You are on page 1of 6

CHƯƠNG 3: CNXH VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH

I. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA VN KHI BẮT ĐẦU ĐI LÊN


CNXH
Trên slide có bao nhiêu thì đọc hết

II. QUÁ ĐỘ LÊN XHCN BỎ QUA CHẾ ĐỘ TBCN

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn duy
nhất đúng, khoa học, phản ánh đúng qui luật phát triển khách quan của cách
mạng Việt Nam trong thời đại ngày nay. Đây là sự lựa chọn dứt khoát và đúng
đắn của Đảng, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của dân tộc, nhân dân, phản ánh
xu thế phát triển của thời đại, phù hợp với quan điểm khoa học, cách mạng và
sáng tạo của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là tư tưởng mới,
phản ánh nhận thức mới, tư duy mới của Đảng ta về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Tư tưởng này cần được hiểu đầy
đủ với những nội dung sau đây:
+Thứ nhất, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con
đường cách mạng tất yếu khách quan, con đường xây dựng đất nước trong thời
kỳ qua độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

+Thứ hai, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là
bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là trong thời kỳ quá độ còn nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, song sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và
thành phần kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa không chiếm vai trò chủ đạo.

+Thứ ba, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đòi hỏi
phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa
tư bản, đặc biệt là những thành tựu về khoa học và công nghệ, thành tựu về
quản lý để phát triển xã hội, phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền
kinh tế hiện đại.

+Thứ tư, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là tạo ra
sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực, là sự nghiệp rất khó
khăn, phức tạp, lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế,
xã hội có tính chất quá độ đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị cao và khát vọng
lớn của toàn Đảng, toàn dân.

III. ĐẶC TRƯNG CỦA CNXH Ở VN


Tại Đại hội XI, trên cơ sở tổng kết 25 năm đổi mới, nhận thức của Đảng ta về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã có bước phát triển
mới. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã phát triển mô hình chủ nghĩa xã hội Việt
Nam với tám đặc trưng, đó là:

1. Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là những giá trị xã hội tốt đẹp nhất,
ước mơ ngàn đời của loài người, cho nên cũng là mục tiêu phấn đấu của chủ
nghĩa xã hội. Vì vậy, đây là đặc trưng phổ quát, có tính bản chất của xã hội xã
hội chủ nghĩa, nó thể hiện sự khác nhau căn bản, sự tiến bộ hơn hẳn của chế độ
xã hội chủ nghĩa so với các chế độ xã hội trước đó.
Xây dựng xã hội “dân chủ, công bằng, văn minh” là quá trình vô cùng khó
khăn, gian khổ và lâu dài đối với một nước còn nghèo, đang phát triển, chưa có
“nền đại công nghiệp” như VN. Nhưng để trở thành xã hội chủ nghĩa không có
cách nào khác là toàn Đảng, toàn dân ta phải nỗ lực sáng tạo, cố gắng phấn
đấu. Và Việt Nam đang từng bước đạt tới các mục tiêu cần có trong hiện thực.

2. Do nhân dân làm chủ


“nhân dân làm chủ” là đặc trưng quan trọng và quyết định nhất trong những
đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng này không thể tách rời những
yêu cầu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để có một xã
hội do nhân dân thực sự làm chủ, chúng ta phải nhanh chóng xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để bảo đảm “tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân”; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân.

3. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan
hệ sản xuất phù hợp
Để có được một xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, điều tiên
quyết là xã hội đó phải có một nền kinh tế phát triển. Nền kinh tế chỉ có thể
phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại. Trên cơ sở đó Đảng ta đã tập
trung phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà trước
mắt là hoàn thiện thể chế của nó; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức, nhằm xây dựng một lực lượng sản xuất hiện đại
để có một nền kinh tế phát triển cao.

4. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Đây là tính ưu việt về tiến tiến của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây
dựng thể hiện khái quát, nhân văn của văn hóa nhân loại; ở việc giữ gìn bản sắc
dân tộc.
Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, thì cần kế thừa và phát huy những
giá trị, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc; đồng thời, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại và văn hóa thời đại để phát triển bản sắc văn hóa
của các tộc người Việt Nam, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thống nhất
trong đa dạng.

5. Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội thể hiện trong đặc trưng này là quan điểm
nhân văn, vì con người, chăm lo xây dựng con người, phát triển toàn diện con
người của Đảng và Nhà nước ta. Về phương diện con người, chủ nghĩa xã hội
đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con người, cho con
người và phát triển con người toàn diện

6. Các dân tộc trong cộng đồng VN bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ
nhau cùng phát triển
Đây cũng là một giá trị đặc trưng của xã hội chủ nghĩa. “Bình đẳng” và “đoàn
kết” chính là nền tảng của sự “tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”. Đoàn
kết toàn dân, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc đã làm nên thành công
của cách mạng Việt Nam. Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tính
đồng thuận trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, chống lại âm mưu chia rẽ dân
tộc của các thế lực thù địch.

