Professional Documents
Culture Documents
Lun Van BT Can XNG Thong Tin Tren TH
Lun Van BT Can XNG Thong Tin Tren TH
CK Chứng khoán
T
ên Trang
(1)
Auronen,L. ( 2003 ) “ Asymmetric Information: Theory and Applications”, tr.7.
G.A.Akerlof giả định rằng: xác suất để mua xe tốt lá q thì xác suất mua xe xấu là(
1-q) ( thị trường được phân loại xe tốt và xấu ). Khi đó, mức giá trung bình P được giả
định mua xe là : P = P1q + P2(1-q)
Trong đó: P1 là giá xe tốt, P2 là giá xe xấu.
Ông lại cho rằng người mua xe tiềm năng xem mức giá của các loại xe tốt hay xấu
là ngang nhau, vì họ không thể phân biệt đặc tính của xe nên họ chỉ có thể mua xe
( bất kể tốt hay xấu ) tại mức giá trung bình trên thị trường. Thực tế, đối với xe tốt thì giá
cao hơn mức giá trung bình. Vì thế, tại mức giá trung bình đó chỉ có những xe xấu được
giao dịch. Khi đó, xác suất để mua xe tốt bây giờ là q’ < q. Như vậy, người mua thường
là mua được những xe xấu, việc lựa chọn xe để mua trong trường hợp này gọi là sự lựa
chọn bất lợi vì họ có thể trả giá cao hơn đối với xe xấu và người bán lại không thể bán
được do giá bán thấp hơn chất lượng xe tốt.
Theo ông, một phương pháp để giảm bớt tình trạng thông tin bất cân xứng này là
thông qua các tổ chức trung gian trên thị trường. Tổ chức trung gian này có thể giới thiệu
rõ hơn thông tin sản phẩm đến với người mua như bảo lãnh, nhãn mác, thông số kỹ
thuật… Chính điều này sẽ làm cho các bên giao dịch cân bằng hơn về thông tin sản
phẩm, khi đó giao dịch sẽ dễ dàng thực hiện.
Michael Spence ( 1973 ) : Phát tín hiệu.
Tiếp tục phát triển lý thuyết của G.A.Akerlof , Spence đã nghiên cứu trên thị
trường Lao động ( Theo Auronen (2)
). M.Spence xem việc thuê lao động là một quyết
định đầu tư không chắc chắn. Tính không chắc chắn ở đây là việc thuê lao động mà người
chủ không biết được khả năng đóng góp, khả năng tạo ra năng suất của người lao động là
bao nhiêu. Vì thế, việc thuê lao động có thể thuê được lao động có chất lượng hoặc
không.
Một trong những phương cách giúp người chủ thuê được lao động có năng lực đó
là ông chủ có thể xem qua chất lượng bằng cấp, kinh nghiệm,… của người lao động. Đó
được gọi là những tín hiệu được phát ra của người lao động. Như vậy, việc phát tín hiệu
này đã làm giảm thông tin bất cân xứng giữa những người lao động và ông chủ.
Joseph Stiglitz ( 1975 ): Cơ chế sàng lọc.
(2)
Auronen,L. ( 2003 ) “ Asymmetric Information: Theory and Applications”, tr.10
Cơ chế sàng lọc của J.Stilitz cũng là lý thuyết phát triển lý thuyết của M.Spence (
Theo Auronen (3) ). Theo ông, bất cứ hàng hóa nào cũng đều có những đặc tính khác nhau
chẳng hạn về chất lượng, mẫu mã… nên cần phải phân loại chúng. Đối với lao động cũng
có lao động có khả năng, tay nghề cao và lao động có khả năng, tay nghề thấp. Vì vậy,
không thể trả lương theo một mức lương cân bằng. Để khuyến khích người có tay nghề
tạo ra năng suất lao động cao thì cần phải có chế độ đãi ngộ họ để khuyến khích họ. Đối
với người có khả năng thấp, việc cố gắng đạt được một mức năng suất sản xuất cụ thể
nào đó để nhận lương cao sẽ tốn chi phí rất lớn so với người có khả năng cao. Do đó, việc
phân nhóm lao động để trả lương là việc làm cần thiết để khuyến khích những người có
khả năng nâng cao trình độ và mang lại hiệu quả cao cho xã hội.
1.2.2) Khái niệm thông tin bất cân xứng.
Thông tin bất cân xứng là mức độ thông tin không phản ánh kịp thời, chính xác,
đầy đủ về thị trường và diễn biến của nó. Theo nghĩa hẹp nó hàm ý có sự khác biệt đáng
kể về khối lượng và chất lượng thông tin đã được tích lũy đến thời điểm xác định giữa
các đối tượng liên quan (các đối tượng cùng giải quyết một vấn đề, cùng tham gia một thị
trường). Nghĩa là, một bên giao dịch có các thông tin liên quan trong khi bên kia không
có hoặc không có đầy đủ.
Thông tin bất cân xứng xảy ra có thể do nguồn thông tin khác nhau, thời điểm
nhận tin khác nhau và trình độ nhận thức, ứng xử với thông tin khác nhau. Nguyên nhân
là do những hạn chế của thị trường làm cho tốc độ truyền tin chậm, khả năng tiếp nhận và
xử lý thông tin kém. Ngược lại, thông tin bất cân xứng là nguyên nhân dẫn đến thị trường
kém hiệu quả.
Thông tin bất cân xứng vừa là khách quan vừa là chủ quan. Tính khách quan là do
cấp độ hiệu quả của thị trường gây ra những hạn chế về truyền tải và cập nhật thông tin
vào trong giá cả. Tính chủ quan là do sự thiếu nỗ lực cũng như chưa quan tâm đầu tư tìm
kiếm khai thác thông tin của các đối tượng là cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp tham gia thị
trường.
1.2.3) Các hình thức của thông tin bất cân xứng.
(3)
Auronen,L. ( 2003 ) “ Asymmetric Information: Theory and Applications”, tr.13
Thông tin bất cân xứng trong thị trường tài chính có thể nhìn nhận dưới ba hình
thức: lựa chọn đối nghịch, tâm lý ỷ lại và chi phí giám sát.
Lựa chọn đối nghịch
“ Lựa chọn đối nghịch là kết quả của thông tin bị che đậy. Nó xảy ra trước khi
thực hiện giao dịch hay nói cách khác trước khi ký hợp đồng”. (4)
. Khi đó, lựa chọn của
một bên sẽ phải dựa trên thông tin bất cân xứng. Hệ quả là lợi ích đạt được của bên có
thông tin cao hơn lợi ích kỳ vọng của thị trường và chi phí kỳ vọng của bên bất lợi thông
tin cao hơn chi phí kỳ vọng thị trường.
Để hiểu rõ ảnh hưởng của sự lựa chọn bất lợi mà cụ thể là ảnh hưởng đến mối
quan hệ giữa chủ thể cho vay – chủ thể đi vay trong thị trường tín dụng, ta xét trường hợp
sau. Giả sử có hai dự án A và B với số vốn đầu tư ban đầu ( I ) như nhau và đều được tài
trợ bởi khoản nợ vay ( L ). Cả hai dự án đều có cùng giá trị mong đợi ( EV ). Dòng tiền
của hai dự án trong trường thành công lần lượt là CFa,s, CFb,s với xác suất tương ứng là
αa,s , αb,s và trong trường hợp thất bại là CFa,f , CFb,f với xác suất tương ứng là αa,f , αb,f.
Ta có:
EVa = EV = αa,sCFa,s + αa,fCFa,f ( CFa,f = CKb,f = 0 )
EVb = EV = αb,sCFb,s + αb,fCFb,f
Với: CFb,s > CFa,s . Từ đó suy ra αa,s > αb,s.
Trong trường hợp không có tồn tại thông tin bất cân xứng, bên cho vay (ngân
hàng) sẽ tính lãi suất khác nhau cho mỗi dự án. Dự án nào có rủi ro cao hơn ( theo đánh
giá của ngân hàng ) phải chịu lãi suất cao hơn. Trong ví dụ này, rL,b > rL,a.
