You are on page 1of 32

TÂY TIẾN

Nhà thơ CLV đã từng tha thiết, vời vợi những nhớ thương với mảnh đất Tây Bắc:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn
Mỗi mảnh đất đi qua là « nơi máu rỏ » để tâm hồn ta thấm đất, mỗi bước chân là một bước ân tình.
Bao nhiêu kỉ niệm đã ăn sâu vào tiềm thức, những tháng ngày gian nan, lúc băng rừng, vượt thác,
khi hào hùng, lúc mộng mơ...tất cả chỉ bao bọc trong nỗi nhớ, niềm thương của người đại đội
trưởng gửi trao những đồng đội thân yêu. TT là tiếng lòng thổn thức, chơi vơi mà QD gửi lại mảnh
đất miền Tây Bắc và đoàn quân TT của mình.
TB.
1. Đề tài: hình tượng người lính trong KCCP.
Có những bức tượng đài đã trở thành bất tử trong văn học viết về người lính: nữ anh hùng thủa bà
Trưng, bà Triệu “cưỡi voi xông trận”, người nông dân nghĩa sĩ với “manh áo vải, ngọn tầm vông”
trong văn Nguyễn Đình Chiểu, người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ - Quang Trung …Nhưng có
một bức tượng đài đẹp như huyền thoại trong văn học là hình tượng người lính trong KKCP. Chắc
chúng ta đã biết đến người nông dân vác súng lên đường đi chiến đấu trong bài Nhớ của Hồng
Nguyên. Người đồng đội thắm thiết ân tình trong Đồng Chí của Chính Hữu…Một mảnh đất thân
quen của văn học đã bao người cày xới. Đã bao cây đại thụ trưởng thành từ mảnh đất này. Đó là
một thử thách không hề nhỏ đối với người cầm bút có ý định viết về mảng đề tài người lính.
Nhưng khó khăn càng lớn càng thôi thúc và đánh thức tài năng. QD đã không ngần ngại khi lách
bút vào kẽ hở của đề tài này và ươm lên một hạt mầm đủ sức vươn cao, trường tồn, bất tử cùng
thời gian. Tây Tiến là một minh chứng hùng hồn khẳng định lao động nghệ thuật đầy trách nhiệm,
ý thức và tình yêu của Quang Dũng.
2, Hoàn cảnh sáng tác.
Một tác phẩm ra đời đôi khi là sự thai nghén, thôi thúc của cả nội tâm và ngoại cảnh. Tây Tiến
cũng vậy, là kết tinh của tình yêu, nỗi nhớ, niềm thương mà QD gửi về cho binh đoàn Tây Tiến
máu thịt, thân yêu của mình.
Đặc điểm của binh đoàn TT:
- Thành phần: Đoàn quân TT được thành lập vào mùa xuân năm 1947, gồm phần đông là những
chàng trai trẻ của đất Hà thành, hào hoa, thanh lịch:
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất cờ đỏ thắm
Nên tâm hồn họ lãng mạn, bay bổng, nhiều mộng và cũng lắm mơ. Đây là điểm khác biệt rõ nét
làm nên chất lãng mạn và trữ tình cho bài thơ cũng như hình tượng người lính trong thơ QD. (so
sánh với hình tượng người lính trong bài Đồng Chí của Chính Hữu)
- Tinh thần: Họ ra đi chiến đấu mang trong mình lí tưởng: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,
quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Một lí tưởng sáng ngời chân lí của thế hệ thanh niên thời đại Hồ
Chí Minh.
- Địa bàn hoạt động: Một khu vực rộng khắp kéo dài từ Mai Châu- Hòa Bình cho đến tận Thanh
Hóa, kéo sang cả Sầm Nứa của Lào. Đó là vùng địa hình đồi nứi phía Tây Bắc hiểm trở của tổ
quốc. Nơi rừng thiêng, nước độc, nơi thâm sơn cùng cốc với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt.
- Nhiệm vụ: Chiến đấu, bảo vệ vùng biên giới phía Tây Bắc của tổ quốc, kết hợp cùng với bộ đội
Pa-thét Lào đánh tiêu hao sinh lực địch.
- Cuộc sống chiến đấu: Vô cùng thiếu thốn, khó khăn gian khổ. Điều kiện thiên nhiên khắc
nghiệt. Chính vì thế mà những người kính TT hi sinh vì mũi tên hòn đạn thì ít mà vì ốm đau, bệnh
tật thì nhiều.
ð Chính vì vậy chỉ sau một năm chiến đấu, binh đoàn TT đã hi sinh gần hết, đơn vị tan rã, đại đội
trưởng QD được chuyển sang một đơn vị khác và TT sát nhập vào Trung đoàn 52. Một lần, ngồi
tại dòng sông Đáy hiền hòa thuộc tỉnh Hà Đông cũ kỉ niệm, kí ức về những tháng năm gắn bó cùng
đồng đội thân yêu, vào sinh ra tử lại ùa về. TT được viết lên trong nỗi nhớ trào dâng, da diết QD
gửi đến cho đất và người trọn vẹn một tình yêu.
3, Nhan đề và xuất xứ bài thơ.
Tác phẩm văn học có thể coi như đứa con tinh thần của nhà văn, nhà thơ. Chính vì thế đặt tên cho
tác phẩm cũng là nỗi băn khoăn, trăn trở của mỗi tác giả. Có những tác phẩm tên được đặt đi, đặt
lại. TT của QD mới ra đời nó có tên là “Nhớ TT”. Nhưng có lẽ sau này QD hiểu rằng, thơ là “ý tại
ngôn ngoại”, không nói nhớ mà nỗi nhớ cứ như sóng trào dâng qua từng lời, từng câu, từng chữ,
từng nhịp thơ. Đấy mới là cái tài hoa của người nghệ sĩ. Nhan đề đã được tinh giản chỉ còn “TT”
mà nỗi nhớ vẫn chơi vơi, như mạch ngầm và là nguồn cảm hứng của cả bài. Bài thơ được in trong
tập “Mây đầu ô” năm 1948.
Phân tích bài thơ
Bố cục: 4 phần:
1. Hình tượng người lính TT thấp thoáng ẩn hiện trên chặng đường hành quân giữa thiên
nhiên núi rừng Tây Bắc.
2. Cảnh đêm liên hoan văn nghệ ấm tình quân dân và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
3. Chân dung người lính TT.
4. Lời thề gắn bó với binh đoàn TT và mảnh đất miền Tây.
Phân tích đoạn thơ đầu.
1, Hai câu thơ đầu: Cánh cửa cảm xúc của bài thơ.
*Câu 1.
Ý1: Hình ảnh dòng sông Mã.
- Vai trò của dòng sông Mã.
+ Biểu tượng cho tình yêu quê hương.
Đã là người con của đất mẹ Việt Nam có lẽ chúng ta ai cũng từng một lần trên môi ngân nga khúc
hát ngọt ngào “quê hương ai cũng có một dòng sông bên nhà. Đi xa ai cũng nhớ, một dòng sông
tuổi thơ…” Một đất nước miền khí hậu nhiệt đới, thiên nhiên lại ban tặng cho hầu hết mỗi tỉnh
thành một dòng sông. Nhà thơ Hoàng Cầm yêu con sông Đuống hiền hòa bên làng tranh Đông Hồ
cổ kính. Tố Hữu yêu dòng sông Hương với mái chèo man mác và điệu hò Namai, Nambình, Mái
nhì, Mái đẩy. QD của chúng ta là con của mảnh đất Hà Thành, nơi có dòng sông Hồng thắm đỏ
phù sa, nên nỗi nhớ khắc sâu trong tim đáng ra phải là dòng sông ấy. Nhưng điều đặc biệt ở đây là
nỗi nhớ lại ùa về theo dòng chảy cuộn xoáy của dòng sông Mã. Phải chăng dòng sông của mảnh
đất miền Tây ấy đã gắn bó máu thịt như quê hương thứ hai của nhà thơ. Nên xa rồi mới thấy nhớ
thương, thấy vấn vương để cất lên thành tiếng thơ dào dạt
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
+Là chứng nhân lịch sử.
Dòng sông Mã là dòng sông nằm miền Tây Bắc của tổ quốc, chảy qua Sơn La và Thanh Hóa và
với hàng loạt chi lưu của nó. Dòng sông ấy đã gắn bó cùng chiến sĩ trong đoàn quân TT suốt
những năm tháng chiến đấu ở nơi đây. Dòng sông đã trở thành chứng nhân lịch sử, chứng kiến bao
vui buồn, những niềm vui hân hoan khi chiến thắng, những nỗi đau thầm lặng của sự hi sinh…Một
chứng nhân không thể thiếu trong dòng hoài niệm của QD khi nhớ về đồng đội thân yêu.
+ Sự kết nối giữa dòng sông hiện tại và dòng sông trong kí ức.
Năm 1948, QD được cử làm đại biểu đi dự đại hội toàn quân tại Hà Đông cũ, nay thuộc Hà Nội.
Một hôm ngồi tại bến Phù Lưu Chanh của dòng sông Đáy hiền hòa, nỗi nhớ về đồng đội trào dâng,
dòng sông Đáy của hiện tại đã đưa QD trở về với quá khứ, với những tháng ngày gắn bó cùng binh
đoàn TT. Nỗi nhớ này gọi nỗi nhớ kia, dòng sông này chảy về dòng sông khác. Kí ức về đoàn quân
TT dập dềnh theo sóng nước của dòng sông hoài niệm. Và nỗi nhớ vỡ òa chơi vơi.
Ý 2: Thời gian:
Như một sự thật phũ phàng mà QD không thể phủ nhận là cho dù hình ảnh dòng sông Mã có thân
thương đến mấy, TT có gần gũi biết bao thì giờ đây chỉ còn trong hoài niệm, trong kí ức vì tất cả
đã “xa rồi”. Tính từ chỉ thời gian được đặt giữa câu thơ như bẻ đôi quá khứ và hiện tại. Như một lẽ
hiển nhiên của sự chia cắt. Bởi kỉ niệm càng đẹp thì càng xót xa.
Ý 3: Danh từ TT.
Nỗi nhớ thương như đang dâng trào theo con nước cuộn xoáy của dòng sông Mã. Khi biết tất cả đã
xa rồi thì QD muốn níu kéo. Và như một phản xạ bản năng, tiếng gọi TT bật lên thân thương, trìu
mến và da diết biết bao. TT là danh từ chung chỉ đoàn quân TT, nhưng khi QD cất lên tiếng gọi TT
ơi thì danh từ chung đã chuyển thành danh từ riêng khi có thán từ hô gọi “ơi” đứng phía sau và
người đọc lại có cảm giác như chính tác giả đang gọi một người bạn tri âm, tri kỉ của mình. Có
như vậy ta mới hiểu hết hồng tâm đầy tình sâu, nghĩa nặng mà QD dành cho đồng đội thân yêu.
Ý 4: Dấu chấm cảm.
Dấu chấm cảm cuối câu như một sự khẳng định lại dứt khoát, mạnh mẽ, chắc nịch tình cảm của
nhà thơ. Nếu có ai đó, sẽ là không quá, nếu nói rằng câu thơ đầu đã khơi được mạch nguồn cảm
xúc cho toàn bộ bài thơ để rồi nỗi lòng của nhà thơ không thể che giấu được, và phải lộ thiên theo
ngôn từ, một thứ ngôn ngữ đặc biệt của trái tim.
=>Câu thơ 7 chữ mà có 4 chữ là tên riêng, đó cũng là nơi gửi, chốn về của nỗi nhớ: Vùng đất
miền Tây mà con sông Mã đã trở thành biểu tượng mỗi lần người ta nhắc đến mảnh đất nơi chiến
trường chiến đấu oanh liệt khiến bao thế hệ của Tổ quốc nhìn lại để ngậm ngùi.
*Câu 2.
Ý1: Điệp từ nhớ.
Nỗi nhớ không thể chất chứa được trong lòng, nó đã bật lên thổn thức. Câu thơ thứ hai không có
chỗ cho hình ảnh thơ mà nó là những khoảng, những chỗ trống cho trái tim lên tiếng. Nói nhớ thôi
có lẽ là chưa đủ, nên vần thơ điệp lại: nhớ rồi lại nhớ. Nỗi nhớ cứ ùa về, trào dâng, cuộn xoáy
trong lòng.
Ý 2: Từ láy nhớ chơi vơi.
Để diễn tả nỗi nhớ, người ta có thể sử dụng hàng loạt các bổ ngữ: da diết, cồn cào, cháy bỏng,
nồng nàn…Nhưng QD lai không chọn những từ quen thuộc. Lọc trong hàng ngàn tấn quặng ngôn
ngữ để chắt lọc được một ngôn từ trong thơ đó là việc của những bậc thi thánh. QD khi viết nhớ
chơi vơi liệu ông có nghĩ đến những câu ca dao quen thuộc:
Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nhớ chiếu bạn trải
Nhớ chăn bạn nằm
Hay Xuân Diệu cũng từng viết
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi
Phải chăng khi sử dụng nhớ chơi vơi là QD như ngầm một sự so sánh: Nỗi nhớ của tôi dành cho
đồng đội thân yêu cũng da diết cháy bỏng như nỗi nhớ, nỗi tương tư của trai gái trong tình yêu.
Còn gì sâu đậm hơn? Bản thân từ láy “chơi vơi’ còn có tác dụng gợi hình. Nỗi nhớ ấy dù không có
hình, khối, không thể cân, đong, đo, đếm được nhưng chỉ biết rằng nỗi nhớ ấy cứ dâng lên, cứ đầy
lên, từ lòng người mà tan thấm, lan tỏa ra bao trùm khắp không gian rừng núi mênh mông.
Ý 3: Cách gieo vần ơi.
Hai câu thơ đầu được gieo vần chân – vần “ơi” như tạo độ ngân vang, lan tỏa về âm thanh và đồng
thời như diễn tả một nỗi nhớ triền miên, da diết, khôn nguôi của nhà thơ về đồng đội thân yêu của
mình.
=> Hai câu thơ đầu, với thủ pháp "lắng dần"của điện ảnh tác giả đã để hình ảnh Sông Mã là hình
ảnh đầu tiên gọi về nỗi nhớ. Để rồi dòng sông Mã mờ dần cho dòng cảm xúc miên man nhớ về Tây
Bắc choáng ngợp tâm hồn nhà thơ, cứ chơi với, hư ảo.
2, Sáu câu thơ tiếp: Thiên nhiên miền Tây qua chặng đường hành quân của binh đoàn TT.
*2 câu đầu.
Ý 1: Những địa danh lạ lẫm, xa xôi.
QD đã đưa người đọc đến những vùng đất hẻo lánh, xa xôi của miền biên cương qua các địa danh
nghe lạ lẫm đến vô cùng.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Ý 2: Thiên nhiên miền Tây và con người hòa quyện.
