You are on page 1of 12

1.

Bài thơ Quê hương


Đề 1: Cảm nhận của em về đoạn thơ sau:
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông

Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng


Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió...

(Trích Quê hương, Tế Hanh)

GỢI Ý:

Tế Hanh có mặt trong phong trào Thơ mới với những vần thơ mang nặng nỗi buồn và tình yêu quê
hương thắm thiết. Thơ ông giản dị, tự nhiên, giọng thơ trong trẻo, nhỏ nhẹ hiền hòa mà đằm thắm trữ
tình. Tình yêu quê hương trở thành một mạch nguồn chảy suốt cuộc đời thơ Tế Hanh. Bài thơ Quê
hương là sáng tác mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương trong thơ Tế Hanh. Bài thơ thể hiện cụ
thể mà sâu sắc tình yêu, nỗi nhớ quê hương trong cách xa. Nhớ về quê hương, nhà thơ nhớ về làng
quê và cảnh đoàn thuyền ra khơi trong buổi bình minh vô cùng đẹp đẽ:

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:


Nước bao vây cách biển nửa ngày sông

Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng


Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió...

+Tế Hanh viết bài thơ Quê hương năm 1939, khi tác giả rời xa quê hương đi học ở Huế, hình ảnh
quê hương với những hoạt động quen thuộc của làng quê, những sự vật vô cùng bình dị con thuyền,
cánh buồm, màu nước xanh...trở thành nỗi nhớ da diết trong tâm trí, khơi nguồn cảm xúc cho bài thơ
ra đời. Xuất phát từ nỗi nhớ, mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình bắt đầu với lời giới thiệu ngắn gọn
về quê hương, dòng hoài niệm về cảnh đoàn thuyền ra khơi, trở về và lắng đọng cảm xúc thương
nhớ quê hương của một người con đi xa . Đoạn trích trên là lời giới thiệu ngắn gọn, lắng đọng về
quê hương của tác giả - một làng chài ven biển Quảng Ngãi và nỗi nhớ về khung cảnh đoàn thuyền
ra khơi – một nét đẹp trong sinh hoạt ngày thường của làng quê.

Mở đầu bài thơ là những lời giới thiệu về quê hương vô cùng đơn giản và mộc mạc:
“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông”
Từ “làng tôi” được cất lên với biết bao sự trân trọng, yêu thương và cả sự tự hào. Đại từ nhân xưng
“tôi” được đặt ngay sau “làng”, là một lời giới thiệu về quê hương của tác giả. Đó là một làng chài
ven biển miền Trung. Sông nước bao la ‘bao vây”. Làng cách biển “nửa ngày sông”, một cách tính
độ dài dân dã. Làng quê đó có truyền thống làm nghề chài lưới.
Cuộc sống rất bình dị, rất đời thường của người dân làng chài được tác giả Tế Hanh tái hiện qua
những vần thơ rất giản dị:
“Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
ư

Đoạn trích đã khắc họa bức tranh lao động đầy hứng khởi và dạt dào sức sống. Mỗi cuộc ra khơi
của người dân làng chài, là một hành trình gian nan để tiếp tục một cuộc sống mưu sinh. Nhà thơ Tế
Hanh đã miêu tả không khí buổi ra khơi với những hình ảnh vô cùng gần gũi, yên bình, gợi lên một
tình yêu đơn giản mà thuần khiết đối với miền biển này. Đó là buổi sáng khi tiết trời trong lành, bầu
trời trong xanh, gió biển nhẹ, bình minh rực rỡ sắc hồng Từ hình ảnh thiên nhiên, tác giả gợi nhắc
đến hình ảnh những con người lao động trong hành trình ra khơi này. Đó là hình ảnh “dân trai
tráng”- những người có sức khỏe vạm vỡ, hình dáng khỏe mạnh, đang bắt đầu cuộc hành trình ra
khơi. Những người dân lao động làm việc bằng sức lao động chân chính của mình, và tác giả miêu tả
họ với những từ ngữ chắc nịch, như ngầm thể hiện sự tự hào về những con người vùng biển, với tinh
thần lao động hăng say

- Nổi bật trên nền khung cảnh thiên nhiên là hình ảnh con thuyền đang hăng hái ra khơi dưới bàn tay
chèo lái khỏe khoắn, tự tin của dân làng chài. Hình ảnh chiếc thuyền chính là tượng trưng cho khí
thế lao động của người dân vùng biển nơi đây. Nó được so sánh “như con tuấn mã”, thể hiện một khí
thế ra khơi rất sôi nổi, mãnh liệt. Biện pháp so sánh kết hợp với việc sử dụng hàng loạt động từ
“Phăng”, “hăng”, “vượt” diễn tả sức sống mạnh mẽ, dạt dào, hứng khởi của con thuyền cũng là khí
thế tự tin, kiêu hãnh giữa biển trời của người dân làng chài. Việc sử dụng động từ “phăng” đã gợi tả
sự khéo léo kết hợp sự tinh tế và khỏe mạnh của những người dân vùng chài lưới. Sức lực tràn trề
của những người trai làng như truyền vào con thuyền, tạo nên khung cảnh ấn tượng, rất mạnh mẽ và
hoành tráng

