống quân Minh thế kỉ XV, thực dân Pháp và đế quốc Mĩ ở thế kỉ XX.
Thăng Long - Hà Nội cũng là nơi diễn ra những trận đánh quyết định
đập tan âm mưu xâm lược của các thế lực ngoại bang: Trận Đông Bộ Đầu,
Chương Dương (thế kỉ XIII), trận Tốt Động, Chúc Động (thế kỉ XV), trận
Ngọc Hồi, Đống Đa (thế kỉ XVIII), Cách mạng tháng Tám năm 1945, đặc
biệt là trận “Điện Biên Phủ trên không” cuối năm 1972. Với những thắng
lợi đó, sức mạnh của truyền thống yêu nước của con người Việt Nam, con
người Hà Nội đã được phát huy cao độ. Năm 2000, Hà Nội đã vinh dự
được nhận danh hiệu “Thủ đô anh hùng”. Đây là sự ghi nhận, là niềm tự
hào của nhân dân cả nước dành cho Thủ đô yêu quý của mình.
3. Thăng Long - Hà Nội: văn hiến, vì hoà bình, tiên phong trong giao lưu
và hội nhập quốc tế.
Nền văn hiến Thăng Long được tích tụ qua hàng ngàn năm với vị
thế là trung tâm chính trị, văn hoá của cả nước. Thăng Long - Hà Nội
còn là cái nôi đào tạo và thu hút nhân tài trên các lĩnh vực. Nền giáo dục
Thăng Long hình thành sớm trong lịch sử đã đào tạo nhiều nhân tài cho
đất nước. Những con người được đào tạo, làm việc trên đất Thăng Long -
Hà Nội đã có điều kiện góp phần hun đúc nên nền văn hiến Thăng Long
122 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

được biểu hiện qua qua các giá trị văn hoá, những người con tiêu biểu
của Thăng Long - Hà Nội trên các lĩnh vực. Hiện nay Hà Nội vẫn là nơi
tập trung đông đảo nhất đội ngũ trí thức, các nhà khoa học, các văn nghệ
sĩ tài ba. Hà Nội là trung tâm giáo dục quốc gia, trung tâm văn hoá, khoa
học - công nghệ lớn nhất của cả nước. Đây là thủ đô của tinh hoa, của trí
tuệ quốc gia.
Qua lịch sử, và từ trong nền văn hiến đó đã hình thành nên những
phẩm giá, giá trị truyền thống tốt đẹp của con người Thăng Long - Hà
Nội. Cốt lõi của những giá trị đó là tinh thần nhân văn, khoan dung,
nhân hậu, yêu chuộng hoà bình. Những giá trị tốt đẹp nhất của người
Việt được đúc kết trong những con người của Thủ đô. Người Hà Nội
anh hùng trong chiến đấu để bảo vệ những giá trị thiêng liêng mà cha
ông để lại nhưng cũng hết sức khoan dung, nhân hậu. Qua các truyền
thuyết gắn với các sự kiện lịch sử cho thấy lịch sử của vùng đất này từ
thuở dựng nước đã không muốn chiến tranh, từ câu chuyện đánh xong
giặc Ân bay lên trời, đến câu chuyện vua Lê trả lại kiếm cho Rùa vàng,
rồi những sự kiện diễn ra trên mảnh đất này vào thế kỉ XX, khi Đảng và
Chính phủ đã cố gắng duy trì hoà bình, muốn nhân nhượng với Pháp để
tránh một cuộc chiến tranh xảy ra đều không có lợi cho cả hai nước Pháp
và Việt Nam (Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946)… Khi kết thúc các cuộc chiến
tranh, Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho kẻ bại trận rút về nước
an toàn. Tất cả đều thể hiện một khát vọng hoà bình cháy bỏng của mọi
người dân Thăng Long - Hà Nội.
Thăng Long - Hà Nội, với vị thế là trung tâm chính trị quyền lực của
chính quyền qua các thời kì lịch sử nên nơi đây sớm có sự giao lưu quốc
tế, qua hoạt động buôn bán, qua các hoạt động đối ngoại. Hà Nội là nơi
giao thoa, hội nhập các thành tố văn hoá, kinh tế từ bên ngoài vào khá
sớm. Tuy nhiên, phải đến từ sau công cuộc đổi mới (1986), Hà Nội mới
thực sự chuyển mình trong việc giao lưu và hội nhập quốc tế. Hà Nội
đang phấn đấu trở thành một thủ đô văn minh, hiện đại, đi đầu cả nước
trên tất cả các lĩnh vực để xứng đáng với vị thế Thủ đô của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam - trái tim của cả nước.
Chương 4. Đặc trưng lịch sử Thăng Long - Hà Nội 123

Câu hỏi thảo luận


1. Lịch sử Hà Nội chia làm mấy thời kì, nêu những đặc trưng cơ bản
nhất của các thời kì đó?
2. Hà Nội đã từng có bao nhiêu tên gọi? Hãy giải thích từng tên gọi
gắn với các sự kiện lịch sử.
3. Truyền thống anh hùng, yêu chuộng hoà bình của nhân dân Hà
Nội được thể hiện như thế nào trong lịch sử?
Chương 5
VĂN HOÁ THĂNG LONG - HÀ NỘI

5.1. Đặc trưng văn hoá Thăng Long - Hà Nội qua các thời kì

5.1.1. Trong thời kì dựng nước


Những cứ liệu khảo cổ học cho phép khẳng định, con người có mặt
trên đất Hà Nội từ rất sớm, đây cũng là vùng đất đậm đặc các di chỉ khảo
cổ học từ thời văn hoá Sơn Vi, Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông
Sơn. Khoảng 20.000 năm trước, cư dân văn hoá Sơn Vi là lớp người đầu
tiên đến khai phá vùng đất cao hoang dã và khắc nghiệt của Hà Nội. Các
nhà nghiên cứu đã phát hiện được dấu tích văn hoá Sơn Vi ở vùng đất Cổ
Loa và nhiều dấu tích văn hoá Sơn Vi trên vùng đồi gò huyện Sóc Sơn.
Tại khu vực Quần Ngựa, Công viên Thống Nhất còn phát hiện được
khoảng 10 di tích văn hoá Phùng Nguyên. Số lượng tuy không nhiều
nhưng với diện tích hẹp của Thành phố đã có tới 10 di tích cho thấy mật
độ di tích văn hoá Phùng Nguyên ở đây tương đối cao, hiện vật thu lượm
được khá phong phú, đặc biệt khu vực hữu ngạn sông Hồng gồm các
di tích: Văn Điển, Gò Cây Táo, Đàn Xã Tắc nằm gần sông Hồng và sông
Hoàng Giang, đầm Cả và đầm Mạch Tràng, di tích Núi Xây nằm trên
sườn núi thấp ven sông Cà Lồ.
So với văn hoá Phùng Nguyên, các di tích văn hoá Đồng Đậu cũng
như văn hoá Gò Mun trên đất Hà Nội phát hiện được ít hơn. Các đặc
trưng văn hoá Đồng Đậu trên đất Hà Nội phát hiện được 4 di tích ở Tiên
Hội, Xuân Kiều, Bãi Mèn và Đình Tràng.
Một số huyện ngoại thành Hà Nội đã phát hiện được nhiều di tích
văn hoá Đông Sơn quan trọng như: di tích Đa Tốn, Dương Xá (Gia Lâm),
Đường Mây, Đình Tràng (Đông Anh), Chùa Thông (Thanh Trì), mộ thuyền,
Chương 5. Văn hóa Thăng Long - Hà Nội 125

trống đồng Cổ Loa, trống đồng Ngọc Hà,... hình thành những sưu tập đồ
đồng phong phú: trống đồng, lưỡi cày đồng, mũi tên đồng. Nhiều kiểu loại
mộ táng văn hoá Đông Sơn như mộ huyệt đất ở Đình Tràng, mộ quan tài
hình thuyền ở sông Tô Lịch, Yên Hoà (Cầu Giấy), Nguyệt Áng (Thanh Trì).
Cho đến sau này, khi thành lập nước Âu Lạc, An Dương Vương đã
chọn Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) làm kinh đô và xây dựng ở đây một toà
thành lớn: thành Cổ Loa làm kinh thành. Có thể nói ngay từ thời kì dựng
nước, Thăng Long - Hà Nội đã được chọn là kinh đô, trung tâm điều
hành kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội của cả nước.

5.1.2. Trong thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc


Trong suốt 1000 năm Bắc thuộc, quá trình tiếp xúc văn hoá Hoa - Việt
lâu dài đã có những thay đổi quan trọng trong đời sống văn hoá, kinh
tế, xã hội người Việt trong đó có cư dân kinh đô Thăng Long. Bên cạnh
những nghề truyền thống, người Việt đã phát triển nhiều nghề thủ công
tiếp thu kỹ thuật và phong cách nghệ thuật từ người Hán như: rèn sắt,
làm gốm, làm gạch ngói, làm đường, làm giấy, chế tạo thuỷ tinh, sản xuất
đồ mĩ nghệ, thuộc da, sơn then… Cụ thể là, đồ gốm làm ra thời kì này
xuất hiện nhiều loại hoa văn mang đặc trưng của người Hán; từ sản xuất
các loại gốm thô đã làm ra các sản phẩm gốm tráng men. Nghề làm vật
liệu xây dựng đặc biệt phát triển nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng các
công trình kiến trúc thành quách, chùa tháp, mộ táng... của chính quyền
cai trị. Nghề làm giấy được du nhập từ Trung Quốc đã có nhiều tiến bộ,
người Việt đã sáng tạo nhiều loại giấy trên cơ sở nguồn nguyên liệu sẵn
có trong nước như giấy mật hương… Nghề chế tạo thuỷ tinh cũng đạt
nhiều thành tựu lớn như: sản xuất những sản phẩm thuỷ tinh tinh xảo,
nhiều màu sắc…
Dưới tác động của chính sách đồng hoá, các yếu tố văn hoá Hán ngày
càng ảnh hưởng sâu đậm ở nước ta. Xen kẽ cùng xóm làng người Việt ở
đồng bằng châu thổ sông Hồng đã xuất hiện một số thị trấn, xóm làng
của người Hoa và những đồn điền, trại ấp của quan lại, địa chủ gốc Hán.
Trải qua quá trình cộng sinh lâu đời, nhiều người Hoa đã dần dần Việt
hoá và trở thành một bộ phận trong cộng đồng người Việt. Cùng với việc
xoá bỏ chế độ Lạc tướng và cơ cấu bộ lạc, nhiều truyền thống của công
126 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

xã, bộ lạc người Việt đã bị phá vỡ, phân hoá xã hội ngày càng sâu sắc với
những mối quan hệ xã hội mới ra đời. Tầng lớp hào trưởng người Việt
ngày càng có vai trò to lớn trong xã hội, trong khi đó họ lại bị quan lại đô
hộ chèn ép và phân biệt đối xử về cả kinh tế và chính trị nên mâu thuẫn
giữa hào trưởng với chính quyền đô hộ ngày càng sâu sắc. Họ dần trở
thành thủ lĩnh đại diện cho phong trào đấu tranh chống lại ách nô dịch
và đồng hoá của chính quyền đô hộ.
Cũng trong thời kì này, văn hoá, luật tục và thiết chế cổ truyền của
người Việt dần bị xoá bỏ và bị cải tổ theo phong hoá Hán. Thậm chí tên họ
người Việt đến thời kì này cũng được thống nhất đặt theo cách gọi chung
của người Hán. Tuy nhiên, nhiều phong tục truyền thống vẫn được bảo
tồn bền bỉ như tục thờ cúng tổ tiên, anh hùng có công với cộng đồng, tục
xăm mình, nhuộm răng đen hay các hình thức tín ngưỡng dân gian khác
của cộng đồng cư dân nông nghiệp trồng lúa nước.
Quá trình giao lưu tiếp xúc văn hoá mạnh mẽ đã đưa đến sự du nhập
các luồng tư tưởng, tôn giáo lớn như Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo…
Nho giáo vào Việt Nam cùng với chính sách nô dịch, đồng hoá của chính
quyền cai trị nên ít có điều kiện đi sâu vào đời sống dân chúng, mới chỉ
dừng lại ảnh hưởng ở những tầng lớp trên trong xã hội. Trái lại, Phật giáo
ngay khi vào Việt Nam đã có sự kết hợp với tín ngưỡng dân gian bản địa
một cách tự nhiên. Đây là một tôn giáo phát triển nhanh và có ảnh hưởng
sâu rộng nhất tại nước ta thời Bắc thuộc. Sự phát triển mạnh mẽ của tôn
giáo này dẫn đến sự hình thành trung tâm Phật giáo Dâu - Luy Lâu phồn
thịnh ngay từ những thế kỉ đầu Công nguyên. Ngoài ra, Đạo giáo cũng
là một tôn giáo đi theo bước chân của người Hán đã du nhập vào nước
ta. Từ cuối thế kỉ II, Đạo giáo chính thức được truyền bá và mức độ ảnh
hưởng trong dân chúng của nó đã vượt xa Nho giáo. Với tinh thần xuất
thế, vô vi, thoát tục, thuận theo tự nhiên, Đạo giáo đã được người Việt
đón nhận nhanh chóng.
Sự xuất hiện và phát triển của nhiều tư tưởng, tôn giáo đã tạo nên sắc
thái đa nguyên hỗn hợp trong đời sống văn hoá tín ngưỡng của người Việt.
Mặc dù được truyền bá vào Việt Nam bằng nhiều con đường, nhiều hình thức
cũng như mức độ ảnh hưởng khác nhau trong dân chúng, ba tôn giáo lớn:
Chương 5. Văn hóa Thăng Long - Hà Nội 127

Nho - Phật - Đạo đều có khuynh hướng kết hợp với nhau và hoà quyện với
các tín ngưỡng dân gian bản địa của người Việt.
Có thể nói, dù phải chịu ách cai trị tàn bạo và chính sách đồng hoá
khốc liệt của các triều đại phong kiến phương Bắc, song người Việt đã
biết tiếp thu, học hỏi những yếu tố tiến bộ, những thành tựu trong văn
hoá, tạo nên những chuyển biến to lớn trong nền kinh tế, xã hội, văn hoá
Việt đã diễn tiến dưới ảnh hưởng của văn hoá Hán và dần biến đổi từ mô
hình Đông Sơn cổ truyền sang mô thức mới: Việt - Hán. Các chính quyền
phong kiến phương Bắc dù cố gắng tìm mọi cách để đồng hoá người Việt
song về căn bản trong suốt 1000 năm Bắc thuộc, văn hoá Việt vẫn tồn tại
như thế giới riêng. Quá trình giao lưu, tiếp biến văn hoá Hoa - Việt là cơ
sở nuôi dưỡng và phát huy những tinh hoa của văn hoá truyền thống làm
nền tảng cho cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc, chống đồng hoá.
Khu vực Hà Nội trong suốt một nghìn năm Bắc thuộc luôn là địa bàn
diễn ra các cuộc khởi nghĩa, trận chiến quyết liệt chống lại ách nô dịch
của phong kiến phương Bắc, là nơi được các bậc đế vương nhiều lần chọn
làm kinh đô, trung tâm điều hành của đất nước. Ngay từ tháng 3 năm 40,
Trưng Trắc đã cùng em là Trưng Nhị phát động cuộc khởi nghĩa ở khu
vực cửa sông Hát (Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Nội) với mục đích đền nợ
nước, trả thù nhà. Sau hơn 200 năm chìm đắm dưới ách đô hộ của phong
kiến Trung Quốc, Trưng Trắc được suy tôn làm vua (Trưng Vương), đóng
đô ở Mê Minh (nay là khu vực Hạ Lôi, Mê Linh, Hà Nội). Năm Giáp Tý
(544), Lý Bí tuyên bố dựng nước Vạn Xuân, ông cũng là người đầu tiên
trong lịch sử Việt Nam nhận ra vị trí trung tâm bờ cõi của vùng đất ngã
ba sông Nhị Hà - Tô Lịch và chọn khu vực cửa sông Tô Lịch nối thông với
Nhị Hà (tức là vùng đất Thăng Long - Hà Nội cổ) làm đất đóng đô.
Năm 766, Phùng Hưng khởi nghĩa ở Đường Lâm, Sơn Tây, sau đó
kéo quân về bao vây An Nam La Thành (năm 767) khiến cho địch lúng
túng muốn thoát cũng không nổi. Sau khi đánh chiếm An Nam La Thành,
rồi mở rộng An Nam La Thành đặt tên lại là La Thành, Phùng Hưng đã
đóng đô và tổ chức chính quyền tự trị tại đây. Năm 938, Ngô Quyền lãnh
đạo nhân dân chống lại sự xâm lược của quân Nam Hán. Năm 939, Ngô
Quyền xưng vương, trở về Cổ Loa, chọn nơi đây làm kinh đô của đất nước.
128 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Sau đó, từ nhà Đinh (968-980) đến nhà Tiền Lê (980-1009) kinh đô của Đại
Việt đều đóng ở Hoa Lư. Gần nửa thế kỉ sau này, Hà Nội dường như bị bỏ
quên, không còn vị thế trung tâm đất nước nhưng Thăng Long vẫn là nơi
đất đai màu mỡ, dân chúng tụ họp đông vui, làm ăn dễ dàng, giàu có và
tấp nập1.

5.1.3. Văn hoá Thăng Long - Hà Nội thời quân chủ


Phật giáo thời Lý rất hưng thịnh, chùa tháp mọc lên khắp mọi nơi (do
nhà vua và quý tộc bỏ tiền xây dựng, tiêu biểu là chùa Diên Hựu (chùa
Một Cột) và tháp Báo Thiên, nhân dân lúc đó quá nửa làm sư2. Thời kì
này, Thăng Long được xây dựng trở thành trung tâm chính trị - kinh tế -
văn hoá lớn nhất và tiêu biểu cho cả nước. Thành quách, đê điều, các loại
kiến trúc cung đình, dân gian, tôn giáo, văn hoá,.. tất cả hoà quyện với
thiên nhiên tạo nên dáng vẻ riêng của kinh thành rồng bay. Thăng Long
thời Lý rất gần gũi với thiên nhiên và tính cách người Việt, đượm tính
dân gian và tính dân tộc. Chế độ quân chủ đời Lý đã đạt đến mức độ tập
quyền cao nhưng chưa mang tính chất chuyên chế quan liêu nặng nề. Đó
là một nhà nước độc lập, thống nhất dựa trên tinh thần Phật giáo. Mối
quan hệ giữa triều đình và làng xóm, giữa vua quan và dân chúng có sự
cách biệt nhưng cũng có mặt gần gũi. Hoàng thái tử trước khi nối ngôi đã
sống trong phủ đệ giữa khu phố phường dân gian. Công chúa và cung nữ
trồng dâu, chăn tằm, dệt gấm. Năm 1033, triều đình cho đúc chuông lớn
hơn 10.000 cân (tương đương hơn 6 tấn) đặt ở Lầu Chuông. Một số lễ hội
mang tính tôn giáo và tính quần chúng như hội đèn Quảng Chiếu cũng
được tổ chức trong Sân Rồng (Long Trì) của Cấm Thành. Qua quá trình
hội tụ, chắt lọc và lắng đọng, văn hoá Thăng Long đã kết tinh các giá trị
của văn hoá dân tộc và trở thành trung tâm tiêu biểu của văn hoá cả nước.
Đó là một nền văn hoá hài hoà giữa thiên nhiên và con người, giữa cung
đình và dân dã, tính dung hợp của các tôn giáo, tín ngưỡng, tính dân tộc
và tính nhân văn cao.
Thăng Long hội tụ, kết tinh, thăng hoa văn hoá Đại Việt đời Trần,
kinh sư qua gần hai thế kỉ XIII - XIV, không chỉ tiếp tục phát huy và khắc

1
Nguyễn Thị Bích Hà (2010), Hà Nội, con người, lịch sử và văn hoá, Nxb. Đại học Sư phạm, tr.27.
2
Nhận xét của Lê Văn Hưu trong Đại Việt Sử kí toàn thư, tr. 242.
Chương 5. Văn hóa Thăng Long - Hà Nội 129

hoạ rõ nét mà phát triển đặc tính hội tụ, kết tinh, thăng hoa của văn hoá
Đại Việt lên một quy mô, tầm vóc mới. Sự phát triển của khu kinh tế, dân
cư làm cho bộ phận thành - thị của Thăng Long ngày càng rõ nét hơn.
Kinh tế thủ công, thương nghiệp thành thị sinh ra tầng lớn thị dân và lối
sống thị dân. Vào đời Trần, số lượng thị dân ở Thăng Long chưa nhiều
nhưng đã có những biểu hiện sinh hoạt của cư dân phố thị, trong đó có
sinh hoạt ban đêm của thành thị, gồm buôn bán, vui chơi…
Bóng dáng một đô thị khu vực ngày một rõ ràng, những kiều dân
phương Bắc, các nhà sư đến từ Chămpa, Trung Á… Thăng Long thành đầu
cầu tiếp nhận, truyền dẫn và liên lạc… Nhiều yếu tố “ngoại” được du nhập
vào Thăng Long không chỉ từ phường - thị. Sinh hoạt kinh tế, văn hoá của
kinh thành Thăng Long có dáng dấp của một đô thị khá phát triển, phản
ánh quan hệ thương, công, nông nghiệp, quan hệ giữa khu vực đường phố
của phường thị và thành, hoà quyện với văn hoá dân gian.
Chất “tri thức” ngày một gia tăng trong sinh hoạt văn hoá của kinh
thành nhưng vẫn phản ánh rõ sự hoà quyện, chưa có sự cách biệt giữa
bộ phận quý tộc và dân dã. Là trung tâm hội tụ các trí thức hàng đầu của
Đại Việt, Thăng Long trở thành trung tâm văn hoá lớn nhất của quốc gia.
Những nhà văn hoá lớn như các vị vua đầu thời Trần, vương hầu, quý
tộc tài năng như: Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật…
nửa đầu thế kỉ XIV có Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Sư Mạnh, Lê Quát…
đã in đậm chất tri thức bác học trong sinh hoạt, sáng tác văn thơ, ca nhạc.
Tuy nhiên điểm nổi bật là sự hoà quyện giữa sinh hoạt văn hoá dân gian
nồng hậu với cung đình. Thăng Long - Đại Việt thể hiện, kết tinh rực rỡ
sức mạnh, khí phách, nội lực văn hoá dân tộc qua ba lần chiến thắng quân
xâm lược Mông - Nguyên, qua bước phát triển kinh tế, văn hoá của đất
nước sau kháng chiến.
Nhà Lê xây dựng nước quân chủ trung ương tập quyền theo mô
hình Nho giáo và lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống. Nho giáo
giữ vai trò chi phối trong thiết chế chính trị, tổ chức giáo dục, thi cử và có
ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội. Chế độ giáo dục khoa cử quán
triệt hệ tư tưởng Nho giáo và phương thức chủ yếu để đào tạo đội ngũ
trí thức, tuyển dụng quan chức cho nhà nước. Văn Miếu - Quốc Tử Giám
130 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

là nơi tôn sùng đạo Khổng, là trung tâm giáo dục quốc gia cao và lớn nhất
của cả nước.
Cuối thời Trần, Phật giáo bắt đầu bị tấn công, Nho giáo lấn át dần.
Sang thế kỉ XV, Nho giáo tiến lên chiếm địa vị chi phối trong xã hội, đáp
ứng yêu cầu phát triển của chế độ quân chủ tập quyền. Tư tưởng Nho giáo
thống trị trong thời Lê sơ là tư tưởng Tống Nho, một “phái chính thống”
do Chu Hy đứng đầu, hình thành ở Trung Quốc vào khoảng thể kỷ XI - XII.
Cùng với vai trò chi phối của Nho giáo, các nghi lễ tế đàn Nam Giao, đàn
Xã Tắc, tế Khổng Tử ở Văn Miếu, tế Thái Miếu được coi trọng và quy định
thành thể chế vào thời Lê Thánh Tông. Trong cung đình, hàng năm có lễ
sinh nhật của nhà vua gọi chung là lễ Thánh thọ, mỗi vị vua đặt tên riêng:
vua Lê Thái Tổ gọi là Vạn thọ khánh tiết… Trong các phường của kinh
thành vẫn duy trì phổ biến các lễ chùa, lễ đền, lễ làng, trong đó có những
lễ hội lớn như lễ Gióng ở đền Phù Đổng, lễ đền Hai Bà Trưng và lễ Vu lan
(rằm tháng 7) theo truyền thống Phật giáo.
Nhà Mạc cầm quyền ở kinh thành Thăng Long trong một thời gian
không dài (65 năm), thời gian các vua Mạc trực tiếp đóng đô ở Thăng
Long - Đông Kinh còn ngắn hơn. Do vậy, chính sách văn hoá, xã hội của
nhà Mạc là “dựa theo phép cũ của triều Lê” nên ít xáo trộn. Một nghịch lí
dễ nhận thấy trong đời sống văn hoá ở Thăng Long thời Mạc: đây là một
triều đại mà vị vua sáng lập xuất thân từ một người bình dân, các vua sau
đó luôn phải theo đuổi cuộc nội chiến khốc liệt, khi tấn công lúc phòng
thủ, lại là một vương triều nổi tiếng về chính sách trọng sĩ, rất quan tâm
đến vấn đề giáo dục khoa cử và ưu đãi sử dụng các nho sĩ hiền tài. Mặt
khác, các vua Mạc cũng ý thức được cần phải nhanh chóng đào tạo một
đội ngũ trí thức nho sĩ mới, phục vụ cho chế độ, giữ yên nội tình để triều
đình có thể tập trung vào cuộc chiến chống Nam triều. Đó có thể là động
cơ chủ yếu của chính sách trọng sĩ của các vua Mạc.
Nét nổi bật trong đời sống tôn giáo, tín ngưỡng ở Thăng Long thời
Mạc: ngoài việc ba tôn giáo Nho - Phật - Đạo chung sống hoà bình và
hoà nhập (tam giáo đồng nguyên), các tín ngưỡng dân gian truyền thống
cũng có điều kiện phát triển. Đặc biệt trong thế kỉ XVI, đã xuất hiện và
phổ biến trong dân gian đạo Mẫu gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh,
Chương 5. Văn hóa Thăng Long - Hà Nội 131

một nhân vật được liệt vào hàng “Tứ bất tử”. Đây cũng là vị nữ thần có lai
lịch nửa thiên giới, nửa trần tục, tượng trưng cho khát vọng tình yêu đôi lứa
nơi trần thế. Chùa chiền được nở rộ dưới thời Mạc, phần lớn là trùng tu, nâng
cấp từ những ngôi chùa cũ, một số mới được xây dựng. Thế kỉ XVI, ở các
làng ven đô, tục thờ thần linh được hình thành và phát triển tại các đền
miếu. Kiến trúc đình làng cũng có thể xuất hiện từ thời Lê sơ thế kỉ XV.
Tuy nhiên, những ngôi đình được xây dựng kiên cố bằng gạch ngói kết
hợp với gỗ lâu đời nhất còn tồn tại đến ngày nay đều có niên đại vào thời
Mạc như đình Thụy Phiêu (Ba Vì, năm 1531), Lỗ Hạnh (Hiệp Hoà, Bắc
Giang, năm 1576), La Phù (Thường Tín, năm 1579), nổi tiếng nhất là đình
Tây Đằng (Ba Vì, năm 1583). Các ngôi đình này có sự kết hợp hài hoà giữa
chức năng tôn giáo (thờ thần, cúng lễ) với chức năng văn hoá (hội hè, nơi
tổ chức các trò vui dân gian), điều này được phản ánh trong các bức chạm
phù điêu của đình Tây Đằng.
Điểm nổi bật về văn hoá Thăng Long - Hà Nội thời Lê - Trịnh là
hình thành các thôn phường chuyên nghiệp về nghề thủ công. Ven hồ
Tây - sông Tô Lịch là cụm làng chuyên làm nghề dệt, nhuộm, đúc đồng,
làm giấy, sở dĩ nơi đây phát triển nghề thủ công bởi vừa có hệ thống giao
thông đường thuỷ thuận tiện cho thuyền bè chuyên chở những vật liệu
nặng, cồng kềnh vừa là nơi đất rộng, thoáng, có nguồn nước tự nhiên dồi
dào, tiện lợi cho việc sản xuất hàng loạt hay chế tác các công đoạn của một
số mặt hàng đòi hỏi kĩ thuật cao và không gian rộng.
Ở thời kì này, văn hoá Thăng Long - Hà Nội cũng tiếp nhận những
“đợt sóng mới”1. Văn hoá Việt Nam truyền thống về bản chất là một nền
văn hoá nông thôn làng xã, phản ánh một nền văn minh thảo mộc và sông
nước, chịu ảnh hưởng của những tín điều Khổng giáo. Tuy nhiên, ở kinh
thành Thăng Long từ nhiều thế kỉ đã tồn tại một nền văn hoá đô thị đích
thực, cho dù nền văn hoá đó vẫn chịu ảnh hưởng không ít của nền văn
hoá nông thôn. Văn hoá đô thị Thăng Long đã phát triển, tạo thành một
đợt sóng mới trong những thế kỉ XVII - XVIII. Khác với nền văn hoá thị
dân trong các thành thị Tây Âu trung đại, văn hoá đô thị Thăng Long là
một nền văn hoá đa thành phần bao gồm các giai tầng quý tộc, quan liêu,

1
Chữ dùng của Nguyễn Thừa Hỷ (2012) trong Lịch sử Thăng Long - Hà Nội, tập 1, Sđd, tr. 787.
132 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

nho sĩ cũng như khối quần chúng bình dân như thợ thủ công - thương
nhân. Nơi đây vẫn lưu giữ các yếu tố văn hoá truyền thống Kinh Kì, tài
hoa thanh lịch, trọng danh dự, vươn tới một cuộc sống chất lượng cao.
Tuy nhiên, nó cũng mang theo những mặt trái tiêu cực mà thói xa xỉ, hình
thức, chuộng lạ là một thói quen không dễ thay đổi.
Là kinh đô trong nhiều thế kỉ, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá
của cả nước, Thăng Long từng thu hút, hội tụ nguồn nhân lực chất lượng
cao bao gồm những nho sĩ, nghệ nhân, thợ khéo, nhà buôn đảm đang,
những nhân tài, danh sĩ từ nhiều vùng địa phương khác nhau. Họ mang
theo những lối sống, tâm lí, sắc thái văn hoá nơi quê hương họ, đồng thời
mang theo ý chí và sự năng động để tồn tại, trụ lại nơi đế kinh phồn hoa
đô hội, theo quy luật cạnh tranh sinh tồn. Qua nhiều thế hệ, những đặc
trưng văn hoá và tính cách con người của nhiều vùng văn hoá đã hoà trộn
cùng nhau, kết tinh thành một bản sắc văn hoá đô thị Thăng Long độc
đáo, được đánh giá cao qua những câu tục ngữ ca dao “Khéo tay hay nghề,
đất lề Kẻ Chợ”.
Về mặt lịch đại, thế kỉ XVII - XVIII là một “đợt sóng mới” của văn hoá
đô thị Thăng Long - Kẻ Chợ. Lúc này chế độ phong kiến nhà nước quan
liêu Đại Việt đã chuyển từ giai đoạn mô hình (thời Lê sơ) sang giai đoạn
hậu mô hình. Thực tế, đời sống sinh động có nhiều chuyển biến, đã đi
trước và vượt qua một khung mô hình thiết chế - hệ tư tưởng chính thống
mang tính bảo thủ, tạo nên “độ chênh lịch sử”. Văn hoá đô thị Thăng
Long - Kẻ Chợ vốn rất nhạy cảm với những chuyển biến mới, đã phản
ánh độ chênh lịch sử đó.
Sự suy thoái của văn hoá Đông Á nho giáo chính thống và những
tiếp xúc kinh tế văn hoá Đông Tây đã kéo theo sự khủng hủng của hệ
tư tưởng và những tín điều Tống Nho đã gây ra một khoảng trống niềm
tin. Mặt khác, nó tạo điều kiện cho sự phục hưng của những yếu tố văn
hoá Nam Á dân gian phi chính thống, các tôn giáo Phật, Đạo và những
khuynh hướng tư tưởng giải phóng thân phận con người. Tất cả đã tạo
nên một toàn cảnh văn hoá Thăng Long - Kẻ Chợ nói riêng và Đại Việt nói
chung sôi động, đa nguyên, giàu tính nhân văn và khai phóng.
Chương 5. Văn hóa Thăng Long - Hà Nội 133

Thăng Long - Kẻ Chợ thời Lê - Trịnh tiếp tục thời nhà Mạc đã rộ lên
phong trào chấn hưng Phật giáo, Đạo giáo, lập lại thế cân bằng tam giáo
đồng tôn. Phật giáo lúc này tuy không được nhà nước chính thức thừa
nhận địa vị bình đẳng với Nho giáo nhưng trên thực tế đã thu hút đông
đảo nhiều tín đồ thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội (quý tộc, quan liêu, nho
sĩ, bình dân). Thời Lê - Trịnh, ở Thăng Long - Kẻ Chợ hàng loạt các loại
chùa chiền đã được trùng tu hoặc xây dựng mới như chùa Trấn Quốc,
Tiến Tích, Hòe Nhai, Kim Liên, Trung Quang, Liên Phái, Linh Sơn, kinh
phí do một số quý tộc quan liêu, nhà giàu và những tín đồ hảo tâm ở Kẻ
Chợ đứng ra quyên góp xây dựng chứ không dùng công quỹ tài trợ như
thời Lý - Trần.
Tuy không còn là kinh đô, nhưng Thăng Long - Hà Nội dưới thời
Nguyễn vẫn là trung tâm giáo dục và văn hoá hàng đầu của đất nước,
chỉ đứng sau kinh thành Huế. Bởi, một mặt Thăng Long - Hà Nội vẫn là
thủ phủ của cả một khu vực rộng lớn, mặt khác, sự ngưng đọng của lịch
sử và văn hoá dân tộc trải qua bảy, tám trăm năm không dễ mất đi. Khi
được thiết lập, nhà Nguyễn đứng trước rất nhiều khó khăn. Thực tế đòi
hỏi Nguyễn Ánh và những người đứng đầu triều đình Huế phải nhanh
chóng ổn định tình hình đất nước. Một trong số những “vũ khí” truyền
thống được nhà Nguyễn “dùng lại” là kỉ cương hoá xã hội dựa trên nền
tảng tư tưởng Nho giáo gắn với việc đào tạo tầng lớp trí thức nho học làm
rường cột nhân sự cho bộ máy nhà nước. Trên cơ sở kế thừa và tiếp nối
truyền thống, trong những điều kiện mới, một hệ thống giáo dục quan
phương đã nhanh chóng được thiết lập lại từ trung ương cho đến địa
phương, đóng vai trò chủ đạo của toàn bộ nền giáo dục đương thời, đồng
thời, hệ thống giáo dục dân gian tiếp tục tồn tại và phát triển.

