You are on page 1of 63

Sê-khốp từng nói: “Nhà văn là nhà nhân đạo trong cốt tủy”.

Qua hàng vạn năm tồn


tại ở đời, văn học đã dần khẳng định được chỗ đứng của chính mình trong lòng đọc
giả không chỉ bởi những giá trị sâu sắc mà nó đem lại, đồng thời đó còn là những
câu hỏi đầy tính nhân văn khiến cho người đọc phải trăn trở khôn nguôi đến từ
phía người viết. Phải chăng, cái mà văn học nói chung và độc giả nói riêng mong
muốn ở người nghệ sĩ là góc nhìn của anh qua từng sự việc, hoàn cảnh từ hiện thực
cuộc sống, từ những gì anh đã từng trải ở đời? Cho nên, khi bàn về thiên chức của
nhà văn trong quá trình sáng tác, nhà văn người ý Chaudio Magrid cho rằng: “Văn
học không quan tâm đến câu trả lời do nhà văn đem lại, mà quan tâm đến những
câu hỏi do nhà văn đặt ra và những câu hỏi này luôn rộng hơn bất kì câu trả lời cặn
kẽ nào.” Thân bài: Nguyễn Minh Châu từng nói: “Cuộc sống và văn học là hai
đường tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Thật vậy, văn học luôn hướng
đến con người và vì con người mà đi tới. Cho nên, bất kì người nghệ sĩ nào trong
quá trình sáng tác cũng phải hướng tác phẩm của mình đến với thế giới nhân sinh,
hướng bạn đọc đến cái Chân – Thiện – Mỹ bằng những vấn đề được đặt ra trong
đó. Phải chăng, cái mà văn học quan tâm là những câu hỏi do nhà văn đặt ra chứ
không phải là câu trả lời mà người cầm bút đem lại? Và chính ý kiến của Claudio
Magris là chìa khóa để lí giải điều này. Có thể nói, “câu trả lời” do nhà văn đặt ra
đại diện cho những kiến giải, suy tư của nhà văn về cuộc sống, những giải đáp của
nhà văn đưa ra và dự báo của họ về hướng đi của hiện thực. Song, văn học lại đề
cao “câu hỏi”, tức là những vấn đề, trăn trở của người viết về hiện thực được họ
đưa vào tác phẩm để khơi gợi người đọc cùng suy ngẫm. “Câu hỏi” được đặt ra có
thể được phát họa trực tiếp hoặc cũng có thể thể hiện gián tiếp qua lời thoại, nhân
vật, tình huống hay chi tiết trong tác phẩm. Từ đó, qua “câu hỏi” và “câu trả lời”
được Claudio Magris đặt ra trong quá trình sáng tác văn học, ý kiến trên đã khẳng
định vai trò của cả “câu hỏi” lẫn “câu trả lời” mà nhà văn đem đến trong tác phẩm,
song, những “câu hỏi” vẫn là yếu tố then chốt, cần có và nên có của một tác phẩm
văn học chân chính. Tác phẩm văn học lấy ngôn từ nghệ thuật làm chất liệu và
hình tượng nghệ thuật làm phương tiện phản ánh thế giới. Thông qua đó, nhà văn
thể hiện tư tưởng, tình cảm và những triết lý nhân sinh của mình. “Tác phẩm nghệ
thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ
không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ.” (Nguyễn
Đình Thi) Thước đo giá trị của một tác phẩm văn học là ở sự chân thực, sâu sắc
trong phản ánh đời sống với nhũng quy luật khách quan và thế giới nội tâm của
con người. Tương tự như vậy, tác phẩm là phương tiện để nhà văn thực hiện thiên
chức của mình, hoàn thành chức năng cao đẹp Để có được những tác phẩm có giá
trị lay động được tới trái tim bạn đọc thì cần có một trái tim nóng bỏng, một tâm
hồn nhạy cảm tinh tế; những gì viết ra cần phải xuất phát từ tình cảm chân thật sâu
sắc. Muốn vậy trái tim người nghệ sĩ phải để ở giữa cuộc đời và vì cuộc đời. Đọc
giả khi thẩm bình và hưởng thụ “cái Đẹp” của một tác phẩm văn học nói chung
không nên nhìn vào kết cấu đồ sộ, dung lượng hoành tráng của câu từ để vội vàng
đánh giá mà phải di sâu tìm ra được cái mạch nguồn cảm xúc dạt dào mà sâu kín
của thi nhân, nắm được cái hạt ngọc mà người nghệ sĩ thai nghén gửi gắm. Có như
thế mới có thể bước vào địa hạt của cái Đẹp. Nói như nhà phê bình người Nga
Bielinsky thì:“Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu
tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không
đặt ra những câu hỏi và trả lời những câu hỏi đó”. Rõ ràng, đối với văn học nói
chung và bất kì nhà văn nào nói riêng, câu trả lời của người cầm bút đối với hiện
thực cuộc sống vẫn là một trong những điều kiện tiên quyết làm nên tác phẩm văn
học. Bởi lẽ đó là những kiến giải, suy tư của chính nhà văn, những người đã mở cả
tâm can của mình để trải nghiệm, để hiểu hơn về nhân thế và cuộc đời, đồng thời
đó còn là thành quả của cả một đời lao động sáng tạo vì nghệ thuật. Hơn ai hết,
những nhà văn vĩ đại với những tư tưởng lớn lao vẫn có đủ khả năng mang đến
những câu trả lời mang tính thời đại, đem đến cho cuộc sống bạn đọc những biến
chuyển, lịch sử lớn, như chính Banlzac cũng thừa nhận: “Nhà văn là nhà thư kí
trung thành của thời đại”. Đành rằng nhờ những câu trả lời do nhà văn mang lại,
tức là một khía cạnh khác của hiện thực được khai sáng đến với người đọc, song,
nếu trong quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ mà chỉ có những câu trả lời mang
tính chủ quan thì sớm muộn đó cũng chỉ là những điều giáo điều, khô khan, vô
nghĩa trên trang giấy, không còn thu hút độc giả. Cho nên, văn học không chỉ cần
đến “câu trả lời” mà đồng thời, những “câu hỏi” mà nhà văn đặt ra trong quá trình
sáng tác đóng một vai trò quan trọng hết thảy đối với cả tác phẩm, người viết và
người đọc. “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” (Tố Hữu).
Hiện thực cuộc sống thì hữu hạn còn con người nói chung và những câu trả lời do
nhà văn đem lại thì vô hạn. Bởi lẽ, mỗi người nghệ sĩ chỉ có thể đưa ra những câu
trả lời mang tính chủ quan, khó mà bao quát hết được sự vận động, biến chuyển
không ngừng của hiện thực xung quanh ta. Nhưng những “câu trả lời” thì khác.
Nói như Lev Tolstoy thì “Khi một nhà văn xuất hiện, ta sẽ đặt ra câu hỏi liệu rằng
anh ta có thể mang cái gì đến cho chúng ta”. Thật vậy, bởi chính câu hỏi ấy sẽ là
thứ khơi gợi vấn đề, kích thích tư duy, mang đến cho người đọc nhiều suy ngẫm
khác nhau, từ đó dường như bao quát được hết tầm lớn lao vốn có của hiện thực.
Và cũng chính bởi được khắc họa từ hiện thực đời sống rộng lớn, nên những câu
hỏi được đặt ra không chỉ mang cấu trúc mở mà nó còn gần gũi với nhân sinh vô
cùng. Điều đó khơi gợi tinh thần bạn đọc mong muốn đối thoại với nhà văn trong
quá trình khám phá tác phẩm, trở thành cầu nối giữa “những tâm hồn đồng điệu”
(Tố Hữu). Từ sự bao quát của hiện thực mà đồng thời, những câu hỏi cũng giúp
cho một tác phẩm trở thành cấu trúc gọi mời, liên tục mở rộng biên độ của nó để
sản sinh nghĩa, trở thành một tác phẩm không chạm đáy, vượt qua mọi bờ cõi và
giới hạn để trở thành tác phẩm chung cho cả loài người. Nam Cao đã từng viết:
“Sống cho đã rồi hãy viết, hãy hòa mình vào cuộc sống của nhân dân”. Hơn ai hết,
nhà văn phải thể hiện, phải đặt ra những câu hỏi về nhân sinh, về cuộc đời trong
chính đứa con tinh thần của mình. Bởi lẽ khi tác phẩm được mở ra cũng là lúc độc
giả hiểu hơn về hiện thực cuộc đời, ý nghĩa, giá trị và bản chất ở thế giới mà họ
đang sống, để từ đó bước vào thế giới đối thoại cùng nhà văn, tìm ra câu trả lời cho
những băn khoăn, trăn trở, suy nghĩa của chính mình. Còn nhớ Nam Cao, qua số
phận bi kịch của Chí Phèo đã đặt ra câu hỏi: “Làm thế nào để thế giới không còn
những người nông dân bị chèn ép đến tha hóa như Chí Phèo?”, “Làm sao để cứu
vớt họ trở thành những người lương thiện trở lại?” Rõ ràng, xuyên suốt tác phẩm,
câu hỏi như một hồi chuông đánh thẳng vào trái tim bạn đọc và đó cũng chính là
nút thắt trong lòng Nam Cao, tuy không dẫn trực tiếp, song Nam Cao vẫn ngầm
đưa ra câu trả lời cho bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo. Đối với ông,
chỉ khi tiêu diệt xã hội đại ác này, tiêu diệt tên quỷ dữ Bá Kiến, Đội Tảo… thì cuộc
đời mới không còn những người bị tha hóa như Chí Phèo. Nhưng xét đến cùng,
văn học cũng không quan tâm đến “câu trả lời” mà Nam Cao đã đem lại, khi bạn
đọc hiểu được về nhân vật Chí và khám phá ra được “câu hỏi” đau đáu, vang vọng
trong cái bi kịch cự tuyệt ấy, tôi chắc rằng có người sẽ như Nam Cao, sẽ cho rằng
chỉ khi giết được Bá Kiến, chỉ khi lật đổ được cái xã hội xấu xa ấy thì những người
như hắn mới không còn, nhưng có người lại cho rằng, trong đời để cứu rỗi những
linh hồn tội lỗi như Chí đơn thuần chỉ cần một “lòng tốt bình thường”, là Thị Nở
đây. Vì hiện thực thì vô hạn, mà câu trả lời của người cầm bút chỉ là một cá nhân
hữu hạn, cho nên có thể nói, văn học cần có những “câu hỏi” như vậy, không chỉ
khẳng định thiên chức của nhà văn, đồng thời trở thành chân trụ vững chắc cho tác
phẩm văn học, để khi nhớ về một con người từng bị xã hội, hiện thực đàn áp đến
mất đi tính người, ta lại nhớ về một Chí Phèo đã từng cố gắng hướng về cánh cửa
trở lại làm người ra sao, nhớ về Nam Cao đằng sau cái vẻ ngoài lạnh lùng trên câu
chữ là một trái tim ấm áp tình đời, và để tác phẩm tồn tại đến muôn đời. “Giá trị
của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư
tưởng đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm, chứ không phải tư tưởng nằm
thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên và là
khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật” (Nguyễn Khải).
Nói đến nghệ thuật là nói đến cái hay, cái đẹp mà nhà văn phát hiện ra trong quá
trình trải nghiệm ở cuộc đời để từ đó anh mới cảm thấy đau thay những số phận
trong đời không thể lên tiếng cứu rỗi chính mình. Như đến với “Vĩnh biệt Cửu
Trùng Đài” của Nguyễn Huy Tưởng cũng vậy. Tác phẩm là một áng văn về câu hỏi
cho nỗi trăn trở của số phận lẫn sức sống nghệ thuật cùng với vai trò nghệ sĩ của
nhân vật Vũ Như Tô. Trước hoàn cảnh éo leo, trăn trở, oái ăm của người người
đam mê nghệ thuật, câu hỏi đầu tiên được đặt ra “Nên hay không nên xây Cửu
Trùng Đài?” Đối với Vũ Như Tô, dù ông lựa chọn phương án nào, thì ông cũng
không thể trách khỏi bi kịch đau khổ đó. Hoặc là hoặc chấp nhận cuộc sống cam
chịu không sáng tạo để hao phí tài trời và nhận cái chết ngay khi còn sống, hay
chấp nhận lợi dụng quyền lực của Lê Tương Dực để thực hiện ước mơ, khát vọng
và khẳng định ý nghĩa sống và nhận lấy cái chết bi phẫn đến tận cùng. Cái chết
trong trường hợp này là cái giá vô cùng đau đớn mà người nghệ sĩ phải trả cho sự
dấn thân tìm kiếm bản ngã, tìm kiếm ý nghĩa của sự tồn tại, để trả lời cho câu hỏi
đầy khắc khoải đau đớn của Vũ Như Tô ở cuối màn kịch: “Trời ơi! Phú cho ta tài
để làm gì?”. Từ đó ta cũng thấy rõ được khát vọng Vũ Như Tô là khát vọng mãnh
liệt ngàn đời của nhân loại, của mọi dân tộc, của mọi nghệ sĩ, nên câu hỏi được đưa
ra là “Vũ Như Tô nên chọn cuộc sống bình thường hay chọn vẻ đẹp siêu đẳng?”.
Đó là vượt qua sự hữu hạn của không gian, thời gian để đạt đến sự trường tồn, bất
diệt. Như thế, đánh đổi xương máu cho vẻ đẹp đó, có xứng đáng không? Câu hỏi
này không dễ gì trả lời, và bi kịch ở chỗ người nghệ sĩ không có quyền trả lời nó
thay nhân dân. Chính sự trăn trở, băn khoăn này đã tạo ra tâm trạng đầy nghịch
chiều ở Nguyễn Huy Tưởng khi sáng tác Vũ Như Tô, một mặt, ông đồng cảm với
niềm tự hào của Trương Tửu về một dân tộc ham sống, khao khát sống, nhưng mặt
khác đó cũng là niềm xót xa, càng tự hào, thì càng xót xa. Có thể thấy, những câu
hỏi ấy “rộng hơn bất kì câu trả lời nào” vì đã nêu ra được những mối quan hệ
không dễ gì giải quyết được giữa cái Thiện, cái Đẹp, giữa nghệ thuật và lợi ích của
nhân dân. Chính những suy ngẫm, trăn trở ấy đã thể hiện rõ cho một tài năng tâm
huyết, hết mình vì văn học để tác phẩm có thể sánh bước cùng thời đại đến sau
này. Rõ ràng, “câu hỏi” hay “câu trả lời” đều là những yếu tố không thể thiếu trong
quá trình hình thành tác phẩm văn học. Nhà văn trong hành trình cảm thụ cuộc đời
cũng phải củng cố và cải cách tầm nhìn, tâm hồn chính mình trước hiện thực rộng
lớn liên tục đổi thay. Nếu “Chí Phèo” là một câu hỏi đau đáu, vang vọng về số
phận bị tước đoạt quyền làm người trong xã hội lúc bấy giờ thì đến với “Vĩnh biệt
Cửu Trùng Đài”, đó lại là những khát khao, ước mơ theo đuổi nghệ thuật, theo
đuổi cái đẹp không đúng thời điểm, để khi người đọc nhìn lại, họ lại thấy tiếc nuối
cho một thân phận hết mình vì nghệ thuật, để chính ta phải tự hỏi, nếu Vũ Như Tô
hay Chí Phèo ở thời ta, liệu những bi kịch ấy có xảy ra hay không? Có lẽ không ai
biết được. Vì vậy mà có thể nói, chính những “câu hỏi” đã khơi gợi cho không chỉ
cá nhân người viết những suy tư, trăn trở mà đồng thời, nó còn thúc đẩy bạn đọc
khám phá, tìm tòi xa hơn những con chữ đơn thuần trên trang giấy, khiến họ tìm
được cầu nối tâm hồn với người cầm bút. Và tất yếu, những câu hỏi không chỉ là
những con chữ vô tri, những câu hỏi bâng vơ mà nhà văn tự nghĩ ra, nói như Lê
Ngọc Trà thì: “Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói tình cảm con người, là sự tự
giãi bày và gửi gắm tâm tư”. Bởi những câu hỏi luôn phải bắt nguồn từ những trái
tim thổn thức, những tấm lòng luôn hết mình vì cuộc đời và vì con người, nó phải
được kết tinh từ trí tuệ của con tim thì mới đủ khả năng đưa tác phẩm lên đến tận
cùng của vũ trụ, song hành với con người đến tận mai sau. Kết bài: Tóm lại, ý kiến
của Claudio Magris đã thể hiện đúng đắn về đặc trưng của văn học cũng như thiên
chức của nhà văn. Văn học luôn cần đến những “câu hỏi” mà người viết đặt ra để
bạn đọc có thể từ đó khám phá được nhiều hơn về tác phẩm và cuộc đời, đồng thời
văn học cũng cần đến “câu trả lời” bởi nhờ đó mà ta mới thấy được các khía cạnh
khác đến từ lăng kính của người viết. Cả hai “câu hỏi” và “câu trả lời” là những
yếu tố then chốt, cần có và nên có trong quá trình sáng tạo để tác phẩm có thể tồn
tại đến muôn đời, song hành cùng độc giả và thời đại, để nó mãi sống và neo đậu
trong lòng bạn đọc.
Lý thuyết về chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm
1. Khái niệm
Không phải ngẫu nhiên mà văn hào vĩ đại người Nga Macxim Gorki từng phát
biểu: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Hơn ai hết, tác giả những thiên truyện
viết ra từ trường đại học cuộc sống, người được coi là “cánh chim báo bão của
cách mạng Nga”, “nhà văn của những người chân đất” là người hiểu rõ tầm quan
trọng của những chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương. Tương quan đối
lập trong câu nói trên đã khẳng định: Cái làm nên tầm vóc của nhà văn không hẳn
là quy mô tác phẩm mà chính là “chi tiết” – yếu tố đôi khi được coi là nhỏ, là vặt
vãnh… Chi tiết nghệ thuật không chỉ là yếu tố cấu thành tác phẩm mà còn là nơi
gửi gắm những quan niệm nghệ thuật về con người, về cuộc đời…của nhà văn, nơi
kí thác niềm ưu tư, trăn trở của nhà văn trước cuộc đời. Nhà văn chỉ thực sự là
“người thư kí trung thành của thời đại” (H.Balzac) khi anh ta có khả năng làm sống
dậy cuộc đời trên trang sách bắt đầu từ những chi tiết nhỏ. Lựa chọn chi tiết để xây
dựng nên tác phẩm nghệ thuật không chỉ thể hiện bản chất sáng tạo của người nghệ
sĩ mà còn bộc lộ tài năng, tầm vóc tư tưởng của người cầm bút.
Chi tiết không phải là một khái niệm xa lạ với đời sống.

Theo Từ điển Tiếng Việt (Nxb Khoa học xã hội Hà Nội 1988) thì chi tiết là: “Phần
rất nhỏ, điểm nhỏ trong nội dung sự việc hoặc hiện tượng” (Ví dụ: Kể rành rọt từng
chi tiết). “Là thành phần riêng rẽ hoặc tổ hợp đơn giản nhất của chúng có thể tháo
lắp được” (Ví dụ: Chi tiết máy). Như vậy, trong đời sống hàng ngày, từ “chi tiết”
được hiểu và dùng như là một thành tố, một bộ phận nhỏ của một sự việc, tổng thể.
Chi tiết được hiểu như là một thành phần thuộc về cấu tạo.

Trong văn học, “chi tiết” theo định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình
Sử, Nguyễn Khắc Phi (Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
1997) là: “Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng”
và họ gọi chung là chi tiết nghệ thuật. Cũng theo nhóm tác giả này thì: “Tuỳ theo
sự thể hiện cụ thể, chi tiết nghệ thuật có khả năng thể hiện, giải thích, làm minh
xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng
tác giả trong tác phẩm. Chi tiết nghệ thuật gắn với “quan niệm nghệ thuật” về thế
giới con người, với truyền thống văn hoá nghệ thuật nhất định”

Như vậy, chi tiết nghệ thuật được xem như linh hồn của một văn bản nghệ thuật.
Muốn hiểu, nắm chắc văn bản, phải hiểu rõ chi tiết nghệ thuật. Khái niệm chi tiết
được đặt ra nhằm phân biệt với tổng thể nhưng nó không tách rời tổng thể. Sự hòa
hợp giữa chi tiết và tổng thể sẽ tạo thành chỉnh thể. Chi tiết nghệ thuật được xem là
thành tố nhỏ nhất trong một chỉnh thể nghệ thuật.
2. Tầm quan trọng của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương
Bàn về tương quan giữa chi tiết và tổng thể, có ý kiến cho rằng: “Đôi khi chỉ vì
một đôi mắt mà người ta phải cưới nguyên một người đàn bà”. Câu nói đó khẳng
định một thực tế: Đôi khi, chi tiết có thể đánh gục được cả tổng thể, thậm chí nó
thay thế, lấn át tổng thể. Trong tác phẩm văn chương, chi tiết có thể nhỏ về quy
mô, tầm vóc nhưng nó chứa đựng tư tưởng lớn, tình cảm lớn. Không nhà văn vĩ đại
nào không tập trung xây dựng hình tượng nghệ thuật từ những chi tiết nhỏ, đặc sắc.
Thực tế cho thấy, chỉ bằng những chi tiết cô đúc, tiêu biểu, kết hợp với lối hành
văn nhiều ẩn ý, nhiều nhà văn đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người
đọc bằng những hình tượng nghệ thuật độc đáo, giàu sức sống. Nhân vật Bêlicôp
(“Người trong bao” – A. Sêkhôp), nhân vật AQ (“AQ chính truyện” – Lỗ Tấn),
nhân vật Grăngđê (“Ơgiêri Grăngđê” – H. Banlzac), nhân vật Chí Phèo (“Chí
Phèo” – Nam Cao)…, đều là những hình tượng điển hình đặc sắc, được khắc họa
bằng nhiều chi tiết cụ thể nhưng có sức khái quát cao, phản ánh được diện mạo,
bản chất con người và bộ mặt của xã hội, đồng thời thể hiện những quan niệm nghệ
thuật về con người rất riêng của mỗi nhà văn.

Trong truyện, nhờ chi tiết mà cốt truyện được triển khai và phát triển đầy đặn,
thông qua chi tiết mà cảnh trí, tình huống, tính cách, tâm trạng, hình dáng, số phận
của nhân vật được khắc họa và bộc lộ đầy đủ. Nhiều chi tiết trở thành những điểm
sáng thẩm mĩ của tác phẩm, có vị trí không thể thiếu trong sự phát triển của cốt
truyện, gắn liền với những bước ngoặt trong cuộc đời, số phận nhân vật. Thiếu chi
tiết là thiếu sự đặc tả, thiếu tính cụ thể, truyện sẽ trở nên nhạt nhẽo, hời hợt, thiếu
sức hấp dẫn. Tuy nhiên, nếu ôm đồm nhiều chi tiết thì rối rắm, rườm rà, giảm giá
trị thẩm mỹ của tác phẩm.

Trong thơ, nhờ chi tiết mà cảm xúc của nhà thơ có nơi nương náu. Đặc thù của thơ
là cảm xúc và hình ảnh. Hình ảnh chính là chi tiết trong thơ. Một cánh chim, một
làn mây, một chiếc lá, một nhành hoa hay tia nắng…đi vào thơ không còn là sự vật
vô tri nữa. Nó là hình ảnh phản chiếu tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ. Từ một cảnh
huống, một tâm trạng mà thấy được nỗi niềm không chỉ của cá nhân thi sĩ mà của
cả một lớp người, một thời đại. Cao hơn là phản ánh số phận con người của một
quốc gia, dân tộc ở những chặng đường lịch sử nhất định. Đỗ Phủ, Puskin, Nguyễn
Du…đều là những thi hào mà tên tuổi đã gắn liền với dân tộc và thời đại.

Tóm lại, dù là thơ hay văn xuôi, đều cần phải xây cất từ chi tiết. Theo quy luật điển
hình hóa của văn học, qua một giọt sương để thấy cả bầu trời. Nghệ sĩ lớn là người
có khả năng chưng cất cả đại dương vào trong một giọt nước, cả vũ trụ vào trong
một giọt sương. Tầm cỡ nhà văn là viết về những cái không đâu, vặt vãnh nhưng
khơi gợi được những vấn đề lớn, liên quan đến số phận con người, nhân loại.
Trong tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) hình ảnh Liên và An ngồi nhìn bầu trời
đêm “ngàn sao ganh nhau lấp lánh” không phải là chi tiết vu vơ. Đằng sau nó chứa
đựng niềm khao khát rất lớn của hai đứa trẻ, niềm khát khao hướng tới một bầu
trời khác, nguồn sáng khác, không phải là cuộc sống đang lụi tàn trong vô vọng
như ở phố huyện. Từ khát vọng mơ hồ đó của tuổi thơ, nhà văn đã lay tỉnh những
tâm hồn mệt mỏi đang sống lay lắt, héo úa như cảnh ngày tàn ở những miền quê
nghèo xác xơ, mòn mỏi trong xã hội cũ.