- Hình ảnh so sánh Cánh buồm với mảnh hồn làng thật bất ngờ, lãng mạn và độc đáo. Tế Hanh đã
lấy cái hữu hình để gọi tên cái không hình sắc. Nhà thơ lấy hình ảnh cánh buồm để tượng trưng cho
“hồn làng” bởi trong tiềm thức của người dân cánh buồm mang một ý nghĩa vô cùng thiêng liêng,
cao cả. Cánh buồm là sức mạnh, là niềm tin, khát vọng xa khơi chứa đựng biết bao hi vọng của con
người. Cánh buồm ra khơi mang khát khao chinh phục đại dương, là tín hiệu cho sự bình yên trở về
của những ngư dân. Bởi vậy cánh buồm trở thành linh hồn, biểu tượng của làng quê thân thương.
Thuyền lướt ra khơi, cánh buồm được kéo lên từ từ rồi bất chợt căng phồng vì no gió… Những hình
ảnh so sánh đẹp và gợi cảm đi vào bài thơ một cách tự nhiên, dung dị, như không cần một cố gắng kĩ
thuật nào. Cánh buồm dường như có sức mạnh phi thường trong không khí trong lành nó hiện lên
với vẻ đẹp kiêu hãnh, đầy tự hào, cánh buồm vi vu trong gió biển. Biết bao thi tứ đã nảy sinh từ cánh
buồm kiêu hãnh và thơ mộng. Lec-môn-tôp (nhà thơ Nga) có bài thơ trữ tình nổi tiếng về một cánh
buồm khao khát đời giông tố:
"Thấp thoáng xa xa một cánh buồm
Chập chờn trên biển cả mù sương
Buồm kiếm tìm chi nơi đất lạ?
Giã từ chi đó chốn quê hương?"

Đoạn thơ được viết theo thể thơ 8 chữ phóng khoáng, phù hợp với việc bộc lộ cảm xúc giản dị, tự
nhiên. Tác giả cũng đã sử dụng thành công các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, ẩn dụ; cách sử
dụng từ ngữ giàu chất tạo hình, gợi cảm xúc để miêu tả bức tranh làng quê trong chuyến ra khơi
mang vẻ đẹp thanh bình, yên ả, tràn ngập niềm vui, tinh thần hứng khởi.

Nhà thơ Đỗ Trung Quân từng viết:

Quê hương nếu ai không nhớ


Sẽ không lớn nổi thành người

Quê hương luôn là miền nhung nhớ trong tâm hồn con người. Với nhà thơ Tế Hanh, một người con
gắn bó với làng chài ven biển Quảng Ngãi, quê hương dường như đã trở thành máu thịt luôn thôi
thúc nhà thơ hướng về với những tình cảm thiết tha, nồng hậu nhất.

2.Cảm nhận đoạn thơ:

Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ,


Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
“Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe”
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Khắp thân mình nồng thở vị xa xăm.
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm,
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Gợi ý:

Tế Hanh có mặt trong phong trào Thơ mới với những vần thơ mang nặng nỗi buồn và tình yêu quê
hương thắm thiết. Thơ ông giản dị, tự nhiên, giọng thơ trong trẻo, nhỏ nhẹ hiền hòa mà đằm thắm trữ
tình. Tình yêu quê hương trở thành một mạch nguồn chảy suốt cuộc đời thơ Tế Hanh. Bài thơ Quê
hương là sáng tác mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương trong thơ Tế Hanh. Bài thơ thể hiện cụ
thể mà sâu sắc tình yêu, nỗi nhớ quê hương trong cách xa. Tình cảm gắn bó với làng quê khiến nhà
thơ cảm nhận được sâu sắc niềm vui đơn sơ, hồn hậu của những người dân chài khi đoàn thuyền
đánh cá trở về:

Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ,


Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
“Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe”
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Khắp thân mình nồng thở vị xa xăm.
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm,
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

+Tế Hanh viết bài thơ Quê hương năm 1939, khi tác giả rời xa quê hương đi học ở Huế, hình ảnh
quê hương với những hoạt động quen thuộc của làng quê, những sự vật vô cùng bình dị con thuyền,
cánh buồm, màu nước xanh...trở thành nỗi nhớ da diết trong tâm trí, khơi nguồn cảm xúc cho bài thơ
ra đời. Xuất phát từ nỗi nhớ, mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình bắt đầu với dòng hoài niệm về cảnh
đoàn thuyền ra khơi, trở về và lắng đọng cảm xúc thương nhớ quê hương của một người con đi xa.
Đoạn trích trên là nỗi nhớ về khung cảnh đoàn thuyền trở về– một nét đẹp trong sinh hoạt ngày
thường của làng quê.

+ Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ/Khắp dân làng tấp nập đón ghe về khắc họa bức tranh đoàn
thuyền trở về sau một đêm lao động vất vả trên biển khơi, đem theo những thành quả xứng đáng vô
cùng nhộn nhịp, ồn ào. Thể hiện chân thực niềm vui chờ đón, sự háo hức của dân làng. Không khí
vui tươi, phấn khởi khi ra khơi đánh bắt được nhiều cá lan tỏa ra một không gian rộng lớn. Hình ảnh
“cá đầy ghe”, “những con cá tươi ngon thân bạc trắng” khiến ta cảm nhận được chuyến ra khơi đã
thành công như thế nào. Tác giả cũng như hòa vào niềm tươi vui, phấn khởi của những người lao
động khi hành trình ra khơi đã được như ý.
+ Hình ảnh người dân làng chài trở lại trong khổ thơ với vẻ đẹp đặc trưng vùng biển:. Với biện pháp
nhân hóa, tác giả đã diễn tả độc đáo vẻ đẹp tràn đầy sức sống... Hình ảnh những chàng trai vùng biển
mang một màu da thật riêng “ngăm rám nắng”, Những con người với làn da ngăm rám nắng, gợi vẻ
đẹp khỏe khoắn, mạnh mẽ. Vẻ đẹp ấy toát lên sự từng trải, giàu kinh nghiệm và nỗi vất vả dãi dầu
nắng gió. Nước biển mặn ngấm vào da thịt người dân chài tạo thành mùi vị riêng trên cơ thể họ – để
gợi nên một hình ảnh vô cùng lãng mạn: chàng đánh cá sau chuyến phiêu du trên biển, lúc trở về còn
mang theo hương vị nồng nàn của những vùng biển lạ. Cái mùi này chỉ những người yêu quê hương
tha thiết, nồng nàn như tác giả Tế Hanh mới có thể cảm nhận được