* Chất hiện thực
- Qua ngòi bút kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố tả thực và lãng mạn, thiên nhiên miền Tây hiện
lên hoang sơ, hùng vĩ, khắc nghiệt nhưng cũng thơ mộng đến vô cùng. Nơi núi rừng Sài Khao
sương mù bao phủ trắng trời, như nhấn chìm, khuất lấp cả đoàn quân. Sương mù là nét thiên nhiên
đặc trưng của chốn núi rừng. Đó cũng là sự khắc nghiệt của thiên nhiên làm tăng thêm sự khó
khăn, gian khổ cho đoàn quân TT trong quá trình chiến đấu. Thê nên mới dẫn đến một hệ lụy tất
yếu là “đoàn quân mỏi”.
- Thanh trắc của tư “lấp” như vút lên, sương dày, sương che thì bước chân của những chiến sĩ càng
nặng nề, nên kết thúc câu thơ là thanh trắc của từ “mỏi”. Nếu chỉ dừng lại ở câu thơ này thì có lẽ
cảm xúc chính lắng lại là sự mệt mỏi, nhọc nhằn cả về thể xác lẫn tinh thần.
- Liên hệ: Cũng miêu tả về "sương", Chế Lan Viên cũng đã viết trong "Tiếng hát con tàu":
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
* Chất lãng mạn
- Bằng ngòi bút tài hoa và nghị lực phi thường, ngay câu thơ sau với thủ pháp lãng mạn đã nâng đỡ
tâm hồn người lính trên con đường hành quân vất vả, gian lao:
+ Ở Mường Lát những đóa hoa rừng đang bung nở trong đêm. Hình ảnh “hoa về” có nhiều ẩn ý.
Người đọc có thể hiểu rằng, những người lính TT trên chặng đường hành quân dù đầy khó khăn,
gian khổ nhưng những chàng trai mang tâm hồn hào hoa, lãng mạn của đất Hà thành vẫn yêu đời
“ngắt một đóa hoa rừng cài lên mũ ta đi”. Khi đoàn quân dừng chân nghỉ tại Mường Lát, quân về
cũng là lúc “hoa về”. Đồng thời hình ảnh “hoa về” còn cho thấy nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ tài
tình của QD, đoàn quân ấy là những chàng trai hào hoa, với tâm hồn đẹp và lí tưởng đang tỏa sắc,
lên hương như loài hoa của núi rừng Tây Bắc.
“Hoa về” còn có thể hiểu là khi hành quân đêm trong rừng rậm, những chàng lính trẻ đã làm
những bó đuốc bằng thanh nứa, thanh tre đập dập. Khi cháy rất đượm và những tàn lửa tung bay
trông từ xa đoàn quân như một tràng hoa lửa rực rỡ đang về nơi tập kết giữa núi rừng trong làn
sương mờ hư ảo.
+ Hình ảnh thiên nhiên “đêm hơi” được miêu tả lập lờ giữa hai bờ hư, thực. Đêm hơi còn có thể
hiểu là đêm có sương mù giăng mắc, một nét đặc trưng đầy khắc nghiệt của thiên nhiên miền Tây.
Nhưng chỉ bằng cách thay đổi một từ sương bằng hơi đã làm cho khung cảnh bỗng trở nên lung
linh, hư ảo. Người đọc như đang cùng những chàng Lưu Nguyễn thời đại Hồ Chí Minh vào nhập
cõi thiên thai.
=> Cái tài tình của QD là sự đan xen giữa bút pháp tả thực và lãng mạn. Nếu câu trước là nét vẽ
gân guốc, đầy khắc nghiệt của hiện thực thì câu sau lại là nét vẽ mềm mại của bút pháp lãng mạn.
Đó là sức mạnh nâng đỡ tâm hồn người lính TT trên chặng đường trường hành quân đầy gian
khổ.
*4 câu tiếp.
Bốn câu thơ tiếp là hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở đầy dữ dội hiện lên trong nỗi nhớ
như một bức tranh hùng tráng. Mà theo cách nói của Xuân Diệu "thi trung hữu họa":
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Ý 1:Nghệ thuật điệp.
Một nét vẽ đậm, tô đi tô lại con đường toàn những dốc núi chính là điệp từ “dốc” để rồi hiện ra
trước mắt người đọc là con đường đi dốc tiếp dốc, hết con dốc này đến con dốc khác:
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non
Ý 2: Từ láy tượng hình.
Bức tranh ấy còn thêm sinh động, tác giả đã tô vẽ bằng những từ láy tượng hình.
- “Khúc khuỷu” là con đường vừa dốc lại như gấp khúc, gẫy gập. Con đường hành quân của
người lính TT vốn đã gian nan giờ độ khó khăn lại còn tăng thêm.
- “Thăm thẳm” vốn là từ độc quyền để tả độ sâu. Nhưng thật tài tình khi QD dùng nó để tả độ cao
của dốc núi và nó mang lại hiệu quả bất ngờ. Con dốc mà chót vót thì có lẽ người đọc còn nhìn
thấy điểm cuối của con đường và nơi ấy là chỗ dừng chân. Nhưng để từ “thăm thẳm” ở cuối câu
trong việc tả con dốc thì dường như cung đường ấy không chỉ cao mà còn dài hun hút, không
cùng, không tận, biết đâu là điểm cuối - gian nan nối tiếp gian nan.
- Từ láy “heo hút” gợi lên sự hoang sơ, vắng lặng của chốn thâm sơn cùng cốc. Nơi mà chỉ có
thiên nhiên ngự trị khiến cho con người thêm nhỏ bé, choáng ngợp trước không gian.
Ý 3: Thanh điệu câu thơ.
Một câu thơ 7 tiếng mà có đến 5 thanh trắc không chỉ diễn tả con đường đi đầy gập ghênh, gian
nan mà còn khiến người đọc như nghe rõ tiếng thở hổn hển của người lính TT khi leo dốc. Thế
mới thấy thi trung không chỉ hữu họa mà còn có nhạc. Đọc câu thơ mà ngỡ nhạc rung trong lời. Đó
là cái tài của nhà thơ.
Ý 4 Hình ảnh cồn mây
Con đường đi với dốc tiếp dốc thì hậu quả tất yếu của nó là con đường ấy cao đến tận mây. Đây là
hình ảnh tô đậm thêm độ cao cũng như sự vất vả gian nan của người lính TT.
Ý 5: Hình ảnh súng ngửi trời.
Một nét vẽ làm câu thơ mềm mại, uyển chuyển thậm chí đánh tan hơi thở hổn hển, mệt mỏi và
mang nụ cười hóm hỉnh đến đặt trên môi những chàng lính trẻ đó chính là hình ảnh “súng ngửi
trời”.
- Súng ngửi trời như một lần nữa khẳng định lại vị thế đứng của người lính TT, họ đang đứng trên
tầm cao, nơi đất trời đang giao nhau. Nhưng điều lạ là trước hiện thực ấy, QD không nói súng
chạm trời hay súng chọc trời mà lại là “súng ngửi trời”.
- Nghệ thuật nhân hóa như hé mở tâm hồn đang đùa vui, bốc tếu đầy hóm hỉnh của những chàng
lính trẻ. Những tâm hồn hào hoa, lãng mạn.
- Hình ảnh này còn tôn lên tư thế hiên ngang, đang làm chủ hoàn cảnh, đứng trên đỉnh đèo cao.
Con người mang tầm vóc kì vĩ, lớn lao. Một tư thế hiên ngang như bức tượng đài của người lính
thế kỉ XX, người lính trong thời đại Hồ Chí Minh.
Ý 6: Đứng trên cao cảm nhận con đường đi.
- Đứng trên đỉnh dốc núi cao, họ nhìn xuống con đường hiểm trở vừa vượt qua và con đường gấp
khúc sẽ đi xuống. Đường lên dốc và đường xuống dốc đều thăm thẳm, hun hút. Hình ảnh thơ thật
đối xứng, câu thơ như một đường thẳng bị bẻ gấp lại:
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
- Điệp từ "ngàn thước" đã mở ra 1 không gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên hùng vĩ vô
cùng. Bên cạnh đó, QD còn khắc họa lại ngọn núi án ngữ sừng sững con đường đi, hai bên dốc núi
nhìn lên cao chót vót nhìn xuống sâu thăm thẳm.
- Câu thơ ngắt nhịp 4/3 như bẻ đôi con đường. Hai từ đối lập, trái nghĩa: lên >< xuống khiến người
đọc rơi vào cảm giác bất ngờ, như một làn sương lạnh thốc vào giác quan chứng kiến cảnh vật biến
động nhanh đến choáng váng. Mà như nhà phê bình Trần Đình Sử đã nhận xét: đọc câu thơ mà QD
cho người đọc như đang chơi trò bập bênh đến chóng mặt.
* Ý 7: Câu thơ kết.
- Sau ba câu thơ gân guốc, táo bạo với nhịp thơ như hơi thở dồn dập, tác giả khắc họa cái dữ dội
tột đỉnh của thiên nhiên Tây Bắc. Những thanh bằng với nhạc điệu lâng lâng, mênh mang, QD đã
thể hiện ánh mắt vô cùng thơ mộng của người lính Tây Tiến để tìm thấy vẻ đẹp trữ tình nơi núi
rừng:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
- Câu thơ như tiếng thở phào nhẹ nhõm của người lính sau khi vượt đèo cao, núi sâu. Họ tạm dừng
chân bên dốc núi, phóng tầm mắt ra xa qua không gian mịt mùng của sương rừng, mưa núi để
ngắm nhìn những ngôi nhà đang thấp thoáng trôi nhẹ nhàng giữa biển mưa. Câu thơ giống như
một gam màu lạnh giữa gam màu nóng trong hội họa dịu lại cả khổ thơ tạo nên một cảm giác êm
đềm.
- Xa xa, lẫn trong màn mưa núi sương rừng, bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong thung lũng, lúc ẩn
lúc hiện. Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến. Dưới
ngòi bút của Quang Dũng, dường như nó lãng mạn hơn, trữ tình hơn. Nhà thơ đầy sáng tạo khi tả
mưa rừng bằng cụm từ "mưa xa khơi". Nó gợi lên một cái gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi
rừng, tả mưa rừng mà cho người đọc cảm giác như đang đứng trước biển khơi mênh mang khác
nào bậc kì tài Nguyễn Tuân đã dùng lửa để tả nước trong tùy bút Người lái đò sông Đà của mình.
- Hình ảnh ngôi nhà của ai đó thấp thoáng sau làn sương mù và mây núi thật hư ảo. Nó không chỉ
có tác dụng làm cho những người lính thấy ấm lòng khi tìm thấy cuộc sống quen thuộc nơi núi
rừng hoang sơ, hiểm trở. Mà ngôi nhà thân thương ấy còn là động lực giúp họ bước tiếp trên con
đường chiến đấu gian nan đầy hiểm nguy. Bởi:
Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, dòng sông
- Câu thơ thứ 7 với 8 thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở cuả núi rừng và mở ra một bức
tranh thiên nhiên nơi núi rừng đầy lãng mạn. Những câu thơ Tây Tiến giàu chất tạo hình hôm nay
gợi nhớ những dòng thơ trong "Chinh phụ ngâm khúc" xưa:
Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nổi, thấp đà lại cao
Sương đầu núi buổi chiều như dữ dội
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu
=> 6 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội Tây Tiến. Qua
những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở thành 1 kí ức xa xôi trong tâm trí
nhà thơ. Đó là nỗi nhớ mãnh liệt cuả người lính Tây Tiến nói riêng và hững người lính nói chung.
3, Bốn câu thơ tiếp:Người lính TT trên chặng đường hành quân.
* 2 câu đầu: sự hi sinh và lí tưởng của người lính TT.
Ý 1: Cách gọi.
Hai từ “anh bạn” cất lên như muốn đùa vui, hóm hỉnh, như một cái vỗ vai nhẹ nhàng người đồng
đội thân quen của mình. Thân thiết biết nhường nào.
Ý 2: Từ láy “dãi dầu”.
Trong dân gian ta có câu thành ngữ “dãi nắng, dầu sương” để chỉ sự vất vả, gian truân. QD đã rút
gọn thành ngữ trong từ láy dãi dầu vừa để gom lại sự nhọc nhằn của những chàng lính TT vừa để
khắc họa cuộc sống và chiến đấu đầy khắc nghiệt. Chữ "dãi dầu" đã lột tả được hết sự khốc liệt của
chiến tranh. Bao nhiêu sóng gió, hiểm nguy, gian khổ phủ lên đầu người lính nên mệt mỏi là
những tất yếu.
Ý3: Hiện thực khốc liệt.
- Thiên nhiên dữ dội và khắc nghiệt như vậy khiến cuộc hành quân của người lính Tây Tiên vô
cùng gian khổ:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
- Câu thơ viết về một hiện thực khốc liệt ấy thế mà lại đuợc nói bằng giọng nhẹ nhàng, thấm
thía"…không bước nữa"và "gục lên súng mũ" gợi tư thế ngạo nghễ của người lính Tây Tiến.
Người lính ấy không rũ bỏ, quay lưng lại với kháng chiến, phải chăng phút giây phó mặc, bất cần,
đầy ngạo nghễ của họ cũng là điều tất yếu sao? Các anh đã không bước tiếp được nữa trên con
đường hành quân đầy gian khổ.
Ý 4: Nghệ thuật miêu tả sự hi sinh.
- Cụm từ ‘bỏ quên đời” trong câu thơ có nhiều cách hiểu. Cũng có thể là người lính TT, trên chặng
đường hành quân mệt mỏi, họ không đi nữa và dừng chân lại nghỉ và giấc ngủ say đến thật nhẹ
nhàng. Trong giây phút ấy người lính như gác lại, để quên những khó khăn, nhọc nhằn của cuộc
chiến đấu. Nhưng cũng có thể hiểu rằng các anh nằm xuống và vĩnh viễn không bao giờ đứng dậy
cùng đồng đội tiếp tục cuộc chiến đấu trường kì được nữa.
- Cái chết của các anh đựơc miêu tả nhẹ nhàng, than thản"bỏ quên đời" bởi nghệ thuật nói giảm,
nói tránh. Ba chữ:"bỏ quên đời" thể hiện tinh thần, thái độ của người lính trước cái chết, xem như
đó là điều hiển nhiên, nhẹ tựa lông hồng. Các anh lên đường, đến với núi rừng miền Tây và biết
rằng:"Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi"(xưa nay chinh chiến mấy ai trở về). Họ chủ động chấp nhận
cái chết, coi nó chỉ đơn giản như một giấc ngủ mà thôi. Hình ảnh về người lính anh dũng hi sinh ấy
sau này ta còn bắt gặp trong "Dáng đứng Việt Nam":
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
Một bàn tay chưa rời báng súng
Chân lưng chừng nửa bước xung phong
- Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến. Đây là hình
ảnh vừa bi vừa hùng mang không khí thời đại. Họ ra đi chiến đấu với lời thề thiêng liêng: "Quyết
tử cho tổ quốc quyết sinh. Mỗi cuộc ra đi đều không hẹn ngày trở về giống như một lời ca của một
thời: "Đoàn vệ quốc quân 1 lần ra đi nào có mong chi đâu ngày trở về. Ra đi ra đi bảo tồn sông
núi, ra đi ra đi thà quyết không lui".