Chuyện miếng ăn trong truyện Nam Cao tưởng chỉ là vặt vãnh nhưng sức phản ánh
rất lớn. Từ Một bữa no, Trẻ con không được ăn thịt chó, Một truyện sú vơ nia đến
Sống mòn…, từ người nông dân đến người trí thức đều không thoát khỏi chuyện
miếng ăn. Nó không chỉ nói lên thực trạng đói nghèo khốn khổ của con người,
quan trọng hơn, nó phản ánh nhân cách, phẩm giá người, nhân tính của cuộc sống
người. Người ta có thể từ bỏ lòng tự trọng vì miếng ăn, thậm chí chết vì miếng ăn,
chà đạp cả những tình cảm thiêng liêng như tình phụ tử, giẫm đạp lên tình yêu thơ
mộng…cũng chỉ vì miếng ăn. Hóa ra, trong xã hội ấy, miếng cơm, manh áo giết
chết cả phần người trong mỗi con người. Và Nam Cao khắc khoải, lo âu: Liệu nhân
tính có còn không, có được vun xới không? Làm sao để con người giữ được tính
người trong một xã hội tàn bạo, phi nhân tính?

Như vậy, chi tiết nghệ thuật dù chỉ là yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng mang sức
chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Thiếu chi tiết, nhà văn không thể đúc nên tác
phẩm. Chi tiết càng có sức biểu hiện, sức khơi gợi và ám ảnh càng lớn, càng góp
phần nâng cao giá trị tác phẩm. Và không có một tác phẩm lớn nào mà chi tiết lại
nhạt nhẽo, nông cạn, thiếu sức sống. Trong tiếp nhận văn học, càng không được
xem nhẹ chi tiết. Đọc hiểu và cảm nhận tác phẩm văn chương từ cấp độ chi tiết là
yêu cầu quan trọng và cần thiết, đặc biệt đối với việc dạy học Ngữ văn ở trường
phổ thông.
3. Cảm nhận chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương
Căn cứ vào văn bản, người ta chia làm hai loại: Chi tiết trong văn xuôi và chi tiết
trong thơ.
3.1. Chi tiết trong văn xuôi
Chi tiết trong văn xuôi thường là chi tiết sự vật và chi tiết sự việc. Chi tiết sự vật
thường gắn với 3 đối tượng: cảnh vật, đồ vật, nhân vật.

Hình ảnh những ngọn đèn trong tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) là chi tiết sự
vật. Có nhiều loại đèn được nhà văn miêu tả. Đèn rất sáng (đèn ở Hà Nội và đèn ở
đoàn tàu) và đèn tù mù (ở phố huyện). Một loại ánh đèn mạnh nằm trong quá khứ
đã mất hoặc chỉ trong mơ tưởng xa xôi. Một loại ánh đèn hiện tại rất yếu ớt ở phố
huyện. Gia đình chị Tí, cửa hàng của chị em Liên, bác Siêu bán phở…, mỗi người
có một ngọn đèn nhưng tất cả đều tù mù, chỉ tạo nên những “khe sáng”, “hột
sáng”, “quầng sáng”, “chấm lửa vàng lơ lửng” trong đêm, đối lập hoàn toàn với
“Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo”. Sống trong ánh đèn tù
mù đó, Liên nhớ tiếc ánh sáng quá khứ, mơ tưởng tương lai tươi sáng. Nó phản ánh
tâm trạng chán ghét hiện tại tăm tối và mơ ước có cuộc sống khác của hai đứa trẻ.

Chi tiết sự việc (cốt truyện) gắn với các tình tiết. Một tình tiết được hợp nên bởi
nhiều chi tiết.

Chí Phèo thức dậy vào buổi sáng hôm sau là một tình tiết, nó được hợp nên từ
nhiều chi tiết: tâm trạng, cảm xúc, cảm giác…của Chí Phèo.

Căn cứ vào thái độ của nhà văn, người ta phân ra chi tiết nóng và chi tiết lạnh.

Chi tiết nóng thường được trở đi trở lại, được nhà văn khắc họa kĩ, nằm trong mạch
chính của văn bản nghệ thuật.

Trong tác phẩm Chí Phèo (Nam Cao), “bát cháo hành” là chi tiết nóng, được nhắc
đi nhắc lại, hàm chứa tình người, tình yêu thị Nở dành cho Chí Phèo. Bởi được
chưng cất từ tình người nên bát cháo hành đã thức dậy phần người trong Chí, làm
cho hắn biết “buồn”, biết “ngạc nhiên”, xúc động và “ăn năn”. Thiếu chi tiết này,
là thiếu sự xuất hiện của tình người, lấy gì thức tỉnh Chí Phèo để hắn có khát vọng
trở lại làm người lương thiện?

Chi tiết lạnh không nằm trong mạch chính, xuất hiện thoáng qua, nhà văn không
tập trung cho chi tiết nổi lên nên khó viết và người đọc hời hợt rất dễ bỏ qua. Nhà
văn phải có giác quan thẩm mĩ, bản lĩnh mới viết được chi tiết lạnh. Để che giấu
được cảm xúc của mình, giảm thiểu tính biểu cảm khi mô tả chi tiết, nhà văn phải
có khả năng đóng cũi cảm xúc. Cảm nhận được chi tiết lạnh thể hiện tầm đón nhận
của người đọc.

Bát cháo hành là chi tiết nóng nhưng hơi cháo hành là chi tiết lạnh. Chí Phèo khóc
khi được Thị Nở cho ăn cháo hành là chi tiết lạnh. …“mắt hắn hình như ươn ướt”.
Nhà văn chỉ nói ngắn, không lặp lại, xa cách, giả định “hình như” đi kèm với tính
từ giảm thiểu “ươn ướt”. Chi tiết mờ nhạt, tưởng thoáng qua nhưng rất đáng kể.
Chi tiết lạnh bao giờ cũng có sức công phá rất lớn. Nam Cao là nhà văn tin vào
nước mắt, “đứng về phe nước mắt”. Nước mắt là hiện thân cho nỗi khổ, nước mắt
là giọt châu của loài người, kết tụ của tính người. Chỉ người nào còn tình người
mới biết khóc. “Con người chỉ xấu xa trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ
và nước mắt là miếng kính biến hình vũ trụ”(Kôbe). Nếu nhìn đời bằng đôi mắt
khô cạn tính người sẽ chỉ thấy cái xấu xa, nếu nhìn bằng nước mắt sẽ thấy khác,
biết cảm thông, độ lượng. Hầu hết các nhân vật của Nam Cao đều khóc. Những
nhân vật nào bị tha hóa rồi thức tỉnh cũng đều khóc cả, nước mắt là sự thức dậy
của tình người, tính người. Còn biết khóc là còn biết cảm động về một sự chăm sóc
trước tình người. Một người biết cảm động trước tình người là còn tính người. Một
chi tiết thoáng qua đã biểu hiện những diễn biến vô hình trong nội tâm nhân vật.
Hơi cháo hành là kỉ niệm hiếm hoi về tình người mà Chí Phèo được hưởng. Mất
hơi cháo hành Chí Phèo không còn được chở che, nương tựa bởi tình người. Mất đi
tình người khi đã biết hơi ấm của tình người, đối với kẻ đã bao năm sống bên lề
của xã hội như Chí Phèo mà nói, chỉ còn cách tìm đến cái chết.

Trong truyện Đời thừa (Nam Cao), nhân vật Hộ tỉnh dậy sau đêm say, sờ tay lên
bàn thấy “ấm nước hãy còn ấm” cũng là một chi tiết lạnh. Chi tiết ấy nói với Hộ về
Từ, khiến cho Hộ nhìn thấy sự cao đẹp của Từ và tất cả sự tồi tệ của mình. Nó
chứng tỏ rằng Từ là một người có sự tử tế, chu đáo. Từ tử tế, chu đáo với Hộ cả khi
Hộ tàn nhẫn với Từ. “Ấm nước còn ấm” là hình ảnh của sự khoan dung, sự chăm
sóc và tha thứ. Người ta chỉ có thể tha thứ cho người khác khi người ta mạnh bởi
đó là cái mạnh trong lương tri, lương tâm, tình người. Đối lập với sự yếu đuối
trong hình hài, vóc dáng, Từ rất mạnh ở lòng thương. Lòng thương ấy bền vững
chứ không chông chênh như của Hộ. Nhận ra điều đó, Hộ càng thấy Từ đáng được
che chở, yêu thương, càng thấy mình đớn hèn, đáng khinh bỉ. Hộ đã khóc trước Từ
khi nhận ra tất cả sự thảm hại ấy của mình.

Cảm nhận chi tiết trong văn xuôi khi dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông có thể
không phân loại nhưng nhất thiết phải hiểu rõ chi tiết đó đóng vai trò gì trong mạch
truyện, trong diễn biến tính cách, số phận nhân vật. Nói cách khác là luôn gắn chi
tiết với tổng thể để thấy được tính thống nhất của một chỉnh thể nghệ thuật. Quan
trọng hơn là qua đó, hiểu được ý đồ nghệ thuật, đọc được tư tưởng, tình cảm nhà
văn muốn gửi gắm. Đồng thời, thấy được tài năng sáng tạo của người cầm bút.
3.2. Chi tiết trong thơ
Khác với văn xuôi, thơ được xem là vương miện của nền văn học, là tinh chất của
ngôn ngữ văn học. Một ngôn ngữ chưa có thơ là một ngôn ngữ chưa phát triển.
Một sự đổi mới văn học mà chưa có sự đổi mới về thơ là sự đổi mới chưa hoàn
thiện. Chi tiết vốn là lẽ sống của nghệ thuật, với thơ, chi tiết là hồn cốt. Bài thơ
sống được hay không là nhờ chi tiết. Chi tiết trong thơ thu hẹp lại trong một giới
hạn nhỏ trong thi ảnh và ngôn từ. Đối với một bài thơ, nếu nắm được thi ảnh và
ngôn từ đặc sắc xem như đã nắm được linh hồn bài thơ, gọi là nắm được nhãn tự,
kết tinh được thần thái linh hồn tác phẩm. Quy mô chi tiết trong thơ thường nhỏ
hơn rất nhiều trong tác phẩm văn xuôi.

Bài thơ “Tức cảnh Pac Bó” (Hồ Chí Minh) có một từ – một chi tiết đặc sắc nằm ở
câu cuối: Cuộc đời cách mạng thật là sang

“Sang” là nhãn tự của bài thơ, thâu tóm toàn bộ tinh thần bài thơ, cảm hứng thơ
của Hồ Chủ Tịch. Toàn bộ cái hay trong bài thơ là nói về cái sang của người làm
cách mạng. “Sang” trước hết là một giá trị. Về bản chất, sang là một cái đẹp. Tất
nhiên, không phải cái đẹp nào cũng sang, cái đẹp là điều kiện cần chứ không phải
là điều kiện đủ. Chỉ những khi nó đạt tới đẳng cấp mới gọi là sang, nó thường đi
liền với cao, với trọng, mang nghĩa quý phái, quý tộc, là đẳng cấp thẩm mỹ của
quý tộc. Cái đẹp thể hiện đẳng cấp mới là sang. Bác nói tới cái sang của người
cách mạng là đẳng cấp cao trong văn hóa. Sang trong quan niệm có hai loại: Sang
theo kiểu trưởng giả (tỉ lệ thuận với vật chất, thường gọi là sang giầu). Kiểu sang
này chỉ có khi hưởng cao lương mĩ vị, gắn với một đối tượng người tầm thường
nhất định trong xã hội. Loại thứ hai là sang theo quan niệm kẻ sĩ (người có học).
Sang là một giá trị tinh thần đôi khi còn đối lập với vật chất, trưởng giả giàu mới
sang còn kẻ sĩ thì nghèo mới sang. Biểu hiện nổi bật là coi thường vật chất, khinh
thế. Những người cách mạng thực ra là những kẻ sĩ. Những hình ảnh “cháo bẹ”,
“rau măng”, “bàn đá” không nhằm nói lên điều kiện sống mà chủ yếu bộc lộ tư thế
cao sang, đẳng cấp văn hóa của người đi làm cách mạng. Cách cấu tứ của bài thơ
này là nhập cái sang của kẻ sĩ trung đại với cái sang của chiến sĩ hiện đại thành cái
sang của người cách mạng. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn và khí chất của
người cộng sản Hồ Chí Minh.

Trong bài thơ Đò Lèn (Nguyễn Duy) gồm 6 khổ, tác giả viết về một tuổi thơ nghèo
khó bên cạnh người bà tần tảo. Hệ thống chi tiết cảnh vật được nhà thơ liệt kê gồm:
cống Na, đồng Quan, ga Lèn, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền cây Thị, đền Sòng…,
giúp người đọc hình dung về diện mạo một miền quê với những cảnh trí rất dân dã,
gần gũi, quen thuộc. Quan trọng hơn, nó giúp Nguyễn Duy thể hiện sâu sắc thân
phận người bà: Đó là thân phận con sâu cái kiến, thân phận thảo dân, mang sắc thái
dân đen, đối lập với Tiên Phật, Thánh thần… Bài thơ nói về sự ân hận, sự trưởng
thành muộn màng của người cháu. Sống bên bà nhưng vô tâm với nỗi khổ của bà,
sống bằng sự chăm sóc, yêu thương vất vả của bà mà cháu không hề biết.

Tôi trong suốt giữa hai bờ hư thực


Giữa bà tôi và Tiên Phật thánh thần

Người cháu đã sống rất thực với cái hư và sống rất hư với cái thực. Chữ hư mang
hai nghĩa: hư ảo và hư đốn. Nó chi phối quyết định đến mạch tâm sự mang màu
sắc triết luận, thể hiện quá trình giải thiêng, giải ảo. Nhìn ở góc độ tình cảm, đó là
quá trình rời khỏi niềm tin ngây thơ dành cho thánh thần để đến với tình thương
dành cho người bà, từ đối tượng mơ hồ đến đối tượng thực. Đôi khi người ta phải
trả giá cho những bài học vô cùng đắt. Khi biết yêu thương thì bà đã mất rồi. Nhìn
từ góc độ đời sống, đó là cuộc rời bỏ những đối tượng không xứng đáng để đến với
đối tượng xứng đáng hơn. Chính người dân kia mới làm nên hiện thực đời sống.
Chỉ hai chi tiết “hư” – “thực” đã nói lên sự sụp đổ niềm tin của tác giả, rời bỏ thế
giới của đức tin đơn thuần để đến với hiện thực cuộc đời gần gũi, đáng tin hơn.

Chi tiết trong thơ nhiều khi là một mật mã. Giải mã chi tiết tức nắm được ý đồ
nghệ thuật, ý đồ tư tưởng của nhà thơ. Chỉ qua một vài con chữ trong Truyện Kiều,
như chữ “tót” (Ghế trên ngồi tót sỗ sàng), chữ “cò kè” (Cò kè bớt một thêm hai)
mà thi hào Nguyễn Du đã lật tẩy cả một chân dung kẻ con buôn, vô học, thô lỗ của
nhân vật Mã Giám Sinh, hay một chữ “lẻn” làm lộ ra một tính cách mờ ám, lén lút,
tráo trở… của Sở Khanh, hay hai chữ “mặt sắt” đã gọi ra một chân dung tính cách
lạnh lùng, hiểm độc, tàn nhẫn và bỉ ổi của Hồ Tôn Hiến… Các chữ “tót”, “cò kè”,
“mặt sắt” được gọi là những chi tiết đắt giá làm nổi lên hồn cốt nhân vật.

Chi tiết trong thơ hàm chứa nhiều nét nghĩa, nhiều giá trị được gọi là tín hiệu nghệ
thuật. Để giải mã chi tiết trong thơ đôi khi cần đến cả một chiều sâu văn hóa. Ví dụ
để hiểu câu thơ: Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn (“Đất nước” –
Nguyễn Khoa Điềm) phải hiểu về nghi thức giao đãi, về nét đẹp trong phong tục ăn
trầu của người Việt. Để cắt nghĩa được hình ảnh, người đọc buộc phải liên tưởng
về câu chuyện cổ Trầu cau và rất nhiều câu ca dao mượn hình ảnh cau trầu để bộc
lộ khát vọng nhân duyên và tình yêu đôi lứa. Từ chiều sâu văn hóa của hình ảnh
miếng trầu, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhấn mạnh đến chiều dài của lịch sử và bề
dày của văn hóa – những phương diện cấu thành Đất nước. Hình ảnh thơ đó góp
phần làm sáng tỏ tư tưởng Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao, thần thoại
– một tư tưởng cốt lõi trong chương thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.

Cảm nhận chi tiết trong thơ không chỉ là đi tìm nhãn tự, giải mã từ ngữ, cắt nghĩa
hình ảnh mà cần đặt nó trong tương quan với các biện pháp tu từ, cách sử dụng
ngôn ngữ, âm, vần, nhịp điệu…để khám phá cái hay, cái đẹp của câu thơ. Đặc biệt,
cần chú ý đến tứ thơ, vì mọi chi tiết trong thơ thường xoay quanh tứ thơ. Tách rời
chi tiết khỏi tứ thơ là tách rời nó khỏi chỉnh thể nghệ thuật, mọi sự khám phá sẽ
thiếu tính toàn vẹn. Chi tiết có thể giống nhau nhưng tứ thơ là sáng tạo đơn nhất,
không lặp lại. Gắn chi tiết với tứ thơ mới thấy được tài năng sáng tạo của thi sĩ.

Những hình ảnh dòng sông, con thuyền, nhịp cầu, cánh chim, làn mây, khói
sóng…không phải là những hình ảnh xa lạ với thơ ca truyền thống. Nhưng đi vào
bài thơ “Tràng giang” (Huy Cận), chúng được tập trung làm rõ cho sự phi hòa điệu
của tạo vật với nhau và giữa con người với tạo vật, nhằm khắc họa cái Tôi cô đơn
và nỗi buồn sông núi của nhà thơ. Tứ thơ đó đã chi phối mạch cảm hứng của bài
thơ, khiến tất cả các hình ảnh chỉ nhằm phản ánh sự mênh mông vô biên (về chiều
kích) và sự hoang vắng cô liêu (về tính chất) của tràng giang. Con thuyền và dòng
nước, cành củi khô, cồn nhỏ đìu hiu, sông dài trời rộng, cánh chim chiều chao
nghiêng…mô tả sự lạc lõng, chia rời, sự hoang vắng, trống trải đến rợn ngợp của
đất trời. Đối diện với cảnh ấy, con người càng cảm thấy cô đơn. Cô đơn trên chính
quê hương, đất nước mình là tâm trạng chung của cả một thế hệ thi nhân mất nước
lúc bấy giờ, nhưng có lẽ Huy Cận với bài thơ Tràng giang là tiêu biểu nhất.

Ngoài những yếu tố nêu trên, cảm nhận chi tiết trong thơ còn đòi hỏi người đọc có
một năng lực thẩm thấu nhất định. Cảm thụ thơ xưa nay chưa bao giờ là điều dễ
dàng, bởi đó là sự cảm thụ cái hay, cái đẹp. Để hiểu về cái hay, cái đẹp cần có sự
kết hợp giữa một tâm hồn nhạy cảm biết rung động với một con mắt tinh tế biết
phát hiện và một khả năng sử dụng ngôn từ chọn lọc. Cần một sự bồi đắp, trau dồi,
rèn giũa lâu dài mới đạt được.