+ Hình ảnh con thuyền: phép nhân hóa với các động từ “mỏi”, “nằm”, “nghe”...con thuyền như một
con người lao động, biết tự cảm nhận thân thể của mình sau một ngày lao động mệt mỏi. Nghệ thuật
ẩn dụ chuyển đổi cảm giác tạo thành hình ảnh thơ độc đáo, con thuyền như con người đầy suy tư
trên bãi biển, cảm nhận hượng vị biển cả thấm trong từng thớ gỗ, nồng đậm sự gắn bó và tình yêu
của con người với biển cả bao la.

+Có thể nói cuộc sống lênh đênh sông nước là cuộc sống khắc nghiệt, luôn phải chuẩn bị tinh thần
đương đầu với muôn trùng nguy hiểm buộc những người dân ở đây phải luôn đoàn kết, thống nhất
với nhau để cùng hỗ trợ nhau trong công việc đánh bắt cá trên biển. Họ hợp lực với nhau trong
những chuyên đi biển và chia sẻ, san sẻ những gánh nặng cùng nhau và mọi nỗi vui buồn. Mỗi lần
thuyền ra khơi đánh cá không chỉ người ra đi mà những người thân ở lại đều cầu khấn trời đất mong
chuyến đi được bình an, may mắn. Kết quả của thành quả lao động không mệt mỏi ấy là khoang cá
nặng chở về là niềm vui, là hạnh phúc của mọi nhà: "Những con cá tươi ngon thân bạc trắng ". Hơn
ai hết, người dân hiểu rằng: đằng sau những mẻ cá "tươi ngon" là bao nỗi vất vả gian nan, bao hiểm
nguy mà người thân của họ đã trải qua.

Đoạn thơ được viết theo thể thơ 8 chữ phóng khoáng, phù hợp với việc bộc lộ cảm xúc giản dị, tự
nhiên. Tác giả cũng đã sử dụng thành công các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, ẩn dụ; cách sử
dụng từ ngữ giàu chất tạo hình, gợi cảm xúc để miêu tả bức tranh đoàn thuyền trở về. Đoạn thơ thể
hiện tâm hồn tinh tế, nhạy cảm cùng tình yêu thiên nhiên, quê hương da diết của tác giả

Nhà thơ Đỗ Trung Quân từng viết:

Quê hương nếu ai không nhớ

Sẽ không lớn nổi thành người

Quê hương luôn là miền nhung nhớ trong tâm hồn con người. Với nhà thơ Tế Hanh, một người con
gắn bó với làng chài ven biển Quảng Ngãi, quê hương dường như đã trở thành máu thịt luôn thôi
thúc nhà thơ hướng về với những tình cảm thiết tha, nồng hậu nhất. Bài thơ “Quê hương” của Tế
Hanh đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, sinh động, đầy chất lãng mạn trữ tình về một làng quê miền
biển, với những hình ảnh khoẻ khoắn, đầy sức sống của người dân làng chài và những sinh hoạt lao
động thường ngày của làng chài. Bài thơ như một lời nói hộ những tình cảm yêu quê hương đất nước
của người con xa quê.

BÀI THAM KHẢO SỐ 2

Quê hương là nguồn cảm hứng lớn suốt đời thơ của Tế Hanh. Dưới ngòi bút của ông, nguồn cảm
hứng này đã tạo thành một dòng chảy tâm tình với nhiều bài thơ nổi tiếng. Bài thơ “Quê hương”
được sáng tác năm 1939, in trong tập thơ “Hoa Niên”, là tác phẩm mở đầu cho mạch cảm hứng viết
về đề tài này của ông. Gói ghém trong bài thơ là lời yêu, nỗi nhớ và niềm tự hào tha thiết chân thành
của Tế Hanh về sông nước quê hương mình.
Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh quê hương hiện lên trong nỗi nhớ của người con xa quê. Nổi bật
trong bức tranh quê hương là làng chài ven biển tươi sáng, đẹp đẽ, sống động, cùng với hình ảnh
những người ngư dân lao động khỏe khoắn tươi vui trong công việc của chính mình.

Trước hết, hai câu thơ mở đầu là lời giới thiệu về quê hương của nhà thơ:

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:

Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.

Lời thơ ngắn gọn, tự nhiên như một câu văn xuôi thông thường nhưng đã giới thiệu một cách đầy đủ
từ công việc thường làm đến vị trí của “làng tôi”. Đó là một làng nghề chài lưới ven biển xinh xắn
với con sông Trà Bồng thơ mộng uốn khúc, bao quanh. Người đọc nhận ra trong lời kể hàm chứa
một nỗi xúc động nghẹn ngào và nỗi nhớ nhung da diết của một người con xa xứ. Và từ đó, hình ảnh
làng chài quê hương cứ lần lượt hiện lên như một thước phim quay chậm trong tâm trí, chiếm lĩnh
tâm hồn của nhà thơ.