=>Hai câu thơ của Quang Dũng dẫu có buồn vì nói đến mất mát, hi sinh nhưng vẫn không bị lụy
về thái độ của người hi sinh. Người chiến sĩ ở đây dẫu không áp đảo đựoc khó khăn nhưng họ
không chịu khuất phục. Họ đứng trên cái chết, coi cái chết "nhẹ tựa lông hồng"và sẵn sàng đón
nhận nó vì Tổ quốc thân yêu.
* 2 câu sau: Những hiểm nguy ẩn chứa nơi núi rừng.
Bấy nhiêu khắc nghiệt mà người lính phải chịu đựng vẫn chưa phải là tất cả bởi vùng rừng núi
miền Tây ấy còn là nơi ngự trị của âm u, hoang dã, của thác cao, sông sâu, suối dữ. Sự hoang dã ấy
không chỉ đựơc mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cả thời gian với những đe
dọa khủng khiếp luôn rình rập con người:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Ý 1: Điệp từ chỉ thời gian.
- Hết chiều chiều lại đến đêm đêm, những hiểm nguy cứ kéo dài, triền miên không dứt. Lúc nào
cũng đe dọa những người lính TT.
Ý 2: Hình ảnh thác gầm thét và cọp trêu người.
- Người ta hay nói đến rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí. Với rừng núi Tây Bắc, cứ mỗi
buổi chiều tà lại nghe tiếng thác gầm thét đổ xuống và cứ mỗi đêm sâu lại nghe tiếng cọp gầm. Âm
thanh nào cũng ghê rợn. Quang Dũng bằng tài thẩm âm của mình đã cụ thể hóa và làm sống động
những tiếng nói riêng của núi rừng.
- Vậy chỉ với hai câu thơ, Quang Dũng đã phát huy tối đa trí tưởng tượng để cực tả vẻ hoang sơ,
hùng vĩ của núi rừng, miền đất ấy còn chứa nhiều điều hoang sơ và huyền bí. Cảnh hoang vu của
núi rừng Tây Bắc đúng là thử thách ghê gớm đối với người lính Tây Tiến.
- Các từ láy chỉ biên độ lặp lại thường xuyên của thời gian kết hợp với biện pháp nhân hóa "thác
gầm thét","cọp trêu người "đã nhấn mạnh vẻ bí hiểm, dữ dội, hoang dã chứa đầy nguy hiểm, cái
chết luôn luôn rình rập đe dọa người lính của núi rừng miền Tây. Đồng thời cho thấy sự đùa vui
hóm hỉnh, coi nhẹ những gian khó hiểm nguy của những chàng lính trẻ.
- Qua cách sử dụng thanh điệu: hai thanh trắc là hai dấu nặng ở hai từ “hịch, cọp” nhà thơ Trần Lê
Văn từng nhận xét "Hai chữ có dấu nặng đi với nhau nghe nặng như tiếng chân cọp". Trước đó lại
kết hợp với cả hai thanh bằng đã tạo nên một quá trình rình mồi rồi bất ngờ vồ mồi của loài cọp dữ
dội, quyết liệt. Hình ảnh trên trang giấy được nhà thơ tài tình lưu giữ thành những kỉ niệm gian
khổ, khắc nghiệt không thể quên của những chàng lính chiến.
* 2 câu cuối: Nồng ấm tình quân dân.
Đoạn thơ đã khép lại bằng một cảm xúc thật ấm áp và ngọt ngào
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em cơm nếp xôi
Ý 1: Hình ảnh bát cơm nếp xôi
- Trên đuờng hành quân cheo leo đầy trắc trở đoàn quân dừng lại nghỉ chân nơi bản làng. Một bát
cơm nếp xôi còn nóng đang bốc khói, tỏa hương. Hương vị ngọt ngon của những bát xôi nếp thơm
do những bông hoa của núi rừng Tây Bắc đem tới đã khiến cho các chàng trai hào hoa, phong nhã
như quên đi tất cả nỗi vất vả về thể xác suốt dọc đường để đón nhận tình quân – dân nồng đượm.
Ý 2: Nghệ thuật sử dụng thanh điệu
- Ba thanh trắc với ba dấu sắc của từ “nhớ, Tiến, khói” không chỉ cho người đọc hình dung được
làn khói tỏa ngào ngạt của bát cơm xôi nếp, mà còn như nghe được tiếng suýt xoa của những
người lính TT khi đón nhận bát cơm còn ấm nóng tình người. Hương vị của nếp xôi, hương vị của
lòng người. Chiến binh Tây Tiến hào hùng mà cũng rất đỗi hào hoa, rất nhạy cảm trước vẻ đẹp
thiên nhiên và tình người đằm thắm.
Ý 3: Hình ảnh chủ đạo.
Hai câu thơ không có cảnh thiên nhiên miền Tây, chỉ có cảnh sinh hoạt đời sống thường ngày. Sau
những câu thơ rất dữ dội và gân guốc là một cảm xúc thơ đằm thắm, thiết tha.
Ý 4: Sử dụng thán từ
Thán từ “nhớ ôi” gợi nỗi bâng khuâng khi hồi tưởng lại những kỉ niệm ấm áp: lúc đoàn binh dừng
lại sau một đoạn đường hành quân vất vả, lều trại được dựng lên ở một bản làng, một bếp lửa ánh
đỏ hồng, một nồi xôi hương bay ngào ngạt, khói bếp, khói cơm bay lên hòa quyện vào khói lam
chiều. Đồng đội lại quây quần bên nhau, quên đi bao vất vả, gian khổ. Chiến tranh lùi lại vào một
góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt tươi vui. Mãi là mảnh tâm hồn của người
cán bộ kháng chiến là kỉ niệm đẹp của anh bộ đội cụ Hồ trong 9 năm kháng chiến chống Pháp:
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng nagỳ không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
=> Đoạn thơ đã cho thấy nét tài hoa trong phong cách của Quang Dũng câu thơ đỡ câu thơ, hình
ảnh đỡ hình ảnh để giữa sự trùng điệp của núi rừng sự gian lao của hành trình những người lính
Tây Tiến vẫn có phút dừng chân thư thái yên bình những hình ảnh lãng mạn, trữ tình, thơ mộng.
Phân tích đoạn thơ thứ hai.
Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sự hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con người.
Cảnh trí miền Tây dường như được tạo hình theo thi pháp truyền thống đậm chất Đường thi: “Thi
trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc”. Một miền Tây thơ mộng, thi vị, ấm áp giàu sức cuốn hút.
1. Bốn câu thơ đầu: Cảnh đêm liên hoan văn nghệ ấm áp tình quân dân.
Ý 1: Từ bừng- nhãn tự của đoạn thơ.
Câu mở đầu đoạn tạo cảm giác đột ngột bừng sáng:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
- Nội hàm khái niệm mà động từ “bừng” bao chứa: “Bừng lên” vừa chỉ được ánh sáng phát ra
đột ngột, bất ngờ vừa gợi sự thú vị. Cả cảnh vật và lòng người đều bừng sáng lên. Chất hào hoa
trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. Từ “bừng” làm sống dậy
cả một đêm liên hoan văn nghệ, làm bùng sáng và rộn ràng cả đoạn thơ. Chính vì thế có thể coi nó
là nhãn tự, là chữ có thần.
- Bừng lên đầu tiên là ánh sáng. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra giữa lòng núi rừng đại ngàn của
miền Tây nên cần phải có lửa đuốc để soi sáng. Người đến xem và những chàng lính trẻ cầm trên
tay bó đuốc là những thanh nứa, thanh tre đập dập. Khi đêm liên hoan văn nghệ diễn ra cũng là lúc
ánh sáng của lửa đuốc bừng lên soi tỏ mặt người, ấm áp tình quân dân. Trong con mắt thơ tài hoa
của QD đó là đêm hội đuốc hoa, ngọt ngào, đắm say, lãng mạn như đêm động phòng hoa trúc của
lứa đôi trong tối tân hôn. Thật là cảm xúc táo bạo và khó phai mờ.
- Ánh sáng bừng lên cũng là lúc những sắc màu lung linh tỏa rạng của những xiêm áo thổ cẩm
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu say đến cảm phục. Yêu say từ
vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ
Tây Bắc tôn vinh thêm vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên
trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa.
- Bừng lên cả âm thanh của tiếng khèn “man điệu”.
Khèn lên man điệu nàng e ấp.
Những điệu nhạc truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc du dương, bí ẩn hoang sơ
như chốn núi rừng có sức mạnh hút hồn các chàng lính trẻ.
Ý2: Trạng thái cảm xúc của người lính TT.
Thán từ “kìa em” như lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang
tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ.
Ý3: Hình ảnh nhân vật trung tâm đêm liên hoan văn nghệ.
Trên cái nền không gian ấy “em” xuất hiện. “Em” xuất hiện lập tức trở thành trung tâm thu hút
mọi điểm nhìn.
-Nhân vật “em” đã có những cách lí giải khác nhau. Có thể là những cô gái dân tộc miền núi rừng
Tây Bắc, mặc trang phục truyền thống của dân tộc mình, múa những điệu Lâm Tơi, Lâm Vông để
phục vụ cán bộ kháng chiến và những anh chàng lính trẻ. “Em” cũng có thể hiểu là những cô trong
các đoàn văn công về phục vụ văn nghệ làm giàu có thêm đời sống tinh thần của những người
chiến sĩ. Sau bao chặng đường hành quân chiến đấu vất vả gian lao giờ là những phút nghỉ ngơi,
thư giãn tinh thần bỏ lại sau lưng bao mệt mỏi, nhọc nhằn của hiện thực cuộc sống. Và “em” cũng
có thể chính là những anh chàng lính trẻ. Trong nhật kí trung đoàn có ghi lại: Trong đoàn quân, có
những chàng lính trẻ, dáng người mảnh mai, nhỏ nhắn, giả trang làm con gái, khi lên sân khấu diễn
cũng tình tứ, duyên dáng như ai bởi sự e ấp, thẹn thùng.
Ý4: Lí tưởng của người lính.
-Câu thơ cuối ngời sáng lí tưởng người bộ đội Cụ Hồ. Người đọc cứ tưởng rằng, trước sắc màu
lung linh của những bộ xiêm áo, trước điệu nhạc miên man, du dương trầm bổng, trước những điệu
múa yêu kiều, duyên dáng, tình tứ, uyển chuyển những chàng trai Hà Thành sẽ bị hút hồn vào đêm
liên hoan văn nghệ. Đó cũng là những phút giây lắng lòng để nghỉ ngơi sau một chặng đường dài
hành quân mệt mỏi. Nhưng không, có lẽ chúng ta đã lầm tưởng bởi trong giây phút thăng hoa với
nghệ thuật, cảm xúc cũng là lúc người lính sống đúng với khát khao cháy bỏng của mình.
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
- Tiếng nhạc phiêu bồng đưa tâm hồn người lính thoát khỏi thời gian và không gian hiện tại, chơi
vơi sang tận thủ đô Viên Chăn của Lào. Người đọc chắc hẳn đã đặt câu hỏi vì sao? Thủ đô là trung
tâm đầu não của một quốc gia. Khi thủ đô còn bóng một kẻ thù nào thì dân tộc đó chưa có độc lập.
Và khi bóng giặc bị đẩy ra khỏi thủ đô cũng là lúc nam bang, bốn cõi đã cất lên khúc ca khải hoàn.
Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra tại Viên Chăn của Lào ắt sẽ là đêm liên hoan vui niềm vui trọn
vẹn, niềm vui trong chiến thắng.
=> Trong lúc mộng mơ nhất, người lính TT vẫn không quên nhiệm vụ của mình. Vẫn cháy bỏng
một khát khao quét sạch bóng quân thù ra khỏi biên cương, bờ cõi. Đó là khát vọng của lí tưởng
chân chính, đúng đắn.
2. Bốn câu thơ sau: Cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Ý 1: Hình ảnh “người đi”
Có lẽ người đọc sẽ băn khoăn đặt lên một dấu hỏi: Người đi là ai? Phải chăng đó là những chiến sĩ
trong đoàn quân TT trên đường trường hành quân đã đi qua mảnh đất Châu Mộc của Hòa Bình. Và
giờ đây khi ngồi nhớ về TT, QD đã nhớ đến khoảnh khắc đầy ắp những kỉ niệm cùng đồng đội
thân yêu, nhớ từng khuôn mặt, từng bóng hình thân quen.
Ý2: Thời gian
Câu thơ xuất hiện một cụm từ chỉ thời gian “chiều sương ấy”. Không định vị cụ thể đó là thời gian
nào nhưng QD chắc còn nhớ như in đó là một buổi hành quân trong chiều sương mù giăng mắc,
bao phủ mênh mang khắp núi rừng, sông suối. Một không gian bảng lảng khói sương như trong
cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương
khói hiện lên như một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm
màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật tài hoa.
Ý3: Khung cảnh thiên nhiên
- Không gian tràn ngập một màu trắng mờ mờ, bàng bạc của làn khói sương hư ảo chốn núi rừng
Tây Bắc. Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu sương, sông nước, bến bờ hoang
dại như một bờ tiền sử.
-“Hồn lau”: Những cây lau không còn vô tri vô giác mà ẩn chứa linh hồn. Phải là một hồn thơ
nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được hồn lau đang giăng mắc, neo đậu bến
bờ. Những bông lau nở trắng khắp bờ sông, phất phơ trong làn gió nhẹ và sương khói lam chiều,
nó không chỉ mang hồn cốt của mảnh đất miền Tây mà còn kí thác anh linh của những người đã
ngã xuống vì tổ quốc thân yêu. Câu thơ này gợi người đọc nhớ tới câu thơ đầy ám ảnh của bà
Huyện Thanh Quan xưa khi nhớ về kinh đô Thăng Long cổ kính qua linh hồn cây cỏ:
Lối xe ngựa cũ hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Và nay QD nhớ da diết núi rừng Tây Bắc qua hồn lau lay động bến bờ.
- Hình ảnh hoa đong đưa trên dòng nước lũ.Dòng sông miền Tây hiện lên không hiền hòa êm
dịu như những con sông nơi đồng bằng mà nó cuộn xoáy và càng dữ dội hơn khi mùa nước lũ tràn
về. Bên bờ sông có những bông hoa dại nở, khi nước lũ tràn về, dâng cao làm ngập những đóa hoa
rừng. Dòng nước vì yêu hoa nên muốn kéo hoa đi cùng nhưng vì hoa yêu đất nên hoa vấn vương ở
lại. Kết quả là bông hoa cứ đong đưa chao mình trên dòng nước lũ, dùng dằng nửa ở, nửa đi nhưng
vấn vương không nỡ nên cứ làm mình làm mẩy, làm duyên làm dáng trên dòng sông. Tình cây-
tình đất, bông hoa - dòng nước đang cố giao hòa giao cảm làm nên cái duyên đẹp của thiên nhiên,
đất trời.
Ý 4: Hình ảnh con người trung tâm.