Tóm lại, khó thể phủ nhận vai trò và tầm quan trọng của chi tiết trong tác phẩm
nghệ thuật. Với nhà văn, quá trình sáng tạo gắn liền với ý thức làm nên những chi
tiết đặc sắc, góp phần thể hiện nội dung, chủ đề của tác phẩm. Chi tiết gánh trọng
trách chuyển tải đến người đọc những thông điệp mà nhà văn gửi gắm, những cách
nhìn và quan niệm sâu xa về con người và cuộc đời của người nghệ sĩ. Với người
đọc, cảm nhận chi tiết nghệ thuật là mở những cánh cửa đầu tiên để đi vào thế giới
nghệ thuật của một tác phẩm văn học. Nhà văn sẽ không thể làm nên tên tuổi nếu
tác phẩm của anh ta không bắt đầu từ những chi tiết. Người đọc sẽ không nối được
nhịp cầu tri âm với tác giả nếu không thông qua tác phẩm từ những chi tiết nghệ
thuật nhỏ nhất bởi chân lí trong sáng tạo nghệ thuật luôn là: “Chi tiết nhỏ làm nên
nhà văn lớn”.
Đề bài:
Nhận xét về sáng tác của Thạch Lam, Nguyễn Tuân viết: “Xúc cảm của nhà văn
Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con
người ở tầng lớp dân nghè. Thach Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống, trang
trọng trước sự sống của mọi người xung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn
thấy đầy đủ cái dư vị mà nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất
văn học”.
(Theo tuyển tập Nguyễn Tuân, tập III, NXB văn học Hà Nội, 1996, trang 375)
Anh, chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Dựa và một số sáng tác của Thạch
Lam, hãy chứng minh ý kiến đó.
(Đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 2000, Bảng A)
Bài làm:
Giữa bộn bề phồn hoa tại buổi chợ phiên văn chương, giữa náo nhiệt đông đúc của
gian hàng lãng mạn, Thạch Lam được nhận ra như một khách hàng khá đặc biệt.
Người con của Tự Lực văn đoàn ấy đã không đưa ta đến những chân trời phiêu du,
mộng tưởng của những tình yêu, khát vọng thường thấy trong trào lưu lãng mạn
mà dắt ta đi vào giữa cõi đời ta đang sống. Con người dịu dàng nhân ái ấy đã
nguyện găn ngòi bút của mình với những kiếp người đau khổ, vẫn luôn trân trọng
sự sống nơi trần gian. Nói như Nguyễn Tuân: “Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam
thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở
tầng lớp dân nghèo. Thạch Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng
trước sự sống của mọi người xung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam vẫn thấy
đầy đủ cái dư vị và cái nhã thủ của những tác phẩm có cốt cách và tác phẩm văn
học”.
Cũng là một nhà văn có tâm huyết với đời, Nguyễn Tuân đã đem tấm lòng mình ra
để cảm Thạch Lam, để thấy được bên trong những dòng chữ rất đỗi yên bình ấy là
cả trái tim của một con người không khi nào vơi cạn tình yêu cuộc sống và tình
thương đối với dân nghèo. Lời nhận xét của Nguyễn Tuân đã khái quát được phẫm
chất tâm hồn Thạch Lam và những giá trị đích thực của văn chương Thạch Lam.
Giống như cái cây xanh ngoài kia hút màu từ đất mẹ, tác phẩm văn học phải bắt rễ
sâu chắc vào mảnh đất cuộc đời để từ đó toả ra những tán lá rộng, dày góp phần
làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Hơn thế tác phẩm nghệ thuật phải là tiếng nói xuất
phát từ những rung động chân thực của nhà văn trước hiện thực nảy nở lên từ
những tình cảm nhà văn dành cho con người. Nhà văn phải biết sống hết mình cho
cuộc đời, biết đau đớn, căm phẫn cùng những cảm xúc của con người, biết sống
cùng những ước mơ, khát vọng của mọi người quanh mình. Nếu thiếu đi trái tim
đầy tình yêu thương của nhà văn thì cái hiện thực kia sẽ mãi mãi nằm trong yên
lặng. Vâng, không có gì khác ngoài tình yêu và tâm huyết của người nghệ sĩ đã làm
nên giá trị cho tác phẩm.
Giá trị của những truyện ngắn Thạch Lam cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Nguyễn Tuân cho rằng: “Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và
nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo”.
Sống trong lòng xã hội thực dân nửa phong kiến, chứng kiến biết bao bất công tàn
bạo của một chế độ mục rữa thối nát. Thạch Lam đã dám nhìn thắng vào sự thực ở
đời để thấy được bao kiếp người đang quằn quại đau khổ, đang vật vã trong những
bế tắc không lối thoát. Mảnh đất hiện thực nghiệt ngã ấy đã tác động vào tâm hồn
nhà văn, khơi gợi lên những xúc cảm, những rung động yêu thương chân thành. Có
lẽ Thạch Lam đã phải đau nỗi đau của con người trong thời đại ông đến thế nào,
ông mới có thể bước qua ngưỡng cửa của văn học lãng mạn để đến với văn học
hiện thực. Chúng ta không quên quan niệm bất hủ của ông về văn chương: “Đối
với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay
sự quên trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta
có, để vừa tố cáo và thay đổi thêm trong sạch và phong phú hơn”. Chính nhận thức
đúng đắn ấy đã giúp cho Thạch Lam có được những chân cảm đối với những con
người ở tầng lớp dân nghèo. Những “chân cảm” – phải chăng Nguyễn Tuân muốn
nhấn mạnh độ chân thực trong cảm xúc, tình cảm của Thạch Lam? Và có lẽ,
Nguyễn Tuấn đã nói lên được dòng tư tưởng, tình cảm dạt dào trong những sáng
tác của Thạch Lam, cái đề tài mà ông quan tâm hướng tới..
Hiện thực cuộc sống là rộng lớn, là vô cùng. Và mỗi nhà văn với chiếc – xẻng –
nghệ – thuật trong tay mình đã đến đào xới mảnh đất để lật lên những via hiện thực
và tìm cho mình thế giới hình tượng trong đó. Nếu như Vũ Trọng Phụng xuất sắc ở
mảng đề tài về cuộc sống thành thị của một xã hội “chó đểu”. Nếu như Nguyễn
Công Hoan tài năng trong việc khắc hoạ bức tranh thế giới quan lại khả ố, bất
lương và Nam Cao rực rỡ trong những sáng tác về người nông dân và trí thức tiểu
tư sản thì Thạch Lam lại hướng ngòi bút vào cuộc sống của những người ở tầng
lớp dân nghèo với những khám phá tinh vi về thế giới nội tâm, đời sống tinh thần
bên cạnh nỗi khổ “áo cơm ghì sát đất”.
Chúng ta không khỏi đau xót khi chứng kiến thảm cảnh Nhà mẹ Lê – một người
mẹ khốn khổ cùng với mười một đứa con nheo nhóc, đói khát. Bức tranh hiện thực
hiện lên qua mấy trang văn ấy cũng sắc sảo không kém bất cứ một tác phẩm nào
viết về cái đói cái nghèo. Nhà mẹ Lê là một nỗi đau của Thạch Lam. Cái chết của
người mẹ đáng thương ấy cùng với nỗi bất hạnh của đàn con thơ dại mà “đứa lớn
nhất mới mười bảy tuổi còn đứa bé nhất thì còn đang phải bế trên tay” chính là vấn
đề đáng quan tâm nhất, chính là cái hiện thực tàn ác mà nhà văn chân chính không
thể thờ ơ. Viết về cái gì đi chăng nữa thì số phận con người vẫn mãi là lời gọi tha
thiết nhất đối với ngòi bút nhà văn.
Với Thạch Lam, cuộc sống nơi phố huyện nghèo, tăm tối đã thu hút ông khám phá.
Và ông thấy được ở trong cái lạnh lẽo của cơn gió lạnh đầu mùa kia có cả nỗi khổ
của bé Hiền không có áo ấm mùa đông, nỗi khổ của người mẹ ngày ngày đi bắt
cua, bắt ốc, không kiếm nỗi cho con tấm áo. Những con người ấy thân thuộc với
ông quá, trong lòng ông đã rung lên những sợi dây tình cảm khi viết về cảnh đời
của những con người nhỏ bé, Có một nhà triết học đã cho rằng biết xúc cảm cũng
là một năng lực. Ta thấy điều ấy đúng với Thạch Lam. Cái năng lực đó vốn dĩ
không phải của trời cho mà nó được hình thành từ chính tấm lòng tràn đầy tình yêu
thương của nhà văn đối với nhân dân lao động.
Viết riêng về tầng lớp dân nghèo, Thạch Lam không chỉ quan tâm đến nỗi khổ vật
chất mà với ông, cái đáng sợ chính là sự xói mòn về tâm hồn. Tuyện ngắn Hai đứa
trẻ đã chỉ ra bi kịch ấy. Cái mới của Thạch Lam trong việc thể hiện nổi khổ con
người là ông phát hiện ra nỗi khổ phải sống trong canh quẩn quanh, tù túng, bế tắc,
phải chìm nghỉm trong cái “Ao đời phẳng lặng” (chữ của Xuân Diệu).
Cuộc sống của Liên và An có khác gì sự giam hãm về tinh thần? Mỗi ngày cứ đi
qua trong cái im lặng đáng sợ của bóng tối trong sự lặng lẽ của quầy hàng không
có khách. Một cuộc sống không sôi nổi, không biến động, không ước mơ, cuộc
sống ấy không đáng bị thay đổi lắm sao? Ngay cả đến hình ảnh thiên nhiên cũng
nhuốm vẻ u buồn: “Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm như rư”. Câu văn Thạch
Lam cứ lặng lẽ đi như cái nhịp sống chầm chậm, nặng nề của cuộc đời. Và đáng sợ
nhất vẫn là bóng tối, bóng tối qua ánh sáng leo lét của ngọn đèn dâu nơi chống
hàng chị Tí hay ánh lửa trong gánh phở bác Siêu. Cái leo lét nhập nhoè của thứ ánh
sáng yếu ớt ấy và của cả những vì sao trên bầu trời nữa cũng không chống chọi nỗi
sự bao phủ của màn đêm. Nó chỉ cho ta thấy sự đối lập khủng khiếp giữa ánh sáng
và bóng tối. Và cuộc đời của những con người kia, những Liên, những An, những
chị Tí, bác Siêu, bà cụ Thi cũng có khác gì ngọn đèn leo lét đó, không thể toả sáng
được giữa bóng đêm mịt mùng của cuộc đời. Truyện giản dị, nhẹ nhàng mà gợi
cho ta bao suy tư về số phận con người. Chính những xúc cảm của nhà văn đã đem
đến cho người đọc sự xúc động, để lại những băn khoăn, day dứt trong mỗi chúng
ta.
Thạch Lam đã thổi trong Gió lạnh đầu mùa sự ấm áp của tình người, của lòng
thương. Ông đã để nhân vật Sơn đem tấm áo cho bé Hiên, để Hiện bớt đi cái lạnh,
để Hiên cảm thấy cuộc sống chưa hẳn đã đau khổ. Gió vẫn cứ lạnh đấy nhưng dù
gió lạnh đến thế nào thì tình người vẫn cứ vượt lên trên tất cả. Nguyễn Tuân đã rất
đúng khi cho rằng: “Thạch Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống trang trọng
trước sự sống của mọi người xung quanh”. Phải rồi nếu không có sự quý trong
cuộc đời của nhà văn thì chắc hẳn những người như bé Hiện sẽ suốt đời không có
được một manh áo ấm và triết lí về tình thương sẽ tuột khỏi tác phẩm, rơi vào trong
cái lạnh lẽo của thiên nhiên. Đọc Gió lạnh đầu mùa, tôi không cảm thấy cái lạnh
tràn về mà bỗng thấy lòng mình như được sưởi ấm bởi hơi nóng của tình yêu
thương con người. Vâng, tình cảm thánh thiện trong tâm hồn một đứa trẻ như Sơn
sẽ xua đi mọi lạnh giá khắc nghiệt của thời tiết bởi vì “không có gì nghệ thuật hơn
bản thân lòng yêu quý con người”. Thạch Lam đã cho tôi thấm thía chân lí ấy và
còn gì đẹp hơn một tác phẩm “ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình…Nó
làm cho người gần người hơn” (Nam Cao).
Có một ai đó đã nói: Hi vọng chính là một nghệ thuật sống. Đọc những trang viết
của Thạch Lam, người ta cũng thấy một niềm hi vọng được nhen nhóm lên từ
trong chính những đau khổ mờ mịt của cuộc đời. Nhà văn đã yêu cuộc sống, trân
trọng nó, nâng niu nó và đã đặt cả con tim mình lên câu chữ để đem theo cái hơi
thở nồng nàn của sự sống đến cho người đọc. Từ cái quấn quanh, ngột ngạt của
cuộc sống tù túng nơi phố huyện, người đọc vẫn thấy một niềm tin ở tương lai cho
dù nó thật mong manh và yếu ớt – mong manh như chính cuộc đời của những con
người nơi đây, yếu ớt như ánh sáng ngọn đèn, ánh lửa trong đêm tối.
Thạch Lam đã không làm mất đi trong ta ngọn lửa của niềm hi vọng. Tình yêu mến
và trân trọng cuộc sống đã giúp ông xây dựng nên nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ,
để cho Liên có một ước mơ. Cảnh đợi tàu và mong ước của chị em Liên là một
sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Con tàu đi qua sẽ chẳng có gì cả trong
nhận thức của con người. Có chăng Tế Hanh đã từng thốt lên:
Tôi thấy tôi thương những chuyến tàu
Ngàn đời không đủ sức đi mau
Có chi vương vịu trong hơi máy
Với những toa đầy nặng khổ đau.
Nhưng với Liên đó là cả một niềm khát khao. Con tàu trong suy tưởng của Liên
không phải chở đi những đau khổ của kiếp người mà nó là ánh sáng, là hệ vọng nơi
phố huyện này. Con tàu chở những ước mơ của chị em Liên về một Hà Nội đầy
ánh sáng, Hà Nội của niềm vui rực rỡ. Nên cải ước mơ được nhìn thấy một chuyến
tàu ở chúng ta thật bình thường thì đối với Liên nó thật mãnh liệt và lớn lao biết
bao nhiêu. Nhưng Thạch Lam muốn cho người đọc hiểu rằng: Liên mơ ước chuyến
tàu cũng chính là đang mơ ước về một sự sống sôi nổi hơn, về một cuộc đời có
nhiều ánh sáng hơn, nhiều niềm vui hơn. Và khi nhà văn miêu tả nỗi khát khao bé
nhỏ hết sức tội nghiệp của chị em Liên, ông không chỉ muốn qua đó thể hiện bức
tranh hiện thực cuộc sống và tâm hồn con người mà hơn thế, nhà văn còn gợi lên
trong ta những khao khát cao đẹp, những ước muốn được đấu tranh cho sự sống
tươi đẹp của con người. Nói như nhà văn Nga Sôlôkhộp: “Đối với con người, sự
thực đôi khi nghiệt ngã, nhưng bao giờ cũng cũng cảm, củng cố trong lòng người
đọc niềm tin ở tương lại. Tôi mong muốn những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con
người tốt hơn, tâm hồn trong sạch hơn, thức tỉnh tình yêu đối với con người và
khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người”.
Thạch Lam cũng đã gặp Sôlôkhóp trong quan niệm về văn học ấy khi ông khẳng
định văn chương chính là thứ khí giới để làm cho “lòng người được thêm trong
sạch và phong phú hơn”.
Với Thạch Lam, “cái đẹp chính là sự sống” (Secnusepxki). Không có gì cao cả hơn
sự sống trên trái đất này. Và thông qua Hai đứa trẻ, nhà văn đã mang đến cho ta
một niềm tin về cuộc sống, thức tỉnh ta thoát khỏi kiếp sống mòn. mỏi, bế tắc, ngột
ngạt về tinh thần, khơi dậy trong ta ý thức đấu tranh cho cái đẹp trong tâm hồn
những đứa trẻ, cũng là cho cái đẹp trên trái đất này. Thiếu đi tình yêu mến cuộc
sống, lòng trân trọng sự sống của mọi người xung quanh, làm sao Thạch Lam có
thể viết nên những tác phẩm có giá trị, những sáng tác để cho cái đẹp trên trái đất,
cho lời kêu gọi đấu tranh về hạnh phúc, niềm vui và tự do, cho cái cao rộng của
tâm hồn và cho cái rực rỡ như những mặt trời không bao giờ tắt?
Có một lần khi viết về Nguyễn Tuân, Thạch Lam đã khẳng định: “Trong cái vội vã
cẩu thả của những tác phẩm xuất bản gần đây, những sản phẩm đã hạ thấp văn
chương xuống mực những tác phẩm đua đòi, người ta lấy làm sung sướng khi thấy
một nhà văn kính trọng và yêu mến cái đẹp, coi công việc sáng tạo là một công
việc quý báu và thiêng liêng”. Chúng ta cũng có thể dành chính những lời ca tụng
đẹp đẽ ấy cho Thạch Lam – nhà văn đã hết lòng quý mến cuộc sống và luôn luôn
có trách nhiệm với ngòi bút của mình. Đọc văn Thạch Lam, quả thực ta thấy được
“đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn
học”.
Nguyễn Tuân đã cảm nhận được ở văn Thạch Lam cái thần chắt chiu từ ngòi bút
nhà văn, cũng chính là cái thần thái của con người Thạch Lam. Đó là một nhà văn
dịu dàng trong hành động nhân từ trong suy nghĩ. Một nhà văn bằng cả cái tinh tế
của hồn mình để cảm nhận được cái sắc màu của lá rơi, của những gì dịu dàng bé
nhỏ nhất trong đời. Văn Thạch Lam cũng có phong thái ấy. Đó là phong thái của
những tác phẩm có “cốt cách và phẩm chất văn học”. Trước hết nên hiểu thế nào là
một tác phẩm có “cốt cách và phẩm chất văn học”? “Cốt cách” là cái riêng, cái độc
đáo, phong cách thể hiện được hồn người, tình người. Một tác phẩm có “cốt cách”
phải là một tác phẩm có giá trị, mang đến cho người đọc những hiểu biết về khơi
gợi những tình cảm đẹp. Hơn thế, nó phải có “phẩm chất văn học” nghĩa là phải
được chứa đựng trong một hình thức phù hợp, có phương tiện biểu hiện nghệ thuật
tương xứng.
Văn Thạch Lam là thứ văn có cốt cách và phẩm chất bởi nó đã mang đến cho ta
những suy nghĩ sâu xa về số phận và cuộc đời, Đọc văn ông lại có sự thích thú
trước một lối văn đầy “dư vị và nhã thứ”. Có người nói: Truyện Thạch Lam bàng
bạc một chất thơ cuộc sống mỗi câu chuyện là một bài thơ đầy xót thương. Quả
thực ta đã từng day dứt trước một lối văn sắc lạnh, khách quan, tỉnh táo cuả Nam
Cao, hả hê bất ngờ trước những trang viết châm biếm của Nguyễn Công Hoan và
khóc cùng những giọt nước mắt trong văn Nguyên Hồng. Giờ đây đọc văn Thạch
Lam, ta thấy yêu cái nét đẹp nhã nhặn, bình dị, đượm buồn trong lối viết của ông.
Cái dư vị mà Thạch Lam tạo ra được chính là thực chất cuộc sống với những đau
khổ của con người, những nỗi thương tâm của gia đình mẹ Lê, nỗi thiếu thốn của
mẹ con bé Hiên, sự vất vả của những chị Tí, những cô hàng xén và sự cao đẹp
trong hồn người tình yêu bé thương con người của bé Sơn, khát vọng mơ ước đáng
quý của Kiên, những rung cảm nhẹ nhàng trong tâm hồn Thanh (Dưới bóng hoàng
lan) khi trở về quê… Những rung động ấy chính là cái dư vị của chất thơ trong
trang viết Thạch Lam và đó cũng là “nhã thú” mà Nguyễn Tuân nói đến khi tiếp
cận, đọc lại để lắng nghe chất thơ dịu nhẹ mà Thạch Lam lượm lặt để góp nên
trang viết của mình – một chất thơ bàng bạc toát ra từ tâm hồn người, nó cũng là
cái đẹp. Đưa ta vào thế giới của những rung ngân tinh vi trong tâm hồn. Thạch
Lam đã có được “niềm vui của người chiến sĩ chân chính là niềm vui của con
người biết vươn tới tương lai” (Pauxtôpxki).
Suốt đời tâm huyết với văn chương và trong những năm tháng ngắn ngủi của
những ngày sống trên cõi đời này, Thạch Lam đã đem trái tim mình đặt lên trang
viết, cho nó sống mãi với ý nghĩa của những tác phẩm có giá trị. Bằng “những tác
phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”, Thạch Lam xứng đáng với lòng yêu quý
và trân trọng của mỗi người đọc chúng ta, xứng đáng với thiên chức của người
nghệ sĩ.
– Bài văn đạt giải nhì, Kì thi học sinh giỏi quốc gia năm 2000, Bảng A –
ĐÂY THÔN VĨ DẠ – HÀN MẶC TỬ
Hàn Mặc Tử là một ngôi sao lạ trên bầu trời với muôn ngàn vì sao của thơ Mới.
Những năm tháng tồn tại trên dương gian ngắn ngủi nhưng đầy đau thương của
Hàn lại là những năm tháng của sáng tạo và thăng hoa. Thơ văn ông vừa chứa
đựng tình yêu cuộc sống mãnh liệt vừa là nỗi tuyệt vọng đến đau thương. Trong
những thi phẩm mà nhà thơ để lại, Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ khá độc đáo. Nó
như một nẻo riêng trong sáng tinh khiết, không có những bóng ma hay máu chảy,
không rên xiết quằn quại mà tràn đầy tình yêu cuộc sống với những hình ảnh tươi
đẹp huyền ảo. Phải chăng vì vậy mà thi phẩm còn đọng lại mãi trong lòng người
yêu thơ?
Đây thôn Vĩ Dạ được gợi cảm hứng từ một câu chuyện có thật của tác giả với
người con gái mang tên Hoàng Thị Kim Cúc. Hai người quen nhau trong những
năm tháng Hàn Mặc Tử còn làm ở Sở Đạc điền tỉnh Bình Định. Lúc đó Hàn Mặc
Tử đã thầm yêu con gái ông chủ Sở chính là nàng Kim Cúc. Khi thi sĩ quay lại Quy
Nhơn thì Kim Cúc lại theo cha về hẳn Huế. Mối tình thầm kín của thi sĩ từ đó đã
rơi vào vô vọng. Khi hay tin Hàn Mặc Tử bị bệnh, Kim Cúc có gửi cho chàng thi sĩ
si tình ấy một bức bưu thiếp in hình phong cảnh Huế, với lời thăm hỏi sức khỏe.
Nhận được tấm bưu ảnh ấy, Hàn Mặc Tử vô cùng xúc động và bài thơ Đây thôn Vĩ
Dạ đã ra đời. Có lẽ tấm bưu ảnh đó là tác nhân gọi dậy tiếng lòng thầm kín của thi
sĩ, là tiếng gõ cửa để nỗi khát khao sống, niềm thiết tha được gắn bó với cuộc đời
của Hàn Mặc Tử được tràn ra. Bài thơ được in trong tập “Thơ Điên” sau đổi thành
“Đau thương”, một tập thơ với hai cái tên như hai mặt đối lập mà lại thật hài hòa.
Bởi Điên hay Đau thương cũng chính là xuất phát từ tình yêu cuộc sống cháy
bỏng, từ nỗi đau khi gặp phải “hoạn nạn nơi trần thế”. Nó là hai cung bậc cảm xúc
của một trái tim đã sống trọn vẹn kiếp người. Bài thơ gồm ba khổ, mỗi khổ như
một cảnh sắc riêng mà thoáng nhìn bề mặt người ta ít thấy sự liên hệ gần gũi.
Nhưng nhìn sâu hơn vào mạch ngầm của thi phẩm bạn đọc sẽ thấy một sợi dây liên
kết chặt chẽ. Đó có chính là ở trạng thái cảm xúc của thi nhân, nó như một dòng
chảy với những đứt nối, như một hành trình từ quá khứ đến tương lai cùng với một
khắc khoải không nguôi về tình yêu cuộc sống.
Mở đầu bài thơ là khổ thơ tả cảnh một khu vườn xứ Huế mang vẻ đẹp tinh khôi
trong trẻo. Câu thơ đâu tiên là một câu hỏi tu từ như chứa đựng biết bao hàm ý,
biết bao xúc cảm xa xôi:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Bạn đọc hẳn sẽ nhận ra sự đa thanh của câu thơ. Người hỏi ở đây phải chăng là cô
gái xứ Huế muốn nhắn gửi tới chàng trai đã xa Huế lâu ngày chút trách giận, lại
chút mời gọi quay trở về thăm lại Vĩ Dạ xưa? Nhưng cũng có thể lắm chứ đó là
