You are on page 1of 57

Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

-Tóm lại từ những tài liệu vay mƣợn, tác giả đã tạo ra một tác phẩm có quy mô lớn hơn bất cứ tác phẩm nào mà
ông đã vay mƣợn.

2.Bút pháp tƣợng trƣng và khả năng phản ánh chân thực cuộc sống.

-Trong Chinh phụ ngâm nghệ thuật ƣớc lệ đƣợc sử dụng một cách phổ biến. Ở đây tất cả các chi
tiết không nên hiểu theo ý nghĩa xác thực của nó mà phải hiểu trong tính chất ƣớc lệ, tƣợng trƣng.

- Sáng tác với bút pháp tƣợng trƣng, ƣớc lệ nhƣng Chinh phụ ngâm vẫn phản ánh chân thực cuộc sống bởi
vì tác phẩm đã nói đƣợc vấn đề cơ bản của thời đại, tâm lí của con ngƣời thời đại.

3.Nghệ thuật biểu hiện tâm trạng.

-Tác giả đã xây dựng đƣợc một kết cấu chặt chẽ, miêu tả đƣợc sự diễn biến phong phú, tinh vi trong
tâm tình chinh phụ theo một trình tự lôgic tâm lí chặt chẽ bảo đảm sự thống nhất. Tác giả đã gắn tâm lí với hoàn
cảnh, tôn trọng quy luật tâm lí. Ðau khổ tăng dần, nhận thức về chiến tranh cũng diễn biến. Ðây là kết quả của một
quá trình suy ngẫm và thể hiện.

-Tác giả đã chú ý tả cảnh để tả tình, tình cảnh có khi thống nhất hoặc mâu thuẫn.

-Tác giả đã sử dụng thủ pháp trùng điệp (láy lại), liên hoàn (nối tiếp), chiếu ứng (so sánh) để tạo ra những
đợt sóng cảm xúc.

-Tác giả đã chú ý khai thác nhiều yếu tố tâm lí nhƣ liên tƣởng, hồi tƣởng, tƣởng tƣợng.

-Ngôn ngữ điêu luyện: Chinh phụ ngâm có cả một kho từ vựng diễn tả tình cảm u sầu với những sắc thái
khác nhau.

*Tóm lại tác giả đã miêu tả tâm trạng của chinh phụ khá sâu sắc và tâm trạng ấy phản ánh con ngƣời Việt
Nam- con ngƣời thiết tha với hạnh phúc. Vì thế tác phẩm giúp chúng ta hiểu con ngƣời Việt Nam trong hiện
tại.

4.Thành công của bản dịch.

Bản dịch đƣợc coi nhƣ là một sáng tác phẩm có giá trị độc lập tƣơng đối với nguyên văn.

VI. KẾT LUẬN

-Tuy có những hạn chế nhất định, nhƣng Chinh phụ ngâm là tiếng nói khao khát hạnh phúc, khao khát hòa bình
của dân tộc ta trong một thời đại nhất định. Tiếng nói ấy càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết vì nó là tiếng nói của
một ngƣời phụ nữ- nạn nhân đau khổ nhất của chế độ cũ. Ðƣơng thời tác phẩm đã góp phần vào cuộc đấu tranh
cho quyền sống, quyền hƣởng hạnh phúc của con ngƣời, đấu tranh chống áp bức của giai cấp thống trị.

-Ngày nay, tiếng nói thiết tha với hạnh phúc tình yêu của tác phẩm còn rất có ích trong việc xây dựng tâm hồn cho
thế hệ trẻ, đó cũng là lí do khiến cho tác phẩm đƣợc đƣa vào chƣơng trình của phổ thông trung học.

Chƣơng 13: HỒ XUÂN HƢƠNG

I. CON NGƢỜI VÀ THƠ


http://diendankienthuc.net 54 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

1. Con ngƣời

Dựa vào một số tài liệu lƣu truyền, dƣạ vào những bài thơ đƣợc khẳng định là cuả Xuân Hƣơng, các nhà nghiên
cứu đã tạm thừa nhận một số kết luận bƣớc đầu về tiểu sử của nữ sĩ nhƣ sau:

-Hồ Xuân Hƣơng thuộc dòng dõi họ Hồ ở làng Quỳnh Ðôi, huyện Quỳnh Lƣu, tỉnh Nghệ An. Ðây là một
dòng họ lớn có nhiều ngƣời đỗ đạt và làm quan nhƣng đến đời Hồ Phi Diễn- thân sinh của bà thì dòng họ này đã
suy tàn.

-Bà sống vào thời kỳ cuối Lê, đầu Nguyễn (cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX). Do đó bà có điều kiện tiếp
thu ảnh hƣởng của phong trào đấu tranh của quần chúng và chƣúng kiến tận mắt sự đổ nát của nhà nƣớc phong
kiến.

-Thành phần xuất thân: Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song hoàn cảnh cuộc sống đã
giúp nữ sĩ có điều kiệnì sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những ngƣời
phụ nữ bị áp bức trong xã hội.

-Hồ Xuân Hƣơng ít chịu ảnh hƣởng của Nho giáo về mặt nhân sinh quan cũng nhƣ về phƣơng diện văn
chƣơng.

-Bà là một phụ nữ thông minh, có học nhƣng học hành cũng không đƣợc nhiều lắm, bà giao du rộng rãi với
bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn-các nhà nho.Nữ sĩ còn làì ngƣời từng đi du lãm nhiều danh lam
thắng cảnh của đất nƣớc.

-Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhƣng đời tƣ lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hƣơng lấy chồng muộn
mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc

*Tóm lại: Hồ Xuân Hƣơng là một nhà thơ đã sống một cuộc đời không âm thầm lặng lẽ nhƣ bao ngƣời đàn bà
trong xã hội cũ mà bà đã sống một cuộc đời đầy sóng gió trong một hoàn cảnh xã hội cũng đầy sóng
gió.