Nhớ về quê hương, ấn tượng đẹp và in sâu đậm nhất trong lòng Tế Hanh đó là hình ảnh về những
con người lao động đang dong thuyền ra khơi đánh bắt cá:

Khi trời trong, gió nhẹ sớm mai hồng

Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.

Khung cảnh của biển cả thiên nhiên hiện lên thật nhẹ nhàng, thơ mộng. Ánh mặt trời mới nhu lên
khỏi mặt biển, ánh nắng hồng dịu nhẹ trải khắp muôn nơi. Và khi ấy, những người ngư dân lại bắt
đầu cuộc hành trình lao động của chính mình. Họ bắt đầu nhổ neo, đẩy thuyền tiến ra khơi xa. Nghệ
thuật so sánh, kết hợp với những động từ mạnh như “hăng”, “phăng”, “vượt” không chỉ cho thấy sức
mạnh khỏe khoắn, đầy tự tin của chiếc thuyền khi ra khơi mà còn thể hiện khí thế hăng hái, căng tràn
sinh lực và cả sự hăng say trong lao động của những con người làm chủ vũ trụ, làm chủ biển lớn đại
dương mênh mông. Khi ấy, con thuyền hiện lên thật chứa chan sức sống, tâm hồn của làng chài ven
sông:

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

Cánh buồm được gió trời thổi căng như chứa đựng cả hồn thiêng quê hương, ẩn chứa trong đó biết
bao nhiêu là niềm tin, sự hi vọng của những người ngư dân về một cuộc thủy trình đánh bắt cá bình
yên và thu được những mẻ lưới bội thu. Động từ “rướn” vừa cho thấy sự khéo léo, uyển chuyển linh
hoạt; lại vừa cho thấy sức mạnh vươn lên, rướn cao lên cùng mây gió của con thuyền khi ra khơi. Vì
thế, con thuyền như càng trở nên kì vĩ hơn, lớn lao hơn và hùng tráng hơn trước vụ trụ thiên nhiên.
Chắc hẳn phải có một tâm hồn lãng mạn, sức liên tưởng dồi dào cùng với tình yêu quê hương sâu sắc
thì Tế Hanh mới có được những cảm nhận độc đáo về “mảnh hồn làng” trên “cánh buồm giương to”
đến như vậy.

Đến khổ ba, cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong niềm náo nức, phấn khởi, tấp nập, đông vui:
Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về

Nhớ ơn trời biển lặng cá đầy ghe

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.

Dưới ngòi bút tài hoa của Tế Hanh, bức tranh lao động hiện lên thật chân thực, khỏe khoắn, náo
nhiệt, đầy ắp tiếng cười nói của con người. Và người ngư dân hiện lên thật hồn hậu, chất phác khi
gửi lời biết ơn chân thành tới người mẹ biển khơi đã che chắn, bảo vệ và cho họ một cuộc sống ấm
no, hạnh phúc. Lời thơ như thể hiện niềm vui tràn đầy, ngây ngất của Tế Hanh như đang cùng với
ngư dân quê mình hát lên bài ca lao động. Trong niềm phấn khởi, say mê và niềm tự hào về người
lao động, nhà thơ đã viết lên hai câu thơ thật đẹp về người ngư dân:

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.

Vẻ đẹp ngoại hình với làn da ngăm đen rám nắng với những bắp thịt cuồn cuộn, rắn rỏi, mạnh mẽ đã
tạo nên một thần thái phong trần, dẻo dai, kiên cường khi làm chủ biển khơi của họ. Chính cái vị
mặn mòi của muối biển, nồng đượm đã thấm sâu trong từng thớ thịt, từng hơi thở của người dân chài
làng chài. Cụm từ “vị xa xăm” còn gợi lên hơi thở của đại dương mênh mông, của lòng biển sâu, của
những chân trời tít tắp, của phong ba dữ dội. Cho nên, người ngư dân hiện lên như những chiến binh,
những người anh hùng phi thường, kì diệu.

Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Nghệ thuật nhân hóa đã thổi hồn cho con thuyền vô tri, vô giác. Những động từ chỉ trạng thái: “im,
mỏi, trở về, nằm, nghe” khiến cho con thuyền hiện lên như con người, biết nghỉ ngơi, thư giãn sau
một hành trình ra khơi vất vả. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác qua động từ “nghe” đã làm cho
con thuyền có tâm hồn, có suy nghĩ như đang tự cảm nhận “chất muối” – hương vị biển cả quê
hương đang dần thấm vào cơ thể. Phải chăng sự cảm nhận đó của con thuyền cũng chính là sự cảm
nhận con người ngư dân nơi đây, đó là vẻ đẹp tâm hồn mặn mà, nồng hậu, chan chứa tình yêu
thương luôn tồn tại trong họ. Chắc hẳn Tế Hanh phải là một người con đằm cả hồn mình vào quê
hương với tình yêu quê da diết thì mới có thể có được những cảm nhận sâu sắc đến như thế.

Khép lại bài thơ là lời bộc bạch chân thành về nỗi nhớ làng da diết, khôn nguôi:

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ

Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!