1 r 1r
1 + rL,a = α a, s 1 + rL,b = αb, s
Lợi nhuận mong đợi của hai dự án :
Eπ a = EV – α a,s ( 1 + r L,a ) L = EV – ( 1 + r ) L
Eπ b = EV – α b,s ( 1 + r L,b ) L = EV – ( 1 + r ) L
Khả năng thanh toán cho bên cho vay ( ngân hàng )
α a,s( 1 + r L,a ) = α a,s 1 r = α b,s ( 1 + r L,b ) = α b,s 1 r =1+r
α a, s αb, s
Nguyễn Trọng Hoài ( 2006 ) “ Bất cân xứng về thông tin trên các thị trường tài chính”, Bài giảng cho
(4)
s
EVa
a,s
C D EVb
b,s
E F G
Theo công thức trên, ta thấy nếu ( 1 + rL ) thỏa mãn ( 1 ), bên cho vay sẽ nhận
được tỷ suất sinh lợi mong đợi r do bên đi vay vẫn thực hiện dự án H. Vấn đề thông tin
bất cân xứng sẽ không tồn tại trong trường hợp này. Ngược lại, khi ( 1 + rL ) vượt quá
giới hạn trên bên đi vay sẽ chuyển sang thực hiện dự án L để hưởng được mức lãi suất
vay thấp hơn. Ta có thể quan sát được lợi nhuận mong đợi của bên đi vay thay đổi theo
lãi suất cho vay như thế nào qua đồ thị sau:
Đồ thị thể hiện sự lựa chọn các dự án khi tồn tại “ tâm lý ỷ lại”
E
EVh
EVl
El
Eh
(1+rL)max (1+rL)
Như vậy, ta thấy rL càng cao thì Eπ h càng thấp hơn Eπ l, bên đi vay càng bị thúc
đẩy thực hiện dự án L ( dự án có rủi ro cao ) dẫn đến tình trạng thông tin bất cân xứng
ngày càng trầm trọng. Do đó, vấn đề đặt ra là bên cho vay phải giảm lãi suất đến mức
thấp nhất có thể để kiểm soát được hành vi của người đi vay.
Đó là vấn đề tâm lý ỷ lại trên thị trường tín dụng. Hoạt động giao dịch cổ phiếu
trên thị trường chứng khoán cũng chịu ảnh hưởng của vấn đề này. Tâm lý ỷ lại phát sinh
nếu những người đại diện điều hành công ty không sử dụng nguồn vốn hiệu quả và đúng
mục đích. Sử dụng nguồn vốn để gia tăng lợi ích và quyền lực của cá nhân hơn là giá trị
của công ty. Tâm lý ỷ lại này sẽ gia tăng nếu như tỷ lệ sở hữu cổ phần của những người
đại diện này thấp. Vì nếu hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả, thì trách nhiệm
của họ không cao và sự thiệt hại trên phần vốn góp là rất thấp. Chính vì thế, hiện nay tiêu
chí đầu tiên để những cổ đông muốn là thành viên của Hội đồng quản trị thì họ phải có
một tỷ lệ vốn góp nhất định nào đó.
Chi phí giám sát.
Theo lý thuyết về thông tin bất cân xứng, chi phí giám sát có liên quan chặt chẽ
đến hành động không công khai của người đi vay. Do có lợi thế biết rõ thông tin về hoạt
động của mình, trong một số trường hợp, người đi vay có thể công bố thông tin không
đúng sự thật nhằm mục đích đem lại lợi ích cho bản thân, gây thiệt hại cho người cho
vay. Chính vì vậy, người cho vay buộc phải có cơ chế giám sát người đi vay. Và việc
giám sát này làm phát sinh một khoản chi phí nhất định được gọi là chi phí giám sát. Đó
là chi phí thuê mướn các kiểm toán viên thực hiện việc giám sát này thay cho người cho
vay. Để hiểu rõ hơn, ta xem xét trường hợp sau đây:
Giả sử có 3 dòng tiền CF1, CF2, CF3 với xác suất xảy ra tương ứng là α1,α2 ,α3 ( α1
+ α2 + α3 = 1 ) và CF3 > CF2 > ( 1 + r )L > CF1
Ta thấy người cho vay có thể biết được các dòng tiền và xác suất xảy ra thông qua
các thông báo của người đi vay nhưng không xác định được tính trung thực trong các
thông báo đó. Người đi vay có thể công bố thông tin là CF1 trong khi dòng tiền là CF2 và
CF3. Chính vì vậy, khả năng mà người cho vay có thể nắm được thông tin về thu nhập
của người đi vay bất kỳ thời gian nào sẽ ngăn chặn được tình trạng này. Đồng thời, việc
công bố dòng tiền CF2 khi giá trị thực sự là CF3 là không liên quan đến người cho vay
khi họ nhận được đầy đủ thông tin về khả năng chi trả nợ vay. Vì lẽ đó, người cho vay sẽ
giám sát thường xuyên việc người đi vay công bố dòng tiền là CF1 với xác suất xảy ra là
α1 và chi phí kiểm soát sẽ là α1c. Khi đó, thu nhập thuần của người cho vay sẽ giảm
xuống do phải gánh chịu chi phí giám sát, đồng thời người đi vay cũng gặp bất lợi vì chi
phí nợ vay sẽ gia tăng khi chi phí giám sát ước tính là một thành phần của lãi suất cho
vay. Cụ thể, lãi suất cho vay sẽ được xác định theo công thức sau:
( 1 + r )L = ( α2 + α3 )( 1 + rL )L + α1( CF1 – c )
( 1 + rL ) = (1 r)L α1(CF 1 c)
(α2 α3)L
Sự gia tăng chi phí nợ kéo theo sự sụt giảm trong lợi nhuận ước tính của người đi
vay. Điều đáng chú ý là cả người đi vay không trung thực lẫn trung thực đều phải gánh
chịu chi phí nợ tăng này. Ta sẽ thấy rõ điều này qua bảng và đồ thị sau đây:
Bảng lợi nhuận mong đợi.
Không có chi phí giám sát Có chi phí giám sát
Người đi vay Người đi vay không Người đi vay Người đi vay không
trung thực trung thực trung thực trung thực
Eπ A+B+E+F A+B+E+F+C A+E 0
+G
Đồ thị phân phối giá trị mong đợi khi có chi phí kiểm soát.
3CF3
2CF2
A
E
(l+rL)MC
B F
1CF1
(l+rL)N
C G
D H I
(5)
Theo Lê Văn Tề ( 2005 ) “ Thị trường chứng khoán tại Việt Nam”, NXB thống kê, Hà Nội.
Các doanh nghiệp: tham gia thị trường với tư cách là chủ thể tạo ra hàng hoá để
cung cấp cho thị trường. Các doanh nghiệp này cũng có thể gọi là các công ty niêm yết
hay nhà phát hành theo cách gọi thông thường. Ngoài chức năng chính tạo ra hàng hóa
( cổ phiếu ) để huy động vốn, các doanh nghiệp cũng có thể mua đi bán lại các chứng
khoán do các công ty khác phát hành.
Nhà đầu tư riêng lẻ và các tổ chức tài chính: hai thành phần này có thể gọi
chung là nhà đầu tư. Trong đó, nhà đầu tư riêng lẻ là những người có vốn nhàn rỗi tạm
thời, tham gia mua bán trên thị trường với mục đích kiếm lời. Các tổ chức tài chính bao
gồm công ty đầu tư quản lý quỹ, công ty bảo hiểm, công ty tài chính, ngân hàng, các
công ty chứng khoán… tham gia thị trường với tư cách người mua, người bán. Thông
thường các tổ chức tài chính có thời gian đầu tư và khối lượng giao dịch trên thị trường
dài và lớn hơn nhà đầu tư riêng lẻ. Tuy nhiên, số lượng các tổ chức trên thị trường thì rất
ít so với số lượng nhà đầu tư riêng lẻ.
Nhà môi giới kinh doanh chứng khoán: có thể là tổ chức hoặc cá nhân. Đa phần
các hoạt động môi giới hiện nay là các công ty chứng khoán. Ngoài nghiệp vụ môi giớ,
các công ty này có thể thực hiện nhiều chức năng khác như tự doanh, quản lý quỹ đầu tư,
bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán.
Người tổ chức thị trường: chiếm vai trò chủ yếu của người tổ chức thị trường là
các TTGDCK hay SGDCK. Các TTGDCK hay SGDCK cung cấp địa điểm và phương
tiện để thực hiện việc mua bán chứng khoán cho các chủ thể tham gia giao dịch, điều
hành thị trường để các giao dịch diễn ra công bằng và minh bạch. Ngoài các Trung tâm
và Sở giao dịch, Trung tâm lưu ký, công ty dịch vụ máy tính chứng khoán… cũng có
chức năng không kém phần quan trọng làm cho thị trường hoạt động hiệu quả.