2.Thơ Hồ Xuân Hƣơng.

-Thơ Xuân Hƣơng cũng rắc rối, phức tạp nhƣ chính cuộc đời bà. Số bài thơ còn lại cho đến nay chủ
yếu nhờ vào sự lƣu truyền, bảo vệ của nhân dân nên có nhiều dị bản.

-Số thơ Nôm lâu nay đƣợc coi là của nữ sĩ khoảng năm mƣơi bài. Ðây là tập thơ Nôm luật Ðƣờng xuất sắc
của nền văn học dân tộc (Tập thơ Xuân Hƣơng thi tập) Ngoài tập thơ này còn có tập thơ Lƣu Hƣơng kýï mang bút
danh của nữ sĩ do ông Trần Thanh Mại phát hiện vào năm 1964 gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ Nôm. Với
một nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ viết về tâm sự và những mối tình của mình với những ngƣời bạn trai.

-Ðọc kĩ ngƣời ta thấy có một khoảng cách khá xa giữa tập thơ Nôm của Xuân Hƣơng và Lƣu Hƣơng ký, chủ
yếu là về phong cách biểu hiện.. Trong Lƣu Hƣơng Ký có cả thơ chữ Hán lẫn thơ chữ Nôm. Riêng phần thơ chữ
Nôm trong Lƣu Hƣơng Ký nếu so sánh với thơ lâu nay đƣợc coi là của Xuân Hƣơng thì hai bên vẫn có sự khác
nhau. Thơ cữ Nôm trongLƣu Hƣong Ký có rất nhiều từ Hán Việt, giọng thơ lại hiền lành chứ không góc cạnh, gân
guốc nhƣ ở Xuân Hƣơng thi tập. Vì lí do trên, để bảo đảm tính khoa học, các nhà nghiên cứu chủ yếu chỉ dừng lại
ở tập thơ Nôm còn Lƣu Hƣơng Ký đƣợc coi là một tập thơ để tham khảo.

II.XUÂN HƢƠNG THI TẬP

1.Những vần thơ viết về ngƣời phụ nữ.

http://diendankienthuc.net 55 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Vấn đề ngƣời phụ nữ là vấn đề thời sự của văn học giai đoạn này. Vấn đề ngƣời phụ nữ đƣợc đặt ra với qui
mô sâu rộng và đƣợc soi sáng ở nhiều góc độ rất tinh tế. Dƣờng nhƣ trong giai đoạn này không có mấy nhà thơ
không viết về ngƣời phụ nữ. Sáng tác trong bối cảnh văn học ấy, với tính cách và cảnh ngộ riêng của mình, nhà
thơ đã viết rất nhiều về ngƣời phụ nữ.

2.1.1.Ðối tƣợng ngƣời phụ nữ mà thơ Hồ Xuân Hƣơng hƣớng tới.

Viết về ngƣời phụ nữ, bà đã viết về ngƣời phụ nữ lao động, ngƣời phụ nữ bình dân với nhiều bất hạnh. Bà viết về
họ một cách trực tiếp với một thái độ dũng cảm.

2.1.2.Nỗi đau của hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hƣơng.

Tiếp tục tiếng nói của truyền thống văn học dân tộc, viết về ngƣời phụ nữ Hồ Xuân Hƣơng cũng đã viết về
nỗi đau của họ. Có thể nói hình ảnh ngƣời phụ nữ với cảm xúc khổ đau gần nhƣ thấm khắp các thi phẩm viết về
mình, viết về ngƣời phụ nữ của Xuân Hƣơng. Ngƣời phụ nữ trong thơ bà dƣờng nhƣ chƣa một lần nhận diện đƣợc
hạnh phúc. Nỗi đau của ngƣời phụ nữ hiện lên trong thơ bà cũng rất tập trung, rất nổi bật.

2.1.2.1.Nỗi đau của tình duyên không toại nguyện.

Bài thơ tiêu biểu cho nỗi đau này là bài Mời trầu. Bài thơ cùng với chùm thơ tự tình I, II, III làm nên mảng thơ đặc
biệt cuả Xuân Hƣơng thi tập- mảng thơ tâm sự, thơ thân phận. Ðây là những bài thơ trực tiếp thể hiện nỗi lòng,
suy nghĩ và khát vọng của tác giả về cuộc đời và thân phận mình.

Bài thơ có thể đƣợc sáng tác thời còn trẻ vì lời thơ chƣa đến nỗi chua chát.

Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương mới quệt rồi.

Có phải duyên nhau thì thắm lại,

Ðừng xanh như lá, bạc như vôi.

-Hai câu đầu nhân vật trữ tình giới thiệu miếng trầu và mời trầu

+Miếng trầu bao gồm những sự vật nhỏ mọn, nếu không muốn nói là tầm thƣờng.

+Ở đây miếng trầu, quả cau, ngôn ngữ tự xƣng và phong cách khẩu ngữ Này, mới quệt rồi, tất cả đã có ý nghĩa
biểu hiện một người con gái có ý thức về bản thân, có bản lĩnh nhƣng cũng có tấm lòng bình dị, chân chất cũng có
những tình cảm rất chân thành.

-Hai câu cuối: Nhân vật trữ tình bộc bạch nguyện vọng trong quan hệ tình cảm lứa đôi.

-Bài thơ có một kết cấu đặc biệt: câu ba là khát vọng, câu bốn là cảm nhận về hiện thực cay đắng trong cuộc sống
tình duyên của ngƣời phụ nữ dƣới xã hội phong kiến. Phải chăng với kết cấu này, tác giả muốn nói rằng trong
cuộc đời cũ đối với ngƣời phụ nữ hạnh phúc chỉ là điều có trong mơ ƣớc, còn khổ đau luôn là hiện thực.