Trung tâm, điểm nhấn của bức tranh là hình ảnh con người chèo thuyền độc mộc trên dòng nước
lũ.
- Con thuyền độc mộc là một loại thuyền chỉ xuất hiện trên những dòng sông thác dữ giữa núi
rừng. Nó không giống như thuyền thắt đuôi én, thuyền nan ở những con sông vùng đồng bằng.
Con thuyền được làm từ thân một cây gỗ lớn, được đục và khoét thân nên thuyền rất chắc chắn.
- Dáng người chèo thuyền độc mộc xuất hiện uyển chuyển, tình tứ. Đó là ai, người con gái hay con
trai? Có lẽ người đọc dễ dàng nhận ra dáng uyển chuyển ấy chỉ có thể là những cô thiếu nữ chèo
thuyền đưa các chiến sĩ qua sông. Để rồi khi đã sang sông nhưng bao chàng còn ngẩn ngơ, còn làm
thơ, còn vấn vương mãi trong tim bóng hình uyển chuyển, mềm mại ấy và rồi bỗng nhiên nó trở
thành một hình ảnh trong kỉ niệm ngọt ngào neo đậu mãi trong tim những chàng trai trẻ.
Ý 5. Sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người.
- Hình ảnh thiên nhiên với những bông hoa đang làm duyên, làm dáng, đong đưa trên dòng nước
lũ thì con người cũng đang duyên dáng, uyển chuyển tựa tay lái nở hoa trên dòng sông. Câu thơ
không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh
rất thơ và người cũng rất tình. Bởi vậy tác giả như ngây ngất đắm say. Ở đây cảnh như làm duyên
với người. Duyên dáng đến độ và tình tứ cũng hết lời. Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên
với người. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu đến mê say trong cái nhìn lãng mạn của Quang
Dũng. Ta có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là
hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước
độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.
Ý 6. Nghệ thuật.
- Điệp từ: “có thấy” “có nhớ”. Được lặp lại ở hai câu thơ liên tiếp như những câu hỏi đang xoáy
sâu và tâm can người đại đội trưởng QD. QD như muốn hỏi, muốn đối thoại: Đồng đội của tôi ơi,
ai còn, ai mất, có như tôi lúc này đang nhớ lại từng kỉ niệm đã qua, từng khuôn mặt, từng dáng
hình đồng đội thân yêu không.
- Gieo vần: Với kết cấu câu thơ vắt dòng: “ấy” “thấy”, “bờ” “nhớ” khiến cho âm hưởng câu thơ
cứ trào dâng da diết. Cảm xúc cứ dạt dào cuộn xoáy, câu thơ này gọi câu thơ khác, nỗi nhớ này gọi
về nỗi nhớ kia. Tất cả cứ ào ạt, xô bờ, vỗ sóng trong tâm hồn nhà thơ.
=>Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn nhà thơ
đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và yêu Tây Bắc,
yêu cảnh và người nơi đây.
Phân tích đoạn thơ thứ ba
1, Hai câu đầu: Ngoại hình của người lính TT
Ý1: Cụm từ “đoàn binh”.
QD rất tài hoa khi lựa chọn ngôn ngữ thơ điêu luyện. Tác giả không nói là đoàn quân mà là đoàn
binh nên nghĩa được nhấn sâu và bồi đắp thêm rất nhiều. Đoàn binh vừa chỉ tập hợp quân sĩ mà
còn có tác dụng gợi hình vì đoàn quân ấy luôn sẵn sàng cầm binh khí trong tay, với tư thế sẵn sàng
chiến. Chỉ bằng một cụm từ đắt nghĩa mà QD đã cho thấy hào khí ngút trời của thế hệ trẻ những
chiến sĩ lên đường đi chiến đấu.
Ý 2: Hình ảnh “không mọc tóc”
- Hoàn cảnh cuộc chiến đấu: “Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là cuộc kháng chiến
trường kì gian khổ nhưng nhất định thắng lợi”(Trường Chinh). Các anh bộ đội cụ Hồ ra đi kháng
chiến thời kì này phải chịu nhiều khó khăn, thiếu thốn: những thiếu thốn về vật chất, họ lại phải
hành quân nung nấu trong suốt những đêm dài nên người lính TT thường mắc căn bệnh sốt rét
rừng – đây là hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh. Hiện thực cuộc sống bước vào văn chương
như một quy luật tất yếu bởi “nhà văn là thư kí trung thành của thời đại” (Ban-dắc).
- Căn bệnh sốt rét rừng:
+ Liên hệ mở rộng:Viết về các anh, văn nghệ sĩ trong giai đoạn này thường bị ám ảnh bởi căn bệnh
sốt rét rừng. Nếu căn bệnh này được cảm nhận qua tâm hồn những nhà thơ hiện thực cách mạng
thì người lính hiện ra thật đáng thương, làm sao ta có thể quên được những vần thơ của Chính Hữu
trong bài thơ “Đồng chí”:
“…Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi…”
Có khi căn bệnh sốt rét rừng lại được hiện lên qua màu da vàng nghệ của anh vệ quốc quân trong
bài “Cá nước” của Tố Hữu:
“…Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi!
Sao mà yêu anh thế…”
+ Cách viết riêng của QD: Cách viết riêng của QD:
Nghệ thuật lãng mạn hóa: QD cũng viết về căn bện này nhưng ông đã cảm nhận bằng tâm hồn
của một nhà thơ lãng mạn, đây là nghệ thuật nhất quán của nhà thơ QD. Đó không phải là thứ lãng
mạn tô hồng, bôi đen cuộc sống, thứ lãng mạn thoát li của nhóm Tự Lực Văn Đoàn trước cách
mạng. QD đã lãng mạn hoá hiện thực là thứ lãng mạn cách mạng và lí tưởng. Hiện thực là những
người lính TT vì mắc căn bệnh sốt rét rừng nên các anh đã bị rụng tóc. Hiện thực này tái hiện qua
tâm hồn lãng mạn của QD, nay được thể hiện trên trang thơ là hình ảnh: “Đoàn binh không mọc
tóc”.
Nghệ thuật đảo ngữ: “không mọc tóc” chứ không phải là tóc không mọc. Cách viết này, QD đã
làm toát lên tư tế chủ động của người lính TT: Không thèm mọc tóc. Bởi thực tế cuộc sống chiến
đấu khắc nghiệt và thiếu thốn nên có khi những người lính TT đã cắt tóc, cạo trọc đầu để tiện cho
quá trình sinh hoạt, chiến đấu cũng như vệ sinh cá nhân. Qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan,
đùa vui hóm hỉnh, bốc tếu của những chàng lính trẻ.
Ý 3: Hình ảnh “quân xanh màu lá”. Có hai cách hiểu:
- Vẫn biết rằng căn bệnh sốt rét làm cho da dẻ người lính xanh xao, vàng vọt. Mà như một nhà thơ
khác cũng đã viết:
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
Không còn tươi nữa những ngày qua.
Đây là một hiện thực khốc liệt của cuộc kháng chiến mà QD chỉ là người thư kí trung thành ghi lại
qua những dòng thơ. Nhưng hiện thực không phơi bày trần trụi. Chỉ qua cách chọn lọc ngôn từ mà
ý thơ chuyển hóa đầy ẩn ý. QD không nói là da xanh màu lá mà là “quân xanh màu lá” nó không
còn là màu vàng nghệ của làn da bị bệnh tật, nó là màu xanh của lá nguỵ trang, màu xanh của cánh
rừng bạt ngàn… . Nhờ có nghệ thuật lãng mạn, QD viết về cái bi của hiện thực chiến tranh nhưng
thơ của Quang Dũng không hề bi quan, bi luỵ trái lại là bi hùng, bi tráng.
Ý 4: Hình ảnh “dữ oai hùm”
- Với nghệ thuật tu từ ẩn dụ vật hóa đã tạo nên ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc, bởi tầm vóc của
những người chiến sĩ bật lên với sức mạnh táo bạo, gân guốc, oai phong, dữ dằn như những vị
chúa tể sơn lâm, những con hùm thiêng nơi núi rừng Tây Bắc. Nhưng điều quan trọng hơn với
cách viết này, Quang Dũng đã làm tái hiện trước mắt chúng ta bức chân dung của những anh vệ
trọc oai phong như mãnh hổ: dữ oai hùm, ngự trị giữa chốn rừng thiêng làm cho quân thù phải
khiếp sợ. Đúng như giáo sư Vũ Quần Phương đã nhận xét: “Lối viết của QD thật tài hoa. Nói
được lính ốm mà không thấy lính yếu”.
- Liên hệ: Nếu các tráng sĩ đời Trần có vẻ đẹp “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Sức mạnh của các
tráng sĩ đời Lê là “sĩ tốt kén tay tì hổ” thì các chiến sĩ TT thời đại HCM có vẻ đẹp “dữ oai
hùm”. Đó là một dòng chảy lịch sử hào hùng của giòng giống “con rồng cháu tiên”.
2, Hai câu thơ sau: vẻ đẹp của tâm hồn người lính.
“…Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm…”
Ý 1: Hình ảnh ánh mắt.
- Ánh mắt được coi là cửa sổ tâm hồn. Có thể dâng cả tình yêu lên sóng mắt, nhưng cũng có thể là
sự căm hờn, uất hận. Mà theo quan niệm dân gian của các cụ ta xưa nếu yêu ai thì nhìn bằng con
mắt màu xanh, còn ghét ai thì nhìn bằng con mắt trắng.
- Hình ảnh “Mắt trừng” thể hiện sự căm hờn, uất hận. Chính vì thế đây là con mắt mà những người
lính TT nhìn kẻ thù xâm lược.
- Ánh mắt ấy dù nhìn kẻ thù xâm lược sục sôi căm hờn nhưng cũng không quên gom vào đó những
mộng mơ, hoài bão của tuổi trẻ. Đó là khao khát giết giặc lập công –“xác giặc chất đống xây thành
chiến công”.
Ý 2: Giấc mộng chiến công.
- Hình ảnh “gửi mộng qua biên giới”gửi mộng qua biên giới”phải chăng là giấc mộng chiến công.
Khi ra đi những chàng trai trong binh đoàn TT đã mang trong mình lí tưởng
“Ra đi chỉ một lời thề
Khi chưa hết giặc chưa về quê hương”.
Nên mong ước ấy đã được QD gửi gắm một cách kín đáo vào ngôn từ. “Qua biên giới” hay cũng
chính là khi bóng dáng quân thù đã bị quét sạch ra khỏi bờ cõi quê hương để đất nước sống trong
thái bình yên ổn. Một ước mơ sáng ngời lí tưởng của những anh bộ đội Cụ Hồ.
- Nhắc đến nghệ thuật của câu thơ bình giảng, ta không thể bỏ qua nghệ thuật đối lập qua hình
ảnh thơ: “Mắt trừng gửi mộng…” . Mắt “trừng” trong câu thơ này nghĩa là các anh đang trừng về
phía quân thù để canh chừng, để nêu cao quyết tâm chiến đấu và tinh thần cảnh giác đồng thời họ
vẫn gửi mộng qua biên giới về Hà thành mĩ lệ. Chữ “mộng” trong câu thơ này phải hiểu theo
nghĩa hàm ẩn, là mộng lí tưởng, là khát vọng lên đường, chính nó đã thôi thúc người lính Tây tiến
lên đường vì nghĩa lớn và chính nó đã giúp cho người lính Tây tiến vượt qua những chặng đường
gian khổ.
Ý 3: Những khoảnh khắc hiếm hoi của tâm hồn.
Trong hành trang lên đường chiến đấu của người lính TT không chỉ có mộng mà còn có mơ.
- Lí do: Những anh bộ đội cụ Hồ có nguồn gốc xuất thân từ nhiều ngả đường của tổ quốc. Nên khi
ra đi quê hương là một phần máu thịt mang theo trong tâm hồn họ.
- Liên hệ tình yêu, nỗi nhớ quê hương:
Người lính trong bài Đồng Chí của Chính Hữu đến từ những miền quê nghèo, người dân lao động
một nắng hai sương, cày sâu cuốc bẫm:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau…”
Họ bỏ lại đằng sau quê hương, nơi ấy có “giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”; họ còn bỏ lại
sau lưng Hà thành mĩ lệ:
“…Người ra đi đầu không ngoảnh lại,
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy…”
Đi sâu vào cuộc chiến tranh trường kì, gian khổ, từ trong sâu thẳm các anh bộ đội cụ Hồ thường
nhớ về quê nhà. Nếu người lính xuất thân từ nông dân thì nỗi nhớ của họ chân chất, ngai ngái mùi
lúa gạo, ta nhớ đến tứ thơ hay trong bài thơ “Nhớ” - Hồng Nguyên:
“…Ba năm rồi gửi lại quê hương
Mái lều gianh tiếng mõ đêm trường
Luống cầy đất đỏ, ít người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya…”
- Nguồn gốc xuất thân của những chàng lính TT: Cần phải mở ngoặc đơn để nói với nhau rằng:
đối tượng ra lính trong bài thơ này là những trí thức Hà thành. Tâm hồn họ đã thấm nhuần áng văn
chương cổ, họ xếp bút non nghiên lên đường vì nghĩa lớn. Nhớ về hà thành mĩ lệ, họ xem Hà Nội
như một dáng kiều thơm là hoàn toàn hợp lí chứ sao?
Ý 4: Hình ảnh “dáng Kiều thơm”.
- “Dáng Kiều thơm” như một mặc định biểu tượng cho những người phụ nữ đẹp. Họ có thể là
những người yêu, người vợ, người mẹ, người em gái đất Hà thành. Những con người mà không hề
quá khi Nguyễn Khải ca ngợi họ là những “hạt bụi vàng” làm nên vẻ đẹp lung linh, làm nên bản
sắc đậm đà cổ kính của đất kinh kì. Bởi
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”
Tiếc rằng, có thời kì người ta coi câu thơ này là “mộng rớt tiểu tư sản” vì vậy bài thơ này vắng
bóng nhà trường 40 năm trời. Khoảng thời gian này không ít lớp bụi thời gian có thể phủ mờ lên
biết bao nhiêu sự kiện, vấn đề nhưng thời gian lại bất lực trước vẻ đẹp của một thi phẩm nghệ
thuật, càng đi vào lớp bụi thời “Tây tiến” – QD lại ngời lên những vẻ đẹp.
3, Bốn câu tiếp: Sự hi sinh của người lính TT.
*Câu 1:
Ý 1:Ngòi bút tả chân.
Viết về chiến tranh, nhà thơ QD không hề ngần ngại né tránh viết về những hi sinh, mất mát bởi
súng đã nổ người Việt Namcùng đổ máu. Nhưng cái hay của người nghệ sĩ tài ba này là ở chỗ:
xuyên suốt bài thơ, khi đề cập đến cái chết, nhà thơ Quang Dũng không phải sử dụng đến từ
“mất”, “chết”, “hi sinh”. Thay vào đó là hình ảnh:
“…Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiều anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành…
- Hai chữ “rải rác” cho thấy đoàn binh TT năm xưa họ bị chết bệnh nhiều hơn chết trận. Mỗi mảnh
đất đi qua đều có thể là nơi những đồng đội thân yêu nằm xuống. Những nấm mồ nằm rải khắp
miền biên ải xa xôi, hoang vu, lạnh lẽo. Thậm chí còn vĩnh viễn gửi thân mình nơi đất bạn Lào.