Nhà nước: góp phần đảm bảo cho thị trường hoạt động theo đúng các quy định
của pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của người đầu tư, đảm bảo thị trường hoạt
động bền vững và hiệu quả. Ngoài ra, nhà nước cũng có thể tham gia thị trường với tư
cách là nhà phát hành. Đó là thông qua Chính phủ hoặc các chính quyền địa phương phát
hành các trái phiếu nhằm huy động vốn trên TTCK để tài trợ cho các dự án công. Nhà
nước cũng có thể bán hoặc mua các chứng khoán của các doanh nghiệp nhằm kiểm soát
quyền chi phối các doanh nghiệp theo mục đích.
2.2) Tác động của bất cân xứng thông tin.
Như đã phân tích, thông tin là tải sản có giá trị sử dụng, nếu được khai thác tốt sẽ
mang lại hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội cao.Ngược lại, sự bất cân xứng về thông tin
khiến cho giá cả không phản ánh đúng giá trị thực của hàng hóa dẫn đến thị trường kém
hiệu quả, làm nảy sinh nhiều phản ứng tiêu cực ảnh hưởng đến tất cả chủ thể tham gia
trên thị trường, gây thất bại thị trường đồng thời kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
2.2.1) Tác động đến doanh nghiệp.
Tác động đến các quyết định tài chính của các công ty cổ phần.
Mục tiêu của công ty cổ phần là tối đa hóa giá trị của cổ đông thông qua tối đa
hóa giá trị của doanh nghiệp. Muốn như vậy, công ty phải triệt để khai thác các cơ hội
đầu tư có hiệu quả, đồng thời có một chính sách tài trợ vốn tối ưu bên cạnh một chính
sách cổ tức thỏa đáng. Tuy nhiên, việc kết hợp ba quyết định này sao cho đạt được kết
quả tốt nhất không phải là đơn giản, nhất là trong thị trường có tình trạng bất cân xứng
thông tin.
a) Tác động đến quyết định đầu tư.
Quyết định đầu tư là việc lựa chọn đầu tư vào các tài sản thực. Đây được xem là
quyết định quan trọng nhất làm gia tăng giá trị doanh nghiệp.
Thông thường, các nhà quản trị thẩm định tính hiệu quả của dự án đầu tư dựa trên
dòng tiền dự tính và rủi ro dự báo thị trường. Mức độ chính xác của các dự báo tùy thuộc
vào thông tin và mức độ phản ánh của thông tin trong thị trường. Thông tin bất cân xứng
tạo nên thị trường không hiệu quả, do đó giá cả không phản ánh đúng giá trị tài sản,
không thể cung cấp các tin tức và dấu hiệu chính xác cho việc ra quyết định đầu tư. Mối
quan hệ rủi ro – tỷ suất sinh lợi tuân theo quy luật thị trường không đáng tin cậy. Có thể
thị trường đánh giá dự án nằm phía trên đường tỷ suất sinh lợi- rủi ro thị trường nghĩa là
chi phí tương đối thấp, làm cho dự án được đầu tư mặc dù thực tế lại có chi phí cao.
Ngược lại, dự án có chi phí thấp có thể bị bỏ qua do thị trường đánh giá nằm phía dưới
đường tỷ suất sinh lợi- rủi ro thị trường. Khi đó, quyết định đầu tư của doanh nghiệp sẽ
hàm chứa rủi ro cao và dễ gây tổn thất tài sản cho doanh nghiệp.
b) Tác động đến quyết định tài trợ.
Quyết định tài trợ là việc lựa chọn nguồn tài trợ cho các quyết định đầu tư. Tập
hợp các nguồn tài trợ tạo thành cấu trúc vốn tối ưu cho doanh nghiệp gồm có vốn cổ phần
thường, cổ phần ưu đãi và nợ. Khi ra quyết định tài trợ, nhà quản trị sẽ xác định một cấu
trúc vốn tối ưu tương ứng giữa rủi ro và tỷ suất sinh lợi đòi hỏi.
Thị trường với thông tin bất cân xứng khiến cho nhà đầu tư đánh giá không đúng
rủi ro nên yêu cầu tỷ suất sinh lợi mong đợi cao hơn. Nhà quản trị ở vào thế bị động phải
chấp nhận nguồn tài trợ nhiều rủi ro đó dẫn đến chi phí tài trợ tăng.
Thông tin bất cân xứng còn tác động đến việc lựa chọn giữa tài trợ nội bộ và tài
trợ bên ngoài, giữa phát hành mới chứng khoán nợ và chứng khoán vốn cổ phần. Điều
này đưa tới một trật tự phân hạng, theo đó đầu tư sẽ được tài trợ trước tiên bằng vốn nội
bộ, chủ yếu là lợi nhuận tái đầu tư rồi đến phát hành chứng khoán nợ và cuối cùng là phát
hành vốn cổ phần mới. Tính linh hoạt trong lựa chọn nguồn tài trợ của doanh nghiệp
giảm.
c) Tác động đến quyết định phân phối.
Quyết định phân phối là việc xác định chính sách cổ tức của công ty mà cụ thể là
xác định tỷ lệ chi trả cổ tức sao cho giá trị đạt được từ việc chi trả cổ tức phải tương xứng
với chi phí cơ hội của việc mất đi lợi nhuận giữ lại – được xem là một phương tiện tài trợ
từ vốn chủ sở hữu.
Theo MM, trong thị trường hoàn hảo, chính sách cổ tức không tác động gì đến giá
trị của doanh nghiệp. Tác động của một chính sách cổ tức nào đó có thể được bù trừ
chính xác bằng các hình thức tài trợ khác như việc bán cổ phần thường chẳng hạn.
Tuy nhiên, thực tế quyết định phân phối ảnh hưởng đáng kể đến doanh nghiệp.
Một sự gia tăng cổ tức sẽ là dấu hiệu truyền đạt đến thị trường các tin tốt về triển vọng
phát triển của công ty. Hơn nữa, nếu sự gia tăng này được thị trường nhìn nhận dưới góc
độ lâu dài, giá trị thị trường sẽ cao, điều này có nghĩa chi phí vốn cổ phần của doanh
nghiệp sẽ thấp. Tuy nhiên, việc chi trả cổ tức cao này không phải lúc nào cũng đem lại
thuận lợi cho doanh nghiệp. Không chỉ là sự hiện diện của chi phí thuế mà còn do các cổ
đông nghi ngờ tính chính xác của các thông báo này, nhất là khi trong thị trường tồn tại
tình trạng bất cân xứng thông tin. Bởi lẽ, theo các nhà đầu tư, việc chi trả cổ tức giúp các
nhà quản lý thực hiện các mục tiêu cá nhân, vấn đề đặc biệt liên quan đến công ty có lợi
nhuận cao và khan hiếm các cơ hội đầu tư. Bằng cách dùng dòng tiền ròng tự do để chi
trả cổ tức, quyền lực của nhà quản lý không được đặt dưới sự kiểm soát cục bộ. Do đó,
các nhà đầu tư tiến hành đầu tư vào các quỹ bên ngoài công ty mà đạt được lợi nhuận cao
hơn so với việc tái đầu tư các dự án của công ty mà đem lại lợi ít cá nhân cho các nhà
quản lý nhưng thấp cho các cổ đông. Cuối cùng, việc huy động vốn của doanh nghiệp
gặp khó khăn.
Ngoài ra, khi thực hiện việc chi trả cổ tức cao, để tài trợ nội bộ, doanh nghiệp
cũng cần tốn chi phí cao trong hệ thống tài chính khi phải đối đầu với vấn đề bất cân
xứng thông tin này và các chi phí môi giới.
Làm tăng chi phí phòng ngừa rủi ro.