-Về phƣơng diện bút pháp, hai câu thơ nhắn nhủ, kêu gọi, răn đe này lại có tính chất đảo ngƣợc vị trí của quá trình
chuyển hóa: Xanh+bạc=thắm(thắm,bạc,xanh. Bài thơ là lời kêu gọi về một tình yêu chân thành, say đắm, thủy
chung nhƣng khép lại thì dƣ âm, ấn tƣợng về một hiện thực cay đắng xanh nhƣ lá, bạc nhƣ vôi vẫn cứ nặng trĩu
trong tâm hồn ngƣời đọc.

http://diendankienthuc.net 56 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Bài tự tinh số I:

Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom

Oán hận trông ra khắp mọi chòm

Mõ thảm không khua mà cũng cốc

Chuông sầu không đánh cớ sao om

Trước nghe những tiếng thêm rền rĩ

Sau giận vì duyên để mõm mòm

Tài tử văn nhân ai đó tá

Thân này đâu đã chịu già tom.

-Hai câu đề: Bài thơ đƣợc mở đầu bằng tiếng gà gáy trên bom, qua tiếng gà văng vẳng là cả một không gian
vắng lặng.

-Hai câu thực: Hai câu thực nói rõ nỗi oán hận và gọi nó là sầu, là thảm.

-Hai câu luận: Vẫn phô bày tiếp nỗi buồn, nỗi giận do những tiếng mõ thảm, những tiếng chuông sầu kia gợi nên.

-Hai câu kết: Kết thúc bài thơ là tiếng gọi vừa có tính chất nghi vấn (hỏi), vừa có tính chất than- gọi Tài tử văn
nhân ai đó tá. Ðó là cách gọi suông vì không có ai đáp lại và không đƣợc đáp lại thì ngƣời gọi đã buồn càng buồn
hơn. Song câu kết thúc vẫn là một lời thách đố với số phận, với duyên kia. Duyên kia dù đã mõm mòm nhƣng thân
này đâu đã chịu già tom. Câu thơ nhƣ nói lên cái bản lĩnh cứng cỏi, cái sức sống khỏe khoắn mang màu sắc bƣớng
bỉnh của ngƣời con gái đầy oán hận đối với cuộc đời-Hồ Xuân Hƣơng.

Qua bài thơ, chúng ta nhƣ nhận ra Hồ Xuân Hƣơng là nhà thơ đau hết chỗ đau, buồn hết độ buồn nhƣng vẫn
bƣớng, vẫn ngang, vẫn không chịu đầu hàng, buông xuôi số phận. Vì lẽ đó mà bài thơ có giá trị nhân bản cao.

Ở bài tự tình số II, tác giả lại viết:

Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con

Sự sống của đất trời cứ vận hành nhƣ muôn thƣở vậy, còn riêng mình thì vẫn cứ bất hạnh, hẩm hiu trong số
phận, trong tình duyên.

Ðọc thơ bà, ngƣời đọc có cảm giác ngƣời phụ nữ trong thơ Xuân Hƣơng gần nhƣ chƣa một lần nhận diện
đƣợc hạnh phúc.

2.1.2.2.Nỗi đau không đƣợc làm chủ cuộc đời.

Nỗi đau này đƣợc tác tác giả tập trung khắc hoạ trong bài Bánh trôi nƣớc và Tự tình III.

Bài Bánh trôi nƣớc:

http://diendankienthuc.net 57 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non.

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

-Hai câu khai thừa:

+Câu1: Câu thơ nhƣ là sự bằng lòng, sự vừa ý của ngƣời phụ nữ ý thức đƣợc vẻ đẹp của mình. Ðó là vẻ đẹp
của nƣớc da trắng nõn nà, thân hình gọn gàng, xinh xắn.

+Câu 2: Con ngƣời với vẻ đẹp ấy đáng lí phải đƣợc sống trong hạnh phúc nhƣng không, ngƣời con gái ấy đã
phải sống một cuộc đời bảy nổi ba chìm với nước non .

-Hai câu chuyển hợp:

+Câu 3: Rắn nát (cứng mềm), hạnh phúc hay đau khổ, đời minh ra sao, may mắn, rủi ro đến mức nào là
hoàn toàn phụ thuộc vào ngƣời khác. Ngƣời khác đó là cha, là chồng, bởi xã hội phong kiến vốn là xã hội nam
quyền.

Mặc dầu, liên từ vừa nói sự phụ thuộc vừa hàm nghĩa đối lập, ta nhƣ nhận ra một thái độ bất chấp, bất cần cuã
nhân vật trữ tình. Giọng thơ nhƣ thách thức.

+Câu 4: Liên từ mà cũng hàm nghĩa đối lập (có nghĩa là nhƣng). Từ này đƣợc đặt ở vị trí đầu câu thơ nên ý
nghĩa đối lập càng mạnh. Mà em vẫn giữ tấm lòng son. Dù sống trong bất cứ hoàn cảnh nào người phụ nữ vẫn giữ
được phẩm chất trong sạch, trắng trong của mình. Giọng thơ quả quyết, tự tin, tự hào. Ngƣời phụ nữ ý thức đƣợc
một cách đầy đủ nỗi đau và vẻ đẹp-vẻ đẹp hình thức và vẻ đẹp tâm hồn của minh.

2.1.2.3.Nỗi đau của thân phận làm lẽ.

-Bài thơ có giá trị nhất trong chùm thơ nói về nỗi đau khổ của ngƣời phụ nữ là bài Làm lẽ.

+ Hai câu đề:

Câu phá đề: Nhà thơ nói thẳng ngay vào vấn đề một cách cụ thể bằng

cách dựng lên cảnh:

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng

Câu thơ đƣợc ngắt làm hai theo biện pháp đối ngẫu của thơ Ðƣờng luật, nhằm đối lập hai cảnh sống trái ngƣợc
nhau, một bên thì ấm áp, một bên thì lạnh lẽo.