tiếng lòng của chính người xa Huế đang tự hỏi mình: sao còn chưa thể về thôn Vĩ,
bao giờ mới có thể về thôn Vĩ lần nữa đây? Hiểu cách nào hẳn nhiên cũng có cái lý
riêng. Nhưng chúng ta đều phải thừa nhận rằng dẫu hiểu ra sao thì nó cũng chỉ ra
một hiện thực đó là “anh” đang ở xa Huế, đang cách biệt với Huế với Vĩ Dạ, chỉ có
thể hồi tưởng và nhớ về một Vĩ Dạ mộng mơ trong hồi ức. Câu thơ có 6/7 chữ là
thanh bằng như gợi đến những kỉ niệm ngọt ngào, tha thiết, những hồi ức êm đềm,
sâu lắng. Rồi dòng hồi ức ấy cứ chảy ra, cảnh sắc khu vườn dần hiện lên qua từng
nét bút:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Một thôn Vĩ chỉ còn như vậy thôi, chỉ còn mơ hồ vài nét vẽ nhưng đó hẳn là những
ấn tượng được lưu giữ mãi mãi không phải trong miền kí ức của thi nhân. Đó là
nắng thứ nắng trong trẻo đến tinh khôi của ngày mới. Nó không phải là thứ nắng
chang chang hay ửng hồng ta gặp trong “Mùa xuân chín”:
– Trong làn nắng ửng khói mơ tan
– Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang
Nó cũng không phải cái “Nắng xuống trời lên sâu chót vót” trong thơ Huy Cận,
không phải cái nắng hạ bừng chiếu như mặt trời chân lý trong thơ Tố Hữu. Trong
Đây thôn Vĩ dạ, Hàn Mặc Tử không tả nắng mà thi nhân muốn gợi nên trong lòng
bạn đọc cái tinh khôi, trong trẻo. Nắng trong thi phẩm là những tia nắng đầu tiên
của một ngày. Trong câu thơ 7 chữ nhà thơ nhắc đến “nắng” hai lần như muốn
nhấn mạnh màu nắng trong trẻo tinh khôi ấy, như muốn mở ra cả một khu vườn
với sắc nắng ngập tràn. Đó là “nắng mới lên” trên những thân cau thẳng mướt.
Chúng ta đều biết cau là loài ưa nắng, thân thẳng không xòe tán, là thứ cây dường
như luôn được đón những tia nắng đầu tiên của một ngày. Vì vậy nắng trên hàng
cau có lẽ ánh nắng tinh khôi vẹn nguyên nhất. Dường như sau một đêm thấm đẫm
sương giăng, buổi ban mai đến những hàng cau lại đón nắng mới, cành lá lung linh
hồi sinh sức sống. Cho nên ánh nắng đó là nắng ướt, tươi mới và long lanh. Nó vừa
đủ ấm áp, vừa đủ trong trẻo lại không quá chói lóa, không quá gay gắt. Để rồi dưới
ánh nắng ấy cả khu vườn như bừng lên một sức sống thanh tân:
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Đại từ phiếm chỉ “ai” như khiến khu vườn trở nên xa xôi mờ ảo. Nó gợi bao nhớ
thương vừa thân thiết lại vừa xa vắng. Đặc biệt cách dùng từ và so sánh trong câu
thơ này cũng rất tinh tế tài hoa. Để tả cái xanh của cây lá thi nhân dùng chữ
“mướt” chứ không phải “mượt”. “Mướt” đâu chỉ là màu xanh tươi của cây lá mà
còn gợi thêm cái non tơ, mềm mại, óng ả, cái sức sống thanh xuân căng tràn tươi
tốt của khu vườn. Hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” vốn không xa lạ trong thơ
văn nhưng trong câu thơ này khi được cộng hưởng với những câu chữ khác lại tạo
ra một hình ảnh mang nét đẹp riêng. Người đọc như thấy trước mắt cái sắc xanh
của khu vườn, nó không chỉ mượt mà, tươi tốt mà còn có gì đó rất sáng, rất trong
như sắc ngọc lung linh. Từ “quá” gợi như tiếng reo lên trầm trồ mà ngỡ ngàng, như
một giây phút thi nhân không thể nén kìm được cảm xúc trước cái đẹp ngời sáng,
thanh tú của cỏ cây. Cả khu vườn vì thế mà như vừa thực vừa ảo, căng tràn sức
sống lại cao quý thanh tân. Một khu vườn như vậy làm sao có thể không nhớ,
không yêu?
Trong cái mướt mát của cây lá ấy thấp thoáng ẩn hiện một gương mặt chữ điền.
Xưa nay vẫn có nhiều ý kiến tranh luận về cách hiểu gương mặt chữ điền này. Đó
là gương mặt đàn ông hay đàn bà? là gương mặt của cô gái Huế hay của chàng trai
xa Huế, là gương mặt của người Vĩ Dạ hay của người đang nhớ về Vĩ Dạ. Có một
đặc trưng của bút pháp lãng mạn mà chúng ta nên lưu ý để có thể hiểu đúng về câu
thơ này. Các nhà thơ lãng mạn khi tả người thường chỉ gợi những cảm nhận chung
mà ít đi vào miêu tả chỉ tiết đường nét cụ thể. Hàn Mặc Tử cũng không phải là một
ngoại lệ. Gương mặt chữ điền gợi cho người đọc về một vẻ đẹp phúc hậu, chất
phác là cái đẹp của tâm tính hơn là của dung nhan. Vì vậy ở đây dẫu hiểu thế nào
chúng ta đều có thể cảm nhận thấy sự hòa hợp giữa cảnh và người, thấy được vẻ
thấp thoáng như có như không của gương mặt người ẩn lấp sau tàng lá, như mách
bảo ta về một khoảng cách xa xôi, về một không gian chia cắt của người nơi này và
ngoài kia.
Như vậy có thể thấy khổ thơ thứ nhất là những nét vẽ đơn sơ nhưng tinh tế và tài
hoa về vẻ đẹp của Vĩ Dạ của xứ Huế hay của chính cuộc sống tươi đẹp ngoài kia.
Nó là bức tranh về một khu vườn trong ánh nắng ban mai vừa trong trẻo, tinh khiết
vừa tràn đầy sức sống. Tất cả mọi chỉ tiết đều hòa hợp trong sự thanh tân vừa giản
dị gần gũi vừa lôi cuốn người đọc. Khi viết những câu thơ này, nhà thơ đã ở một
nơi rất xa Vĩ Dạ, đang chịu cái đau đớn dày vò của bệnh tật, của mặc cảm và sự cô
đơn. Nhưng những hồi ức về Vĩ Dạ vẫn hiện lên trong trẻo, tươi nguyên, nhà thơ
vẫn hướng về cuộc đời với một tình yêu mãnh liệt. Có lẽ phải yêu lắm, phải gắn bó
lắm, phải nhớ thương lắm, người ta mới có thể quên đi những đau đớn mà mình
đang phải chịu để chỉ nhớ về những tươi đẹp nên thơ. Phải chăng vì tình yêu mãnh
liệt ấy mà độc giả không thể không rung động trước bức tranh thi nhân vẽ ra?
Từ cảnh sắc khu vườn trong trẻo ở khổ thơ thứ nhất, khổ thơ thứ hai mở rộng
không gian đến dòng sông Hương với gió mây, sông nước, thuyền trăng:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Thơ Hàn thường có lối chuyển tứ nhanh, đột ngột đến bất ngờ như vậy. Ở bài thơ
này ta cũng bắt gặp đặc điểm ấy. Trong thoáng chốc khu vườn trong trẻo xinh xắn
đã được chuyển sang cảnh mây trời, sông nước quạnh vắng đượm một nỗi buồn
chia lìa. Cảm xúc ấy được gợi lên ngay từ câu thơ mở đầu khổ thơ. Chúng ta dễ
dàng nhận ra sự đứt gãy, chia ly khi câu thơ bị ngắt làm hai vế với nhịp thơ ¾ như
ném hai sự vật về hai phía trái ngược nhau. Trong tự nhiên, gió và mây là hai sự
vật gắn liền với nhau, gió thổi mây trôi. Vậy mà ở hai câu thơ này hai hình ảnh lại
bị tách rời trong hai nhịp thơ gợi cảm giác chìa lìa, tan tác. Gió theo đường của gió,
mây theo đường của mây. Chúng dường như chẳng còn gắn bó liên quan gì với
nhau nữa. Có lẽ bút pháp lãng mạn đã tạo ra những hình ảnh đầy nghịch lý đi
ngược lại quy luật của tự nhiên giúp nhà thơ diễn tả nỗi niềm tâm sự của mình.
Căn bệnh hiểm nghèo mà Hàn Mặc Tử mắc phải khi tuổi còn quá trẻ, phải sống với
những đau thương, mặc cảm và cách biệt với cuộc đời đã khiến thơ ông luôn phảng
phất một nỗi đau, niềm bi ai, sự chia lìa.
Từ sự chia ly của mây gió trên bầu trời quạnh vắng đã in bóng xuống dòng Hương
giang:
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa để thể hiện nỗi buồn từ lòng người
tràn ra cả không gian cảnh vật. Đâu chỉ mây gió chia ly, buồn tan tác mà đến cả
dòng Hương giang cũng đìu hiu, quạnh vắng mang nỗi buồn mênh mang. Vẫn là
dòng Hương giang ấy, vẫn là con sông của biết bao thi phẩm ấy nhưng trong thơ
Hàn lại chứa đựng một nỗi niềm khác, một tâm tư khác. Không chỉ trên dòng nước
phẳng lặng in bóng mây trời buồn thiu, mà hai bên dòng sông những bông hoa bắp
như có như không lay động khe khẽ. Hoa bắp vốn là một thứ hoa dung dị của đời
thường, không sắc, không hương, bông rất nhẹ và mỏng manh. Nhà thơ thật tinh tế
khi dùng từ “lay” để gợi chuyển động của hoa bắp. “Lay” là những chuyển động
rất nhẹ, rất khẽ chỉ là một chút thoáng qua. Nó là một động từ mà dường như ko để
diễn tả hành động mà thể hiện nhiều hơn những tâm tình, xúc cảm. Chúng ta từng
bắt gặp trong thơ hình ảnh những bông hoa lay động bên bờ sông vắng. Từ trong
ca dao:
Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió đưa bông sậy bỏ buồn lòng ai
Đến thơ ca hiện đại sau này:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
(Quang Dũng – Tây Tiến)
Dường như những câu thơ này đều gợi đến một cảm giác chung, trong cái lay động
của hồn hoa là nỗi bi thương của lòng người, là sự tĩnh lặng của không gian.
Hai câu sau của khổ thơ thứ hai đưa thời gian đến một đêm trăng huyền ảo:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Các thi liệu trong hai câu thơ là các thi liệu đã rất quen thuộc. Đó là hình ảnh
thuyền, bến, sông, trăng… Những hình ảnh chảy trong thi ca từ ca dao tới thơ
trung đại rồi hiện đại. Các hình ảnh này thường gợi đến một không gian lãng mạn,
một cảnh sắc nên thơ và thường gắn với những hẹn hò của lứa đôi. Trong thơ Hàn
Mặc Tử trăng cũng là một hình ảnh đặc biệt đã trở thành một mã hóa ám ảnh
những người yêu thơ ông. Hình ảnh trăng trong thơ Hàn có một sự vận động rất rõ
nét qua các thời kì. Có những khi “Trăng nằm sõng soài trên cành liễu”, có những
lúc “mở cửa nhìn trăng trăng tái mặt”, lại có lúc “hôm nay có một nửa trăng thôi/
một nửa trăng ai cắn vỡ rồi”… Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử gắn với những đau
thương tột cùng, khát vọng tột cùng của ông. Vì thế trăng ko chỉ là hình ảnh lãng
mạn mà nhiều khi còn là trăng ứa máu, trăng điên loạn. Nếu nhìn trong sự vận
động ấy, vầng trăng trong Đây thôn Vĩ Dạ thật đặc biệt. Đó không phải là ánh
trăng gợi tính dục cũng ko phải là ánh trăng đau thương điên loạn như trong nhiều
bài thơ khác của nhà thơ bạc mệnh. Đó là ánh trăng lấp lánh, là ánh trăng huyền ảo,
là ánh trăng cô đơn nhưng không ghê sợ mà gợi một vẻ đẹp đặc biệt. Cả một dòng
sông lấp lánh ánh trăng và những con thuyền như chở đầy trăng đang trôi nhẹ giữa
dòng nước. Một không gian tương phản giữa đêm tối mịt mờ và ánh sáng lấp lánh,
tương phản giữa không gian tĩnh mịch với con thuyền chở trăng. Có cô đơn, có đau
đớn nhưng lộng lẫy và huyền ảo. Đại từ phiếm chỉ “ai” một lần nữa góp phần làm
nên sự hư ảo cho câu thơ. Song có lẽ chữ đắt nhất trong hai câu thơ này và cả trong
toàn bài thơ chính là chữ “kịp” đi cùng với câu hỏi tu từ ở câu cuối, gợi đến cái
khắc khoải và đau thương trong tâm can của thi sĩ họ Hàn. Chữ “kịp” ấy đã gói
trọn những âu lo, tuyệt vọng, đau đớn của nhà thơ, đã thể hiện trọn vẹn khát vọng
sống đến tột cùng nhưng số phận lại bất hạnh và bi thương. Hàn Mặc Tử đang phải
chạy đua với thời gian, với bệnh tật với cái chết. Trong cuộc chạy đua ấy dường
như những nỗ lực của người thi sĩ đã đi đến tuyệt vọng. Nhưng tình yêu với cuộc
đời, khát vọng sống, khát vọng giao cảm với thế giới ngoài kia vẫn mạnh mẽ cháy
bỏng. Chính những thôi thúc đó khiến Hàn Mặc Tử luôn đau đớn, khắc khoải về
cuộc trở về. Như vậy ở khổ thơ thứ hai chúng ta đã thấy được sự vận động của tứ
thơ sự thay đổi không chỉ về không gian, thời gian mà hơn cả là dòng cảm xúc. Từ
hồi ức về thôn Vĩ dường như thi sĩ đã quay trở lại thực tại để nhìn thấy những bi
thương bất hạnh cuộc đời mình. Phải chăng vì thế cả khổ thơ thấm đẫm sự chia lìa?
Khổ thơ thứ ba là mở đầu bằng hình ảnh khách đường xa
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Hình ảnh khách đường xa được lặp lại hai lần như nhấn mạnh một bóng dáng ngày
càng mờ ảo xa xôi. Ở vế thứ hai của câu thơ, chữ mơ mất đi hình ảnh khách đường
xa dường như bé nhỏ dần, mờ ảo dần, như ngày một xa hơn, khó nắm bắt hơn. Phải
chăng vì thế mà dù xuất hiện con người nhưng không mang đến cảm giác vui tươi,
sum họp ngược lại càng làm tăng hơn cảm giác chia lìa, xa cách. Hình ảnh khách
đường xa đó hòa cùng với sương khói mờ nhân ảnh với sắc trắng tới hư vô nhìn
không ra. Tất cả tạo nên một không gian của hư ảo, một không gian của tâm tình
sâu lắng nhất của thi sĩ chứ không còn là không gian thực. Hàn Mặc Tử đặc biệt
yêu sắc trắng. Chúng ta từng gặp trong thơ ông sắc màu này ở nhiều bài thơ khác
Tôi sẽ đi tìm mỏn đá trắng
Ngồi lên để thả cái hồn thơ
Có lẽ cũng bởi màu trắng là màu của thanh khiết, của trinh nguyên nên Hàn Mặc
Tử dành những xúc cảm đặcbiệt trong màu này. Câu thơ thứ hai lạ về cách diễn
đạt, lạ trong cách bộc lộ cảm xúc. Nó vừa như một tiếng reo lên ngỡ ngàng ngạc
nhiên trước vẻ đẹp trắng trong mà như không có thực của “em”. Sắc trắng đó như
xòa mọi ranh giới chỉ còn lại một không gian mờ nhòa trong “mộng trắng trong”.
Không gian ở khổ ba chỉ còn một sự phân định duy nhất “ở đây”. Ở đây có lẽ là để
phân biệt với ở kia, ngoài kia. Vậy là không gian không còn là Vĩ Dạ, là Hương
giang hay là xứ Huế nữa. Không gian chỉ còn ở đây – nơi của bệnh tật, khổ đau,
tuyệt vọng, mặc cảm và chìa lìa và ngoài kia – cuộc đời với những yêu thương,
khao khát, với kí ức, kỉ niệm và hi vọng. Ta bỗng nhớ một câu thơ khác, một ý thơ
khác mà chung nhiều đau thương:
Tôi đang ở đây hay ở đâu
Ai đem tôi bỏ dưới trời sầu?
Sự chia định không gian đó cũng là một biểu hiện của đau thương và tuyệt vọng.
Vì vậy nỗi khác khoải về tình người mới càng trở nên đau đáu khôn cùng
Ai biết tình ai có đậm đà?
Đại từ phiếm chỉ “ai” xuất hiện 2 lần, câu hỏi tu từ kết thúc bài thơ, về mặt hình
thức là sự liên kết với hai khổ thơ trên, về mặt cảm xúc là biểu hiện tột cùng của
đau thương dâng trào. Còn gì đau đớn hơn khi khát khao giao cảm với cuộc đời mà
phải chịu càng chia lìa, cô độc. CÒn gì đau đớn hơn khi ta thương nhớ về ngoài
kia, mà với ngoài kia ta sẽ dần bị lãng quên? Liệu còn tình ai sẽ đậm đà? Còn ai sẽ
thương nhớ?……
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ lạ trong phong trào thơ mới. Đây thôn Vĩ Dạ là thi
phẩm lạ trong gia tài thơ của thi sĩ. Bài thơ không ma quái, ko ám ảnh mà trong
trẻo đến lạ kì. Có lẽ đó là phần kí ức đẹp tươi của thi sĩ về cuộc đời, là ước vọng
trong khổ đau và khao khát. Vì thế bài thơ có đau thương nhưng lại gợi đến những
xúc cảm tích cực và trong trẻo khiến ta hiểu thêm, trân trọng hơn tâm hồn người thi
sĩ và tình yêu với cuộc đời.
Phân tích Tràng giang – Huy Cận (Bài làm của Minh Thu)
TRÀNG GIANG – Huy Cận
Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm
Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa
Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu mưa
Cùng đất nước mà nặng buồn sầu núi
Những câu thơ trên như gói lại cái hồn riêng của thơ Huy Cận trước cách mạng
tháng Tám. Dường như mỗi câu thơ là chất chứa bao nỗi sầu thiên thu vạn cổ, ẩn
trong đó những tâm tình sâu nặng với quê hương đất nước. Huy Cận hay viết về
thiên nhiên, vũ trụ về những khoảng thời gian buồn vắng hiu quạnh với sự kết hợp
của chất cổ điển và hiện đại làm nên một vẻ đẹp riêng độc đáo. Bài thơ Tràng
giang là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ, cho hồn thơ Huy Cận. Bài thơ
không chỉ mang nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên mênh mông hiu
quạnh, mà còn thấm đượm cả nỗi sầu nhân thế và tấm lòng yêu nước thầm kín của
thi sĩ.
Tràng giang được gợi cảm hứng từ một buổi chiều cuối thu nơi bờ nam bến Chèm,
trước khung cảnh sống Hồng đang mùa nước lớn. Chàng thi sĩ chứng kiến những
cánh bèo, cành củi đang trôi nổi giữa dòng nước mênh mông mà gợi ngay lên một
tứ thơ. Bao trùm bài thơ dường như là một nỗi buồn mênh mang vô tận của thi sĩ
khi đứng trước thiên nhiên, đất nước và cuộc đời. Ngay từ nhan đề bài thơ đã gợi
ra chất cổ điển rất riêng của Huy Cận. Nhà thơ dùng một từ Hán – Việt để đặt nhan
đề cho bài thơ của mình. Từ Hán Việt có tác dụng lớn nhất là gợi ra không khí cổ
điển, trang trọng và phảng phất chất Đường thi. Không những vậy thay vì dùng
“Trường giang” Huy Cận biến âm dùng Tràng giang, hai âm “ang” được đặt liên
tiếp là âm mở vừa gợi được cái dài rộng của không gian vừa gợi được cái mênh
mang, bát ngát man mác xúc cảm trong lòng độc giả. Bên cạnh đó “Tràng giang”
còn có sức khái quát.
Nó không phải là một con sông cụ thể nào, không phải con sông của đời thường
mà dường như là con sông của lịch sử, của văn học, của thi nhân và còn là con
sông cuộc đời. Bước qua nhan đề, người đọc lại gặp ngay lời đề từ “Bâng khuâng
trời rộng nhớ sông dài” như bao trọn cảm hứng của toàn bài thơ. Đó là không gian
của trời rộng sông dài, là cảm xúc của bâng khuâng thương nhớ. Thế cho nên nếu
toàn bài thơ là không gian rộng lớn là cảm xúc thoáng buồn thì cũng hoàn toàn là
hợp lý.
Trong mạch cảm xúc như thế khổ một mở ra một không gian sông nước rộng lớn
mênh mang:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Hình ảnh đầu tiên của bài thơ là hình ảnh những con sóng khẽ gợn, nối tiếp nhau
đến vô cùng, vô tận, tầng tầng lớp lớp không dứt. Câu thơ sử dụng bút pháp “lấy
động tả tĩnh” của văn học trung đại. Chuyển động của con sóng chỉ là “gợn” rất
khẽ, rất nhỏ dường như tan đi trong cái không gian mênh mông của sông của trời.
Con sóng đi cùng với tràng giang đã không còn là con sóng thực mà dường như
mang một lớp nghĩa ẩn dụ mới. Nó gợi đến nỗi buồn trong tâm hồn con người
trước sự dài rộng của không gian. Cùng với hình ảnh sóng nước là hình ảnh con
thuyền đang lênh đênh xuôi theo dòng. Hình ảnh này như gợi đến kiếp sống nổi
lênh của một lớp người bé nhỏ trong xã hội. Đây cũng là một thi liệu quen thuộc
gần như đã trở thành chuẩn mực trong văn học. Trong thơ Đường, ta đã từng bắt
gặp hình ảnh con thuyền và dòng sông đầy ám ảnh, trĩu nặng cái tình của người
đưa tiễn:
Cô phàm viễn cảnh bích không tận
Duy kiến Trường giang thiên tế lưu
(Lí Bạch)
Khác chăng là con thuyền của Huy Cận không còn là con thuyền mang vẻ đẹp kĩ vĩ
nữa mà nó thoáng vẻ mênh mang gợi cái chia lìa xa cách:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Con thuyền thì nhỏ bé, hữu hạn mà dòng sông thì rộng lớn vô hạn. Cái hữu hạn đối
với cái vô hạn dường như càng tô đậm cảm giác nhỏ bé cô đơn. Hơn thế nữa
thuyền và nước vốn là những sự vật gắn bó nước chảy thuyền trôi vậy mà ở đây lại
bị chia tách với hai chuyển động ngược chiều về hai phía khác nhau. Cặp từ láy
“điệp điệp”, “song song” ở hai câu thơ trước đã tô đậm ấn tượng về nỗi buồn mênh
mang đang lan trên mặt nước, lại càng có tác dụng hơn khi tạo nên cấu trúc câu
song ứng và rồi đến câu thơ thứ ba thì hai vế đối song ứng được dồn vào một câu
thơ. “Thuyền về” đối với “nước lại” như nhấn vào cảm giác chia lìa đôi ngả. Và
phải chăng vì sự chia lìa đó mà dòng sông tràng giang càng thêm u buồn lặng lẽ?
Nếu ba câu thơ đầu mở ra một không gian Đường thi mang đậm chất cổ điển thì
câu thơ thứ tư lại mang dáng vẻ của thơ ca hiện đại:
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Trong thơ xưa nếu muốn gợi đến kiếp người nhỏ bé lênh đênh các nhà thơ thường
dùng hình ảnh hoa trôi, bèo dạt. Huy Cận lại chọn hình ảnh một cành củi khô đang
trôi dạt giữa dòng nước mênh mang để thể hiện điều đó. Biện pháp đảo ngữ cùng
cách ngắt nhịp 1/3/3 càng như nhấn mạnh hơn vào cành củi khô, nhỏ bé, khô héo,
cạn kiệt sức sống. Ý thơ này có lẽ vừa được khơi nguồn từ hình ảnh thực khi nhà
thơ đứng ở bờ nam bến Chèm giữa mùa nước lớn, những cành cây khô trôi từ
thượng nguồn về bến sông. Nhưng có lẽ nó còn mang một lớp nghĩa ẩn dụ khác.
Nó gợi về một lớp người lúc bấy giờ trong xã hội. Ý thơ này càng được làm rõ hơn
với từ “lạc” dường như là sự trôi nổi vô định, mất phương hướng. Một cành củi
khô héo không sức sống mà vẫn bị giằng xé, chao đảo giữa dòng nước mênh mang
của cuộc đời. Nó gợi đến hình ảnh một lớp người như nhà thơ trong xã hội xưa,
những trí thức tiểu tư sản có ý thức về cái tôi nhưng lại bế tắc, mất phương hướng
trước hiện thực xã hội bấy giờ. Hình ảnh này thể hiện sức sáng tạo của Huy Cận
khi ông đã mang vào thơ một hình ảnh rất đời, rất thực tạo ra một hình ảnh mới
giàu sức gợi, đậm chất hiện đại phá vỡ tính ước lệ và cổ xưa của thơ Đường. Như
vậy khổ thơ thứ nhất đã gợi lên không gian mênh mông rộng dài của sông nước,
gợi thân phận nhỏ bé mất phương hướng giữa cuộc đời của một lớp người, gợi
được nét buồn phảng phất mênh mang. Đồng thời, khổ thơ vừa mang vẻ đẹp cổ
điển lại vừa hòa quyện nét hiện đại mới mẻ, tạo nên một bức tranh thiên nhiên giàu
sức gợi.
Nếu khổ thơ thứ nhất là cái nhìn cận cảnh của nhà thơ trước dòng sông mênh mông