5.1.4. Văn hoá Hà Nội trong thời kỳ hiện đại


Với sự chuyển biến về chính trị, kinh tế, xã hội, đời sống văn hoá
đô thị của Hà Nội buổi đầu thời Pháp thuộc cho đến cuối thế kỉ XIX là
sự cấy ghép nhưng chưa thuần thục những yếu tố văn hoá phương Tây
vào nền văn hoá truyền thống ở Việt Nam. Đạo Thiên Chúa giáo vốn có
gốc rễ lâu đời trong bộ phận người Việt và những sinh hoạt văn hoá mới
mang tính tư sản tồn tại trong cộng đồng người Pháp và con em quan lại
134 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

cao cấp người Việt cộng tác với Pháp có cơ hội phổ biến rộng rãi, còn lại
những chuyển biến văn hoá thời kì này nhìn chung diễn ra chậm hơn so
với những chuyển biến về quy hoạch đô thị và kinh tế.
Nền tảng tín ngưỡng mang tính truyền thống vẫn được duy trì ở Hà
Nội đó là: tam giáo đồng nguyên Nho - Phật - Đạo. Tục thờ cúng tổ tiên
được xem như “một tôn giáo gia đình đích thực”, bên cạnh tục thờ thần linh
và các tín ngưỡng dân gian khác. Cùng với sự đổ vỡ của hệ thống chính
quyền vua - quan và sự sa sút của nền giáo dục Nho học, ở Hà Nội lúc
này những quan hệ đạo đức lễ giáo ngoài xã hội bắt đầu bị rạn nứt, chỉ
còn duy trì tương đối ổn định trong gia đình. Bức tranh ghép hình, đa sắc
về văn hoá đô thị đầu thế kỉ XX có những thay đổi chậm, pha trộn những
gam màu tối và sáng, thủ cựu và cách tân, truyền thống và hiện đại. Nhìn
chung, đó vẫn là đời sống văn hoá của một đô thị truyền thống đang trên
đà chuyển mạnh sang đô thị hiện đại mang tính chất tư bản thực dân,
chắp vá, đan xen giữa cũ và mới.
Những năm 1900-1906 là bước ngoặt lịch sử đối với diện mạo kiến
trúc đô thị Hà Nội. Hai khu phố Tây cũ và mới được hoàn chỉnh, với
những đường phố thoáng rộng, thiết kế theo kiểu ô vuông bàn cờ, điểm
xuyết những quảng trường, vườn hoa, điểm tròn. Các công trình kiến trúc
trọng điểm không còn bố trí thành từng cụm như ở thời kì trước mà trải
ra theo điểm trong toàn thành phố. Năm 1901, Hà Nội có 608 nhà người
Âu, 3.879 nhà người Việt (theo số liệu của Đốc lí Baille), 68 km đường
hoàn thiện, 30 km đường ống cấp nước, 12 km cống thoát nước. Theo
báo cáo của Đốc lí Đômecgơ năm 1904, tổng diện tích Hà Nội là 950 ha,
trong đó khu vực nhà ở (Pháp và Việt) chiếm 528 ha, khu quân sự 76 ha,
khu hành chính gần 37 ha, đường phố 114 ha. Tham vọng của Toàn quyền
Pháp là P.Doumer muốn biến Hà Nội thành một “Paris thu nhỏ” cùng với
những nỗ lực tích cực của kiến trúc sư trưởng Auguste - Henri Vildieu và
kiến trúc sư Charles Lichtenfelder.
Phong cách kiến trúc đô thị Hà Nội có sự thay đổi căn bản, chuyển
từ “chủ nghĩa duy lí công năng vị lợi” của công binh Pháp trước đó sang
phong cách tân cổ điển, với những công trình vững chắc, dáng vẻ bề thế,
thể hiện uy quyền, lối bố cục đối xứng truyền thống, có phần sao chép
Chương 5. Văn hóa Thăng Long - Hà Nội 135

nguyên mẫu châu Âu ở Pháp như Toà án, Phủ Toàn quyền, Nhà hát Lớn,
khách sạn Métropole, ga Hàng Cỏ...
Về kiến trúc nhà ở dân sự ở những khu phố Tây phổ biến là kiểu biệt
thực (villa), diện tích rộng, thoáng, có vườn tược, nhà ở dáng vẻ Tây với
mái dốc đứng như nhà ở các xứ lạnh có nhiều tuyết… Ở các phố khác,
đất ở chật chội, nhà tầng có tường hoa chắn mái, phía trên cửa sổ có đắp
gờ khum vòm.
Cùng với sự thay đổi về kiến trúc, nhà ở, về ẩm thực và trang phục
thời kì này có nhiều cách tân. Trong những gia đình trung lưu, khi thiết
đãi khách, ngoài những món ăn cổ truyền, đã xuất hiện một số món ăn
theo kiểu Tây, kiểu Tàu. Trang phục thời kì này bắt đầu có sự đổi khác,
một số người mặc theo kiểu Tây: đàn ông cắt tóc ngắn, đội mũ phớt, cài
nơ đen. Tầng lớp thị dân vẫn ăn mặc theo lối cổ truyền: đàn ông chít khăn
lượt thâm hoặc đóng khăn xếp, mặc áo the thâm, quần trắng cát bá hoặc
trúc bâu, đi giày Gia Định; đàn bà vấn khăn rẽ ngôi, áo cánh, yếm trắng
hoặc đào, quần lĩnh Bưởi đen, khoác ngoài áo tứ thân màu đen hoặc nâu,
thắt lưng lụa, đội nón ba tầm rộng vành quai thao, chân đi dép cong hoặc
quai chéo. Một số các bà, các chị thị dân Hà Nội đeo vòng, kiềng, khuyên
tai, nhẫn vàng, giắt bộ xà tích bạc ở thắt lưng. Trang phục dân lao động
đơn giản, chủ yếu mặc áo cánh.
Trong khu phố cổ, các cửa hiệu phần lớn vẫn sản xuất và bày bán
những mặt hàng thủ công mĩ nghệ tinh xảo, số lượng sản xuất ít. Thịnh
đạt nhất lúc bấy giờ là nghề khảm xà cừ của dân làng Chuyên Mĩ (Phú
Xuyên) ở phía Tây (nay là phố Hàng Khay) và nghề thêu trên vải lụa của
dân các làng Hướng Dương, Quất Động (Thường Tín) ở cuối phố Hàng
Trống ngày nay. Sự thịnh đạt của hai nghề này một phần là do những
hàng đặt gia công làm thửa cho một số nhà giàu mới nổi và các quan
chức, sĩ quan Pháp mua làm đồ lưu niệm khi về nước.
Thời kì kháng chiến chống Mĩ, Thủ đô Hà Nội có vị trí chiến lược
quan trọng đối với cả nước, là nơi tập trung các cơ quan Trung ương
Đảng, Chính phủ, Bộ Tổng Tư lệnh, các đại sứ quán, các cơ quan ngoại
giao; là nơi tập trung các đầu mối giao thông quan trọng như: sân bay Gia
Lâm, sân bay Nội Bài, các nhà ga và kho tàng lớn ở Yên Viên, Đức Giang,
136 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Gia Lâm. Với tầm quan trọng của Hà Nội như vậy, đế quốc Mĩ quyết tâm
tiêu diệt đầu não lãnh đạo cuộc kháng chiến, uy hiếp tinh thần đấu tranh
và làm lung lay quyết tâm kháng chiến của quân và dân ta. Khi đánh phá
Hà Nội, Mĩ còn nhằm phá huỷ nguồn dự trữ chiến lược to lớn về kinh tế
và quốc phòng, phá huỷ những đầu mối giao thông quan trọng để ngăn
chặn sự chi viện của miền Bắc và Chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa cho tiền
tuyến ở miền Nam. Chính điều đó, khi tiến hành chiến tranh phá hoại
miền Bắc Việt Nam, đế quốc Mĩ xác định Hà Nội là mục tiêu tổng hợp,
quan trọng bậc nhất. Hà Nội được chính quyền Mĩ coi là “con bài” quyết
định của cuộc chiến tranh nhằm gây sức ép đối với Chính phủ Việt Nam
dân chủ cộng hoà. Điều đó cho thấy, trong sự nghiệp kháng chiến chống
Mĩ, cứu nước của dân tộc Việt Nam, Thủ đô Hà Nội giữ vị trí quan trọng
hàng đầu, trở thành biểu tượng cho sức mạnh của miền Bắc, là một trong
những chiến trường và địa bàn có tầm chiến lược quyết định thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của dân tộc ta.
Trong thời kì này, mặc dù chiến tranh ác liệt, sự nghiệp giáo dục -
đào tạo ở Thủ đô Hà Nội vẫn tiếp tục phát triển. Ngành giáo dục Thủ
đô nhanh chóng chuyển từ thời bình sang thời chiến. 100.000 học sinh
nội thành được sơ tán về các trường học ở ngoại thành và các tỉnh lân
cận. Hoạt động văn nghệ, thông tin tuyên truyền được đẩy mạnh. Phong
trào “tiếng hát át tiếng bom” vang lên khắp các nhà máy, xí nghiệp, làng
xã. Hội diễn văn nghệ các khu vực, toàn thành phố thường xuyên được
duy trì tổ chức. Phong trào ca hát chống Mĩ được tổ chức sâu rộng trong
thanh, thiếu niên, học sinh, sinh viên. Các đoàn văn công tích cực phục
vụ những đơn vị chiến đấu và đi vào chiến trường miền Nam. Các hoạt
động thông tin, tuyên truyền chiến thắng, tổ chức các lễ kỉ niệm truyền
thống biểu dương lực lượng của công nhân và thanh niên được các tầng
lớp nhân dân Thủ đô nhiệt tình tham gia.
Khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, cả dân tộc bước vào công
cuộc kiến thiết quốc gia trong khuôn khổ thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập
trung bao cấp… văn hoá quần chúng được “quan phương hoá”, chủ yếu
phục vụ cho các ngày kỉ niệm lớn của Đảng và dân tộc như kỉ niệm 600 năm
ngày sinh của Nguyễn Trãi (6-10-1980), kỉ niệm thành lập Đảng (3-2),
Cách mạng tháng Tám (19-8), giải phóng Thủ đô (10-10). Trong khi đó các
Chương 5. Văn hóa Thăng Long - Hà Nội 137

sinh hoạt văn hoá dân gian do quần chúng tự diễn xướng có phần lắng
xuống, nhất là các sinh hoạt văn hoá gắn với lễ hội và sinh hoạt tôn giáo.
Tuy vậy, các hình thức văn hoá dân gian vẫn tiềm ẩn sức sống mãnh liệt
trong đời sống văn hoá Hà Nội như trò chơi dân gian, vẽ tranh dân gian,
diễn xướng nghệ thuật dân gian (chèo, ca trù, múa rối)… Có loại hình
văn hoá được bảo tồn và phát triển trong các hoạt động chuyên nghiệp,
có loại hình được lưu giữ trong đời sống dân gian.
Từ sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, Hà
Nội vẫn giữ vị trí là thủ đô của nước Việt Nam hiện đại. Trong một
nghìn năm từ 1010 đến 2010, Thăng Long - Hà Nội luôn là một trung
tâm quyền lực trong đó có 843 năm là kinh đô của nước Đại Việt (từ
1010 đến 1788) và nước Việt Nam (từ 1945 đến 2010). Đây là một đặc
điểm nổi bật về vị thế lịch sử của Thăng Long - Hà Nội. Vai trò trung
tâm chính trị, văn hoá lâu đời của Thăng Long - Hà Nội không những
đã dệt nên những trang sử vàng mà còn để lại cho Thăng Long - Hà Nội
một di sản văn hoá đồ sộ, có giá trị.

5.2. Di sản văn hoá Thăng Long - Hà Nội


Với vai trò trung tâm văn minh, trung tâm quyền lực, kinh thành lớn
gần như liên tục trong suốt hàng nghìn năm đã tạo nên bề dày lịch sử,
văn hoá đặc thù của vùng đất Thăng Long - Hà Nội, đây cũng là nơi chứa
đựng kho tàng di sản văn hoá phong phú, đa dạng mang giá trị hội tụ,
chắt lọc, kết tinh, tiêu biểu và toả sáng của dân tộc. Theo Luật Di sản văn
hoá, di sản văn hoá Thăng Long - Hà Nội bao gồm hai loại hình: di sản vật
thể và di sản phi vật thể. Đây là cách phân loại có tính tương đối vì trong
di sản vật thể cũng chứa đựng di sản phi vật thể và di sản phi vật thể cũng
bảo tồn và lưu truyền qua các hình thái vật thể.

5.2.1. Di sản vật thể


Di sản vật thể trên mặt đất ở Hà Nội trải qua thử thách của thời
gian, chiến tranh, sự phá huỷ của con người, cho đến nay số lượng di sản
được bảo tồn không còn nhiều. Di tích kinh đô chỉ còn lại ba vòng thành
Cổ Loa, một số đoạn La Thành, Hoàng thành, nền điện Kính Thiên, cửa
Đoan Môn trong Cấm thành Thăng Long. Phủ chúa Trịnh nguy nga bên
138 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

hồ Hoàn Kiếm đã bị Lê Chiêu Thống đốt cháy năm 1787. Thành Hà Nội
bị chính quyền thực dân Pháp phá huỷ gần như san bằng năm 1895-1897,
chỉ còn lại Cửa Bắc (Chính Bắc Môn) và Kì Đài (Cột Cờ). Thành Mê Linh
của nhà nước Trưng Vương, thành Vạn Xuân của nhà nước Vạn Xuân chỉ
để lại dấu ấn qua một số địa danh và phế tích… Theo chính sử và các tài
liệu địa chí, nhiều cung điện, chùa quán, đình, đền xây dựng trên mảnh
đất kinh thành đã bị phá huỷ hoàn toàn hoặc trải qua nhiều lần trùng tu
và yếu tố gốc còn lại không nhiều. Ngôi chùa Khai Quốc cổ nhất ở Hà Nội
do Lý Nam Đế xây dựng đã được chuyển từ sông Hồng về vị trí ngày nay
cũng đã qua bao lần trùng tu. Tháp Báo Thiên với đỉnh tháp bằng đồng
là một trong “tứ đại khí” đã bị san phẳng. Chùa Một Cột (Diên Hựu) nổi
tiếng cũng đã qua nhiều lần sửa chữa và chùa Báo Ân mới xây dựng vào
giữa thế kỉ XIX với quy mô khá đồ sộ bên hồ Hoàn Kiếm cũng bị vùi lấp chỉ
còn dấu tích duy nhất là tháp Hoà Phong. Trong tình trạng di sản vật thể
trên mặt đất bị tổn hại nghiêm trọng như vậy thì những gì còn lại đến nay
là vô cùng quý giá và cần được bảo tồn, trùng tu một cách nghiêm chỉnh
để giữ lại những hình ảnh chân xác và lưu lại một số yếu tố gốc của di
tích cho mai sau. Một số di tích kiến trúc cổ truyền có giá trị tiêu biểu như
Văn Miếu (Nho giáo), chùa Trấn Quốc, chùa Một Cột, chùa Lý Quốc Sư,
chùa Bà Đá, chùa Láng (Phật giáo), quán Trấn Vũ (Đạo giáo), đình Yên
Thái, đền Hai Bà Trưng, đền Ngọc Sơn, đền Phù Đổng (tín ngưỡng dân
gian). Trong số các di tích kể trên, 82 bia đá ghi lại tên tuổi những người
đỗ đầu qua các khoa thi tiến sĩ triều Lê sơ - Mạc - Lê Trung Hưng (1442-1779)
tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã được công nhận là di sản tư liệu thế giới vào
năm 2010.
Các di tích vật thể còn lại tương đối nguyên gốc và toàn vẹn đến nay
là một số kiến trúc thời Pháp thuộc và các di tích cách mạng, kháng chiến.
Thời Pháp còn để lại một số kiến trúc mang phong cách cổ điển, tân cổ
điển của phương Tây và xu hướng kết hợp Đông - Tây thích nghi với điều
kiện tự nhiên, khí hậu nhiệt đới, môi trường văn hoá bản xứ. Trong di sản
này còn có những công trình đồ sộ có giá trị kiến trúc cao như: Phủ Toàn
quyền (nay là Phủ Chủ tịch), Phủ Thống sứ Bắc Kì (nay là Bộ Lao động -
Thương binh - Xã hội và Nhà khách Chính phủ), Nhà hát Thành phố, Đại
học Đông Dương (nay là Đại học Bách khoa), Bảo tàng Louis Finot (nay là
Chương 5. Văn hóa Thăng Long - Hà Nội 139

Bảo tàng Lịch sử Việt Nam), Sở Tài chính Đông Dương (nay là Bộ Ngoại
giao), Ngân hàng Đông Dương (nay là Ngân hàng Nhà nước), cầu Paul
Doumer (nay là cầu Long Biên). Ngoài ra còn có những kiến trúc nhà ở
khu phố Tây (quận Hai Bà Trưng, thường gọi là khu phố cũ) và các biệt
thự (tập trung ở quận Đống Đa)1.
Từ thế kỉ XIX, khi đạo Thiên Chúa truyền bá vào Hà Nội, xuất hiện
một số kiến trúc mới là nhà thờ Công giáo, tiêu biểu là nhà thờ Chính
toà (nhà thờ Lớn), nhà thờ Cửa Bắc. Trong số các di tích cách mạng và
kháng chiến có 265 di tích gắn liền với các sự kiện lớn trong thời kì cách
mạng và kháng chiến, trong số đó có 38 di tích đã xếp hạng cấp quốc
gia và cấp thành phố. Loại hình di tích này tập trung ở quận Hoàn Kiếm
(49 di tích), huyện Đông Anh (43 di tích), quận Ba Đình (25 di tích), quận
Hai Bà Trưng (25 di tích), quận Đống Đa (12 di tích). Những công trình
có giá trị tiêu biểu là số nhà 90 phố Thợ Nhuộm, nơi Tổng Bí thư Trần
Phú soạn Luận cương cách mạng tư sản dân quyền tháng 10-1930; nhà số
48 Hàng Ngang, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Tuyên ngôn Độc lập, khu
nhà sàn và nơi làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà hầm D67, Tổng
hành dinh Quân đội nhân dân Việt Nam trong kháng chiến giải phóng
miền Nam thống nhất đất nước.
Theo phân loại của Luật Di sản văn hoá (điều 28), các di tích văn hoá
vật thể gồm di tích lịch sử văn hoá, công trình kiến trúc nghệ thuật và di
tích khảo cổ học. Cho đến đầu năm 2010, vùng Hà Nội chưa mở rộng có
549 di tích được xếp hạng cấp quốc gia2. Như vậy Hà Nội đứng đầu cả
nước về số lượng các di tích quốc gia. Thêm vào đó là 219 di tích được xếp
hạng cấp thành phố. Đặc biệt, trong số các di tích trên có 2 di tích nằm
trong số 10 di tích cấp quốc gia đặc biệt được xếp hạng đầu tiên vào năm
2009 gần Khu Di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long và Khu di tích
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Phủ Chủ tịch. Dù bị phá huỷ, hư hại nhiều

1
Traits d’architecture, Ha noi à I’heure francaise (2009), Kiến trúc các công trình xây dựng tại
Hà Nội (1875-1945), Nxb Thế giới, Hà Nội.
2
Ban quản lí di tích và danh thắng Hà Nội (2000), Di tích lịch sử văn hoá Hà Nội, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Chí Bền (chủ biên) (2010), Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hoá vật thể Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội, tr. 353-385.
140 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

qua thời gian, số lượng, mật độ phân bố cũng như giá trị lịch sử, văn hoá
của các di tích vẫn được bảo tồn, đặc biệt ở “vùng lõi” của Hà Nội.
Bộ phận quan trọng di sản vật thể được bảo tồn trong lòng đất cho đến
nay vẫn chưa có cuộc tổng kiểm tra, đánh giá toàn bộ. Nhìn chung, trong
phạm vi trung tâm của kinh thành xưa, di sản khảo cổ học có trữ lượng lớn
và giữ vai trò quan trọng trong nghiên cứu lịch sử, văn hoá Thăng Long
- Hà Nội. Trên thực tế, từ những phát hiện ngẫu nhiên trong đào đất làm
đường, xây dựng nhà cửa đến những cuộc điều tra thám sát và khai quật
của các nhà khảo cổ học đã đủ chứng thực điều đó. Cuối thế kỉ XIX, khi mở
vườn Bách Thảo đã tìm thấy một cột đá chạm rồng, đầu thế kỉ XX lại tìm
thấy một lan can đá chạm sấu mang phong cách trang trí thời Lý. Trong
nửa đầu thế kỉ XX, tại Ngọc Hà đã tìm thấy trống đồng Đông Sơn; tại khu
Quần Ngựa và vùng Vạn Phúc, Hữu Tiệp, Kim Mã, Cống Vị, Liễu Giai…
cũng tìm thấy những đồ gốm sứ, gạch ngói… thời Lý - Trần. Từ giữa thế kỉ
XX đến nay, ngoài các phát hiện tình cờ, đã có nhiều cuộc điều tra thám sát
và khai quật quy mô về khảo cổ học. Hai khu vực tập trung nhiều di tích
khảo cổ học nhất là khu thành Cổ Loa và đặc biệt là khu Trung tâm Hoàng
thành Thăng Long. Tại đây, nhiều di tích kiến trúc cung đình và các di vật
thuộc loại hình vật liệu xây dựng, đồ dùng, công cụ, vũ khí,… đã được
phát lộ. Năm 2010, Khu Di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội
đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá thế giới. Kho tàng di tích, di vật
trong lòng đất Hà Nội rất phong phú, nhất là vùng trung tâm kinh thành
Thăng Long và vùng cố đô Cổ Loa nên việc bảo vệ, bảo tồn các di sản này
cần được đặt ra một cách nghiêm túc, bài bản trong quy hoạch Hà Nội, cần
hình thành một bản đồ quy hoạch khảo cổ để sớm thực hiện việc xây dựng.
Có thể nói rằng có cả một Thăng Long - Hà Nội cổ trong lòng đất, tuy hầu
hết dưới dạng phế tích nhưng mang nhiều giá trị lịch sử, văn hoá chân thực
để hiểu biết sâu sắc về đất Thăng Long nghìn năm văn vật.
Trong hệ thống di sản vật thể, Hà Nội còn có một số danh thắng
tiêu biểu cho cảnh quan thành phố sông - hồ, thành phố nước. Hồ Hoàn
Kiếm với tháp Rùa, tháp Bút, Đài Nghiên, đền Ngọc Sơn và màu nước
Lục Thuỷ cùng hàng cây cổ thụ bên bờ hồ được coi như một biểu tượng
của Hà Nội truyền thống, một không gian thiêng của đất kinh kì. Hồ Tây
và cả hồ Trúc Bạch bên cạnh là một hồ lớn nhất của Thủ đô. Mặt nước hồ
Chương 5. Văn hóa Thăng Long - Hà Nội 141

mênh mang trong hư ảo của huyền thoại, truyền thuyết cáo chín đuôi,
trâu vàng… bao quanh hồ là hàng loạt các đền, miếu, chùa, quán và làng
nghề nổi tiếng. Nhà thơ Cao Bá Quát đã coi “Tây Hồ chân cá thị Tây Thi”
(Hồ Tây thật là một nàng Tây Thi). Cảnh sắc hồ Tây là nguồn cảm hứng
vô tận, tạo nên các tác phẩm nổi tiếng về thi ca, nhạc, hoạ của mọi thời.
Đáng tiếc là di sản thiên nhiên sông - hồ của Hà Nội hầu như chưa được
chăm sóc, bảo tồn nên phần lớn đã bị bồi lấp, xâm lấn và bị ô nhiễm nặng
nề. Sông Tô Lịch gắn bó với cuộc sống của Thăng Long như một dòng
sông của huyết mạch giao thông, một dòng chảy văn hoá, một dải lụa bao
quanh kinh kì thấm đậm chất văn học dân gian, đến nay dù có kè đá kiên
cố cũng chỉ còn là dòng sông chết, bị ô nhiễm nặng nề.
Bảng 5.1: Thống kê di sản văn hoá vật thể đã xếp hạng của Hà Nội năm 20151

Tổng di tích Tổng di tích đã Di sản văn hoá Di tích cấp Di tích Di tích
lịch sử văn hoá được xếp hạng thế giới quốc gia đặc biệt cấp quốc gia cấp thành phố
5.922 2.396 02 11 1.182 1.202

Một loại hình của di sản vật thể phong phú và đặc sắc nữa của Thăng
Long - Hà Nội là ẩm thực. Các du khách phương Tây đến Kẻ Chợ như
Dampier (thế kỉ XVII) hoặc Sant Phalles (thế kỉ XVIII) đều khen các món
ăn Kinh Kì là “ngon và sạch”. Họ cũng chú ý đến những món ăn dân dã
độc đáo có phần lạ lẫm với người phương Tây như các loại nước mắm,
mắm tôm, cá gỏi, thịt chó và châu chấu. Nét đặc sắc của các món ăn Kẻ
Chợ là cách chế biến mang tính tổng hợp, có phần cầu kì, kén chọn, bổ
sung nhiều hương vị hấp dẫn ngon miệng, số lượng không nhiều nhưng
chất lượng tinh xảo. Kẻ Chợ nổi tiếng về các món cỗ nấu, thức ăn đặc sản
và các loại quà, bánh. Thịt bò tái Mai Động và Cầu Dền; cá, ốc Hồ Tây,
đầm Sét; các loại bún Tứ Kì (Thanh Trì), Phú Đô (Từ Liêm) được chế biến
thành các món được nhiều người ưa thích. Trong các đặc sản phải kể
đến các loại rượu sen, rượu cúc ở các làng Mơ (rượu Hoàng Mơ, cờ Mộ
Trạch), làng Thụy, làng Vòng; các loại trà uống Lương Quy (Đông Anh),
Đông Lạc (Sóc Sơn); bành phục linh (bánh đậu xanh) Hàng Đường dùng
để tiến vua, bánh cuốn Thanh Trì, cốm Vòng… đều đã từng nổi tiếng.

1
UBND thành phố Hà Nội, Sở Văn hoá và Thể thao (2016), Danh mục di sản văn hoá phi vật thể
thành phố Hà Nội, Nxb. Văn hoá Dân tộc, Hà Nội, tr. 5.
142 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Uống trà, ăn trầu, hút thuốc không chỉ là những thú vui thanh tao
mà còn là phương tiện hữu hiệu trong ứng xử, giao tiếp của người Kẻ
Chợ. Người uống trà rất kĩ lưỡng từ việc chọn các loại trà nổi tiếng, chọn
nước để pha trà đến việc chọn cách đun, pha, chuyên trà, chọn bộ đồ ấm
chén pha trà (các loại gốm sứ Bát Tràng và những gốm sứ Trung Hoa,
Nhật Bản có khi đặt mua từ những tàu buôn nước ngoài). Người Thăng
Long đã nâng việc uống trà thành một nghệ thuật, một triết lí sống.
Không những ăn ngon mà người Thăng Long - Kẻ Chợ cũng sành
điệu trong cách mặc và phục sức. Theo luật lệ đẳng cấp, chỉ có tầng lớp
quan lại mới được mặc gấm vóc đắt tiền (gấm Vạn Phúc hoặc gấm Trung
Hoa). Màu sắc trang phục được quy định theo phẩm trật: Vua dùng màu
vàng, đại thần dùng màu tía, quan thường dùng áo thanh cát (màu xanh).
Trước ngực áo vua, quan có gắn một miếng vải gọi là bố tử thêu các hình
muông thú để phân biệt phẩm trật: quan văn thêu hình các loài chim
(yểng, cò, vẹt, nhạn, công, hạc…), quan võ thêu hình các loài thú (beo,
gấu, báo, hổ, sư tử, kì lân, nghê). Ngoài áo, quần các quan còn có khăn,
mũ, giày, hài. Quan văn và các tiến sĩ tân khoa được ban loại mũ cánh
chuồn. Quan lại và cả người bình dân khi đi ra ngoài thường đeo bên
mình một túi vải nhỏ đựng trầu thuốc gọi là hà bao (đãy), túi này bán
nhiều ở phố Hà Bao (phố Hàng Đẫy) gần cửa Đại Hưng.
Tầng lớp bình dân sử dụng quần áo có chất liệu và màu sắc giản dị
hơn. Đàn ông thường mặc quần áo bằng vải thô để mộc (không nhuộm,
màu trắng hoặc ngà), nhuộm thâm (đen) ở làng Võng Thị (ven hồ Tây)
hoặc màu nâu non, nâu già ở làng Đồng Lầm (Kim Liên). Nam giới mặc
quần lá toạ, đi chân đất. Theo Phạm Đình Hổ, cuối thời Lê Trung Hưng,
tầng lớp vương, công, khanh, sĩ ưa dùng áo thanh cát màu quỳ (màu
sừng), không dùng màu hoả minh (xanh sẫm), vi minh (xanh nhạt)1. Khi
đi ra đường, trên đầu tầng lớp thị dân chít khăn đầu rìu, khăn chữ “nhân”,
khăn xếp, đội nón, đôi lúc để đầu trần, búi tóc. Trang phục của nữ Thăng
Long thường cầu kì và chải chuốt hơn. Họ mặc yếm (màu trắng hoặc
đào), áo cánh, váy (chất vải được ưa chuộng là lĩnh bưởi), ra đường họ
mặc áo dài tứ thân, thắt lưng hầu bao. Màu sắc được nữ giới ưa chuộng

1 Phạm Đình Hổ, Vũ Trung tuỳ bút, tr. 63


Chương 5. Văn hóa Thăng Long - Hà Nội 143

là đỏ pha sắc đào (điều) và hoa hiên, màu xanh pha sắc thiên thanh, hoa lí
hoặc lam giang. Có nhiều loại đồ trang sức dành cho phụ nữ như khuyên,
vòng, vàng, xà tích bạc. Người khá giả ra đường thường đi giày hoặc hài.
Cũng theo sự ghi chép của các giáo sĩ phương Tây Baldinotti, A.de
Rhodes, nhà ở tại Thăng Long - Hà Nội thế kỉ XVII - XVIII đại bộ phận
đều làm bằng tre nứa, mái lợp tranh và vách trát đất, nhà của gia đình
khá giả, quan lại được dựng bằng gỗ, nhà của phú thương Hoa Kiều được
xây bằng gạch ngói. Ở khu buôn bán phía đông, mật độ dân cư đông đúc,
mặt tiền nhà thường hẹp (khoảng 2-3 m), nhưng sâu lòng (25-30 m), đó
là kiểu nhà ống. Chiều cao nhà thường thấp (do luật lệ đẳng cấp), có hai
mái hiên và hai lớp nóc gọi là “trùng thiềm điệp ốc” (đọc biến âm thành nhà
“chồng diêm”). Nhà ngăn thành nhiều gian theo chiều dọc, cách nhau
bằng những khoảng sân trời, trong nhà bày các chậu cây cảnh, hòn non
bộ, bể cá. Gian ngoài vừa là cửa hàng vừa là nơi sản xuất hàng hoá. Gian
chính có bàn thờ tổ tiên, bộ ghế tràng kỉ dùng để tiếp khách, có những
buồng nhỏ kín đáo dành cho phụ nữ. Phía sân sau có bếp, mảnh vườn
nhỏ trồng rau, hoa, giếng nước và khu vệ sinh. Ra khỏi khu vực phố cổ,
đất đai rộng rãi, nhà cửa thoáng rộng hơn, dựng theo chiều ngang theo
kiểu truyền thống, thường có thêm vườn cây, ao cá (thổ trạch viên trì).

5.2.2. Di sản phi vật thể


Di sản phi vật thể là sản phẩm tinh thần, gồm nhiều loại hình: truyền
thuyết, huyền thoại, văn học dân gian, lễ hội, nghệ thuật trình diễn, công
trình khoa học, tri thức về tự nhiên xã hội, tín ngưỡng và phong tục tập
quán, nghề thủ công truyền thống… Di sản này được lưu truyền qua các
thế hệ dưới phương thức truyền khẩu, truyền nghề, trình diễn hoặc được
bảo tồn qua các hình thái vật thể như văn bản, văn bia, di vật,… gắn liền
với cuộc sống cộng đồng dân cư.
Kho tàng văn học dân gian Hà Nội rất phong phú, đủ thể loại như
huyền thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, giai thoại, ca dao,
tục ngữ, dân ca, hò, vè… Kho tàng này tồn tại và phát triển qua truyền
khẩu, một bộ phận sớm được thu thập, biên soạn thành văn bản, tiêu
biểu là Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên thời Trần, Lĩnh Nam chích quái do
Trần Thế Pháp rồi Vũ Quỳnh, Kiều Phú biên soạn và sau được tiếp tục
144 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

bổ sung, Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng, Vũ trung tuỳ bút của
Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án, Công dư tiệp kí của Vũ Phương Đề… Trong
các tác phẩm trên có nhiều đề tài về Thăng Long - Hà Nội, nhiều truyện
được lưu truyền trên mảnh đất kinh sư lâu đời này1. Chỉ riêng vùng Hồ
Tây, hồ Hoàn Kiếm, khu phố cổ đã là những không gian văn hoá dân gian
giàu có với nhiều thể loại, nhiều chủ đề vừa sản sinh trên đất Hà thành,
vừa qua quá trình giao lưu hội tụ từ nhiều vùng miền của đất nước, nhất
là vùng châu thổ sông Hồng.
Nhiều câu tục ngữ phản ánh những đặc sản của Hà Nội được phổ
biến rộng rãi như:
Cá rô đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây
Dưa La, húng Láng, nem Báng, tương Bần
Lĩnh hoa Yên Thái, đồ gốm Bát Tràng, thợ vàng Định Công,
thợ đồng Ngũ Xã.
Bánh cuốn Thanh Trì, bánh dày Quán Gánh
Tương Nhật Tảo, đào Nhật Tân
Ca dao Hà Nội cũng ánh lên nhiều câu miêu tả và ngợi ca những nét
đặc trưng về địa hình, vẻ đẹp của đất kinh kì đã lắng sâu vào kí ức của
người dân thủ đô như:
- Nhị Hà quanh Bắc sang Đông
Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này
- Sông Tô nước chảy trong ngần
Con thuyền buồm trắng chạy gần chạy xa
- Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương,
- Mịt mù khói toả ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Dân ca Hà Nội cũng được tạo nên trong sự giao lưu và hội tụ văn hoá
lâu dài giữa một trung tâm văn hoá quốc gia với vùng ngoại vi và cả nước.

1
Võ Quang Trọng (chủ trì) (2010), Truyện kể dân gian Hà Nội, Nxb Hà Nội.
Chương 5. Văn hóa Thăng Long - Hà Nội 145

Ca trù xuất hiện khá sớm ở một số làng vùng châu thổ sông Hồng và Bắc
Trung Bộ, trong đó có làng Lỗ Khê (Đông Anh). Thời Lê Trung Hưng, ca
trù đã được trình diễn ở Kinh kì, không những ở cửa đình các phường
thôn mà còn được ưa chuộng trong cung đình. Một số đào nương có nhan
sắc và tài hoa được tuyển chọn làm cung phi trong phủ Chúa. Thăng
Long trở thành trung tâm thu hút và chọn lọc nghệ thuật ca trù. Sau một
thời gian có phần bị biến dạng dưới hình thức “ca quán ả đào” hay “nhà
hát cô đầu” trong thời Pháp thuộc. Nghệ thuật ca trù cổ truyền đã được
khôi phục ở Thủ đô Hà Nội với sự xuất hiện của Câu lạc bộ Ca trù năm
1991. Năm 2009, ca trù được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể của
nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp.
Dân ca Hà Nội còn có hát dô, hát ví, hát trống quân, hát chèo tàu, hát
đúm, hát xẩm, hát ru, hò, vè, đồng dao… Trong các nghi lễ tín ngưỡng
còn có hát Ải Lao trong hội Gióng, hát chầu văn trong các đền phủ thờ Tứ
phủ, nhất là thờ Thánh Mẫu… Dân ca Hà Nội cũng phát triển trong mối
giao lưu và hội tụ văn hoá của đất Kinh kì với vùng ngoại vi, nhất là vùng
tứ trấn và châu thổ sông Hồng1.
Chữ viết thời cổ - trung đại là chữ Hán và chữ Nôm. Thăng Long -
Hà Nội là kinh đô lâu đời, nơi có trường Quốc Tử Giám và nhiều trường
tư, nơi tổ chức các kì thi Hội, thi Đình, nơi tập trung nhiều quan lại cao
cấp, nhiều trí thức tài hoa. Lịch sử Thăng Long - Hà Nội để lại một di sản
Hán Nôm đồ sộ bao gồm các thể loại, từ các tác phẩm văn học, địa chí,
địa bạ, văn bia đến các hương ước, gia phả, thần tích… Kho tàng di sản
quốc gia này hoặc do các tác giả là người Hà Nội hoặc người từng sống
trên mảnh đất này viết về Thăng Long - Hà Nội.
Thơ ca và văn học quốc ngữ cùng một bộ phận văn học tiếng Pháp
theo xu hướng hiện đại ra đời và phát triển mạnh mẽ. Về văn xuôi có: tiểu
thuyết, truyện ngắn, phóng sự, ngoài xu hướng nô dịch của chủ nghĩa
thực dân, nổi bật lên hai khuynh hướng nghệ thuật chủ yếu là lãng mạn
và hiện thực. Thơ Mới bùng lên ở Hà Nội từ năm 1932 trở thành dòng thi
ca chủ đạo. Nhiếp ảnh, hội hoạ, âm nhạc hiện đại, kịch nói, điện ảnh…