Lúc viết bài thơ này, Tế Hanh khi ấy mới 18 tuổi, còn rất trẻ và đang phải xa quê hương – nơi gắn bó
với biết bao nhiêu kỉ niệm của tuổi thơ. Có lẽ vì thế mà nỗi nhớ quê luôn trở đi trở lại trong tâm hồn
nhạy cảm của ông. Điệp khúc “luôn tưởng nhớ” , “tôi thấy nhớ” đã diễn tả tấm lòng tha thiết, thành
thực về làng quê với cả hình ảnh, màu sắc và hương vị của Tế Hanh. Tất cả đều khắc sâu, in đậm mà
không bao giờ có thể quên đi được đối với người con xa xứ này.

Về mặt nghệ thuật, bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa miêu tả và biểu cảm. Nếu như miêu tả được
thể hiện ở hệ thống hình ảnh, từ ngữ phong phú, gợi hình, với một loạt các nghệ thuật so sánh, nhân
hóa, ẩn dụ… đã góp phần tái hiện một bức tranh rộng lớn về làng chài ven sông: rộn rã, náo nức,
khỏe khoắn, lãng mạn thì phương thức biểu cảm lại điễn tả thật cảm động nỗi nhớ, tình yêu và niềm
tự hào sâu sắc của nhà thơ đối với quê hương, xứ xở. Đặt bài thơ vào trong dòng chảy của phong
trào thơ Mới, chúng ta mới thấy hết được cái độc đáo, cái khác biệt và giá trị của bài thơ. Nếu như
các nhà thơ mới cùng thời đang say sưa trong tháp ngà cá nhân, bi lụy, trốn tránh thực tại thì Tế
Hanh lại hướng hồn thơ của mình đến quê hương, với một tình yêu tha thiết, chân thành. Đó là trái
tim thổn thức của một người con xa quê, luôn một lòng thủy chung, như nhất tới quê hương xứ xở.

Tóm lại, với vần thơ bình dị mà gợi cảm, bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh đã vẽ ra một bức tranh
tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển, trong đó nổi bật lên hình ảnh khỏe khoắn, đầy sức
sống của người dân chài và sinh hoạt lao động làng chài. Bài thơ cho thấy tình cảm quê hương trong
sáng, tha thiết của nhà thơ.