Câu thừa đề: Tiếp tục ý của câu phá đề, mặt khác tác giả ném ngay cái bực bội, cái căm uất của mình
lên cảnh sống bất công đó:

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Lời, ý của câu thơ rất mạnh bởi độüng từ chém mang thanh trắc rất gọn, sắc. Ðây là một lời chửi trong khẩu ngữ
của quần chúng.
http://diendankienthuc.net 58 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

-Hai câu thực:

Từ thái độ căm giận, Xuân Hƣơng đã chuyển sang miêu tả mối quan hệ vợ chồng của cảnh làm lẽ. Cũng tiếp tục ý
của hai câu đề, tác giả trình bày sự thiệt thòi của ngƣời vợ lẽ một cách cụ thể hơn. Quan hệ ái ân giữa ngƣời chồng
và ngƣời vợ diễn ra trong tình trạng:

Năm thì mƣời họa hay chăng chớ

Một tháng đôi lần có cũng không

-Hai câu luận:

Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm

Cầm bằng làm mướn, mướn không công

+Xuân Hƣơng đã vận dụng hai thành ngữ chịu đấm ăn xôi và làm mƣớn

không công để nói lên thân phận người vợ lẽ. Sự láy lại xôi lại hẩm, mướn không công cùng với nghệ thuật tiểu
đối đã cực tả đƣợc cảnh khổ nhục của ngƣời vợ lẽ.

-Hai câu kết: Thân này ví biết nhƣờng này nhỉ

Thà trước thôi đành ở vậy xong.

Ðây là lời tâm sự của ngƣời vợ lẽ, tự lòng mình nói với mình. Hai tiếng thân này cùng với những từ biểu thị
ý hối hận buông xuôi đi liền nhau:Ví biết, thà, thôi đành, vậy xong nghe như một tiếng thở dài não ruột, nhưng
tiếng thở dài này lại chứa đựng một sự phản ứng, một lời tố cáo đối với chế độ đa thê.

Tóm lại bài thơ đã nói lên nỗi xót xa, tủi nhục của kiếp lấy lẽ và thái độ của tác giả trƣớc thực trạng đó.

2.1.2.4.Nỗi đau của sự dở dang.

Bài thơ Sự dở dang.

Ở bài thơ này tác giả không trực tiếp phản ánh nỗi đau khổ, tủi nhục mà các cô gái lỡ làng phải chịu đựng
nhƣng qua bài thơ ngƣời đọc cũng có thể hình dung ra đƣợc sự tàn bạo, sự khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến đối
với họ.

Tóm lại viết về nỗi khổ của ngƣời phụ nữ, Hồ Xuân Hƣơng đã viết đƣợc những điều mà không mấy ai viết
đƣợc. Nhà thơ chƣa nói đến toàn bộ nỗi khổ của họ mà chủ yếu bà đi sâu vào những nỗi đau có tính chất giới tính
nhƣng không kém phần bi kịch. Nhƣng những bài thơ trên của Hồ Xuân Hƣơng đã hòa vào tiếng nói chung của
văn học đƣơng thời để nói lên tiếng nói về cuộc đời đầy bất hạnh của ngƣời phụ nữ.

2.1.3.Vẻ đẹp của hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hƣơng.

Viết về ngƣời phụ nữ, Hồ Xuân Hƣơng còn có những bài thơ bày tỏ niềm kiêu hãnh của mình về vẻ đẹp tâm hồn;
vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ; vẻ đẹp thân thể của ngƣời phụ nữ.

2.1 3.1.Vẻ đẹp tâm hồn.

-Trong bài thơ Ðề tranh tố nữ, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp bất diệt của tuổi xuân, sự trinh trắng của ho:ü
http://diendankienthuc.net 59 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình

Chị cũng xinh mà em cũng xinh

Ðôi lứa như in tờ giấy trắng

Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh

-Trong bài Bánh trôi nƣớc, nhà thơ đã ca ngợi, đề cao, trân trọng phẩm chất kiên trinh của ngƣời phụ nữ. Dù
sống trong hoàn cảnh nào họ cũng giữ đƣợc tấm lòng son.

-Trong bài Làm lẽ, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của sức chịu đựng, sức phản kháng cuả ngƣời phụ nữ.

-Bài Mời trầu lại là cái nhìn về vẻ đẹp của khát vọng sống.

-Bài Sự dở dang lại là vẻ đẹp của đức hi sinh, của sức phản kháng.

2.1.3.2.Vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ.

-Trong bài Ðề đền Sầm Nghi Ðống, tác giả đã thể hiện đƣợcsự tự ý thức về mình, thể hiện đƣợc tài năng của
ngƣời phụ nữ.

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo

Kìa đền thái thú đứng cheo leo

Ví đây đổi phận làm trai được.

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.

Ði qua ngôi đền thờ tên tƣớng bại trận, nhà thơ phụ nữ này đã không chịu cất nón, cúi đầu chào kính cẩn,
trái lại còn buông lời chê cƣời, mỉa mai: ghé mắt tức là nhìn liếc, nhìn bằng nửa con mắt. Kìa là chỉ, trỏ, không
đáng chú ý. Ðứng cheo leo: Thế đứng buồn tẻ, không có gì là vững chãi. Ðặc biệt ở hai câu kết nhà thơ đã dám nói
một điều táo bạo: Nếu đƣợc làm trai thì sự nghiệp anh hùng của ta sẽ không xoàng, không tồi tệ nhƣ sự anh hùng
của nhà ngƣơi đâu.

2.1.3.3.Vẻ đẹp thân thể.

-Hồ Xuân Hƣơng còn công khai ca ngợi và khẳng định vẻ đẹp thân thể của ngƣời phụ nữ.