1
Nguyễn Thuý Loan (chủ trì) (2010), Tục ngữ, ca dao, dân ca Hà Nội, Nxb Hà Nội.
146 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

lần lượt ra đời trong quan hệ giao lưu văn hoá với Pháp và phương Tây.
Nghề in, nghề xuất bản, nghề nhiếp ảnh, nghề làm báo, nghề viết văn
hình thành và phát triển.
Nền văn minh truyền thống của Việt Nam là văn minh nông nghiệp,
bên cạnh nghề nông giữ vai trò chủ đạo, các nghề thủ công phát triển
phong phú và đa dạng. Theo thống kê sơ bộ, cả nước cho đến nay có
gần 3.000 làng nghề, phân bố rộng khắp và tập trung ở vùng đồng bằng,
nhất là vùng châu thổ sông Hồng. Trong các đô thị, cùng với làng nghề
còn có phố nghề. Thăng Long thời Lý, Trần, Lê là một trung tâm kinh
tế có sức cuốn hút mạnh những người thợ thủ công lành nghề không
chỉ của vùng tứ trấn mà ở cả những tỉnh xa. Ngoài một số nghề hình
thành tại chỗ, hầu hết các nghề thủ công của Kinh Kì đều có nguồn gốc
từ các làng nghề của các vùng khác như nghề gốm Bát Tràng từ làng
Bồ Bát, Ninh Bình; nghề đúc đồng Ngũ Xã từ Thuận Thành, Bắc Ninh;
nghề kim hoàn từ Đồng Xâm, Thái Bình và Trâu Khê, Hải Dương… Từ
các phường vốn là đơn vị hành chính thời Trần, Lê, các phường nghề,
phố nghề đã hình thành và phát triển mạnh. Nhu cầu đa dạng của nhiều
lớp quý tộc, quan lại, nhà giàu trên đất kinh thành đã tạo nên sự cạnh
tranh và chắt lọc về tay nghề. Trong “tứ dân”(“sĩ, nông, công, thương”),
thì “sĩ” và “thương” chiếm ưu thế. Nhu cầu ăn uống của tầng lớp “sĩ”,
“thương” cùng với tầng lớp thống trị cao cấp thúc đẩy sự phát triển của
nghệ thuật ẩm thực đất Kinh kì. Từ đó các hàng quán và nghề chế biến
thực phẩm ăn, uống trở nên phát đạt và mang tính “sành điệu”, đặc
trưng của vùng đất văn vật.
Thăng Long - Hà Nội là một trung tâm của nhiều làng/ phường
nghề, phố nghề, vừa sầm uất vừa tinh xảo. Đó là chưa kể đến những quan
xưởng của nhà nước như đúc tiền, đóng tiền, đóng tàu, chế tạo vũ khí,
sản xuất các loại đồ ngự dụng cho cung đình. Khu di tích khảo cổ học số
18 Hoàng Diệu cho thấy sự tồn tại của những lò gốm sứ cung cấp các sản
phẩm cao cấp cho hoàng gia và triều đình. Nhiều làng nghề, phố nghề
truyền thống còn tồn tại đến ngày nay, dĩ nhiên đã có nhiều biến đổi qua
thời gian. Khu Cửa Đông của Hoàng thành ra đến bờ sông Hồng (khu
phố cổ hiện nay) và vùng quanh Hồ Tây là nơi tập trung nhiều làng nghề,
Chương 5. Văn hóa Thăng Long - Hà Nội 147

phố nghề nhất. Nghề đúc đồng Ngũ Xã, nghề dệt lĩnh và giấy dó Yên
Thái, Bái Ân, Trích Sài; nghề trồng dâu nuôi tằm Nghi Tàm đều nằm
quanh Hồ Tây. Trong khu phố cổ Hà Nội có 47 phố mang tên “Hàng” xưa
kia thường gắn với nghề thủ công hoặc sản phẩm buôn bán chính của
phố đó như Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Mã, Hàng Thiếc, Hàng Mành,
Hàng Thêu, Hàng Trống1…
Nhiều di sản văn hoá phi vật thể được bảo tồn trong đời sống tín
ngưỡng, các lễ hội gắn bó với cộng đồng cư dân. Thăng Long - Hà Nội
được coi như vùng đất thiêng, là nơi hội tụ khí thiêng của non sông đất
nước, là không gian tập trung cao độ các tín ngưỡng, tôn giáo và các nghi
lễ, hội lễ cung đình, dân gian. Thời chế độ quân chủ, kinh thành là nơi
diễn ra các nghi lễ tế Thái Miếu, Văn Miếu, đàn Xã Tắc, đàn Nam Giao,
hội thề Đồng Cổ, hội thề quốc nhân ở Long Trì; các lễ tiết trong năm,
trong đó có tiết sinh nhật của nhà vua, các lễ cầu đảo; các lễ hội Phật giáo
thịnh hành thời Lý, Trần như lễ Vu lan, hội đèn Quảng chiếu… Trong
các lễ đó, có lễ chỉ mang tính nghi thức trong phạm vi cung đình, nhưng
cũng có lễ mang tính lễ hội với sự tham dự của cộng đồng thần dân, hay
có trường hợp từ nghi lễ của triều đình phát triển thành lễ hội như lễ thề
đền Đồng Cổ.
Hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo của cư dân kinh thành cũng mang đặc
điểm chung của cả nước nhưng có tính hội tụ và tập trung cao hơn. Đó là
tục thờ cúng tổ tiên; thờ cúng các thế lực tự nhiên như thần Đất, thần Núi,
thần Sông; thờ cúng các nhân vật huyền thoại, truyền thuyết, các nhân
vật lịch sử có công với dân với nước. Các đối tượng thờ cúng được thực
hiện trên bàn thờ của từng gia đình, nhà thờ các dòng họ, trong đình, đền,
miếu của cộng đồng xóm làng. Vị thần chung của cả thôn/ làng là Thành
hoàng được thờ tại đình hay đền, miếu và khi tế lễ được rước ra đình.
Trong số 110 vị thần được thờ làm Thành hoàng làng ở Hà Nội còn thần
tích, ngoại trừ 35 vị không xác định được lai lịch thì có 35 vị là nhân vật

1
Vũ Quốc Tuấn (chủ biên) (2010), Làng nghề, phố nghề Thăng Long - Hà Nội trên đường phát
triển, Nxb Hà Nội.
148 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

lịch sử, 40 vị là nhân vật huyền thoại, truyền thuyết1. Điểm nổi bật của
Thăng Long - Hà Nội là ngoài thành hoàng của các thôn/ làng, còn có đền
thờ Tứ trấn là bốn vị thần bảo vệ kinh thành theo bốn hướng: quán Trấn
Vũ (phía Bắc), đền Bạch Mã (phía Đông), đền Linh Lang (phía Tây) và
đền Kim Liên (phía Nam).
Gắn với việc làm ăn buôn bán, cư dân sống tại các phố, phường thực
hành tín ngưỡng thờ Thành hoàng và thờ tổ sư các nghề (tục thờ này vốn
từ các làng quê gốc chuyển đến và được thờ vọng tại đây). Chẳng hạn
đình Hà Vỹ (11 Hàng Hòm) thờ tổ sư nghề sơn Trần Lư gốc từ làng Bình
Vọng (Thường Tín, Hà Nội), đình Xuân Phiến (4 Hàng Quạt) thờ tổ nghề
làm quạt gốc từ làng Ân Thi (Hải Dương), đình Hài Tượng (16 ngõ Hài
Tượng) thờ tổ sư nghề thuộc da đóng hài Nguyễn Thời Trung gốc từ làng
Chắm (Gia Lộc, Hải Dương), đền Nhị Khê (11 Hàng Hành) thờ tổ sư nghề
tiện gỗ gốc từ làng Nhị Khê (Thường Tín)…
Cùng với các tín ngưỡng dân gian, một số tôn giáo “ngoại nhập” đi
vào Việt Nam, trung tâm hoạt động quan trọng nhất là vùng kinh thành.
Phật, Nho, Đạo sớm du nhập từ sau Công nguyên đến thời Lý, Trần phát
triển với quan niệm “tam giáo đồng nguyên”. Phật giáo thịnh đạt thời
Lý, Trần có phần phục hưng thời Lê Trung Hưng, Nho giáo vẫn giữ vai
trò chi phối thời Lê sơ, Đạo giáo tồn tại trong sự gắn kết với Phật giáo và
các tín ngưỡng dân gian. Từ thế kỉ XVII, Công giáo truyền bá vào Thăng
Long, rồi thế kỉ XX thêm đạo Tin Lành, đạo Cao Đài và đầu thế kỉ XXI
thêm đạo Baha’i là một dòng phái tách ra từ Hồi giáo có tính cải cách. Hệ
thống tín ngưỡng tôn giáo ở Thăng Long - Hà Nội mang tính đa dạng,
bao gồm các tín ngưỡng nội sinh và một số tôn giáo ngoại nhập, là bức
tranh thu nhỏ của cả nước về không gian nhưng với mật độ cao2.
Cùng với tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội giữ vai trò quan trọng trong đời
sống văn hoá. Thăng Long - Hà Nội là vùng tập trung nhiều lễ hội nhất

1
Nguyễn Vinh Phúc, Nguyễn Duy Hinh (2006), Thần tích Hà Nội và tín ngưỡng dân gian, Nxb
Hà Nội, tr. 11-12.
2
Đỗ Quang Hưng (Cb) (2010), Đời sống tôn giáo tín ngưỡng Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội,
tr. 71-74.
Chương 5. Văn hóa Thăng Long - Hà Nội 149

cả nước, theo số liệu thống kê năm 2006, Hà Nội có 202 lễ hội, trong đó
có 175 hội đình, 15 hội đền, 12 hội chùa3. Lễ hội tổ chức với quy mô khác
nhau: cấp quốc gia, cấp vùng (liên làng), cấp làng, nhiều lễ hội tồn tại lâu
đời trong lịch sử. Một số lễ hội lớn được ghi chép trong sử sách đã thất
truyền, đi vào quá khứ cùng với các vương triều như hội thề Đồng Cổ,
hội thề quốc nhân tại Long Trì, hội đua thuyền múa rối nước trên sông
Hồng với sự hiện diện của nhà vua tại điện Hàm Quang, hội đèn Quảng
Chiếu thời Lý, Trần. Nhiều lễ hội truyền thống còn tồn tại sau này thường
gắn với các đình, đền, chùa như hội đền Hai Bà Trưng ở Đồng Nhân
(quận Hai Bà Trưng), hội làng Triều Khúc (huyện Thanh Trì), hội làng Lệ
Mật (quận Long Biên), hội bơi thuyền (làng Đăm, huyện Từ Liêm)… Năm
2010, hội Gióng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể đại
diện nhân loại. Trong lễ hội, cùng với những nghi thức tế lễ là việc biểu
diễn các trò chơi dân gian như đua thuyền, múa rối, thi vật, thi chọi gà,
thả chim, thi thổi cơm; nhiều trò diễn được phô bày phản ánh sự tích, lai
lịch vị thần. Nếu lễ hội ở các làng xã ven đô in đậm dấu ấn văn minh nông
nghiệp thì lễ hội vùng nội đô mang đậm chất thị dân.
Qua thời gian, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, đời sống văn
hoá cũng có những đổi thay và các lễ hội cũng chuyển biến dần. Giỗ trận
Đống Đa gần đây đã biến thành lễ hội Đống Đa với những kịch bản mới.
Qua giao lưu văn hoá và nhu cầu của đời sống xã hội, một số lễ hội theo
xu hướng hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, được du nhập vào Hà Nội
như Quốc tế Lao động 1-5, Quốc tế Phụ nữ 8-3, ngày Nhà giáo Việt Nam
20-11… Theo Sở Văn hoá và Thể thao Hà Nội tính đến năm 2016, khu
vực Hà Nội mở rộng có 1.793 di sản văn hoá phi vật thể, trong đó 276 di
sản được đưa vào diện ưu tiên bảo vệ, 11 di sản phi vật thể cần được bảo
vệ khẩn cấp. Có thể nói, kho tàng di sản văn hoá Thăng Long - Hà Nội
phong phú, đa dạng, tích hợp các giá trị tiêu biểu của lịch sử và văn hoá
dân tộc từ ngàn xưa đến nay cần được bảo tồn đúng hướng và khai thác
du lịch có hiệu quả để quảng bá hình ảnh Thủ đô.

3
Lê Trung Vũ (2006), Hội làng Hà Nội, Nxb Văn hoá - Thông tin và Viện Văn hoá, Hà Nội.
150 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Bảng 5.2: Thống kê di sản văn hoá phi vật thể của Hà Nội1 năm 2015

DS quốc gia
Nghề DS ưu tiên
Nghệ thuật Tập quán Lễ hội (QG)/ di sản
Ngữ văn thủ công Tri thức bảo vệ/ bảo
Quận /huyện trình diễn xã hội và truyền đại diện Tổng
DG truyền dân gian vệ khẩn
DG tín ngưỡng thống nhân loại
thống cấp (KC)
(NL)
Ba Đình 19 3 1 9 23
Bắc Từ Liêm 2 24 6 3 8 1 QG 35
Cầu Giấy 16 1 2 5 19
Đống Đa 1 18 1 1 7 21
Hà Đông 1 46 3 7 (1 KC) 1 NL 50
Hai Bà Trưng 9 3 9
Hoàn Kiếm 1 21 10 9 6 33 47
Hoàng Mai 2 3 9 3 2 6 19
Long Biên 1 3 34 1 7 2 (1 QG; 1 NL) 39
Nam Từ Liêm 1 22 3 1 8 27
Tây Hồ 7 9 1 2 17
Thanh Xuân 5 4 2 2 11
Thị xã Sơn Tây 2 5 65 6 9 1 QG 78
Ba Vì 7 6 16 77 12 8 17 126
Chương Mĩ 4 4 88 3 9 (1 KC) 99
Đan Phượng 1 54 5 1 10 61
Đông Anh 23 59 29 8 9 18 (1 KC) 1 NL 128
Gia Lâm 1 4 82 4 1 10 1 NL 92
Hoài Đức 1 2 34 7 11 14 (1 KC) 1 NL 55
Mê Linh 1 14 58 7 5 4 85
Mĩ Đức 4 3 43 3 7 7 60
Phú Xuyên 1 3 9 56 15 2 7 (2 KC) 86
Phúc Thọ 1 4 57 4 9 4 1 QG 75
Quốc Oai 6 6 33 4 2 6 (5 KC) 1 NL 51
Sóc Sơn 1 16 43 2 3 10 2 NL 65
Thạch Thất 2 13 13 27 15 22 18 92
Thanh Oai 1 61 18 1 5 1 QG 81
Thanh Trì 1 2 44 2 1 2 50
Thường Tín 2 4 13 85 19 6 16 (1 KC) 129
Ứng Hoà 3 50 8 2 12 63
Tổng 14 79 213 1.206 175 106 276 13 1793

1
UBND thành phố Hà Nội, Sở Văn hoá và Thể thao (2016), Danh mục di sản văn hoá phi vật thể
thành phố Hà Nội, Sđd, tr.5 và tr.11.
Chương 5. Văn hóa Thăng Long - Hà Nội 151

5.3. Bảo tồn và khai thác giá trị di sản văn hoá Thăng Long - Hà Nội phục vụ phát triển du lịch

5.3.1. Mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá
Các loại hình di sản thể hiện sự sáng tạo của cộng đồng cư dân,
chứa đựng những thông tin quan trọng về lịch sử, khoa học, văn hoá, tuy
nhiên, đứng trước thời đại công nghiệp hoá, làm thế nào để các di sản
luôn giữ giá trị nguyên gốc nhưng vẫn phục vụ phát triển kinh tế, du lịch.
Câu chuyện giữa bảo tồn và khai thác các giá trị văn hoá phục vụ nhu cầu
cuộc sống hiện đại luôn là bài toán phức tạp đặt ra không chỉ với các cơ
quan chức năng mà còn ở bản thân chủ thể văn hoá (cư dân). Nếu chúng
ta không bảo tồn và phát huy đúng hướng, di sản đó sẽ nằm trong các
trường hợp sau:
- Vấn đề bảo tồn di tích gắn với việc thực hiện các đề án phát triển và
xây dựng lại đô thị.
- Bảo tồn di tích gắn với việc thiết kế và xây dựng nhiều trục đường
giao thông vận tải lớn và các nhánh của những trục đường này.
- Bảo tồn di tích gắn với việc xây dựng đường ống cống ngầm lớn và
mạng lưới đường dây điện cao thế và các loại truyền tin khác.
- Bảo tồn di tích gắn với việc phát triển nông nghiệp (quy hoạch, tưới
tiêu, san phẳng…), phát triển công nghiệp và quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Những tài nguyên nhân văn kể trên đang là những nhân tố quan
trọng để phát triển du lịch Hà Nội, tuy nhiên việc quản lí, bảo vệ và khai
thác các nguồn lực đó hiện nay còn những bất cập sau:
- Trên cùng một lãnh thổ, các tài nguyên du lịch có khi do Bộ, khi
là Sở, khi là chính quyền địa phương hoặc các ngành khác quản lí. Mỗi
ngành, mỗi cấp lại có quan niệm khác nhau dẫn đến việc đầu tư, bảo vệ,
giữ gìn cũng khác nhau.
- Trách nhiệm bảo vệ giữ gìn các di tích không được phân công rõ
ràng và thiếu sự phối hợp giữa nhà quản lí với người sử dụng, dẫn đến
tình trạng khai thác bừa bãi, thiếu trách nhiệm hoặc bỏ mặc cho các di
tích xuống cấp.
152 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

- Việc đầu tư nâng cấp các di tích với tư cách là một sản phẩm du lịch
chưa được triển khai bằng một quy chế chặt chẽ và toàn diện trong đó có
yếu tố du lịch. Việc bảo tồn còn phổ biến ở tình trạng giao khoán, cải tạo
thậm chí được phó mặc cho những người quản lí tự sáng tạo theo ý mình
làm mất đi vẻ đẹp ban đầu của các di tích. Những cách quản lí đó dẫn đến
hậu quả khôn lường nếu không sớm khắc phục.
Một trong cách phát huy giá trị của các di sản vừa mang lại hiệu quả
kinh tế vừa quảng bá hình ảnh của địa phương rộng rãi mà nhiều quốc
gia đã thực hiện là phát triển loại hình du lịch sinh thái và nhân văn. Sự
phát triển du lịch tác động trực tiếp và gián tiếp đến việc chấn hưng và
bảo tồn các di sản văn hoá. Doanh thu từ các hoạt động du lịch được sử
dụng một phần cho việc tu bổ di tích, chỉnh lí các bảo tàng, đồng thời
khôi phục và phát huy các di sản truyền thống để phục vụ du lịch. Tuy
nhiên, nếu các hoạt động đưa khách du lịch quá đông đến tham quan
di tích cùng một thời điểm sẽ có những tác động cơ học làm huỷ hoại
di tích. Nếu thiếu sự kiểm soát các hoạt động du lịch sẽ dẫn đến phá vỡ
cảnh quan văn hoá, môi trường sinh thái tại các khu di tích (hiện tượng:
du khách thiếu ý thức đã khắc tên mình lên vách đá, lên tường di tích, vứt
rác bừa bãi, ô nhiễm xăng dầu, tiếng ồn tại di tích…). Chính vì vậy, người
làm du lịch cần gắn với công tác bảo tồn tính đa dạng và giữ gìn giá trị
của các di tích lịch sử, văn hoá, cách mạng và các di sản. Cán bộ ngành
du lịch cần chú trọng yếu tố giáo dục tuyên truyền lịch sử Thủ đô, lòng
tự hào yêu quê hương đất nước, cần giới thiệu, quảng bá cho du khách
trong nước và quốc tế về nét đặc sắc trong chiều dài lịch sử và văn hoá
của người Hà Nội, đồng thời hạn chế thấp nhất những tác động xấu của
du khách đến di sản. Các doanh nghiệp lữ hành cần củng cố, mở rộng các
tuyến tham quan dựa trên việc khai thác các giá trị của di sản, đưa các
chương trình du lịch phù hợp với yêu cầu của du khách theo các chuyên
đề sau:
- Tuyến tham quan các công trình kiến trúc nghệ thuật chùa tháp Hà Nội.
- Tuyến tham quan các công trình kiến trúc thời Pháp.
- Tuyến di sản đô thị và văn hoá Hà Nội gồm: kiến trúc đình, đền,
chùa, phố cổ, nhà cổ, làng nghề truyền thống.
Chương 5. Văn hóa Thăng Long - Hà Nội 153

- Tuyến các loại hình nghệ thuật truyền thống: ca trù, múa rối, chầu văn,…
- Tuyến du lịch lễ hội truyền thống Hà Nội.
- Tuyến du lịch đặc sản ẩm thực Hà Nội.
Ngành du lịch cần phối hợp với các đơn vị tổ chức dịch vụ tại các
điểm tham quan: bán đồ lưu niệm, nhà hàng ăn uống, cơ sở lưu trú… để
giữ chân được du khách đến Hà Nội lâu nhất, góp phần tăng doanh thu
cho ngành du lịch và cộng đồng địa phương, từ đó đóng góp tài chính để
trùng tu, tôn tạo các di tích, di sản.

5.3.2. Bảo tồn di sản vật thể


Cho đến nay, các di sản của Thủ đô nói riêng, cả nước nói chung đều
nằm trong tình trạng xuống cấp, có những di tích trở thành phế tích. Có
những di tích dù đã được phục chế, tái tạo nhưng hầu hết đều không
đảm bảo tính nguyên gốc. Điều này xuất phát từ việc không coi trọng
tính nguyên gốc nên nhiều di tích được phục dựng lại từ đống phế tích
đổ nát mà không có tài liệu tham khảo oặc dữ liệu rất mơ hồ. Chẳng hạn,
Kì Đài trong thành cổ Sơn Tây được phục dựng năm 2004-2005, có những
chi tiết phần mái gần giống các lớp mái trong khu phố cổ Hà Nội một cách
gượng ép. Ở các nước phát triển, việc bảo tồn di tích hàm lâm trên thế giới
luôn đề cao tính nguyên gốc, độ xác thực. Có những di tích chỉ còn là bức
tường nhưng vẫn giữ nguyên và không tạo dựng lại một ngôi nhà toàn
vẹn mà để dành chỗ cho sự suy nghĩ, tưởng tượng về di sản văn hoá. Tựu
chung lại, hoạt động bảo tồn di sản, di tích bao gồm ba nội dung chính:
- Nghiên cứu để hiểu biết sâu sắc về di tích lịch sử văn hoá, tìm hiểu
phát hiện, đánh giá giá trị tiêu biểu của di tích.
- Những hoạt động nhằm đảm bảo an toàn về vật chất, đó là những
giải pháp kĩ thuật tác động vào các cấu kiện vật chất làm cho các nguyên
tố gốc của di tích tồn tại lâu dài. Tuy nhiên, di tích trong tình trạng đặc
biệt khó có thể khôi phục lại.
- Tìm ra các phương thức khai thác các giá trị của di tích và tạo điều
kiện cho công chúng được tiếp cận, hưởng thụ các giá trị văn hoá tiêu
biểu của di tích góp phần phát triển đời sống kinh tế, văn hoá xã hội.
154 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Để thực hiện tốt mục tiêu gìn giữ di tích lâu dài, khai thác giá trị của
nó cần có một số giải pháp đồng bộ sau:
- Cần có văn bản pháp lí của Nhà nước (như Luật Di sản văn hoá và
các văn bản dưới luật) được dựa vào thực tiễn cuộc sống để cán bộ và
người dân hiểu, thực hiện nghiêm túc các văn bản đó.
- Nhà nước cần thiết lập các tổ chức, các thiết chế văn hoá và trao
quyền cho các tổ chức, các thiết chế đó quản lí các di tích lịch sử văn hoá.
- Tổ chức nghiên cứu khoa học, đánh giá khách quan giá trị của di
tích để thực hiện tư liệu hoá các loại hình di tích, xuất bản thành sách giới
thiệu về các di tích. Xây dựng những bộ hồ sơ khoa học cho từng di tích,
có chế độ bảo quản và phổ biến hồ sơ một cách hợp lí, rộng rãi, lâu dài và
có hiệu quả cao.
- Thường xuyên theo dõi, khảo sát nghiên cứu thực trạng và tình
trạng kĩ thuật ở các di tích để kịp thời đưa ra các giải pháp kĩ thuật hợp lí,
chống xuống cấp, tu bổ, phải giữ gìn tối đa yếu tố nguyên gốc cho di tích.
- Thực hiện việc tuyên truyền, quảng bá trên các phương tiện thông tin
nhằm hai mục tiêu: thứ nhất, tăng cường hiểu biết sâu sắc về giá trị của di
sản văn hoá và ý thức trong việc bảo vệ di tích lịch sử văn hoá. Hai là, công
chúng ý thức đóng góp tài chính để góp phần tu bổ tôn tạo di tích.
- Cần có kế hoạch lâu dài trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ có trình
độ chuyên môn cao hoạt động trong lĩnh vực bảo tồn di tích.

5.3.3. Bảo tồn di sản phi vật thể


Hà Nội nằm ở vị trí trung tâm của châu thổ sông Hồng, là đầu mối
giao thông với nhiều sông hồ, tạo nên huyết mạch giao thương. Sự đa
dạng về môi trường tự nhiên góp phần tạo nên sự đa dạng về văn hoá.
Di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của Thăng Long - Hà Nội rất phong
phú với nhiều loại hình và mang đặc trưng, điển hình cho văn hoá cả
nước gồm văn học dân gian (với nhiều thể loại: thần thoại, truyền thuyết,
cổ tích, ca dao, dân ca, tục ngữ); di sản thư tịch Hán Nôm (câu đối, thần
phả, thần tích, sắc phong, hương ước, văn bia…); tín ngưỡng, tôn giáo,
lễ hội; nghệ thuật biểu diễn (âm nhạc, múa, chèo, ca trù…); văn hoá ẩm
thực; làng nghề, phố nghề Thăng Long - Hà Nội. Di sản văn hoá kết tinh
Chương 5. Văn hóa Thăng Long - Hà Nội 155

nhiều giá trị: lịch sử, văn hoá, nghệ thuật, chứa đựng nét nghệ thuật tinh
xảo và tinh tế.
Hàng trăm lễ hội đang tồn tại trong đời sống của cộng đồng đã thể
hiện sự phong phú trong đời sống tinh thần của người Hà Nội. Lễ hội Hà
Nội thể hiện tính chất của lễ hội nông nghiệp, quy mô mang tính hội làng,
vừa biểu hiện tính chất đô thị đầu não, vừa đậm chất dân gian. Trong
hơn nửa thế kỉ qua, đặc biệt vài thập kỉ gần đây, Hà Nội đã có những
hoạt động tích cực nhằm bảo tồn và phát huy tiềm năng một số loại hình
nghệ thuật như tuồng, chèo, múa,… vốn tồn tại sẵn trong phong trào
quần chúng ở các cơ sở xã, phường, quận, huyện… Đây cũng là nguồn
tài nguyên nhân văn sống động, hấp dẫn du khách, là điều kiện thuận lợi
để khai thác phát triển du lịch Thủ đô.
Về di sản thư tịch Hán Nôm, trong kho sách Hán Nôm của Viện
Nghiên cứu Hán Nôm hiện nay, Hà Nội lưu giữ 531 cuốn sách và
1074 văn bia1 qua các thời đại từ nhà Lý đến nhà Nguyễn (chưa kể một số
cuốn sách chưa được thống kê trong thư mục). Thể loại hương ước Hán
Nôm ở Thăng Long được lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm có tổng
số là 96 văn bản, trong đó, sách hương ước là 82 cuốn và văn bia hương
ước là 14 bia2. Lễ hội của Hà Nội diễn ra chủ yếu ở đình (175 lễ hội), đền
(15 lễ hội) và chùa (12 lễ hội). Điều này nói lên quy mô và gốc rễ của lễ
hội Hà Nội chủ yếu là hội làng nhưng nhiều lễ hội của nội thành đã biến
tướng thành lễ hội của phường, phố. Tuy nhiên, do tính chất đô thị hoá,
nhất là đô thị đầu não của hệ thống quyền lực quốc gia, nhiều hội làng đã
vượt lên trở thành hội của cả vùng, thậm chí một số lễ hội ít nhiều mang
tính quốc gia (lễ hội Gióng, lễ hội Đống Đa, lễ hội đền Đồng Nhân).
Về nghệ thuật ẩm thực của Thăng Long - Hà Nội, nhà nghiên cứu Võ
Quang Trọng cho rằng: có hai yếu tố làm nên bản sắc của bất cứ truyền
thống ẩm thực nào là nguồn lương thực, thực phẩm và kĩ thuật chế biến
món ăn. Ẩm thực Hà Nội không nằm ngoài các kĩ thuật chế biến món ăn

1
Võ Quang Trọng (2010), Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể ở Thăng Long - Hà Nội,
Nxb. Hà Nội, tr. 85.
2
Võ Quang Trọng (2010), Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể ở Thăng Long - Hà Nội,
Sđd, tr. 101.
156 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

của người Việt, tuy nhiên, do vị trí địa lí ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, lại
trong khung cảnh của xã hội đô thị, nên kĩ thuật nấu nướng ở đây ít nhiều
có nét đặc thù. Ẩm thực Hà Nội xét trên phương diện kĩ thuật chế biến
được kế thừa từ kĩ thuật truyền thống của Bắc Hà (đồng bằng Bắc Bộ) gần
nhất là Kinh Bắc, cộng thêm yêu cầu của đời sống đô thị và tiếp thu với kĩ
thuật nấu nướng của bếp ăn Trung Hoa và Pháp nên ngày càng nâng cao,
biến đổi. Vấn đề ở đây là người Hà Nội đã biết cách ưu tiên, lựa chọn các
cách chế biến nào là chủ yếu và họ đã đạt đến trình độ khéo léo và tinh xảo
như thế nào trong chế biến món ăn. Có thể kể đến các đặc sản: phở, chả cá
Lã Vọng, cốm Vòng, bánh cuốn Thanh Trì, bún Phú Đô, đậu Mơ…
Với những phố nghề ở Hà Nội, mỗi tên phố đều mang một dấu ấn
sâu đậm về nghề hay mặt hàng mà nó được sản xuất, kinh doanh tại đây.
Đó cũng là sự phân công các khu vực sản xuất và buôn bán của một khu
“thị” xưa bên cạnh cái “thành” của chính quyền nhà nước. Nó cũng phản
ánh sự quy hoạch dù là tự phát lúc đầu hay có sự điều chỉnh sau này của
các cấp chính quyền thì cũng phù hợp với quy luật cuộc sống. Chẳng
hạn như phố Hàng Vôi, Hàng Tre, Hàng Chĩnh, Hàng Mắm, Bến Nứa bắt
buộc phải nằm gần bờ sông để thuận tiện cho việc vận chuyển và tập kết
hàng hoá. Từ những mặt hàng chính mang tên phố lúc đầu, sau này do
buôn bán và sự phát triển của cuộc sống nhu cầu con người thay đổi, từ
chỗ thêm nhiều mặt hàng khác đến việc thay đổi hoàn toàn sản phẩm bày
bán, do vậy tên phố nghề chỉ còn là một thời vang bóng. Điều này cũng
cho thấy những thay đổi về mặt lịch sử cũng như thị hiếu của con người
trong xã hội đương đại.
Mặc dù những năm gần đây công tác bảo tồn di sản phi vật thể đã
được đầu tư nhưng vẫn còn nhiều hạn chế chẳng hạn các ấn phẩm về
văn học dân gian, văn bản Hán Nôm từng bước được giới thiệu với công
chúng nhưng việc biên soạn còn thiếu tính hệ thống, ít có những sưu
tầm mới, chủ yếu là tập hợp các văn bản đã công bố trước đây. Mảng tư
liệu Hán Nôm rất phong phú nhưng việc phiên âm, dịch và xuất bản còn
nhiều hạn chế. Các kịch bản của một số loại hình nghệ thuật như tuồng,
chèo cổ đã được sưu tầm nhưng hiện chủ yếu nằm trong thư viện, chưa
phát huy được giá trị của chúng.
Chương 5. Văn hóa Thăng Long - Hà Nội 157

Sự phục hưng lễ hội ở Hà Nội còn nhất thể hoá, đơn điệu hoá, khiến
cho một số lễ hội nhạt nhoà, lẫn lộn, các trò chơi dân gian, trò diễn ít có
sự khác biệt, làm mất đi tính đa dạng của lễ hội do chạy đua theo phong
trào. Khi sắc thái riêng của lễ hội không còn thì sức hút đối với du khách
cũng sẽ giảm, lễ hội mang nặng tính hình thức, phô trương, làm giảm
sức sáng tạo của nhân dân, dẫn đến việc du khách hiểu sai lệch về văn
hoá địa phương, văn hoá dân tộc. Nghề và làng nghề truyền thống của
Hà Nội phong phú và đa dạng nhưng hiện đang có sự biến dạng, nhiều
làng nghề chạy theo cơ chế thị trường, thương mại hoá, đã du nhập
nguyên, vật liệu từ nước ngoài, không quan tâm đến chất lượng, mẫu
mã xa rời yếu tố truyền thống, làm giảm lòng tin với người sử dụng.

5.3.4. Bảo tồn di sản gắn với phát triển du lịch


Giá trị của di sản văn hoá luôn có sức hấp dẫn mạnh mẽ với du khách
trong và ngoài nước, là nguồn tài nguyên du lịch dồi dào, mang chiều sâu
tri thức. Luật Du lịch khẳng định: tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên
nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình sáng
tạo của con người được sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch, là yếu
tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sự
hấp dẫn với du khách. Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá,
khoa học, cũng là trung tâm du lịch lớn của cả nước. Hà Nội là một trong
những địa phương có số lượng di tích lịch sử văn hoá lớn nhất cả nước.
Theo số liệu thống kê năm 2006 của Ban Quản lí di tích và danh thắng
Hà Nội, trên địa bàn Hà Nội khi chưa mở rộng, ở 14 quận, huyện nội,
ngoại thành có 1952 di tích lịch sử - văn hoá, trong đó có 532 di tích được
xếp hạng cấp quốc gia, 81 di tích được xếp hạng cấp thành phố1. Những
di tích nổi tiếng, thu hút sự chú ý của du khách là Văn Miếu - Quốc Tử
Giám, khu thành cổ, khu phố cổ, các công trình mang nét kiến trúc châu
Âu thế kỉ XIX, các di tích lịch sử liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của
Hồ Chí Minh, các làng nghề, phố nghề truyền thống…
Với nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân văn: di tích, danh thắng,
lễ hội, ẩm thực, làng nghề thủ công, bảo tàng, khu vui chơi giải trí,

1
Lưu Minh Trị, Vũ Quang Du (Đồng chủ biên) (2006), Di tích cách mạng kháng chiến ở Hà Nội,
Nxb Hà Nội, tr. 12.
158 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

mua sắm… Hà Nội có đủ điều kiện để phát triển các loại hình du lịch.
Đến nay về cơ bản ngành du lịch Hà Nội bước đầu đã và đang khai thác
có hiệu quả những sản phẩm du lịch, đóng góp lớn vào GDP hàng năm
của cả nước. Có thể kể đến các loại hình du lịch điển hình đã, đang và sẽ
được khai thác ở Hà Nội trong thời gian tới như sau:
- Du lịch văn hoá, lịch sử, di tích và danh thắng: Hà Nội là địa phương
tập trung số lượng di tích, danh thắng lớn nhất cả nước với 2200/4388 di
tích danh thắng được xếp hạng, đây là loại hình du lịch đang được tập
trung đầu tư nâng cấp, phát triển và được khách du lịch, đặc biệt khách
du lịch quốc tế ưa chuộng. Ngành du lịch đã phối hợp tổ chức tốt việc
khai thác các hoạt động du lịch tại Văn miếu Quốc Tử Giám, chùa Trấn
Quốc, chùa Quán Thánh, đền Ngọc Sơn… Hiện nay trên địa bàn Thành
phố có một số bảo tàng thu hút lượng lớn du khách như Bảo tàng Dân tộc
học, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Bảo
tàng Mĩ thuật Việt Nam, Bảo tàng Hồ Chí Minh…
- Du lịch làng nghề, phố nghề, lễ hội, ẩm thực: Hiện nay trên địa bàn
thành phố Hà Nội có 1264 làng nghề, trong đó có 285 làng nghề được
công nhận là làng nghề truyền thống; từ ngày 1-8-2008, khi mở rộng địa
giới hành chính (gồm cả tỉnh Hà Tây cũ), Hà Nội trở thành vùng đất
có mật độ làng nghề, lễ hội lớn nhất cả nước. Riêng Hà Nội (cũ) đã đủ
hình thành chương trình du lịch hấp dẫn độc đáo để giới thiệu cho du
khách như tuyến phố đi bộ vào ba tối cuối tuần, tuyến phố nghề Hàng
Bông - Hàng Gai, Hàng Ngang - Hàng Đào, Hàng Bạc, Lãn Ông… Khu
phố ẩm thực Hà Nội, làng hoa Tây Tựu, lễ nghi truyền thống gia đình
tại Nghi Tàm - Quảng Bá, làng đúc đồng Ngũ Xã, làng gốm Bát Tràng,
làng rau Vân Nội - Đông Anh, làng đồ gỗ Liên Hà - Đông Anh… Thành
phố hiện có 1.350 làng nghề trong đó có 244 làng nghề truyền thống.
Khu vực Hà Tây (cũ) là địa bàn có tiềm năng to lớn để phát triển loại
hình du lịch này, tuy nhiên số làng có nghề phân bố không đều, đa số tập
trung chủ yếu ở các huyện: Phú Xuyên 124 làng, Thường Tín 125 làng,
Chương Mĩ 174 làng, Ứng Hoà 113 làng, Thanh Oai 101 làng, Ba Vì 91
làng. Thành phố đã tiến hành quy hoạch và đầu tư một số làng nghề
truyền thống tiêu biểu thành điểm du lịch cho khách tham quan như làng
nghề dệt lụa Vạn Phúc, khảm trai Chuyên Mĩ, mây tre đan Phú Vinh…
Chương 5. Văn hóa Thăng Long - Hà Nội 159