để thấy từng gợn sóng từng cành củi khô trôi dạt thì khổ hai là cái nhìn bao quát
toàn cảnh sông dài, trời rộng đến bâng khuâng:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Hai câu thơ đầu đã vẽ lên khung cảnh buổi chiều trên sông nước. Cảnh thật vắng
vẻ, tĩnh lặng. Nét bút chấm phá của Huy Cận đã phác họa nên một bức tranh sông
nước mênh mang đến rợn ngợp. Nhà thơ điểm vào khoảng không gian rộng lớn ấy
một vài chấm nhỏ để tạo nên sự tương phản gay gắt giữa vũ trụ bao la và những sự
vật thật nhỏ bé:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Biện pháp đảo ngữ đẩy từ “lơ thơ” lên đầu đã nhấn mạnh vào cảm giác thưa thớt,
nhỏ bé của những cồn cát. Cùng với đó là hai từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đứng ở đầu
và cuối câu thơ như gợi ra cái hiu quạnh, vắng vẻ, lẻ loi, cô đơn của cảnh vật.
Những cồn cát nhỏ ven sông trong cái gió đìu hiu của lau lách, hoang vu như làm
dấy lên trong lòng người nỗi cô đơn, buồn vắng. Không gian tĩnh lặng ấy càng
được nhấn:
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Chợ trong tâm thức người Việt gắn với tươi vui, bởi đó là nơi gặp gỡ, giao lưu của
người dân xưa. Thế nên chợ vãn, chợ tàn sẽ gợi nên sự vắng vẻ, gợi nỗi buồn. Ở
đây, nhà thơ của cảnh sắc quê hương tiếp tục dùng biện pháp lấy động để tả tĩnh.
Âm thanh vang lên những lại chỉ là âm thanh từ xa vọng lại và cũng là âm thanh
của chợ vãn nên dường như có như không, gợi cái tĩnh lặng hơn cái ồn ào, tấp nập.
Từ “đâu” đứng ở đầu câu thơ tạo ra nhiều cách hiểu. Nó có thể là từ để hỏi như đâu
đó tiếng chợ chiều vọng đến, cũng lại có thể là từ phủ định, làm gì có, đâu có đâu
tiếng chợ chiều. Đến cả tiếng chợ vãn, chợ tan mà cũng như có như không thì bức
tranh đó phải tĩnh lặng, buồn vắng tới mức nào. Một lần nữa bút pháp cổ điển lại
giúp tác giả gợi được cái vô hạn của không gian và sự nhỏ bé của sự vật, cái tĩnh
lặng của cảnh sắc với những âm thanh bé nhỏ của cuộc sống. Từ sự đối lập tương
phản đó bức tranh buổi chiều, cảnh ngày tàn hiện lên:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Câu thơ đầu như một sự mở rộng về không gian. Huy Cận đã có sự quan sát tinh tế
và kĩ càng để nhận thấy nắng càng xuống trời càng lên cao. Không gian như được
mở ra hai chiều rộng dài đến bát ngát. Thêm nữa chuyển động trái chiều mang lại
cảm giác mạnh cho người đọc về một không gian như được mở dần ra. Nhưng
chưa dừng lại ở đó, “người dệt nên những vần thơ hàm súc, triết lí” đã có cách
dùng từ ngữ thật sáng tạo. Nếu thông thường chúng ta dùng từ “chót vót” để gợi độ
cao thì ở đây ông dùng từ này để chỉ độ sâu. Sự bất thường này lại mang đến một
hiệu quả lớn. Bạn đọc như nhận ra một chiều khác nữa của không gian sông nước
đó là chiều sâu, không gian được đẩy tới tận cùng tạo ra một chiều kích mới. Và
phải sâu đến độ nào để thi nhân phải thốt lên “sâu chót vót”. Cụm từ sáng tạo này
càng khiến cho khung cảnh thêm rợn ngợp, cái lẻ loi chống chếnh của con người
càng được tô đậm thêm. Ở câu thơ sau một lần nữa các chiều kích của không gian
được nhắc lại trong cái vô hạn của đất trời. Và không gian càng mở ra bao nhiêu
thì cảm giác cô liêu càng được nhấn mạnh bấy nhiêu. Cái điểm dừng bé xíu của
bến cô liêu như lạc giữa đất trời, như lẻ loi đến cô độc. Như vậy khổ thơ thứ hai
trong cái nhìn bao quát taofn cảnh vật của thi nhân đã mở rộng không gian ra mọi
chiều kích, tới không giới hạn để rồi nhìn lại con người càng thêm bé nhỏ, trống
vắng và cô quạnh.
Hướng điểm nhìn vào hai bên bờ sông, chàng thi sĩ phát hiện ra hàng loạt những
hình ảnh khác nhỏ bé của bến sông và dường như các hình ảnh này càng giúp thi
nhân tô đậm sự buốn vắng, cô quạnh, chia lìa.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Hình ảnh bèo dạt rất quen thuộc và xuất hiện nhiều lần trong thơ ca truyền thống.
Nhưng ở đây cánh bèo dạt vẫn gợi lên những cảm nhận mới. Hình ảnh này diễn tả
một cách thấm thía sự hợp tan, chia lìa của những kiếp người chứ không chỉ gợi sự
nhỏ bé mong manh, trôi dạt như trong thơ ca truyền thống. Bèo dạt hàng nối hàng
như bao kiếp người lênh đênh trên dòng nhân thế. Cảm nhận về sự lênh đênh, trôi
dạt vô dịnh của một kiếp người càng khiến nỗi sầu tăng lên gấp bội trong lòng thi
nhân. Ở khổ thơ này Huy Cận còn nhắc đến những chuyến đò và những cây cầu.
Đây là những hình ảnh gợi sự kết nối, giao lưu. Vậy mà tác giả nhắc tới những sự
vật đó, không phải là để khẳng định cái có mà là để miêu tả cái không có, không
tồn tại trong bức tranh sông nước tràng giang. Không cầu, không đò hay chính là
không có sự kết nối của con người, hay chính là sự cô đơn, hoang vắng đến tột
cùng? Trong sự vắng lặng đó không gian vẫn tiếp tục được trải ra đến vô cùng của
bờ xanh với bãi vàng. Bức tranh xuất hiện những gam màu vốn không đen tối
nhưng lại chẳng thể làm cảnh sắc thêm tươi sáng, thêm sức sống. Dường như hai
bờ sông là một thế giới tách biệt với những bờ bãi kia, những cánh bèo cũng vì thế
mà chẳng biết trôi dạt về đâu. Trước một cảnh sắc như thế lòng người sao có thể
vui tươi, háo hức. Hay cũng vì lòng người nhiều tâm tư trĩu nặng mà cái nhìn với
cảnh cũng tấm đẫm ưu tư?
Từ sự dẫn đường đó, khổ thơ thứ tư bộc lộ rõ hơn tâm tình tác giả:
Lớp lớp mây cao đùn núi bác
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòn quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Hai câu đầu của khổ thơ mang đậm ý vị của Đường thi, nhuốm màu sắc cổ điển.
Đó là cảnh buổi chiều, cảnh hoàng hôn với cánh chim và chòm mây những thi liệu
vô cùng quen thuộc trong thơ ca:
 Chim bay về núi tối rồi (ca dao)
 Chim hôm thoi thóp về rừng (Nguyễn Du)
 Chúng điểu cao phi tận
 Cô vẫn độc khứ nhàn (Lí Bạch)
Ở đây cánh chim và chòm mây một lần nữa thực hiện đúng chức năng của mình
gợi ra buổi chiều nơi sông nước mênh mang. Cảnh sắc có cái hùng vĩ lên thơ với
những lớp mây cao như những ngọn núi lấp lánh ánh bạc phía chân trời, với cánh
chim chiều nghiêng bóng vội vã tìm về tổ ấm. Trong cái nghiêng của cánh chim
dường như chở nặng cả bầu trời, bóng chiều rơi dần xuống. Câu thơ vừa quen
thuộc vừa mới mẻ cho thấy cái tinh tế riêng của thi sĩ. Cánh chim nhỏ bé nghiêng
bóng cũng một lần nữa nhấn mạnh sự tương phản giữa những thực thể nhỏ bé tồn
tại trong bức tranh với không gian rộng lớn mang tầm vũ trụ. Có lẽ sự tương phản
ấy đã làm dấy lên trong lòng mỗi người đọc cảm giác tịch mịch, u bóng gợi nỗi
buồn ẩn sâu nào đó trong mỗi chúng ta.
Hai câu thơ sau mượn ý thơ của Thôi Hiệu một nhà thơ nổi tiếng đời Đường trong
bài Hoàng hạc lâu:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
Nếu Thôi Hiệu cần một màu khói để gợi nỗi nhớ nhà, nếu màu khói trong ý thơ
xưa gợi không khí sum họp khiến người tha phương khát khao tình quê thì nay
trong thơ Huy Cận không cần màu khói ấy nỗi nhớ nhà, tình yêu quê hương đất
nước vẫn thường trực và trào sôi. Có lẽ tình yêu thầm kín mà da diết dành cho quê
hương đất nước ẩn chứa trong tâm chàng thi sĩ đa sầu ấy đã làm lên một tứ thơ hay
và xúc động đến vậy. Bài thơ khép lại với nỗi nhớ quê, với tình yêu nước sâu lắng
đó và giá trị của tác phẩm có lẽ chính là ở đây chăng?
Tràng giang là một thi phẩm đặc sắc của Huy Cận nói riêng và phong trào thơ mới
nói chung. Nó không chỉ tiêu biểu cho phong cách thơ, hồn thơ Huy Cận mà dường
như nó còn thể hiện tâm tư của một lớp người lúc bấy giờ. Những con người nhỏ
bé, bế tắc mất phương hướng trước dòng sông cuộc đời nhưng chưa bao giờ tâm
hồn lìa bỏ khỏi quê hương, tình yêu quê hương đất nước vẫn chảy trong họ những
một dòng sông mãnh liệt và bền vững để chống đỡ với những sóng gió của dòng
sông cuộc đời. Vẻ đẹp của “Tràng giang” có lẽ còn ở sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa chất cổ điển và chất hiện đại làm nên một thi phẩm độc đáo.
Đây thôn Vĩ Dạ – một giấc mơ về cuộc đời Hàn Mặc Tử
Trong số các thi nhân thời Thơ mới (1932-1945) có lẽ không mấy người có số
phận ai oán, nghiệt ngã như Hàn Mặc Tử. Vận mệnh cay đắng của thi sĩ như được
tiên báo trước qua ý nghĩa từng bút danh mà người con gần cả cuộc đời gắn bó với
vùng đất Quy Nhơn đầy nắng và gió đã mang trước đó: Phong Trần (gió bụi), Lệ
Thanh (tiếng của nước mắt), Hàn Mặc Tử (người đi trong màn lạnh). Người thơ ấy
với nỗi lòng quặn thắt “trải niềm đau trên giấy mong manh” ấy để lại cho đời nhiều
thi phẩm bất hủ, trong đó có Đây thôn Vĩ Dạ.
Nếu nói Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ hay nhất trong đời thơ Hàn Mặc Tử thì e có
phần cứng nhắc và hơi khiên cưỡng, võ đoán nhưng chắc chắn đây là bài thơ nổi
tiếng nhất, được đông đảo bạn đọc biết đến nhất. Điều ấy có được phần cũng do
bài thơ được đưa vào giảng dạy ở bậc phổ thông trung học. Đã có nhiều, rất nhiều
các nhà nghiên cứu, phê bình văn học kiến giải về Đây thôn Vĩ Dạ. Bài viết này
tiếp cận ở một góc độ mới: coi thi phẩm như một giấc mơ. Một giấc mơ tổng kết
cuộc đời Hàn Mặc Tử. Chúng ta đều biết bài thơ có xuất xứ từ một bức ảnh Hoàng
Cúc gửi tặng Hàn Mặc Tử khi biết nhà thơ lâm trọng bệnh. Thực tế sau đấy không
bao lâu Hàn Mặc Tử qua đời. Một trong những thuộc tính của giấc mơ là sự hỗn
độn, xuyên thấu thời gian, không gian. Trong giấc mơ, chủ thể có thể đi qua nhiều
vùng không gian vào những khoảng thời gian khác nhau. Trong giấc mơ có tên
Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử đã đưa người đọc đi ngược về quá khứ, xuôi đến
hiện tại và hướng đến tương lai của đời mình.
1. Quá khứ tươi đẹp
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Chữ về trong câu đầu tiên của khổ thơ gợi mở không chỉ một cuộc trở về mang ý
nghĩa về mặt không gian (thôn Vĩ) mà còn gợi mở về mặt thời gian (quá khứ). Đó
là sự trở về quãng thời gian tươi đẹp (đã qua) của Hàn Mặc Tử khi nhà thơ sống ở
Huế, làm báo và quen Hoàng Cúc. Quá khứ tươi đẹp ấy được hiển hiện bằng gam
màu xanh chủ đạo. Toàn khổ thơ tràn ngập một màu xanh. Màu xanh của hàng cau,
màu xanh của ruộng vườn, màu xanh của lá trúc. Màu xanh, theo quan niệm của
người phương Đông, là màu của sự sống, màu của sức sống, màu của sự bình yên,
thanh thản. Ngoài ra sự xuất hiện của tia nắng trong câu thơ thứ hai cũng là điều
khiến chúng ta cần quan tâm. Ánh nắng có khởi thủy từ mặt trời. Mặt trời từ xưa
đến nay, từ đông sang tây đều được coi là biểu tượng của khí dương, của một sự
khởi đầu mới. Một ngày mới, một tương lai mới đều được ví von bằng sự xuất hiện
của ánh sáng, của mặt trời. Với việc xuất hiện dày đặc của màu xanh (3 trên 4 câu
thơ) của ánh nắng báo hiệu sự vầng dương đang hé rạng trong khổ thơ, dường như
Hàn Mặc Tử đã kín đáo bộc lộ niềm nuối tiếc về một quá khứ tươi đẹp chưa mấy
cách xa. Đó là khoảng thời gian Hàn Mặc Tử còn là chàng trai yêu đời, đầy khát
khao hoài bão với những câu thơ trong trẻo, lành mạnh nhưng không kém phần
lãng mạn, táo bạo như:
“Xiêm áo hôm nay tề chỉnh quá
Dám ôm hồn cúc ở trong sương”.
Ở khổ thơ này cũng không thể không bàn đến hình ảnh lá trúc che ngang mặt chữ
điền. Chiếc lá trúc thanh mảnh che khuất gương mặt chữ điền. Đó là khuôn mặt
của ai, vì sao phải che ngang? Câu hỏi này đã làm bao người bình bài thơ phải lao
tâm khổ tứ. Có thể nói đây là câu thơ tốn nhiều bút mực nhất của giới nghiên cứu,
phê bình văn học. Riêng chúng tôi, từ góc nhìn của phân tâm học cho rằng hình
ảnh lá trúc và mặt chữ điền là một personal (mặt nạ) của Hàn Mặc Tử trong giấc
mộng trở về quá khứ. Dẫu là trong mộng nhưng do vẫn bị ám ảnh về bệnh tật và
hình hài (xấu xí, gớm ghiếc mà bệnh mang lại) nên Hàn Mặc Tử cần một vật để
che chắn khuôn mặt thật của mình. Vật đó không gì hợp hơn chiếc lá trúc và mặt
chữ điền. Lá trúc (cây trúc) tượng trưng cho người quân tử. Chữ điền tượng trưng
cho sự khôi ngô tuấn tú – hình dạng. Đây là hai điều mà mọi chàng trai đều mơ
ước có được. Hàn Mặc Tử ở thời điểm viết Đây thôn Vĩ Dạ đã bị bệnh tật đánh cắp
đi khuôn mặt và người đời ghẻ lạnh, lánh xa. Vậy nên trong hành trình ngược về
quá khứ ấy, để tránh những phiền phức mang lại, cách tốt nhất là cải trang với lá
trúc và khuôn mặt chữ điền.
Những kiến giải trên chúng tôi có sự hợp lý nhất định trong khuôn khổ của phê
bình phân tâm học nếu nhìn từ mối quan hệ giữa khổ thơ thứ nhất và khổ thơ thứ
hai. Đang từ quá khứ tươi đẹp, sự xuất hiện của mặt nạ (dù đã mang ý đồ che chắn)
nhưng vẫn gợi cho chủ thể Hàn Mặc Tử về nỗi đau mình đang phải gánh chịu. Lập
tức, ý thơ quá khứ tươi đẹp vụt tắt, hiện tại tàn nhẫn ập tới bằng những lời thơ
buồn bã.
2. Hiện thực ảm đạm
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”.
Thời điểm hiện tại được đánh dấu bằng cụm từ chỉ thời gian tối nay. Như đã trình
bày ở trên, hiện tại của Hàn Mặc Tử đượm một màu u tối. Các hình ảnh ở hai câu
thơ đầu trong khổ đều biểu trưng cho sự không chắc chắn, không chốn tựa nương.
Gió vô hình, mây vô dạng, dòng nước vô biên, tất cả đều không bờ không bến,
không có một sự ổn định như các hình ảnh ở khổ một. Đã vậy nhưng thứ vô hình,
vô định dạng ấy lại không gắn bó chặt chẽ với nhau, chúng rời rạc và xa nhau như
chưa từng gắn kết. Gió mây vốn quấn quýt với nhau nay chia xa. Dòng nước trôi
buồn bã, hoa bắp lay nhẹ nhàng càng nhuốm vẻ ảm đạm, thê lương. Sự xuất hiện
của ánh sáng cũng không làm tình hình sáng sủa hơn. Ánh sáng của nắng đã biến
mất thay vào đó là ánh sáng của mặt trăng. Mặt trăng là biểu tượng của khí âm do
đó ánh sáng phát ra từ mặt trăng gợi nhiều đến sự huyền ảo hơn là sức sống như
mặt trời. Khí dương mất, khí âm thịnh. Rõ ràng đây là những dấu hiệu báo điềm
không hay. Trong bối cảnh ấy, con người xuất hiện qua đại từ phiếm chỉ ai với lời
khẩn cầu và mong ngóng, da diết: Có trở trăng về kịp tối nay càng làm cho không
gian nhuốm thêm màu buồn. Cũng viết về nỗi mong ngóng vầng trăng và con đò,
trong Bến My Lăng, Yến Lan viết: Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách/ Gọi đò thôi
run rẩy cả ngành trăng. Chàng kỵ mã trong thơ Yến Lan dù ở gọi đò gọi đò như hối
hả/ Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi vẫn làm chủ được tình huống, vẫn còn có
quyền (trách cứ) người lái đò mải say trăng đầu gối sách còn tâm tư người gọi đò,
chờ đò trong khổ thơ này của Hàn Mặc Tử thật tội nghiệp, yếu đuối. Dường như
con người ấy không còn biết bấu víu vào đâu, không còn biết tin ai trên cõi đời này
nữa. Có lẽ chỉ ở trong tâm trạng ấy, nhà thơ mới có sự mong ngóng, van vỉ với lời
lẽ da diết làm thương cảm lòng người đến thế.
Hiện thực u ám đó đưa chủ thể lang bạt trong giấc mơ đến tương lai. Đáng buồn
thay đó lại là:
3. Tương lai u ám
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”.
Màu sắc chủ đạo trong khổ thơ là sắc trắng. Trước nhất, màu trắng từ áo người em
gái: Áo em trắng quá nhìn không ra. Một màu trắng tượng trưng cho sự thanh khiết
của người con gái. Với những người trong mộng của mình, Hàn Mặc Tử luôn có ý
nghĩ trong sáng, tôn thờ một cách thánh thiện như vậy. Nhưng đến câu thơ thứ ba,
sắc trắng chuyển sang ý nghĩa khác hẳn: Đó là màu của tang tóc, thê lương. Nhà
nghiên cứu Đặng Tiến trong bài viết Hàn Mặc Tử và bài thơ thôn Vỹ đã có nhận
xét rất tinh rằng: “chữ nhân ảnh có nghĩa là hình bóng người xưa, một chút nghĩa
cũ đang mờ dần nhạt dần với thời gian. Nhưng hiểu rộng ra, trong kinh Phật, nó
còn diễn tả kiếp sống mong manh, có có không không. Các cụ sẽ xem câu thơ đây
là điềm dữ cho tác giả, một câu thơ “trệ”, báo hiệu việc không may.” Sắc trắng
trong câu thơ thứ ba Ở đây sương khói mờ nhân ảnh mang âm hưởng của sắc trắng
trong Viếng hồn trinh nữ của Nguyễn Bính:
“Có một chiếc xe màu trắng đục
Hai con ngựa trắng xếp hàng đôi
Đem đi một chiếc quan tài trắng
Và những vòng hoa trắng lạnh người”.
Như vậy là Hàn Mặc Tử đã dự biết được về kết cục không mấy tốt đẹp đang chờ
mình ở tương lai. Nên không phải ngẫu nhiên màu trắng chiếm gam màu chủ đạo
trong khổ thơ này. Cũng ở khổ thơ cuối ở đây không còn ánh sáng. Mặt trời và mặt
trăng đều biến mất. Khí âm và khí dương đều không còn. Ánh sáng giờ đây chỉ là
màu trắng nhợt nhạt thông qua màn sương khói..
Và đến câu cuối cùng: Ai biết tình ai có đậm đà là một tiếng thở dài của con người
đã ý thức được cái kết cục của đời mình. Câu kết ấy gợi cho chúng ta nhớ đến tiếng
thở dài của Nguyễn Du: Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố
Như. Nhưng bên cạnh cảm giác buồn đau đáu như câu thơ của bậc đại thi hào, Ai
biết tình ai có đậm đà còn dư vị trách móc, dỗi hờn, ai oán của một số phận nghiệt
ngã. Một lời hờn dỗi làm người đọc nhói lòng.
Giờ đây khi Hàn Mặc Tử đã đi xa được mấy chục năm. Chuyện của nhà thơ với
những người trong mộng là câu chuyện riêng. Còn với chúng ta, thế hệ đi sau có
thể nhận thức rõ được một điều rằng: tình cảm bạn đọc dành cho nhà thơ và những
thi phẩm của ông, trong đó có bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ tuyệt phẩm này thật sự là
đậm đà. Hàn Mặc Tử giờ không còn phải trải niềm đau trên giấy mong manh nữa.
Niềm đau ấy được thế hệ sau hiểu và cảm thông, hòa đồng. Ngày ngày ở ngôi mộ
của thi nhân bên Quy Nhơn vẫn có lớp lớp người yêu thơ đến viếng. Và ngày ngày
ở đâu đó trên dải đất hình chữ S này, ai đó vẫn cất giọng ngâm những Mùa xuân
chín, Bẽn lẽn, Đây thôn Vĩ Dạ…
Tôi nghĩ họ Hàn nơi thế giới bên kia cũng thấy ấm lòng.
Cảm nhận Vội vàng – Xuân Diệu (bài Lê Đức viết)
Thời đại thơ Mới là một nhánh rẽ đầy ngoạn mục, táo bạo của nền thơ ca Việt
Nam. Khi ấy, thơ văn khoác lên cho mình một chiếc áo được cách tân đầy mới mẻ,
là mảnh đất vô cùng màu mỡ đã vun trồng biết bao hồn thơ độc đáo như: Tản Đà,
Thế Lữ, Hàn Mạc Tử hay Xuân Diệu. Nếu Tản Đà được biết đến là người “đã dạo
những bản đàn mở đầu cho một cuộc dạo chơi tân kì đương sắp sửa” thì Xuân Diệu
lại là người đã đưa những khúc nhạc ấy đến một vị trí xứng tầm trong lòng độc giả.
Bài thơ “Vội vàng” – một thi phẩm tiêu biểu cho một phong cách thơ được cách
tân rất mới mẻ về cả nội dung và hình thức của Xuân Diệu, bài thơ thể hiện quan
niệm sống, niềm ham sống, khao khát sống và tận hưởng đến vô biên của thi nhân:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợp tắt
Còn hơn buồn lẻ loi suốt trăm năm”
Mở đầu bài thơ là bốn câu thơ có lẽ mang nét độc đáo nhất trong bài, thể hiện
mãnh liệt và táo bạo của thi nhân:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Chỉ riêng bốn câu thơ ấy mang thể ngũ ngôn, đây là thể thơ phù hợp cho việc diễn
tả cảm xúc đặc biệt của Xuân Diệu. Câu thơ ngắn kết hợp với nhịp điệu gấp gáp,
dồn dập tựa như những cơn sóng đang trào dâng dữ dội trong lòng nhà thơ. Điệp
ngữ “Tôi muốn” được nhắc lại hai lần, đều đứng ở đầu câu qua đó thể hiện khát
vọng cháy bỏng của thi sĩ cùng với sự chủ động, kiêu hãnh về khát vọng của mình.
Sau điệp từ là những động từ có tính mệnh lệnh cùng những hình ảnh thuộc về tự
nhiên và biểu tượng cho cái đẹp: “tắt nắng”, “buộc gió”. Ta đều biết rằng nắng và
gió luôn tuân theo quy luật của tự nhiên khiến con người không thế chế ngữ được.
Vậy mà ở đây, Xuân Diệu có khát vọng hướng tới cái không thể, khát vọng chiếm
đoạt quyền của tạo hóa để níu giữ vẻ đẹp đất trời. Ông sợ gió cuốn đi hương thơm
ngào ngạt, sợ nắng làm nhạt mất màu xuân sắc. Ước muốn níu giữ thời gian, chặn
vòng quy luật của vũ trụ, đảo ngược quy luật thiên nhiên là một điều phi lý bởi
ngay nhà thơ Xuân Quỳnh vẫn luôn tin vào quy luật của tạo hóa:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Nhưng đối với Xuân Diệu, ông muốn chiếm đoạt quyền năng của tạo hóa để giữ
cho vẻ đẹp trần gian mãi mãi mang sắc xuân. Dù có là ước muốn viển vông và phi
lí đi chăng nữa thì nó vẫn có cái đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn, luôn thiết tha