-Cách miêu tả của Xuân Hƣơng thuộc vào loại độc đáo nhất của thời dại. Bà chú ý đến những bộ phận thân
thể thƣờng đƣợc dấu kín của con ngƣời. Những bộ phận đó văn học thời đại thƣờng né tránh. Riêng Hồ Xuân
Hƣơng lại nhìn thấy đó chính là một trong những biểu hiện của vẻ đẹp thân thể của ngƣời phụ nữ. Cách miêu tả
của bà cụ thể, không chung chung, mờ nhạt:

Ðôi gò Bồng đảo hương còn ngậm

Một lạch Ðào nguyên suối chửa thông

Tất cả còn phong nhụy, trinh nguyên.

http://diendankienthuc.net 60 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Tóm lại viết về ngƣời phụ nữ Hồ Xuân Hƣơng đã biểu thị một thái độ xót thƣơng, thông cảm, tin yêu và đấu tranh
bênh vực cho quyền sống của họ. Cũng vì thế mà thơ bà có giá trị nhân đạo sâu sắc.

2.Những vần thơ trữ tình yêu đời.

Hồ Xuân Hƣơng không phải chỉ là một con ngƣời nguyền rủa, đập phá mà bà còn là một con ngƣời
chứa chan tình cảm, giàu khát vọng và thiết tha với đời. Con ngƣời trong thơ Hồ Xuân Hƣơng luôn luôn sẵn sàng
mở rộng tấm lòng của mình đễ chào đón tất cả những gì trẻ trung, tƣơi tắn. Ðiều này thể hiện tập trung nhất ở cách
nhìn cảnh vật thiên nhiên của tác giả.

Là một nhà thơ yêu đời Xuân Hƣơng thƣờng nhắc đến mùa xuân một cách trực tiếp hay gián tiếp với một
tình cảm đằm thắm, lạc quan. Và bao giờ bà cũng tìm thấy ở mùa xuân một hứng thú mới để gắn bó hơn với cuộc
sống.

3.Những vần thơ trào phúng.

2.3.1.Ðối tƣợng trào phúng.

Ðó là những hiền nhân, quân tử, anh hùng, vua chúa, nhà sƣ, quan thị, những gƣơng mặt nam nhi không
xứng mặt nam nhi. So với các tác khác cùng thời, so với văn học dân gian, đối tƣợng phê phán trong thơ Hồ Xuân
Hƣơng phong phú hơn.

2.3.2.Nội dung trào phúng.

-Hồ Xuân Hƣỡng lên án, châm biếm thói đạo đức giả .

-Hiền nhân, quân tử, anh hùng, vua chúa là những ngƣời theo đòi giáo lý của Khổng- Mạnh, là những ngƣời
luôn rêu rao tinh thần khắc kỷ để phục lễ, luôn đề cao khẩu hiệu nam nữ thụ thụ bất thân, tự cho mình là ngƣời
không lƣu tâm đến sắc dục. Vậy mà trong thơ Xuân Hƣơng, những hạng ngƣời cao quý này lại hiện lên với những
ham muốn sắc dục mãnh liệt và duy nhất chỉ có ham muốn ấy mà thôi. Viết điều ấy, đúng là nữ sĩ đã hạ bệ đối
tƣợng chóp bu này không chút thƣơng tiếc.

Tóm lại: Chùm thơ đả kích trào lộng này tuy chƣa đề cập đến đời sống vật chất của xã hội nhƣng ngòi bút trào
lộng sắc sảo của Xuân Hƣơng cũng đã có những đóng góp đáng quý. Cùng với thơ ca dân gian thời kỳ này, chùm
thơ phê phán hiện thực trên chắc chắn đã hỗ trợ đắc lực cho phong trào đấu tranh của quần chúng bấy
giờ.

4.Một số vấn đề về nghệ thuật.

2.4.1.Vấn đề tục và dâm trong thơ bà.

Ðây là vấn đề từng gây nhiều tranh cãi và nói chung ở mỗi thời đại, mỗi giai cấp đều có những ý kiến khác nhau.

*Trƣớc Cách mạng tháng tám:

-Giai cấp phong kiến cho thơ bà không đứng đắn, tà dâm.

-Giai cấp tƣ sản tán thành cái tình trong thơ bà nhƣng lại cho rằng thơ bà có ý lẳng lơ.

*Sau Cách mạng tháng tám:

http://diendankienthuc.net 61 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

-Nhờ có quan niệm mĩ học Mác-Lênin soi rọi các nhà nghiên cứu đều nhất trí cho rằng thơ Xuân Hƣơng chứa chan
tinh thần nhân đạo và giá trị phê phán xã hội nhƣng vấn đề dâm và tục vẫn chƣa nhất trí, tựu trung có ba loại ý
kiến:

-Tƣ tƣởng chi phối tập thơ là tƣ tƣởng dâm. (tiêu biểu cho loại ý kiến này là ý kiến cuả ông văn tânVăn Tần).

-Thơ Xuân Hƣơng có bài dâm có bài không dâm mà chỉ là tục (tiêu biểu cho loại ý kiến này là ý kiến cuả ôngTrần
Thanh Mại).

-Thơ Xuân Hƣơng có những hình ảnh tục nên một số bài có bị hạn chế nhƣng nhìn chung là tốt cả ( tiêu biêu cho
loại ý kiến này là ý kiến cuả nhà thơXuân Diệu).

*Chúng ta cần hiểu cơ sở để xác định một tác phẩm nghệ thuật, một tác phẩm văn chƣơng có yếu tố dâm hay
không là xác định cho đƣợc mục đích phản ánh của cái tục là gì? Tác phẩm văn học là dâm khi nó lấy cái tục làm
mục đích và lúc đó cái tục sẽ trở thành nội dung của nghệ thuật. Nếu cái tục chỉ là phƣơng tiện nghệ thuật để nhà
văn biểu hiện cảm xúc, tình cảm lành mạnh nào đó thì không thể kết luận tác phẩm ấy có yếu tố dâm.