Đặc biệt việc tổ chức khai thác hoạt động du lịch làng Việt cổ Đường Lâm
bước đầu thu hút được sự quan tâm của du khách.
Theo đánh giá của tổ chức JICA Nhật Bản, thành phố Hà Nội có 47/52
nghề trên toàn quốc với hàng chục nhóm nghề đang có chiều hướng phát
triển như gốm sứ, dệt may, da giày, điêu khắc, khảm trai, thêu ren, sơn
mài, mây tre đan, dát vàng bạc quỳ, đúc đồng, kim hoàn, chế biến nông
sản thực phẩm, cơ kim khí… trong đó, có một số nhóm ngành nghề đang
có xu hướng phát triển nhanh như gốm sứ, khảm trai, mây tre đan, sơn
mài, điêu khắc…
- Du lịch MICE (du lịch hội thảo, hội nghị): với cơ sở vật chất hiện có
và kinh nghiệm tổ chức các hội nghị quốc tế lớn như Hội nghị Thượng
đỉnh các nước nói tiếng Pháp, Hội nghị Thượng đỉnh các nước ASEAN,
Hội nghị ASEM 5, Hội nghị APEC… Hà Nội là thành phố hàng đầu ở
Việt Nam có đủ điều kiện để tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế lớn.
Nhiều khách sạn tiện nghi có sức chứa khoảng trên 14.000 chỗ ngồi,
một số khách sạn với gần 100 phòng tương ứng trên 7000 chỗ ngồi, có
khả năng phục vụ các sự kiện từ vài trăm đến cả nghìn người/địa điểm.
Việc tổ chức các hội nghị với phòng họp có trang bị kĩ thuật, máy móc
hiện đại, đồng bộ kết hợp với các tour du lịch ngắn ngày giúp khách
dự hội nghị có thời gian thư giãn. Các chương trình du lịch này đang
được các khách sạn từ 3 sao trở lên, các hãng lữ hành quốc tế và Tổng
công ty Hàng không Việt Nam phối hợp xây dựng và quảng bá. Tuy
nhiên số cung thực tế về phòng khách sạn, phòng tổ chức hội nghị, hội
thảo quốc tế chưa đáp ứng yêu cầu nên thành phố cần tiếp tục đầu tư
có hiệu quả cơ sở vật chất cho loại hình du lịch đầy tiềm năng này.
- Du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng cuối tuần: đây là loại hình du lịch phát
triển khá mạnh ở địa bàn Hà Tây (cũ) do điều kiện tự nhiên thuận lợi.
Những lợi thế phát triển du lịch của hệ thống núi Ba Vì và nhiều hồ nước
nhân tạo có diện tích mặt nước lớn như hồ Suối Hai, hồ Đồng Mô, hồ
Quan Sơn… trong những năm qua đã được cụ thể hoá bằng nhiều khu,
điểm du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng cuối tuần được hình thành và phát
triển; một số khu du lịch sau một thời gian hoạt động hiệu quả đã tiếp
tục tăng vốn đầu tư và mở rộng kinh doanh như khu du lịch thác Đa,
Đầm Long - Bằng Tạ, suối khoáng Tản Đà, ASEAN, Ao Vua, Khoang Xanh -
160 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Suối Tiên; Thiên Sơn - Suối Ngà,… góp phần đáp ứng nhu cầu nghỉ
dưỡng cuối tuần, vui chơi giải trí, hoạt động thể thao cho khách du lịch
từ Hà Nội (cũ) và các tỉnh lân cận.
- Du lịch nông nghiệp và trang trại (Ba Vì): khai thác tiềm năng du lịch
đặc thù của khu vực Ba Vì để xây dựng một số sản phẩm du lịch cộng
đồng độc đáo hấp dẫn khách du lịch, góp phần làm thay đổi diện mạo
của vùng, cải thiện kinh tế địa phương và mang lại sự thịnh vượng cho
người dân. Mục tiêu của ngành du lịch Thủ đô trong thời gian tới là đưa
Ba Vì trở thành một trong những nơi phát triển du lịch cộng đồng hàng
đầu của Việt Nam với các sản phẩm du lịch sinh thái, du lịch văn hoá, du
lịch nông nghiệp, du lịch địa chất tiêu biểu.
- Du lịch chữa bệnh và phục hồi sức khoẻ: hiện nay, du lịch chữa bệnh là
loại hình du lịch mới, đang có xu hướng phát triển trên thế giới. Trong bối
cảnh toàn cầu hoá, khu vực hoá, bên cạnh nhu cầu du lịch vui chơi, giải
trí, con người mong muốn đi du lịch kết hợp chăm sóc sức khoẻ, chữa
bệnh tại những nước có nền y tế phát triển trên thế giới. Hiện nay, Hà Nội
đang quan tâm đến loại hình du lịch này với các tiềm năng sẵn có như
nền y học dân tộc, cổ truyền, các trung tâm chăm sóc sắc đẹp (spa), phục
hồi sức khoẻ, châm cứu, phục vụ du khách. Trên địa bàn thành phố Hà
Nội, một số khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng thu hút đông đảo du khách
như Tản Đà, nước khoáng nóng Thuần Mĩ, ASEAN…
* Định hướng phát triển du lịch Hà Nội trong thời gian tới:
Thành phố cần có các chiến lược đầu tư phù hợp để phát huy hiệu
quả của vốn đầu tư du lịch, nâng cấp hệ thống khách sạn, nhà nghỉ lưu
trú và các công trình dịch vụ du lịch một cách đồng bộ, hợp lí; đầu tư xây
dựng các khách sạn, nhà nghỉ thuộc khu vực quốc doanh đạt tiêu chuẩn
bình quân 1-3 sao, một số khách sạn lớn 4-5 sao ở khu vực quanh công viên
Thống Nhất, Kim Liên, hồ Thiền Quang, khu vực ga Hà Nội, Bắc và Nam
Hồ Tây. Trong tương lai gần, ngành du lịch cần xây dựng hai bên bờ sông
Hồng, quanh hồ Linh Đàm, Yên Sở một số khách sạn, nhà nghỉ cao cấp.
Thành phố cần xây dựng các công trình thể thao tổng hợp phía Tây
Hồ Tây nằm dọc đường đê Lạc Long Quân; phía Nam Hồ Tây là khu trung
tâm giao dịch quốc tế, trung tâm dịch vụ du lịch; phía Bắc Hồ Tây là nơi
Chương 5. Văn hóa Thăng Long - Hà Nội 161

nghỉ ngơi, giải trí,… tạo thành một quần thể du lịch lớn lấy Hồ Tây làm
trung tâm. Chính quyền cần cải tạo nâng cấp, hình thành các công trình thể
dục thể thao phục vụ du lịch ở Mễ Trì, ven sông Nhuệ, Mĩ Đình, Xuân La,
Vân Trì. Khu vực phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy sẽ hình thành một khu
đô thị khoa học, hội nghị quốc gia, quốc tế, hội thảo và triển lãm.
Các nhà quy hoạch cần có phương án để phát huy tối đa hiệu quả
hoạt động của hệ thống công trình vui chơi giải trí tại các vườn hoa, công
viên như công viên Tuổi trẻ Thanh Nhàn (quận Hai Bà Trưng), khu vui
chơi giải trí Vân Trì (huyện Đông Anh), khu thể thao, vui chơi giải trí Mễ
Trì (huyện Từ Liêm), khu vực phía Bắc Hồ Tây và bán đảo Tây Hồ (quận
Tây Hồ), khu vui chơi tổng hợp Linh Đàm, Yên Sở (quận Hoàng Mai),
khu vui chơi giải trí tại khu công nghiệp Sài Đồng (quận Long Biên), khu
du lịch sinh thái vườn Trâu Quỳ (huyện Gia Lâm)…
Các nhà quản lí cần đầu tư phát triển hệ thống công viên, cây xanh để
bảo vệ môi trường, sinh thái phục vụ cho hoạt động du lịch. Hệ thống đai
rừng, vườn hoa, cây xanh trong và xung quanh thành phố. Đầu tư nâng
cấp các vườn hoa, công viên có sẵn: Bách Thảo, Thủ Lệ, Thống Nhất,
Thiền Quang, Yên Sở, Linh Đàm, Mễ Trì, Hồ Gươm, Hồ Tây và các dải
cây xanh ven các con sông Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ, Sét, sông Nhuệ, sông
Cà Lồ, sông Đuống, sông Hồng. Cần lên các phương án tôn tạo, phục chế,
nâng cấp các di tích lịch sử văn hoá và phát triển các lễ hội truyền thống
phục vụ du lịch và bảo vệ di sản văn hoá dân tộc, cổ truyền: quy hoạch
các công trình có giá trị nghệ thuật, lịch sử, cách mạng và các hoạt động
lễ hội, các làng nghề thủ công mĩ nghệ…
Tóm lại, những định hướng phát triển du lịch Hà Nội những thập kỉ
đầu thế kỉ XXI, nhằm các mục tiêu cụ thể: phát triển nhanh và bền vững
làm cho du lịch Hà Nội trở thành một ngành “kinh tế mũi nhọn” của
thành phố. Tập trung đầu tư có chọn lọc các tuyến, điểm du lịch trọng yếu
có ý nghĩa quốc gia và quốc tế, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch
hiện đại, tạo nhiều sản phẩm du lịch đa dạng chất lượng cao, giàu bản
sắc dân tộc, có sức cạnh tranh, hấp dẫn để từng bước đưa du lịch Hà Nội
trở thành trung tâm du lịch tầm cỡ quốc gia, khu vực Đông Nam Á và thế
giới đến năm 2020 và những thập kỉ đầu của thế kỉ XXI.
162 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

* Một số mục tiêu về du lịch cần đạt được trong thời gian tới:
Theo Tổng Cục Du lịch, ngành du lịch Hà Nội cần cụ thể hoá các mục
tiêu trong thời gian tới:
- Tăng cường thu hút khách du lịch trong nước. Xúc tiến khâu tuyên
truyền, quảng bá du lịch.
- Nâng cao nguồn thu nhập từ du lịch.
- Xây dựng mới, trang bị, tôn tạo cơ sở vật chất du lịch đến năm 2010,
cần 130.000 phòng khách sạn, nhà nghỉ lưu trú, đầu tư cho cơ sở hạ tầng
phục vụ du lịch.
- Tạo thêm công ăn việc làm cho xã hội.
Các chuyên gia du lịch lên kế hoạch khai thác thị trường quốc tế có
trọng điểm ở khu vực Đông Nam Á - Thái Bình Dương, Tây Âu, Bắc Mĩ,
chú trọng nâng cao dân trí du lịch trong nước và quốc tế, nhằm đẩy mạnh
quá trình giao lưu, hội nhập của nhân dân Thủ đô. Ngành du lịch phấn
đấu giữ tốc độ tăng trưởng của du lịch Hà Nội hàng năm từ 15% đến
18%, đưa tỉ trọng GDP lên 15% vào năm 2020 và xác lập Hà Nội là trung
tâm du lịch của khu vực, đóng vai trò cầu nối để đưa khách đến các nước
thành viên ASEAN và Trung Quốc… Với những lợi thế về vị trí địa lí, về
cảnh quan thiên nhiên, tài nguyên nhân văn phong phú và đa dạng, số
lượng điểm, vùng tham quan phong phú, Hà Nội có đủ điều kiện thuận
lợi để phát triển du lịch góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của
Thủ đô.
*
* *
Ngay từ thời kì văn hoá Sơn Vi, Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun,
Đông Sơn, khu vực Hà Nội đã được cư dân nông nghiệp trồng lúa nước
vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng chọn làm nơi tụ cư lâu đời. Khi
thành lập nước Âu Lạc, An Dương Vương đã chọn Cổ Loa (Đông Anh,
Hà Nội) làm kinh đô và xây dựng ở đây một toà thành lớn. Trong suốt
một nghìn năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, Hà Nội luôn là địa bàn
diễn ra các cuộc khởi nghĩa, nhiều trận chiến có tính chất quyết định để
giành độc lập. Đây cũng là nơi được các đế vương chọn làm kinh đô,
Chương 5. Văn hóa Thăng Long - Hà Nội 163

trung tâm điều hành đất nước từ thời Hai Bà Trưng, Lý Bí, Phùng Hưng
đến Ngô Quyền. Trải qua các triều đại phong kiến từ Lý - Trần - Lê sơ -
Mạc - Lê - Trịnh, Thăng Long là trung tâm quyền lực với 843 năm là kinh
đô của nước Đại Việt (từ 1010 đến 1788; ngoại trừ nhà Tây Sơn và nhà
Nguyễn chọn Phú Xuân - Huế làm kinh đô). Trong hai cuộc kháng chiến
chống ngoại xâm, Hà Nội luôn được coi là trung tâm quan trọng bậc
nhất, nơi thực dân Pháp chọn làm thủ phủ Liên bang Đông Dương, đế
quốc Mĩ coi Hà Nội là địa bàn có tầm chiến lược, là “con bài” quyết định
của cuộc chiến tranh nhằm gây sức ép đối với Chính phủ và nhân dân
Việt Nam. Từ năm 1975 đến nay, Hà Nội vẫn là Thủ đô, trung tâm chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội hàng đầu của cả nước.
Với tuổi đời hàng nghìn năm gắn với công cuộc dựng nước, giữ
nước, Thăng Long - Hà Nội không những dệt nên những trang sử vàng
mà còn để lại một kho di sản văn hoá đồ sộ, giàu giá trị nhân văn. Theo
thống kê của Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội và Sở Văn hoá - Thể
thao Hà Nội năm 2015, về di sản văn hoá vật thể, Hà Nội có tổng 5.922 di
tích lịch sử văn hoá với 2.396 di tích đã được xếp hạng, trong đó 2 di sản
văn hoá thế giới, 11 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 1.182 di tích cấp quốc
gia, 1.202 di tích cấp thành phố. Về si sản văn hoá phi vật thể, Hà Nội có
tổng 1.793 di sản gồm 14 di sản ngữ văn dân gian, 79 nghệ thuật trình
diễn dân gian, 213 tập quán xã hội và tín ngưỡng, 1.206 lễ hội truyền
thống, 175 nghề thủ công truyền thống, 106 tri thức dân gian, trong đó có
5 loại hình được xếp vào di sản phi vật thể cấp quốc gia; 3 loại hình di sản
phi vật thể được UNESCO công nhận là đại diện nhân loại nằm rải rác
trên địa bàn 30 quận/ huyện Hà Nội (mở rộng). Khối lượng di sản đồ sộ
kể trên đủ để ngành du lịch Hà Nội khai thác các loại hình du lịch đặc sắc,
phong phú. Tuy nhiên, câu chuyện giữa bảo tồn và phát huy các giá trị di
sản văn hoá luôn là bài toán nan giải được đặt ra, làm thế nào để các di
sản, di tích vừa giữ được nét truyền thống, cổ kính, nguyên vẹn vừa thu
được nguồn tài chính dồi dào trong giai đoạn hiện nay. Muốn vậy, công
tác trùng tu, tôn tạo di tích và bảo tồn các loại hình di sản văn hoá phi vật
thể cần được thực hiện khoa học, trình tự thông qua các điều luật và văn
bản dưới luật, nhất là phải nhận được ủng hộ, tham gia của cộng đồng cư
dân. Đối với cán bộ ngành du lịch cần phối hợp với các ngành chức năng
164 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

để cung ứng các dịch vụ cần thiết (vận chuyển, lưu trú, ăn uống, tham
quan…), đặc biệt hướng dẫn viên cần nghiêm túc trong việc tìm hiểu các
giá trị văn hoá để thuyết minh, giới thiệu cho du khách để hình ảnh Thủ
đô nghìn năm văn hiến luôn được hiện diện đầy đủ, chính xác và thanh
lịch. Mỗi hướng dẫn viên là sứ giả văn hoá, là nhịp cầu kết nối, thắt chặt
mối quan hệ con người trên mọi vùng miền trong nước và quốc tế.

Câu hỏi thảo luận


1. Bằng những cứ liệu cụ thể, hãy chứng minh: Mảnh đất Thăng Long
- Hà Nội là nơi kết tinh các giá trị văn hoá từ buổi đầu thời đại dựng nước?
2. Văn hoá Thăng Long - Hà Nội thời kì phong kiến có những đặc trưng
gì? Những đặc trưng của di sản văn hoá vật thể và văn hóa phi vật thể của
Thăng Long - Hà Nội?
3. Biện pháp nào vừa bảo tồn được các giá trị di sản văn hoá của
Thăng Long - Hà Nội vừa khai thác các giá trị đó để phát triển du lịch Thủ
đô trong giai đoạn hiện nay?
Chương 6
ĐÔ THỊ VÀ ĐÔ THỊ HÓA NÔNG THÔN HÀ NỘI

6.1. Đô thị Thăng Long - Hà Nội cổ truyền

6.1.1. Thời kì tiền Thăng Long


Việc chuyển dịch kinh đô nước Văn Lang thời đại các vua Hùng từ
vùng đồi trung du Bạch Hạc - Việt Trì về Cổ Loa (huyện Đông Anh ngày
nay) làm kinh đô nước Âu Lạc của Thục An Dương Vương vào thế kỉ III
trước Công nguyên là minh chứng cho sự tiến triển xã hội, phân tầng cư
dân của nền văn minh lúa nước và của cả lợi thế về địa lí, điều kiện tự
nhiên của vùng kinh đô so với các vùng trong cả nước.
Từ điểm dân cư sinh sống thời kì đồ đá ven sông Hồng đến kinh đô
Âu Lạc, đến phố huyện (Tống Bình - thế kỉ V) đến trung tâm của nước
Việt độc lập (Vạn Xuân - thế kỉ VI), đến trung tâm An Nam đô hộ phủ
thời Bắc thuộc (thế kỉ VII - X) là quá trình đô thị hoá với những đặc trưng
khác so với các đô thị trên thế giới. Cấu trúc đô thị thời kì này gần như
không có bộ sử nào ghi chép mà chỉ có vài bộ dã sử có đề cập chút ít. Nơi
đây ngoài thành trì liên tục được các quan cai trị nới rộng thì còn có khu
vực dân cư trú được xem là khu “thị” được tổ chức ở bên bờ sông Hồng
và sông Tô, đặc biệt khu vực cửa sông Tô chảy vào sông Hồng (khu vực
phố cổ ngày nay) là dân cư đông đúc nơi hội tụ của nhiều ngành, nghề
của cả nước thời kì tiền Thăng Long.
Thành càng rộng thì khu Thị càng rộng và tập trung đông dân cư với
nhiều ngành nghề. Đến thế kỉ IX, X thành Đại La đã khá rõ về hình ảnh,
diện mạo của đô thị, song phát triển mạnh với nhiều đột phá chỉ từ khi
vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La và đổi tên thành Thăng Long
vào đầu thế kỷ XI.
166 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

6.1.2. Thời kì Thăng Long - Hà Nội


- Thăng Long thời Lý (1009 - 1226), Trần (1226 - 1400): Cuối năm 1009,
tại Hoa Lư (Ninh Bình) Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, sáng lập Vương
triều Lý (1009-1226), mở ra trang sử mới của một quốc gia phong kiến độc
lập. Năm 1010, Lý Công Uẩn, vị vua sáng nghiệp của triều Lý đã nhận
thức sâu sắc về tầm quan trọng của kinh thành đối với vận mệnh của đất
nước và vương triều nên đã quyết định dời đô từ Hoa Lư về Đại La và
xây dựng kinh đô mới mang tên Thăng Long. Trên cơ sở thành Đại La,
Lý Công Uẩn xây dựng một kinh thành mới, được giới hạn bằng ba
con sông: sông Hồng, sông Tô và sông Kim Ngưu. Khu Hoàng thành
ở gần Hồ Tây là nơi có các cung điện Hoàng gia và nơi thiết triều, tất
cả được bao bọc bằng một toà thành xây gạch. Phần còn lại là khu dân
sự, chia ra làm các phường, trong đó có  những phường nông nghiệp,
phường thủ công nghiệp và phường thương nghiệp, tách biệt hoặc đan
xen. Cả hai khu (hoàng thành và dân sự) được gọi là kinh thành, được
bao bọc bởi một toà thành phát triển từ đê của 3 sông nói trên.
Ở thời kì này, trong khu dân sự những kiến trúc tôn giáo đã xuất
hiện: năm 1028 xây đền Đồng Cổ trên bờ sông Tô, năm 1049 xây chùa
Diên Hựu - Một Cột ở phía Tây Hoàng thành, năm 1057 xây tháp chùa
Báo Thiên, năm 1070 xây Văn Miếu và nhà học cho Hoàng Thái tử sau
phát triển thành Quốc Tử Giám, trung tâm giáo dục Nho học quốc gia...
Vào đầu thế kỉ XI, Thăng Long đã có hình ảnh của một đô thị phương
Đông với các chợ tấp nập bên trong các tường thành. Khu vực chính là
Hoàng thành và bên trong có Cấm thành là nơi dành cho Vua và gia đình.
Khu Kinh thành bao bọc xung quanh là nơi ở của dân cư và gia đình quan
lại. Tại các cửa thành ở các mặt Đông, Tây, Nam, Bắc đều có các chợ là nơi
kinh doanh, buôn bán tấp nập. Đây không chỉ là nơi trao đổi hàng hoá
mà còn là nơi để nhân dân được nghe các chỉ dụ của nhà vua và các thông
báo của triều đình. Bao quanh Kinh thành là một con đê quanh co dài
khoảng 30 km. Như vậy, chỉ trong khoảng trên một trăm năm, sau khi trở
thành kinh đô, Thăng Long đã được xây dựng trở thành trung tâm chính
trị - kinh tế - văn hoá lớn nhất và tiêu biểu cho cả nước. Thành luỹ, đê
điều, các loại kiến trúc cung điện, dân gian, văn hoá, tôn giáo... tất cả hoà
quyện với thiên nhiên tạo nên dáng vẻ riêng của kinh thành.
Chương 6. Đô thị và đô thị hóa nông thôn Hà Nội 167

Tại Thăng Long, nhà Lý trong giai đoạn thịnh đạt của vương triều
đã đẩy mạnh công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trên quy mô lớn,
mở ra kỉ nguyên văn minh Đại Việt trong lịch sử Việt Nam.
Nhà Lý sau hai thế kỉ cầm quyền đã đến lúc suy thoái, nhà Trần thay
thế. Nền văn minh Đại Việt tiếp tục phồn thịnh. Nhà Trần củng cố lại hoàng
thành, xây thêm cung điện. Kinh thành vẫn giữ ranh giới cũ nhưng đông
đúc hơn. Năm 1230, hoạch định các đơn vị hành chính, Kinh đô tiếp tục
được chia làm 61 phường. Khu vực này còn tiếp nhận nhiều khách buôn
và cư dân nước ngoài đến sinh sống làm ăn.
- Thăng Long thời kì dưới các Triều đại Lê, Mạc, Lê - Trịnh và Tây Sơn: Ở
thời kì này, kinh thành Thăng Long được nhà Lê đã dần dần sửa chữa và có
thêm nhiều công trình mới. Vào khoảng cuối thế kỉ XV, đời Lê Thánh Tôn,
tường Hoàng thành do xây đã lâu ngày nhiều chỗ bị đổ nên vào năm 1473
đã phải sửa đắp lại. Đầu năm 1477, Lê Thánh Tôn cũng cho sửa đắp lại
Đại La được kiên cố hơn nhưng về cấu trúc thành luỹ thì thành Đông
Kinh vẫn dựa trên cơ sở thành Thăng Long thời Lý - Trần và vòng thành
ngoài cũng mang tên thành Đại La. Vòng thành thứ hai được chính thức
gọi là Hoàng thành. Năm 1474 và năm 1500, nhà Lê cho sửa chữa, xây
dựng lại tường thành phía Tây và phía Đông của Hoàng thành được mở
rộng thêm về phía Đông và vòng thành trong cùng (còn gọi là Cung thành
hay Phượng thành) vào năm 1490 cũng được mở rộng.
Căn cứ vào bản đồ Hồng Đức năm 1490 có thể thấy Hoàng thành
thời Lê bao gồm cả khu vực Hoàng thành Thăng Long thời Lý - Trần và
khu vực tỉnh thành Hà Nội vào thời Nguyễn sau này, nghĩa là rộng hơn
rất nhiều so với Hoàng thành thời Lý - Trần và tỉnh thành Hà Nội thời
Nguyễn. Nhưng những bản đồ này được vẽ theo kiểu ước lệ nên nhiều vị
trí chưa xác định chính xác trên bản đồ thời nay. Cũng theo các nguồn tư
liệu cũ thì cách thức bố trí, quy hoạch, xây dựng trong Hoàng thành buổi
đầu thời Lê như sau: Chính giữa Hoàng thành là điện Kính Thiên xây
dựng năm 1428 trên nền điện Thiên An đời Trần, là nơi nhà vua hội họp
với triều thần để bàn những công việc lớn của Nhà nước. Bên phải điện
Kính Thiên là điện Chí Kính, phía sau về bên trái là điện Vạn Thọ được
xây dựng năm 1428. Phía trước điện Kính Thiên là cửa Đoan Môn, hai
168 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

bên có Đông Tràng An và Tây Tràng An ăn thông ra hai phía Đông và Tây
trong Hoàng thành. Phía đông Hoàng thành còn có khu Đông cung là
nơi bố trí các cung điện của Hoàng Thái tử, và phía trước khu Đông cung
là khu nhà Thái Miếu, nơi thờ tổ tiên của nhà vua. Khu phía tây Hoàng
thành có nhiều hồ và núi có bố trí các đài các, đền miếu và vườn Thượng
Lâm dùng làm nơi giải trí thưởng ngoạn của Hoàng gia.
Ngoài một số cung điện chính nêu trên, Hoàng thành còn có hàng
trăm cung điện khác vào đời vua nào cũng có thêm những công trình xây
dựng mới. Riêng năm 1512, vua Lê Tương Dực cho Vũ Như Tô đứng ra
trông nom xây dựng 100 cung điện có gác và khởi công làm Cửu Trùng
đài, một cung điện nguy nga, tráng lệ nhưng không hoàn thành được do
có các loạn trào kéo dài từ năm 1516 đến năm 1527.
Kinh thành là nơi nhân dân và quan lại ở thì từ sau cuộc chiến thắng
quân Minh ở đầu thế kỉ XV, ngày càng mở rộng và luôn luôn được tu sửa
thêm. Năm 1749, vua Lê, chúa Trịnh đã tiến hành công cuộc sửa đắp lớn
đối với thành Đại La, thành Đại La lúc ấy còn được gọi là Đại Độ, mở
8 cửa thông ra ngoài, mỗi cửa đặt hai ô tả và hữu có binh lính canh gác
ngày đêm. Một trong những cửa Đại La ấy là cửa Thanh Hà vẫn còn di
tích đến ngày nay. Đại La đắp bằng đất không cao lắm, bên cạnh có tường
nhỏ, trên mặt là đường xe ngựa đi, ở mé ngoài là hàng rào che kín, dưới
chân tường là hào sâu, trong hào thả chông rất kiên cố. Thành có ba vọng
canh luôn có lính canh gác.
Sự bố trí trong kinh thành Thăng Long từ đầu thế kỉ XV đến cuối
thế kỉ XVII không có gì khác với kinh thành Thăng Long thời Lý - Trần.
Năm 1497, Lê Thánh Tông cho xây viện Đãi Lậu ở ngoài cửa Đại Hưng
gồm hai dãy nhà, mỗi dãy ba gian làm mới để các quan nghỉ đợi giờ vào
triều. Tại ngoài cửa Đại Hưng cũng dựng đình Quảng Văn làm nơi yết thị
những pháp lệnh của triều đình. Nhân dân ở khu vực các phường dân cư
ngoài Hoàng thành không ngừng phát triển. Năm 1466, vùng kinh sư đặt
thành phủ Trung Đô gồm 2 huyện Quảng Đức và Vĩnh Xương. Năm 1469,
phủ Trung Đô đổi tên làm phủ Phụng Thiên. Khu dân cư của hai huyện
Quảng Đức và Vĩnh Xương chia làm 36 phường, mỗi huyện 18 phường.
Quy hoạch 36 phường của Thăng Long bắt đầu từ đó.
Chương 6. Đô thị và đô thị hóa nông thôn Hà Nội 169

Phường là một đơn vị hành chính cơ sở, tương đương với xã ở nông
thôn cũng là nơi tập hợp những người cùng nghề. Cư dân 36 phường của
Đông Kinh bao gồm cả nông dân, thợ thủ công và thương nhân, trong
đó có những phố - chợ buôn bán tấp nập và những phường thủ công
nổi tiếng. Trong Dư địa chí do Nguyễn Trãi viết năm 1435, có nhắc tới
một số phường thủ công chuyên nghiệp như phường Tàng Kiếm (Hàng
Trống) làm kiệu, áo giáp, đồ dài mâm võng, gấm trừu, dù lọng, phường
Yên Thái (Bưởi) chuyên làm giấy; phường Thụy Chương (Thụy Khuê) và
phường Nghi Tàm (làng Nghi Tàm bên Hồ Tây) dệt vải và lụa, phường
Hà Tân (sau là Giang Tân, bờ sông Hồng) nung vôi, phường Hàng Đào
nhuộm điều, phường Tả Nhất (An Nhất, cuối phố Huế) làm quạt, phường
Đường Nhân (Hàng Ngang) bán áo diệp y, phường Thịnh Quang (ngoài
Ô Chợ Dừa) làm long nhãn...
Năm 1527, triều Mạc (1527-1592) thay thế triều Lê. Chính sách cai trị
của triều Mạc nói chung có nới rộng hơn so với triều Lê và trong thời gian
đầu, có tạo ra được tình trạng xã hội ổn định. Đông Kinh được trở lại tên
gọi Thăng Long, là đô thành của triều Mạc.
Để đề phòng những cuộc tấn công của quân Trịnh, nhà Mạc lo tăng
cường hệ thống thành luỹ phòng vệ quanh thành Thăng Long. Năm 1588,
nhà Mạc (Mạc Hậu Hợp) huy động quân bốn trấn vùng đồng bằng đắp
thêm 3 lần luỹ ngoài thành Đại La. Trên bản đồ hiện nay, thành này bắt
đầu từ Nhật Tân, chạy theo phía Hồ Tây, qua Bưởi, Ô Cầu Giấy, theo
đường Giảng Võ, La Thành qua Ô Chợ Dừa, Kim Liên rồi theo đường
Đại Cồ Việt, Trần Khát Chân qua Ô Cầu Dền, Ô Đống Mác ra tới đê sông
Hồng. Như vậy thành Đại La được xây đắp thêm vào thời này, rộng hơn
thành Đại La vào thời kì trước vì đã đưa toàn bộ khu vực Hồ Tây vào
trong phạm vi thành Thăng Long. Có thể coi công cuộc xây dựng của
Mạc Hậu Hợp đã ấn định vị trí và diện mạo của Hoàng thành Thăng
Long suốt từ cuối thế kỉ XVI cho đến thế kỉ XVIII.
Một nét mới trong quần thể kiến trúc đô thị của Thăng Long thời Lê
- Trịnh là sự xuất hiện cụm kiến trúc phủ Chúa. Theo các bản đồ Thăng
Long đời Lê thì phủ Chúa ở phía Nam tháp Báo Thiên (bị sập từ năm 1547)
và phía Tây hồ Hoàn Kiếm lúc bấy giờ còn khá rộng, gồm hồ Tả Vọng và
170 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

hồ Hữu Vọng. Kiến trúc chính của phủ Chúa gồm các cung điện nguy
nga, có tường bao bọc hình vuông, mở hai cửa: chính môn ở phía Nam và
Tuyên Vũ ở phía Đông (nhìn ra hồ Hoàn Kiếm).
Về phương diện kinh tế, Thăng Long là một phức hợp kinh
tế gồm nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, trong đó hoạt
động thương nghiệp giữ vai trò chi phối. Tầng lớp thị dân ngày một gia
tăng, có một số trở thành chủ xưởng, chủ hiệu giàu có, nhưng đông đảo
vẫn là những người sản xuất và  buôn bán nhỏ bị trị. Thăng Long vẫn
không vượt qua được mô hình cấu trúc của thành thị trung đại phương
Đông để trở thành “thành thị tự do” như phương Tây.
Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi vua lấy hiệu Quang Trung và đóng
đô ở Huế, nhưng Thăng Long được coi là thủ phủ của Bắc Thành (Bắc
Bộ ngày nay). Tuy vậy Hoàng thành vẫn được chính quyền Tây Sơn tu
sửa. Những chính sách khuyến nông, phát triển công thương của Quang
Trung đã tác động đến kinh tế vùng Thăng Long.
- Thăng Long - Hà Nội thời Nguyễn, thế kỉ thứ XIX: Năm 1802, Gia Long
lên ngôi, đóng đô ở Phú Xuân, Thăng Long vẫn là thủ phủ của Bắc Thành
(gồm 11 trấn). Năm 1805, thành cũ bị phá xây trên đó một toà thành mới
mà nay còn có  thể nhận diện: tường Bắc tương ứng phố Phan Đình
Phùng; tường Tây: Hùng Vương; tường Nam: Trần Phú; tường Đông:
Phùng Hưng. Như vậy thành mới tương đương với Cấm thành đời Lê.
Năm 1831, Minh Mạng cải cách bộ máy hành chính, bỏ các trấn, chia
cả nước thành 29 tỉnh, trong đó có tỉnh Hà Nội gồm thành Thăng Long,
huyện Từ Liêm của trấn Sơn Tây và ba phủ Ứng Hoà, Thường Tín, Lí
Nhân của trấn Sơn Nam. Thăng Long hạ xuống thành tỉnh lỵ Hà Nội.
Riêng khu vực kinh thành Thăng Long cũ gồm 2 huyện Thọ Xương và
Vĩnh Thuận (tên mới của Quảng Đức) cùng huyện Từ Liêm lập thành
phủ Hoài Đức. Lúc này, hai huyện trên không giữ 36 phường mà chia ra
thành nhiều phường nhỏ, thôn, trại. Thọ  Xương có 116 phường, thôn,
trại. Vĩnh Thuận có 27 phường, thôn, trại.
So với trước, sự phát triển kinh tế của Hà Nội nửa đầu thế kỉ XIX
không được đều. Các phường, thôn phía Tây và Nam có xu hướng nông
thôn hoá, chuyên về nghề nông có kết hợp thủ công. Bộ mặt đô thị của
Chương 6. Đô thị và đô thị hóa nông thôn Hà Nội 171

Hà Nội dồn về khu phía Đông và Nam. Ở đây phố phường ngang dọc
như bàn cờ, nhà cửa kề nhau. Khu Phủ Chúa Trịnh (bị Chiêu Thống cho
phá năm 1787) và vùng quanh Hồ Gươm nhanh chóng thành khu dân cư,
buôn bán và làm nghề thủ công.

6.2. Đô thị Hà Nội thời Cận đại


Thời kì này, Hà Nội được chính quyền thực dân cùng với kế hoạch
bình định và khai thác thuộc địa đã áp dụng các biện pháp can thiệp về
xây dựng và quy hoạch khác nhau. Ban đầu, thực dân Pháp triển khai
xây dựng các công trình quân sự, tiếp theo là các cửa hàng buôn bán
và dịch vụ ở phố Tràng Tiền (rue Paul Bert), phố Hàng Khay (rue des
Inscrusteurs), chợ Đồng Xuân... Công việc phát triển đô thị đầu tiên là mở
các con đường nối các điểm xây dựng phân tán ấy đồng thời mở đường
sắt liên hệ với bên ngoài. Hệ thống đường mới mở, trước hết phục vụ
mục đích quân sự để củng cố bộ máy chính quyền sau đó để có điều kiện
khai thác nguồn lợi về kinh tế.

Hình 6.1. Bản đồ Hà Nội 1925

Nguồn: Trương Quang Hải (2010): Atlat Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội.
172 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Với hai mục tiêu đó, ngay ở giai đoạn đầu, thực dân Pháp đã chiếm
thành Hà Nội, nhanh chóng phá huỷ hệ thống tường thành cùng các kiến
trúc truyền thống của một trung tâm hành chính phong kiến Việt Nam,
trong khi đó vẫn giữ nguyên khu vực 36 phố phường - một trung tâm buôn
bán sầm uất đương thời để khai thác nguồn lợi kinh tế qua hệ thống thuế,
đồng thời ủng hộ việc xây dựng nhà thờ và các trường dòng. Những loại
công trình này phục vụ đắc lực cho ý đồ chính trị của thực dân.
Toàn bộ các công trình kiến trúc mà Pháp xây dựng ở Hà Nội giai
đoạn đầu đều mang tính thực dụng, dựa trên tinh thần của chủ nghĩa
công năng đơn giản trong kiến trúc. Đó là loại kiến trúc thực dân thời
kì đầu, phản ánh một chính sách thực dân trên nền tảng kinh tế của chủ
nghĩa tư bản sơ khai, hoang dã mà Pháp áp dụng ở Việt Nam. Những
can thiệp về quy hoạch ban đầu ở Hà Nội thể hiện rõ ý đồ chiến lược của
Pháp: từ những vị trí phân tán ban đầu đã chiếm được, từng bước mở
rộng và tiến tới làm chủ toàn bộ thành phố.
Các công trình xây dựng ở giai đoạn đầu được coi là những hạt nhân
để phát triển ra xung quanh. Hệ thống đường phố rộng rãi được quy
hoạch theo mạng ô cờ, có trang bị hệ thống kĩ thuật hạ tầng theo kiểu
phương Tây, cùng với việc đưa vào sử dụng những phương tiện giao
thông cơ giới đầu tiên là những yếu tố cơ bản thúc đẩy quá trình phát
triển, mở rộng thành phố. Cùng với thời gian, trong cấu trúc đô thị Hà
Nội đã dần dần hình thành những khu vực chức năng riêng biệt. Khu
thương nghiệp, dịch vụ trung tâm trên trục đường Tràng Tiền - Hàng
Khay; khu hành chính, chính trị ở phía Đông hồ Hoàn Kiếm và trên khu
vực thành Hà Nội, khu ở của người Pháp ở phía Nam hồ Hoàn Kiếm
và các khu vực kho tàng, nhà máy rải rác trong thành phố. Khu 36 phố
phường vẫn là khu thương mại, dịch vụ truyền thống.
Các công trình kiến trúc xây dựng ở giai đoạn này, dù là quân sự hay
dân sự, từ trụ sở hành chính, cửa hàng đến các loại nhà ở đều mang đặc
trưng hình thái kiến trúc thuần Pháp, tân cổ điển hoặc địa phương Pháp.
Các công trình ấy hoặc lấy mẫu từ Pháp sang, hoặc do các kĩ sư công
chính, các kiến trúc sư Pháp thiết kế tại chỗ đều có phong cách Pháp, các
đặc điểm riêng của khí hậu và văn hoá địa phương chưa được quan tâm.
Chương 6. Đô thị và đô thị hóa nông thôn Hà Nội 173

Khu phố mới được xây dựng dành riêng cho người Pháp đã thể hiện hình
ảnh của đô thị Pháp. Điều đó một mặt để thoả mãn nhu cầu và tình cảm
vọng quê của người Pháp sống ở Hà Nội, mặt khác là ý đồ áp đặt văn
hoá, phô diễn “tính hơn hẳn về văn minh” của nước Pháp thực dân tại
thuộc địa.
Công trình đầu tiên, lớn nhất được xây dựng ở Hà Nội chịu ảnh
hưởng của kiến trúc Pháp là thành Hà Nội thời Nguyễn xây năm 1805
kiểu Vauban. Năm 1873, ngay sau khi chiếm thành Hà Nội, Phờ-răng-xi
Gác-ni-ê đã chiếm dụng các công trình còn lại trong Hoàng thành cũ,
chọn Trường Thi là nơi đóng quân và luyện tập quân sự. Quân đội Pháp
liên tục gây sức ép với chính quyền nhà Nguyễn để thực hiện dã tâm xâm
chiếm Hà Nội.
Hiệp ước kí ngày 15-3-1874 giữa triều đình nhà Nguyễn và thực dân
Pháp đã cho phép người Pháp được quyền cư trú và đặt lãnh sự quán ở
ba nơi là Hà Nội, Hải Phòng và Quy Nhơn. Mỗi lãnh sự được đem theo
đội quân 100 người. Ở Hà Nội, theo Hiệp ước Philastre ngày 6-2-1874,
triều đình nhà Nguyễn phải cắt cho Pháp một khu đất gọi là nhượng địa
ở phía Đông thành phố, bên bờ sông Hồng. Diện tích khu đất nhượng
cho Pháp lúc đầu là 2,5 ha, sau tăng lên 18,5 ha. Tháng 10 năm 1875, thực
dân Pháp khởi công xây dựng các công trình kiên cố trên khu nhượng
địa, chính thức mở đầu thời kì xây dựng ở Hà Nội. Mặt bằng tổng thể
nhượng địa cùng các công trình kiến trúc do sĩ quan công chính Varaine
thiết kế. Cấu trúc tổng thể dựa trên nguyên tắc tổ chức các thương điếm
châu Âu ở hải ngoại với lối bố cục truyền thống theo trục đối xứng qua
cổng chính, xung quanh có tường cao bảo vệ. Các công trình xếp thẳng
dọc theo một trục song song với bờ sông Hồng.