Nhưng dù ở nơi đâu thì đó cũng là sự hi sinh đáng trân trọng.
Ý 2: Nghệ thuật sử dụng từ Hán Việt.
- Cách viết của QD: Viết về cái bi nhưng trong thơ Quang Dũng cái bi đã giảm đi đáng kể bởi ở
đây tác giả liên tục sử dụng những từ Hán Việt:
“…Rải rác biên cương mồ viễn xứ…”
Câu thơ gồm bảy âm tiết, ở đó đã có năm âm tiết “biên cương mồ viễn xứ” vốn là những từ Hán
Việt dùng để chỉ những nấm mồ nơi rừng sâu biên giới. Nhờ đó mà Quang Dũng viết về cái bi
thương không hề bi luỵ, bi quan trái lại là bi hùng, bi tráng. Vẫn viết về cái chết ở nơi chiến trường
biên ải trong “Chinh phụ ngâm” của Đoàn Thị Điểm - Đặng Trần Côn, cảnh tượng hiện ra rùng
rợn, ảm đạm và thê lương hơn nhiều:
“…Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi…”
* Câu 2:
Ý 1: Lí tưởng của người lính TT.
Đặc biệt, câu thơ tiếp sau cái bi không còn nữa bởi khát vọng lên đường đầy cao đẹp của các anh:
“…Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…”
Nghệ thuật đảo ngữ: Ấn tượng của bạn đọc với câu thơ này là nghệ thuật đảo ngữ. Xưa nay,
người ta thường nói “đi chiến trường”, ở đây Quang Dũng đặt hai chữ “chiến trường”, tác giả
khẳng định đây là một cuộc chia li đã xác định được lí tưởng cũng như mục đích lên đường. Đó là
một cuộc chia li chói ngời sắc đỏ đã làm nên “Sao chiến thắng” của Chế Lan Viên. Ta liên tưởng
tới cuộc chia li trong bài “Tống biệt hành” của Thâm Tâm:
“…Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giớ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong…”
Ý 2: Cụm từ “chẳng tiếc”:
Đọc câu thơ: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, ta nhận thấy sức nặng của thơ ca lại dồn vào
hai chữ “chẳng tiếc” làm ta liên tưởng tới hai chữ “mặc kệ” trong thơ Chính Hữu: “Gian nhà
không mặc kệ gió lung lay”. Ta còn nhớ đến chữ “thà” trong tứ thơ đẹp của Thâm Tâm trong
“Tống biệt hành” khi tác giả khẳng định sự quyết tâm của trang nam nhi lên đường vì nghĩa lớn
không hẹn ngày về:
“…Người đi ừ nhỉ người đi thực
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say…”
Ý 3: Cụm từ “đời xanh”:
Hai chữ “đời xanh” ở cuối câu thơ đã gợi lên cái tuổi với bao mộng đẹp, hoài bão vậy mà các anh
cũng chẳng tiếc, chẳng màng tới, các anh đã hi sinh cả cuộc đời cho Tổ quốc, vậy thì thử hỏi có sự
hiến dâng nào cao hơn sự hiến dâng này? Hai chữ “đời xanh” trong câu thơ còn giúp cho bạn đọc
liên tưởng tới tứ thơ đẹp trong “Trường ca đất nước hình tia chớp” của Trần Mạnh Hảo:
“…Thế hệ chúng con ra đi như gió thổi
Áo quân phục xanh đồng sắc với chân trời
Chưa kịp yêu một người con gái
Lúc ngã vào lòng đất vẫn còn trai…”
Đó là những con người sống giản dị, bình tâm nhưng chính họ đã âm thầm ngã xuống vì ngày mai
độc lập để đất nước Việt Nammang dáng hình các anh. Là một người chiến sĩ làm thơ, bước chân
của Nguyễn Khoa Điềm in hằn trên dải đất hình tia chớp. Sau khi đi dọc dải đất Việt Nam thân
yêu, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định:
“…Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước! Sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
* Câu 3: Sự hi sinh cao cả.
Ý 1: Hiện thực khốc liệt.
Thơ của Quang Dũng bùng lên với khát vọng, lí tưởng thì lại bị trùng xuống bằng một hiện thực
khốc liệt. Đoạn thơ này không nằm ngoại lệ. Câu thơ mô tả một hiện thực khó khăn mà người lính
Tây tiến phải đối mặt “Áo bào thay chiếu anh về đất”.
- Hình ảnh“Áo bào thay chiếu”: Người yêu thơ thường bị ám ảnh bởi “Áo bào thay chiếu”.
+ Thứ nhất, theo cách hiểu của Trần Lê Văn: thì đây là hình ảnh chiếu thay áo bào, đó là những
chiếc chiếu được đồng bào dân tộc đan tặng người lính Tây Tiến, thể hiện tình quân dân cá nước,
nếu hiểu theo cách này thì nhà thơ Hoàng Lộc trong bài “Viếng bạn” đã khẳng định:
“…Ở đây không gỗ ván
Vùi anh trong tấm chăn
Của đồng bào Cửa Ngăn
Tặng tôi ngày phân tán…”
+ Cách hiểu thứ hai: Tuy nhiên, trong cuộc chiến tranh đầy thiếu thốn ấy, những chiếc chiếu để
khâm liệm các anh cũng không còn vì vậy để thể hiện sự trân trọng của mình trước sự ra đi đầy
cao đẹp của người lính Tây tiến, Quang Dũng đã thay bằng hình ảnh “Áo bào thay chiếu”. Suy đến
cùng thì nó là những chiếc áo được Chế Lan Viên ghi lại trong “Tiếng hát con tàu”:
“…Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con…”
Đó là những chiếc áo đã đi vào trong thơ ca truyền thống từ “Ngoài cật có một manh áo vải”
(Nguyễn Đình Chiểu) cho đến “Mà nay áo vải cờ đào” (Quang Trung - Nguyễn Huệ). Như vậy,
các anh ra đi như thế nào thì khi trở về với đất mẹ lại vẫn giản dị như thế.
+ Ý nghĩa của hình ảnh áo bào: Áo bào là loại áo đặc biệt dành riêng cho vua chúa. Vậy mà khi
nằm xuống những chiến sĩ đã vinh dự khoác trên mình tấm áo ấy. Phải chăng qua hình ảnh này
điều QD muốn ngầm gửi gắm là vai trò của các anh trong lịch sử dân tộc. Hơn 4000 năm lịch sử
dựng nước, giữ nước và đấu tranh triền miên để chống giặc ngoại xâm, đã có bao chiến sĩ hữu
danh và vô danh nằm xuống. Nhưng nhân dân thì không một ai nhớ mặt đặt tên. Còn các ông vua
của các triều đại thì nhân dân ngàn đời ghi nhớ. Nên khi khoác cho các anh tấm áo bào khi nằm
xuống QD đã một lần nữa khẳng định: công lao của các anh dành cho dân tộc lớn lao như những vị
vua đối với dân tộc. Và vì thế nhân dân, dân tộc đời đời nhớ ơn các anh.
- Nghệ thuật nói giảm nói tránh: Cụm từ “về đất”
+ Chất đau thương của hiện thực, của sự hi sinh đã giảm đi đáng kể khi QD sử dụng biện pháp
nghệ thuật nói giảm nói tránh này.
+ Với động từ “về” trong câu thơ này chứng tỏ rằng cái chết của người lính Tây Tiến năm xưa
không phải là chấm hết mà mở ra một cuộc sống mới. Ra đi nhưng thực chất lại là sự trở về của
ngày đòan viên, ấm cúng. Cái chết không chỉ vỗ về bản thân người ngã xuống. Cái chết ấy làm cho
những đồng đội ở lại của mình có thêm động lực để “Nhằm thẳng quân thù mà bắn” (Lê Anh
Xuân):
“…Mai mốt bên cửa rừng
Anh có nghe súng nổ
Là chúng tôi đang cố
Tiêu diệt kẻ thù chung…”
+ Hình ảnh “đất mẹ” thân thương: Đất mẹ mở rộng lòng mình để ôm các anh vào lòng và dệt
nên truyền thống của một dân tộc không bao giờ khất phục trước kẻ thù mà Nguyễn Đình Thi đã tự
hào trong bài “Đất nước”:
“…Nước chúng ta!
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về…”
+ Ý nghĩa của sự hi sinh: Cái chết của người lính Tây tiến năm xưa làm đoá hoa tự do luôn được
nở, và rồi quả độc lập được kết trái, chẳng thế mà trong bài “Mồ anh hoa nở” nhà thơ Thanh Hải
có viết:
“…Mồ anh trên đồi cao
Bông hồng nở và nở
Hương thơm bay và bay”
*Câu 4: Hình ảnh dòng sông Mã.
Ý 1: Nhân vật tiễn đưa.
Tiễn biệt các anh về với đất mẹ, bên cạnh đồng đội của mình còn có một nhân vật nữa là dòng
sông Mã “sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Ai đã từng đọc thơ Quang Dũng dễ dàng nhận thấy
sông Mã đã trở thành một ám ảnh nghệ thuật. Trong bài thơ này, tác giả đã nhiều lần nhắc đến
sông Mã, không phải ngẫu nhiên một buổi chiều mưa ở Phù Lưu Chanh, khi những kỉ niệm của
một thời trận mạc ùa về trong tâm hồn mình, nốt nhạc đầu tiên ngân vang trong khúc độc hành ca
của một thời ấy, Quang Dũng lại đến dòng sông Mã:
“Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!...”
Và cùng không phải ngẫu nhiên ngày tiễn biệt Quang Dũng, người bạn thân trong bản điếu văn đã
thốt lên rằng:
“Sông Mã gầm lên sông Mã ơi,
Người yêu sông Mã đã qua đời”
Ý 2: Khúc tráng ca của dân tộc.
Sông Mã đã thay mặt đất trời, nhân dân, đất nước gầm lên những khúc bi ai để tiễn biệt các anh về
với đất mẹ. Đó là tiếng khóc trường tồn, bất tử cùng thời gian. Chừng nào sông Mã còn thì dân tộc
còn khóc thương những người chiến sĩ đã hi sinh. Chính vì thế chúng ta hôm nay hiểu rằng vì sao
có ngày lễ kỉ niệm 27/07 hàng năm, để nhân dân. Những người còn sống hôm nay thắp một nén
hương lòng tưởng nhớ những người con đã ngã xuông vì đất mẹ thân yêu.
=>Sự rung động của thơ ca bao giờ cũng được đo bằng nhịp đập của con tim. Trích đoạn bình
giảng tác động nhiều vào xúc cảm của bạn đọc đó là bức tượng đài của người lính Tây tiến -
những con người đẹp như chân lí sinh ra. Bởi lẽ chính thời đại đã sinh ra những anh hùng; chính
thời đại đã làm nên những tên tuổi. Đoàn binh TT năm xưa góp phần viết nên huyền thoại của Việt
Nam ở thế kỉ XX, đó là huyền thoại của những con người đáng quý, đáng yêu hơn một lần đi vào
trong thơ:
“…Ôi Tổ quốc bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại vuốt hoa
Trong và thực giữa đôi bờ suy tưởng
Mà hiên ngang, nhân ái, chan hoà…”
Đoạn thơ khép lại, QD dựng lên bức tượng đài của người lính Tây tiến: oai phong, lẫm liệt khác
hoàn toàn với hiện thực nhưng ẩn chứa bên trong là một tầm hồn khao khát yêu thương, là một
trái tim biết căm thù quân xâm lược, một trái tim rực lửa anh hùng.
Phân tích đoạn thơ cuối
- Lời thề gắn bó với TT.
-Lời thề gắn bó với mảnh đất miền Tây.
3. KB.
Có một thời như thế đã đi qua. Nhưng có lẽ bức tượng đài mà QD dựng lên về hình tượng người
lính trong KCCP sẽ mãi còn là khúc tráng ca bất tử. Không một phút giây nào dân tộc quên ơn các
anh. Cảm ơn những người con cảm tử của tổ quốc, cảm ơn người nghệ sĩ tài hoa QD, đã để lại cho
nền văn học dân tộc nước nhà một bông hoa thơm mãi tỏa hương trong vườn hoa thơ của văn học
Việt Nam hiện đại.
Đề 1. Phân tích: Đoạn 1
MB: “Có một bài ca không bao giờ quên, là lời đất nước tôi chẳng phút bình yên …” Có một bài
ca như thế. Và cũng có một bài thơ viết về những năm tháng “không bao giờ quên”, không phai
mờ trong kí ức của nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó là bài thơ "Tây Tiến" của Quang
Dũng. Bài thơ chính là bức tượng đài bất tử về người lính cụ Hồ trên nền thiên nhiên miền Tây
hung vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Đoạn thơ sau là những vần thơ hay nhất viết về cuộc hành quân gian khổ
và cảnh thiên nhiên Tây Bắc:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
TB:
1. Khái quát
- Quang Dũng: Quang Dũng (1921 – 1988) là nghệ sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc.
Nhưng QD trước hết là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa.
- Đoàn binh Tây Tiến: Tây Tiến là tên bài thơ đồng thời cũng là tên một đơn vị bộ đội được thành
lập vào đầu năm 1947 do Quang Dũng làm tiểu đội trưởng. Đoàn binh Tây Tiến gồm phần đông là
thanh niên, học sinh, sinh viên xuất thân từ đất Hà thành nên họ có tâm hồn lãng mạn, hào hoa.
Sau khi bảo vệ biên giới phía Tây của Tổ quốc được 1 năm thì Tây Tiến giải thể.
- Hcst: Cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về đơn vị cũ đã sáng tác bài thơ Tây
Tiến.
- Nhận xét, đánh giá: "Tây Tiến" là thi phẩm xuất sắc của QD, của thơ ca kháng chiến viết về
người lính xuất thân từ tầng lớp trí thức.
- Đoạn 1: Những vần thơ trên là đoạn thơ đầu tiên của tác phẩm. Hiện lên trong đoạn thơ là thiên
nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ dữ dội vừa thơ mộng trữ tình và chặng đường hành quân đầy gian lao,
vất vả, hi sinh của những người lính Tây Tiến.
2. Phân tích
a. Đoạn thơ mở đầu bằng hai câu thơ mang cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ. Đó là nỗi nhớ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
- Đối tượng của nỗi nhớ:
+ Trước hết, nỗi nhớ dành cho Sông Mã, con sông gắn liền với chặng đường hành quân của người
lính.
+ Đối tượng nhớ thứ hai là nhớ Tây Tiến, nhớ đồng đội, nhớ bao gương mặt một thời chinh chiến.
Nỗi nhớ ấy được bật lên thành tiếng gọi tha thiết trìu mến “Tây Tiến ơi!”. Vần “ơi” gợi lên bao nỗi
niềm lâng lâng khó tả.