ÔNG ĐỒ
Bài thơ “Ông đồ” được đánh giá là một thành công “đột xuất” của Vũ Đình Liên. Nhà thơ đã sử
dụng thể thơ năm chữ gọn gàng, ngôn từ giản dị nhưng chứa đựng bao nỗi niềm tâm sự về nhân tình
thế thái. Chính vì vậy Hoài Thanh có bình rằng: "Ít có bài thơ nào bình dị mà cảm động đến vậy”.
Hình ảnh ông đồ hiện lên trong dòng suy tưởng, hoài niệm của nhà thơ:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua”
Trong những năm cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20, nền Nho học suy tàn, những kì thi chữ Hán bị bãi bỏ,
đa số người ta hướng tới cái mới, quay lưng với cái cũ thì chữ Nho không còn ở thời hoàng kim nữa
nhưng vẫn được mọi người ưa chuộng. Bởi thế hình ảnh ông đồ viết chữ thuê bên những con phố
sầm uất đã trở nên quen thuộc mỗi khi Tết đến xuân về. Bằng ngọn bút tài hoa ông đồ đang lặng lẽ
làm đẹp cho đời. Ông chính là nét đẹp tinh tế của một Hà thành xưa cũ:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”
Nhưng số người nhiệt thành với chữ Nho "mỗi năm mỗi vắng”, khách quen cũng tan tác "người thuê
viết nay đâu?”, phong tục treo câu đối Tết cũng phạt phai. Ông đồ dần dần bị lãng quên, phương
cách mưu sinh ngày càng khó. Bởi vậy nỗi buồn thấm tận cốt tuỷ, lan sang cả những vật vô tri:
“Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu”
Và như một sự tất yếu khi người ta đua nhau “vứt bút lông đi viết bút chì”, xã hội nhá nhem với
những Xuân tóc đỏ, hay nhà thiết kế thời trang TYPN ( Số đỏ – Vũ Trọng Phụng) – Ông đồ đã hoàn
toàn bị quên lãng. Ông ngồi đó ” như cái di tích tiều tuỵ đáng thương của một thời tàn”:
“Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay”
Ông đồ ngồi giữa mùa xuân mà ta tưởng như ở mùa đông ảm đạm, ông như chìm vào không gian để
mặc gió mưa thời gian phủ nhoà. Hình ảnh” lá vàng rơi” tượng trưng cho sự lụi tàn. Chữ Nho đã mạt
vận. Chỉ còn lại nỗi thương cảm ngậm ngùi. Những giọt mưa bay hay những giọt nước mắt xót xa
tiếc nuối? Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của tác giả đã đạt đến độ chín khiến người đọc cũng thấy lòng
mình thấm đẫm nỗi sầu nhân thế cùng ông đồ già cô đơn lỡ vận…
Mùa xuân lại đến "không thấy ông đồ xưa”. Ông cố bám lấy xã hội hiện tại nhưng không còn đủ sức,
đủ kiên nhẫn nữa, bởi cơm áo không đùa với chữ nghĩa. Ông phải rút lui vào quá khứ, cũng có thể đã
trở thành người thiên cổ. Tác giả băn khoăn, day dứt:
“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Nhà thơ không chỉ xót thương ông đồ mà cả một lớp người như ông. Tác giả muốn đuổi theo để gặp
lại những hồn người đã mất hay đang hoài niệm những vẻ đẹp của quá khứ? Câu hỏi tu từ khép lại
bài thơ nhưng mở ra những câu hỏi lớn cho người đọc.
Có thể nói tình thương người và niềm hoài cổ đã khiến Vũ Đình Liên cho ra đời một thi phẩm tuyệt
tác "Ông đồ” sống mãi với thời gian. Tên tuổi của nhà thơ cũng gắn liền với bài thơ từ độ ấy. Và
dường như thời gian càng trôi đi tác phẩm lại càng thêm giá trị bởi ý nghĩa nhân văn, nhân đạo mà
tác giả gửi gắm chưa bao giờ xưa cũ.
Vũ Đình Liên đến với làng thơ rất lặng lẽ nhưng không kém phần sâu sắc. Trong phong trào
Thơ mới, tên tuổi ông không đình đám như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính,..
và các tên tuổi nổi bậc khác nhưng cũng đủ để làm nên một hiện tượng khác thường.
Có người viết nghìn bài mà ngỡ như chưa hề viết. Có người viết mấy bài mà đã có thể lưu danh đến
ngày sau. Bởi Vũ Đình Liên đã bắt được cái hồn của thời đại. Không cần đi quá xa vào thế giới thần
tiên như Thế Lữ, hay rong ruổi trong tình yêu như Xuân Diệu, lặng ngắm một chiều hoang tàn bên
mộ cũ như Chế lan Viên, đau đớn dưới trăng khuya như Hàn Mạc Tử và càng không trở về với ngày
xưa diễm lệ như Trần Huyền Trân,… Vũ Đình Liên tìm về với những rung động tinh tế của chính
tâm hồn mình lòng thương người và tình hoài cổ mênh mang. Hoài Thanh có nhận xét: “Có lần hai
nguồn cảm hứng ấy đã gặp nhau và để lại cho chúng ta một bài thơ kiệt tác: “Ông đồ”. Ít khi có một
bài thơ bình dị mà cảm động như vậy. Tôi tưởng như đọc lời sám hối của cả bọn thanh niên chúng ta
đối với lớp người đương đi về cõi chết…” Có lẽ, trước thực tại phũ phàng, lớp trẻ năng động đã quá
vội vàng lên đường tìm kiếm, khơi phá những miền đất nghệ thuật đang rộ nở muôn nơi, bỏ lại riêng
ông âm thầm tìm về chốn cũ. Có thể nói thơ Vũ Đình Liên đã quá cũ so với đương thời nhưng lại có
sức hút mãnh liệt khiến ai đọc tới cũng phải nao lòng.
Với bài thơ Ông đồ, Vũ Đình Liên đã may mắn đón lấy được tinh túy trên dòng chảy của thời
gian bất tận. Có lẽ, ông đã chờ sẵn ở đó rất lâu và nhanh tay đón lấy khi nó vừa đến. Bài thơ ra đời
năm 1937, ngay cái thời khắc phong trào Thơ mới rộ nở nhất, đẩy nền thơ cũ và thế hệ cũ vào vị trí
khiêm nhường rồi biến mất sau đó. Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, và các nhà thơ khác liên tục đã phá
nền thơ cũ và tạo ra cái mới, mấy ai kịp nhìn lại thế hệ cũ đã rút lui như thế nào. Chỉ có Vũ Đình