yêu đời, yêu cuộc sống. Dường như với ông, cuộc sống là cả một hạnh phúc lớn
lao, kì diệu, sống là để tận hưởng và tận hiến.
Với tâm hồn cao cả của một thi sĩ, Xuân Diệu đã khám phá ra vẻ đẹp phơi phới đầy
tình tứ ở những cảnh vật thiên nhiên nhiên quen thuộc quanh ta:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa quả của động nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Nhà thơ Thế Lữ đã từng nói: “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với
mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim, chất đầy trong
tim mấy trời thanh sắc” cũng bởi vậy mà ông đã cảm nhận về mùa xuân bằng tất cả
sự tinh tế nhất của tâm hồn. Thiên đường trên mặt đất vừa như một mảnh vườn
tình ái vạn vật đang lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với thực đơn quyến rũ.
Nếu như những nhà thơ lãng mạn chỉ muốn sống một cuộc sống nơi thoát khỏi nơi
trần thế, trốn khỏi cõi hư vô hão huyền, bồng lai tiên cảnh như Chế Lan Viên hay
Thế Lữ từng viết:
“Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa!
Ðể nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo!”
(Những sợi tơ lòng – Chế Lan Viên)
“Trời cao xanh ngắt. Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai”
(Tiếng sáo Thiên Thai – Thế Lữ)
thì Xuân Diệu đã “Đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Lầu thơ của ông
được xây dựng trên mặt đất bằng một tấm lòng trần gian. Bức tranh hội tụ đầy đủ
hương thơm, ánh sáng, màu sắc, âm thanh. Cảnh vật hiện lên đều có đôi, có cặp:
“ong bướm” – “tuần trăng mật”, “hoa” – “đồng nội xanh rì”, “lá”– “cành tơ phơ
phất”, “yến anh” – “khúc tình si”. Xuân Diệu đã dựng lên một bức tranh thiên
nhiên với những vẻ đẹp rất cụ thể, chúng được liệt kê bằng hàng loạt tình tứ đậm
nhạt khác nhau cùng cách ngắt nhịp đầy linh hoạt, biến hóa. Nếu các thi nhân xưa
thường chỉ sử dụng thị giác để cảm nhận vẻ đẹp của ngoại giới thì các nhà thơ mới
trong đó có Xuân Diệu lại huy động tất cả những giác quan để cảm nhận cảnh vật
đất trời lúc sang xuân. Có lẽ do ảnh hưởng từ thơ ca Phương Tây, Xuân Diệu đã
sáng tạo ra những hình ảnh mới lạ in đậm phong cách nhà thơ. Trong cảnh ấy có
hình ảnh “tuần tháng mật” của loài ong bướm, chúng say mê trong mùa hoa tựa
như con người đang chìm đắm trong niềm hạnh phúc ban đầu. Ở đấy có hình ảnh
“hoa của đồng nội”, “lá của cành tơ” gợi sức sống mới trẻ trung, phơi phới, hứa
hẹn một mùa trái chín. Nếu như thi ca Trung Đại xưa luôn lấy thiên nhiên làm tiêu
chuẩn cho vẻ đẹp con người thì nay lầu son gác tía của thi pháp Trung Đại đã bị
phá vỡ, chao đảo nói như nhà thơ Lưu Trọng Lư: “Các cụ ta ưa cái màu đỏ choét,
ta lại ưa những màu xanh nhạt…cái cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta
lại nao nao vì tiếng gà đúng ngọ. Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây thơ, các cụ coi
như đã làm một điều tội lỗi, ta tì ta cho là mát mẻ như đứng trước một cánh đồng
xanh mướt. Cái ái tình của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm
hình muôn trạng: cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gũi, cái tình xa
xôi… cái tình trong giây phút, cái tình ngàn thu…” Và Xuân Diệu là một trong
những nhà thơ đã phá vỡ tính quy phạm ấy qua hình ảnh “ánh sáng chớp hàng mi”.
Những tia nắng xuân bừng sáng tựa như cặp mắt của thiếu nữ đang chớp dưới hàng
mi dày thật quyến rũ. Chính ánh sáng ấy đã tưới lên cảnh vật nguồn nhựa sống
mang đến cho bức tranh thiên nhiên năng lượng tràn trề, thế mới hiểu những khao
khát của Xuân Diệu hoàn toàn đúng đắn. Đặc biệt, qua điệp từ “này đây” được
nhắc lại đến 5 lần khiến những câu thơ giống như một chuỗi tiếng reo vui của tác
giả khi phát hiện ra thiên đường trên mặt đất. Giống như Pautopxki từng nói:
“Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở cái
đẹp”, Xuân Diệu cũng vậy, với sự say mê và thích thú, ông đã biến thành một
hướng dẫn viên du lịch đắm chìm trong những lời giới thiệu để chào mời mọi
người đến tận hưởng nơi đây. Bằng giọng thơ mượt mà, êm dịu như một cánh hồng
nhung, thiên đường trên mặt đất của Xuân Diệu không phải là thế giới xa xăm, lạ
lẫm mà là những điều thân quen ở quanh ta khi mùa xuân đến. Vẻ đẹp ấy được
nhìn qua cặp mắt “non xanh, biếc rờn” và được sàng lọc qua tình yêu của người
nghệ sĩ mang tình yêu thiên nhiên, cuộc sống đến cháy bỏng. Được xem là: “Nhà
thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh) nên Xuân Diệu đã kết lại bức
tranh mùa xuân bằng hai câu thơ đầy gợi cảm:
“Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Thiên đường trên mặt đất thắm sắc, ngát hương và tràn đầy ánh sáng nay được
Xuân Diệu khép lại bằng lối văn vô cùng độc đáo và gợi cảm. Tháng giêng thanh
tân, diễm lệ, tràn đầy ánh sáng, màu sắc, hương thơm đã trở thành “cặp môi gần”
của người tình. Chỉ với một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác cho ta thấy tình yêu
đời, yêu cuộc sống đến cuồng si của thi sĩ. Ông bị ảnh hưởng rất rõ rệt trường phái
thơ tượng trưng Pháp, trong một bài thơ khác ông cũng đã vẫn dụng sự tương giao
của các giác quan:
“Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò”
Tâm trạng của nhân vật trữ tình được thể hiện rất rõ qua hai câu thơ:
“Tôi sung sướng. Nhưng tôi vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Dấu chấm giữa câu thơ “Tôi sung sướng. Nhưng tôi vội vàng một nửa” như ngắt
làm đôi và cũng như phân tách nhà thơ thành hai nửa: nửa sung sướng và nửa vội
vàng. Tâm trạng sung sướng là niềm hạnh phúc, lạc quan, tươi vui đón nhận cuộc
sống bằng tình cảm trìu mến, thiết tha, gắn bó. Còn vội vàng là tâm trạng tiếc nuối,
buồn đau bởi nhà thơ sợ tuổi trẻ qua đi. Xuân Diệu luôn là con người như thế đấy!
Trong lúc vui ngất ngây thì tình yêu thi sĩ đã phải thổn thức bởi những điều tiếc
nuối. Cũng bởi vì vậy, mặc dù đang sống trong mùa xuân nhưng thi nhân đã cảm
thấy tiếc nuối mùa xuân: “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Đây là tâm
trạng hoài cổ mà ta thường bắt gặp trong thơ của các thi nhân xưa. Nhưng ở đây,
sự hoài cổ của Xuân Diệu thật lạ và ám ảnh, nhà thơ không chỉ tiếc nuối những cái
dĩ vãng đã qua mà còn tiếc nuối ngay cả những cái đang hiện hữu. Mùa xuân chưa
qua mà Xuân Diệu đã cảm thấy tiếc nhớ, đây quả là một trái tim quá nhạy cảm với
những chuyển biến của thời gian cũng là một tâm hồm đa sầu, đa cảm. Bằng ngôn
ngữ rất đỗi Phương Tây nhưng cũng chẳng kém phần gần gũi, thân thuộc, Xuân
Diệu đã mang đến cho người đọc một giọng thơ lạ, một cách cảm nhận về mùa
xuân thật nồng nàn, tha thiết.
Không chỉ dừng lại ở việc thể hiện tình yêu tha thiết của mình đối với cuộc sống
nơi thiên đường hạ giới mà thi nhân còn thể hiện nỗi băn khoăn về sự ngắn ngủi
của kiếp người và sự qua nhanh của thời gian qua 17 câu tiếp theo. Trước tiên đó là
quan niệm hết sức độc đáo:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
Từ trước đến nay thời gian luôn vận động theo đúng quy luật của tạo hóa và cũng
có nhiều cách quan niệm về nó như: “thời gian thấm thoát thoi đưa”’ “thời gian
như bóng câu vút qua cửa sổ”, “thời gian như nước chảy qua cầu”’… ngay cả
Xuân Diệu cũng vậy, ông đã sử dụng nghệ thuật điệp từ, từ nhiều nghĩa và từ mang
sắc thái tương phản để diễn tả sự trôi qua của thời gian, sự tàn phai của tạo vật.
Người ta mừng vì mùa xuân tới thì Xuân Diệu trong niềm vui chào đón mùa xuân
thoáng qua có một chút xót xa vì nó tới cũng là lúc tuổi xuân dần trôi qua mau.
Xuân Diệu đã đối lập mùa xuân của đất trời với tuổi xuân của con người. Nếu như
mùa xuân của đất trời qua đi rồi lại trở về theo đúng vòng tuần hoàn của nó. Còn
tuổi xuân của con người thì một đi không trở lại. Ngỡ như Xuân Diệu đưa ra điều
phi lí nhưng thực ra hoàn toàn biện chứng và trong cái biện chứng ấy lại chứa đầy
cảm xúc. Xuân Diệu từng viết: “Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt” để rồi đến bài thơ
“Vội vàng” thì triết lí nhân sinh gắn liền với cảm thức về thời gian một lần nữa
được nhấn mạnh.
Chính vì cảm nhận được tuổi xuân của con người một đi không trở lại nên thi nhân
thấy tiếc nuối, buồn đau:
“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian”
Vẫn là những từ ngữ mang màu sắc tương phản, Xuân Diệu đã đi từ mùa xuân của
thiên nhiên để mở ra mùa xuân của con người. Với giọng điệu như hờn giận, u
hoài, Xuân Diệu đã đối lập cái vô hạn của đất trời với cái hữu hạn của đời người.
Đất trời thì còn mãi nhưng tuổi xuân con người thì không, dường như thiên nhiên
đã trở thành lực lượng đối kháng với con người.
Và rồi Xuân Diệu còn say sưa tranh luận với quan niệm cũ về thời gian:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Xuân Diệu đã tạo nên thế đối lập giữa cá nhân nhỏ bé với sức mạnh vô thường của
tạo hóa, thi nhân như nhận ra sự bất lực của mình khi muốn chiến thắng thời gian.
Bởi vì dẫu vũ trụ là vĩnh viễn, dẫu thời gian có thể tuần hoàn nhưng tuổi trẻ của
con người “chẳng hai lần thắm lại”. Nhận ra cái yếu hạn trong sức mạnh của con
người, Xuân Diệu như thở dài ở những câu thơ chất chứa nỗi buồn về sự bất lực
trước quy luật tự nhiên, ý thức được điều đó, nhà thơ lại càng trân trọng tuổi xuân
hơn và đây cũng là tiếng nói tiêu biểu của một tâm hồn tha thiết yêu đời, yêu cuộc
sống.
Nguyễn Du từng viết:
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Xuân Diệu ý thức được đời người quá ngắn ngủi nên ông đã nhìn bức tranh thiên
nhiên mất vẻ tươi vui:
“Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa”
Trời đất là vĩnh hằng, đời người là hữu hạn, hình dung về một thế giới chẳng còn
tôi khiến thi nhân đau đớn, tiếc nuối khiến ông cảm thấy “Mùi tháng năm đều rớm
vị chia phôi”. Ở đây, cuộc chia phôi như làm rớm máu cả thời gian, nó không diễn
ra ở một không gian cụ thể hay nhỏ bé mà diễn ra ở không gian rộng lớn “Khắp
sông núi”. Dường như chỗ nào cũng ủ ê những tiếng nỉ non, than vãn. Một ngọn
gió mùa xuân nhỏ bé, duyên dáng đang vương vít với những cành cây chẳng muốn
rời xa. Gió và cây đang thì thào lời tiễn biệt và gió như giận hờn vì sớm phải chia
tay. Tiếng chim đang hót rộn ràng bỗng đứt giữa chừng bởi lo sợ độ phai tàn của
cuộc thi sắp đến. Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với những câu hỏi tu từ liên tiếp
như khẳng định thêm nỗi buồn của cảnh vật thiên nhiên khi xuân tàn và đó cũng là
tâm trạng bâng khuâng, tiếc nuối đến ngẩn ngơ của thi sĩ Xuân Diệu. Cách cảm
nhận thời gian của thi nhân là cách cảm nhận đầy tính mất mát, có được điều đó là
do tác giả ý thức được cái tôi cá nhân một cách sâu sắc, ý thức về sự có ý nghĩa của
mỗi cá nhân trên đời và cũng do ông luôn nâng niu, trân trọng từ giây phút của
cuộc đời nhất là những năm tháng tuổi trẻ:
“Chẳng bao giờ, ôi! chẳng bao giờ nữa
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”
Với nhịp thơ dồn dập, gấp gáp, cách ngắt nhịp biến hóa, ý thơ như hóa lời giục giã
với mọi người: hãy mau lên, vội vàng lên để tận hưởng những giây phút tuổi xuân,
để sống có ý nghĩa khi chưa mãn chiều xế bóng. Nỗi lo âu của nhà thơ về vòng
quay của tạo hóa chợt bừng lên thành tiếng thôi thúc, gấp gáp: “mau đi thôi”.
Tiếng gọi mãnh liệt ấy từ lâu đã vang vọng suốt những trang thơ của Xuân Diệu:
“Mau với chứ vội vàng lên với chứ
Em em ơi tình non sắp già rồi”
hay:
“Gấp đi em anh rất sợ ngày mai
Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn”
Xưa kia nhà thơ Nguyễn Trãi từng viết trong chùm thơ “Tiếc cánh”:
“Xuân xanh chưa dễ hai lần lại
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên”
Những vần thơ ấy càng giúp người đọc thấy được ý thức về thời gian và tuổi xuân
của thi sĩ Xuân Diệu.
Nhận ra rằng chẳng thể sống mãi với thời gian vậy cớ gì ta không ngại, không tận
hưởng cuộc sống bằng cả trái tim nồng cháy trước khi ta già nua cơ chứ?
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
……
……
-Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
Ba từ “Ta muốn ôm” được tách riêng biệt làm nổi bật hình ảnh nhân vật trữ tình
đầy kiêu hãnh. Ông như muốn đứng trên cao, dang rộng vòng tay để cảm nhận, để
ôm trọn trái đất này. Ta bỗng nhớ tới cái tôi “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự”
(Với mọi việc trong trời đất này không việc gì không phải của ta)
Còn với Xuân Diệu, cái tôi của ông cũng thật kiêu hãnh, nếu đoạn mở đầu là điệp
ngữ “tôi muốn” thì đến đây đã trở thành “ta muốn” nghe thật tự tin làm sao! Bởi
vậy mà Viên Mai từng nói rằng: “Làm người thì không có cái tôi… nhưng làm thơ
thì không thể không có cái tôi”. Trong thơ của mình, Xuân Diệu luôn khẳng định
cái tôi cá nhân, có lúc ông bộc bạch một cách chân thành:
“Tôi chỉ muốn là một cây kim bé nhỏ”
Mà vạn vật là muôn đá nam châm”
có lúc ông khẳng định mình là người đứng đầu duy nhất:
“Ta là một là riêng là thứ nhất”
Như vậy trong thơ Xuân Diệu luôn thể hiện được cái tôi cá nhân tự tin và đầy kiêu
hãnh. Ba từ “Tôi muốn ôm” như một nốt nhấn để rồi từ đó âm thanh của khát vọng
tuôn trào, dào dạt tràn qua cả ngôn từ. Giữa những câu thơ dài đột ngột xen vào
một câu thơ ngắn như thắt ngang giữa bài làm ta liên tưởng đến vòng tay đang níu
giữ, quấn quít “cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”. “Mơn mởn” là từ láy gợi cảm
và giàu ý nghĩa gợi cảm giác cây cối, sự vật đang ở độ non mướt, tươi tốt, đầy sức
sống. Lần theo bước chân vội vàng ta bước vào một thế giới đầy ắp những hình
ảnh sinh động, đẹp đẽ:
“Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hồn nhiều”
Phép điệp cấu trúc “Ta muốn” đã khiến đoạn thơ trở nên dồn dập, gấp gáp tựa như
những cơn sóng ào ạt nối tiếp nhau, như hơi thở gấp gáp của thi nhân đã diễn tả
khát khao đến hàm hở cuồng nhiệt. Sau mỗi lần điệp lại đi liền với một động từ
mạnh được sắp xếp theo trật tự tăng tiến: “riết”, “say”, “thâu”; cùng với đó là
những hình ảnh nồng nàn, khỏe khoắn: “mây đưa và gió lượn”, “cánh buồm với
tình yêu”. Thiên nhiên rực rỡ sắc màu say nồng và đầy quyến rũ lại tràn ngập trong
hồn thơ Xuân Diệu. Những hình ảnh ấy làm đoạn thơ đầy sinh khí và làm sống lại
không khí tươi vui của toàn bài thơ. Trời xuân thì non tơ, tình xuân thì nồng nàn
khiến nhà thơ trở nên “tham lam”, dường như lúc nào cũng muốn khát khao thêm:
“Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Sự kết hợp giữa những từ “no nê”, “đã đầy” và điệp từ “và” đã thể hiện cảm xúc
ham muốn đến tột cùng trong tâm hồn thi sĩ. Ở đây không chỉ là sự tận hưởng tinh
thần mà còn là tận hưởng theo kiểu vật chất không có điểm dừng. Với ông, cuộc
sống trần thế như bày ra cả một bàn tiệc đầy những hình ảnh non tơ và đầy hương
sắc vì vậy Xuân Diệu đã khát khao đến tột cùng đúng như phong cách Xuân Diệu –
một cái tôi không bao giờ chấp nhận sự lưng chừng, lỡ cỡ. Với những khát khao
ấy, nhà thơ đã nhìn mùa xuân giống như con người và thốt lên một tiếng kêu thể
hiện niềm yêu đời, khát khao chưa từng có trong thơ ca Việt Nam:
“Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”
“Hỡi” là tiếng gọi tha thiết vang lên cuối bài làm mạch cảm xúc của nhà thơ như
vang lên không dứt. Ông khát khao tận hưởng mùa xuân, một mùa “xuân hồng”
chứ không phải là “xuân xanh” như trong thơ Nguyễn Bính:
“Mùa xuân là cả một mùa xanh”
Xuân hồng là đôi má nồng nàn của thiếu nữ. Với Xuân Diệu con người mới là
chuẩn mực của cái đẹp nên mùa xuân cũng giống như người thiếu nữ căng tràn sự
sống. Nhà thơ muốn cắn vào nó cho thỏa mãn đam mê. Với cách sử dụng từ ngữ
táo bạn, Xuân Diệu đã thể hiện một ham muốn không có giới hạn. Đứng trước sự
hấp dẫn của mùa xuân dường như thi sĩ không nén nổi lòng yêu thiên nhiên đã đi
đến một cử chỉ táo bạo nhưng cũng thật đáng yêu. Ta nhớ tới những câu thơ của
Anh Thơ trong bài “Hôn con”:
“Mặt trăng của mẹ
Mẹ nâng trên tay
Mặt trăng tươi thế
Mẹ cắn vào đây”
Còn Xuân Diệu, ông từng định nghĩa mình là: “kẻ đưa răng bấu mặt trời”, một thi
sĩ từng “ngoạm sự sống làm êm đói khát” đã thể hiện tình yêu cuồng nhiệt, si mê
cuộc sống đúng như Hoài Thanh đã từng nhận xét: “Xuân Diệu là nguồn sống dào
dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này, khi vui cũng như khi buồn người
đều nồng nàn tha thiết”
Nếu như Huy Cận, Chế Lan Viên hay Hàn Mạc Tử đều cùng nhau thoát li hiện
thực, tìm về một cõi xa xăm nào đấy để ôm ấp những nỗi sầu u oải, mơ hồ thì “Thơ
Xuân Diệu là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy… Xuân Diệu say đắm tình
yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời
ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”.
(Hoài Thanh) Cũng là nỗi buồn nhưng nỗi buồn ấy, ngọt ngào, hồ hởi và háo hức,
đó là sự tiếc nuối trước dòng chảy không ngừng của thời gian, là sự cô đơn giữa
dòng đời của cái Tôi nhỏ bé đã tạo nên một hồn “nhà thơ mới nhất trong các nhà
thơ mới”.
“Chưa bao người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thơ rộng lớn như Thế Lữ,
mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng trúng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn
Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan
Viên,… và tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” (Thi nhân Việt Nam).
Chẳng lẽ tự nhiên mà Hoài Thanh lại ưu ái Xuân Diệu đến vậy, chỉ có thể là do
những cống hiến to lớn của ông dành cho thi đàn văn học Việt Nam đặc biệt là qua
thi phẩm “Vội vàng”. Bài thơ là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình,
hãy quý trọng từng giây từng phút của cuộc đời mình nhất là những năm tháng tuổi
trẻ. Tư tưởng ấy được thể hiện qua bàn tay nghệ thuật điêu luyện, là sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc và mạch lí luận, giọng điệu say mê, sôi nổi
nhưng sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh. Cũng bởi lẽ thế “Vội vàng” dù đã
được sáng tác những năm 30 của thế kỉ trước nhưng vẫn vang vọng, đọng lại trong
lòng hậu thế những vần thơ tựa như mật ngọt đầy tinh túy khiến ta phải ghi nhớ
mãi cái tên Xuân Diệu-ông hoàng thơ tình trong làng thi ca Việt!
LLVH: ĐIỀU GÌ LÀM NÊN PHẨM CHẤT CỦA NHỮNG NHÀ NGHỆ SĨ
ĐÍCH THỰC?
Điều gì làm nên phẩm chất của những nhà nghệ sĩ đích thực? Là ở “trí sáng tâm
trong”, tình cảm dạt dào; hay nhờ tài năng thiên bẩm chỉ đường dẫn lối? Có lẽ là cả
hai, vì nếu không có Tâm – Tầm – Tài, người nghệ sĩ rất khó có thể “Nhìn thấy cái
khác thường trong cái bình thường và trong cái khác thường nhìn thấy cái bình
thường.” (Pautopxki). “Những nhà nghệ sĩ đích thực” cần có cho mình “phẩm
chất” ấy.
Ý kiến của nhà văn Nga Pautopxki là sự đúc rút từ kinh nghiệm của một bậc thầy
văn học thế giới về cái nhìn của nhà văn góp phần làm nên người nghệ sĩ đích
thực. Bởi để trở thành “nhà nghệ sĩ đích thực”, tức là một người nghệ sĩ có tầm ảnh
hưởng và được độc giả công nhận, anh phải có cái gì đó gọi là “phong cách” riêng,
tư tưởng sâu sắc, có tính nhân loại. Mà điều gì sẽ tiên quyết làm nên “phong cách”
của anh? Chính là cái nhìn. “Cái khác thường” có thể là những gì trái với lẽ tự
nhiên, không nằm trong quy luật và sự vận động phát triển bình thường của đời
sống xã hội, con người. “Cái bình thường” là cái bám sát “mép lưới” của sự chuẩn
mực trong xã hội, nằm ngoài quy luật tự nhiên. Hai điều này trái ngược nhau,
nhưng không đối nghịch. Vì trong trường hợp này có thể “cái bình thường” sẽ trở
thành vỏ, che lấp cái bề trong – bề sâu – bề xa của vấn đề – là cái khác thường.
Nhưng trong trường hợp khác “cái khác thường” lại trở thành bức màn che đậy mà
ẩn sâu trong đó là “cái bình thường”. Người nghệ sĩ “nhìn thấy” được điều này
không chỉ bằng cảm quan, đôi mắt thông thường mà phải là một sự xem xét, quan
sát và thẩm thấu; cảm nhận, phân tích và lí giải bằng cả lí trí và trái tim, để từ “cái
khác thường” trong “cái bình thường”, “cái bình thường” trong “cái khác thường”