6.3. Hà Nội từ năm 1945 đến nay


Trong toàn bộ lịch sử phát triển của Hà Nội, Cách mạng thành công
năm 1945 là mốc son mở ra thời kì phát triển mới của đất nước và Hà Nội.
Sau Cách mạng tháng Tám, nhân dân Hà Nội và cả nước không có ước
nguyện gì hơn là được sống trong hoà bình để xây dựng và phát triển.
Nhưng thực dân Pháp đã gây hấn ở Nam Bộ và sau đó phát động chiến
tranh ra cả nước. Hà Nội đã mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc một cách
174 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

xứng đáng nhất. Sau 9 năm ròng rã ngoan cường chống thực dân Pháp,
đến ngày 20-7-1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết công nhận độc lập
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, thực dân Pháp buộc phải rút
quân khỏi miền Bắc Việt Nam. Ngày 9-10-1954, tên lính Pháp cuối cùng
đã rút qua cầu Long Biên.
Hoà bình lập lại, chúng ta tiếp quản Hà Nội từ một thành phố tiêu
thụ, công nghiệp nhỏ bé không đáng kể, hạ tầng xã hội, các công trình
dịch vụ văn hoá nghèo nàn chỉ đáp ứng được cho lớp người giàu và giai
cấp thống trị. Từ thời điểm này Hà Nội đã bước sang thời kì đô thị hoá
mới với những thành tựu đáng kể cả về lượng, về chất, cả quy mô, tầm
vóc và diện mạo.
- Thời kì 1961 - 1979: Sau khi tiếp quản Thủ đô, Hà Nội với diện
tích 152 km² gồm 8 quận huyện với dân số 370.000 người nội thành và
160.000 người ngoại thành đã bước vào thời kì khôi phục kinh tế chuyển
từ thành phố tiêu dùng sang sản xuất để xứng với tầm vóc là Thủ đô. Từ
lúc này những người làm công tác quy hoạch xây dựng với sự giúp đỡ
của bạn bè nước ngoài đã bắt tay vào nghiên cứu quy hoạch xây dựng
Thủ đô.
Căn cứ Nghị quyết của Bộ Chính trị, Hội đồng Chính phủ đệ trình
Quốc hội Dự án mở rộng thành phố Hà Nội đồng tâm về 4 hướng Đông,
Tây, Nam, Bắc, sáp nhập các vùng phụ cận vốn có quan hệ với thành phố
Hà Nội và có cơ sở kinh tế xã hội tương đối phù hợp với khu vực ngoại
thành của Hà Nội.
Ngày 20-4-1961, Quốc hội khoá II kì họp thứ 2 đã ra nghị quyết phê
chuẩn quy hoạch mở rộng đồng tâm thành phố Hà Nội về 4 hướng và
phân vạch địa giới mới của Hà Nội mở rộng. Theo Nghị quyết, Hà Nội
sáp nhập 18 xã, 6 thôn và 1 thị trấn thuộc tỉnh Hà Đông; 29 xã và 1 thị trấn
của tỉnh Bắc Ninh; 17 xã và một nửa thôn của tỉnh Vĩnh Phúc; 1 xã của
tỉnh Hưng Yên. Địa giới Hà Nội sau khi mở rộng năm 1961: phía Đông
giáp tỉnh Hưng Yên và Bắc Ninh, phía Tây và Nam giáp tỉnh Hà Đông,
phía Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc và Bắc Ninh. Diện tích Hà Nội năm 1961 là
586,13 km² gồm 4 khu nội thành (khu phố Ba Đình, khu phố Hoàn Kiếm,
khu phố Hai Bà, khu phố Đống Đa - sau đổi thành quận) và 4 huyện
Chương 6. Đô thị và đô thị hóa nông thôn Hà Nội 175

ngoại thành (huyện Từ Liêm, huyện Thanh Trì, huyện Gia Lâm và huyện
Đông Anh); dân số là 910.000 người1, địa giới gấp gần 4 lần và dân số gấp
1,5 lần so với năm 1960. Thành phố Hà Nội được mở rộng lần thứ nhất
(tính từ năm 1954) đồng tâm về 4 hướng, không chỉ ngoại thành được mở
rộng gấp hai lần khu vực nội và
ngoại thành cũ, mà khu vực nội
thành mới cũng được nới rộng
thêm đáp ứng nhu cầu phát triển
và xây dựng Thủ đô trong quy
hoạch dài hạn.
Từ năm 1960 bắt đầu Kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất phát
triển kinh tế: xây dựng một số
cụm công nghiệp, một số công
trình kiến trúc lớn như trụ sở
cơ quan, trường học, bệnh viện,
giải quyết nhu cầu về nơi ở thích
hợp. Trong thời kì này gần 2 vạn
hộ dân sống trong các khu xóm
lao động đã được từng bước cải
Hình 6.2. Quy hoạch Thủ đô Hà Nội (1960-1964)2
thiện xây dựng mới như: Thượng
Đình, Minh Khai… đã tạo ra một cơ cấu mới cho đô thị góp phần cải thiện
công ăn việc làm cho người lao động. Đặc biệt là một số khu nhà ở tập thể
như: Kim Liên, Nguyễn Công Trứ… được xây dựng với những mô hình
căn hộ xã hội chủ nghĩa.2
Cùng việc xoá nạn mù chữ, nhiều trường đại học lớn ra đời: Tổng
hợp, Bách khoa, Sư phạm, Nông Lâm... một số bệnh viện cũ đã được cải
tạo nâng cấp, một số bệnh viện mới được ra đời như: Việt Nam - Cu Ba,
Y học dân tộc... Để phát triển Hà Nội xứng tầm là Thủ đô, rất cần xem xét

1
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2000), Địa lí Hà Nội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,
tr. 122-123.
2
William Logen (2013), “Những người Nga bên sông Hồng: Ảnh hưởng của Liên Xô lên
cảnh quan đô thị Hà Nội (1955 - 1990)”, Tạp chí Quy hoạch đô thị, số 13 (2013).
176 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

đến việc mở rộng địa giới. Tại kì họp Quốc hội khoá II kì 2 (tháng 4-1961)
đã quyết định Hà Nội mở rộng (lần thứ nhất) với diện tích 584 km²,
91 vạn dân, với 4 khu nội thành là Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà
Trưng và 4 huyện ngoại thành là Từ Liêm, Thanh Trì, Gia Lâm, Đông Anh.
Ngay từ giai đoạn này, Nhà nước và Thành phố đã khẳng định cần phải sớm
có quy hoạch chung Thủ đô để định hướng cho phát triển kinh tế xã hội.
Năm 1964, đế quốc Mĩ bắt đầu cuộc chiến tranh leo thang đánh phá
miền Bắc. Mặc dù công cuộc xây dựng vẫn tiến hành, song Thủ đô Hà Nội
bị đe doạ bởi chiến tranh nên phải tính đến phương án phân tán, chú trọng
tới yếu tố an ninh quốc phòng. Do vậy phải điều chỉnh lại quy hoạch chung
của Thủ đô: tập trung phát triển ở phía Nam sông Hồng, phía Tây trục
đường 21. Tháng 11-1968, Mĩ tuyên bố chấm dứt chiến tranh phá hoại miền
Bắc. Hà Nội mới chỉ được 3 năm
khôi phục kinh tế thì Mĩ quay trở
lại thực hiện chiến tranh phá hoại,
song đến tháng 12-1972 phải tuyên
bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20
trở ra. Nhiều xí nghiệp của trung
ương và địa phương bị đánh phá
đã được xây dựng lại. Tháng
2-1973, cầu Long Biên được nối
liền. Đến năm 1982, Thành phố đã
xây dựng mới và sửa chữa mở rộng
gần 100 xí nghiệp, một số công
trình giao thông quan trọng đã
được hoàn thành và đưa vào sử
dụng: Cầu Đuống, Cảng Phà Đen,
Hình 6.3: Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội
Sân bay quốc tế Nội Bài, cầu Thăng (1968-1974)1
Long, cầu Chương Dương. Ở thời
kì này nhiều phương án về luận chứng phát triển Thủ đô đã được nghiên
cứu. Cuối cùng phương án được chọn là khống chế Hà Nội cũ với 40 vạn
dân, phát triển Thủ đô ở Vĩnh Yên với 60 vạn dân. Khái niệm “chùm đô thị
Hà Nội” đã được triển khai (hình 6.3).1

1 William Logen (2013), Tlđd.


Chương 6. Đô thị và đô thị hóa nông thôn Hà Nội 177

- Thời kì sau 1979 - 1991: Từ những năm 80 trong phát triển đô thị gặp
những khó khăn do cơ chế bao cấp, song Hà Nội vẫn luôn được xác định
đúng với vai trò, vị trí định hướng phát triển. Nghị quyết 08/BCT của
Bộ Chính trị (tháng 1-1983) đã xác định lại Hà Nội là trung tâm đầu não
về chính trị, văn hoá, khoa học kĩ thuật và là trung tâm lớn về kinh tế và
giao dịch quốc tế. Mặc dù có những khó khăn nhất định, song đây cũng
là thời kì tốc độ xây dựng đô thị nhất là nhà ở có những kết quả đáng kể.
Nếu như năm 1980 xây dựng chỉ đạt 5 vạn m² nhà ở thì thời kì 1981 - 1985
đã xây dựng được 45 vạn m² nhà ở cùng với hạ tầng xã hội tối thiểu.
Năm 1986 Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới kinh tế, chuyển
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, Luật Đầu
tư nước ngoài ra đời, kinh tế Thủ đô đã có nhiều khởi sắc. Trong đô thị
nhiều yếu tố mới được xuất hiện đòi hỏi phải có sự điều chỉnh quy hoạch.
Trong thời kì này Quy hoạch xây dựng đã có 2 đợt điều chỉnh: Quy hoạch
được duyệt năm 1981 trong thực tế rất khó thực hiện, đặc biệt là phải phá
dỡ giải phóng mặt bằng lớn để xây dựng các tuyến đường trục. Do vậy
năm 1984 đã điều chỉnh về tổ chức không gian song vẫn giữ nguyên các
chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật. Quy hoạch điều chỉnh này là định hướng thực
hiện trong suốt 10 năm 1982 đến 1992. Do mối quan hệ với vùng và cơ cấu
đô thị với vùng ngoại thành; căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội khoá
VIII kì 9 (12-1991), ranh giới Hà Nội được điều chỉnh lại.
Trong quá trình quản lí Thủ đô rộng lớn, bên cạnh những thuận lợi,
Đảng bộ và chính quyền Hà Nội cũng nhận thấy có những khó khăn nên
đã kiến nghị lên Bộ Chính trị và Hội đồng Bộ trưởng đề nghị điều chỉnh
lại địa giới hành chính Thành phố. Ngày 24-11-1989, trên cơ sở xem xét
kiến nghị của Hà Nội, Bộ Chính trị đã ra Thông báo số 170/TB-TW: Địa
giới của thành phố Hà Nội hiện không hợp lí, phạm vi ngoại thành quá
rộng. Với diện tích ngoại thành gấp 49 lần nội thành, dân số ngoại thành
gấp 2 lần dân số nội thành, Hà Nội mang nặng tính chất của một thành
phố nông nghiệp. Sự chỉ đạo của Thành uỷ, Uỷ ban nhân dân Thành phố
bị phân tán trên cả lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp, đô thị và nông
thôn, không phù hợp với tính chất và vai trò của một Thủ đô. Những lí do
trước đây được dùng để quyết định mở rộng ranh giới Thủ đô Hà Nội: dự
kiến phát triển thành một đơn vị kinh tế công - nông nghiệp, nhấn mạnh
178 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

đến yêu cầu thành phố tự cân đối một phần quan trọng các nhu cầu phát
triển, nay không còn thích hợp. Trong tình hình mới, để tạo điều kiện
thuận lợi cho việc quản lí và xây dựng Hà Nội xứng đáng là một Thủ đô,
trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học - kĩ thuật của cả nước, Bộ
Chính trị nhất trí cần điều chỉnh ranh giới ngoại thành Hà Nội, xác định
lại địa giới hành chính của thành phố Hà Nội.
Ngày 12-8-1991, Quốc hội khoá VIII, kì họp thứ 9 ra nghị quyết điều
chỉnh theo hướng thu hẹp địa giới hành chính thành phố Hà Nội: chuyển
huyện Mê Linh của thành phố Hà Nội về tỉnh Vĩnh Phúc, chuyển thị xã Sơn
Tây và 5 huyện: Hoài Đức, Phúc Thọ, Đan Phượng, Ba Vì và Thạch Thất của
thành phố Hà Nội về tỉnh Hà Tây1. Diện tích Hà Nội thu hẹp còn 921,8 km²,
gồm 4 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành; dân số 2.052.000 người.
- Thời kì 2008 đến nay: Tính đến trước ngày 31-7-2008, Hà Nội có diện
tích 921,8 km², dân số hơn 3.145.300 người. Nội thành Hà Nội có diện tích
84,3 km² chiếm 9% diện tích toàn thành phố, bao gồm 9 quận (Ba Đình,
Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Tây Hồ, Thanh Xuân, Cầu Giấy,
Hoàng Mai, Long Biên) với 125 phường. Ngoại thành Hà Nội có diện tích
836,67 km², bao gồm 5 huyện (Gia Lâm, Đông Anh, Từ Liêm, Thanh Trì,
Sóc Sơn) với 99 xã và 5 thị trấn. Địa giới Hà Nội phía Đông giáp Bắc Ninh
và Hưng Yên, phía Tây giáp Hà Tây và Vĩnh Phúc, phía Nam giáp Hà Tây,
phía Bắc giáp Thái Nguyên.
Pháp lệnh Thủ đô số 29/2000/PL-UBTVQH (28-12-2000) của Ban
Thường vụ Quốc hội đã xác định vị thế của Thủ đô Hà Nội: Thủ đô Hà
Nội là trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn
về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước;
là nơi đặt trụ sở của các cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước, các
tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế
và là nơi diễn ra các hoạt động đối nội, đối ngoại quan trọng của cả nước.
Nghị quyết 15-NQ/TW (ngày 15-12-2000) của Bộ Chính trị đã xác
định phương hướng phát triển của Thủ đô Hà Nội là: Trong 10 năm tới
gắn với chuẩn bị kỉ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, Thành phố

1
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1991), Nghị quyết về điều chỉnh đại giới
hành chính một số tỉnh, thành phố trực thuộc TW.
Chương 6. Đô thị và đô thị hóa nông thôn Hà Nội 179

phải phát triển kinh tế, khoa học công nghệ, văn hoá, xã hội toàn diện bền
vững; bảo đảm về cơ bản xây dựng nền tảng vật chất, kĩ thuật của Thủ đô
xã hội chủ nghĩa giàu đẹp, văn minh, thanh lịch, hiện đại, đậm đà bản sắc
ngàn năm văn hiến, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân;
phấn đấu trở thành một trung tâm ngày càng có uy tín trong khu vực;
xứng đáng với danh hiệu Thủ đô anh hùng.
Từ phương hướng đó, Nghị quyết cũng đồng thời nêu ra nhiệm vụ
cho Thủ đô Hà Nội trong những năm tới: Cần phải đảm bảo kinh tế Thủ
đô có nhịp độ tăng trưởng cao, ổn định, với cơ cấu kinh tế hợp lí, phát
triển công nghiệp có chọn lọc và ưu tiên phát triển công nghệ cao trong
các lĩnh vực sinh học, thông tin cơ khí - tự động hoá, công nghệ ứng dụng
và sử dụng công nghệ mới, phát triển nâng cao các ngành dịch vụ, ưu tiên
giáo dục - đào tạo… Hà Nội phải đi đầu trong đào tạo nhân tài và nguồn
lực chất lượng cao cho đất nước, đặc biệt phấn đấu trở thành trung tâm
đào tạo có uy tín ở khu vực.
Điều đó cũng đòi hỏi Thủ đô Hà Nội cần phải được xây dựng và
phát triển một cách toàn diện, xứng tầm là một Thủ đô của một đất nước
trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Sau khi có Nghị
quyết 15 và Pháp lệnh Thủ đô, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành chức
năng cùng với Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội nghiên cứu điều
chỉnh và bổ sung quy hoạch chung của Hà Nội, nhằm thực hiện các mục
tiêu đã đề ra trong Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị và Pháp lệnh Thủ đô
của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các cơ quan tham mưu lập Đồ án
quy hoạch xây dựng vùng Thủ đô Hà Nội. Đồng thời ngày 11-6-2003 tại
Nghị quyết số 118/2003/QĐ-TTg Chính phủ đã cho thành lập Ban Chỉ đạo
quy hoạch và đầu tư xây dựng vùng Thủ đô Hà Nội. Nghị quyết này đã
tạo cơ sở pháp lí cho quá trình phát triển Thủ đô Hà Nội theo hướng đa
chức năng.
Đến năm 2007, vấn đề mở rộng Thủ đô ngày càng bức thiết hơn. Các
chuyên gia chỉ ra không gian và hệ thống hạ tầng kĩ thuật, hạ tầng xã hội
hữu hiệu của Hà Nội không thể đáp ứng được tốc độ đô thị hoá, sức hút
đầu tư ngày càng lớn. Sự gia tăng dân số làm cho mật độ dân số thường
180 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

trú và dân số vãng lai ở Hà Nội năm 2007 khoảng 5.000 người/ km² và nếu
tính riêng khu vực nội đô là 11.600 người/ km² (mức trung bình trong cả
nước là 227 người/ km²). Việc mở rộng địa giới hành chính Hà Nội vừa
đảm bảo không gian cho Hà Nội phát triển bền vững trong giai đoạn
trước mắt, cũng như trong tương lai lâu dài, vừa tạo điều kiện cho Hà
Nội phát triển toàn diện, xứng đáng là trung tâm đa chức năng, đáp ứng
yêu cầu bức thiết hiện thời.
Bộ Chính trị cũng yêu cầu mở rộng Hà Nội phải đáp ứng được 9 tiêu
chí, đó là: Khu vực mở rộng phải phù hợp với các định hướng phát triển
vùng Hà Nội; Phải phù hợp dân số thủ đô và các đô thị trong vùng; Các
khu vực có khả năng phát triển công trình đầu mối hạ tầng, phát triển các
dự án quốc gia gắn với Thủ đô trong đầu tư và hoạt động lâu dài; Phù
hợp về các điều kiện địa lí - lịch sử - văn hoá truyền thống; Khu vực mở
rộng cần có quỹ đất đủ rộng để xây dựng một số khu chức năng của Thủ
đô, các đô thị - khu đô thị mang tính chất vệ tinh để giảm áp lực vào khu
vực nội thành truyền thống; Có thể phát triển các vành đai xanh, không
gian mở, phát triển các vùng thực phẩm rau quả tươi phục vụ các đô thị
trong vùng; Lựa chọn các khu vực đô thị cận kề đã có thời gian gắn kết
chặt chẽ về giao thông, hoạt động đô thị và kinh tế thuận lợi đối với việc
điều chỉnh lại địa giới hành chính, ổn định nhanh, không gây xáo trộn về
cơ cấu hành chính cho nhiều địa phương xung quanh; Phù hợp với thời
cơ vận hội của cả nước.
Ngày 29-5-2008, Quốc hội khoá XII kì họp thứ 5 đã thông qua Nghị quyết
số 15 điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội theo phương án:
- Hợp nhất toàn bộ tỉnh Hà Tây bao gồm toàn bộ diện tích tự nhiên
2.193,41 km² và dân số hiện tại 2.568.000 người vào thành phố Hà Nội.
- Chuyển toàn bộ huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc về thành phố Hà Nội,
bao gồm diện tích tự nhiên là 141,64 km² và dân số hiện tại 186.255 người.
- Chuyển toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số hiện tại của 4 xã: Đông
Xuân (diện tích 17,2 km², dân số 4.495 người), Tiến Xuân (34,57 km², dân
số 6.606 người), Yên Bình (20,73 km², dân số 5.875 người), Yên Trung
(15,32 km², dân số 3.278 người) thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình
vào thành phố Hà Nội.
Chương 6. Đô thị và đô thị hóa nông thôn Hà Nội 181

Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, thành phố Hà Nội rộng
3.344,7 km² gấp 3,6 lần diện tích cũ; với 29 đơn vị hành chính trực thuộc,
gồm 10 quận nội thành, 18 huyện và 1 thị xã ngoại thành; dân số là
6.232.940 người chiếm 7,2% cả nước, có vị trí từ 20°53’ đến 21°23’ vĩ độ
Bắc và 105°44’ đến 106°02’ kinh độ Đông. Địa giới: phía Đông giáp các
tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang và Hưng Yên; phía Tây giáp tỉnh Hoà Bình và
Phú Thọ; phía Nam giáp tỉnh Hà Nam và Hoà Bình; phía Bắc giáp tỉnh
Thái Nguyên, Vĩnh Phúc.
Ngày 27-12-2013, Chính phủ ra Nghị quyết số 132/NQ-CP về việc điều
chỉnh địa giới hành chính huyện Từ Liêm để thành lập 2 quận và 23 phường
thuộc thành phố Hà Nội. Quận Bắc Từ Liêm được thành lập, gồm Thượng
Cát, Liên Mạc, Thụy Phương, Minh Khai, Tây Tựu, Đông Ngạc, Đức Thắng,
Xuân Đỉnh, Xuân Tảo, Cổ Nhuế 1, Cổ Nhuế 2, Phúc Diễn, Phú Diễn. Quận
Nam Từ Liêm được thành lập, gồm Trung Văn, Đại Mỗ, Tây Mỗ, Mễ Trì, Phú
Đô, Mĩ Đình 1, Mĩ Đình 2, Cầu Diễn, Phương Canh, Xuân Phương.

6.4. Đô thị hoá nông thôn ngoại thành Hà Nội


Trong lịch sử Việt Nam, làng xã là đơn vị tụ cư, môi trường sinh hoạt
văn hoá - xã hội gắn với cộng đồng người Việt nói chung, người Việt ở
đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Quá trình đô thị hoá diễn ra là tất yếu, khách
quan dẫn đến những thay đổi trong hệ giá trị, trong lối sống của người
dân vùng đô thị hoá và làng xã cũng đã và đang thay đổi từng ngày.
Thăng Long - Hà Nội trong tiến trình lịch sử hơn một ngàn năm,
đã đảm đương vai trò một đô thị “đa chức năng”, tính trội là chức năng
trung tâm chính trị - hành chính, văn hoá, kinh tế, giáo dục của đất nước.
Đi ngược dòng lịch sử phát triển đô thị, căn cứ vào một vài mốc quan
trọng, sẽ nhận biết về làng xã và quá trình đô thị hoá nông thôn ngoại
thành Hà Nội.

6.4.1. Giai đoạn trước năm 1873


Năm 1010, vua Lý Thái Tổ chọn thành Đại La làm kinh đô. Đại La
được đổi tên thành Thăng Long, có nghĩa là “Rồng Bay”. Thành phố
được quy hoạch lại để đáp ứng với mô hình mới được chia thành hai khu:
Hoàng thành và Kinh thành. Khu thương mại phố phường được sinh ra
từ khu thứ hai, có các quan lại, binh lính và dân.
182 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Đến triều đại nhà Trần (1226 - 1400), Thành phố nằm giữa các sông
Hồng, Tô Lịch và Kim Ngưu. Thành phố cũ được giới hạn bởi khu Hoàng
thành ở phía Tây và bởi sông Hồng ở phía Bắc và phía Đông. Chu vi
Thành phố ổn định vào khoảng 30 km. Từ năm 1400 đến đầu thế kỉ XVIII,
Kinh thành tập trung đông đúc nhưng không mở rộng.
Bình luận về quá trình đô thị hoá ở Đồng bằng sông Hồng thời kì
trung đại, chuyên gia Đô thị học, GS. Đàm Trung Phường cho rằng: Cho
đến cuối thế kỉ XIX, trước khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, chỉ có
Thăng Long xứng đáng là đô thị thực sự với khu dinh thự của các vua
quan, những phố phường của thợ thủ công và người buôn bán. Nhưng
Thăng Long thời bấy giờ bên cạnh và xen kẽ với các khu kinh thành và
thủ công vẫn có các làng nông nghiệp. Công nghệ của thành thị chủ yếu
vẫn là nghề phụ thủ công của người tiểu nông trong các làng trồng lúa
nằm ngay giữa đô thị. Cho đến thế kỉ XVIII-XIX Thăng Long vẫn mang
tính chất là một chợ phiên lớn nhất mà thôi. Các thị dân vẫn gắn bó với
làng quê của mình, vẫn xây đình, xây cổng làng trong đô thị, chưa có hẳn
một đời sống thành thị thực thụ tách biệt hẳn với đời sống nông thôn1.

6.4.2. Giai đoạn từ năm 1873 đến năm 1954


Ở giai đoạn này, quá trình đô thị hoá ở Thăng Long - Hà Nội có thể
chia ra thành một số thời kì nhỏ hơn:
- Từ 1873 đến 1888: Trong giai đoạn này người Pháp chuẩn bị cho việc
xây dựng Hà Nội là trung tâm chính trị, quân sự của Bắc Kì, thúc đẩy quy
hoạch ở quanh bờ hồ Hoàn Kiếm và phát triển khu phố Pháp. Các công
trình đầu tiên được xây dựng ở phía tây và phía đông hồ Hoàn Kiếm.
Những tuyến phố được xây dựng đầu tiên nay là đường Tràng Tiền,
Hàng Khay, Hàng Trống, Bà Triệu, Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần
Hưng Đạo. Người Pháp đã triệt phá các công trình dinh thự của Hoàng
thành (chỉ để lại Cột Cờ) để lấy đất xây các công trình quân sự, lấy toàn
bộ đất thôn Báo Thiên và phá chùa Báo Thiên để xây dựng Nhà thờ Lớn.

1
Tham khảo Vũ Tự Lập (chủ biên), Đàm Trung Phường, Ngô Đức Thịnh, Tô Ngọc Thanh,
Đinh Thị Hoàng Uyên (1991), Văn hoá và cư dân Đồng bằng sông Hồng, Nxb. Khoa học xã hội,
tr. 43-44.
Chương 6. Đô thị và đô thị hóa nông thôn Hà Nội 183

- Từ 1888 đến 1920: Đây là giai đoạn thực dân Pháp thực hiện chính
sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Do vậy, người Pháp đã chọn khu
vực xung quanh hồ Hoàn Kiếm, ngay ở phía nam của khu phố cổ buôn
bán sầm uất để làm trung tâm của Thành phố, được quy hoạch hiện đại
kiểu bàn cờ và xây dựng theo kiến trúc Pháp. Toàn bộ khu vực này, kéo
dài về phía nam đến đường Trần Hưng Đạo, Hàm Long thường được gọi
là khu phố Pháp. Cũng trong thời kì này, người Pháp đã cho phá huỷ gần
như toàn bộ thành Hà Nội (chỉ để lại cổng thành Chính Bắc) cũng như
toàn bộ các di tích văn hoá, kiến trúc truyền thống rải rác quanh hồ Hoàn
Kiếm, mà sách báo còn nhắc đến như chùa Phổ Giác (để làm toà Đốc lí
Hà Nội, nay là trụ sở Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội), chùa Báo Ân
(để xây Bưu điện Hà Nội).
Thời kì này các khu Hoàn Kiếm và Ba Đình đã được quy hoạch. Hồ
Hoàn Kiếm được tô điểm cho đẹp thêm, sông Tô Lịch chạy ngang Thành
phố bị lấp đi, các chợ và các đại lộ có trồng cây đầu tiên được xây dựng,
như đại lộ Henri Martin (Ngô Quyền), Gambetta (Trần Hưng Đạo) cùng
các toà nhà thực dân (Toà thị chính, Ngân hàng Đông Dương, các bưu
điện và máy điện báo, Phòng Thương mại và Nông nghiệp). Phố Paul Bert
(Tràng Tiền) nằm ở trung tâm của các hoạt động thương mại với các bách
hoá tập trung. Quỹ tín dụng đất đai, Ngân hàng Pháp - Trung, Nhà in Viễn
Đông và Nhà hát Lớn. Những thành luỹ bao quanh thành phố cùng với 15
trong số 16 cửa ô bị phá huỷ. Cầu Paul Doumer (Long Biên), đường xe điện
(1916), nhà ga, tuyến đường sắt được xây dựng. Khu Pháp, được xây dựng
ở phía Nam và phía Đông của hồ Hoàn Kiếm và có nhiều đại lộ song song
có hành lang rộng trồng cây và nhiều biệt thự tạo nên một phong cách kiến
trúc mới ngược với khu “36 phố phường”. Sự phân biệt này chứng tỏ có sự
phân cách giữa khu thành phố giàu và khu thành phố nghèo.
Một số công trình kiến trúc tiêu biểu trong thời kì này, nay đã trở
thành một phần di sản của Hà Nội như Nhà hát Lớn (xây từ 1901 đến
1911), Dinh Thống sứ (khánh thành năm 1918) nay là Nhà khách Chính
phủ, Ngân hàng Đông Dương (nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam),
Phủ Toàn quyền (nay là Phủ Chủ tịch), Trường Viễn Đông Bác Cổ (nay là
Thư viện Khoa học xã hội),… Thời kì này, để thúc đẩy việc khai thác thuộc
địa, chính quyền thực dân đã sớm cho xây dựng các tuyến đường sắt.
184 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Năm 1893-1902, cầu Paul Doumer (Pôn Đume) tức là cầu Long Biên được
xây dựng qua sông Hồng; Ga Hàng Cỏ (nay là Ga Hà Nội) cũng được
hoàn thành năm 1902 theo phong cách cổ điển Pháp. Năm 1904, đường
sắt Hà Nội - Lạng Sơn được khai thông, năm 1905, các tuyến Hà Nội - Hải
Phòng, Hà Nội - Lào Cai - Vân Nam (Trung Quốc) và Hà Nội - Vinh được
đưa vào khai thác.
Có thể nói trong thời kì này, Hà Nội từng bước có các công trình cơ
sở hạ tầng gồm các cơ quan công quyền, bệnh viện, trường học, các công
trình tôn giáo. Hà Nội bắt đầu có đường tàu điện, đến năm 1904 đã có các
tuyến Bờ Hồ - Bạch Mai 3,5 km, Bờ Hồ - Bưởi 5,5 km, Bờ Hồ - Hà Đông
hơn 10 km. Về xây dựng các cơ sở kinh tế đô thị, đáng chú ý là Khách
sạn Métropole (khánh thành năm 1901), Nhà máy Rượu (1898), Nhà máy
điện Bờ Hồ (1902), Nhà máy nước Yên Phụ (1906), Nhà máy xe điện
Hà Nội (1900), Nhà máy thuộc da Thụy Khê (1912)1. Hà Nội lúc này đã là
sự cộng sinh giữa một đô thị cổ phương Đông và một đô thị mới, hiện đại
phương Tây, và đang chuyển dần thành một đô thị hiện đại.
- Thời kì 1920-1954: Năm 1920 đánh dấu thời kì Pháp thực hiện
chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương. Với chính
sách bóc lột thuộc địa, mặc dù công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã hình
thành, nhưng chỉ tập trung vào công nghiệp khai mỏ, còn các cơ sở công
nghiệp chế biến hết sức nhỏ bé. Dù thế nào, thì thập kỉ 1920, 1930 cũng
đánh dấu thời kì mới trong quá trình đô thị hoá ở Hà Nội theo quy luật
phổ biến trên thế giới: đô thị hoá gắn với công nghiệp hoá. Đô thị hoá
cũng gắn liền với việc bắt tay xây dựng đô thị theo quy hoạch hiện đại.
Thời kì này, Hà Nội bắt đầu trở thành một đầu mối giao thông vận
tải lớn nhất ở Bắc Kì, một đầu mối đường sắt lớn nhất nối các tuyến
xuyên Việt2, Hà Nội - Lạng Sơn, Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai - Vân Nam.
Đường bộ tuy chưa hiện đại như hiện nay, nhưng đã có các tuyến đường
bộ mở lên miền núi - trung du Bắc Bộ để khai thác lâm sản, khoáng sản,
đường quốc lộ 5 đi Hải Phòng, quốc lộ 1A xuyên Việt,… Hà Nội cũng là

1
Dẫn theo Trần Hùng, Nguyễn Quốc Thông, Thăng Long - Hà Nội mười thế kỉ đô thị hoá, 2004,
tr. 70, tr. 82.
2
Từ năm 1936, tuyến đường sắt xuyên Việt được hoàn thành.
Chương 6. Đô thị và đô thị hóa nông thôn Hà Nội 185

một đầu mối giao thông đường bộ lớn của cả nước. Đối với giao thông
đối nội, đáng chú ý là các tuyến tàu điện được xây dựng đầu tiên từ đầu
thế kỉ XX đến năm 1943 đã được phát triển. Đường phố Hà Nội đã được
rải đá, rải nhựa và có hệ thống cống ngầm.
Hà Nội được quy hoạch theo quan điểm xây dựng một thành phố
thuộc địa, trong đó khu phố Pháp với phong cách kiến trúc cổ điển Pháp,
có kết hợp với đặc điểm kiến trúc truyền thống Việt Nam, đặc điểm kiến
trúc địa phương của nước Pháp. Phạm vi quy hoạch mở rộng tiếp về phía
Nam của khu phố Pháp, kéo dài đến khu vực tuyến đường Đại Cồ Việt và
Trần Khát Chân ngày nay. Đây là khu vực quy hoạch chủ yếu cho người
Việt Nam, cho tầng lớp tiểu tư sản trung lưu. Trong quy hoạch và kiến trúc
đô thị, người để dấu ấn đậm nét không chỉ cho giai đoạn này, mà cả về
sau là kiến trúc sư Ecnet Hêbra (Ernest Hébrad)1. Trong phương án thiết
kế quy hoạch hoàn thiện và mở rộng Hà Nội năm 1923, Hêbra đã chia Hà
Nội thành 4 vùng chức năng riêng biệt: 1/ Trung tâm hành chính - chính trị;
2/ Khu công nghiệp; 3/ Khu vực cây xanh, giải trí và thể dục thể thao;
4/ Khu vực ở. Trung tâm hành chính - chính trị ở phía Tây - Bắc thành phố,
khu vực Phủ Toàn quyền (nay thuộc quận Ba Đình). Khu công nghiệp ở
phía Gia Lâm. Khu cây xanh, giải trí, thể thao ở khu vực Hồ Tây và Cầu
Giấy - Nghĩa Đô. Khu nhà ở mới ở phía Nam Hồ Tây và phía Nam khu
phố Pháp. Đánh giá về những đóng góp của E. Hêbra, các tác giả của công
trình Thăng Long - Hà Nội mười thế kỉ đô thị hoá viết: Tuy phương án quy
hoạch năm 1923 không được thực thi vì những điều kiện kinh tế - xã hội
lúc bấy giờ, song những nguyên tắc quy hoạch đô thị hiện đại lần đầu
được đưa vào Việt Nam và cũng lần đầu những vấn đề phức tạp của đô thị
Hà Nội được đề cập đến và được giải quyết về phương diện lí thuyết một
cách có căn cứ khoa học… Các công trình kiến trúc do Hêbra thiết kế và
xây dựng ở Hà Nội trong những năm 1920 và đầu những năm 1930 đã thể
hiện một phong cách kiến trúc mới - phong cách kiến trúc kết hợp những
đặc điểm kiến trúc địa phương châu Á với những đặc điểm kiến trúc châu
Âu... Những thành công của Hêbra trong việc tìm tòi một phong cách kiến

1
Về đóng góp của E. Hêbra, xem Trần Hùng, Nguyễn Quốc Thông, Thăng Long - Hà Nội mười
thế kỉ đô thị hoá, Sđd, tr. 84-87.
186 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

trúc kết hợp đã thúc đẩy xu hướng xây dựng phong cách kiến trúc tìm đến
những giá trị văn hoá địa phương truyền thống trong những năm tiếp theo.
Công nghiệp hoá và đô thị hoá ở Hà Nội đang có tiến triển chậm, thì
Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã làm đình trệ cả hai quá trình này. Sau
khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Hà Nội chưa kịp sống
trong hoà bình lại phải tiếp tục cuộc kháng chiến 9 năm. Quá trình đô thị
hoá gần như đình trệ hoàn toàn.