7. Có nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân do đảng cộng sản
lãnh đạo
Đây là đặc trưng mới so với Cương lĩnh 1991. Đặc trưng này thể hiện rõ bản
chất của Nhà nước Việt Nam và mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân
dân.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
là nhà nước mà tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Và tất nhiên việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân không thể nào khác là dưới sự lãnh đạo của ĐCS

8. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới
Đặc trưng này kế thừa và sửa đổi so với Cương lĩnh 1991: thay cụm “có quan
hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới” thành cụm
“có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới” để làm rõ hơn việc
hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay.
Trong thế giới hiện đại ngày nay, mỗi quốc gia là một bộ phận hợp thành cộng
đồng quốc tế. Sự phát triển Việt Nam chỉ có được khi đẩy mạnh “quan hệ hữu
nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Đây là một đặc trưng nổi bật của nội dung và mục tiêu xây dựng xã hội xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Và chính nó là yếu tố, điều kiện để Việt Nam phát triển
nhanh chóng trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
 Từ những nhận thức đúng đắn, đầy đủ đó góp phần làm cho con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam càng ngày càng rõ nét.

IV. PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG CNXH Ở VIỆT NAM.


1. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh
tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì xuất phát điểm của nước ta khi
xây dựng chế độ CNXH là rất thấp, từ 1 nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bỏ
qua TBCN. Công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa vì nếu không gắn
liền với hiện đại hóa thì nước ta sẽ bị lạc hậu so với các nước khác trên thế
giới. vì vậy, công nghiệp hóa thì phải đi liền với hiện đại hóa đất nước gắn với
phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường

2. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta sẽ thực hiện nhất quán, lâu
dài mô hình kinh tế này. Những đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế này đã
được nêu ra và về đại thể là được chấp nhận trong toàn Đảng. Đặc biệt, tại Đại
hội XII của Đảng, những đặc trưng của mô hình kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa đã được nhận thức đầy đủ, đúng đắn, phù hợp với kinh tế thị
trường hiện đại hơn.

3. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội

Xây dựng và phát triển văn hóa, con người là sức mạnh nội sinh của phát triển
bền vững; làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc
biệt là văn hóa nhân cách, văn hóa trong kinh tế, văn hóa trong chính trị; tư duy
bước đầu về xây dựng hệ giá trị, chuẩn mực của văn hóa, con người Việt Nam
thời kỳ đổi mới, chủ động hội nhập quốc tế; đổi mới, nâng cao năng lực lãnh
đạo của Đảng, quản lý của nhà nước trên lĩnh vực văn hóa. Khẳng định sự lãnh
đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa là tất yếu chính trị.
Thực tiễn thực hiện phương hướng này cho thấy chúng ta đã nhận thức đầy đủ
hơn về vai trò, vị trí của giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ với tư
cách là quốc sách hàng đầu. Đã gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội trong từng bước đi và từng chính sách phát triển.

4. Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội

Đã nhận thức và gắn kết nhiệm vụ quốc phòng, an ninh quốc gia với nhiệm vụ
giữ vững chế độ, bảo vệ Đảng, giữ vững an toàn, trật tự xã hội, văn hóa cũng
như gắn kết phương hướng bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia với với yêu
cầu giữ vững an toàn, trật tự xã hội, bảo đảm cuộc sống của nhân dân. Nhận
thức mềm dẻo, linh hoạt phù hợp thực tiễn về “đối tác” và “đối tượng” trong
quốc phòng, an ninh được thay thế cho nhận thức cũ, cứng nhắc. Gắn xây dựng
đường lối quốc phòng, an ninh nhân dân với kiên quyết, kiên trì giữa vững độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng đất, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc.

5. Thực hiện đường lối đối thoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập qt.
Đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết trong đối ngoại. Đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế đã được kiên trì, kiên định trong qúa trình thực hiện Cương
lĩnh. Chúng ta luôn giữ vững nguyên tắc chiến lược, mềm dẻo trong sách lược
bằng những biện pháp, hình thức linh hoạt, sáng tạo, tranh thủ điểm tương
đồng, hạn chế bất đồng, giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình.

6. Xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng
cường và mở rộng mặt trật dân tộc thống nhất.
Coi dân chủ xã hội chủ nghĩa như một phương hướng cơ bản xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Gắn xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa với thực hiện đại đoàn
kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất. Đại đoàn
kết toàn dân tộc được mở rộng trên cơ sở “cộng đồng Việt Nam” rộng hơn
trước kia trên cơ sở các “dân tộc trong nước”. Lấy điểm tương đồng về mục
tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” để xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc

7. Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nd, do nd, vì nd.
Tính chất pháp quyền xã hội chủ nghĩa được khẳng định trong phương hướng
xây dựng nhà nước ở Việt Nam. Coi xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trên tất cả các
mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp và xây dựng đội ngũ công chức là nhiệm vụ
trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.
Nhưng Chúng ta mới chỉ thấy tính chất pháp quyền trong nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa mà chưa thấy được đây là phương thức thực hiện quyền lực
của nhân dân hiệu quả nhất, cũng như phương thức thực hiện dân chủ xã hội
chủ nghĩa thực tế nhất trong điều kiện hiện nay.

8. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.


Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng
gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, để tiến lên chế độ
CNXH, VN cần sự lãnh đạo của Đảng trong sạch, vững mạnh.

You might also like