Professional Documents
Culture Documents
MT Minh Chau Au
MT Minh Chau Au
Số trang: 344
Type
Cao_xinh: 1
trangilysea: 2
quynhdao90: 3
Chi Lon Ton (iluvxiah): 4 (hết)
Beta: Mai Thanh
Châu Âu.
Rome, ngày…
“Forteen[4]”
Vừa nóng vừa mệt vừa đói, tôi bắt đầu tin
nước Ý toàn mafia thì một ông già đầu hói
bụng phệ trông giống hệt Frankie ở Bố Già
tập hai đủng đỉnh đi qua. Trong tình trạng chết
đuối vớ được cọc, tôi lễ phép hỏi Don
Frankie bằng tiếng Anh liệu ông có biết cái
“hotel” này ở đâu không. Don Frankie nhìn
địa chỉ rồi nói với tôi bằng tiếng Ý là tôi đến
đúng “hotel” rồi. Tôi đáp lại bằng tiếng Anh
rằng tôi chẳng thấy có biểu hiện “hotel” gì cả
(chỉ có mỗi từ này là hai bên đều hiểu).
Don Frankie đeo kính lên nhìn các chữ trên
tấm biển đồng rồi thản nhiên bấm lần lượt tất
cả các chuông cửa từ trên xuống dưới, mỗi
lần bấm lại nhún vai nói ra một tràng tiếng Ý
ra ý “Ôi dào, biết làm thế nào được? Việc
phải làm thì làm thôi, cứ bấm cho chúng nó
chết.” Vừa mệt vừa chán nản mà tôi không
nhịn được cười. Nhưng bấm tất cả chuông
cửa mà không có ai trả lời, Don Frankie lắc
đầu ra ý rất tiếc ông không thể giúp gì thêm.
[6] Basilica là nhà thờ kiểu lớn, xây kiểu hoàng cung
La Mã.
Ngày hôm nay, tôi đối mặt lại với câu hỏi
này, nhưng là trước “chị bề trên” trong nhà
dòng của chị Mai. Chiều nay, khi gặp chị
Mai, tôi lại hỏi chị không biết chị đã hỏi “chị
bề trên” cho tôi chưa.
Các chị phá lên cười, rồi giải thích với tôi
qua chị Mai rằng “non non”, sâm banh này
không phải cho các sisters, sâm banh này là
cho “restaurant”. Họ đang chuẩn bị mở một
cửa hàng nấu món ăn Pháp để có thêm thu
nhập cho nhà dòng. Một chị nói gì đó với chị
Mai và chỉ lên nhà trên, ra ý rằng chị bề trên
đang ở trên đó.
Chị cười:
Tôi nói xong thì mới nghĩ ra câu trả lời thực
ra không chính xác.Tôi đang sống ở New
Hampshire chứ không phải Chicago; thực tế
từ mấy năm nay tôi đã không sống ở Chicago
thường xuyên. Nhưng tại sao, khi nghĩ đến
“nhà”, tôi vẫn cứ nghĩ đến Chicago. Có thể là
vì những ngày ở Chicago là khoảng thời gian
chỉ có đọc, lên lớp, viết, và đắm chìm trong
thế giới tri thức và vì thế mà tôi thường trực
có cảm giác “neo đậu”. Hay vì đấy là nơi cuối
cùng mà tôi sống cuộc sống độc thân, trước
khi tôi hiểu ra rằng cái cô đơn có thể có trong
quan hệ với người khác – nhất là với những
người mà mình coi là quan trọng nhất trong
cuộc đời mình - còn thấm thía hơn nhiều trạng
thái một mình?
Berlin, ngày…
Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!
Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!
Xuống sân bay, tôi lấy hành lí, rồi ra quầy
“Information” để lấy bản đồ và hỏi cách đi
tàu điện ngầm về khách sạn ở quận Bốn.
Hướng dẫn tôi là một thanh niên Pháp còn
trẻ, tóc hạt dẻ hơi xoăn, khuôn mặt thanh tú,
nói tiếng anh với cách phát âm Pháp.
“Bienvenue à Paris!”[16]
[16] Chào mừng tới Paris.
“Bonsoir monsieur[18]…”
“Non! Non!”
Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!
Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!
Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!
La Seine!
Paris, ngày…
Fracesca: “Francesca.”
[25] Tên gì? Ruby, còn chị? Francesca. Chị làm gì? Y
tá, còn chị? Sinh viên? À, chị từ đâu tới? Mỹ, chị thì sao?
Milan, chị bao nhiêu tuổi? 30, còn chị? 33.
Francesca: “Me go Montmartre. Where
you go?”
Francesca: “Huh?”
Francesca: “Ah…”
Tôi: “Huh?”
“You no hair[34]?”
Tôi cho Julia xem: tôi chỉ có một cái túi lớn
hơn cái bao kính một chút, đựng một lọ kem
dưỡng ẩm nhỏ, một hộp phấn nền, một hộp
phấn má nhỏ, một thỏi son môi, một cái bút
chì mắt, chấm hết. Julia liên tục “wow, wow”
– tôi không biết chị ngưỡng mộ hay sốc khi
một cô gái có thể chỉ có từng ấy thứ đồ mỹ
phẩm.