6.4.3. Giai đoạn từ năm 1954 đến nay


Đây là một giai đoạn dài, đô thị hoá ở Hà Nội có những đặc trưng rất
nổi bật cho những thời kì khác nhau.
- Thời kì 1954-1965: Sau khi thực hiện khôi phục, cải tạo và phát triển
kinh tế (1955-1959), nước ta bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, thực
hiện công nghiệp hoá. Tháng 9-1959, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về quy
hoạch, cải tạo và mở rộng thành phố Hà Nội.
Ngay từ đầu những năm 60, quản lí đô thị đã trở nên tập trung. Sơ
đồ quy hoạch tổng thể đã được xây dựng phối hợp với Viện quy hoạch
Lê-nin-grad chứng tỏ mong muốn quy hoạch của nhà nước. Những khu
tập thể đầu tiên theo mô hình kiến trúc xã hội chủ nghĩa đã được xây dựng
ở Hà Nội như khu tập thể Nguyễn Công Trứ, Kim Liên tương đương với
gần 100.000 m² nhà ở. Chính sách này được tiếp tục với việc thành lập các
khu dân cư mới Trung Tự, hồ Ba Mẫu và Bệnh viện Bạch Mai, Giải Phóng
sau đó lan đến Khương Đình, Giảng Võ, Vĩnh Hồ, Thành Công và cuối
cùng là Kim Liên. Hai cầu Thăng Long và Chương Dương bắc ngang sông
Hồng tạo điều kiện thuận lợi cho những trao đổi với các huyện và tỉnh
phía Bắc và tăng thêm ảnh hưởng của mình đối với các khu nông thôn
ngoại thành.
Cũng trong thời kì này, Hà Nội bắt đầu xây dựng một số cơ sở công
nghiệp tập trung chủ yếu ở phía Nam thành phố. Các khu công nghiệp
Thượng Đình ở phía Tây Nam gồm Nhà máy chế tạo Công cụ số 1 (Nhà
máy Cơ khí trung quy mô), Nhà máy Cao su Sao vàng, Nhà máy Thuốc lá
Thăng Long, Nhà máy Xà phòng Hà Nội, Nhà máy Bóng đèn - phích nước
Rạng Đông; sau này thêm Nhà máy sửa chữa ô tô Hoà Bình, Xí nghiệp
Chương 6. Đô thị và đô thị hóa nông thôn Hà Nội 187

may X40, Nhà máy Giày vải Thượng Đình, Dụng cụ điện ảnh, Dệt Mùa
đông,… Khu công nghiệp Minh Khai - Vĩnh Tuy - Thanh Trì gồm các nhà
máy xay, nhà máy gạch ngói, Nhà máy Dệt 8-3, Nnhà máy cơ khí Mai
Động, Nhà máy bánh kẹo Hải Châu,… Ở khu vực khu công nghiệp Văn
Điển có Nhà máy phân lân, pin,… Ở khu vực Tây Bắc Thành phố có nhà
máy bê tông đúc sẵn Chèm; ở bên kia sông Hồng có có cơ sở công nghiệp
ở thị trấn Gia Lâm (Nhà máy xe lửa Gia Lâm), Đức Giang (hoá chất Đức
Giang), Yên Viên (Nhà máy gỗ Cầu Đuống, Nhà máy diêm Thống Nhất).
Ở thị trấn Đông Anh có các nhà máy thiết bị điện.
Tính đến năm 1961, Thành phố đã thay đổi địa giới hành chính 3 lần.
Tuy nhiên, ranh giới của Thành phố vẫn không bị dịch chuyển. Đó là sự
chia tách và hợp lại các khu vực trong thành phố để tạo điều kiện dễ dàng
cho việc quản lí.
- Thời kì 1966-1985: Trong những năm từ 1966 đến hết 1972, Hà Nội
phải chống lại chiến tranh phá hoại của không quân Mĩ. Các cơ sở sản xuất,
trường học, trẻ em đi sơ tán. Từ đầu năm 1973, cho đến những năm cuối
thập niên 1970, các trường đại học từ nơi sơ tán trở lại Hà Nội. Hà Nội tiếp
nhận một luồng nhập cư là những cán bộ viên chức được tuyển dụng ở cơ
sở sơ tán và gia đình họ, nay thành công dân Thủ đô. Hà Nội từng bước xây
dựng các công trình để Hà Nội đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Trong số đó có
các công trình công cộng nổi tiếng thời kì này được xây dựng: Nhà Văn hoá
thiếu nhi Hà Nội, Cung Văn hoá lao động Thủ đô, Khách sạn Thắng Lợi,
Bệnh viện Nhi Việt Nam - Thụy Điển, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội, Viện Khoa học Việt Nam, Trung tâm Bưu điện
Bờ Hồ, trụ sở Bộ Giáo dục và Đào tạo, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh1. Cũng
trong thời gian này, quan niệm về xây dựng các tiểu khu ở có quy hoạch
hoàn chỉnh được tiếp tục trên cơ sở rút kinh nghiệm hai khu ở Kim Liên
và Nguyễn Công Trứ. Các tiểu khu ở tiêu biểu được xây dựng trong thời
kì này là Trung Tự, Giảng Võ, Thanh Xuân Bắc. Mặc dù thời kì này sự phát
triển công nghiệp có nhiều khó khăn, nhưng cũng có một số cơ sở công
nghiệp mới được xây dựng và hiện đại hoá như Cơ khí Mai Động, Cơ khí
Giải phóng, Nhà máy Điện cơ Hà Nội, Nhà máy chế biến bột mì Chùa Bộc,

1
Trần Hùng, Nguyễn Quốc Thông, Thăng Long - Hà Nội mười thế kỉ đô thị hoá.
188 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Nghĩa Đô, Nhà máy khoá Việt - Tiệp, Nhà máy xe đạp Xuân Hoà, Nhà máy
thiết bị điện Đông Anh, Nhà máy pin Xuân Hoà,…
Đáng chú ý là trong thời kì này có các công trình giao thông quan trọng,
đó là việc xây dựng Sân bay quốc tế Nội Bài (1977), xây dựng lại nhà ga
đường sắt Hà Nội, tuyến đường sắt vành đai phía tây thành phố, xây dựng
cầu Thăng Long (1974 -1985), cầu Chương Dương (1983-1985). Những công
trình này không những tăng cường giao thông đối ngoại của Thành phố,
mà còn góp phần thúc đẩy đô thị hoá ở phần tả ngạn sông Hồng (các huyện
Đông Anh, Gia Lâm).
- Thời kì từ 1986 đến nay: Trong thời kì Đổi mới, các chiến lược đô thị
hoá được chính phủ phê duyệt, có quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống
đô thị toàn quốc1. Hà Nội trải qua hai lần điều chỉnh địa giới, năm 1991,
với việc thu hẹp địa giới hành chính, Hà Nội từ chỗ diện tích 2123 km²,
dân số 3.056.000 người (1989) xuống còn 921 km², dân số 2.097.300 người
(1991). Năm 2008, với việc mở rộng địa giới hành chính, diện tích toàn
Thành phố tăng từ 921 km² lên thành 3324,5 km², dân số tăng từ 3.288.200
người (2007) lên 6.381.800 người (2008). Vì thế, Hà Nội đã có những lần
thay đổi quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội và quy hoạch chung về đô thị.
Đó là bản Điều chỉnh quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2020, được
phê duyệt tại Quyết định số 108/1998/QĐ-TTg ngày 20-6-1998 của Thủ
tướng Chính phủ và bản Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm
2030 và tầm nhìn đến năm 2050, được phê duyệt tại Quyết định số 1259/
QĐ-TTg ngày 26-7-2011 của Thủ tướng Chính phủ.
Thời kì này đánh dấu sự gia tăng dân số đô thị tập trung đột biến vào
các khu vực làng xã giáp ranh nội đô và lấp đầy các làng xã đã lọt vào nội
đô. Quá trình đô thị hoá các làng xã diễn ra nhanh chóng trong khi các

1
Bản chiến lược đầu tiên chính là Dự án TA2148VIE “Nghiên cứu chiến lược khu vực đô thị”
do ADB tài trợ. Báo cáo cuối cùng của Dự án là cơ sở quan trọng để Chính phủ chỉ đạo lập
“Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt Nam đến năm 2020”, được phê duyệt tại
Quyết định số 10/1998/QĐ-TTg ngày 23-1-1998 của Thủ tướng Chính phủ. Sau 10 năm thực
hiện bản Định hướng này, Chính phủ đã chỉ đạo điều chỉnh Định hướng, kết quả là bản
“Điều chỉnh định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và
tầm nhìn đến năm 2050” được phê duyệt tại Quyết định số 445/QĐ-TTg ngày 7-4-2009 của
Thủ tướng Chính phủ.
Chương 6. Đô thị và đô thị hóa nông thôn Hà Nội 189

thể chế, chính sách quản lí chưa kịp ra đời. Đây có thể coi là giai đoạn bị
động nhất của các đô thị, không riêng Hà Nội. Nhu cầu nhà ở bùng nổ
do suốt thời gian bao cấp người dân không được xây dựng đã tạo nên làn
sóng dãn dân nội thành, mua đất trong các làng xã nội đô và giáp ranh
để xây dựng. Các làng xã như Ngọc Hà, Nhật Tân, Nghi Tàm, Quảng Bá,
Vĩnh Tuy, Giáp Bát... được lấp đầy và nhanh chóng trở thành các khu vực
dân cư đô thị có mật độ xây dựng cao. Hầu như không giữ được các yếu
tố truyền thống của làng nghề, làng truyền thống (Nghi Tàm, Ngọc Hà)
như một số phương án quy hoạch đã từng mong muốn.
Làn sóng phát triển các khu đô thị mới khá mạnh như Linh Đàm,
Trung Hoà, Nhân Chính, Mĩ Đình, Việt Hưng, Ciputra... tác động không
nhỏ đến các biến đổi của các khu vực phụ cận, tới các làng xã thuộc huyện
Từ Liêm, Thanh Trì, Long Biên. Các khu công nghiệp, cụm công nghiệp
mới hình thành tác động trực tiếp đến các làng xã gần kề với số lượng
công nhân ở trọ tăng đột biến, diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp, sức
ép chuyển đổi nghề nghiệp tăng cao.
Trong các làng xã ngoại thành, quá trình đô thị hoá cũng thể hiện các
diện mạo khác. Yếu tố dãn dân nội thành giảm mà thay thế là các yếu tố
nhập cư ngoại tỉnh, nhập cư lao động tạm thời, chỗ ở của người lao động
từ các khu công nghiệp gần kề và những biến đổi sâu sắc về đời sống xã
hội, văn hoá của bản thân làng xã.
Ngoài các xu hướng phát triển trên, đầu tư đất cất trang trại cũng
xuất hiện với các làn sóng đầu tư đất vùng Hoà Lạc, Ba Vì, Sơn Tây (Hà
Tây cũ) với tầm nhìn xa của các nhà đầu tư bất động sản hướng tới các đô
thị vệ tinh, du lịch tương lai.
Các dòng dịch cư diễn ra cả trên phạm vi rộng nông thôn - đô thị lẫn
phạm vi hẹp đô thị - vùng ven, từ vùng ven vào nội đô, đô thị - đô thị vệ
tinh, dịch cư tại chỗ, dịch cư theo chiều sâu... Mỗi một dòng dịch cư lại
có những đặc thù riêng và tạo ra các hệ quả riêng với sự phát triển của
không gian và môi trường đô thị.
Trong tất cả các biến đổi xen cài tính chất nông thôn - đô thị, nửa
nông thôn đô thị thì làng xã vùng ven và người dân nông thôn chịu các
tác động trực tiếp và rõ nét nhất. Những tác động không phải hoàn toàn
190 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

có lợi trên cả khía cạnh xã hội, văn hoá và tổ chức không gian đô thị. Tính
đa dạng trong kiến trúc làng xã là tất yếu. Nếu chúng ta mong muốn một
hình thái kiến trúc thống nhất trong làng xã là không tưởng bởi tính đa
dạng của nhu cầu do các đối tượng ở quá khác nhau.
Cấu trúc của toàn bộ thành phố cho phép chúng ta nhận dạng các
khu phố, các bước phát triển và mô hình đô thị tương ứng với từng khu.
Tuy nhiên, quá trình đô thị hoá ở Hà Nội thời hiện đại không diễn ra đồng
đều. Ngược lại, quá trình này đang diễn ra dưới những hình thức, mức độ
và quy mô khác nhau. Có thể khái quát các hình thức đô thị hoá ở Hà Nội
theo năm mô hình chính: (1) Mô hình khu phố cũ; (2) Mô hình đô thị hóa
trong thời kì kinh tế bao cấp bao gồm các khu tập thể xã hội chủ nghĩa;
(3) Mô hình đô thị hóa sau thời kì bao cấp bao gồm: sự hình thành của các
khu công nghiệp ở các vùng ngoại vi, sự phát triển các khu đô thị mới theo
quy hoạch; (4) Sự xuất hiện và tồn tại của các xóm liều, xóm ma, xóm nhảy
dù, gọi chung là các khu cư trú bất hợp pháp của dân di cư nghèo từ vùng
nông thôn của các tỉnh lân cận đổ về Hà Nội; (5) Mô hình từ làng đến phố
hay cụ thể hơn đó là quá trình mở rộng thành phố lên các làng cổ truyền và
sự bao gồm các làng ven đô vào khu vực nội thị. Mỗi mô hình đô thị hoá
có những đặc điểm riêng về dân số học, kiến trúc, cơ sở hạ tầng, mức sống,
văn hoá tiêu dùng, cách ứng xử và lối sống khác nhau.

6.5. Tổ chức và quản lí thành phố Hà Nội


Tổ chức, quản lí và phát triển đô thị là một trong những vấn đề chiến
lược phát triển, là khâu then chốt trong quá trình hình thành bộ mặt của
Hà Nội hiện nay và tương lai, là một quá trình hoạt động của bộ máy công
quyền và các chủ thể có liên quan để đạt đến mục tiêu đảm bảo cho đô thị
phát triển ổn định, bền vững trong quá trình tạo dựng môi trường sống
thuận lợi cho dân cư đô thị, phù hợp với lợi ích quốc gia1. Hà Nội với vai
trò là Thủ đô - trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nước2, trong quá
trình phát triển, Hà Nội đã cùng với hệ thống đô thị cả nước thực hiện tốt

1
Võ Kim Cương, Quản lí đô thị thời kì chuyển đổi, Nxb Xây dựng, Hà Nội, 2004, tr.5.
2
Nguyễn Quang Ngọc, Nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức và quản lí nhà nước đặc thù của các
đô thị trực thuộc Trung ương ở nước ta, Đề tài khoa học cấp Nhà nước mã số KX02-03/06-10.
Chương 6. Đô thị và đô thị hóa nông thôn Hà Nội 191

quản lí và phát triển đô thị. Xem xét một cách khách quan, công tác tổ chức,
quản lí của Hà Nội cho đến nay đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng,
cả trên phương diện quản lí, quy hoạch phát triển. Từ 1945 đến nay, tổ chức
quản lí đô thị ở Hà Nội diễn tiến như sau:

6.5.1. Thời kì 1945 - 1957


Theo Sắc lệnh số 77 (21-12-1945), “cách tổ chức chính quyền ở các thị
xã cũng y như cách tổ chức ở các xã” và “ở mỗi thành phố sẽ đặt ba thứ
cơ quan: Hội đồng nhân dân thành phố, Uỷ ban hành chính thành phố và
Uỷ ban hành chính khu phố”.
+ Hội đồng nhân dân thành phố: do nhân dân thành phố bầu ra, có
quyền quyết định tất cả các vấn đề thuộc phạm vi thành phố. Những quyết
nghị của hội đồng nhân dân thành phố không trái với chỉ thị cấp trên.
+ Uỷ ban hành chính thành phố: do Hội đồng nhân dân thành phố
bầu ra, có nhiệm vụ thi hành mệnh lệnh của cấp trên và các nghị quyết
của Hội đồng nhân dân thành phố, kiểm soát các Uỷ ban Hành chính khu
phố, triệu tập Hội đồng nhân dân thành phố, điều khiển các viên chức
thuộc ngạch thành phố, giải quyết các việc vặt trong phạm vi thành phố,
điều khiển đội cảnh binh để lo việc tuần phòng và trị an.
+ Uỷ ban hành chính khu phố: giúp cho Uỷ ban hành chính thành
phố trong việc thi hành mệnh lệnh của cấp trên và nghị quyết của Hội
đồng nhân dân thành phố trong khu phố, thị thực các giấy tờ trong khu
phố theo quy định, đề đạt nguyện vọng của nhân dân khu phố lên Uỷ
ban hành chính thành phố.
Có thể thấy, về mặt thể thức văn bản, đây là thời kì có sự phân biệt mô
hình tổ chức chính quyền nông thôn với tổ chức chính quyền đô thị bằng
hai thể thức văn bản riêng. Chính quyền nông thôn được quy định theo
Sắc lệnh số 63 (ngày 22-11-1945), còn chính quyền đô thị được quy định
bằng Sắc lệnh số 77 (ngày 21-12-1945), trong đó có những điều khoản thể
hiện tính đặc thù của đô thị Hà Nội.
Không tổ chức địa giới hành chính lãnh thổ theo hình thái nội thị và
ngoại thị nên không có chính quyền nông thôn trong chính quyền đô thị.
Chỉ có cấp thành phố mới có cơ quan ra quyết nghị là Hội đồng nhân dân.
192 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Còn Uỷ ban hành chính được thiết lập ở cấp thành phố và ở khu phố. Uỷ
ban hành chính khu phố không phải là cấp hành chính mà là một thực thể
nhận uỷ quyền của chính quyền thành phố để thực hiện nhiệm vụ quản lí
hành chính trên một địa bàn lãnh thổ nhất định, khu vực đó gọi là khu phố.

Chính phủ
(Nội các + bộ/nha)

Cấp bộ (kì)
Uỷ ban hành chính (Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ)

TP Hà Nội TP lớn Tỉnh


(HĐND + UBHC) (HĐND + UBHC) (HĐND + UBHC)

Khu phố Khu phố Huyện


(UBHC) (UBHC) (UBHC)


Tổ dân phố tự quản Tổ dân phố tự quản
(HĐND + UBND)

Làng tự quản

Sơ đồ 6.1: Mô hình tổ chức, quản lí thành phố Hà Nội (1945-1946)1

Chính quyền thành phố Hà Nội đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
Chính phủ (hoặc Bộ Nội vụ), không trực thuộc cấp bộ (kì)2 như các đơn
vị hành chính lãnh thổ khác trên cả nước.
Tóm lại, đó là mô hình một cấp chính quyền, không có hình thái
chính quyền nông thôn trong đô thị. Mô hình này có mấy dấu hiệu đặc

1
Nguyễn Quang ngọc (2010), Nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức và quản lý nhà nước đặc thù
của các đô thị trực thuộc TW ở nước ta, Đề tài Khoa học cấp Nhà nước, Mã số KX 02-03/06-10.
2
Những năm 1945 - 1946, hệ thống hành chính gồm có 5 cấp: trung ương, bộ/kì (Bắc Bộ,
Trung Bộ, Nam Bộ), tỉnh, huyện và xã.
Chương 6. Đô thị và đô thị hóa nông thôn Hà Nội 193

trưng sau đây: (i) Toàn thành phố là một đơn vị hành lãnh thổ, dưới
thành phố không thiết lập cấp hành chính; (ii). Chính quyền thành phố
đồng thời là cấp cơ sở; (iii). Dưới thành phố là khu phố chỉ thiết lập đơn
vị hành chính thuần tuý; (iv) Không có hình thái chính quyền nông thôn
trong chính quyền đô thị; (v) Quan hệ giữa chính quyền thành phố với
Uỷ ban hành chính khu phố1 không thực hiện phân quyền mà là tản quyền;
(vi) Chính quyền thành phố Hà Nội đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
Trung ương. Mô hình này về cơ bản giống với mô hình tổ chức chính
quyền đô thị ở các nước.

6.5.2. Thời kì 1958 -1979


Sau thời kì (1954 - 1957), tổ chức chính quyền đô thị Hà Nội được
tổ chức lại theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958 (Quốc
hội thông qua ngày 24-4-1958); Hiến pháp năm 1959; Luật Tổ chức Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban Hành chính các cấp năm 1962 (Quốc hội thông
qua ngày 10-11-1962). Theo các thể chế luật pháp nêu trên, tổ chức chính
quyền thành phố Hà Nội gồm Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính.
+ Hội đồng nhân dân được thiết lập ở cấp thành phố, các khu phố nội
thành, các huyện và xã ngoại thành.
+ Uỷ ban hành chính được thiết lập ở thành phố, các khu phố nội
thành, huyện ngoại thành và các xã.
Ngày 10-4-1974, Hội đồng Chính phủ ra quyết định số 78 về việc chia
các khu phố của Hà Nội và Hải Phòng thành các tiểu khu. Mỗi tiểu khu
có quy mô từ 2000 đến 5000 nhân khẩu và tại đây thiết lập một cơ quan
đại diện hành chính của Uỷ ban Hành chính khu phố gọi là Ban đại diện
hành chính tiểu khu (xem sơ đồ 2).
Đây là hai cấp chính quyền, ba cấp hành chính và hình thái chính
quyền nông thôn trong chính quyền đô thị.

1
Tháng 5-1946, Uỷ ban hành chính thành phố Hà Nội quyết định chia Hà Nội thành 17 khu
phố nội thành (Trúc Bạch, Đồng Xuân, Thăng Long, Đông Thành, Đông Kinh Nghĩa Thục,
Hoàn Kiếm, Văn Miếu, Quán Sứ, Đại Học, Bảy Mẫu, Chợ Hôm, Lò Đúc, Hồng Hà, Long
Biên, Bạch Mai, Vạn Thái, Đồng Nhân) và 5 khu hành chính ngoại thành (Đại La, Đề Thám,
Mê Linh, Lãng Bạc, Đống Đa).
194 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Chính phủ
(Nội các + bộ/nha)

TP Hà Nội TP lớn Tỉnh/đặc khu


(HĐND + UBHC) (HĐND + UBHC) (HĐND + UBHC)

Khu phố Huyện Ngoại thành Khu phố Huyện ngoại thành Huyện
(HĐND+ UBHC) HĐND + UBHC) (HĐND+ UBHC) (HĐND+ UBHC) (HĐND + UBHC)

Tiểu khu Xã Xã Xã
(BAN ĐẠI DIỆN Tổ dân phố tự quản
HÀNH CHÍNH) (HĐND + UBHC) (HĐND + UBHC) (HĐND + UBHC)

LÀNG TỰ QUẢN

Sơ đồ 6.2: Mô hình tổ chức, quản lí TP Hà Nội (1958- 1979)1

6.5.3. Thực trạng tổ chức, quản lí của chính quyền thành phố Hà Nội hiện nay
6.5.3.1. Nhận dạng mô hình tổng thể
Mô hình tổ chức, quản lí của chính quyền thành phố Hà Nội từ năm 1980
được cấu trúc lại theo Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1983 (được sửa đổi qua các
năm 1994, 1999 và 2003). Điều 113 của Hiến pháp năm 1980 quy định:
“Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị
hành chính tương đương. Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh
và thị xã. Thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và
thị xã. Huyện chia thành xã và thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia
thành phường và xã; quận chia thành phường”. Đây là mô hình chính
quyền địa phương 3 cấp với sự nhất thể hoá chính quyền đô thị với chính
quyền nông thôn (xem Sơ đồ 3).
- Cả ba cấp: thành phố, quận, phường đều thành lập cơ quan quyết
nghị. Nhất thể hoá mô hình chính quyền đô thị với chính quyền nông thôn.
- Phân bố quyền lực trong lãnh thổ thành phố từ tản quyền được
thay thế bằng phân quyền.

1
Nguyễn Quang Ngọc (2010), Nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức và quản lý nhà nước đặc thù
của các đô thị trực thuộc TW ở nước ta, Đề tài Khoa học cấp Nhà nước, Mã số KX 02-03/06-10.
Chương 6. Đô thị và đô thị hóa nông thôn Hà Nội 195

- Tổ chức đơn vị hành chính lãnh thổ theo hình thái có nội thành và
ngoại thành nên có chính quyền nông thôn trong đô thị. Qua các lần điều
chỉnh địa giới hành chính theo hướng mở rộng nông thôn ngoại thành
như đầu những năm 80 của thế kỉ XX và năm 2008 nên hình thái này càng
ngày càng đậm nét.
- Khu phố được đổi thành quận, trở thành chính quyền trung gian
giữa chính quyền thành phố với chính quyền cơ sở.
- Uỷ ban hành chính chuyển thành Uỷ ban nhân dân, hoạt động theo
chế độ uỷ ban (không phải chế độ thủ trưởng hành chính).
- Tiểu khu chuyển thành phường. Phường trở thành chính quyền cấp
cơ sở ở khu vực đô thị nội thành.
- Phân bố quyền lực giữa trung ương - địa phương Hà Nội không có
nhiều khác biệt so với các địa phương khác.
Chính phủ
(Nội các + bộ/nha)

TP Hà Nội TP lớn Tỉnh


(HĐND + UBHC) (HĐND + UBHC) (HĐND + UBHC)

Quận Huyện Ngoại thành Quận Huyện ngoại thành Huyện


(HĐND+ UBHC) HĐND + UBHC) (HĐND+ UBHC) (HĐND+ UBHC) (HĐND + UBHC)

Phường Xã Phường Xã Xã
(HĐND+ UBHC) (HĐND + UBHC) (HĐND+ UBHC) (HĐND + UBHC) (HĐND + UBHC)

Tổ dân phố tự quản Làng bản tự quản Tổ dân phó tự quản Làng bản tự quản Làng bản tự quản

Sơ đồ 6.3: Mô hình tổ chức, quản lí TP Hà Nội từ năm 1980 đến nay1


Như vậy, so với các thời kì trước thì đến đây có sự thay đổi rất lớn
mô hình tổ chức chính quyền đô thị, đó là mô hình tổ chức chính quyền
ba cấp với sự nhất thể hoá chính quyền đô thị với chính quyền nông thôn,
với hình thái chính quyền nông thôn (rộng lớn) trong chính quyền đô thị.

1
Nguyễn Quang Ngọc (2010), Nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức và quản lý nhà nước đặc thù
của các đô thị trực thuộc TW ở nước ta. Đề tài Khoa học cấp nhà nước, Mã số KX 02-03/06-10.
196 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

6.5.3.2. Quản lí và mô hình tổ chức chính quyền đô thị ba cấp ở Hà Nội


Cơ chế vận hành của mô hình tổ chức chính quyền địa phương ba
cấp ở thành phố Hà Nội được biểu hiện ở các quan hệ sau đây:
- Về quan hệ giữa Trung ương với chính quyền địa phương thành phố Hà Nội:
Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Hiến pháp
năm 1992 được tổ chức theo chính thể đơn nhất tập quyền. Vì vậy, không
thực hiện phân quyền cho chính quyền địa phương như trong các chính
thể Liên bang hoặc chính thể đơn nhất địa phương phân quyền. Đảm bảo cho
chính thể đơn nhất tập quyền đó, chính quyền địa phương nói chung và
chính quyền đô thị Hà Nội nói riêng có chức năng: (i) Tổ chức thực hiện
các chính sách, pháp luật của Nhà nước Trung ương mà không có quyền
ban hành luật pháp địa phương; (ii) Quyết định về chủ trương, biện pháp
đối với những vấn đề mang tính địa phương với ý nghĩa cụ thể hoá luật
pháp và chính sách chung của Nhà nước Trung ương; (iii) Hội đồng nhân
dân các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương không được xem là cơ
quan lập pháp địa phương mà chỉ là cơ quan chấp pháp; (iv) Uỷ ban nhân
dân thành phố Hà Nội vừa chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân
thành phố, vừa chịu trách nhiệm trước Chính phủ.
Nguyên tắc nêu trên về cơ bản vẫn tuân thủ theo mô hình tổ chức
chính quyền địa phương của Nhà nước Xô viết trước đây với việc không
chỉ đặt chính quyền cấp dưới trong sự giám sát chặt chẽ của chính quyền
cấp trên mà còn chịu sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của cấp uỷ đảng địa
phương. Theo mô hình này, chính quyền địa phương ngoài việc chịu sự
bảo trợ của cấp trên còn chịu sự kiểm tra giám sát chặt chẽ của đại diện
Trung ương được cử về địa phương, thuở ban đầu là trực tiếp quản lí
lãnh thổ địa phương theo các quyết định của cấp trên, sau dần dần lại trở
thành người giám sát địa phương của cấp trên. Tuy vậy, đến nay nhiều
nước đã tiến hành cải cách bằng cách giảm dần sự bảo trợ của cấp trên,
trừ một số lĩnh vực hạn hữu được quy định trong luật như giáo dục, y tế,
giao thông1…

1
Nguyễn Đăng Dung, “Chính quyền địa phương và các mô hình của nó”, Kỉ yếu Hội thảo
khoa học Phương pháp luận và cách tiếp cận vấn đề xây dựng mô hình tổ chức và quản lí nhà nước
đặc thù các đô thị trực thuộc Trung ương, Hà Nội, 1-2008, tr. 31.
Chương 6. Đô thị và đô thị hóa nông thôn Hà Nội 197

Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, các đạo luật, pháp lệnh, đặc biệt là
Pháp lệnh Thủ đô, Chính phủ và các bộ/ ngành đã có nhiều nỗ lực tăng
cường năng lực lập quy theo hướng phân cấp quản lí cho chính quyền thành
phố Hà Nội. So với trước đây, văn bản lập quy về quản lí và phát triển Thủ
đô nhiều hơn về số lượng lớn, rộng lớn hơn về phạm vi điều chỉnh và có tính đến
những đặc thù của quản lí đô thị Hà Nội. Đó là các vấn đề: về quy hoạch chung,
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô; về quy định trong quản lí
tài chính - ngân sách; đất đai, nhà ở; xây dựng, kiến trúc; điện, nước; bảo vệ an
toàn mùa mưa lũ và các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội khác. Pháp lệnh Thủ
đô đã xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các cấp, các ngành trong
đầu tư, xây dựng và phát triển Thủ đô. Nghị định số 92/2005/NĐ-CP ngày
12-7-2005 về quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Thủ đô
Hà Nội đã thể chế hoá bằng các điều khoản về thẩm quyền trách nhiệm đặc
thù của Hà Nội theo hướng phân cấp mạnh mẽ hơn đối với quản lí lãnh thổ
trên các lĩnh vực từ xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô;
phát triển các ngành kinh tế dịch vụ, công nghiệp, nông nghiệp và kinh tế
ngoại thành; phát triển giáo dục - đào tạo, đặc biệt là giáo dục phổ thông
và dạy nghề; phát triển khoa học và công nghệ; phát triển văn hoá - xã hội
(văn hoá, y tế, thể dục - thể thao); quản lí quy hoạch và xây dựng đô thị;
quản lí đất đai, dân cư và môi trường; phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng
kĩ thuật đô thị; đầu tư, xây dựng và phát triển Thủ đô. Nhìn chung, phân
cấp quản lí theo Nghị định 92 đã đề cao quản lí lãnh thổ của Hà Nội, nhấn
mạnh một số đặc thù của Hà Nội trong xây dựng các chính sách đô thị.
Tuy vậy, những phân cấp quản lí nêu trên vẫn chưa thoát khỏi mô hình
của một nhà nước tập quyền. Hà Nội vẫn thiếu một địa vị pháp lí, tư cách
pháp nhân công quyền cần thiết cho quản lí lãnh thổ đóng vai trò quốc đô.
- Về quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân:
Theo Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (2003) thì
“Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân
dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và
cơ quan nhà nước cấp trên”. Thiết chế dân chủ đại diện ở địa phương này
có quyền hạn quyết định những vấn đề mang tính địa phương nhưng
không trái với pháp luật, giám sát các cơ quan hành chính và tư pháp.
Hội đồng nhân dân được thiết lập ở cả 3 cấp: tỉnh/ thành phố, quận/
198 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

huyện/ thị xã và xã/ phường/ thị trấn. Hội đồng nhân dân hoạt động
theo nguyên tắc tập trung dân chủ thông qua các kì họp, hoạt động của
Thường trực Hội đồng nhân dân và của đại biểu Hội đồng nhân dân.
Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu, là cơ quan chấp hành
của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu
trách nhiệm trước hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp
trên. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu. Uỷ ban nhân
dân hoạt động theo chế độ uỷ ban.
Với mô hình này, Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội không phải
là cơ quan lập pháp của địa phương mà thuộc cơ quan hành pháp, trước
hết có nhiệm vụ cụ thể hoá pháp luật cho phù hợp điều kiện cụ thể của
địa phương Hà Nội. Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm kép: (i) với cơ
quan hành chính cấp trên, và (ii) với hội đồng nhân dân cùng cấp. Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân không hoạt động theo chế độ thủ trưởng hành chính
mà theo chế độ uỷ ban. Người đứng đầu nền hành chính không do cử tri
thành phố bầu trực tiếp, cũng không phải do cấp trên bổ nhiệm, không có
quyền phủ quyết các quyết nghị của hội đồng nhân dân cùng cấp. Cơ chế
vận hành nêu trên về mặt nguyên lí được nhấn mạnh nhằm đảm bảo vai
trò kiểm soát của thiết chế dân chủ đại diện khu vực đô thị đối với người
đứng đầu nền hành chính, tránh tình trạng lạm quyền. Nhưng trên thực
tế, cơ chế này có mấy nhược điểm sau: (i) thông thường các hội đồng vẫn
do một nhóm lợi ích nào đó chi phối; (ii) người đứng đầu nền hành chính
ít chịu trách nhiệm hơn trước những quyết định hành chính của mình;
(iii) thời gian ban hành các quyết định hành chính thường chậm trễ, khó
linh hoạt, do phải họp bàn theo chế độ tập thể; (iv) không tạo ra được sự
kiểm soát ngược trở lại của người đứng đầu nền hành chính đối với hội
đồng nhân dân. Thực tế cho thấy, các mô hình thị trưởng do dân bầu trực
tiếp thường đưa đến cách quản lí hiệu quả hơn, chịu trách nhiệm cao hơn
và dám đương đầu với thách thức lớn hơn so với những thị trưởng do
cấp trên bổ nhiệm hoặc do hội đồng cùng cấp bầu ra.
- Về mối quan hệ giữa các cấp chính quyền trong lãnh thổ Hà Nội:
Như mọi tỉnh/ thành khác trên cả nước, lãnh thổ thành phố Hà Nội
được tổ chức theo Điều 118 của Hiến pháp năm 1992: tỉnh chia thành
huyện, thành phố thuộc tỉnh, và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương
Chương 6. Đô thị và đô thị hóa nông thôn Hà Nội 199

chia thành quận, huyện và thị xã; huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố
thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Các
thành tố cấu thành chính quyền thành phố Hà Nội được tổ chức và vận
hành dựa trên nguyên lí tổ chức hành chính lãnh thổ nêu trên.
Cụ thể, với thành phố Hà Nội, dưới thành phố có các cấp quận/ huyện
và phường/ xã đều thiết lập hội đồng nhân dân do dân trực tiếp bầu ra,
được gọi là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, hoạt động một
cách hình thức. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của chính quyền quận và
phường là bản sao của chính quyền cấp thành phố. Thành phố có cơ cấu
nào thì cấp quận và phường đều có cơ cấu đó. Cách tổ chức hành chính
lãnh thổ đô thị nêu trên dẫn tới mấy hệ luỵ sau đây: (i) Đầu mối tổ chức
các cơ quan chuyên môn của uỷ ban nhân dân các cấp trong thành phố
nặng nề, nhiều tầng nấc, tầng trên chồng lên tầng dưới, nảy sinh tình
trạng quan liêu; (ii) Không phân biệt đơn vị hành chính thuần tuý nhận tản
quyền từ chính quyền thành phố với đơn vị hành chính - lãnh thổ được thiết
lập trên một cộng đồng lãnh thổ và dân cư được hình thành một cách tự
nhiên, bền vững, với sự phân quyền rõ ràng, để phản ánh nhu cầu của
cộng đồng cư dân khác mà pháp luật và quyết định quản lí của nhà nước
cấp trên không có điều kiện thể hiện; (iii) Cắt rời không gian đô thị thành
nhiều đơn vị hành chính - lãnh thổ, gây ra tình trạng thiếu thống nhất
trong quy hoạch và quản lí lãnh thổ giữa cấp dưới với cấp trên, giữa quận
này với quận khác, giữa ngành này với ngành khác.
Trước thực trạng đó, từ năm 1990 đến nay, thành phố Hà Nội đã tiến
hành nhiều đợt cải cách hành chính với các nội dung: (i) tinh giản bộ máy
quản lí, (ii) đơn giản hoá thủ tục hành chính, (iii) phân cấp quản lí với sự
kết hợp cả phân cấp theo “trục ngang” và phân cấp theo “trục dọc” gắn
với cải cách chế độ làm việc.
+ Tinh giản bộ máy do nảy sinh từ bộ máy quản lí đô thị nhiều tầng
nấc nêu trên, được tiến hành 4 đợt bằng sáp nhập các bộ phận chuyên môn
theo hướng quản lí đa ngành/ đa lĩnh vực.
+ Cải cách chế độ làm việc theo hướng tăng cường trách nhiệm người
đứng đầu nền hành chính và cải cách thủ tục hành chính theo hướng
giản đơn, hiệu quả, giảm đầu mối, tránh chồng chéo chức năng, thực
hiện phân công phân nhiệm với trách nhiệm cụ thể. Uỷ ban nhân dân
200 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Thành phố thực hiện chỉ đạo điều hành công tác hàng năm, sáu tháng,
từng quý, từng tháng. Mỗi tháng Uỷ ban nhân dân Thành phố tiến hành
họp định kì một lần để xem xét, đánh giá các công việc chung của thành
phố trong tháng, đồng thời thảo luận chương trình công tác tháng tiếp
theo. Trong trường hợp cần thiết hoặc thật đặc biệt, Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân Thành phố có quyền triệu tập các cuộc họp bất thường. Các phiên
họp của Uỷ ban nhân dân Thành phố chỉ được tiến hành khi có đủ 2/3
tổng số thành viên của Uỷ ban nhân dân Thành phố nhằm đảm bảo tính
dân chủ. Từ 1990 đã định hình chế độ báo cáo - đây là điểm mới đáng chú
ý. Đó là chế độ báo cáo hàng ngày của Văn phòng uỷ ban; hàng tuần các
Phó Chủ tịch nghe Chánh Văn phòng Uỷ ban nhân dân báo cáo; hàng
tháng Uỷ ban nhân dân họp để kiểm điểm tình hình. Uỷ ban Nhân dân
phải báo cáo lên Thường trực Hội đồng nhân dân Thành phố hàng tuần.
Uỷ ban nhân dân Thành phố giữ mối quan hệ chặt chẽ với giám đốc các
sở và chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã. Năm 1995, thực hiện
cải cách hành chính, Uỷ ban nhân dân Thành phố lại ban hành Quy chế
làm việc của Uỷ ban Nhân dân thành phố, nhiệm kì 1994 - 1999, có sự phân
định quyền hạn, nhiệm vụ giữa tập thể Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân Thành phố. Một số quyền trước đây thuộc tập thể Uỷ ban
nhân dân Thành phố đã được chuyển giao cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
đảm trách như: Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản sai trái
của các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân Thành phố và Uỷ
ban nhân dân cấp dưới, phê chuẩn nghị quyết bầu cử của Hội đồng nhân
dân quận, huyện. Việc tăng quyền điều hành của Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân Thành phố đã giúp giải quyết công việc nhanh chóng, hiệu quả hơn.