Liên làm điều ấy.
Bài thơ Ông đồ là tiếng nói thẳm sâu tận đáy lòng của Vũ Đình Liên trước sự lụi tàn của một thế hệ,
một tư tưởng và một nét đẹp trong tâm hồn và đời sống người Việt. Không kêu ca hay uất hận nhưng
nỗi tiếc thương vô hạn ẩn sâu trong từng câu từng chữ. Hình ảnh ông đồ là chứng nhân của lịch sử,
của một thế hệ những con người đang rơi dần vào sự bế tắc cùng cực với sự bế tắc của đất nước. Sự
bế tắc đã dẫn ông đồ từ địa vị thanh cao, đạo mạo đến chỗ mưu sinh bằng cách bán chữ giữa sự thờ
ơ, vô tình của thế gian giữa chợ đời.
Và để bấu víu vào một cái gì đó chưa hẳn đã mất, Vũ Đình Liên đã khởi đầu bài thơ thật hào hứng:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già”.
Từ “lại” nghe thật hãnh diện, xác định ngay vị trí của ông đồ trong ngày tết. Ông đến như định mệnh
và từ lâu đã in đậm trong kí ức của con người khi ngày tết đến. Và không đẻ người đọc chờ đợi lâu,
Vũ Đình Liên lập tức triển khai hình tường, phô bày trước mắt người đọc:
“Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua”.
Đọc lại câu thơ, ta như thấy trước mắt mình cái cảnh nhộn nhịp, cấp tập không ngừng của ngày tết
xưa. Đâu đây là tiếng gọi nhau thăm hỏi, đâu đó là tiếng chào mời đón đưa của muôn người. Và ông
đồ trên các góc phố, dưới tán cây che, chân dậm giấy, tay đưa nét bút thần kì như “phượng múa rồng
bay” trước sự trầm trồ, thán phục của bao người.
Thế nhưng, sự đời đưa đẩy, số phận nổi trôi, đời người ngắn ngủi mà phong ba bão tố nhanh chóng
càn quét qua đây. Năm sau trở lại, hình ảnh ông đồ vẫn trên phố cũ mà sao xa khác vô cùng:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu”.
Từ một khung cảnh náo nhiệt, trong sự tôn vinh tột độ, đột nhiên ông đồ rơi vào nghịch cảnh đáng
thương. Vẫn là sân khấu ấy nhưng ông đồ đã mất hết người xem, một mình độc diễn vở kịch buồn.
Dường như Vũ Đình Liên đã cảm nhận thấy, đã dẫm lên cái đường ranh mong manh, mơ hồ mà tàn
nhẫn của thời gian giữa thời đại cũ và thời đại mới. Ông đồ gắng gượng níu kéo cái tinh hoa một
thời trong lòng người một cách bất lực nhưng không từ bỏ. Ở đây, dẫu chưa đạt đến trình độ đưa
“cái thần” vào chữ viết như một tay tử tù của thời vang bóng, ít ra ông đồ cũng còn lại những ngón
tay hoa.
Trên bước đường cùng với chút tài mọn tuy có lỡ làng, ông đồ ngỡ vẫn còn một góc đời riêng nhằm
an bần lạc đạo hoặc thậm chí để ngậm ngùi! Và chính sự gắng gượng cuối cùng ấy lại đẩy ông đồ
vào một tình thế dở khóc dở cười:
“Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay”.
Câu thơ rơi vào im lặng đáng sợ khiến người đọc hụt hẫng tiếc thương. Cơn mưa phủ xuống tâm
hồn, che lại những vết thương đang âm ỉ cào cấu trong lòng. Đến đây, người đọc mới sực tỉnh nhận
ra trong mình đã đánh mất đi tình yêu đối với cái quốc hồn quốc túy và vô tình đẩy một thế hệ như
ông đồ vào nghịch cảnh bi đát ấy. Một thời đại sáng bừng hào khí “nghiêng cánh nhạn tách mái rừng
Nhan Khổng – Vẫy đuôi kình toan vượt bể Trình Chu” đang le lói những tia sáng cuối cùng trước
khi đi vào im lặng. Và cuối cùng là im lặng thực sự:
“Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”.
Vũ trụ tuần hoàn, vòng sinh diệt bất tận càn quét trên mặt đất này. Những gì còn lại là sự gạn
lọc tàn nhẫn của thời gian. Khung cảnh vẫn thế không có gì đổi thay, ngày tết vẫn tưng bừng rộn rã,
hoa đào vẫn nở, người vẫn du xuân trẩy hội, nhưng nhân vật chính của ngày xưa đã mãi mãi không
đến nữa. Câu thơ “Năm nay đào lại nở” biểu hiện cái quy luật tàn nhẫn như nụ cười chua chát của
nhà thơ ném vào cuộc đời. Câu thơ theo sau đó như uất nghẹn trước tin dữ: “Không thấy ông đồ
xưa” khép lại một cơn mê, để rồi nhà thơ truy vấn:
“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”.
Ở đâu là ở đâu? Những người trong thế hệ cũ có thể ở đâu được? Hoặc là họ chấp nhận chuyển
mình, bỏ khăn đóng áo dài khoác vào bộ đồ tây kệch cỡm, cắt tóc ngắn, “tối rượu sâm banh sáng sữa
bò” để hòa hợp với cái thời đại nửa tây nửa ta ấy. Hoặc là tiếp tục giữ nguyên lối cũ sống lay lắt với
thời gian.
Vũ Đình Liên đã không thể trả lời. Ông gửi niềm ưu tư ấy vào thời gian và mong tìm kiếm một sự
đồng cảm ở người đọc. Ông đau đáu nhìn vào dòng đời đang trôi chảy như một kẻ mất hồn mong
tìm thấy bản thể. Cũng cảnh cũng người nhưng người và cảnh đâu dễ thành thơ, nếu nhà thơ không
là kẻ tri âm hay đồng điệu.
Trong nền văn hóa dân tộc, hình tượng những Ông Đồ trong dịp tết cổ truyền đã đi vào lòng người
dân. Một nét đẹp mang học thức,mang trí tưởng tượng dồi dào, mỗi con chữ các Ông Đồ viết dành
cho người đi xin chữ đều mang một ý nghĩa khác nhau, nhưng quy chung lại người Việt ta vẫn quan
niệm xin cái may mắn theo ước nguyện của họ cho một năm mới thuận buồm xuôi gió.Nhưng dường
như những sự thay đổi đã làm cho nét đẹp ấy phai nhạt phần nào, hình ảnh Ông Đồ in trong tâm trí
trong thơ của tác giả Vũ Đình Liên thật rõ ràng, sâu sắc. Ông Đồ là những người có khả năng viết