đưa ra những chân lí, quy luật cuộc sống, xã hội và con người. Có lẽ, vấn đề cái
nhìn và sứ mệnh của người nghệ sĩ, vì thế, mà luôn là mối trăn trở của người cầm
bút đương thời, để làm sao, từ những điều tưởng như nghịch lí, cái chân lí lộ diện.
Vậy vì sao nhà văn đích thực cần có được cái nhìn ấy?
“Cuộc sống vốn đa sự, con người thì đa đoan.”. Số học, tưởng như những con số là
rõ ràng vậy mà khi nhìn xuôi ta hiểu đó là số 9, nhìn ngược ta lại thấy đó là số 6.
Văn học với thế giới nghệ thuật và sự đa nghĩa của lớp ngôn từ, hình tượng cũng
không nằm ngoài định luật ấy. Phản ánh cuộc sống nhưng không phải là sự sao
chụp, bê nguyên xi thực tại, qua cái nhìn của nhà văn, hiện thực trở nên đa diện
hơn. Một cuộc hò hẹn giữa đôi trai gái, anh chiến sĩ và chị dân quân là chuyện bình
thường (Mảnh trăng cuối rừng). Nhưng lại là cuộc hẹn hò, gặp gỡ nơi Gầm Đá
xanh – tuyến đường chiến tranh khốc liệt nhất – đó là cái không bình thường. Tuy
nhiên, tình huống ấy lại phản ánh quy luật rất đỗi “bình thường”: chiến tranh có thể
hủy diệt làng mạc, thôn xóm, những con đường,… nhưng không thể tiêu diệt tình
yêu thương và những con người sống vì lí tưởng ấy.
Một thằng ra tù – Chí Phèo – trở thành một thằng săng đá là chuyện phi lí, bất bình
thường. Bởi nhà tù phải là nơi cải tạo, giúp con người ta hoàn lương và trở nên tốt
đẹp hơn chứ? Nhưng khi biết đó là nhà tù thực dân, và Chí là con đẻ của nhà tù ấy,
ta thấy đúng là “lẽ thường”. Và một thằng lưu manh, chuyên rạch mặt ăn vạ, hắn
khóc, là “chuyện khó tin”. Nhưng hắn ôm mặt “khóc rưng rức” sau một quá trình
vật lộn để trở về là một con người lương thiện vì bị Thị Nở từ chối, rơi vào bi kịch
tình yêu và lớn nhất là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, ta lại thấy đó là chuyện
“bình thường”. Như vậy, có thể thấy, phản ánh những mâu thuẫn bề ngoài – chân lí
bên trong là sứ mệnh của văn học, và nhà văn phải là người có được cái nhìn nhiều
chiều vào bề sâu – bề xa – bề sau hiện thực để khám phá ra những quy luật ấy.
Bởi nhà văn là “nhân tố khởi đầu của mọi khởi đầu” trong quá trình sáng tác, nếu
anh không có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, nhiều khía cạnh, không một chân lí
cuộc sống nào dễ dàng đến với anh. Bởi chân lí cuộc sống khuất lấp, bị che giấu
sau nhiều dáng hình con người, bộ mặt nhân gian. Đi sâu vào thức nhận ra mới
thấy rõ được. Danh xưng “nhà nghệ sĩ đích thực” cao quý vốn không hề dễ có, anh
phải thực sự có cái nhìn tinh tế – sắc sảo – tìm kiếm trong mọi sáng tác của mình.
Ta biết đến cái phố huyện Cẩm Giàng – Hải Dương quẩn quanh, nghèo nàn đã hằn
lên trong văn phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Một miền quê “tàn” đi theo năm
tháng với những lớp người lay lắt:
“Quanh quẩn mãi cũng vài ba dáng điệu
Tới hay lui cũng chừng ấy mặt người.”
(Quanh quẩn – Huy Cận)
Đọc lần đầu, ta sẽ thấy được lí do của sự quạnh hiu, buồn tẻ ấy là ở sự sống, ở con
người mà tỏa ra. Dẫu không một từ “nghèo”, không một từ “chán” được con người
ta than thở. Giọng văn của Thạch Lam thâm trầm, nhỏ nhẹ nhưng không đượm
buồn mà xót thương. Tất cả vẽ lên một bức tranh phố huyện lúc chiều tà nên thơ và
đậm chất làng quê, với những bóng tối bao trùm.
“Cái bình thường” ở “Hai đứa trẻ” chính là cái nghèo deo dắt, đeo bám con người
ta trong một cuộc sống tẻ nhạt, hiu hắt. Sự vật tàn lụi, con người lụi tàn. Cái chõng
che sắp gẫy, chiếc thau đồng đã cũ của vợ chồng bác xẩm chưa một lần vang lên,
ngọn đèn trong nhà ông Cửu cũng chỉ “leo lét”. Vậy mà cái đèn con của chị Tí lại
có khả năng chiếu sáng cả vùng đất nhỏ này. Đó là ánh sáng của niềm hi vọng mà
ngày nào những cư dân nơi phố huyện cũng thắp lên. Là sự tranh đấu bé nhỏ
nhưng bền bỉ và mãnh liệt giữa bóng tối và ánh sáng. Và là khát vọng hướng đến
ánh sáng cuộc đời của những con người nghèo khổ ấy. Vì sao ngày nào Liên với an
cũng trông hàng chăm chỉ cho me dù chẳng bán được là bao; chị Tí và thằng con
cùng với cả gia tài của chị cũng dọn quán bán hàng dù không có mấy khách? Vì
sao ngày nào vợ chồng bác xẩm cũng cất lên tiếng đàn ngheo não lòng, “bần bật”
trong đêm khuya thanh vắng?
Vì sao một đứa bé mới tám tuổi như Liên đã có thể biết được, cảm nhận được mùi
đất – mùi quê hương trong khi những đứa trẻ khác tầm tuổi Liên “Biết ăn, biết ngủ,
biết học hành là ngoan”? Vì sao một đứa trẻ như An có thể tỉnh nhanh chóng khi
chị nó – Liên gọi dậy vì tàu đến, dù bình thường những đứa trẻ khác còn phải nũng
nịu, rề rà mãi? Và vì sao một chuyến tàu đêm bình dị, thường nhật lại khiến cho
hai đứa trẻ háo hức, mong chờ, nếu hôm nào tàu không đông thì sẽ không vui?
Ấy chính là cái quy luật tâm trạng, quy luật hoàn cảnh. Là “cái khác thường” trong
những “cái bình thường”. Dù bóng tối xâm lấn và bao trùm từ chiều muộn đến đêm
khuya nhưng chưa bao giờ ánh sáng biến mất. Dẫu le lói, nó vẫn tồn tại xung
quanh cuộc sống của cư dân phố huyện. Những điều ấy làm lên chân lí của truyện,
là cái quy luật – hằng số về sự sống và cuộc đời con người: dù khó khăn, nghèo
khó nhưng con người ta sẽ không bao giờ ngừng hướng ra ánh sáng, hi vọng vào
tương lai và nghĩ về một cuộc đời – ngay mai tốt đẹp hơn. Ở thời nào cũng vậy,
trong hoàn cảnh nào cũng thế, “con người ta luôn vươn tới sự sống và kiếm tìm ý
nghĩa sự sống” (Platon).
Tưởng như đi ngược lại với tự nhiên, nhưng lại làm lên chuẩn mực là vì thế.
Có ai ngờ đâu một người vợ – giữa thế kỉ XX – XXI bị chồng đánh “năm ngày một
trận nặng, ba ngày một trận nhẹ” mà không lên tiếng nửa lời, thậm chí còn tình
nguyện là người cho chồng giải tỏa, phát tiết. Làm sao người đàn bà hàng chài
trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu lại làm được
điều ấy? Vì sao Nguyễn Minh Châu lại xây dựng hình ảnh nhân vật người đàn bà
nhẫn nhục đến khó hiểu như thế? Đó là thắc mắc của riêng Phùng và Đẩu. hay là
của cả chúng ta nữa?
Cuộc sống của nhân dân ta sau ngày giải phóng 30-04-1975 mang đến hòa bình,
độc lập cho đất nước nhưng con người thì lại càng bị gò sâu hơn vào cái nghèo, cái
đói, gây nên bao bi kịch gia đình.
Thế nhưng, điều gì làm lên sự nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài? Mọi thứ đều
có nguyên do của nó. Cái nghịch lí, khác thường là sự tồn tại những nguyên nhân
khuất lấp, lí giải ẩn giấu đằng sau. Đó là vì chị hiểu sự ngột ngạt, bức bối của cuộc
sống nghèo đói trên thuyền đã khiến cho gã chồng chị – từ một anh nông dân vùng
biển hiền lành trở thành một gã vũ phu, bạo lực. Những cái đánh của anh không
nằm ở bản chất con người người đàn ông ấy, mà nằm ở hoàn cảnh cuộc sống đói
nghèo đẩy con người ta vào những “bước đường cùng” như thế, khiến một người
đàn ông vốn hiền lành, tốt bụng, giờ ra tay bạo hành vợ mình. Và xót xa nhất là
thằng Phác – đứa con toan mang dao ra để giết ba, cứu mẹ. Đau đớn thay cho cái
hoàn cảnh chua chát ấy! Nhưng làm sao khác được? Mà chắc chắn cũng không
phải là tình cờ khi Nguyễn Minh Châu nói về thằng Phác giống bố nó nhất và chị
thương nó nhất – người đàn bà hàng chài thương đứa con giống chồng chị nhất. Có
nghĩa là chị thương người đàn ông khốn khổ kia, chứ không oán hận anh. Chị hàm
ơn anh vì đã chấp nhận lấy chị. Vì chị hiểu, chị cần anh: vì những lúc gió to biển
động con thuyền cần có người chèo lái. Những đứa con của chị cũng cần có đủ
cha, đủ mẹ…
Những lí lẽ rất đời, rất đàn bà mà bao kẻ như Phùng, như Đẩu, dẫu tri thức, dẫu
hiểu biết thì vẫn mang rất nhiều câu hỏi. Nhưng đó lại là chân lí, sự mâu thuẫn ấy
lại là quy luật, là quy luật giữa những tranh đấu trong nghệ thuật và đời sống mà
“phẩm chất” của một người nghệ sĩ đích thực là phải tranh đấu cho những điều ấy.
Một người đàn bà tưởng vô học nhưng lại thông thạo lẽ đời hơn bất cứ ai. Một kẻ
hiểu biết nhiều, tưởng như đã khám phá ra được “chân lí của sự toàn thiện” vậy mà
đến những phút cuối cùng mới bắt đầu thực sự “vỡ ra” những chân lí. Nếu cuộc
sống không thay đổi, những cảnh đời trong nghèo đói như thế vẫn cứ mãi tiếp diễn.
Liệu trong cuộc sống này còn biết bao câu chuyện hiện thực nghiệt ngã về bạo lực
gia đình như thế nhưng được che giấu? Có phải vì thế mà Nguyễn Minh Châu
không đặt tên cho người đàn bà hàng chài?
Không chỉ là chân lí cuộc sống, đó còn là chân lí thuộc về nghệ thuật. Khi đứng xa
ta thấy chiếc thuyền trong sương mờ ảo, đẹp đẽ thật đấy; nhưng nếu không lại gần,
“đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy những vang động của đời”, làm sao người
nghệ sĩ hiểu được cuộc sống nghiệt ngã với những mâu thuẫn, nghịch lí đớn đau.
Thấy được quy luật của cuộc sống, trong cái bình thường có sự khác thường và
trong cái khác thường thấy được sự bình thường, người nghệ sĩ mới thực sự hoàn
thành sứ mệnh của mình, và văn chương mới thực sự hoàn thành sứ mệnh của văn
chương: văn là đời, là người.
Ý kiến của nhà văn Nga Pautopxki đã nêu lên đúng đắn về yêu cầu ở cái nhìn đối
với người nghệ sĩ. Anh phải có một cái nhìn mâu thuẫn nhưng ẩn sâu là cái quy
luật mà soi chiếu vào mọi vấn đề, vì cuộc sống luôn tồn tại những mâu thuẫn chờ
anh khám phá và lí giải, đúc rút ra những chân lí muôn đời. Như Vũ Trọng Phụng
nhìn ra cái bình thường trong cái bất thường của đám ma cụ cố tổ trong “Số đỏ”,
Kim Lân nhìn ra cái bình thường trong cái bất thường là đám cưới ngày đói của
anh cu Tràng. Một bên có tất cả nhưng thiếu tất cả là tình thương, một bên thiếu tất
cả nhưng có tất cả là tình người.
Sáng tạo nghệ thuật gian truân và nhọc nhằn như thế, hiểu được những điều này,
bạn đọc, anh hãy biết trân trọng những tác phẩm của nhà văn, mà đồng cảm với họ,
và cùng họ khám phá, lí giải những chân lí cuộc đời. Như thế, sứ mệnh của văn
chương mới có thể vẹn toàn, vì bạn đọc và nhà văn phải là những Lưu Bình –
Dương Lễ thời hiện đại!
Về vấn đề tiếp nhận văn học: đánh giá sự hay-dở qua một tác phẩm
Trong “Tùy viên thi thoại”, Viên Mai từng kể, Lý Phi đời Đường cho thơ Bạch Cư
Dị là dâm, diễm, phóng túng, cuối cùng, người đời sau chỉ biết có Bạch mà chả hề
nhắc tới tên họ Lý năm nào. Mọi tác phẩm muốn đi theo năm tháng, muốn trường
tồn với nhân gian, phải có sự giúp đỡ của người đọc. Người đọc là đối tượng mà
văn học cần truyền tải và cũng là con thuyền giúp nhà văn đi qua những bão giông,
úa tàn của vô thường, của vũ trụ. Dẫu vậy, vấn đề tiếp nhận vẫn còn là một câu
chuyện nan giải, chưa có hồi kết. Vì thị hiếu thẩm mỹ của mỗi người người rất
khác nhau, cảm xúc thẩm mỹ lại thay đổi theo thời đại. Một tác phẩm bị quên lãng
vào thời đại mà nó sinh ra, lại có thể bùng lên ngọn lửa vào những thế kỉ sau. Vậy
nên, việc đánh giá sự thành bại, hay dở của một tác phẩm văn học, luôn cần soi
chiếu nhiều phương diện khác nhau.
Tác phẩm ban đầu chỉ là một dạng giá trị tinh thần bên trong những cảm xúc, tư
tưởng của nhà văn. Sau đó, nhờ những phẩm chất đặc biệt, những giá trị tinh thần
này được truyền tải dưới dạng chất liệu là ngôn từ, trở thành một dạng giá trị vật
chất . Công cuộc thai nghén của nhà văn kết thúc từ đây. Tác phẩm đã được “cắt
rốn” ra khỏi suy nghĩ nhà văn, bắt đầu cuộc hành trình sống, đi tìm chỗ đứng của
bản thân mình. Cuộc đời của tác phẩm chỉ bắt đầu khi nhà văn kết thúc nó. Và rồi,
khi nó đến được với người đọc, quá trình tiếp nhận bắt đầu được thực hiện, giờ
đây, nhà văn và tác phẩm tách biệt nhau, mỗi người đều có một cuộc đời khác. Chỉ
đến lúc này, tác phẩm mới chính thức được công nhận là một tác phẩm toàn vẹn.
Dẫu vậy, tác phẩm cũng đòi hỏi ở người đọc một số năng lực tối thiểu, cần thiết.
Trước hết, người đọc phải đọc được ở lớp từ ngữ một cách trọn vẹn, sau đó, thâm
nhập vào hệ thống hình tượng, những ẩn ý mà nhà văn đã đưa ra. Rồi từ những
hình tượng này, thể nghiệm nó trong đời sống, nâng cấp nó trở thành một dạng
quan niệm, tư tưởng, để từ đó tác phẩm có thể tìm được chỗ đứng của chính bản
thân trong đời sống lịch sử. Những suy nghĩ ỷ lại, tầm thường, rằng chỉ nhà văn
mới cần phẩm chất, còn người đọc thì không, cần được triệt tiêu càng sớm càng
tốt. “Người làm văn nhờ xúc cảm dồi dào, mà viết thành văn, thì người đọc cũng
phải biết rẽ văn mà thâm nhập vào tình cảm” (Lưu Hiệp). Nếu không chỉ như nhân
vật trong truyện ngắn Sekhov, xem xong kịch Opera chỉ biết khen diễn viên có
giọng hát hay. Đọc một tác phẩm mà chỉ như cưỡi ngựa xem hoa, cuối cùng chẳng
đọng lại được gì, chỉ như “nước đổ đầu vịt”.
Tiếp nhận văn học luôn là một lĩnh vực đòi hỏi tính khách quan, như trong một
thời gian dài, nó đã được coi như một hoạt động giữa những cá nhân. Văn học
Trung Hoa cổ đại rất coi trọng tính chất cá nhân này, coi “tri âm”, “tri kỉ” là một
đích đến trong cuộc đời thơ văn. Thời Xuân Thu, Chương Tử Kỳ đàn cho Bá Nha
nghe, Bá Nha thấy được sông núi biển trời. Sau Bá Nha chết, Chương Tử Kỳ cũng
đập cây đàn độc nhất, không sử dụng một lần nào nữa. Cách nghĩ này khiến văn
chương trở thành một lĩnh vực chỉ dành cho những người sành nghệ thuật, mang
cách đọc tầm nguyên, cốt tìm cho ra dụng ý của tác giả mà không quan tâm tới
những tư tưởng thời đại, xã hội thời bấy giờ. Lại có ý cho rằng “ý của tác giả chưa
chắc đã vậy, tại sao ý của người đọc lại không được như vậy”. Cách nghĩ này dẫn
đến những lối nghĩ chủ quan, xa rời thực tế, xa rời ý đồ thực sự của tác phẩm. Như
xưa kia, Kinh Thi bị coi là một dạng sách vở giáo điều, lại có kẻ cho rằng là một
dạng dâm ô tục tĩu, nhưng vẫn có khía cạnh đề cao trượng nghĩa. Đến khi được
nhìn nhận đúng, Kinh Thi là những bài dân ca tình tứ mang đậm suy nghĩ thế nhân,
Và chỉ đơn giản là như vậy.
Điều đó cho thấy văn học phải được nhìn nhận khách quan, dưới những khía cạnh
trong đời sống lịch sử xã hội. Những biến chuyển của xã hội sẽ tác động tới suy
nghĩ, tư tưởng, những định kiến của con người khi nhìn nhận một vấn đề. Đó chính
là lí do tác phẩm có thể không phù hợp với giai đoạn này nhưng lại là “bất hư” với
giai đoạn khác. Thời Nguyễn Công Trứ, khi nho giáo, những ràng buộc đối với
người phụ nữ vẫn còn, ông cho Kiều là “ đáng kiếp tà dâm”, nhưng đến thời
Nguyễn Đình Thi, Hoài Thanh, khi thời đại đang đề cao tiếng nói cá nhân, những
tình cảm rất riêng tư, con con, mộc mạc, thì một nhân vật như Kiều lại đáng được
trân trọng. Nhà văn thường không được công nhận vào đúng thời của mình, chính
là vì anh ta đang đi trước thời đại quá xa. Hay chuyện của Sekhov, kể về một
người đàn bà có nhiều đời chồng. Lênin cho rằng vậy là “gió chiều nào theo chiều
ấy”, là không chung thủy, là bởi ông thuộc về con người của tư duy, của lí trí, của
những kiên định và sắt đá. Lep Tônxtôi lại bênh vực, thương cảm thay cho người
phụ nữ kia. Rằng người đàn bà ấy sao mà khổ, mà thương, khi dành trọn tình cảm
cho ai cũng không có được kết cục viên mãn. Là người con gái, ai chẳng mong
được hạnh phúc bên người mình yêu, có một mái ấm, một bờ vai vững chắc. Hai
người có hai lí lẽ rất khác nhau. Không ai đúng, sai, hoàn toàn, chỉ bởi hai người
khai thác ở hai khía cạnh khác nhau, và tâm tư, lối nghĩ của hai người cũng được
định hình theo những lối khác nhau.
Ngoài tính khách quan, cũng không thể phủ nhận khả năng sáng tạo của người đọc.
Người đọc và nhà văn sẽ cùng thực hiện chức năng “đồng sáng tạo”. Nhưng đây
hoàn toàn là hai lối sáng tạo khác nhau. Với nhà văn, là sáng tạo ra tác phẩm mới,
ra một đứa con tinh thần đến với người đọc. Và bởi “ Viết thông minh là không
viết hết” (Faulre), nên quá tình sáng tạo của người đọc bắt đầu. Người đọc sẽ hiểu,
thâm nhập sâu vào hệ thông ý nghĩa và hình tượng trong tác phẩm, rồi phát hiện ra
những khía cạnh mới, những lối nghĩ mới trong không gian đa chiều của tác phẩm.
Thế đứng và vai trò của tác phẩm trong đời sống lịch sử cũng nhờ thế mà được
khẳng định một cách sâu sắc hơn. Nhưng số phận của tác phẩm không chỉ ở người
đọc, mà còn ở “phẩm chất bên trong” (Phạm Văn Đồng), nên người đọc cũng nên
tránh những lối đọc xa rời thực tế, xa rời ý nghĩa ban đầu.
Bằng những yếu tố nêu trên, có thể, có thể thấy, tiếp nhận văn học là một khái
niệm rất đa dạng, đa chiều, nhưng vô cùng quan trọng đối với cuộc đời của tác
phẩm và của nhà văn. Để đánh giá một tác phẩm hay hay dở, sẽ phụ thuộc vào
phẩm chất nhà văn, những giá trị mà nó đem lại trong đời sống văn học và tác động
của những giá trị đó đối với những biến chuyển của xã hội. Còn thực chất, chẳng
thể nói rõ cho được, tác phẩm nào là thành hay bại. Đã là một đứa con tinh thần
được nhà văn thai nghén suốt bao tháng ngày, là một sản phẩm chứa đựng thế giới
tinh thần và xúc cảm của nhà văn, thì nó không bao giờ là điều thất bại.
Trong khi tác phẩm cùng thời chỉ tập trung vào việc đề cao, phóng đại hóa cái chân
– thiện – mỹ, thì William Golding lại đi vào những điều trần trụi nhất, phũ phàng
nhất của thế giới loài người – cái ác bản năng. Trong khi ai ai cũng tin rằng “Nhân
chi sơ, tính bổn thiện” (Khổng Tử) thì ông tuyên bố cái ác có sẵn trong tâm tưởng
mỗi người. Đi ngược thời đại như vậy, “Chúa Ruồi” của William Golding đã gây
rất nhiều tranh cãi. Ông để những tâm hồn lương thiện nhất, non nớt nhất, ở một
nơi chẳng hề có luật lệ, và xem xét sự tương quan giữa chúng, giữa cái cách mà
hoàn cảnh tác động lên bản tính người. Ở nơi hoang sơ như vậy, lũ trẻ buộc phải
giết những sinh vật khác để sinh tồn, như cách mà bao đời nay vẫn thực hiện để
bảo toàn chuỗi thức ăn. Nhưng trong những cảnh giết chóc đó, một điều gì đó đã
được bùng lên, một dạng khoái cảm, thỏa mãn khi được nắm quyền sinh sát, được
là kẻ cai trị, được nếm trải cảm giác của máu, của những tiếng than khóc, và sự
tuyệt vọng. Có câu chuyện là một chuỗi những sự lựa chọn, văn minh hay mọi rợ,
luật kệ hay không luận lệ, giết hay sống. “Chúa Ruồi” được sinh ra khi lòng trắc ẩn
không còn được rung lên nữa, người sống không còn là người, mà đã trở về với
nguyên bản, với dạng hoang dã, với sự biến mất của những bữa trà chiều, những
tiếng nói trọn vẹn, và thay vào đó, là những mái tóc dài, những vỏn vẹn, những
cuộc săn người man rợ.
Người ta thường nói nhiều về những giọt nước mắt. Nước mắt của hạnh phúc vỡ
òa, của những nỗi buồn thương, của mỉa mai chua xót. Nam Cao, nhà văn cả cuộc
đời mình mải miết viết chỉ để giữ gìn sự trong sáng của giọt lệ, đã để Chí Phèo,
trong những khoảnh khắc cuối cùng, là “hình như mắt hắn ươn ướt”. Dẫu chỉ là
thoáng qua, là mong manh, nhưng Chí Phèo cũng đã khóc. Còn khóc là còn ánh lên
chút thiện trong bản tính người. Trong “Chúa Ruồi”, William Golding cũng để
Ralph khóc. “Khóc cho sự ngây thơ đã chết và lòng dạ đen tối của con người”.
Khóc cho em, và cho cả cuộc đời. Khóc thay cho những tháng năm về sau sống
trong bóng tối và ám ảnh, vì đã nhìn thấy những góc khuất, những đớn đau của
cuộc đời này quá sớm, khi mà em còn chưa được trang bị gì, chưa phải va vấp gì.
Đời đã ném em vào hố đen, và giờ chỉ còn mình em khuất bóng trong những năm
tháng về sau. Và người lớn, chừng như còn biết bao điều phải lo nghĩ, phải bộn bề
giữa trăm nghìn công việc, nên chẳng hề quan tâm đến cái nỗi đau hồ mơ, chênh
vênh của một đứa trẻ vặt. Nhưng con người thì hoàn toàn, mãi mãi, có thể làm
những gì đáng sợ ấy lại một lần nữa, trên hòn đảo vô danh củaThái Bình Dương
nắng gắt.
Khi mới được xuất bản, “Chúa Ruồi” không được nước sở tại, đất nước quê hương
của tác giả đón nhận. Anh vừa trải qua bao cuộc chiến tranh khốc liệt, và người ta
cho rằng, không cần thêm bất cứ một sự u ám, một sự khốc liệt và trần trụi nào
nữa. Tác phẩm đã không được công nhận theo đúng tầm vóc và vị trí mà nó xứng
đáng phải có. Nhưng khi được đưa qua Mỹ, “Chúa Ruồi” lại được đón tiếp nồng
nhiệt. Vốn với tư tưởng phóng khoáng, yêu thích những gì mới, những điều khác
lạ, “Chúa Ruồi” như một làn gió hạ mang theo hương mùa, phả lên cảnh vật những