Qua phân tích trên có thể thấy được bất cân xứng thông tin là một trong những
nguyên nhân làm gia tăng đáng kể các rủi ro cho doanh nghiệp khi ra các quyết định tài
chính, cụ thể liên quan đến rủi ro đầu tư tài chính, rủi ro chi phí vốn, rủi ro tỷ giá hối
đoái, rủi ro lãi suất và rủi ro pháp lý. Các rủi ro này đã ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp
đến các quyết định tài chính của doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ hoạt động của doanh
nghiệp nói chung. Để kiểm soát tốt hơn các rủi ro này, đòi hỏi doanh nghiệp phải xây
dựng chương trình quản trị rủi ro. Điều này đồng nghĩa chi phí phòng ngừa rủi ro gia tăng
Làm tăng chi phí đại diện của doanh nghiệp
Vấn đề thông tin bất cân xứng được tạo ra bởi sự phân chia quyền sở hữu và
quyền quản lý. Người quản lý được thuê để quản lý công ty thay cho các cổ đông. Sự ủy
quyền này thể hiển khía cạnh tích cực là việc điều hành công ty hàng ngày do những
người có chuyên môn đảm trách. Điều này dẫn đến phần lớn quyền lực thuộc về bộ phận
quản lý (cụ thể quyền kiểm soát nguồn vốn cũng như các quyết định của công ty )
Tuy nhiên, vượt ra ngoài giới hạn quyền lực trong công ty, các nhà quản lý chỉ là
người làm thuê cho công ty. Nhà quản lý phải chịu trách nhiệm đối với các kết quả xấu
nhưng lại không nhận được tất cả các thành quả đạt được vì không có sở hữu 100% vốn
công ty. Vì vậy, mục tiêu cá nhân của người quản lý luôn luôn không ngang bằng với các
cổ đông. Tại sao các cổ đông lại không thể kiểm soát người quản lý của công ty họ một
cách thích đáng. Thứ nhất, sự nỗ lực của nhân viên không thế quan sát hết, thứ hai, các cổ
đông không có kiến thức và thời gian để kiểm soát chặt chẽ hơn các quyết định được thực
hiện bởi nhà quản lý. Hơn nữa, với sự tồn tại của vấn đề thông tin bất cân xứng, sự không
chắc chắn xung quanh các dự án cho phép chúng ta khiển trách các kết quả xấu là do
thiếu may mắn thay vì là do việc quản lý sơ suất, không hiệu quả. Các nhân tố chính yếu
này đã tạo nên vấn đề chi phí đại diện giữa các cổ đông và nhà quản lý.
Chúng ta sẽ phân tích hai hành động quản lý mà ảnh hưởng đến giá trị của công
ty. Trước hết, giải quyết việc lợi nhuận thấp hơn các nỗ lực quản lý và thứ hai là sự ưa
thích các dự án có năng suất thấp từ quan điểm nhìn nhận của các cổ đông nhưng tỷ suất
sinh lợi có giá trị cao từ vị trí của nhà quản lý.
Với mức lương cố định, độc lập với hoạt động của công ty, chiến lược tối thiểu
hoá nỗ lực làm việc có thể là sự lựa chọn hợp lý từ quan điểm của nhà quản lý. Bởi lẽ lợi
ích của người quản lý không thay đổi khi lợi nhuận của công ty gia tăng. Ngược lại, nếu
người quản lý sở hữu cổ phần của công ty và không có tiền lương cố định, thu nhập của
họ sẽ thay đổi theo thu nhập của công ty.
Chúng ta sẽ xem xét đến trường hợp người quản lý chọn dự án có năng suất thấp.
Theo đúng như lời chỉ dẫn của các cổ đông, chính sách cổ tức của nhà quản lý bị áp đặt
bởi một khái niệm đơn giản: chọn tất cả dự án đem đến giá trị ròng dương. Người quản lý
sẽ bị lôi cuốn không tuân theo quy tắc này bằng cách dùng nguồn vốn vào việc gia tăng
lợi ích cá nhân hoặc quyền lực cá nhân bên trong công ty, cụ thể tất cả các khoản đầu tư
đều vượt khỏi nghĩa vụ của người quản lý và sự điều hành trực tiếp. Điều này bao gồm
các đặc quyền cá nhân, việc mua sắm các cao ốc văn phòng mới và sang trọng cũng như
việc thu mua các công ty mới. Các khoản đầu tư này làm gia tăng quyền lực của nhà quản
lý nhưng không làm gia tăng hiệu quả tiềm năng của công ty.
Như vậy, thông tin bất cân xứng làm nảy sinh mâu thuẫn giữa cổ đông và người
quản lý, tạo nên vấn đề người chủ - người đại diện, kết quả làm tăng chi phí đại diện.
Thông tin bất cân xứng đã gây tạo điều kiện cho các nhà quản lý trục lợi cá nhân, tạo điều
kiện cho việc thao túng giá. Đó là việc tung tin đồn có lợi cho công ty hoặc thổi phồng lợi
nhuận của công ty, là việc liên kết của một số cổ đông trong công ty với nhà đầu cơ làm
cho giá cổ phiếu công ty tăng cao. Nhà đầu tư do không có đầy đủ thông tin để nhận biết
điều này nên ồ ạt mua vào, đến khi biết được bán cổ phiếu ra thì giá đã giảm.
Gây khó khăn trong việc huy động vốn của doanh nghiệp.
Trong thị trường với thông tin bất cân xứng, nhiều rủi ro xuất hiện làm e ngại nhà
đầu tư do mọi khoản đầu tư đều trở nên mạo hiểm hơn, vì thế ảnh hưởng xấu đến doanh
nghiệp trong việc huy động vốn. Các nhà đầu tư thường đòi hỏi tỷ suất sinh lợi cao hơn
để bù đắp rủi ro, dẫn đến làm tăng chi phí huy động vốn của doanh nghiệp.
Ngoài ra, nhà đầu tư cho rằng doanh nghiệp nắm rõ thông tin hơn họ, các giám
đốc tài chính vốn khôn ngoan không bán rẻ hay cho không ai bao giờ. Do vậy khi doanh
nghiệp phát hành cổ phần mới, họ thường đánh giá giá trị thực tế của cổ phần thấp hơn
giá doanh nghiệp đưa ra làm cho giá trị huy động của doanh nghiệp giảm sút so với dự
tính ban đầu.
2.2.2) Tác động đến thị trường chứng khoán
Như đã biết, một trong những yêu cầu cơ bản đối với một thị trường tài chính lành
mạnh là thông tin phải luôn luôn minh bạch.
Nhà đầu tư tiếp nhận, phân tích, phán đoán, giao dịch theo thông tin đó và họ tự
chịu trách nhiệm về những nhận định thông tin của mình. Chính vì vậy, một khi hệ thống
thông tin không rõ ràng, minh bạch, các dự báo của nhà đầu tư có thể sẽ trở nên vô nghĩa,
dẫn đến việc họ đưa ra các quyết định thiếu chính xác, từ đó tạo ra lượng cung, lượng cầu
ảo trên thị trường và kết quả là có thể xảy ra tình trạng “ bong bóng chứng khoán”, nguy
cơ đỗ vỡ thị trường cao.
Trong thị trường như vậy, niềm tin của nhà đầu tư về một sân chơi bình đẳng
không còn nữa mà thay vào đó là tâm lý bất an, chán nản. Khi đó, việc nhà đầu tư rút vốn
khỏi thị trường chứng khoán và chuyển nguồn vốn vào các kênh đầu tư khác hoặc ở thị
trường chứng khoán các nước khác là điều tất yếu sẽ xảy ra.
Ngoài ra, với môi trường kinh doanh không công bằng và thiếu minh bạch khó có
thể đủ lực hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài đổ vốn vào kênh chứng khoán. Bởi vì họ không
thể dùng các tính toán và phân tích vượt trội người khác để dành chiến thắng. Mà đây lại
là nguồn vốn khá quan trọng, góp phần đáng kể vào sự phát triển của thị trường chứng
khoán.
2.2.3) Tác động đến nền kinh tế.
Đầu tư là nền tảng cơ bản, quan trọng nhất cho phát triển. Tuy nhiên, khi các tài
sản thực và tài sản tài chính không được định giá đúng do thị trường không hiệu quả, các
nhà đầu tư sẽ không mạnh dạn mua sắm, e ngại đầu tư… và do vậy sẽ không kích thích
nền kinh tế tăng trưởng. Bên cạnh đó, nạn đầu cơ tiêu cực sẽ xảy ra làm lũng đoạn thị
trường, gây bất ổn cho nền kinh tế.