+ Đối tượng thứ 3 của nỗi nhớ là “nhớ về rừng núi”, địa bàn hoạt động của đoàn binh Tây Tiến với
bao kỉ niệm.
=> Tất cả nay đều đã “xa rồi” “xa rồi”. Chính vì thế, nỗi nhớ mới trở nên da diết đến vậy.
LHMR: Nỗi nhớ trong thơ ca Việt Nam thường gắn với quê hương, gia đình, con người. Còn
Quang Dũng đã góp thêm nỗi nhớ về một miền đất, một địa danh, một đơn vị.
- Sắc thái của nỗi nhớ:
+ Tình cảm ấy được thể hiện sâu sắc nhất qua 3 từ: “Nhớ chơi vơi”. “Chơi vơi” là trạng thái trơ
trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một
mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian,
không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi, bâng khuâng, sâu lắng, làm cho con người
có cảm giác đứng ngồi không yên.
+ Đây là cách dùng từ rất “đắc địa” và sáng tạo của Quang Dũng. Bởi vì trạng thái “chơi vơi” rất
hợp với không gian rừng núi.
+ Thêm nữa, điệp từ “nhớ” được nhắc lại 2 lần trong một câu thơ khiến cho nỗi nhớ càng trở nên
da diết. Thán từ “ơi” kết hợp với vần “ơi” trong từ “chơi vơi” tạo nên âm hưởng nỗi nhớ ngân nga,
vang vọng trong lòng người.
=> Hai câu mở đầu với nghệ thuật điệp từ, điệp vần đã khơi nguồn cảm xúc cho toàn bài thơ. Đó là
nỗi nhớ miên man, bồi hồi trong lòng người, để từ đó mở ra con đường hành quân vừa hùng vĩ dữ
dội vừa thơ mộng trữ tình cùng với bao kỉ niệm của những năm tháng không bao giờ quên.
b. Hai dòng thơ tiếp theo: nỗi nhớ được cụ thể hóa qua các địa danh:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
- Sài Khao, Mường Lát là những địa danh mà Quang Dũng và đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, đóng
quân.
- Ở câu thơ đầu đoạn nhà thơ đã sử dụng bút pháp tả thực.
+ Sương trên đỉnh Sài Khao dày đến độ che “lấp”, nuốt cả đoàn quân. Đây chính là sự khắc nghiệt
của thời tiết Tây Bắc, là những khó khăn gian khổ đời lính phải trải qua.
LHMR: Rất nhiều nhà thơ đã từng viết về những khó khăn ấy:
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa rầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu)
Nhưng nếu Tố Hữu đã miêu tả cụ thể cảnh sống của người lính còn QD không làm thế. Ông chỉ
miêu tả cái hoang vu, hoang dã của một vùng rừng núi nhưng qua đó ai cũng hiểu đời lính là như
thế, họ sống giữa thiên nhiên như vậy đó. Hơn nữa, phải nhớ rằng, lính Tây Tiến phần đông là học
sinh, sinh viên đô thành nên cảnh núi rừng với họ càng trở nên xa lạ. Quang Dũng đã rất tài tình
khi đưa hình ảnh sương dày để tái hiện sự dữ dội của núi rừng Tây Bắc. ("Việt Bắc" Tố Hữu:
"Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù")
+ Thêm nữa từ "mỏi": trạng thái yếu đuối, rệu rã. Đây là một hình ảnh thơ rất con người, rất bình
thường; một hình ảnh lạ trong thơ ca kháng chiến. Bởi nó tả thực một cách gân guốc, trần trụi,
không qua một lăng kính lí tưởng nào. Khác hẳn với những câu thơ thời bấy giờ như: "Đường ra
trận mùa này đẹp lắm" hay "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai".
=> Câu thơ đã tạo nên hình ảnh đoạn quân Tây Tiến rất con người và góc nhìn nhân bản chân thật.
- Câu thơ thứ hai nhà thơ lại sử dụng bút pháp lãng mạn. Nếu câu thơ trên đọng lại ở chữ “mỏi”
như hơi thở nặng nhọc của con người, thì đến câu thơ này, mọi cảm giác mệt mỏi đều bị xóa tan
bởi những hình ảnh đẹp lung linh như trong cõi mộng: “hoa về trong đêm hơi”. “Hoa về” có thể là
hoa nở, có thể là những ngọn đuốc soi đường các anh hành quân. Dù hiểu theo cách nào thì hình
ảnh hoa trong đêm sương bồng bềnh cũng đều lãng mạn và nên thơ.
=> Có thể nói, sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã được thi vị bởi những tâm hồn lãng mạn hào hoa.
c. Bốn câu tiếp: là những câu tuyệt bút trong bài "Tây Tiến"
Dốc lên khúc khuỷ dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, sứng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
- Nhớ đến miền Tây, không thể nào quên sự hiểm trở và hùng vĩ vô cùng của dốc núi. Ba câu đầu
đoạn đã miêu tả sắc nét khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và hiểm trở ấy, qua đó làm hiện lên cuộc
hành quân gian lao, vất vả, ý chí kiên cường và tinh thần lạc quan, yêu đời của những người lính
Tây Tiến.
+ Câu thơ “Dốc lên khúc khủy đốc thăm thẳm” miêu tả trực tiếp dốc núi miền Tây trập trùng hiểm
trở. Từ láy “khúc khủy”, “thăm thẳm” kết hợp với biện pháp điệp thanh trắc, câu thơ 7 chữ thì có
đến 5 thanh trắc đã tạo nên âm hưởng gập ghềnh. Đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi giống
như đang hành quân cùng những người lính Tây Tiến. Thêm nữa, cậu thơ ngắt nhịp 4/3, từ “dốc”
điệp lại ở đầu hai vế câu đã thể hiện thành công sự nối tiếp của những con dốc, con dốc này chưa
qua con dốc khác đã đợi sẵn. Dường như núi rừng miền Tây muốn thử thách ý chí nghị lực của
người lính.
+ Chưa hết, độ cao của dốc núi Tây Bắc còn được miêu tả gián tiếp trong câu thơ “Heo hút cồn
mây súng ngửi trời”. Từ láy “heo hút” vừa gợi độ cao, vừa gợi sự xa vắng được đảo lên đầu câu để
nhấn mạnh sự hoang sơ, vắng vẻ của những con dốc. “Cồn mây” nghĩa là mây chồng chất, dựng
lên thành cồn, mây bao phủ đường núi, mịt mờ, chập trùng khiến con đường hành quân của các
chiến sĩ thêm cheo leo, hiểm trở. Đặc biệt, hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” đã tái hiện đúng độ
cao của dốc núi. Khi người lính đi trên đỉnh núi, mũi súng như chạm tới đỉnh trời. Đó là một cảm
nhận thực của thị giác. Đồng thời, từ “ngửi” đã tạo nên chất lính, sự trẻ trung, tếu táo hóm hỉnh
của những chàng trai ra đi từ sân trường góc phố. Đặc biệt, nó còn gợi ra tâm thế của con người
đứng trên đỉnh cao làm chủ hoàn cảnh, khiến cho "Tây Tiến" của Quang Dũng dù có nét đau
thương nhưng không bi luỵ, không lạc nhịp thơ kháng chiến, vẫn hùng tráng, mạnh mẽ.
+ Đến cậu thơ thứ 3, thiên nhiên không còn là đối tượng để thưởng thức nữa mà đã trở thành đối
thủ: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Điệp ngữ, hoán dụ “ngàn thước” là một ước lệ nghệ
thuật để đặc tả độ cao của dốc. Dấu phẩy giữa dòng thơ, sự tương phản của hai động từ “lên”
“xuống” khiến cho câu thơ như bị bẻ đôi để miêu tả những con dốc có chiều cao, chiều sâu rợn
ngợp: nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm.
- Cuối cùng, nhà thơ Quang Dũng đã cho độc giả cùng đoàn quân của mình được nghỉ ngơi bằng
một câu thơ êm dịu, thơ mộng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ toàn thanh bằng đã gợi
tả được một không gian mênh mông dàn trải và nhạt nhòa trong mưa. Nhịp thơ cùng chậm lại, nhẹ
nhàng giống như phút dừng chân nghỉ ngơi của người lính trẻ. Hình ảnh ẩn dụ “mưa xa khơi” làm
hiện lên trước mắt độc giả một biển mưa, không gian bỗng trở nên mênh mông, xa vời ... Cả núi
rừng chìm trong mưa và ánh mắt của người lính hướng đến ngôi nhà thấp thoáng trong màn mưa
hư ảo. Đại từ phiếm chỉ “ai” khiến cho những ngôi nhà cũng trở nên mơ hồ, xa xăm. Dù vậy, hình
ảnh “nhà” giữa núi rừng, trong màn mưa buốt lạnh vẫn gợi cảm giác ấm áp, bình yên làm trào
dâng nỗi nhớ nhung xao xuyến lòng người xa quê.
=> Chỉ với bốn câu thơ, Quang dũng đã vẽ lại bức tranh núi rừng TB vừa gân guốc, khoẻ khắn vừa
mềm mại, thơ mộng.
d. 2 câu tiếp: Trên nền thiên nhiên kì vĩ hoang dã, nỗi nhớ của nhà thơ với đồng đội của mình trở
nên day dứt, trầm lắng đi khi nghĩ đến hình ảnh anh bạn “bỏ quên đời”. QD đã viết rất thực:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
- Từ láy “dãi dầu” (trải nghiệm dài lâu, nhọc nhằn) đã thể hiện tất cả những vất cả, nhọc nhằn của
các anh khi hành quân qua miền Tây, khi vượt qua những núi cao, vực sâu, thác ghềnh dữ dội, qua
những mưa nắng, sương gió, ...
- "Không bước nữa": có hai cách hiểu: khoảnh khắc dừng chân hoặc nói giảm, nói tránh về cái
chết.
- "Gục": động từ mạnh, đứng đầu câu taọ cảm giác nặng nề. Dù là dừng chân nghỉ ngơi hay ra đi
mãi mãi thì đều gợi cảm giác mệt mỏi, hi sinh.
- LHMR: Trước gian khổ, trên đường hành quân, không ít người đã nằm lại nơi lưng đèo, góc suối.
Đó là hiện thực chiến tranh. Xưa này “chinh chiến kỉ nhân hồi” (tham gia chinh chiến ít người
quay trở về). Chính nhà thơ Lê Văn, bạn thân của Quang Dũng cũng từng nói: “Lính Tây Tiến
đánh trận tử vong ít, sốt rét rừng tử vong nhiều”.
- Bên cạnh đó, QD đã dùng cách nói giảm, nói tránh: “không bước nữa”, “bỏ quên đời” để giảm
nhẹ đi sự mất mát, tang thương.
=> Tất cả khiến cho câu thơ có bi thương mà không bi lụy, trái lại rất hào hùng, lãng mạn. Những
người lính, họ coi cái chết nhẹ nhàng như một giấc ngủ vì họ đã “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”,
nguyện hi sinh thân mình để xây đài tự do cho dân tộc.
e. Hai câu tiếp lại tô đậm thêm sự hoang sơ, dữ dội của rừng già:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
- “Chiều chiều”, “đêm đêm” là khoảng thời gian rừng già thể hiện sự dữ dội nhất. Cộng với phép
điệp đã gợi tả được thời gian liên tiếp, triền miên. Những sức mạnh khủng khiếp của thiên nhiên
đã ngự trị nơi núi rừng miền Tây không phải một chiều, một đêm mà là muôn đời.
- Địa danh Mường Hịch trong câu thơ như mô tả bước chân của chúa sơn lâm. Con trai nhà thơ
QD đã từng muốn đưa địa danh này ra khỏi bài thơ, nhưng QD đã không thay, ông cho rằng
“không thể thay được”. Phải là Mường Hịch thì mới gợi được kỉ niệm, mới gợi được sự bí hiểm
của rừng xanh, sự thấp thỏm của bước chân người đi rừng.
- Biện pháp nhân hóa “tác gầm thét”, “cọp trêu người” làm tăng thêm sự hoang sơ của rừng già và
tinh thần thép của những người lính. Từ “trêu” đã làm cho nỗi sợ hãi lùi xa, đây là sự hóm hỉnh,
hài hước, dí dỏm của những anh bộ đội cụ Hồ lạc quan, vui vẻ.
=> Thiên nhiên vô cùng bí ẩn, hoang dại và đầy hiểm nguy rình rập.
g. Đoạn thơ kết thúc bằng một hình ảnh êm dịu, ấm áp, yêu thương:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
- “Nhớ ôi” là từ cảm thán mang tình cảm dạt dào. Nỗi nhớ những kỉ niệm về một bản làng Mai
Châu xao xuyến cháy bỏng trong tim nhà thơ. Nhớ mùi hương, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm
nếp xôi”, nhớ hương vị tình người Tây Bắc. Sau những chặng đường hành quân vất vả, người lính
Tây Tiến dừng chân tại bản làng Tây Bắc. Tại đây, các anh đã được người dân tiếp đón bằng
những bữa cơm đầm ấm, nghi ngút hương thơm của nếp xôi. Câu thơ đậm đà tình quân dân.
- “Mùa em” là một kết hợp từ lạ. Mùa em là vụ mùa ở quê em, mùa của nếp xôi dẻo thơm. Cũng
có thể hiểu câu thơ theo một nét nghĩa thật lãng mạn như sau: từ mùa thường kết hợp với danh từ
như: mùa na, mùa mít, ... là lúc sự vật đang ở trạng thái căng tràn nhựa sống, thơm ngon nhất. Từ
đó thấy được, QD đã tạo ra một nét nghĩa táo bạo và thật đa tình. Mùa em khiến cho Mai Châu
không chỉ là một địa danh gắn với hương vị của nếp xôi đầu mùa. Mai Châu còn gợi nhớ hình ảnh
những cô gái miền Tây duyên dáng. Có người lính nào quên được giây phút dừng chân ở Mai
Châu, khi đầm ấm bên các anh là dân làng, là những cô sơn nữ xinh đẹp với ánh mắt tình tứ, nụ
cười rạng rỡ, ... Những thanh bằng trong câu thơ đã gợi tả tinh tế cảm giạc bồng bềnh, xao xuyến,
ngây ngất, đê mê trong tâm hồn những chàng trai Hà thành hào hoa, lãng mạn.
3. Đánh giá chung
Đoạn thơ để lại dấu ấn đẹp đẽ trong lòng bạn đọc về thơ ca kháng chiến chống Pháp. Để có những
vần thơ hấp dẫn trên, QD đã sử dụng kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật.
+ Trước hết, đoạn thơ có sự kết hợp giữa khuynh hứng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
+ Ngôn ngữ thơ đa sắc, giàu chất nhạc, chất hoạ; có nhiều kết hợp tư độc đáo; tên địa danh vừa cụ
thể xác thực vừa gợi cảm giác lạ lẫm.
+ Giọng điệu khi tha thiết bồi hồi, khi hồn nhiên vui tươi, khi bâng khuâng man mác, khi trang
trọng trầm lắng.