Paris, ngày…
[37] Khúc hát mùa thu, hay còn được dịch là Thu ca.
Des violons
De l’automne
D’une lanheur
Monotone[38]
[38] Bài thơ này từng được dịch là Thu ca: “Đàn ai
nức nở. Nhạc thu ngân dài. Điệu buồn buồn mãi. Lòng
tôi ai hoài.” (Theo tham khảo trí nhớ một người bạn,
không tìm được tên dịch giả).
Thế rồi, bất thình lình, câu hỏi sau đây bật
ra rất rành rọt từ phía monsieur, bằng một thứ
tiếng Anh rất chuẩn như đã được tập luyện
nhiều lần:
Paris, ngày…
“Ní hảo.”
“No ní hảo?”
Tôi lại phải quay lại, lắc đầu một lần nữa:
Tôi cười:
“Au revoir.”
Paris, ngày…
Julia thở hắt ra. Lần đầu tiên tôi thấy chị ấy
nổi giận.
Ông chủ hiệu sách rất vui khi biết rằng tôi
đọc The Economist ở Việt Nam. Ông tặng
tôi một cuốn sổ nhỏ có chữ “The Economist”
bên ngoài làm kỷ niệm. Thấy ông vui tính, tôi
lấy cuốn Những người khốn khổ trong túi ra
hỏi xem ông có biết “the Pepienere” với phố
Rue I’Ouest ở đâu không. Ông nói nó ngay
bên đường kỳa cô kỳa, chính là cái hàng cây
cắt phẳng đó, cô nhìn thấy chưa?
Paris, ngày…
Thân ái
Vừa vào qua cửa, tôi lập tức đứng lại nín
thở và từ đó bắt đầu phải rón rén bước. Mỗi
lần cái túi đựng nho và gà quay của tôi lạo
xạo là tôi rúm lại chờ sấm sét giáng xuống
đầu. Hóa ra đây là nhà tu Thánh Gervais
thuộc cộng đoàn Jerusalem; và lúc đó trong
nhà tu đang có buổi cầu kinh theo kiểu ngồi
im (the silent mass). Tất cả các tu sĩ đều mặc
áo thụng dài, nữ thì màu xanh nhạt hoặc
trắng, nam thì màu đen; họ ngồi xếp thành
nhiều hàng, cúi đầu im lặng trước bàn thờ
Chúa. Cả nhà tu không một tiếng động. Chỉ
có những bóng người ngồi im lặng nói chuyện
với Chúa bằng ý nghĩ trong lúc ánh nắng cuối
ngày rọi từng vệt màu lên những bức tường
xám bằng đá cẩm thạch. Thật khó tin là ở
ngay bên ngoài những tấm kính màu và những
trụ tường xám đó, ở phía bên phải là Rue de
Rivoli với một cái chợ trời đang náo nhiệt
người mua bán và bên trái là con đường chạy
dọc sông Seine lúc nào cũng đầy xe.
Buổi cầu kinh trong nhà tu Thánh Gervais
thuộc cộng đoàn Jerusalem, đối diện
khách sạn tôi ở
[48] Một trường học nổi tiếng, chuyên đào tạo sinh
viên để chuẩn bị vào hệ thống đại học lớn (Grandes
Ecoles) của Pháp.
Paris, ngày…
“Vâng.”
Thế rồi, những hạt mưa bắt đầu lác đác rơi
xuống mặt tôi. Lúc này đã là 5:45: Chỉ còn 15
phút nữa là tháp sẽ lên đèn. Xung quan tôi,
những ông bố bà mẹ trẻ dẫn con chạy vào trú
mưa dưới những tán cây dẻ dọc hai bên bãi
cỏ. Mấy đôi chụp ảnh cưới cũng thu dọn máy
ảnh, áo váy và đạo cụ để chạy mưa. Chú rể
nâng váy cho cô dâu chạy ré vào vì mưa đột
ngột nặng hạt. Sau hai phút, cả một bãi cỏ lớn
bằng một sân vận động chỉ còn lại tôi và mấy
cậu trẻ chơi ném đĩa.
Paris, ngày…
[49] Sau này tôi mới biết hiện tượng này được gọi là
“cúm Paris”, do một loại virus đặc biệt ở Paris gây ra,
và hầu như khách du lịch nào tới Paris cũng có thể mắc.
Paris, ngày…
“Có.”
“Tubu.”
“California.”
“Sao thế?”
“Mười hôm.”
Giờ thì tôi ngồi đây, đối diện với hai tòa
tháp và tôi lại cảm thấy như chúng chỉ đứng
đó cho mình tôi. Mặt trời vừa ló ra thắp sáng
thành phố và làm những cửa sổ kính màu long
lanh. Người người đi lại tấp nập trên phố, hầu
hết là các đôi tình nhân, cả già lẫn trẻ… và,
phải rồi, tôi nữa, tôi cũng có một tình nhân,
tôi và Paris, chúng tôi là một đôi, chúng tôi
đang có một cuộc hẹn hò bí mật và c’est si
bon[56].