Câu hỏi thảo luận


1. Quá trình hình thành, biến đổi và đặc điểm đô thị hoá của Thăng
Long - Hà Nội cổ truyền?
2. Quy hoạch đô thị Hà Nội thời Cận - Hiện đại?
3. Đặc điểm của đô thị hoá nông thôn ngoại thành Hà Nội hiện nay?
Liên hệ xu hướng đô thị hoá tác động đến công tác quản lí về đất đai hiện
nay như thế nào?
4. Nhận xét về mô hình tổ chức và quản lý Thành phố Hà Nội?
Chương 7
MỘT SỐ THÀNH TỰU CỦA HÀ NỘI
TRONG 30 NĂM ĐỔI MỚI

Thủ đô Hà Nội có vị trí địa lí - chính trị quan trọng, có ưu thế đặc biệt
hơn các địa phương khác trong cả nước. “Hà Nội là trái tim của cả nước,
đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa
học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế”1­­­­­ . Hà Nội đi tiên phong trong
công cuộc đổi mới, nền kinh tế Thủ đô cùng cả nước ngày càng hội nhập
sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Nhìn lại quãng đường 30 năm
(1986-2016), Thủ đô Hà Nội đã có những bước chuyển mình kì diệu và
đạt được nhiều thành tựu tiêu biểu trên tất cả các lĩnh vực. Dưới đây
chúng tôi chỉ xin được giới thiệu quy gọn trong một số lĩnh vực kinh tế -
xã hội, văn hoá - giáo dục và hoạt động đối ngoại của Thủ đô.

7.1. Thành tựu phát triển kinh tế - xã hội


Thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế lớn nhất phía Bắc và đứng thứ
hai của cả nước, sau Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay, tổng sản phẩm
trên địa bàn (GRDP) của Hà Nội chiếm tỉ trọng 10% cả nước, đóng góp
hơn 16% tổng thu ngân sách nhà nước, tập trung phát triển kinh tế thị
trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa (XHCN); nâng cao chất lượng, hiệu
quả và sức cạnh tranh của kinh tế Thủ đô. Sau ba mươi năm, kinh tế Thủ
đô tăng trưởng vượt bậc: tốc độ tăng GDP, từ mức 4,48% giai đoạn 5 năm
đầu đổi mới (1986-1990), tăng lên mức 9,3% giai đoạn (2009-2015). GDP
bình quân đầu người năm 2015, tăng gấp gần 6,4 lần so với năm 19902.

1
Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 15/12/2000 của Bộ Chính trị.
2
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khóa XV tại Đại hội đại biểu lần
thứ XVI Đảng bộ thành phố Hà Nội của Đảng bộ thành phố Hà Nội, 2015.
202 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: từ công nghiệp - nông
nghiệp - dịch vụ, sang dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, gắn với phát
triển kinh tế tri thức.

7.1.1. Giai đoạn từ 1986 đến trước khi mở rộng địa giới hành chính năm 2008
Bước vào kế hoạch 5 năm 1986-1990, kinh tế của Thủ đô lâm vào tình
trạng khủng hoảng kéo dài và mất cân đối nghiêm trọng do hậu quả của cơ
chế kế hoạch hoá tập trung. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội
giai đoạn này được tiến hành chủ yếu bằng việc đổi mới cơ chế quản lí
kinh tế theo định hướng chuyển cơ chế quản lí kế hoạch hoá tập trung cao
độ sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước, chuyển từ kinh tế
bao cấp sang sử dụng qui luật giá trị của sản xuất hàng hoá, tự hạch toán;
chuyển từ phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể sang phát triển
kinh tế nhiều thành phần, hoạt động kinh tế đối ngoại theo phương châm
đa dạng hoá, đa phương hoá. Nhờ vậy, đến năm 1990, Hà Nội cơ bản đã
xoá bỏ cơ chế quản lí cũ và xác lập cơ chế quản lí mới, nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần đã hình thành, tạo động lực thúc đẩy kinh tế Thủ
đô không ngừng tăng trưởng, tạo đà cho các năm tiếp theo.
Trong thời kì 1986-1990, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa
bàn (GRDP) bình quân hàng năm đạt 4,5%, trong đó kinh tế nhà nước
tăng 5,2%; kinh tế ngoài nhà nước tăng 2,8%; giá trị sản xuất nông nghiệp
năm 1989 đã tăng 24,0% so với năm 1985; sản lượng lúa năm 1989 đạt
trên 426,8 nghìn tấn, tăng 14,9% so với năm 1986. Do sản xuất lương thực
phát triển, nên mặc dù dân số tăng, sản lượng lúa bình quân đầu người của
Hà Nội vẫn tăng từ 132 kg (năm 1986) lên 142 kg (năm 1989); trồng trọt phát
triển đã tạo điều kiện đẩy mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm. Năm 1989, đàn
trâu có 52,8 nghìn con, tăng 6,2% so với năm 1986; đàn bò có 91,3 nghìn con,
tăng 43,7%; đàn lợn có 480,7 nghìn con, tăng 2,7%. Giá trị tổng sản lượng
công nghiệp trên địa bàn năm 1989 tăng 3,9% so với năm 1986.1
Giai đoạn 5 năm từ năm 1991 đến năm 1995, Hà Nội lần đầu tiên
đạt và vượt kế hoạch, trong đó có nhiều mục tiêu hoàn thành vượt mức

1
Thành uỷ, HĐND, UBND (2015), 60 năm giải phóng thủ đô: thành tựu, thời cơ, thách thức và
phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Chương 7. Một số thành tựu của Hà Nội trong 30 năm đổi mới 203

và trước thời hạn. Kinh tế Thủ đô không chỉ khắc phục được tình trạng
đình đốn, mà còn liên tục tăng trưởng cao. Tổng sản phẩm trên địa bàn
tăng bình quân 12,5% năm. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14,3% năm,
giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản tăng 3,9%, kim ngạch xuất khẩu tăng
16,5% năm. Tổng vốn đầu tư trong 5 năm đạt 32 nghìn tỉ đồng.
Kế hoạch 5 năm 1996-2000 được tiến hành trong lúc công cuộc đổi
mới đang được tiến hành toàn diện và dần dần đi vào chiều sâu, là thời
kì bắt đầu đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá với yêu cầu hoàn
thành vượt mức chỉ tiêu kinh tế xã hội 10 năm 1991-2000, tạo tiền đề vững
chắc bước vào thế kỉ XXI. Trong thời kì này, kinh tế Hà Nội đã đạt được
những kết quả khá nổi bật, GRDP năm 2000 bằng 1,66 lần so với năm
1995 và bằng 3,8 lần năm 1985; bình quân giai đoạn 1996-2000 tăng 10,7%,
vốn đầu xây dựng cơ bản tăng 17,3% năm.1
Bảng 7.1: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu giai đoạn 1996-2000 2

Tên chỉ tiêu Đơn vị tính 1996 1997 1998 1999 2000
1. Tổng sản phẩm trên địa bàn (giá so
Tỉ đồng 13582 15613 17128 18288 19999
sánh 1994)
Chia ra:
- Nông, lâm, thuỷ sản 696 725 732 728 776
- Công nghiệp-Xây dựng 4361 5162 5794 6437 7178
- Dịch vụ 8525 9726 10602 11123 12045
2. Giá trị sản xuất công nghiệp (giá so
Tỉ đồng 0351 12172 13865 14919 17298
sánh 1994)
3. Giá trị sản xuất nông nghiệp (giá so
Tỉ đồng 1084 1155 1196 1252 1320
sánh 1994)
4. Kim ngạch xuất khẩu Triệu USD 1038 1201 1235 1375 1402
5. Dân số Người 2395,9 2467,2 2553,7 2688,0 2737,3
6. Giáo dục phổ thông
- Trường Trường
+ Tiểu học 253 262 265 267 267
+ Trung học cơ sở 212 221 222 223 226

1
Thành uỷ, HĐND, UBND, 60 năm giải phóng thủ đô: thành tựu, thời cơ, thách thức và phát triển,
Sđd, tr.668.
2
Cục Thống kê thành phố Hà Nội, 2001.
204 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

+ Trung học phổ thông 51 62 72 82 103


- Giáo viên Giáo viên
+ Tiểu học 7115 7366 7530 7626 8229
+ Trung học cơ sở 7814 8371 8936 8940 9319
+ Trung học phổ thông 2647 3455 4083 4576 5147
- Học sinh Học sinh
+ Tiểu học 226269 233193 231130 231075 228275
+ Trung học cơ sở 189884 186759 182819 171693 169105
+ Trung học phổ thông 54442 82413 91939 94855 103743

Thời kì 2001-2005, kinh tế Thủ đô tiếp tục phát triển nhanh, cơ cấu
kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân thời kì 2001- 2005
đạt 11,3%. Cơ cấu kinh tế mới hình thành từ sau đổi mới chuyển biến
tích cực theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Tỉ trọng
trong cơ cấu của ngành nông, lâm, thuỷ sản giảm từ 3,0% (năm 2000)
xuống còn 1,6% (năm 2005); ngành công nghiệp - xây dựng từ 37%
(năm 2000) tăng lên 40,8% (năm 2005). Cơ cấu kinh tế nội ngành, cơ
cấu sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cũng chuyển dịch theo hướng tăng tỉ
trọng các ngành, sản phẩm có chất lượng cao và xuất khẩu.
Bảng 7.2. Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu giai đoạn 2001-2005 1

Tên chỉ tiêu Đơn vị tính 2001 2002 2003 2004 2005
1. Tổng sản phẩm trên địa bàn (giá so
Tỉ đồng 2004 24654 27472 30653 34150
sánh 1994)
Chia ra:
- Nông, lâm, thuỷ sản 785 843 860 845 860
- Công nghiệp-Xây dựng 7841 8894 10423 11867 13124
- Dịch vụ 13379 14917 16189 17941 20166
2. Giá trị sản xuất công nghiệp (giá so
Tỉ đồng 19662 25230 30474 36598 41643
sánh 1994)
3. Giá trị sản xuất nông nghiệp (giá so
Tỉ đồng 1334 1392 1433 1443 1479
sánh 1994)
4. Kim ngạch xuất khẩu Triệu USD 1502 1641 1819 2311 2861

1
Cục Thống kê thành phố Hà Nội, 2006.
Chương 7. Một số thành tựu của Hà Nội trong 30 năm đổi mới 205

Giá trị sản xuất công nghiệp 5 năm từ 2001-2005 bình quân tăng
18,6%/ năm. Hoạt động thương mại, dịch vụ cũng khá phát triển. Hà Nội
đã phát huy thế mạnh của một trung tâm thương mại, dịch vụ, du lịch
của vùng đồng bằng sông Hồng và của cả nước với hơn 60 siêu thị và
trung tâm thương mại, gần 300 cửa hàng tự chọn và 600 văn phòng đại
diện thương nhân của nước ngoài. Với 104 công ty du lịch, 663 khách sạn,
nhà nghỉ, 13,3 nghìn buồng và 20,4 nghìn giường, hàng năm Hà Nội đã
thu hút được từ 3 đến 5 triệu khách du lịch, trong đó từ 0,5 đến 1,1 triệu
khách quốc tế. Trong điều kiện diện tích canh tác đang dần bị thu hẹp,
các cây và phương pháp canh tác truyền thống không còn có ảnh hưởng
nhiều đến tăng năng suất, nông nghiệp Thủ đô đã có bước chuyển biến
lớn về cơ cấu sản phẩm. Kinh tế trang trại phát triển khá, góp phần chuyển
hướng nông nghiệp Thủ đô theo hướng sản xuất hàng hoá có chất lượng.
Năm 2006 và 2007, tổng sản phẩm trên địa bàn Hà Nội có tốc độ tăng
khá (so với năm trước, năm 2006 tăng 11,5%, năm 2007 tăng 12,07%).
Trong sản xuất nông nghiệp, cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao nên
mặc dù diện tích canh tác liên tục giảm nhưng tốc độ tăng giá trị sản xuất
và giá trị tăng thêm vẫn tăng so với năm trước. Đồng thời, do giá gia súc
gia cầm tăng, chăn nuôi có lãi nên nông dân không ngừng mở rộng sản
xuất. Sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng cao ở tất cả các thành phần
kinh tế, đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực kinh
tế ngoài nhà nước do một số doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng sản
xuất, đồng thời nhiều doanh nghiệp mới thành lập bắt đầu đi vào sản
xuất. Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã mạnh dạn đầu tư chiều sâu, đổi
mới qui trình công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, phấn đấu
giảm chi phí đầu vào để tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước
và xuất khẩu. Trong năm 2007, có 54 doanh nghiệp nhà nước trung ương
và 38 doanh nghiệp nhà nước địa phương đã đầu tư gần 1200 tỉ đồng,
trong đó đầu tư cho nhà xưởng gần 700 tỉ đồng, đầu tư cho máy móc thiết
bị 500 tỉ đồng.

7.1.2. Giai đoạn sau khi mở rộng địa giới hành chính đến nay (2009- 2015)
Năm 2008, thực hiện nghị quyết số 15/2008/QH12 ngày 29-5-2008
có hiệu lực từ 1-8-2008 về việc mở rộng địa giới hành chính, Thủ đô
206 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Hà Nội đã chính thức mở ra trang mới trong lịch sử phát triển ngàn năm
của Thăng Long - Hà Nội. Với việc hợp nhất toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện
Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình và
Yên Trung của huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình, Hà Nội được mở rộng
hơn 3 lần về diện tích, hơn 2 lần về dân số và là Thủ đô lớn thứ 17 trên
thế giới.
Thành phố Hà Nội ngày nay là một đô thị lớn với 30 đơn vị hành
chính, gồm 12 quận 1 thị xã và 17 huyện với diện tích là 3.324,5 km2, dân
số khoảng 7,1 triệu người. Sau hơn 5 năm thực hiện việc mở rộng địa giới
hành chính Thủ đô, trên từng lĩnh vực, Hà Nội đã đạt được những kết
quả đáng khích lệ. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng với tốc độ khá. Năm 2009,
tổng sản phẩm trên địa bàn tăng 7,5% so năm trước, giá trị sản xuất công
nghiệp tăng 13,1%, vốn đầu tư xã hội tăng 18,8%... Bình quân 5 năm giai
đoạn 2011-2015 tổng sản phẩm trên địa bàn tăng 9,2%/ năm (trong đó:
ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng 2,2%/ năm, ngành công nghiệp -
xây dựng tăng 8,8%/ năm, các ngành dịch vụ tăng 10,1%/ năm). Tổng sản
phẩm trên địa bàn bình quân đầu người đạt 77 triệu đồng/ người. Kim
ngạch xuất khẩu bình quân tăng 8,2%/ năm. Vốn đầu tư xã hội bình quân
tăng 15,2%/ năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng
dần tỉ trọng ngành dịch vụ, công nghiệp và xây dựng, giảm dần tỉ trọng
ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản.
Tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân đầu người tăng nhanh. Năm
2008, tổng sản phẩm bình quân đầu người của Hà Nội (cũ) là 42,2 triệu
đồng/ người, của Hà Tây (cũ) và Mê Linh là 10,8 triệu đồng/ người, tính
chung của Hà Nội mới là 28,1 triệu đồng/ người. Năm 2010 tăng lên 37,1
triệu đồng, năm 2013 tăng lên đến 63,3 triệu đồng/ người. Sau 5 năm, từ
năm 2009 đến năm 2013, chỉ tiêu này tăng 125,3%, cao hơn tốc độ tăng giá
tiêu dùng cùng thời kì (tốc độ tăng giá tiêu dùng thời kì này là 61,7%) và
năm 2015 là 77 triệu đồng/ người.
Số lượng cơ sở sản xuất công nghiệp của Hà Nội năm 2008 sau khi
sáp nhập tăng thêm 80 nghìn cơ sở sản xuất công nghiệp từ Hà Tây (cũ) và
huyện Mê Linh, tăng gấp 5,6 lần so với trước đây. Đến năm 2013, Hà Nội
có 131 doanh nghiệp nhà nước, 97,7 nghìn cơ sở sản xuất ngoài nhà nước
Chương 7. Một số thành tựu của Hà Nội trong 30 năm đổi mới 207

và 410 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia. Thêm vào đó là
23 khu công nghiệp và 83 cụm công nghiệp vừa và nhỏ đã tạo nên một nền
tảng vững chắc cho việc phát triển ngành công nghiệp của Thành phố.
Ngành xây dựng tăng trưởng liên tục, giá trị tăng thêm giai đoạn
2011- 2015 tăng bình quân 10,6%/ năm. Trong thời gian này, nhiều công
trình hạ tầng kinh tế xã hội, công trình giao thông, khu đô thị… được đầu
tư xây dựng góp phần từng bước hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng, đẩy mạnh
thu hút đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong giai đoạn này, Thành
phố đã xây dựng mới 11,8 triệu m2 nhà ở, diện tích nhà ở cao cấp, quĩ nhà
ở di dân, quĩ nhà ở xã hội ngày càng tăng. Các dịch vụ công cộng thiết yếu
như điện, nước, được tăng cường, cung cấp dịch vụ với chất lượng tốt tới
người dân.
Công tác huy động vốn đầu tư trên địa bàn được đẩy mạnh: Năm
2015 tổng vốn đầu tư xã hội đạt 353 nghìn tỉ đồng (giá hiện hành) (gấp 2,8 lần
so năm 2008). Đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2009-2015 thu hút
được hơn 1,3 nghìn dự án với số vốn đăng kí 3,4 tỉ USD.
Các ngành dịch vụ tăng trưởng cao, giá trị tăng thêm giai đoạn
2011-2015 tăng bình quân 10,1%/ năm. Đây là ngành chiếm tỉ trọng lớn
trong tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), có tác dụng làm hạt nhân
đóng góp vào mức tăng chung của kinh tế Thủ đô.
Lĩnh vực thương mại tiếp tục được chú trọng phát triển. Hạ tầng
thương mại được đầu tư, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ
duy trì tăng trưởng khá, trung bình hàng năm tăng 23%. Kim ngạch xuất
khẩu tăng bình quân 15,2%, hoạt động thương mại quốc tế ngày càng
được mở rộng với khoảng trên 2000 doanh nghiệp.
Giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản năm 2013 gấp 1,2 lần năm 2009.
Năm 2013, giá trị sản phẩm thu hoạch trên 1 ha đất trồng trọt và nuôi
trồng thuỷ sản đạt 100 triệu đồng/ ha cao gấp 1,73 lần năm 2008. Ngành
nông nghiệp chuyển đổi cơ cấu theo hướng tích cực, giảm dần tỉ trọng
ngành trồng trọt, tăng dần tỉ trọng ngành chăn nuôi, thuỷ sản và dịch vụ
nông nghiệp. Ngành trồng trọt giảm tỉ trọng từ 48,5 % (năm 2008) xuống
còn 45,5 % (năm 2013), chăn nuôi tăng tỉ trọng từ 49% (năm 2008) lên
50,3% (năm 2013), thuỷ sản tăng từ 3,9% (năm 2008) lên 7,9% (năm 2013).
208 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Bảng 7.3. Cơ cấu tổng sản phẩm trên địa bàn giai đoạn 2009-20151
Đơn vị tính: %
Năm 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Chia theo khu vực kinh tế
- Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 6,2 5,8 5,9 5,5 4,9 4,7 4,5
- Công nghiệp và xây dựng 41,5 41,8 41,7 41,5 41,7 41,6 41,5
- Dịch vụ 52,3 52,4 52,4 53,0 53,4 53,7 54,0
Chia theo thành phần kinh tế
- Kinh tế Nhà nước 44,3 43,5 43,4 43,5 43,6 43,5 43,3
- Kinh tế ngoài Nhà nước 37,7 38,2 38,5 38,7 38,9 39,0 39,1
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 16,4 16,7 16,6 16,6 16,5 16,5 16,6
- Thuế nhập khẩu 1,6 1,6 1,5 1,2 1,0 1,0 1,0
Hà Nội tiếp tục phát huy thế mạnh là một trung tâm du lịch của cả
nước, là nơi trung chuyển khách du lịch đi các tỉnh phía Bắc. Sau khi sáp
nhập, Hà Nội có thêm nhiều điểm du lịch nổi tiếng như chùa Hương, chùa
Thầy, đền Thượng, đền Và, làng cổ Đường Lâm, Ao Vua, Đầm Long… Đây
là những yếu tố quan trọng để Hà Nội phát triển ngành du lịch. Hạ tầng
du lịch được đầu tư phát triển. Hiện nay, Hà Nội có khoảng 750 khách sạn,
nhà nghỉ với 24,4 nghìn phòng, trong đó có khoảng 200 khách sạn được
xếp hạng, công suất buồng phòng luôn đạt 80%. Hà Nội tiếp tục là nơi thu
hút khách du lịch quốc tế lớn của cả nước. Bên cạnh đó, các ngành dịch vụ
có giá trị gia tăng lớn, trình độ cao, chất lượng cao tiếp tục được phát triển.
Giai đoạn từ 2011 – 2015: Tổng sản phẩm trên địa bàn Hà Nội bình
quân ước tăng 9,23%, gấp 1,58 lần mức tăng bình quân chung của cả
nước2. Quy mô GRDP năm 2015 theo giá hiện hành ước đạt khoảng
27,6 tỷ USD, bình quân thu nhập đầu người khoảng 3.600 USD, tăng gấp
1,8 lần so với năm 2010. Các ngành kinh tế được phục hồi và tiếp tục tăng
trưởng, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực: tỷ trọng
ngành dịch vụ chiếm 54%, công nghiệp - xây dựng chiếm 41,5% và nông
nghiệp là 4,5%; các nhóm ngành đều có mức tăng trưởng khá3:

1
Cục Thống kê thành phố Hà Nội, 2016.
2
GRDP tính theo cách cũ; GDP cả nước dự kiến tăng 5,82%.
3
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khóa XV tại Đại hội đại biểu lần
thứ XVI Đảng bộ thành phố Hà Nội của Đảng bộ thành phố Hà Nội, 2015.
Chương 7. Một số thành tựu của Hà Nội trong 30 năm đổi mới 209

- Ngành dịch vụ tiếp tục có mức tăng trưởng cao, bình quân 5 năm
ước tăng 9,97%; kim ngạch xuất khẩu tăng 8,1%; nhập khẩu tăng 3,7%.
Các ngành dịch vụ chất lượng cao, trình độ cao có mức tăng trưởng cao
hơn so với toàn ngành1. Du lịch phát triển mạnh, đóng góp tích cực vào
tăng trưởng chung2.
- Ngành công nghiệp - xây dựng được phục hồi, tiếp tục duy trì tốc
độ tăng trưởng khá, bình quân 5 năm ước tăng 9%. Bước đầu hình thành
một số khu công nghệ cao hoạt động hiệu quả; công nghiệp chế biến, chế
tạo, công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin phát triển mạnh3; các khu,
cụm công nghiệp đóng góp quan trọng vào phát triển chung của ngành4,
công nghiệp hỗ trợ được đẩy mạnh. Các làng nghề, phố nghề truyền
thống từng bước được củng cố, xây dựng thương hiệu sản phẩm5.
- Ngành nông nghiệp đạt kết quả tích cực, bình quân ước tăng 2,4%/
năm, cao hơn so với chỉ tiêu đặt ra, giá trị sản xuất ước đạt 231 triệu
đồng/ha đất canh tác, tăng 1,24 lần so với năm 2010. Cơ cấu nội ngành
nông nghiệp tiếp tục chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng trồng
trọt, tăng tỷ trọng chăn nuôi, chế biến và dịch vụ nông nghiệp6. Phát triển
nông nghiệp sinh thái, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, nâng cao
năng suất, bảo đảm hiệu quả, bền vững. Hình thành và mở rộng một số
vùng sản xuất hàng hóa tập trung có giá trị kinh tế cao7; đã có nhiều cánh
đồng mẫu lớn sản xuất lúa, hoa, cây ăn quả chất lượng cao, giá trị sản
xuất lớn, đạt từ 1 - 2 tỷ đồng/ha8.

1
Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm; thông tin và truyền thông chiếm 15% GRDP,
tăng trung bình 12,3%.
2
Du lịch chiếm 3,2% GRDP, tăng hàng năm 11%.
3
Chiếm trên 14% GTSX công nghiệp chế biến, chế tạo, tăng trung bình trên 20%/năm; đóng
góp trên 20% kim ngạch xuất khẩu với kim ngạch tăng trên 5%/năm.
4
Tạo ra khoảng 40% giá trị sản xuất công nghiệp, 45% kim ngạch xuất khẩu.
5 Thành phố hiện có 1.350 làng nghề và làng có nghề, chiếm gần 59% tổng số làng trên địa bàn
(47/52 nghề của toàn quốc).
6
Năm 2010, trồng trọt chiếm 43,0%, chăn nuôi chiếm 47,0%; năm 2014 tương ứng giảm còn
40,4% và 46,4%; dịch vụ tăng từ 3,5% lên 4,7% và thủy sản từ 6,2% lên 8,3%.
7
Phát triển ổn định 69 xã chăn nuôi trọng điểm, hình thành 24 khu chăn nuôi tập trung, quy mô
lớn ngoài khu dân cư; 5000 ha rau an toàn tập trung được quản lý; duy trì ổn định 34 vùng sản
xuất lúa hàng hóa với tổng diện tích 25.000 ha, trong đó có gần 6.000 ha lúa chất lượng cao.
8
Tại các huyện Mê Linh, Hoài Đức, Đan Phượng, Đông Anh...
210 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN của Thủ đô tiếp tục được
hoàn thiện; các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển và có
sự biến đổi tích cực về tỷ trọng: kinh tế nhà nước khoảng 43,6%; kinh tế
ngoài nhà nước 38,9%; kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 16,5%.
Cơ bản hoàn thành kế hoạch sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước giai đoạn 2011 - 2015.
Việc hợp tác, liên kết phát triển kinh tế Vùng được quan tâm, gắn với nâng
cao năng lực cạnh tranh, phát huy thế mạnh ở từng địa phương và trong
toàn vùng. Tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng khu vực ngoại thành, kết
nối hạ tầng giữa Hà Nội và các địa phương trong Vùng. Liên kết, hợp tác
với các tỉnh, thành phố trong cả nước, đặc biệt là liên kết phát triển du
lịch giữa Thủ đô với Vùng đồng bằng sông Hồng đạt kết quả tích cực. Hà
Nội thực hiện tốt vai trò là trung tâm tài chính - ngân hàng, dịch vụ chất
lượng cao của khu vực phía Bắc và cả nước. Chương trình hội nhập kinh
tế quốc tế được chỉ đạo thực hiện có hiệu quả. Sức cạnh tranh của kinh tế
Thủ đô từng bước được nâng lên.
Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đẩy mạnh xã hội hóa, tập
trung cho đầu tư phát triển. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn 5 năm
đạt trên 1 triệu 400 ngàn tỷ đồng, đạt kế hoạch và tăng gấp gần 2 lần giai
đoạn 2006-2010. Đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút được 1.080 dự án,
với tổng số vốn đăng ký gần 3 tỷ USD. Thực hiện chủ trương xã hội hóa
đầu tư đạt kết quả tích cực, nhất là lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế1.
Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt và vượt dự toán: 5 năm 2011-2015,
tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt 714,5 ngàn tỷ đồng, tỷ lệ tăng
bình quân khoảng 7,1%/năm. Chi ngân sách địa phương gần 273 ngàn tỷ
đồng, tỷ lệ tăng bình quân 7,7%/năm, bảo đảm cân đối chi thường xuyên
và ưu tiên tập trung cho đầu tư phát triển. Trong đó, chi đầu tư phát triển
bằng 45,04%, chi thường xuyên bằng 52,38% tổng chi ngân sách2.

1
92 dự án đầu tư lĩnh vực GD ngoài công lập, quy mô đăng ký trên 13.200 tỷ đồng; 18 BV đã
hoàn thành đi vào hoạt động, 25 dự án đầu tư BV ngoài công lập đang triển khai, thu hút
266 tỷ đồng thực hiện 41 đề án XHH tại các cơ sở y tế công lập.
2
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khóa XV tại Đại hội đại biểu lần thứ XVI
Đảng bộ thành phố Hà Nội của Đảng bộ thành phố Hà Nội, 2015.
Chương 7. Một số thành tựu của Hà Nội trong 30 năm đổi mới 211

Hoạt động y tế được quan tâm phát triển mở rộng cả về chiều rộng
và chiều sâu. Hà Nội là một trong hai thành phố có mạng lưới y tế quy
mô lớn nhất cả nước, tập trung nhiều bệnh viện đa khoa và chuyên khoa,
là nơi có mật độ các cơ sở y tế công lập dày đặc nhất cả nước. Ở đây
tập trung số lượng lớn với 19 bệnh viện đầu ngành trong cả nước, như:
Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện Phụ sản trung ương,
Bệnh viện K, Bệnh viện Nhi Trung ương… Năm 2012, trên địa bàn thành
phố Hà Nội có 737 cơ sở y tế, chia ra: 70 bệnh viện, 60 phòng khám đa
khoa, 8 phòng khám chuyên khoa, 4 nhà hộ sinh, 577 trạm y tế xã phường
và một số cơ sở khám chữa bệnh khác. Số cán bộ y tế làm việc tại các cơ
sở y tế là 36,1 nghìn người, trong đó: 377 người có trình độ tiến sỹ y khoa
và dược khoa, 1828 người có trình độ chuyên khoa I, II y khoa và dược
1616 người có trình độ thạc sỹ, 7660 người có trình độ bác sỹ, dược sỹ đại
học và cử nhân y tế công cộng. Tỉ lệ y, bác sỹ có trình độ chuyên môn cao
tập trung nhiều ở các bệnh viện trung ương, chiếm 46,1% số y bác sỹ có
trình độ từ đại học trở lên của toàn ngành y Hà Nội. Đây là một ưu thế
của Hà Nội trong việc chăm sóc sức khỏe người dân Thủ đô, tuy nhiên
cũng là nguyên nhân gây nên sự quá tải tại một số bệnh viện do lượng
bệnh nhân từ các quận, huyện trong Thành phố và từ các địa phương
trong cả nước dồn về khám chữa bệnh tại các bệnh viện này.
Công tác y tế và chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân có nhiều
tiến bộ. Đã thực hiện các giải pháp đồng bộ, tích cực để từng bước khắc
phục tình trạng quá tải của các bệnh viện. Tăng cường đầu tư xây dựng,
cải tạo, nâng cấp, mua sắm trang thiết bị cho các bệnh viện, nhất là bệnh
viện tuyến huyện. Giai đoạn 2011 - 2015, Thành phố đã đầu tư trên 3.068
tỷ đồng từ ngân sách để cải tạo, nâng cấp, mua sắm trang thiết bị cho 49
dự án của 37 bệnh viện trên địa bàn. Chất lượng khám, chữa bệnh được
nâng lên; đã thực hiện thành công một số kỹ thuật mới1. Hệ thống y tế
cơ sở và mạng lưới y tế dự phòng được củng cố, tăng cường cả về đội

1
Ứng dụng kỹ thuật cao trong mổ nội soi tiêu hoá, phẫu thuật chấn thương sọ não, nối mạch
máu, can thiệp tim mạch, ghép tạng, thụ tinh trong ống nghiệm, sàng lọc sơ sinh, sàng lọc
trước sinh, xạ trị và nút mạch siêu chọn lọc trong ung thư gan. Triển khai phẫu thuật nội
soi ở các bệnh viện tuyến huyện và thực hiện quyết định của Thủ tướng Chính phủ về luân
phiên có nghĩa vụ đối với cán bộ y tế.
212 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

ngũ cán bộ, cơ sở vật chất và trang thiết bị1. Chất lượng y tế cộng đồng có
chuyển biến; dịch bệnh được kiểm soát; công tác kiểm tra, giám sát bảo
đảm vệ sinh an toàn thực phẩm được tiến hành thường xuyên, không để
xảy ra ngộ độc lớn trên địa bàn.
Công tác dân số, gia đình được chú trọng, bảo đảm ổn định mức tăng
dân số tự nhiên và từng bước nâng cao chất lượng dân số. Việc chăm sóc
sức khỏe, bảo trợ, nuôi dưỡng trẻ em, nhất là trẻ em có hoàn cảnh khó
khăn được quan tâm; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm đáng
kể, còn dưới 10%. Thực hiện tốt các chương trình hành động vì sự tiến bộ
của phụ nữ, bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình.
Thể dục, thể thao (TDTT) Thủ đô tiếp tục phát triển, khẳng định vị trí
dẫn đầu cả nước, là đơn vị chủ lực của thể thao thành tích cao Việt Nam
tại các đấu trường khu vực và quốc tế2. Cơ sở vật chất đầu tư cho hoạt
động TDTT được tăng cường. Phong trào TDTT quần chúng phát triển
mạnh. Việc giáo dục thể chất cho thế hệ trẻ ngày càng được quan tâm.
Công tác xã hội hóa lĩnh vực TDTT được thực hiện có hiệu quả.
Các chương trình, đề án, kế hoạch về giải quyết việc làm, dạy nghề cho lao
động, nhất là lao động nông thôn, phát triển thị trường lao động được
thực hiện có hiệu quả. Bình quân mỗi năm đào tạo nghề, truyền nghề cho
trên 15 vạn lao động và giải quyết việc làm cho 14 vạn lượt lao động; tỷ
lệ thất nghiệp còn dưới 4,8%. Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tự nguyện
trong nhân dân tiếp tục mở rộng và phát triển.
Giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội. Nhiều chương trình, chính sách
giảm nghèo, hỗ trợ người tàn tật, người có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt,
v.v... được triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả, góp phần ổn định
đời sống vật chất, tinh thần của các đối tượng trên. Tỷ lệ hộ nghèo cuối
năm 2015 giảm xuống còn 1,71%3.