chữ Nho điêu luyện. Chữ Nho là một loại chữ đầy hình tượng, giàu ý nghĩa. Những người này được
đào tạo, học hành tốt trong nền văn hóa nho giáo, tiếp xúc với chữ Hán nhiều thi và đỗ đạt có bằng
vị, được công nhận, những người này có thể làm thêm để kiếm sống bằng nghề viết thuê.
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Trên phố đông người qua.
Có thể thấy được không khí Tết đã về qua những nhánh hoa đào nở cũng báo hiệu một mùa xuân
mới lại về cùng với đất trời. Tâm trạng con người dường như cũng khoan khoái, vui tươi, tấp nập
chuẩn bị cho những ngày Tết Lịch đặc biệt quan trọng của đất nước. Vào chính khoảnh khắc này,
Ông Đồ có thể thể hiện tài năng của mình qua công việc ý nghĩa, thoải mái, kiếm sống qua việc viết
chữ theo yêu cầu của người hứng thú với con chữ, đồ nghề của ông đơn giản chỉ là "Mực tàu, giấy
đỏ, cùng kiến thức".Hình ảnh Ông Đồ được tác giả nhắc đến với sự thân thương, gợi lại sự an lành,
vui vẻ ngược lại với sự xô bồ của đường phố, ông bình dị, điềm đạm mà vẫn , thu hút được rất đông
người qua lại là tâm điểm của sự chú ý của bức tranh này. Bức tranh tác giả vẽ ra trong trí nhớ đầy
tiếng động, hình ảnh, cả nhân vật, có kí ức về thời gian đẹp nhất của mùa xuân tuyệt vời. Mở ra cho
ta một đoạn 4 câu thơ đầy ý nghĩa tiếp theo.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét.
Như phượng múa rồng bay.
Sự giản dị mang theo những phẩm chất quý báu của mình khiến ông thu hút được nhiều người. Họ
muốn xin chữ, xin cái đẹp từ ông. Ông cũng rất ấm lòng khi nghe được những câu mang nghĩa " tấm
tắc khen tài", sự trân trọng trong từng con chữ khiến cho " bao nhiêu người thuê viết" với ý nghĩa to
lớn vừa học để có kiến thức, học chữ Nho để làm người quan trọng nhất là đề cao mối quan hệ của
mỗi con người và năm đức tính cần có thông qua việc học chữ, đó là: Nhân, Nghĩa, Lễ Trí, Tín, qua
đó hướng con người đi theo một con đường tốt đẹp nhất. Các câu thơ tiếp theo để miêu tả rõ nhất sự
tài năng của ông đồ. Và người có nhiều hoa tay không chỉ viết chữ, mà họ còn tạo ra được cả một tác
phẩm như một bức tranh mang nhiều ý nghĩa nghệ thuật.
Hình ảnh ông đồ ngồi khoan thai, bàn tay nhẹ nhàng múa lượn những nét bút đưa lên dứt khoát,điêu
luyện đến từng chi tiết "nét thanh, nét đậm, nét xổ", thanh thoát theo từng chữ như "Rồng bay
phượng múa" càng thấy sự phóng khoáng, nhưng không hề mất tính chính xác trong phong cách viết
chữ Nho để treo tết, viết một tác phẩm để đời. Dân gian ta có câu "Nét chữ nết người" là thể hiện
được cái tài, cái tâm qua những nét bút tinh tế, chất chứa tâm hồn tinh hoa, khát vọng, lý tưởng
phong cách sống đĩnh đạc của những Ông đồ. Con chữ ông viết muôn hình muôn kiểu không lẫn,
không trùng lặp là cả một sự sáng tạo không ngừng từ con người trí thức ấy.Và đoạn thơ chưa dừng
lại ở sự vui tươi, có một chút trầm lắng xuống ở đoạn 3 chính là tiếp nối dòng suy nghĩ giữa quá khứ
với hiện tại.
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu.
Từ nhưng báo hiệu một điều gì đó mang sự biến động dù ít hay nhiều, điệp từ mỗi...mỗi làm cho câu
thơ dài ra về thời gian,không gian, cái sự lắng xuống, kéo dài đó là sự tự an ủi cho thực tại về việc
xin chữ Ông Đồ đã không được phổ biến như ngày xưa nữa. Tác giả đã tự đặt ra cho mình một câu
hỏi về những người thuê viết chữ đã vãng dần, phải chăng họ cũng đã mờ nhạt tình yêu theo năm
tháng với con chữ Nho khi đã phát triển một nguồn chữ mới "chữ Quốc Ngữ",sự chảy trôi nhanh của
thời đại . Người không được thuê, vật không được sử dụng làm từng thứ trong mỗi câu trở nên thấm
nỗi buồn cùng con người nhờ sử dụng thành công biện pháp tu từ nhân hóa. Giờ đây, sự xuất hiện
của ông đồ trái ngược với sự vui tươi, lòng kính trọng, tin yêu từ người xin chữ bằng cả tấm lòng
vốn có ban đầu, một nét đẹp rất riêng dành cho mùa xuân đã tạm thời lắng dần. Mà với các ông đồ
giờ này:
Ông đồ vẫn ngồi đây
Qua đường không ai hay
Ông "vẫn chờ, vẫn ngồi đây" vẫn là cái sự điềm đạm, cao quý như năm nào nhưng đáp lại bằng sự
thờ ơ lạnh nhạt của người dân. Tác giả như một người đứng từ xa trông vào và phải thốt lên sự ngậm
ngùi cho sự nghiệp của những ông đồ, sự lãng quên, đẩy ra bên lề của những tờ thư pháp cổ, thờ ơ
trước sự tồn tại của ông Đồ là những gì đáng để chúng ta đau đáu, suy nghĩ, đồng cảm.
Việc xin chữ từ đó đã trở thành những ký ức ngọt ngào mà những thế hệ cũ đã được chứng kiến,
thưởng thức.Tác phẩm đã khắc họa chân thực nhất về Ông Đồ, đưa đến được thông điệp xin chữ
Ông Đồ là một truyền thống rất hay, đáng phải giữ gìn cho thế hệ sau của dân tộc, góp phần giáo dục
lối sống làm người cho người trẻ.
Hiện nay đã xuất hiện thêm tuy không nhiều "ông đồ" ở những khu vực có tính văn hóa, những khu
giải trí trong dịp Tết Việt nhưng đã thỏa mãn niềm đam mê thư pháp ở người dân, họ góp phần tiếp
nối bản sắc dân tộc, tô điểm cho thành phố như một nét đẹp ngày Xuân.

You might also like