Tóm lại: Tục và dâm khác nhau ở mục đích phản ánh của từng yếu tố ấy.

Thực tế trong sáng, Xuân Hƣơng đã sử dụng cái tục làm phƣơng tiện nghệ thuật để phê phán, đả kích, trào lộng, để
bộc lộ cảm xúc nhân đạo của mình.

2.4.2.Ngôn ngữ thơ ca.

-Ngôn ngữ thơ bà đƣợc lựa chọn trong kho tàng ngôn ngữ của văn học dân gian. Trong kiến trúc câu thơ,
yếu tố ca dao, tục ngữ đƣợc bà đặt rất đúng chỗ nên rất tự nhiên và nó có sức mạnh riêng của nó.

-Tác giả dùng những vần khó gieo, thi pháp trung đại gọi là tử vận-vần chết, khó họa lại nhƣng khi sử dụng
thành công lại có giá trị độc đáo. Ví dụ vần ênh trong bài Tự tình số III, vần này đã gợi cảm giác bất định, mong
manh về số phận của ngƣời phụ nữ trong xã hội phong kiến.

-Thơ Ðƣờng luật vốn đƣợc dùng trong thi cử, niêm luật chặt chẽ, hình thức đƣờng bệ, nội dung cũng đƣờng
bệ. Hồ Xuân Hƣơng đã đem đến cho thể thơ này một nội dung rất thông tục.

III.KẾT LUẬN

Xuân Hƣơng thi tập cũng là một tập thơ của thời đại, thời đại cuối Lê- đầu Nguyễn, thời đại đấu tranh sôi
nổi để đẩy lùi lễ giáo phong kiến vô nhân đạo, đấu tranh để đòi hỏi đƣợc xác nhận thân phận, đòi hỏi để đƣợc xác
nhận quyền sống tự do và hạnh phúc. Xuân Hƣơng thi tập đã thể hiện đƣợc phần nào những khát vọng đó của con
ngƣời thời đại.

Chƣơng 14: TRUYỆN THƠ NÔM

I.MỘT SỐ VẤN CHUNG VỀ TRUYỆN THƠ NÔM

-Truyện Nôm là một bộ phận văn học khá độc đáo và có giá trị của nền văn học phong kiến Việt Nam. Ðây
là một loại hình tự sự có khả năng phản ánh hiện thực với một phạm vi tƣơng đối rộng, vì vậy có ngƣời gọi truyện
thơ Nôm là trung thiên tiểu thuyết (tiểu thuyết vừa). Bộ phận văn học này đƣợc sáng tác bằng chữ Nôm và phần
lớn đƣợc viết theo thể lục bát- thể thơ quen thuộc nhất với quần chúng. Một số ít khác viết theo thể thất ngôn bát
cú (thơ Ðƣờng luật), tác phẩm Lâm Tuyền kỳ ngộ thuộc loại này.
http://diendankienthuc.net 62 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Bộ phận văn học này có một số lƣợng khá lớn và có vị trí rất quan trọng trong đời sống tinh thần của quần
chúng lao động.

-Giá trị của truyện Nôm đã đƣợc khẳng định qua thời gian tồn tại của nó và lòng hâm mộ của quần chúng ở
nhiều thế hệ. Song hiện tại khi nghiên cứu bộ phận văn học này chúng ta sẽ gặp một số vấn đề khó giải quyết nhƣ:
Nguồn gốc, sự phát triển, thời điểm sáng tác. Cố nhiên các nhà nghiên cứu bƣớc đầu cũng đã co đƣợcï những ý
kiến về các vấn đề trên, tuy mới dừng lại ở mức độ của những giả thiết.

1.Vấn đề nguồn gốc và sự phát triển của truyện Nôm.

-Hình thức đầu tiên của các truyện Nôm là những bài hát tự sự của các nghệ nhân hát rong (hiện tƣợng
hát rong xuất hiện ở nƣớc ta từ thế kỷ nào thì chƣa xác định đƣợc, chỉ biết rằng khi có các đô thị thì đã có nhiều
ngƣời sống bằng nghề này, nhất là sau thế kỷ XV).

Những bài hát tự sự này phần lớn đƣọc các nghệ nhân sáng tác hoặc dựa trên cơ sở của truyện cổ dân gian,
hoặc rút ra từ một truyện Nôm đã có trƣớc. Càng về sau, những bài hát này càng đƣợc bồi bổ thêm về mặt nội
dung cũng nhƣ nghệ thuật và đến một lúc nào đố bài hát đã đƣợc ghi vào trong sách, từ đó chính thức trở thành
một truyện Nôm (lọai này có thể kể đến truyện: Trƣơng Chi, Tấm Cám).

-Nơi thứ hai sản sinh ra các truyện Nôm là các nhà chùa của đạo phật. Ðể tuyên truyền đạo phật cho các tín
đồ mà phần đông là không biết chữ, một số nhà sƣ có học đã nghĩ ra cách diễn Nôm một số sự tích trong kinh
phật, hình thức này ngày càng phát triển và nhiều truyện Nôm đã xuất hiện theo con đƣờng này.

Trên đây là nguồn gốc ra đời của truyện Nôm, trong hai hình thức trên cái nào có trƣớc, cái nào có sau
chúng ta vẫn chƣa xác định đƣợc.

-Các hình thái của truyện Nôm.