+ Sử dụng nhiều biện pháp tu từ, tạo nên những câu thơ giàu hình ảnh.
+ Đặc biệt sự luận chuyển về bằng trắc tạo nên âm điệu độc đáo cho bài thơ.
=> Tất cả đều cho thấy ngòi bút tài hoa của QD. Bằng kí ức, ông đã tái dựng thành công bức tranh
thiên nhiên và con người Tây Bắc. Nhờ vậy độc giả đã có một cuộc hành trình thú vị bằng thơ đến
với Tây Bắc.
=> Tình yêu của Quang Dũng với non sông, tổ quốc.
KB: Tóm lại, với con mắt thi, nhạc, họa kết hợp với cảm hứng bi tráng, lãng mạn. Quang Dũng đã
tái hiện sinh động một bức tranh nghệ thuật ngôn từ về thiên nhiên TB và đồng đội. Hình ảnh bức
tranh thiên nhiên vô cùng hoang sơ, hiểm trở đã làm nối bật bức chân dung người lính Tây Tiến
với tầm vóc lớn lao, với ý chí kiên cường, với tâm hồn phơi phới niềm tin, niềm lạc quan. Cuối
cùng, xin trích đoạn thơ sau của tác giả Giang Nam thay cho lời kết:
Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông
Đề số 2. Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
...
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Hướng dẫn:
A. Mở bài:“Có một bài ca không bao giờ quên, là lời đất nước tôi chẳng phút bình yên …”“Có
một bài ca không bao giờ quên, là lời đất nước tôi chẳng phút bình yên …” Có một bài ca như thế.
Và cũng có một bài thơ viết về những năm tháng “không bao giờ quên”, không phai mờ trong kí
ức của nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó là bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng. Bài
thơ đã bộc lộ nỗi nhớ tha thiết về một đoạn quan, vùng đất. Đoạn thơ sau là những vần thơ hay
nhất viết về đêm liên hoan văn nghệ ấm tình quân dân và sông nước TB.
B. Thân bài
1. Khái quát chung
- Giới thiệu đơn vị Tây Tiến, hoàn cảnh viết bài thơ
- Tóm tắt nội dung, nêu bố cục bài thơ, vị trí đoạn thơ.
- Nêu cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ
Mẫu: Tây Tiến là tên bài thơ đồng thời cũng là tên một đơn vị bộ đội được thành lập vào đầu năm
1947 do Quang Dũng làm tiểu đội trưởng. Đoàn binh Tây Tiến gồm phần đông là thanh niên, học
sinh, sinh viên xuất thân từ đất Hà thành nên họ có tâm hồn lãng mạn, hào hoa. Sau khi bảo vệ
biên giới phía Tây của Tổ quốc được 1 năm thì Tây Tiến giải thể. Cuối năm 1948, tại Phù Lưu
Chanh, Quang Dũng nhớ về đơn vị cũ đã sáng tác bài thơ Tây Tiến.
Bài thơ gồm 4 đoạn, cảm xúc bao trùm là nỗi nhớ và 4 đoạn giống như những con sóng tình cảm
nối tiếp nhau. Đoạn thơ trên thuộc đoạn 2, được nhà thơ viết với bút pháp lãng mạn.
2. Phân tích nội dung, nghệ thuật
a. Bốn câu thơ đầu: Nỗi nhớ về đêm liên hoan văn nghệ ấm tình quân dân:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
...
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
- Câu thơ đầu tiên tựa như một tiếng reo vui: “Doanh trại ...”.
+ Từ “doanh trại” cho độc giả biết đêm liên hoan văn nghệ được tổ chức tại doanh trại bộ đội.
(Trong kháng chiến chống Pháp và sau này cả trong kháng chiến chống Mĩ, liên hoạn văn nghệ
quân dân là một hoạt động sinh hoạt tinh thần không thể thiếu đối với nguời lính và trở thành kỉ
niệm đẹp trong cuộc đời quân ngũ của họ. Hơn nữa, một trong những nhiệm vụ của binh đoàn TT
là vận động nhân dân giác ngộ cách mạng, cho nên đêm liên hoan văn nghệ hiện lên sâu sắc trong
nỗi nhớ da diết của nhà thơ).
+ “Hội đốc hoa”: Đây là lần thứ 2, lửa và “đuốc” được liên tưởng tới hoa. Nếu trong đêm sương ở
Mường Lát, chiến sĩ Tây Tiến nhìn đuôc soi đường lung linh huyền ảo mà thấy như “hoa về trong
đêm hơi” thì lần này, trong một đêm lửa trại giữa bản làng miền Tây, nghệ thuật ẩn dụ và cảm
hứng lãng mạn đã khiến ánh lửa bập bùng nơi đóng quân trở thành đuốc hoa rực rỡ, gợi những liên
tưởng thi vị, tình tứ. Niềm vui khiến đêm liên hoan giữa bộ đội và dân làng trở thành đêm hội tưng
bừng.
(+ Đuốc hoa: cây đuốc (nến) đốt lên trong phòng cưới của đêm tân hôn. Thành ngữ dân gian:
“Động phòng hoa chúc“, Trong Truyện Kiều của ND sau khi MGS mua Kiều với danh nghĩa về
làm vợ và đêm đó: “Đuốc hoa để đó mặc nang nằm trơ“. Như vậy, ngọn đuốc tre, đuốc nứa của
những chàng lính trẻ Tây Tiến đã trở thành đuốc hoa.
=> Hội đước hoa: đêm hội hạnh phúc.)
+ Từ “bừng” diễn tả sự chuyển trạng thái đột ngột từ không có biểu hiện gì trở thành có biểu hiện
mạnh mẽ và rõ rệt (VD: ngọn lửa bừng cháy) => Đặt trong câu thơ, từ bừng diễn tả nột sự đổi tay
khác biệt giữa trước và sau đêm liên hoan. Nếu trước đêm liên hoan văn nghệ là bóng tối và sự
tĩnh lặng thì sau đó là ánh sáng, âm thanh và niềm vui náo nức của đêm hội đuốc hoa.
- Hình ảnh trung tâm của đêm hội đuốc hoa là thiếu nữ miền sơn cước “Kìa em xiêm áo tự bao
giờ”.
+ Từ “kìa em” vừa gợi sự ngắm nghía vừa như một sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên khi những người
lính nhìn thấy các cô gái miền Tây trong trang phục dân tộc lạ mắt. Đây là một cảm giác rất chân
thực trong một dịp vui hiếm hoi sau bao ngày hành quân giữa rừng già với núi cao, vực thẳm.
+ Không chỉ thế, người lính Tây Tiến còn được chìm đắm trong “man điệu” núi rừng. “Man điệu”
có thể hiểu là vũ điệu uyển chuyển của các cô sơ nữ khi tiếng khèn cất lên, cũng có thể hiểu là
tiếng khèn say đắm, hoang sơ, bí ẩn, mê hoặc lòng người. Như vậy, thiếu nữ TB không chỉ đẹp bởi
xiêm áo lộng lẫy mà còn duyên dáng, tình tứ, e ấp. Họ đã khiến cho tâm hồn người lính trẻ thăng
hoa “Nhạc về ...”. Dường như mọi mệt mỏi đã bị đẩy lùi, thay vào đó là lòng yêu đời, yêu miền đất
lạ. “
=> Nhận xét chung: Có thể nói, vẻ đẹp của con người, của văn hoá xứ lạ đã có sức cuốn hút say
mê đối với tâm hồn những người lính Hà thành. Vì thế, những câu thơ trên từ cảnh cho đến người
như nghiêng ngả, bốc men say. Say trong âm nhạc, ánh sáng, trong vẻ đẹp của con người ở mảnh
đất miền Tây Tổ quốc.
=> Với những câu thơ nhiều vần bằng, đoạn thơ giống như một nốt nhạc êm ái, một chỗ dừng chân
trong trong toàn bộ bài thơ Tây Tiến. Chính vì vậy, XD rất có lí khi cho rằng: đọc TT ta như có
cảm tưởng như đang ngậm nhạc trong miệng.
b. Bốn câu sau: Hình ảnh sông nước và con người Tây Bắc thơ mộng, trữ tình:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
- Bốn câu thơ gồm hai câu hỏi.
+ Đối tượng hỏi không được xác định cụ thể. “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy” có thể là
người lính Tây Tiến, có thể là người dân Tây Bắc.
+ Nội dung câu hỏi là “Có thấy .. Có nhớ ...”. Hỏi về tâm trạng, cảm xúc.
+ Liện hệ: Trong thơ ca VN, hỏi nhiều khi chỉ là cái cớ để bày tỏ, để dãi bày, để đánh thức, làm
sống dậy quá khứ, những kỉ niệm đã qua. Trong bài thơ "Việt Bắc", Tố Hữu cũng đã đặt ra rất
nhiều câu hỏi để gợi nhắc kỉ niệm:
Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những may cùng mù
Mình về có nhớ chiên khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai
Nhưng nếu Tố Hữu gợi nhắc những kỉ niệm về cuộc sống kham khổ, về thiên nhiên khắc nghiệt
nơi núi rừng thì Quang Dũng lại gợi nhớ kỉ niệm lãng mạn, thơ mộng về Châu Mộc trong một buổi
chiều sương giăng mắc.
- Kỉ niệm chiều sương:
+ Buổi chiều vốn đã là khoảng thời gian thường gợi nỗi buồn, nỗi nhớ. Đặc biệt là đối với những
người xa quê. Trong ca dao từng viết: “Chiều chiều ra đứng bờ ao/ Trông về quê mẹ ruột đau chín
chiều” (“Nước kia không khát khát khao duyên nàng”). Hay chính nhà thơ Huy Cận cũng viết bài
“Tràng giang” trong một buổi chiều buồn khi đứng trước sông nước mênh mông. Thế nên câu thơ
có chút buồn nhưng đó là nỗi buồn rất lãng mạn. Bởi trong câu thơ có thêm hình ảnh “sương”
khói. Sương giăng mắc làm cho buổi chiều trên sông trở nên mờ ảo, bồng bềnh. Đây là hình ảnh
rất đặc trưng của núi rừng TB.
+ Phép điệp cấu trức “có thấy ...Có nhớ ...” đã thể hiện nỗi nhớ nhung trăn trở hướng về cảnh và
người miền Tây. Câu hỏi thứ nhất, hướng về hàng lau xám bên bờ sông hoang dại. Cụm từ “hồn
lau” khiến rừng lau như có hồn, biết chia sẻ nỗi niềm với con người. Hơn nữa, hình ảnh hoa lau
mọc hai bên bờ sông còn gợi một không gian hoang vu, vắng người. Câu thơ khiến tôi nhớ đến
một chân lí trong thơ CLV “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Dường như,
hàng lau hai bên bờ sông cũng có tâm hồn, cũng nhớ nhung người lính khi chia xa.
Câu hỏi thứ hai, dành cho con người: “Có nhớ dáng người trên độc mộc”. Độc mộc là một loại
thuyền dài và hẹp, làm từ một thân cây gỗ to và khoét trũng. “Dáng người” có thể là người TB, có
thể là người lính Tây Tiến. Dù hiểu theo cách nào thì con người cũng hiện lên khéo léo, tài hoa,
dũng cảm trên sông nước.
Cụm từ “Hoa đong đưa”: nếu viết đung đưa thì đó chỉ là chuyển động đơn thuần nhưng tác giả lại
viết "hoa đong đưa" thì ngoài chuyển động nó còn có thêm tâm trạng và có hồn. Hoa trở thành sinh
thể sống động. Hoa cũng như người đang soi mình làm duyên, làm dáng trên gương nước chòng
chành.
=> Bút pháp lãng mạn hào hoa, phép nhân hoá thần tình, cách dùng điệp từ khéo léo đã hoà quyện
với nỗi nhớ chưa bao giờ nguôi ngoai trong sâu thẳm tâm trí nhà thơ. Tất cả tạo nên một đoạn thơ
giống như một bức tranh thuỷ mặc mà nét vẽ đề mờ nhoè, thấp thoáng. Bức tranh ấy đã thể hiện
đuợc đúng vẻ đẹp thơ mộng của sông nước Châu Mộc trong một buổi chiều sương giăng.
3. Đánh giá chung
- Nghệ thuật: kt cơ bản
- Ý nghĩa:
+ Tám câu thơ là minh chứng hùng hồn cho những nhận định: "thi trung hữu hoạ", "thi trung hữu
nhạc".
+ Đoạn thơ tiêu biểu cho hồn thơ Quang Dũng lãng mạn, tài hoa, hồn hâu. Đọc những câu thơ trên
ta thấy được tình yêu con người, yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước của nhà thơ.
Mẫu: Tóm lại, đoạn thơ là nỗi nhớ của QD dành cho đêm liên hoan văn nghệ ấm tình quân dân và
thiên nhiên, con người TB. Hình ảnh một buổi chiếu sương giăng huyền ảo, thơ mộng có lẽ sẽ còn
mãi trong tâm trí người đọc. Cuối cùng, xin trích đoạn thơ sau của tác giả Giang Nam thay cho lời
kết:
TT biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông
Đề số 3. Đoạn 3
MB: Bàn về sức sống của văn chương nghệ thuật nhà thơ Bằng Việt đã từng viết: “ Những trang
sách suốt đời đi vẫn nhớ/Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu”. Vâng, có những tác phẩm ra đời
để rồi chìm khuất giữa ồn ào náo nhiệt của phiên chợ văn chương. Nhưng có những tác phẩm như
“dòng sông đỏ nặng phù sa”, “ như bản trường ca rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn” in dấu, chạm
khắc trong tâm khảm người đọc để “suốt đời đi vẫn nhớ mãi ko quên”. Đó là những tác phẩm nghệ
thuật chân chính, vượt qua mọi sự băng hoại của thời gian trở thành những bài ca đi cùng năm
tháng. Một trong những bài ca như thế phải kể đến “ Tây tiến” của nhà thơ Quang Dũng. Bài thơ
chính là bức tượng đài bất tử về người lính cụ Hồ trên nền thiên nhiên miền Tây hung vĩ, dữ dội và
mĩ lệ. Đoạn thơ sau là một bức tượng đài bi tráng về người lính Tây Tiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
TB:
1. Khái quát
...
- Đoạn 3: Những vần thơ trên là đoạn thơ thứ ba của tác phẩm. Hiện lên trong đoạn thơ là hình ảnh
ngươi lính với vẻ đẹp bi tráng từ ngoại hình, diện mạo đến tâm hồn, lí tưởng và sự hi sinh anh
dũng.
Hình ảnh người lính trở thành hình tượng quen thuộc trong thơ ca kháng chiến chống Pháp. Nếu
đến với Đồng Chí của Chính Hữu người đọc cảm nhận được vẻ đẹp chân chất giản dị của những
người anh hùng áo vải xuất thân từ giếng nước gốc đa (Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng
tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”). Họ vốn là những người nông dân “cui cút làm ăn” quanh năm bên
lũy tre làng, nhưng khi đất nước bị xâm lăng những con người thầm lặng ấy “ Ôm đất nước những
người áo vải/ Đã đứng lên thành những anh hùng”( Nguyễn Đình Thi). Còn đến với những người
lính Tây Tiến, họ vốn xuất thân từ những thanh niên trí thức đất Hà thành, theo tiếng gọi của TQ “
Xếp bút nghiên theo việc binh đao”. Chính vì vậy người lính Tây tiến trong thơ QD mang vẻ đẹp
riêng vừa hào hoa lãng mạn vừa hào hùng bi tráng.