Mặt khác, thông tin không chính xác, không đầy đủ sẽ dẫn đến sự phân bổ nguồn
lực không hiệu quả, gây nguy cơ lãng phí nguồn lực ở những nơi quản trị kém và thiếu
nguồn lực cho nhà quản trị tài ba. Nền kinh tế trở nên ì ạch và bị nhiều sai lệch.
Bên cạnh đó, việc thiếu thông tin làm cho người sản xuất cung cấp quá nhiều một
vài sản phẩm và quá ít những sản phẩm khác, không đáp ứng đúng nhu cầu của người
tiêu dùng. Ở khía cạnh khác, một số người tiêu dùng không mua sản phẩm mặc dù họ
được lợi nếu mua, một số khác lại mua sản phẩm làm cho họ bị thiệt.
3) Bất cân xứng thông tin và thị trường hiệu quả.
3.1) Thế nào là thị trường hiệu quả?
Một thị trường được xem là hiệu quả khi đồng thời hiệu quả trên cả ba mặt: phân
phối, hoạt động và thông tin.
Thị trường hiệu quả về mặt phân phối khi các nguồn lực khan hiếm trong nền
kinh tế được đưa đến nơi sử dụng một cách tốt nhất và hiệu quả nhất.
Thị trường hiệu quả về hoạt động đề cập đến hành vi mua hay bán khối lượng lớn
ảnh hưởng đến giá trong một thời gian hợp lý.
Thị trường hiệu quả về phân bổ thông tin phản ánh giá chứng khoán điều chỉnh
nhanh chóng theo các thông tin mới tiếp nhận được.
Tuy ba mặt cấu thành thị trường hiệu quả này có sự gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau
nhưng để xem xét vấn đề hiệu quả về mặt thông tin, giả thuyết thị trường hiệu quả giả
định rằng thị trường đã hiệu quả về mặt phân phối và hoạt động. Vì vậy, khái niệm thị
trường hiệu quả được phát biểu như sau:
Thị trường hiệu quả là thị trường trong đó giá cả của các chứng khoán đã phản
ánh đầy đủ, tức thời tất cả các thông tin sẵn có trên thị trường.6
Việc giá chứng khoán tăng hay giảm là do phản ứng đối với các thông tin mới.
Mà thông tin mới là thông tin không thể dự đoán được. Do đó, sự thay đổi về giá chứng
khoán do tác động của các thông tin mới cũng không thể dự đoán được. Hay nói cách
khác, giá chứng khoán không theo chu kỳ có thể dự báo trước mà tuân theo một bước đi
ngẫu nhiên. Bởi lẽ, nếu các thay đổi giá cả quá khứ có thể được sử dụng để dự đoán các
thay đổi giá cả tương lai, các nhà đầu tư có thể tạo ra tỷ suất sinh lợi dễ dàng. Nhưng
trong thị trường cạnh tranh, việc thu được tỷ suất sinh lợi dễ dàng sẽ không kéo dài. Khi
6
Theo tài liệu học tập của Trung tâm Nghiên cứu khoa học và Đào tạo chứng khoán thuộc UBCK NN.
các nhà đầu tư cố gắng tận dụng thông tin về giá cả quá khứ, giá cả điều chỉnh ngay lập
tức cho đến khi siêu tỷ suất sinh lợi từ việc nghiên cứu các chuyển động giá cả trong quá
khứ biến mất. Kết quả là tất cả thông tin về giá cả quá khứ sẽ được phản ánh trong giá
chứng khoán ngày hôm nay chứ không phải trong giá ngày mai. Các mẫu mực trong giá
cả sẽ không tồn tại nữa và các thay đổi giá cả trong một thời kỳ sẽ độc lập với các thay
đổi trong kỳ kế tiếp.
3.2) Các dạng của thị trường hiệu quả.
Tính hiệu quả của thị trường biểu hiện ở các cấp độ khác nhau, tùy thuộc vào mức
độ thông tin được phản ánh trong giá của chứng khoán.
Thị trường hiệu quả dạng yếu:
Thị trường hiệu quả dạng yếu giả định rằng giá cả và dữ liệu quá khứ được phản
ánh đầy đủ trong giá chứng khoán và không thể sử dụng phương pháp phân tích kỹ thuật
để tìm kiếm lợi nhuận bất thường, dù phân tích cơ bản có thể áp dụng trong trường hợp
này. Vì các nhà phân tích kỹ thuật thường theo dõi sự thay đổi giá cổ phiếu qua một loạt
các thời điểm khác nhau. Nếu họ nhận ra sự biến động giá tuân theo một số dạng nhất
định thì họ dự đoán rằng điều này sẽ được lặp lại theo cùng quy luật trong tương lai. Tuy
nhiên, nếu dạng yếu của thị trường tồn tại thì không có bất kỳ một thông tin nào trong
quá khứ được sử dụng để dự đoán cho tương lai. Do với bất kỳ thông tin nào có được
trong quá khứ đều đã được phân tích bởi hàng nghìn nhà phân tích, nhà đầu tư trên thị
trường. Họ sẽ hành động theo những gì đã tìm được và điều này sẽ được phản ánh rất
nhanh trong giá cổ phiếu. Nếu những thông tin này chứa đựng những biến động trong
tương lai, các nhà đầu tư cùng khai thác triệt để dấu hiệu này làm cho những thông tin
này trở thành sự hiểu biết của công chúng. Và vì vậy, giá cổ phiếu sẽ nhanh chóng điều
chỉnh thăng bằng lại. Nhưng với mức độ hiệu quả yếu này, giá chứng khoán là một ước
lượng không chệch tốt nhất cho giá trị thực của chúng. Người ta có thể dùng phân tích cơ
bản để biết chứng khoán đang được định giá thấp hay cao.
Thị trường hiệu quả dạng vừa phải
Thị trường hiệu quả dạng vừa phải giả định rằng giá cả không chỉ phản ánh giá cả
quá khứ mà còn phản ánh tất cả thông tin đã công bố khác. Trong thị trường hiệu quả
dạng vừa phải, không có nhà đầu tư nào có thể đạt được lợi nhuận sau khi đã điều chỉnh
rủi ro trên mức trung bình từ các giao dịch của họ nếu việc mua bán dựa vào các số liệu
đã được công bố và những thông tin dự đoán mà cả thị trường đều biết
Thị trường hiệu quả dạng mạnh:
Thị trường hiệu quả dạng mạnh giá định rằng giá cả phản ánh tất cả thông tin có
thể có được bằng cách phân tích tỉ mỉ về công ty và về nền kinh tế. Điều này nói lên rằng
thị trường phản ứng rất nhanh với bất kỳ thông tin nào, kể cả những thông tin mang tính
chất nội bộ hay cá nhân, khả năng đạt được lợi nhuận siêu ngạch là không thể. Tuy nhiên,
thực tế có một bộ phận cá nhân có thể có được những thông tin quan trọng trước khi
chúng được công bố ra công chúng, do đó sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch. Đây được
xem là một trong những biểu hiện của tình trạng bất cân xứng thông tin trên thị trường.
CHƯƠNG 2
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG BẤT CÂN XỨNG
THÔNG TIN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM HIỆN NAY
1) Phân tích hiện trạng Thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động phiên giao dịch
đầu tiên tại TTGDCK TP. HCM vào ngày 28/07/2000. Từ đó đến nay, sau hơn bảy năm
hoạt động, thị trường đã trải qua nhiều biến đổi thăng trầm.
Để nhìn nhận rõ hơn sự biến đổi này, ta có thể chia thời gian hoạt động của Thị
trường chứng khoán Việt Nam thành năm giai đoạn như sau:
1.1) Giai đoạn 1: từ 28/07/2000 đến 25/06/2001
Đây là giai đoạn thị trường mới đi vào hoạt động. Nguồn cung cổ phiếu còn khá
hạn hẹp: chỉ có năm doanh nghiệp niêm yết là REE, SAM, HAP, TMS, LAF, giá trị niêm
yết chỉ đạt 466.9 tỷ đồng. Lượng cổ phiếu được phép giao dịch thấp, chỉ khoảng 30-40%
lượng cổ phiếu phát hành. Trong khi đó, cầu cổ phiếu khá cao (giai đoạn này có khoảng
15.000 tài khoản được mở tại các công ty chứng khoán ). Điều này tạo nên một áp lực
cung cầu rất lớn, giá cổ phiếu tăng liên tục và tăng kịch trần qua các phiên giao dịch. Chỉ
số VN-Index từ 100 điểm trong ngày giao dịch đầu tiên, đến ngày 25/06/2001 đã tăng lên
đỉnh điểm 571.04 điểm với giá trị giao dịch mỗi phiên đạt khoảng 24 tỷ đồng, một con số
đáng kể so với thị trường mới và còn rất khan hiếm hàng hoá. Một điểm đáng nói, giá các
cổ phiếu biến động hầu như cùng chiều nhau và cùng chiều với chỉ số VN-Index.