+Truyện Nôm ra đời và tồn tại với hình thái đầu tiên là truyện Nôm truyền khẩu. Sau một thời gian dài, khi
phong trào truyện Nôm truyền khẩu phát triển mạnh mẽ thì các nho sĩ bình dân và bác học đã mạnh dạn sử dụng
loại hình văn học này để sáng tác, hoặc ghi chép lại những truyện Nôm đã có. Từ đó truyện Nôm viết đƣợc xuất
hiện. Cũng nhƣ mọi hình thái sáng tác, truyện Nôm không phải là đã kế tiếp nhau một cách dứt khoát mà mỗi cái
khi xuất hiện đều tồn tại song song với những cái xuất hiện trƣớc hoặc sau nó.

+Cho đến nay chúng ta vẫn chƣa xác định đƣợc truyện Nôm viết xuất hiện vào thời gian nào và sự
phát triển của nó trong lịch sử văn học. Bởi vì cho đến nay hầu hết các truyện Nôm còn lại đều không có tên tác
giả và thời điểm sáng tác.

+Các nhà nghiên cứu đã căn cứ vào mối quan hệ giữa nội dung tác phẩm và hiện thực đời sống xã hội,
căn cứ vào tài liệu cấm đoán của giai cấp thống trị, căn cứ vào hình thức ngôn từ và thể loại mà đi đến một nhận
định sơ bộ về sự phát triển của bộ phận văn học này nhƣ sau: Chính giai đoạn lịch sử từ thế kỷ XV đến thế kỷ
XIX là giai đoạn bộ phận văn học này ra đời và phát triển, thời kỳ cực thịnh của nó là thế kỷ XVIII đến thế kỷ
XIX. Phần lớn các truyện Nôm lƣu hành hiện nay cũng ra đời trong hai thế kỷ này. Sang đầu thế kỷ XX việc sáng
tác truyện Nôm dần dần chấm dứt vì thể loại văn xuôi mới ra đời đã đủ sức thay thế nó.

2.Vấn đề khuyết danh.

-Hiện nay chúng ta còn một số lƣợng khá lớn truyện Nôm không còn tên tác giả và thời điểm sáng tác,
ngƣời ta gọi bộ phận văn học này là truyện Nôm khuyết danh.Nguyên nhân của hiện tƣợng văn học này? Có ba
nguyên nhân.

http://diendankienthuc.net 63 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

+Do tâm lý coi thƣờng các sáng tácbằng chữ Nôm của các nhà nho. Tâm lý này đã ảnh hƣởng đến
nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội kể cả những ngƣời sáng tác. Do bị coi thƣờng (bị coi là loại văn học nhảm
nhí, nôm na, mách qué) cho nên khi các sáng tác bằng chữ Nôm ra đời tác giả của chúng không đƣợc chú ý đến và
dần dần bị quên lãng.

+Do sự cấm đoán, thái độ thù địch của giai cấp thống trị. Ðể tránh búa rìu của bọn chúng, nhiều tác
giả đã không dám lƣu danh trong sáng tác. Ðây là một nguyên nhân quan trọng.

+Nguyên nhân văn học:Trƣớc khi đƣợc ghi chép bằng chữ quốc ngữ, truyện Nôm đƣợc lƣu hành
trong nhân dân chủ yếu là bằng miệng. Qua một thời gian dài lƣu hành từ ngƣời này sang ngƣời khác, từ vùng này
sang vùng khác nhiều truyện Nôm dần dần mất tên tác giả ban đầu và trở thành tác phẩm khuyết danh, có truyện
đã trở nên rất gần gũi với các truyện cổ dân gian.

3.Vấn đề phân loại.

Truyện Nôm có một số lƣợng khá lớn hơn nữa lại do nhiều tầng lớp khác nhau sáng tác cho nên nội dung
cũng nhƣ nghệ thuật của nó đều không thuần nhất. Ðể tiện cho việc nghiên cứu ngƣời ta đã tiến hành phân loại bộ
phận văn học này. Dựa theo những căn cứ khác nhau mà có những cách phân loại khác nhau. Có thể phân loại
theo ba cách sau:

1.3.1.Dựa vào nguồn gốc đề tài có ba loại.

-Loại lấy đề tài từ các truyện cổ dân gian. Ví dụ: Trƣơng Chi, Tấm Cám, Thạch Sanh.

-Loại lấy đề tài, cốt truyện từ văn học Trung Quốc. Ví dụ: Truyện Hoa Tiên, Nhị độ mai, Phan Trần.

-Loại lấy đề tài, cốt truyện từ những sáng tác chữ Hán hoặc những sự tích có thật ở Việt Nam. Ví dụ: Tống
Trân-Cúc Hoa, Bích Câu kỳ ngộ.

1.3.2.Dựa vào nội dung và hình thức, có hai loại.

-Truyện Nôm bình dân: Loại này do các nho sĩ bình dân sáng tác.

+Về nội dung loại truyện này mang đậm tính chất quần chúng.

+Về nghệ thuật: mộc mạc , giản dị.

+Ví dụ: Tống Trân- Cúc Hoa, Phạm Công-Cúc Hoa, Phạm Tải-Ngọc Hoa.

-Truyện Nôm bác học: Lọai này do các nhà nho thuộc tầng lớp trên sáng tác.

+Về nội dung, tƣ tƣởng có phần phức tạp hơn truyện Nôm bình dân.

+Về nghệ thuật điêu luyện hơn truyện Nôm bình dân.

+Ví dụ: Phan Trần, Nhị độ mai.

1.3.3.Dựa vào mối quan hệ với tác giả: phân làm hai loại.

-Truyện Nôm hữu danh (còn tên tác giả, ví dụ truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự), loại này còn lại không
nhiều. Truyện Nôm hƣũ danh phần lớn là truyện Nôm bác học.

http://diendankienthuc.net 64 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

-Truyện Nôm khuyết danh (không còn tên tác giả). Phần lớn các truyện Nôm khuyết danh là truyện Nôm
bình dân.

.Cả ba hình thức phân loại trên chỉ có tính chất tƣơng đối, trong đó hình thức thức thứ hai là hình thức
phân loại có giá trị khoa học.