2. Phân tích
a. Hai câu đâu đoạn: hình ảnh người lính hiện lên với ngoại hình đậm chất bi tráng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
- Trước hết, cái bi thương trong câu thơ được gợi lên từ hình ảnh đoàn quân: "không mọc tóc",
"xanh màu lá". Đây là những hình ảnh điển hình cho sự thiếu thốn, khốc liệt của chiến tranh.
+ "Không mọc tóc" là do người lính tự cắt (phục vụ chiến đấu) hoặc do hậu quả của sốt rét rừng.
+ "Quân xanh màu lá": cũng có hai cách hiểu: màu lá nguỵ trang hoặc đây là thủ pháp tăng cấp
nhấn mạnh thêm một lần nữa hậu quả của bệnh sốt rét. Hiểu theo cách thứ hai, câu thơ sẽ có giá trị
tu từ cao hơn.
=> Như vậy, cả hai hình ảnh đều là những hình dung về những khó khăn gian khổ của những
người lính Tây Tiến. Họ phải chiến đấu trong hoàn cảnh vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt
rét rừng hoành hành dữ dội. Viết về những khó khăn này, bạn thân của Quang Dũng, nhà thơ Trần
Lê Văn đã khẳng định: "lính Tây Tiến đánh trận tử vong ít sốt rét rừng tử vong nhiều".
+ Liên hệ: Hiện thực khó khăn bệnh tật không xa lạ trong thơ kháng chiến. Cùng năm 1948, trong
bài "Cá nước", Tố Hữu viết đầy trìu mến:
"Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ"
Hay Chính Hữu cũng từng cảm nhận trạng thái:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi"
Cái hay của Quang Dũng là ông không sử dụng bút pháp hiện thực giống các nhà thơ khác. Ông đã
sử dụng bút pháp lãng mạn để tái tạo vẻ đẹp độc đáo, phi thường của đoạn quân có một không hai
trong lịch sử.
- Tuy nhiên, bên cạnh cái bi ta còn thấy cái hào hùng. Vẻ đẹp hào hùng của người lính Tây Tiến
được gợi lên nhờ biện pháp đối lập, đảo ngữ và sử dụng từ Hán Việt "đoàn binh".
+ Quang Dũng viết "không mọc tóc" chứ không phải "tóc không mọc". Biện pháp đảo ngữ đã biến
cái bị động, tóc rụng do bệnh sốt rét thành phong thái chủ động, ung dung, coi thường gian khổ.
Đó là sự ngang tàng, hóm hỉnh của những chàng học sinh, sinh viên ra đi từ mảnh đất Hà thành.
Họ không cần mọc tóc.
+ Cái hào hùng còn toát lên qua việc sử dụng từ Hán Việt: "đoàn binh", so với từ "đoàn quân mỏi"
ở khổ 1 thì từ "đoàn binh" gợi số lượng đông và hùng mạnh, nó khiến cho câu thơ mạnh mẽ hẳn
lên.
+ Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng thành công phép tương phản giữa ngoại hình ốm yếu và tinh
thần chiến đấu. Dù diện mạo, ngoại hình của những người lính có thể tiều tuỵ vì bệnh tật nhưng
tinh thần chiến đấu vẫn mạnh mẽ vô cùng. Điều đó được thể hiện qua ba chữ: "dữ oai hùm". Khí
thế ấy người đọc đã từng bắt gặp trong văn học trung đại:
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu).
Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão
Do đó, vẻ đẹp hào hùng của người lính Tây Tiến có sự cộng hưởng, âm vang của truyền thống và
tinh thần hiện đại, giữa những người chiến binh năm xưa và những người lính cụ Hồ hôm nay.
=> Phẩm chất anh hùng của những người lính trong chiến tranh được khắc hoạ độc đáo, khác biệt.
Với ngôn từ cổ điển, Quang Dũng đã tạo nên hình ảnh người lính sang trọng, mang dáng dấp của
những bậc anh hùng thủa trước, khắc hẳn với những hình ảnh dân dã, thuần Việt trong bài "Đồng
chí" của Chính Hữu.
b. Hai câu tiếp, để lại dấu ấn trong lòng bạn đọc về những chàng trai Hà thành với tâm hồn lãng
mạn, hào hoa.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
- “Mắt trừng” như một nét vẽ ấn tượng thể hiện sắc nét ý chí quyết tâm giết giặc cứu nước của
người lính TT. Mắt trừng là đôi mắt mở to, trừng trừng nhìn thẳng về phía quân thù với lòng sục
sôi căm hờn thề sống chết không đội trời chung với quân xâm lược. Đó là đôi mắt thể hiện rõ tư
thế oai phong lẫm liệt của những trang nam nhi thời loạn mang trong mình giấc mộng lớn. Đó là
giấc “mộng” giết giặc lập công báo đền nợ nước. Khát vọng ấy xuất phát từ lòng yêu nước nồng
nàn, lòng căm thù giặc sục sôi, sẵn sàng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.
- Cùng với mộng lớn” là “mơ - đêm mơ HN dáng kiều thơm”. Vốn là những thanh niên, tri thức
đất Thăng Long - mảnh đất nghìn năm văn hiến, người HN vốn hào hoa thanh lịch ("Không thơm
cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An") nên khi ra đi những chàng trai
TT cũng mang theo một bóng hồng, một dáng kiều thơm chốn quê nhà. Đến đây ta bỗng nhớ đến
hai câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
Từ thuở mang gươm đi mở nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”
- Có một thời giấc mộng giai nhân của người lính TT bị coi là mang màu sắc tiểu tư sản, là ủy mị,
ướt át. Nó làm nhụt chí chiến đấu của người lính đang xông pha ngoài chiến trận. Nhưng xét cho
cùng giấc mơ ấy thật chính đáng và rất đỗi nhân văn. Nó làm cho người lính đẹp hơn, gần gũi hơn
và NGƯỜI hơn. Trong chiến đấu họ là những anh hùng, can trường dũng cảm, với ý chí sắt đá và
lòng sục sôi căm hờn nhưng trở lại cuộc sống họ cũng là những con người đời thường với một trái
tim biết yêu, biết rung động. Tình yêu, khát vọng hp lứa đôi đã hài hòa nồng thắm trong tình yêu
TQ, cái riêng hòa trong cái ta chung. Như nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng viết:
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
Bởi:
“ Anh yêu em như yêu Đất Nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần”
Tình yêu lứa đôi khát vọng hạnh phúc trở thành động lực thôi thúc các anh vững tay súng, bảo vệ
quê hương và vươn tới một ngày mai đoàn tụ.
- Sau này, trong "Những ngôi sao xa xôi" (Lê Minh Khuê, 1971), điểm tựa vững bền nhất của
Phương Định giúp cô đi qua đạn bom trên cao điểm là nỗi nhớ bầu trời đầy sao nơi phố thị. Ở "Nỗi
buồn chiến tranh" (Bảo Ninh, 1987) niềm khắc khoải về Phương và Hà Nội cũng giúp Kiên giữ
vững tính người, vượt lên những tàn khốch uỷ diệt. Ngay từ năm 1948, ngòi bút của Quang Dũng
đã dũng cảm, chân thật và tinh tế khắc dấu ấn nhân bản, để một nét chạm thôi cũng đủ để thi phẩm
sống mãi.
=> Có thể nói, chiến tranh thật tàn khốc nhưng chiến tranh không thể cướp được chất hào hoa của
những chàng trai Hà thành. Không gì có thể ngăn được những giây phút mộng mơ trong tâm hồn
người lính.
c. Nói đến chiến tranh là nói đến những mất mát đau thương, QD ko hề né tránh hiện thực
tàn khốc đó nhưng nhà thơ đã nói theo cách riêng của mình:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
- Câu thơ thứ nhất tạc lại hình ảnh thật lạnh lẽo, thê lương
+ Phép đảo từ láy "rải rác" lên đầu câu, hình ảnh "biên cương", "mồ viễ xứ": gợi không gian tử địa
xa xôi, quạnh hưu, hoang lạnh. "Rải rác" đâu đó nơi "biên cương" xã xôi của tổ quốc những nấm
"mồ viễn xứ" không một vòng hoa, không một nén hương. Dòng thơ như một nốt nhạc buồn gợi
cho người đọc nhiều xót xa. Đọc câu thơ tôi chợt nhớ đến đến hình ảnh của người chinh phu trong
“ Chinh phụ ngâm khúc”:
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mặc mặt, nào ai gọi hồn”.
+ Thế nhưng, những yếu tố bi thương ấy trong thơ QD lại được giảm nhẹ đi nhờ việc sử dụng
những từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, trang nghiêm: “biên cương”, “mồ viễn xứ” gợi lên
không khí cổ kính, trang nghiêm.
- Câu thơ sau như một lực nâng vô hình đưa câu thơ trước lên cao. "Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh" khiến cái bi thảm ở câu trước trở nên bi tráng. Cái không khí bi quan biến mất chỉ còn lại cái
ngang tàng ngạo nghễ của người chiến binh Tây Tiến. “Đời xanh” là quãng đời đẹp nhất, là tuổi
trẻ, là tuổi xuân của mỗi người. Tuổi trẻ ai chẳng mang trong mình khát vọng tình yêu hạnh phúc,
ai chẳng muốn có những tháng ngày hoa mộng? Thế nhưng họ đã ra đi “chẳng tiếc” đời mình
giống như lời thơ của Thanh Thảo:
“ Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi TQ?”
Hai tiếng “chẳng tiếc” vang lên chắc nịch khẳng khái với thái độ quyết tâm thậm chí có phần bất
cần thể hiện khí phách ngang tàng của tuổi trẻ. Những chàng trai TT sẵn sàng hiến dâng tuổi trẻ,
thanh xuân của mình vì nền độc lập tự do của TQ, vì sự bình yên của nhân dân. Họ coi cái chết
nhẹ tựa lông hồng “thà chết vinh còn hơn sống nhục”. Đó là lí tưởng sống cao đẹp của những trang
nam nhi thời loạn. Chính những chàng trai ấy đã không tiếc thanh xuân của cuộc đời mình để làm
nên thanh xuân của Đất Nước: “Họ đã sống và chết/ giản dị và bình tâm/ Không ai nhớ mặt đặt
tên/ Nhưng họ đã làm nên đất nước”.
=> "Tây Tiến" tài hoa nhưng không mất lái trên đường ray thơ kháng chiến.
- Hai câu thơ cuối vẫn tiếp tục nói đến cái chết trong âm hưởng sử thi hào hùng ấy:
+ Sự thật bi thảm là những người lính Tây Tiến hi sinh trên đường hành quân không có đến một
manh chiếu để khâm liệm. Đây là sự khó khăn, gian khổ, thiếu thốn về vật chất ta vẫn thường gặp
trong thơ ca giai đoạn đầu của kháng chiến: "Ở đây không gỗ ván/ Vùi anh trong tấm chăn"
("Viếng bạn" – 1948). Thế nhưng, xuất phát từ tình yêu đồng đội, hồn thơ hào hoa của Quang
Dũng đã tìm được hình ảnh đẹp để "sang trọng hoá" cái chết. "Áo bào" vốn là những chiến bào của
các vua chúa, tướng lĩnh thưở xưa. Hình ảnh ấy không chỉ làm mờ đi thực tế khó khăn, thiếu thốn
của chiến trường mà còn tạo lên không khí cổ kính, trang nghiêm cho sự hi sinh của người lính
TT. Nó cũng gợi được hào khí của những tráng chí thời xưa “sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da
ngựa bọc thây”. Theo Quang Dũng đây là cách nói để "an ủi linh hồn người lính"
+ Biện pháp nghệ thuật nói giảm, nói tránh: "anh về đất" không chỉ diễn tả được sự hi sinh của
những người lính mà còn thể hiện được sự trân trọng, yêu thương của nhà thơ đối với người ở lại.
Người lính ngã xuống cũng là trở về với đất mẹ, trở về trong lòng Tổ quốc yêu thương, hoà linh
hồn vào hồn thiêng sông núi, để hóa thân làm nên dáng hình của xứ sở, để trường tồn, bất tử cùng
núi sông. Đến đây ta chợt nhớ đến những vần thơ đầy xúc động của nhà thơ Nguyên Khoa Điềm:
Ôi đất nước bốn ngàn năm đi đâu
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
Vâng! Máu xương của họ đã gửi về đất mẹ làm cho “lá cờ cách mạng thêm đỏ thắm”, làm cho tinh
thần VN thêm bất khuất kiêu hùng. Chính những người anh hùng ấy đã làm nên lịch sử, làm nên
tượng đài VN bất tử. Thế cho nên, chúng ta hôm nay càng phải ghi nhớ, khắc sâu lời dặn dò của
thê hệ cha ông:
“ Em ơi em
ĐN là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên ĐN muôn đời”
( Đât Nước- Nguyễn Khoa Điềm)
- Kết thúc đoạn thơ là khúc hát bi tráng của dòng sông lịch sử “ Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Sông Mã là chứng nhân lịch sử chứng kiến bao vui buồn được mất trên bước đường hành quân của
những chiến binh TT. Dòng sông oai hùng qua biện pháp nhân hóa đã trở thành một sinh thể biết
đau đớn đang “gầm” lên khúc độc hành tiễn đưa người lính trở về với đất mẹ thiêng liêng. Trong
âm vang hào hùng, dữ dội của thiên nhiên, sự hi sinh của người lính không hề bi lụy mà ngược lại
thấm đấm chất anh hùng ca của thời đại HCM.
=> Quang Dũng đã viết về sự hi sinh của những người lính rất đỗi hùng tráng mà không hề giả dối.
3. Đánh giá chung
- Nghệ thuật: kiến thức cơ bản.
- Ý nghĩa: Với tám câu thơ mang cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng QD đã khắc họa thành
công hình tượng người lính TT với đầy đủ các phương diện, từ diện mạo, tâm hồn, lý tưởng, khát
vọng và cả sự hi sinh cao đẹp. Ở họ tất cả đều phi thường, đáng trân trọng, khâm phục. Ẩn đằng
sau bức tượng đài người lính TT ta bắt gặp 1 tấm lòng trân trọng, yêu mến vô bờ với đồng đội và
tha thiết với non sông đất nước của QD.
Mẫu: Đoạn thơ số ba trong bài "Tây Tiến của Quang Dũng đã xây dựng được bức tượng đài bi
tráng về người lính. Đoạn thơ đã góp phần làm phong phú thêm vẻ đẹp của hình tượng người lính
trong thơ ca kháng chiến chống Pháp. Cuối cùng, xin trích đoạn thơ sau của tác giả Giang Nam
thay cho lời kết:
TT biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông

You might also like