[56] C’est si bon (Điều đó thật tốt) là một bài hát jazz
rất nổi tiếng có xuất xứ từ Pháp.
Venice, ngày…
Venice, ngày…
Tôi cố hít thở đều, hít vào, thở ra, hít vào,
thở ra… tôi tập trung theo dõi hơi thở của
mình, nào bắt đầu đi vào từ mũi, qua trước
ngực, xuống đan điền, một… hai… ba… đi
lại lên ngực, qua mũi…
aaaaaa
ummmm
aaaaaa
ummmmm
hít vào
thở ra
hít vào
thở ra
aaaaaaaa
ummmmmmmmm…
nhưng mà giời ơiiiiiiiiiiiiiiiii, tổ sư bố nó chứ,
con lợn cái người Úc cứ tiếp tục đi ra đi vào
sập cửa ầm ầm như đóng ván quan tài bố nó.
Tôi không sao thở được. Tổ sư bố mày, đồ
con lợn, đồ lợn sề lắm lông, đồ óc bã đậu, đồ
shithead, đồ asshole, you bitch[62], đồ trời
chu đất diệt kia. Giời đất ơiiiiiiiii, tôi phát điên
lên mất. Đầu tôi như sắp vỡ ra; máu dồn lên
mặt nóng ran và thái dương thì giật như sắp
đứt mạch máu. Giời ơi là giờiiiiiiii, tổ sư bố
mày, cả lò nhà mày, họ hàng, hang hốc cụ kỵ
nhà mày…
“Fuck youuuuuuu!”
Ahhhhhhhhhhhhhhhh!
Venice, ngày…
8:15 sáng: Tôi đang ở quảng trường Thánh
Marco, lần thứ ba. Vào lúc này, trên cả
quảng trường thênh thang, chỉ có ba người
khách du lich Hàn Quốc cũng dậy sớm giống
tôi để xem Venice thức dậy cùng mặt trời. Có
mấy ông bà già có lẽ không ngủ được nên
dậy sớm ngồi trầm mặc như những pho tượng
đá trên một chiếc ghế đá gần nhà thờ và hai
cô gái da trắng còn trẻ đang ngồi vẽ bên giá
vẽ ở mép nước. Ngoài ra, tất cả những người
đang đi lại quanh tôi đều là người Venice đi
làm và cũng chỉ có vài người. Không có các
đám đông huyên náo quanh những con bồ
câu, mà ngay cả lũ bồ câu lúc này cũng đan
nép vào nhau, ngủ đúng trên một chân và
trông còn thảm thương hơn ngày hôm qua vì
lông của chúng đang bị gió tốc lên.
Florence, ngày…
Florence, ngày…
“Ai cơ?”
“Bravo!”
“Haha”
Flornce, ngày…
“#^^*$^*#%*%$*$%*$%*%$.”
Ý tôi muốn nói tới cái đầu tỉa tròn kiểu như
đầu của nhóm Beatles thời những năm 1960.
Cái đầu đó trông đơn giản nhưng thực ra rất
khó cắt cho tóc người châu Á. Lúc ở
Chicago, tôi đã thử rất nhiều nơi, và cuối
cùng chỉ có mỗi Steve, anh chàng đồng tính ở
tiệm cắt tóc trên phố 57 có thể cắt được cái
đầu đó. Steve bảo “đơn giản mới là khó, chứ
mấy cái đầu phức tạp thực ra dễ làm, vì đầu
đơn giản thì nếu cắt hỏng là lộ ngay”.
Tôi không biết làm thế nào để giải thích
được cho cô gái cắt tóc về cái “đầu khoai
tây” theo ý tôi. Cuối cùng tôi nói:
Và thêm:
Chị bán hàng cẩn thận bọc cái túi cho tôi
trong một cái túi giấy vàng nhạt, rồi bỏ vào
trong một cái túi xách khác bằng vải. Rồi chị
còn nói chuyện với tôi về các loại da, về việc
làm túi, về việc thiết kế túi và sản xuất túi ở
Florence. Chị ấy chỉ cho tôi thấy cần phân
biệt các loại da như thế nào để biết đâu là túi
thật…
Cảm ơn Florence!
Florence, ngày…
“Ôi khônggggggggggg…”
“Ý anh là gì ?”
Khi tôi vào tới nơi, mọi người đang tản mát
ở ngoài vườn và đều hỏi tôi có ổn không vì
lúc nào tôi cũng tụt lại phía sau. Tôi nói tôi ổn
cả mặc dù có hơi mệt. Hóa ra, tôi không phải
người duy nhất thấy mệt. Chắc chắn là
chuyến đạp xe này không phải một chuyến
đạp xe cưỡi ngựa xem hoa chơi chơi; Andy
và Keith đảm bảo rằng mỗi người tham dự
đều phải đạp cật lực mới đến đích và có lẽ vì
thế mà họ sẽ thấy vui mừng hơn khi hoàn
thành được chuyển đi.
- Mặt nạ Venice.
Tạm biệt.