Để giảm bớt áp lực cung cầu, UBCKNN đã điều chỉnh biên độ giao dịch cổ phiếu.
Tuy nhiên, việc mở rộng biên độ lớn trong khi khối lượng hàng hóa đưa vào thị trường
không đáp ứng được nhu cầu nhà đầu tư nên giá chứng khoán vẫn còn tăng mạnh. Mặt
khác, do giá tăng liên tục nên những người nắm giữ cổ phiếu cũng không muốn bán ra.
Điều này càng đẩy giá lên cao hơn nữa ( mỗi phiên tăng 7% ).
Nguồn: www.vietstock.com.vn
1.3) Giai đoạn 3: từ 24/10/2003 đến 03/08/2006
Giai đoạn này thị trường đã có xu hướng phục hồi. Nhưng lại có dấu hiệu hoạt
động cầm chứng. Chỉ số VN-Index không có biến động nhiều. Ngoài mức cao nhất đạt
được là 632.69 điểm vào ngày 25/04/2006, nhìn chung VN-Index dao động quanh mức
200-350 điểm. Giá giao dịch của từng loại cổ phiếu niêm yết cũng không có sự biến động
mạnh. Tuy nhiên, các cổ phiếu vẫn còn cùng tăng, cùng giảm.
Đồ thị 3: Chỉ số VN-Index giai đoạn 3
Nguồn: www.vietstock.com.vn
1.4) Giai đoạn 4: từ 03/08/2006 đến 13/03/2007.
Đây có thể xem là giai đoạn thị trường chứng khoán hoạt động sôi nổi nhất. Thị
trường mở rộng cả về quy mô, chất lượng hàng hóa lẫn số lượng cổ phiếu. Số cổ phiếu
niêm yết đã tăng hơn 303% so với năm 2005 ; tổng giá trị vốn hóa thị trường chứng
khoán đạt 16 tỷ USD, chiếm khoảng 22,7% GDP. Bên cạnh đó là sự ra đời của các định
chế tài chính: 23 quỹ đầu tư tài chính, hơn 40 công ty chứng khoán, 12 công ty quản lý
quỹ, 3 quỹ đầu tư và 6 ngân hàng hoạt động lưu ký chứng khoán. Ngoài ra, số tài khoản
của nhà đầu tư tăng gấp 3 lần năm 2005.
Chỉ số VN-Index tăng rất nhanh, đạt mức kỷ lục cao nhất từ trước đến nay là
1170,67 điểm vào ngày 13/3/2007. Nguyên nhân của sự gia tăng mạnh mẽ và có vẻ bất
hợp lý này chủ yếu là do tính không chuyên nghiệp của các nhà đầu tư dẫn đến thái độ tin
tưởng một cách thái quá vào các tin đồn. Điển hình là việc tin tưởng vào đánh giá lạc
quan về thị trường chứng khoán Việt Nam của Merrill Lynch, một trong những tổ chức
kinh doanh chứng khoán hàng đầu thế giới. Ngoài ra, việc Việt Nam gia nhập WTO và tổ
chức thành công Hội nghị APEC vào tháng 11 cộng với dự báo về khả năng có một làn
sóng đầu tư mới vào Việt Nam góp phần tạo nên cơn sốt giá vào những ngày cuối năm
2006 đầu 2007.
Đồ thị 4: Chỉ số VN-Index giai đoạn 4
Nguồn: www.vietstock.com.vn
1.5) Giai đoạn 5: Từ 13/03/2007 đến nay ( 01/04/2008 )
Tiếp đà phát triển mạnh mẽ của giai đoạn trước, trong 3 quý còn lại của 2007 mặc
dù thị trường có dấu hiệu đi xuống nhưng nhìn chung vẫn tăng trưởng về quy mô và
thành phần tham gia ( đến nay có 528 loại chứng khoán được niêm yết trên thị trường với
tổng giá trị niêm yết là 101.345.715,88 triệu đồng )
Bảng 1: Quy mô niêm yết tại SGDCK TP.HCM
Toàn thị Chứng chỉ
Cổ phiếu Trái phiếu
trường quỹ
Số chứng khoán niêm yết
528 150 3 375
(CK)
Tỉ trọng (%) 100 28,41 0.57 71,02
CHƯƠNG 3
KIỂM ĐỊNH BẤT CÂN XỨNG THÔNG TIN TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Như đã phân tích ở trên, thông tin là một trong ba yếu tố cấu thành nên thị trường
hiệu quả. Thị trường có thông tin minh bạch hay nói cách khác không có tình trạng bất
cân xứng thông tin thì sẽ hình thành nên giá chứng khoán hợp lý, giá đó phản ánh đầy đủ
và tức thời các thông tin có ảnh hưởng tới thị trường
Trên cơ sở đó, để kiểm định bất cân xứng thông tin ta sẽ tiến hành kiểm mức độ
hiệu quả của thị trường. Nếu thị trường hiệu quả nghĩa là giá chứng khoán không có phản
ánh những yếu tố thông tin bất cân xứng.
1) Thiết lập mô hình kiểm định.
1.1) Kiểm định thống kê về tính độc lập của tỷ suất sinh lợi.
Giả thiết thị trường hiệu quả cho rằng tỷ suất sinh lợi chứng khoán qua thời gian
sẽ độc lập với tỷ suất sinh lợi chứng khoán khác vì thông tin mới đến thị trường một cách
ngẫu nhiên, độc lập và giá chứng khoán điều chỉnh một cách nhanh chóng theo các thông
tin mới này. Chúng ta sẽ xem xét tỷ suất sinh lợi ngày t có tương quan với tỷ suất sinh lợi
ngày (t – 1), (t – 2), (t – 3)… hay không. Những người ủng hộ thị trường hiệu quả cho
rằng tương quan này bằng 0 cho tất cả các kết hợp. Chính vì vậy ta sẽ kiểm định tính
tương quan giữa các biến trong phương trình:
rt = 0 + irt-i + (1)
Trong đó:
rt: tỷ suất sinh lợi chứng khoán ở ngày t
rt-i: tỷ suất sinh lợi chứng khoán ở ngày t-i
0: hệ số tự do
i: hệ số (trong kiểm định này thì i chạy từ 1 đến 5)
Với giả thiết:
H0 : i = 0 ( Thị trường hiệu quả )
H1 : i # 0 ( Thị trường không hiệu quả )
Nếu Prob ( F-statistic) < mức ý nghĩa α thì bác bỏ giả thiết H0, nghĩa là thị trường
không hiệu quả . Từ đó, cho thấy giá cả trên thị trường còn phản ánh yếu tố “ thông tin
bất cân xứng”. Và ngược lại.
1.2) Kiểm định quy tắc giao dịch.
Kiểm định quy tắc giao dịch thì dựa vào giả định thị trường hiệu quả, các nhà đầu
tư không thể đạt mức lợi nhuận bất thường cao hơn lợi nhuận từ chính sách mua và nắm
giữ bằng cách chỉ dựa vào các thông tin thị trường trong quá khứ.
Kiểm định giả thiết:
H0 : i = 0 ( Thị trường hiệu quả )
H1 : i # 0 ( Thị trường không hiệu quả )
Các bước thực hiện:
Xác định ngày đưa ra thông tin thông báo.
Tập hợp giá của chứng khoán j (chứng khoán liên quan tới thông tin công bố) 10
ngày trước và sau khi công bố thông tin.
Tính tỷ suất sinh lợi vào ngày t của chứng khoán đó.
Xác định tỷ suất sinh lợi trung bình.
Tính các ERt= rt – r
Tính phương sai của mẫu các ERt đã tính ở trên.
Tính z = r 0
s * n và tra bảng tính Z (s là độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lợi
vượt trội)
+ Nếu |z| > z thì bác bỏ giả thiết Ho, chấp nhận giả thiết H1 đồng nghĩa với việc
bác bỏ giả thiết thị trường hiệu quả.