điều tươi mới nhất. Công chúng Mỹ đã đón nhận tác phẩm một cách nồng nhiệt.
Cho đến quãng thời gian sau này, “Chúa Ruồi” cũng tìm được chỗ đứng của nó
trong lòng độc giả quê nhà. Tác phẩm của William Golding được giảng dạy trong
trường học, để giáo dục và mặt nhận thức. Nhận thức về thế giới, rằng con người
nói nhiều về quá khứ, về những người đã chết vì chiến tranh, mà không hề hay
biết, lịch sử chưa bao giờ dừng lại. Thế giới sẽ đi về đâu, trong một xã hội mà
những cuộc chiến tranh cứ liên tiếp nổ ra, do nhân loại và để tiêu diệt chính nhân
loại?
Không chỉ ở nước ngoài, mà văn học Việt Nam cũng có những khía cạnh tiếp nhận
rất thú vị. “Người đàn bà ngồi đan” của Ý Nhi đã khiến bao thế hệ thiếu nữ Hà
Nội, sống và học theo cung cách đó.
“Giữa chiều lạnh
Một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ
Vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vã
Nhẫn nại như thể đó là việc phải làm suốt đời
Vội vã như thể đó là lần sau chót.
Không thở dài
Không mỉm cười
Chị đang giữ kín đau thương
Hay là đang hạnh phúc
Lòng chị tràn đầy niềm vui
Hay là đang ngờ vực”.
Người đàn bà của Ý Nhi đan những sợi tơ trong guồng quay cuộc đời. Sợi rối, sợi
quăn, sợi quấn vào nhau, như những nghĩ suy đan xen phức tạp. Bởi chị đang đan
những sợi tơ lòng. Tiếng nói chẳng còn, xúc cảm cũng không thể biểu lộ, chị chỉ
còn biết gửi tâm tư vào trong bao sợi tơ lòng. Đan rồi, tơ ơi, liệu có còn phải phải
chờ đợi? Liệu có còn phải sống giữa những lặng câm, giữa những kìm nén để thấy
mình mạnh mẽ ? Tơ lòng, rối rắm, buồn thương. Tơ lòng, đan xen, vất vưởng. Tơ
lòng, chênh vênh.
Còn với Ý Nhi, chị đan vào lòng những người con gái Hà Nội biết bao sợi tơ thơ.
Khiến những người con gái Tràng An, giữa bao bộn bề đau thương, biết sống dịu
dàng, đoan trang, biết sống hiền thục, nữ tính. Nhưng quyện với đó, là bao mạnh
mẽ, sục sôi, bao sức sống và xúc cảm đang chờ ngày được tỏ bày. Tơ thơ của Ý
Nhi đã đan cài vào cả một thế hệ. Biết yêu, biết sống, những cũng biết chờ đợi, biết
nhớ mong. Biết thương, biết buồn, nhưng cũng biết xoa dịu, mạnh mẽ. Tơ Thơ đi
vào lòng người nhẹ nhàng và thầm lặng như chính bản thân của nó. Tơ mà, mong
manh, dịu nhẹ, nhưng đan quyện cũng rất đậm, rất sâu.
Có thể thấy, tiếp nhận văn học không chỉ giúp tác phẩm, nhà văn có được chỗ
đứng, mà còn giúp người đọc sống được nhiều cuộc đời. Nếu đã từng trải, có dịp
chiêm nghiệm và nhận xét. Nếu chưa từng trải bao giờ, có dịp trải như chính cuộc
đời mình. Từ đó tự quan sát, soi xét lại mình, thanh lọc bản thân để trở thành một
con người tốt hơn. Văn học giáo dục con người là như vậy. Nhờ văn chương mà
thay đổi được cả một lớp người, biến chuyển được cả một thời đại, cũng là nhờ
những thần kỳ mà ta có được nhờ văn chương. Nói đến văn chương là nói đến tình
cảm, mà tình cảm thì thấm sâu, thấm lâu. Những gì nhờ tình cảm mà có cũng được
níu giữ lâu dài. Văn là tình, người cũng là tình, văn nhờ người mà sống, người
cũng nhờ văn mà trở nên hoàn thiện, toàn vẹn hơn, ngày càng hướng đến chân –
thiện – mỹ.
Tác phẩm, xét cho cùng, cũng nhờ phẩm chất nhà văn mới có. Nhà văn phải có đủ
tài – tâm – thức, thì văn mới sâu, ý mới rộng, người mới nhờ đó mà tỏ, mà sáng
biết bao chuyện ở đời. Vậy nên, một khi quá trình tiếp nhận diễn ra thành công, tác
phẩm đến được với lớp lớp người đọc nhà văn luôn cần được đề cao về vai trò, về
năng lực sáng tác. Tác phẩm có chỗ đứng trong tiến trình văn học, trong đời sống
nội tại, trong lịch sử xã hội, thì cũng đồng thời với việc nhà văn đó được công
nhận, có vị trí trong lòng người đọc. Hai mối quan hệ này luôn bổ sung lẫn nhau,
và không thể tách rời. Cũng như tác phẩm không có tiếp nhận sẽ không được toàn
vẹn. Haniki Munraka từng nói: “Một khi cơn bão đã thực sự chấm dứt, khi ta bước
ra, ta sẽ không còn là người khi đã bước vào”. Và những thay đổi ấy chưa bao giờ
là xấu, chưa bao giờ là muộn.
Văn học trường tồn và đi mãi với thời gian, vượt qua những vô thường và bao sự
vô tâm của dòng đời, chính là vì nó mang trong mình tổ hợp của những giá trị. Văn
học được dựng xây bởi giá trị. Mà giá trị thì không bao giờ bị những bão giông của
năm tháng làm cho vụn vỡ. Nó được lưu truyền và gìn giữ trong lòng người, trong
suy nghĩ và tâm tư của thế nhân, từ đó nảy nở biết bao tư tưởng của thời đại. Tiếp
nhận sẽ mãi và luôn luôn, được khai hoa kết quả trong tác phẩm, trong lòng người
đọc, và trong cuộc đời nhà văn. Để rồi, từ đó, nó trả hương cho nhân thế.
“Nền đất ẩm, chiếu manh, trang giấy trắng
Ta hi sinh bao nhiêu vật cho đời
Nên ta chết như chuyến đi dài hạn
Bởi họ sống thay ta, có mặt giữa muôn đời.”
(Đào Cảng).
Thơ và đặc điểm của ngôn ngữ thơ
Thơ là một hình thức sáng tác văn học đầu tiên của loài người. Chính vì vậy mà có
một thời gian rất, dài thuật ngữ thơ được dùng chỉ chung cho văn học. Thơ có lịch
sử lâu đời như thế nhưng để tìm một định nghĩa thể hiện hết đặc trưng bản chất của
nó cho việc nghiên cứu thơ ngày nay thì thật không dễ.
Trong nền lý luận văn học cổ điển Trung Hoa, khái niệm “thơ là gì?” đã được đề
cập đến từ rất sớm. Cách đây khoảng 1500 năm, trong cuốn Văn tâm điêu long,
Lưu Hiệp đã đề cập đến ba phương diện cơ bản cấu thành nên một bài thơ là tình
cảm, ý nghĩa (tình văn), ngôn ngữ (hình văn) và âm thanh (thanh văn). Kế thừa
quan niệm của Lưu Hiệp, đến đời Đường, Bạch Cư Dị đã nêu lên các yếu tố then
chốt tạo thành điều kiện tồn tại của thơ: “Cái cảm hoá được lòng người chẳng gì
trọng yếu bằng tình cảm, chẳng gì đi trước được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng
âm thanh, chẳng gì sâu sắc bằng ý nghĩa. Với thơ, gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn
ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý nghĩa”. Quan niệm này không chỉ dừng lại ở việc
nêu lên các yếu tố cấu thành tác phẩm mà còn chỉ ra mối quan hệ gắn bó giữa
chúng, giống như gốc rễ, mầm lá, hoa, quả gắn liền với nhau trong một thể thống
nhất hoàn chỉnh và sống động. Đây có thể coi là quan niệm về thơ toàn diện và sâu
sắc nhất trong nền lý luận văn học cổ điển Trung Hoa.
Các nhà Cấu trúc chủ nghĩa Châu Âu lại thay thế câu hỏi “thơ là gì?” bằng một câu
hỏi khác: tính thơ là gì? và nó được thể hiện ra như thế nào? Trong tiểu luận “Thơ
là gì”, Jacobson viết: “Nhưng tính thơ được biểu hiện ra như thế nào? Theo cái
cách từ ngữ được cảm nhận như là từ ngữ chứ không phải như vật thay thế đơn
giản của đối tượng được chỉ định, theo cách những từ, những cú pháp, những ngữ
nghĩa của chúng, hình thức bên trong và bên ngoài của chúng không phải là các
dấu hiệu vô hồn của hiện thực mà còn có trọng lượng riêng, giá trị riêng”. Tiếp tục
triển khai lý thuyết tự qui chiếu, Jacobson sau khi nhắc lại hai kiểu sắp xếp cơ bản
của hoạt động ngôn ngữ là tuyển chọn và kết hợp, đã đi đến kết luận: “Chức năng
thi ca đem nguyên lý tương đương của trục tuyển lựa chiếu lên trục kết hợp”. Mặc
dù có lưu ý ít nhiều đến hoạt động nguyên lý tương đương về ý nghĩa nhưng trong
tư duy nghiên cứu của Jacobson, cái ý nghĩa ở đây chỉ là ý nghĩa của đối tượng gọi
tên và ý nghĩa ngữ pháp nảy sinh từ những mối quan hệ giữa các thành tố cấu trúc
có tính chất khép kín của văn bản. Điều đó cũng có nghĩa là khái niệm ý nghĩa
được hiểu một cách hạn hẹp. Bởi trong thực tế, như ta thấy, ý nghĩa của thơ nhiều
khi đã vượt ra ngoài giới hạn của văn bản.
Ở Việt Nam, khái niệm “thơ là gì?” cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến
với nhiều quan niệm, nhiều khuynh hướng khác nhau. Lý giải về bản chất của thơ,
các tác giả nhóm Xuân thu nhã tập cho rằng: “Thơ là một cái gì huyền ảo, tinh
khiết, thâm thuý, cao siêu”. Còn nhà thơ Tố Hữu thì quan niệm: “Thơ là cái nhuỵ
của cuộc sống”. Dưới cái nhìn cấu trúc, nhà nghiên cứu Phan Ngọc định nghĩa:
“Thơ là cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ,
phải cảm xúc và suy nghĩ do chính hình thức ngôn ngữ này”. Định nghĩa này của
giáo sư Phan Ngọc đã kế thừa được những khám phá quan trọng về thơ của nhiều
nhà nghiên cứu thuộc các trường phái khác nhau của Tây Âu trong mấy chục năm
qua. Đặc biệt, đã gợi ra một trường nghiên cứu thơ hết sức rộng rãi: thơ không chỉ
là hiện tượng ngôn ngữ học thuần tuý mà chủ yếu là hiện tượng giao tiếp nghệ
thuật, một phát ngôn trong ý nghĩa đầy đủ của từ này.
Lịch sử nghiên cứu và phê bình văn học đã được chứng kiến rất nhiều định nghĩa
về thơ. Theo tôi, cách định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học có thể xem là chung nhất:
“Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện tâm trạng, những
cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu”.
Định nghĩa này đã định danh một cách đầy đủ về thơ ở cả nội dung và hình thức
nghệ thuật. Đặc biệt, đã khu biệt được đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ thơ với ngôn
ngữ trong những thể loại văn học khác.
Từ sự nhận diện về thơ như trên, ta có điều kiện để đi vào tìm hiểu những đặc
trưng cơ bản của ngôn ngữ thơ. So với ngôn ngữ văn xuôi, ngôn ngữ thơ trữ tình
có những điểm khác biệt như:
1. Ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính
Thơ trữ tình phản ánh cuộc sống qua những rung động của tình cảm. Thế giới nội
tâm của nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ mà còn bằng cả âm
thanh, nhịp điệu của từ ngữ ấy. Nếu như trong văn xuôi, các đặc tính thanh học của
ngôn ngữ (như cao độ, cường độ, trường độ…) không được tổ chức thì trong thơ,
trái lại, những đặc tính ấy lại được tổ chức một cách chặt chẽ, có dụng ý, nhằm
tăng hàm nghĩa cho từ ngữ, gợi ra những điều mà từ ngữ không nói hết. Bởi thế,
đặc trưng tính nhạc được coi là đặc trưng chủ yếu mang tính loại biệt rõ nét của
ngôn ngữ thơ ca.
Theo các nhà nghiên cứu, nhạc tính trong thơ được thể hiện ra ở ba mặt cơ bản. Đó
là: sự cân đối, sự trầm bổng và sự trùng điệp:
– Sự cân đối là sự tương xứng hài hoà giữa các dòng thơ. Sự hài hoà đó có thể là
hình ảnh, là âm thanh, chẳng hạn:
“Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm).
Cũng có thể là cách sắp xếp tổ chức mà chúng ta dễ dàng nhận thấy ở cặp câu thực,
câu luận trong bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Đối với thơ hiện đại, yêu cầu
này không khắt khe. Tuy vậy, nhà thơ vẫn hết sức chú ý đến hiệu quả nghệ thuật
của phép đối xứng trong thơ của mình.
– Sự trầm bổng của ngôn ngữ thơ thể hiện ở cách hoà âm, ở sự thay đổi độ cao
giữa hai nhóm thanh điệu. Xuân Diệu với hai dòng thơ toàn vận dụng vần bằng đã
biểu hiện được cảm xúc lâng lâng, bay bổng theo tiếng đàn du dương, nhẹ êm:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
Chính Tố Hữu đã có lần nói đến giá trị ngữ âm của từ “xôn xao” trong câu thơ
“Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa” (Mẹ Tơm). Đó đâu chỉ là âm vang của tự
nhiên mà là âm vang của tâm hồn. Cái làm nên âm vang đó chính là âm thanh, âm
thanh của từ “xôn xao” đã cùng với nghĩa của nó làm nên điều kỳ diệu ấy. Sự trầm
bổng của ngôn ngữ còn thể hiện ở nhịp điệu:
“Sen tàn/ cúc lại nở hoa
Sầu dài/ ngày ngắn/ đông đà sang xuân”.
Dòng thơ cắt theo nhịp 2/4 và 2/2/4 đều đặn như nhịp chuyển vần đều đặn của
tháng năm bốn mùa… Nhịp thơ ở đây là nhịp của cảm xúc, cảm nhận. Như vậy,
âm thanh, nhịp điệu trong thơ không đơn thuần là hình thức mà là những yếu tố
góp phần biểu hiện những khía cạnh tinh vi của đời sống tình cảm con người.
– Sự trùng điệp của ngôn ngữ thơ thể hiện ở sự dùng vần, điệp từ, ngữ và điệp cú.
Chúng có tác dụng như một phương tiện kết dính các dòng thơ lại với nhau thành
một đơn vị thống nhất, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho trí nhớ vừa tạo nên vẻ đẹp
trùng điệp cho ngôn ngữ thơ:
“Lầu mưa xuống, thềm lan mưa xuống
Mưa xuống lầu, mưa xuống thềm lan
Mưa rơi ngoài nẻo dặm ngàn
Nước non rả rích giọt đàn mưa xuân”
(Tiếng đàn mưa- Bích Khê).
Lối điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc ở đây vừa diễn tả được hình ảnh cơn mưa của
đất trời vừa tạo nên một ấn tượng vương vấn không dứt trong lòng người.
Như vậy, nhạc điệu trong thơ là một đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ thơ. Ngày nay,
nhu cầu của thơ có phần đổi khác. một số người có xu hướng bỏ vần để tạo cho câu
thơ sự tự do hoá triệt để. Nhưng nếu không có một nhạc điệu nội tại nào đó như sự
đối xứng giữa các dòng, các đoạn thơ, tiết tấu, nhịp điệu của câu thơ thì không còn
là ngôn ngữ thơ nữa.
2. Ngôn ngữ thơ có tính hàm súc
Đây là đặc điểm chung của ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương, nhưng do đặc
trưng của thể loại mà nó biểu hiện một cách tập trung với yêu cầu cao nhất trong
ngôn ngữ thơ. Nếu ngôn ngữ văn xuôi tự sự là ngôn ngữ của cuộc sống đời thường,
nó chấp nhận mọi lớp từ, mọi biến thái, mọi chiều kích, thậm chí cả sự xô bồ, phồn
tạp đến cực độ để tái hiện bộ mặt cuộc sống, tâm lý con người trong sự sâu rộng,
đa chiều vốn có của nó thì ngôn ngữ thơ lại mang nặng tính “đặc tuyển”. Là thể
loại có một dung lượng ngôn ngữ hạn chế nhất trong các loại tác phẩm văn học,
nhưng thơ lại có tham vọng chiếm lĩnh thế giới. Nói như Ôgiêrốp: “Bài thơ là một
lượng thông tin lớn nhất trong một diện tích ngôn ngữ nhỏ nhất”. Chính sự hạn
định số tiếng trong câu thơ, bài thơ buộc người nghệ sỹ phải “thôi xao”, nghĩa là
phải phát huy sự tư duy ngôn ngữ để lựa chọn từ ngữ cho tác phẩm. Bởi thế,
Maiacôpxki gọi lao động nghệ thuật ngôn từ của nhà thơ là “trả chữ với với giá cắt
cổ”:
“Nhà thơ trả chữ với giá cắt cổ
Như khai thác chất hiếm radium
Lấy một gam phải mất hàng bao công lực
Lấy một chữ phải mất hàng tấn quặng ngôn từ.”
Như vậy, tính hàm súc được hiểu là khả năng của ngôn ngữ có thể miêu tả mọi
hiện tượng của cuộc sống một cách cô đọng, ít lời mà nói được nhiều ý, ý tại ngôn
ngoại. Đây chính là cách dùng từ sao cho đắt nhất, có giá trị biểu hiện cao nhất
kiểu như Nguyễn Du đã “giết chết” các nhân vật Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Hồ
Tôn Hiến, mỗi tên chỉ bằng một từ: cái vô học của Mã Giám Sinh: Ghế trên ngồi
tót sỗ sàng; cái gian manh của Sở Khanh: Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào; cái
tầm thường ti tiện của Hồ Tôn Hiến: Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình.
Do quy mô của tác phẩm, thơ ca thường sử dụng từ ngữ rất “tiết kiệm”. Tính hàm
súc của ngôn ngữ thơ, vì vậy, chứa đựng các thuộc tính khác. Hàm súc cũng có
nghĩa là phải chính xác, giàu hình tượng, có tính truyền cảm và thể hiện cá tính của
người nghệ sỹ. Chẳng hạn, từ “khô” trong câu thơ của Tản Đà: “Suối khô dòng lệ
chờ mong tháng ngày” là một từ có tính hàm súc cao mà những yếu tố tương
đương với nó (như “tuôn”) không thể thay thế. Nó không chỉ diễn tả được chiều
sâu của tình cảm mà còn gợi lên cả chiều dài của những tháng năm chờ đợi. Nó
vừa đảm bảo được tính chính xác, tính hình tượng, vừa có tính truyền cảm.
Để đạt được tính hàm súc cao nhất, có thể biểu hiện được cái vô hạn của cuộc sống
trong những cái hữu hạn của các đơn vị ngôn ngữ, thơ ca phải tính đến những kiểu
tổ chức đặc biệt mà nhà nghiên cứu Phan Ngọc gọi là “quái đản”. Dưới áp lực của
cấu trúc ngôn ngữ khác thường này, ngữ nghĩa của từ trong thơ không dừng lại ở
nghĩa gốc, nghĩa đen, nghĩa trong từ điển mà phong phú, sâu sắc, tinh tế hơn. Đó là
thứ nghĩa được tạo sinh nhờ quan hệ và trong quan hệ. Ví dụ: Khi Hồng Nguyên
viết: “Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau” thì chính trong quan hệ với những
yếu tố trước và sau nó mà từ “đột kích” được cấp cho một nghĩa mới, gợi lên
những rung động thẩm mỹ. Hay trong câu thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ: “Em đã lấy
tình yêu của mình thắp lên ngọn lửa” thì sự kết hợp bất thường về nghĩa đã mở ra
những liên tưởng hết sức thú vị. Trong đời thường, khi nói đến việc “thắp lửa”,
người ta một là nghĩ đến phương tiện như: cái bật lửa, que diêm … hai là nguyên
liệu như: dầu hoả, dầu dừa … Ở đây, nhà thơ lại thay nó bằng một “chất liệu” rất
trừu tượng thuộc lĩnh vực tinh thần. Và trong quan hệ với cái chất liệu trừu tượng
đó, nghĩa bề mặt của “ngọn lửa” bị mờ đi, mở ra những nghĩa mới. Đó là: chân lý,
niềm tin, lý tưởng cuộc đời…
Định lượng số tiếng trong thơ cũng là tiền đề tạo ra sự xuất hiện với một mật độ
dày đặc các phương tiện nghệ thuật trong thơ so với văn xuôi. Nhiều lúc, trong một
bài thơ, có thể thấy xuất hiện cùng một lúc các phương tiện tu từ khác nhau, như ẩn
dụ, hoán dụ, nhân hoá, tượng trưng, điệp từ, điệp ngữ. Bài ca dao trữ tình sau đây
là một ví dụ:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Đèn thương nhơ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề.”
Bài ca dao có số lượng từ không nhiều nhưng bằng các biện pháp tu từ đã thể hiện
được tâm trạng khắc khoải nhớ mong của người con gái dường như còn vang mãi,
dư âm đến tận bây giờ và cả mai sau, không chỉ của một người mà của nhiều
người.
3. Ngôn ngữ thơ có tính truyền cảm
Tính truyền cảm cũng là đặc trưng chung của ngôn ngữ trong tác phẩm văn
chương, bởi tác phẩm văn học là sản phẩm của cảm xúc của người nghệ sĩ trước
cảnh đời, cảnh người, trước thiên nhiên. Cho nên, ngôn ngữ trong tác phẩm văn
chương phải biểu hiện được cảm xúc của tác giả và phải truyền được cảm xúc của
tác giả đến người đọc, khơi dậy trong lòng người đọc những cảm xúc thẩm mĩ. Tuy
nhiên, do đặc trưng của thơ là tiếng nói trực tiếp của tình cảm, trái tim nên ngôn
ngữ thơ ca có tác dụng gợi cảm đặc biệt.
Ngôn ngữ thơ không bao giờ là ngôn ngữ chú trọng miêu tả cái khách quan như
ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự. Nếu nhà văn dùng ngôn ngữ để thuyết minh, miêu
tả, nhắn nhủ, giải thích… thì nhà thơ dùng ngôn ngữ để truyền cảm. Khi Quang
Dũng viết:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Quang Dũng không có ý hỏi ai lên Châu Mộc trong buổi chiều sương nào đó có
nhìn thấy phong cảnh hữu tình không mà tác giả khơi trong ta nỗi nhớ thương mất
mát, nuối tiếc ngậm ngùi, những ngày tháng, những kỷ niệm, những ảo ảnh đã tan
biến trong đời… Quang Dũng gợi trong ta một trạng thái bằng cách hồi sinh những
gì đã mất, đồng thời phản ánh tâm trạng của chính mình.
Lời thơ thường là lời đánh giá trực tiếp thể hiện quan hệ của chủ thể với cuộc đời.
Là lời đánh giá trực tiếp, thể hiện tâm trạng cho nên sự lựa chọn từ ngữ, phương
thức tu từ trong thơ bao giờ cũng nhằm làm cho nội dung cảm xúc, thái độ đánh
giá, sự đồng cảm hoặc phê phán, ca ngợi trở nên nổi bật:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều”
(Nguyễn Đình Thi).
Ở đây, mỗi câu thơ đều mang một từ tập trung tất cả sức nặng của tình cảm. Những
từ đó như là những tiêu điểm để ta nhìn thấu vào tâm hồn tác giả. Tính truyền cảm
của ngôn ngữ thơ không chỉ biểu hiện qua cách lựa chọn từ ngữ, các phương thức
tu từ mà còn biểu hiện qua nhạc điệu thơ. Chẳng hạn:
“Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn”
(Tố Hữu).
Sự tập trung dày đặc các nguyên âm có độ mở rộng và phụ âm mũi vang khiến câu
thơ nghe giàu tính nhạc, kéo dài như âm vang của sóng biển vỗ bờ. Nhạc tính đó
không đơn thuần là sự ngân nga của ngôn ngữ mà còn là khúc nhạc hát lên trong
lòng người.
Tóm lại, thơ là một hình thái nghệ thuật cao quí, tinh vi của sáng tạo văn học nghệ
thuật. Vì vậy, ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ mang tính nghệ thuật; ngôn ngữ thơ trước
hết mang đầy đủ những thuộc tính của ngôn ngữ văn học, đó là: tính chính xác,
tính hàm súc, tính đa nghĩa, tính tạo hình, tính biểu cảm… Tuy nhiên, ở mỗi loại
tác phẩm khác nhau, những đặc điểm ấy lại biểu hiện dưới những sắc thái và mức
độ khác nhau. Đồng thời, mỗi loại tác phẩm lại có những đặc trưng ngôn ngữ
riêng….

You might also like