1
100% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế; tỷ lệ bác sỹ/1 vạn dân tăng lên 11,5;
số giường bệnh/1 vạn dân tăng lên 21,3.
2
Hà Nội luôn đóng góp khoảng 30% tổng số HLV, VĐV và thành tích của các đoàn VĐV Việt
Nam tham dự Đại hội TT thế giới và khu vực.
3
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khóa XV tại Đại hội đại biểu lần thứ XVI
Đảng bộ thành phố Hà Nội của Đảng bộ thành phố Hà Nội, 2015.
Chương 7. Một số thành tựu của Hà Nội trong 30 năm đổi mới 213

Công tác đấu tranh phòng, chống và đẩy lùi các tệ nạn xã hội được thực
hiện quyết liệt. Mô hình xã, phường, địa bàn dân cư, cơ quan, trường
học không có tệ nạn xã hội được nhân rộng. Chất lượng quản lý, giáo
dục, chữa trị tại các trung tâm chữa bệnh và giáo dục lao động xã hội của
Thành phố được nâng cao.
Chất lượng cuộc sống của nhân dân Thủ đô, đặc biệt là khu vực nông
thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc ít người được cải thiện. Việc hỗ
trợ các đối tượng chính sách xã hội và thực hiện chính sách đối với người
có công, chính sách dân tộc được triển khai thực hiện có hiệu quả1. Phong
trào “đền ơn, đáp nghĩa” được đẩy mạnh, huy động được nhiều tổ chức,
cá nhân tham gia.
Chất lượng lao động ngày càng được cải thiện: Lực lượng lao động
của thành phố Hà Nội thuộc loại trẻ và liên tục được bổ sung bởi số người
đến tuổi lao động nhập cư từ các tỉnh lân cận, số lao động có độ tuổi từ 15
đến 34 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất, chiếm 57,7%; tiếp theo là nhóm có độ tuổi
từ 35 đến 55 tuổi, chiếm 37,8%; từ 56 đến 60 tuổi chiếm 3,2%; số còn lại là
lao động dưới 15 tuổi và từ 60 tuổi trở lên. Với lực lượng lao động trẻ, Hà
Nội có lợi thế trong việc thu hút vốn đầu tư, phát triển kinh tế, đặc biệt
là những ngành và khu vực kinh tế mới hình thành. Năm 2009, tỉ lệ lao
động đã qua đào tạo đạt 31,1%; năm 2011 tăng lên 38,7% và năm 2013 là
46,2%. Đây là một lợi thế của Hà Nội trong việc phát triển những ngành
và lĩnh vực cần phải sử dụng lao động có chất lượng cao.
Như vậy, trong thời kì đổi mới từ năm 1985 trở lại đây, Hà Nội đã đạt
được những thành tích nổi bật: so với năm 1985, hầu hết các chỉ tiêu kinh
tế xã hội năm 2015 đều tăng: năm 2015 so với năm 1985, tổng sản phẩm
trên địa bàn gấp 12,2 lần; đạt bình quân đầu người năm 2015 là 77 triệu
đồng; giá trị sản xuất công nghiệp gấp 28,7 lần; sản lượng điện thương
phẩm gấp hơn 10 lần; sản lượng lương thực có hạt gấp 8,3 lần; kim ngạch
xuất khẩu điạ phương gấp 79,9 lần... Quan hệ sản xuất mới ngày càng
được củng cố và phát triển. Chủ trương sắp xếp, chấn chỉnh hoạt động

1
Số hộ nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế ước đạt 245.842 hộ, hỗ trợ học nghề ước đạt 12.718 hộ,
hỗ trợ xây dựng và sửa chữa nhà ở 4.755 hộ. Hàng năm thực hiện trợ cấp thường xuyên cho
300.452 người. Cơ bản hộ nghèo không còn nhà dột nát, xuống cấp.
214 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

của các doanh nghiệp và thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
được chỉ đạo thực hiện quyết liệt, có hiệu quả. Kinh tế nhà nước phát huy
vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể được củng cố; kinh tế tư nhân và kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài phát triển mạnh, có đóng góp ngày càng quan
trọng. Chú trọng phát triển y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân; bảo đảm
an sinh xã hội, nhất là giảm nghèo, giải quyết việc làm, chăm sóc các đối
tượng chính sách xã hội, trước hết là người có công với cách mạng,... đời
sống vật chất và tinh thần, chất lượng cuộc sống của nhân dân Thủ đô
được cải thiện rõ rệt.
Sau 30 năm đổi mới, công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát
triển đô thị có tiến bộ vượt bậc, diện mạo Thủ đô ngày càng đổi mới,
khang trang, văn minh, hiện đại. Hạ tầng kỹ thuật và xã hội từ đô thị đến
nông thôn phát triển theo hướng đồng bộ, cơ bản đáp ứng yêu cầu đẩy
mạnh CNH, HĐH và đòi hỏi cấp bách của quá trình đô thị hóa nhanh,
đặc biệt là từ sau khi Thủ đô được điều chỉnh, mở rộng địa giới hành
chính, với quy mô dân số tăng hơn 1,5 lần và diện tích tự nhiên tăng gấp
3,6 lần so với Hà Nội trước đây.

7.2. Thành tựu về văn hoá - giáo dục

7.2.1. Về văn hóa


Cùng với phát triển kinh tế - xã hội, Hà Nội tiếp tục đạt được thành
tựu nổi bật trong sự nghiệp phát triển văn hoá, giáo dục, tạo nên sức
mạnh và độ bền vững của quá trình phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô.
Môi trường văn hoá Thủ đô chuyển biến tích cực, văn hoá ở nơi công
cộng được cải thiện, văn minh xã hội được nâng lên một bước. Hà Nội là
địa phương đảm bảo tốt các điều kiện phúc lợi xã hội cho sự phát triển
con người. Công tác quản lí văn hoá, bảo tồn, tôn tạo các di sản văn hoá
vật thể và phi vật thể được tăng cường có hiệu quả. Cuộc vận động toàn
dân xây dựng đời sống văn hoá, xây dựng người Hà Nội văn minh, thanh
lịch có kết quả khả quan. Cùng với đó là phong trào xây dựng Thủ đô văn
minh - xanh - sạch - đẹp được tuyên truyền rộng rãi.
Thành phố đã ngày càng làm tốt công tác giữ gìn, bảo tồn, phát huy
giá trị các di sản lịch sử, văn hoá. Kể từ khi sáp nhập, đã xây dựng mới và
Chương 7. Một số thành tựu của Hà Nội trong 30 năm đổi mới 215

nâng cấp nhiều cơ sở vật chất về văn hoá, thông tin ở cấp xã, phường như
nhà văn hoá xã/phường, điểm sinh hoạt văn hoá ở các khu dân cư… phù
hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Hoàn thành
xây dựng Bảo tàng Hà Nội, công viên, tượng đài Thành phố vì Hoà bình…
Nâng cấp các di tích lịch sử, công trình văn hoá: bảo tồn, tôn tạo khu Hoàng
thành Thăng Long, khu di tích thành cổ Hà Nội, khu di tích thành Cổ Loa;
bảo tồn, cải tạo khu phố cổ, khu di tích đền Sóc, Thành cổ Sơn Tây… Một
số di sản được công nhận là Di sản văn hoá thế giới (Hoàng thành Thăng
Long), Di sản văn hoá phi vật thể tiêu biểu của nhân loại (Hát Ca trù và
Hội Gióng ở đền Sóc và đền Phù Đổng), Di sản văn hoá quốc gia đặc biệt.
Chất lượng của các hoạt động văn hoá, văn nghệ ngày càng được
đổi mới và nâng cao; sản phẩm văn hoá, văn học nghệ thuật phong
phú, đa dạng. Thành phố Hà Nội với vai trò là cơ quan thường trực chủ
trì đã tổ chức thành công nhiều sự kiện chính trị, văn hoá lớn của đất
nước và Thủ đô, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người dân cả nước
và bạn bè quốc tế về một bề dày nghìn năm văn hiến cần được chăm lo,
giữ gìn và phát huy.
Văn hóa tiếp tục phát triển, một số mặt chuyển biến tích cực; thực hiện
tốt các chủ trương về nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa ở cơ sở;
đời sống văn hóa, tinh thần của các tầng lớp nhân dân Thủ đô được
cải thiện rõ rệt. Hệ thống các thiết chế văn hóa được quan tâm đầu tư,
hoàn thiện, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển văn hóa của
cộng đồng và bảo tồn bản sắc văn hoá các dân tộc. Công tác quản lý nhà
nước về văn hóa được tăng cường.
Việc bảo tồn, tôn tạo, nghiên cứu, giới thiệu, quảng bá, phát huy
giá trị di sản văn hóa được tiến hành đồng bộ và có chuyển biến tích
cực. Hoạt động văn học, nghệ thuật, giao lưu văn hóa trong nước, khu
vực và quốc tế tiếp tục mở rộng, phục vụ tốt yêu cầu nhiệm vụ chính
trị và đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, góp phần nâng cao vị
thế và uy tín của Thủ đô.
Hoạt động báo chí, xuất bản, truyền thông tiếp tục phát triển và
đạt kết quả tích cực, góp phần phát huy dân chủ, định hướng dư luận
xã hội, thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
216 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

quốc phòng - an ninh của Thành phố. Quản lý nhà nước về bưu chính,
viễn thông, dịch vụ Internet từng bước đi vào nền nếp.
Xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh được chú trọng và đạt kết quả
đáng ghi nhận. Nhiều phong trào, hoạt động xây dựng mô hình văn hóa ở
cơ sở tiếp tục được triển khai đạt kết quả tốt; những giá trị, nét đẹp văn hoá
của người Hà Nội thanh lịch, văn minh, truyền thống trong gia đình, họ
tộc và cộng đồng dân cư được kế thừa, phát huy1. Nếp sống văn hoá, văn
minh đô thị, nhất là trong việc cưới, việc tang, tổ chức lễ hội có chuyển biến
tốt. Nhiều phong trào thi đua được duy trì và đi vào nề nếp như phong
trào “Người tốt, việc tốt”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hoá”, “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”; tổ chức xét chọn và vinh danh “Công dân Thủ đô ưu tú”… đã thực
sự phát huy hiệu quả, tác động sâu rộng đến từng con người, gia đình, cơ
quan, đơn vị; những giá trị, nét đẹp văn hoá của người Hà Nội thanh lịch,
văn minh, truyền thống trong gia đình, họ tộc và cộng đồng dân cư được
kế thừa và phát huy. Xây dựng bộ quy tắc ứng xử văn minh nơi công cộng
và đưa vào giảng dạy bộ tài liệu giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh
cho học sinh Thủ đô,... đã góp phần nâng cao nhận thức, khơi dậy niềm tự
hào, điều chỉnh hành vi của người Hà Nội, nhất là thế hệ trẻ.
Hoạt động giao lưu, hợp tác về văn hoá giữa Hà Nội với các tỉnh,
thành phố trong nước và quốc tế có nhiều khởi sắc góp phần giới thiệu,
quảng bá rộng rãi về vùng đất văn hoá và con người Thủ đô, về bản sắc
văn hoá Thăng Long - Hà Nội, nét đẹp của người Hà Nội thanh lịch, văn
minh ra nước ngoài và tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại. Thủ
đô Hà Nội thực sự là nơi hội tụ, giao thoa, chắt lọc và lan toả các giá trị
văn hoá của dân tộc.

7.2.2. Về giáo dục và đào tạo


Trong những năm qua, giáo dục - đào tạo của Thủ đô đã có bước
phát triển mạnh mẽ cả về quy mô và chất lượng theo hướng bảo đảm chất

1
Đã có 85% gia đình được công nhận và giữ vững danh hiệu Gia đình văn hoá, 55% làng
được công nhận và giữ vững danh hiệu Làng văn hoá, 70% tổ dân phố được công nhận và
giữ vững danh hiệu Tổ dân phố văn hoá.
Chương 7. Một số thành tựu của Hà Nội trong 30 năm đổi mới 217

lượng giáo dục toàn diện, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập
của nhân dân, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội Thủ đô. Đến nay, Hà Nội đã có 50% số trường đạt chuẩn quốc gia,
hoàn thành xoá phòng học tạm và phòng học nhà cấp 4; đi đầu trong phổ
cập giáo dục. Mô hình trường chất lượng cao được nhân rộng với mục
tiêu đạt 35 trường chất lượng cao năm 2015. Cơ sở vật chất, trang thiết bị
và nguồn kinh phí đầu tư cho giáo dục và đào tạo được tăng cường. Chi
ngân sách cho giáo dục - đào tạo năm 2013 là 9.538 tỉ đồng, chiếm 15,8%
tổng chi ngân sách (gấp 3 lần năm 2008). Ngoài ra, hệ thống các trường,
cơ sở dạy nghề, trung học chuyên nghiệp cũng lớn mạnh vượt bậc. Việc
liên kết giữa doanh nghiệp với cơ sở đào tạo nghề để phát triển nguồn
nhân lực ngày một chặt chẽ. Tỉ lệ lao động qua đào tạo của Hà Nội tăng
khá nhanh, từ 38,7% năm 2011 lên 49,7% năm 2014 và năm 2015 đạt 55%.
Quy mô, chất lượng giáo dục tiếp tục được giữ vững và mở rộng ở
một số bậc học, ngành học; tỉ lệ trẻ trong độ tuổi vào mẫu giáo đạt 77%;
tỉ lệ học sinh vào lớp 6 đạt 100%; tỉ lệ học sinh tốt nghiệp THCS đạt 98,4%;
100% số giáo viên phổ thông (trên 23 nghìn người) đạt trình độ chuẩn và
trên chuẩn. Năm 2015, tỉ lệ trẻ em trong độ tuổi vào mẫu giáo đạt 80%,
tỉ lệ học sinh vào lớp 6 đạt 100%.
Bảng 7.4. Bảng số liệu về Giáo dục phổ thông giai đoạn 1996-2000 1

Giáo dục phổ thông Đơn vị tính 1996 1997 1998 1999 2000
- Trường Trường
+ Tiểu học 253 262 265 267 267
+ Trung học cơ sở 212 221 222 223 226
+ Trung học phổ thông 51 62 72 82 103
- Giáo viên Giáo viên
+ Tiểu học 7115 7366 7530 7626 8229
+ Trung học cơ sở 7814 8371 8936 8940 9319
+ Trung học phổ thông 2647 3455 4083 4576 5147
- Học sinh Học sinh
+ Tiểu học 226269 233193 231130 231075 228275
+ Trung học cơ sở 189884 186759 182819 171693 169105
+ Trung học phổ thông 54442 82413 91939 94855 103743

1
Cục Thống kê thành phố Hà Nội, 2001.
218 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Bảng 7.5. Bảng số liệu về Giáo dục phổ thông giai đoạn 2001-20051

Tên chỉ tiêu Đơn vị tính 2001 2002 2003 2004 2005
1. Dân số Người 2790,8 2926,6 3007,5 3088,7 3182,7
Chia ra:
- Nam 1396,9 1463,2, 1505,3 1545,7 1592,8
- Nữ 1393,9 1463,4 1502,2 1543,0 1589,9
- Thành thị 1614,0 1699,1 1731,6 2019,9 2078,8
- Nông thôn 1176,8 1227,5 1275,9 1068,8 1103,9
2. Giáo dục phổ thông
- Trường Trường
+ Tiểu học 270 272 273 274 274
+ Trung học cơ sở 223 213 212 213 218
+ Trung học phổ thông 103 100 98 96 98
- Giáo viên Giáo viên
+ Tiểu học 8365 8382 8611 8819 8811
+ Trung học cơ sở 9355 9520 9620 9713 9788
+ Trung học phổ thông 5084 4931 4940 4986 5098
- Học sinh Học sinh
+ Tiểu học 224932 218568 214823 207224 203475
+ Trung học cơ sở 173651 179604 182477 185484 180278
+ Trung học phổ thông 100536 100221 100606 103300 108532

Giáo dục và đào tạo Thủ đô tiếp tục được đổi mới, phát triển, dẫn đầu
cả nước về các tiêu chí: quy mô giáo dục, mạng lưới trường lớp và chất
lượng giáo dục toàn diện, giáo dục mũi nhọn, số học sinh đạt giải cao
trong các kì thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế. Chất lượng đội ngũ nhà
giáo, cán bộ quản lí giáo dục được nâng lên, 100% giáo viên đứng lớp có
trình độ đạt chuẩn theo quy định. Công tác tuyển sinh vào các lớp đầu
cấp được phân tuyến hợp lí hơn. Cơ sở vật chất, trang thiết bị và nguồn
kinh phí đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo được tăng cường; 50%
trường đạt chuẩn quốc gia; hoàn thành xoá phòng học tạm và phòng học
nhà cấp 4; 100% quận, huyện đã đạt chuẩn phổ cập mầm non 5 tuổi (vượt
trước 2 năm so với toàn quốc), phổ cập trung học cơ sở đạt 99,36%, phổ
cập trung học phổ thông đạt 90%. Công tác xã hội hoá giáo dục được đẩy
mạnh nhất là bậc trung học và đại học, chú trọng công tác khuyến học,
từng bước xây dựng xã hội học tập. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo
dục, đào tạo được mở rộng.

1
Cục Thống kê thành phố Hà Nội, 2006.
Chương 7. Một số thành tựu của Hà Nội trong 30 năm đổi mới 219

Công tác đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực có chất lượng cao của Thành phố được coi trọng. Đã xây dựng và
triển khai thực hiện 4 đề án nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong
lĩnh vực khoa học và công nghệ; xây dựng cơ chế đào tạo, sử dụng đội
ngũ trí thức, nhân lực có trình độ cao, tay nghề cao, Việt kiều và chuyên
gia nước ngoài. Việc liên kết giữa doanh nghiệp với cơ sở sử dụng lao
động, cơ sở đào tạo để phát triển nguồn nhân lực ngày càng chặt chẽ hơn.
Văn hóa – giáo dục đạt được nhiều kết quả quan trọng, nổi bật trên
các lĩnh vực: quản lý nhà nước, phát triển sự nghiệp văn hóa; bảo tồn,
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Nhiều di sản của Hà Nội được
quốc tế công nhận là di sản văn hóa thế giới. Xây dựng người Hà Nội
thanh lịch, văn minh; phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ;… Mạng lưới các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tiếp tục
được hoàn thiện; Trường Đại học Thủ đô Hà Nội được Thủ tướng Chính
phủ quyết định thành lập cuối tháng 12-2014; công tác đào tạo nghề được
đẩy mạnh cả về hình thức, loại hình, quy mô và chất lượng.

7.3. Thành tựu về hoạt động đối ngoại


Quan hệ đối ngoại của Thủ đô Hà Nội ngày càng rộng mở, phong
phú, đa dạng về chủ thể, đối tượng và lĩnh vực1: đối ngoại chính trị, đối
ngoại kinh tế, đối ngoại văn hoá, đối ngoại nhà nước, đối ngoại đoàn thể,
đối ngoại nhân dân. Trong đó, đối ngoại kinh tế là trọng tâm, đối ngoại
nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Hà Nội là nơi thay mặt cả nước đón tiếp bạn bè từ khắp năm châu.
Hàng năm, Hà Nội đã đón tiếp hàng trăm đoàn khách quốc tế. Riêng khách
du lịch nước ngoài ngày càng tăng2. Những khu vực và quốc gia có nhiều
khách du lịch đến Hà Nội là châu Âu, Nhật Bản, Mĩ, Trung Quốc, Úc,… và
từ năm 2000 có thêm khách từ các nước ASEAN. Hà Nội trở thành điểm
đến hấp dẫn, an toàn đối với các nhà đầu tư và du khách quốc tế. Từ nhiều
nơi trên thế giới, ngày càng có nhiều đoàn khách đến làm việc và đặt mối
quan hệ với thành phố Hà Nội. Đến năm 2010, Hà Nội đã thu hút hơn

1
Vũ Quang Hiển, Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng vì hoà bình, sđd, tr.144.
2
Tốc độ tăng bình quân lượng khách quốc tế đến Hà Nội giai đoạn 1991 - 1995 là 35,6%/năm,
giai đoạn 1996 - 2000: 18,3%, giai đoạn 2001 - 2005 hơn 20%.
220 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

40 quốc gia và vùng lãnh thổ, với hàng trăm tập đoàn, công ty nước ngoài đến
tìm kiếm cơ hội đầu tư và kinh doanh bằng việc đầu tư vốn trực tiếp (FDI).
Hiện nay, Hà Nội có quan hệ hữu nghị và hợp tác với hơn 100 thủ đô,
thành phố, là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế có uy tín trên thế giới,
như: Hiệp hội Các thành phố lớn trên thế giới (Metropolis), Hiệp hội Các
thị trưởng các thành phố có sử dụng tiếng Pháp trên thế giới (AIMF), Mạng
lưới Các thành phố lớn châu Á thế kỉ XXI (ANMC21), Mạng lưới Các chính
quyền địa phương về quản lí cư dân, giải quyết các vấn đề về con người
(CITYNET), Hiệp hội Các thành phố có lịch sử lâu đời (LHC)... Qua đó, Hà
Nội có thông tin và kinh nghiệm hợp tác và hỗ trợ trong các vấn đề về xây
dựng và quản lí đô thị, liên kết đô thị vùng và toàn cầu, hợp tác kinh tế,
giao lưu văn hoá. Nhiều cam kết hợp tác song phương, đa phương được
kí kết và triển khai có hiệu quả. Hà Nội đã thu hút được hơn 20,5 tỉ USD
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, xuất khẩu hàng hoá sang gần 200 khu vực
thị trường của các quốc gia và vũng lãnh thổ. Quan hệ hữu nghị, hợp tác
với các đối tác được củng cố và tăng cường; kinh tế đối ngoại tiếp tục phát
triển. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài được chú trọng.
Hà Nội là thành phố chủ nhà tổ chức nhiều hội nghị quan trọng như:
Hội nghị Khu vực CITYNET (2001), Hội nghị Toàn thể lần thứ ba mạng lưới
ANMC 21 (2003)… phối hợp với các cơ quan Trung ương tổ chức nhiều hội
nghị, hội thảo, đại hội quốc tế như Hội nghị Các nước có sử dụng tiếng
Pháp (11-1997), Hội nghị Thượng đỉnh, cấp cao định kì của ASEAN nhiều
lần ở Thủ đô, Hội nghị Châu Á - Hoa Kì (4-2003), SEAGAMES, ASEM 5
(10-2004), APEC 2006... Hà Nội đã làm tốt công tác tổ chức đón tiếp, bố trí
nơi ăn ở, bảo vệ, thăm xã giao cho khách quốc tế, đảm bảo an ninh, trật tự
an toàn, đặc biệt là thái độ hiếu khách, thân thiện, lịch sự… góp phần vào
thành công chung. Hoạt động đối ngoại nhân dân giúp cho bạn bè quốc tế
hiểu biết hơn về con người và văn hoá Hà Nội, tăng cường các mối quan hệ
vốn có, xây dựng hình ảnh một Hà Nội thân thiện, cởi mở, góp phần nâng
cao vị thế của Việt Nam và Hà Nội trên trường quốc tế1. Thành phố đã chủ

1
Năm 2011, Hà Nội được Tạp chí Travel and Leisure bình chọn là một trong 5 Thành phố du
lịch tốt nhất châu Á. Năm 2012, trang tin Arapbian Business bình chọn Hà Nội là một trong
25 điểm đến hấp dẫn nhất thế giới. Năm 2013, lọt vào Top 10 điểm đến hấp dẫn hàng đầu
châu Á do độc giả Tạp chí Smart Travel Asia bình chọn. Năm 2014, được tổ chức TripAdvisor
bình chọn đứng thứ 8 trong 10 Thành phố thu hút khách du lịch hàng đầu thế giới; xếp thứ
2 trong danh sách 25 điểm đến hấp dẫn các du khách nhất.
Chương 7. Một số thành tựu của Hà Nội trong 30 năm đổi mới 221

động, tích cực, tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương, sự phối hợp, hợp tác
của các bộ, ban, ngành, quan hệ hợp tác cùng phát triển trên các mặt kinh
tế - xã hội, quốc phòng, an ninh giữa Thủ đô với các tỉnh, thành phố trong
cả nước đạt kết quả tốt, đối ngoại được mở rộng, tăng cường; niềm tin của
nhân dân đối với công cuộc đổi mới, đối với sự nghiệp xây dựng, phát
triển Thủ đô và đất nước được củng cố.
Bên cạnh những hoạt động đối ngoại chính trị - văn hoá, Hà Nội
ngày càng đặt trọng tâm vào đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Theo định hướng đó, công tác đối ngoại của Thủ đô Hà Nội đã chú trọng
nghiên cứu, thông tin, tuyên truyền đối ngoại, nhằm tìm hiểu đối tác, tiếp
cận thị trường. Trong 20 năm 1986 - 2006, kim ngạch xuất khẩu của Hà Nội
tăng bình quân 21,66% hàng năm. Nhiều mặt hàng do Hà Nội sản xuất
từng bước chiếm lĩnh thị trường của các nước EU, ASEAN, Nhật Bản.
Để tích cực, chủ động đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
Hà Nội đã chủ động thông tin, tuyên truyền về các vấn đề liên quan đến
hội nhập kinh tế quốc tế, nỗ lực đẩy mạnh xúc tiến thương mại mở thêm
nhiều văn phòng giao dịch thương mại tại các thị trường trọng điểm,
như: Hoa Kì, Nhật Bản, châu Phi, Trung Quốc, châu Âu.
Thủ đô Hà Nội là một trong những thành phố đứng đầu cả nước
về số dự án cũng như tổng vốn đăng kí đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ
năm 1989 đến hết năm 2004, Hà Nội đã thu hút được 687 dự án đầu tư
nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng kí 9.965,1 triệu USD, tổng số vốn
thực hiện đạt 3.942,4 triệu USD, thu hút khoảng 26 nghìn lao động, nộp
ngân sách hơn 1 tỉ USD. Năm 2005, Hà Nội thu hút được 152 dự án đầu
tư nước ngoài, với tổng vốn đạt 1.847 triệu USD (tăng 5,3 lần so với năm
2004), trong đó đáng kể hơn là Dự án khu đô thị mới Tây Hồ Tây trị giá
314 triệu USD. Các dự án vốn FDI góp phần làm tăng năng lực sản xuất,
thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, mở ra nhiều ngành nghề và sản phẩm công nghiệp mới của
Hà Nội như lắp ráp, sản xuất ô tô, xe máy, ti vi và các hàng điện tử, hàng
công nghiệp cao cấp khác. Vốn FDI đã bổ sung cho nguồn vốn đầu tư
xã hội, mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu
nhập của người lao động.
222 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Bên cạnh quan hệ với các thành phố và thủ đô trên thế giới, Hà Nội
còn có mối quan hệ với nhiều tổ chức quốc tế: WB (Ngân hàng Thế giới),
UN (Liên hợp quốc), UNICEF (Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc), FAO (Tổ
chức Nông nghiệp và Lương thực của Liên hợp quốc), UNAIDS (Chương
trình chung về HIV - AIDS của Liên hợp quốc), UNFPA (Quỹ Dân số của
Liên hợp quốc), UNESCO (Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục của
Liên hợp quốc), WHO (Tổ chức Y tế Thế giới), IMF (Quỹ Tiền tệ Quốc tế),
ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam Á)… Thực hiện chủ trương tăng
cường quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa Hà Nội với các nước ASEAN,
đại diện của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội đã tham gia Hội nghị
Thượng đỉnh trao đổi khu vực Châu Á - Kyushu lần 2 (gồm có 13 đoàn
đại biểu từ 7 quốc gia ở châu Á) tại Manila (10-1995).
Thời mở cửa và hội nhập, Thủ đô Hà Nội đã xây dựng và thực thi
một chiến lược đối ngoại đạt được những thành tựu quan trọng. Đó là cơ
sở để Thủ đô tiếp tục củng cố và phát huy, mở rộng, nâng cao và đi vào
chiều sâu chất lượng hoạt động đối ngoại, theo phương châm chung: Hà
Nội là bạn với tất cả các thủ đô và thành phố trên thế giới, đa phương
hoá, đa dạng hoá các hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế trên
cơ sở phát huy nội lực và bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc.
Chính trị - xã hội trên địa bàn luôn ổn định; quốc phòng, an ninh
được củng cố vững chắc; đối ngoại được mở rộng, tăng cường; niềm tin
của nhân dân đối với Đảng, đối với công cuộc đổi mới, đối với sự nghiệp
xây dựng, phát triển Thủ đô và đất nước được củng cố. Vị thế, uy tín của
Thủ đô ngày càng được nâng cao đối với nhân dân trong nước và bạn bè
quốc tế.

Câu hỏi thảo luận


1. Trình bày những thành tựu tiêu biểu của Hà Nội qua 30 năm
đổi mới (1986-2016)?
2. Phân tích những điều kiện thuận lợi để Hà Nội đạt được những
thành tựu lo lớn trong phát triển kinh tế - xã hội?
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Quản lí di tích và danh thắng Hà Nội (2000), Di tích lịch sử văn hoá
Hà Nội, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Du lịch (2006), Tài liệu bồi
dưỡng kiến thức định kì cho hướng dẫn viên du lịch.
3. Cục Thống kê thành phố Hà Nội (2013), Niên giám thống kê Hà Nội 2013.
4. Đại Việt Sử kí toàn thư, (1993), (4 tập), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. Đảng bộ thành phố Hà Nội, Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XVI Đảng
bộ thành phố Hà Nội nhiệm kì 2015-2020.
6. Đảng bộ thành phố Hà Nội, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ
Thành phố khoá XV tại Đại hội đại biểu lần thứ XVI Đảng bộ thành phố Hà Nội.
7. Đỗ Quang Hưng (Chủ biên) (2010), Đời sống tôn giáo tín ngưỡng Thăng
Long - Hà Nội, Nxb. Hà Nội.
8. Đỗ Xuân Sâm (2010), Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và môi
trường trong định hướng phát triển không gian Thủ đô Hà Nội, Nxb. Hà Nội.
9. Lê Trung Vũ (2006), Hội làng Hà Nội, Nxb Văn hoá - Thông tin và Viện
Văn hoá, Hà Nội.
10. Lê Xuân Tùng (Chủ biên) (2010), Bách khoa thư Hà Nội (18 tập), Nxb. Thời
đại, Hà Nội.
11. Lưu Minh Trị, Vũ Quang Du (Đồng Chủ biên) (2006), Di tích cách mạng
kháng chiến ở Hà Nội, Nxb. Hà Nội.
12. Ngô Quang Toàn (Chủ biên) (1989), Địa chất nhóm tờ thành phố Hà Nội.
13. Nguyễn Chí Bền (Chủ biên) (2010), Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hoá vật thể Thăng Long - Hà Nội, Nxb. Hà Nội.
14. Nguyễn Đăng Dung, “Chính quyền địa phương và các mô hình của nó”;
Kỉ yếu hội thảo khoa học Phương pháp luận và cách tiếp cận vấn đề xây dựng
mô hình tổ chức và quản lí nhà nước đặc thù các đô thị trực thuộc Trung ương,
Hà Nội, 1-2008.
15. Nguyễn Đức Ngữ, Nguyễn Trọng Hiệu (2004), Tài nguyên khí hậu Việt Nam,
Nxb. Khoa học Kĩ thuật, Hà Nội.
16. Nguyễn Quang Ân (2003), Việt Nam: những thay đổi địa danh và địa giới
hành chính 1945-2002, Nxb. Thông tấn.
17. Nguyễn Quang Ngọc (Chủ trì) (2012), Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội,
Nxb. Hà Nội.
18. Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên) (2016), Không gian khu trung tâm Hoàng
thành Thăng Long: Tư liệu và nhận thức, Nxb. Hà Nội.
19. Nguyễn Quang Ngọc, Nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức và quản lí nhà
nước đặc thù của các đô thị trực thuộc Trung ương ở nước ta, Đề tài khoa học
cấp Nhà nước mã số KX02-03/06-10.
20. Nguyễn Thị Bích Hà (2010), Hà Nội, con người, lịch sử, văn hoá, Nxb. Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
21. Nguyễn Thụy Loan (Chủ biên) (2010), Tục ngữ, ca dao, dân ca Hà Nội,
Nxb Hà Nội.
22. Nguyễn Viết Thịnh (Chủ biên) (2017), Địa lí Hà Nội, Nxb. Hà Nội.
23. Nguyễn Vinh Phúc, Nguyễn Duy Hinh (2006), Thần tích Hà Nội và tín
ngưỡng dân gian, Nxb. Hà Nội.
24. Nguyễn Vinh Phúc (Chủ biên) (2005), Lịch sử Thăng Long - Hà Nội, Nxb. Trẻ.
25. Phạm Đình Hổ (1972), Vũ Trung tuỳ bút, Nxb. Văn học, Hà Nội.
26. Phạm Tất Dong (Chủ biên) (2010), Những phẩm chất nhân cách đặc trưng
của người Thăng Long - Hà Nội, Nxb. Hà Nội.
27. Phan Huy Lê (Chủ biên) (2011), Lịch sử Thăng Long - Hà Nội, (2 tập), Nxb.
Hà Nội.
28. Phan Huy Lê (Chủ biên) (2016), Phan Đại Doãn, Nguyễn Quang Ngọc,
Lương Ninh, Trần Quốc Vượng, Lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội.
29. Phan Huy Lê (Chủ biên) (2016), Nguyễn Thừa Hỷ, Nguyễn Quang
Ngọc, Nguyễn Hải Kế, Vũ Văn Quân, Lịch sử Việt Nam, tập II, Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội.
30. Phùng Hữu Phú (Chủ biên) (2010), Phát huy tiềm lực tự nhiên, kinh tế, xã
hội và giá trị lịch sử - văn hoá phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội đến năm
2020, Nxb. Hà Nội.
31. Quyết định số 1081/QĐ-TTg ngày 6/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội
đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
Tài liệu tham khảo 225

32. Thành uỷ, HĐND, UBND, UBMTTQVN thành phố Hà Nội (2015), 60
năm giải phóng Thủ đô: Thành tựu, thời cơ, thách thức và phát triển, Nxb.
Chính trị Quốc gia.
33. Thành uỷ, HĐND, UBND, UBMTTQVN thành phố Hà Nội, Đại học
Quốc gia Hà Nội (2015), Thủ đô Hà Nội Truyền thống, nguồn lực, định
hướng phát triển, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Thành uỷ Hà Nội (2017), Hà Nội - 30 năm đổi mới, phát triển (1986-2016),
Nxb. Hà Nội.
35. Thăng Long - Hà Nội: Tuyển tập các công trình nghiên cứu lịch sử, (2010), (2 tập),
Nxb. Hà Nội.
36. Thăng Long - Hà Nội: Tuyển tập các công trình nghiên cứu văn hoá (2010),
(2 tập), Nxb. Hà Nội.
37. Traits d’architecture (2009), Kiến trúc các công trình xây dựng tại Hà Nội
(1875-1945) (Hanoi à I’heure francaise), Nxb. Thế giới, Hà Nội.
38. Trần Quốc Vượng (2010), Đất thiêng ngàn năm văn vật, Nxb. Hà Nội.
39. Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán (1998), Hà Nội nghìn xưa, Nxb. Hà Nội.
40. Trần Hùng, Nguyễn Quốc Thông (2004), Thăng Long - Hà Nội mười thế kỉ
đô thị hoá.
41. Trương Quang Hải (Tổng Chủ biên) (2010), Atlas Thăng Long - Hà Nội,
Nxb. Hà Nội.
42. Trung tâm Hà Nội học và phát triển Thủ đô (2016), Hà Nội học: Phương
pháp tiếp cận và nội dung nghiên cứu, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
43. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2000), Địa lí Hà Nội, Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội.
44. UBND thành phố Hà Nội, Sở Tài nguyên và Môi trường, Hội Bảo vệ
Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (2013), Quy hoạch bảo tồn đa dạng
sinh học thành phố Hà Nội đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
45. UBND thành phố Hà Nội, Sở Văn hoá và Thể thao (2006), Danh mục di
sản văn hoá phi vật thể thành phố Hà Nội, Nxb. Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.
46. UBND Thành phố Hà Nội, Sở Văn hóa và Thể thao (2015), Hỏi đáp về
công tác quản lý di sản văn hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội.
47. UBND thành phố Hà Nội (2005), Kỉ yếu Hội thảo khoa học Người Hà
Nội thanh lịch, văn minh.
226 GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

48. Viện Điều tra Qui hoạch rừng, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật,
Bản đồ các hệ sinh thái thành phố Hà Nội.
49. Võ Kim Cương (2004), Quản lí đô thị thời kì chuyển đổi, Nxb. Xây dựng,
Hà Nội.
50. Võ Quang Trọng (2010), Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể
ở Thăng Long - Hà Nội, Nxb. Hà Nội.
51. Võ Quang Trọng (Chủ biên) (2010), Truyện kể dân gian Hà Nội, Nxb. Hà Nội.
52. Vũ Khiêu, Bằng Việt, Nguyễn Vinh Phúc (Chủ biên) (2005), Hình ảnh người
Hà Nội trong văn học, nghệ thuật cận và hiện đại, Nxb. Văn học, Hà Nội.
53. Vũ Nhật Thắng (Chủ biên) (2004), Châu Văn Quỳnh, Đặng Văn Đội,
La Văn Xuân, Ngô Quang Toàn, Nguyễn Công Lượng, Nguyễn Văn
Can, Nguyễn Văn Đản, Phạm Văn Mẫn, Phan Hồng Dân, Địa chất và tài
nguyên khoáng sản thành phố Hà Nội, Nxb. Cục Địa chất và Khoáng sản
Việt Nam, Hà Nội.
54. Vũ Quốc Tuấn (Chủ biên) (2010), Làng nghề, phố nghề Thăng Long - Hà Nội
trên đường phát triển, Nxb. Hà Nội.
55. Vũ Thuý Anh (2015), Chất lượng tăng trưởng kinh tế của Hà Nội, Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội.
56. Vũ Tự Lập (chủ biên) (1991), Đàm Trung Phường, Ngô Đức Thịnh, Tô
Ngọc Thanh, Đinh Thị Hoàng Uyên, Văn hoá và cư dân Đồng bằng sông
Hồng, Nxb. Khoa học xã hội.
57. Vũ Văn Phái, Đào Đình Bắc, Ngô Quang Toàn (2013), Hà Nội: Địa chất,
địa mạo và tài nguyên liên quan, Nxb. Hà Nội.
58. Vũ Văn Quân, Đỗ Thị Hương Thảo (Đồng Chủ biên) (2010), Thăng Long
- Hà Nội: Thư mục công trình nghiên cứu, Nxb. Hà Nội.
NHÀ XUẤT BẢN Tổng Biên tập: (024) 397140511;
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Biên tập: (024) 39714896; Hành chính: (024) 39714899
16 Hàng Chuối - Hai Bà Trưng - Hà Nội Quản lý và hợp tác xuất bản: (024) 39728806

Chịu trách nhiệm xuất bản: Giám đốc - Tổng biên tập: TS. PHẠM THỊ TRÂM

Biên tập: Phạm Thị Thu Hương


Chế bản: Đỗ Thị Hồng Sâm
Trình bày bìa: Nguyễn Ngọc Anh
Đối tác liên kết: Trường Đại học Thủ đô Hà Nội

GIÁO TRÌNH HÀ NỘI HỌC

Mã số: 2l - 222 ĐH2018


In 300 cuốn, khổ 17x24 cm tại Công ty in Tổng hợp Cầu Giấy
Địa chỉ: Lô A2CN1 Khu CN vừa và nhỏ, đường Thanh Lâm, P. Minh Khai, Q. Bắc Từ Liêm, Hà Nội
Số xuất bản: 4112/CXBIPH/ 17-367/ĐHQGHN, ngày 09/11/2018.
Quyết định xuất bản số: 1425 LK-XH/QĐ - NXB ĐHQGHN ngày 27/11/2018.
In xong và nộp lưu chiểu năm 2018.

You might also like