+ Nếu |z| z thì chấp nhận giả thiết Ho, bác bỏ giả thiết H1 đồng nghĩa với việc
chấp nhận giả thiết thị trường hiệu quả.
2) Thu thập dữ liệu.
Trong số các chứng khoán đang niêm yết trên TTCK TP.HCM hiện nay, chọn ra
10 cổ phiếu tiêu biểu để kiêm định.
Giá cổ phiếu, số lượng cổ phiếu giao dịch được thu thập từ ngày 26/01/2007 đến
ngày 03/04/2008 và được tải từ trang web www.bsc.com.vn.
3) Kết quả kiểm định.
3.1) Kết quả kiểm định thống kê về tính độc lập.
( Bảng kết quả kiểm định thống kê của các cổ phiếu xem ở phần phụ lục )
Qua phần kiểm định trên, ta thấy có một số kiểm định ủng hộ cho việc thông tin
đến thị trường một cách ngẫu nhiên ( như các kiểm định đối với cổ phiếu FPT, SAM,
STB, VNM ) và một số kiểm định cho thấy việc công bố thông tin trên thị trường chưa
được thực hiện tốt. Giá một số chứng khoán điều chỉnh mạnh trước ngày thông tin được
công bố, nhất là đối với các thông tin chia cổ tức, phát hành bổ sung cổ phiếu. Ngoài ra,
khối lượng giao dịch cũng có sự thay đổi đáng kể.
Trong sơ đồ trên, “phương tiện truyền thông” có nghĩa là phòng báo chí của
SGDCK; còn “phương tiện truyền thông phụ thuộc” nghĩa là các phương tiện truyền
thông đại chúng bên ngoài nhận thông tin do SGDCK cung cấp.
Tuy nhiên, qua kinh nghiệm các nước cho thấy việc xây dựng hệ thống công bố
thông tin tự động đòi hỏi chi phí lớn nên trong điều kiện Việt Nam hiện nay, chúng ta cần
xây dựng từng phần hệ thống này. Trước tiên, nhanh chóng xây dựng hệ thống kết nối
giữa SGDCK và TTGDCK với các công ty niêm yết, công ty chứng khoán. Khi hệ thống
nối mạng và truyền thông của SGDCK hay TTGDCK phát triển và hoạt động ổn định
mới tiến tới thiết lập hệ thống công bố thông tin tự động. Hệ thống này nối mạng trực tiếp
từ công ty niêm yết đến SGDCK hay TTGDCK và các công ty chứng khoán , thành viên
lưu ký cho đến từng nhà đầu tư. Hệ thống này cung cấp cho SGDCK và tổ chức niêm yết
mã số truy cập, còn những đối tượng khác cung cấp mã số truy cập thông tin. Với hệ
thống công bố này hoạt động công bố thông tin sẽ hiệu quả hơn.
2.2) Xây dựng hệ thống cung cấp thông tin qua mạng Internet.
Đây là quy trình cung cấp thông tin tương đối đơn giản, thuận tiện. Các thông tin
về giao dịch và các thông tin khác được cập nhật và gửi đồng loạt cho nhà đầu tư cũng
như các đối tượng khác thông qua địa chỉ mail đã đăng ký. Cách thực hiện này giống như
việc cung cấp các văn bản pháp luật hiện nay.
2.3) Cần nâng cấp website của SGDCK, TTGDCK và UBCKNN theo hướng
đa dạng hóa về nội dung các thông tin được công bố và đáp ứng yêu cầu về tốc độ
xử lý, tính kịp thời. Cụ thể:
Sắp xếp theo danh mục một cách khoa học và hợp lý để nhà đầu tư dễ tìm kiếm.
Cập nhật và bổ sung kịp thời thông tin.
Ngoài ra, có thể thành lập phòng lưu trữ và cung cấp thông tin tại SGDCK,
TTGDCK, có nhiệm vụ lưu trữ toàn bộ thông tin liên quan đến công ty niêm yết, công ty
chứng khoán và các thông tin khác liên quan đến TTCK. Việc này sẽ tạo điều kiện cho
nhà đầu tư tiếp cận thông tin được dễ dàng, đầy đủ, chính xác. Đây cũng là giải pháp
nâng cao hiểu biết về chứng khoán cho công chúng, tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển
TTCK.
3) Một số giải pháp khác hạn chế bất cân xứng thông tin.
3.1) Thành lập tổ chức định mức tín nhiệm.
Việc thành lập tổ chức định mức tín nhiệm để đánh giá mức độ tín nhiệm của tổ
chức phát hành chứng khoán và các tổ chức có chứng khoán niêm yết trên SGDCK hay
TTGDCK là rất cần thiết, nhất là trong tình hình thực tế hiện nay, khả năng phân tích và
xử lý thông tin của nhà đầu tư chưa cao. Tổ chức này sẽ cung cấp cho thị trường và các
nhà đầu tư một hệ thống xếp hạng các công cụ tài chính trên thị trường. Từ đó, sẽ giúp
cho các nhà đầu tư có thêm nguồn cung cấp thông tin làm cơ sở để so sánh, đối chiếu
trước khi thực hiện quyết định đầu tư. Bên cạnh đó, việc thành lập tổ chức định mức tín
nhiệm sẽ hỗ trợ tích cực cho nghiệp vụ tư vấn đầu tư của các công ty chứng khoán. Đồng
thời, thông qua bảng đánh giá, xếp hạng của tổ chức định mức tín nhiệm, doanh nghiệp
biết được mức độ tín nhiệm của thị trường đối với doanh nghiệp mình, từ đó có biện pháp
khắc phục để nâng cao vị thế doanh nghiệp. Do đó, thông tin về doanh nghiệp được thể
hiện tích cực hơn, chất lượng thông tin vì vậy cũng được nâng cao hơn.
3.2) Giải quyết vấn đề nội gián trên TTCK Việt Nam.
Qua phân tích ở phần trên, có thể thấy giao dịch nội gián ảnh hưởng nghiêm trọng
đến TTCK nói chung và nhà đầu tư nói riêng. Vì vậy, việc phát hiện và hạn chế vấn đề
này là hết sức cần thiết.
Về phía cơ quan Nhà nước:
Nhanh chóng chuyển đổi mô hình SGDCK, TTGDCK sang hoạt động theo mô
hình công ty cổ phần. Nếu hoạt động theo mô hình này, các giám đốc sẽ phải chịu trách
nhiệm về tình hình hoạt động kinh doanh và lợi nhuận của Trung tâm mình. Áp lực đó
đòi hỏi các SGDCK, TTGDCK muốn làm ăn có hiệu quả phải quản lý chặt chẽ, xây dựng
uy tín của mình, đảm bảo vai trò cơ quan giám sát thị trường một cách nghiêm ngặt và
công bằng.
Cải thiện cơ chế công bố thông tin hiện nay, không nhất thiết “ các doanh nghiệp
phải chuyển các tài liệu, thông tin về doanh nghiệp mình đến TTGDCK để công bố”. Cụ
thể, cần phân biệt và quy định rõ mhững thông tin thuộc dạng nhạy cảm thì phải chuyển
về SGDCK hay TTGDCK xử lý trước khi công bố. Còn những thông tin chi tiết, mang
tính định kỳ như báo cáo tài chính… hoặc những thông tin mà đa phần các công ty niêm
yết đã thực hiện tốt thì để các công ty niêm yết công bố trực tiếp, SGDCK hay TTGDCK
chỉ đóng vai trò xác nhận thông tin đó đã được công bố và tính xác thực của nó. Dĩ nhiên,
những thông tin công bố trực tiếp đó phải do người có vị trí cao nhất của công ty niêm
yết cam kết chịu trách nhiệm trước pháp luật về độ tin cậy và tính trung thực của công ty.
Với cơ chế này, sẽ hạn chế số người biết thông tin trước do đó cũng sẽ hạn chế giao dịch
nội gián.
Song song với công tác tuyên truyền giáo dục để mọi người hiểu tính nghiêm
trọng của vấn đề thì cơ quan quản lý nhà nước cần phải hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế
giám sát, tổ chức giám sát, điều tra hành vi giao dịch nội gián với sự phối hợp của các tổ
chức liên quan. Khi đã phát hiện ra, người vi phạm phải bị xử lý nghiêm khắc theo luật
định, thông báo rộng rãi để làm gương cho người khác. Bên cạnh đó, cần nâng mức xử
phạt về giao dịch nội gián. Thu lại lợi nhuận trái phép và phạt tối đa bảy mươi triệu đồng
như hiện tại là hơi thấp.
Ở các nước khác, hình phạt nặng hơn nhiều. Ví dụ ông Jeffrey Skilling, chủ tịch
kiêm tổng giám đốc của Enron đang phải thụ án 24 năm tù, một trong những tội lớn nhất
là giao dịch nội gián. Ông Larry Ellison – giám đốc điều hành của Oracle phải bỏ ra 100
triệu USD cho từ thiện để giải quyết ổn thỏa vụ giao dịch nội gián: bán 900 triệu USD cổ
phiếu của công ty trước khi nó xuống giá. Hay vụ mới nhất là đôi vợ chồng người Hồng
Kông (Kan King Wong và Charlotte Ka On Wong Leung) đang bị nhà chức trách Mỹ
buộc tội vì đã biết trước kế hoạch mua lại Dow Jones của News Corp. Họ đã mua
415.000 cổ phiếu của Dow Jones với số tiền trên 15 triệu USD, thu lợi trái phép trên 8
triệu USD.
Trong cơ quan, quy định nghiêm ngặt về vấn đề bảo mật thông tin của khách hàng
Lựa chọn những nhân viên có trình độ, có đạo đức nghề nghiệp đặt vào nhưng vị
trí quan trọng với mức thu nhập hấp dẫn. Điều này sẽ làm cho họ phải cân nhắc giữa cái
lợi trước mắt nhưng không chắc chắn so với sự nghiệp của họ.
Về phía các tổ chức công bố thông tin.
Mỗi đơn vị phải xây dựng quy chế nghiêm ngặt và rõ ràng về hoạt động quản lý
của công ty. Quy chế hoạt động này được công bố cho mỗi thành viên trong công ty để
họ có thể nắm được chủ trương, phương hướng của đơn vị.
Quan tâm đến quyền lợi của mỗi thành viên trong đơn vị, khuyến khích nhân viên
nắm giữ nhiều cổ phiếu của công ty nhằm gắn lợi ích và trách nhiệm của họ nhiều hơn
với đơn vị, có như vậy tình trạng tư lợi thông tin sẽ giảm bớt.
Cấm “ những người có khả năng biết trước thông tin” ( thành viên Hội đồng quản
trị ) thực hiện việc mua bán cổ phiếu công ty cho đến khi thông tin được công bố.
3.3) Ngoài việc chọn doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, các nhà đầu tư cần
phải chọn một nhà quản lý có đầy đủ năng lực, trình độ và luôn hướng đến mục tiêu
tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp.
Đây là một giải pháp khá đơn giản nhưng không dễ gì thực hiện. Do không phải
nhà đầu tư nào cũng có thể giới thiệu và đề cử những người đại diện có năng lực vào hội
đồng quản trị. Vì vậy, vấn đề hiện nay là bản thân doanh nghiệp cần phải có những chính
sách thu hút nhân tài, nhất là những nhà quản trị nước ngoài có năng lực và nắm bắt được
tình hình TTCK Việt Nam. Việc tham gia của đại diện các nhà đầu tư nước ngoài vào hội
đồng quản trị sẽ góp phần tăng cường hiệu quả quản lý cũng như hoạt động kinh doanh
của công ty.
3.4) Khuyến khích và chế tài.
Đây là hình thức mà chủ doanh nghiệp nên có những khuyến khích đối với nhà
quản lý để họ nỗ lực hơn trong hoạt động điều hành vì lợi ích của các chủ doanh nghiệp
như tiền lương cao, thưởng thành tích công việc, ưu tiên quyền mua cổ phiếu và những
lợi ích khác. Vấn đề không chỉ dừng lại trong phạm vi chủ sở hữu và các nhà quản lý mà
ở các cấp bậc trong bộ máy quản lý. Do đó, phải khuyến khích đồng bộ tạo nên mục tiêu
chung cho bộ máy hoạt động là nâng cao giá trị doanh nghiệp. Những phần thưởng xứng
đáng cho đóng góp tích cực sẽ tạo nên thế cạnh tranh làm việc.
Một trong những hạn chế lớn nhất của các cổ đông Việt Nam hiện nay là chưa
nhận thức đầy đủ quyền lợi của cổ đông trong công ty. Họ thường có xu hướng đi theo số
đông trong các cuộc họp Đại hội đồng cổ đông. Họ không dám đề ra những yêu cầu cũng
như những quyền lợi chính đáng của mình đối với Hội đồng quản trị vì hầu hết nghĩ rằng
số lượng cổ phiếu mình nắm giữ quá thấp. Vì vậy, dù biết thông tin doanh nghiệp là rất
quan trọng với họ nhưng họ cũng không mạnh dạn đưa ra yêu cầu về minh bạch thông tin
của doanh nghiệp. Chính vì vậy, để giải quyết tình trạng bất cân xứng thông tin cần phải
nâng cao nhận thức của cổ đông về quyền lợi của họ. Cho họ thấy được quyền làm chủ
của mình trong doanh nghiệp.
Bảng 1: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu BBC.
Bảng 2 : Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu BMC
.
Bảng 10: Kết quả kiểm định đối với cổ phiếu VNM.
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tham khảo bằng tiếng Việt
1) PGS.TS. Trần Ngọc Thơ – Tài chính doanh nghiệp hiện đại – NXB. Thống
kê, 2005 .
2) TS. Phan Thị Bích Nguyệt – Đầu tư tài chính – NXB. Thống Kê, 2005.
3) TS. Bùi Kim Yến – Thị trường chứng khoán – NXB. Lao Động, 2005.
4) Thiều Lê Thanh Lâm – Thông tin bất cân xứng và các quyết định tài
chính của các công ty cổ phần ở Việt Nam – Luận văn thạc sĩ Kinh tế , Trường Đại
Học Kinh tế TP.HCM , 2006.
5) Nguyễn Thị Bảo Khuyên – Mô hình Granger kiểm định thị trường hiệu
quả - Luận văn tốt nghiệp đại học, Trường Đại Học Kinh tế TP.HCM, 2007.
6) Minh bạch thông tin- Giải pháp chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài
– Đề tài Nghiên cứu khoa học, Trường Đại Học Kinh Tế TP. HCM, 2005.
7) Nguyễn Thị Thanh Nghĩa – Các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trên thị
trường chứng khoán Việt Nam- Luận văn thạc sĩ Kinh tế , Trường Đại Học Kinh Tế
TP.HCM, 2007.
8) Ths. Lê Đạt Chí – Kiểm định mức độ hiệu quả thông tin trên thị trường
chứng khoán Việt Nam – Tạp chí kinh tế phát triển.
9) TS. Nguyễn Thị Liên Hoa – Minh bạch thông tin trên thị trường chứng
khoán Việt Nam- Tạp chí kinh tê phát triển ( 2/2007)
10) TS. Trần Đình Cung – Công khai hóa và minh bạch thông tin – Diễn đàn
chứng khoán ( số 9- tháng 9 năm 2007)
11) TS. Đỗ Thành Phương – Thông tin không đối xứng với vấn đề công bố
thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam- Thị trường tài chính ( 10/2006)
12) Luật gia Vũ Xuân Tiền – Thông tin nội gián trong đấu giá cổ phần – Nhà
quản lý ( 5/2007)
13) Quốc hội – Luật chứng khoán ( số 70/06/QH11), chương VIII, 2006.
14) Bộ Tài chính- Thông tư hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị
trường chứng khoán ( Thông tư số 38/2007/TT-BTC ), 2007.
15) Bộ Tài chính – Thông tư hướng dẫn về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán ( Thông tư 97/2007/TT-BTC),
2007.
16) Chính phủ - Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
chứng khoán và thị trường chứng khoán ( Nghị định số 14/2004/NĐ-CP)
Tài liệu tham khảo bằng tiếng Anh
17) “Asymmetric information in financial market”, 2003
Danh mục một số Website tham khảo
www. Google.com.vn
www.bsc.com.vn
www.sbsc.com.vn
www.tas.com.vn
www.has.com.vn
www.vneconomy.vn
www.vse.org.vn
www.tapchiketoan.com.vn
1
54
.
2
3
4
5
.
.
6
7
8
9
10