II.ÐẶC ĐIỂM NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN THƠ NÔM BÌNH DÂN.

1.Nội dung.

Vấn đề trung tâm đặt ra trong hầu hết các truyện Nôm bình dân là cuộc đấu tranh của những ngƣời bị
áp bức chống cƣờng quyền bạo chúa bảo vệ tình yêu thủy chung, bảo vệ hạnh phúc gia đình, bảo vệ nhân phẩm.
Qua cuộc đấu tranh nhiều khi không cân sức ấy, tác giả truyện Nôm bình dân có ý thức làm nổi bật hai vấn đề cơ
bản sau:

-Tố cáo bộ mặt thối nát, tàn bạo của xã hội phong kiến trên bƣớc đƣờng suy vong của nó.

-Ðề cao phẩm chất tốt đẹp của quần chúng lao động.

-Ngoài ra các tác giả truyện Nôm bình dân cũng thƣờng đƣa ra những cách giải quyết tích cực, tiến bộ các
vấn đề xã hội.

Ba vấn đề này đƣợc coi là ba đặc điểm chính về nội dung của truyện Nôm bình dân. Ba đặc điểm này cũng
đã nói lên rằng truyện Nôm bình dân có một nội dung gần gũi với quan niệm đạo đức, thẩm mĩ của quần chúng
lao động.

2.1.1.Tố cáo bộ mặt cực kỳ thối nát, tàn bạo của xã hội phong kiến.

-Trong vấn đề phản ánh hiện thực, tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, vạch rõ bản chất của xã hội phong kiến, nói
lên những nỗi thống khổ của quần chúng lao động, tác giả của những truyện nôm giàu tính quần chúng này cũng
chƣa có đƣợc cái nhìn đầy đủ, sâu sắc và toàn diện. Kẻ thù giai cấp của quần chúng hiện lên trong trụuyện chƣa
phải là cả hệ thống giai cấp phong kiến thống trị đã cấu kết với nhau để bóc lột nhân dân mà chỉ hiện lên lẻ tẻ.
Hình thức bóc lột chính là bóc lột về mặt kinh tế vẫn chƣa đƣợc các tác giả của bộ phận văn học này đề cập đến.
Song ở một mức độ nào đó các tác giả này cũng đã chung sức vạch rõ bản chất thối nát , tàn bạo của xã hội phong
kiến. Họ cũng đã dũng cảm làm cái công việc mà những nhà thơ, nhà văn đại diện cho quyền lợi của giai cấp
thống trị không dám làm hoặc che dấu để dối mình, lừa ngƣời. Ðó là phơi bày chân dung thực vốn hết sức bẩn thỉu
của giai cấp thống trị. Có thể nói, cùng với bộ phận văn học dân gian, truyện Nôm bình dân đã giúp chúng ta tìm
hiểu thêm đƣợc nhiều mặt thuộc về bản chất của xã hội phong kiến, một xã hội mà lịch sử dân tộc ta mãi còn lên
án.

-Những truyện Nôm khuyết danh đã xây dựng đƣợc một hệ thống nhân vật phản diện từ vua chúa, quan lại, bọn
nhà giàu ở nông thôn cho đến cả thần thánh (những thần thánh tàn ác). Qua hệ thống nhân vật phản diện này các
tác giả đã vạch trần, tố cáo bản chất xấu xa của giai cấp bóc lột, áp bức đồng thời nói lên tình trạng thống khổ của
các tầng lớp nhân dân với một thái độ đồng tình sâu sắc..

-Vua chúa:

+Nếu nhƣ trong văn học bác học vua chúa thƣờng đƣợc nhắc đến với một thái độ tôn kính hoặc đƣợc coi
nhƣ những thần tƣợng thiêng liêng tôn quý thì ở truyện Nôm bình dân chúng chỉ là những tên hôn quân, bạo chúa
đáng lên án nhất. Loại truyện này nói rất nhiều đến việc vua chúa ép duyên trắng trợn. Hoặc chúng ép các tân khoa
trạng nguyên phải bỏ vợ tào khang (ngƣời vợ đã cùng chung sống trong cảnh nghèo hèn) để lấy con gái mình (hai
tên vua trong Tống Trân-Cúc Hoa đã lần lƣợt ép Tống Trân lấy con gái mình, bỉ ổi nhất là tên vua nƣớc Việt sau
http://diendankienthuc.net 65 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

khi không ép đƣợc Tống Trân hắn đã đẩy chàng đi xa). Hoặc những tên vua nhƣ Trang vƣơng trong Phạm Tải-
Ngọc Hoa, vua Hung Nô trong Lý Công đã ép những ngƣời con gái đẹp bỏ chồng để lấy mình. Tàn bạo nhất vẫn là
Trang Vƣơng, hành động ép buộc của y đã đẩy Ngọc Hoa-một cô gái đang yêu vào chỗ chết. Cái chết của nhân vật
này đã gieo vào lòng ngƣời đọc một nỗi thƣơng tâm vô hạn và càng thấy căm thù hơn giai cấp phong kiến thống
trị.

+Có quyền, có lực bọn vua chúa tự cho phép mình làm những việc trái với luân thƣờng, đạo lý nhằm thỏa
mãn dục vọng đen tối của mình nhƣng mặt khác đối với quần chúng lao động- những con ngƣời bị áp bức- bọn
chúng lại ra sức kìm hãm tình cảm chân chính của họ. Tên vua Bảo Vƣơng trong Lý Công đã cƣơng quyết cắt đứt
tình cha con, nhẫn tâm bắt con gái độc nhất cho voi giày, không đƣợc thì đem thả bể trôi sông chỉ vì công chúa đã
tự tiện yêu đƣơng ngoài sự kiểm soát của cha mẹ.

-Quan lại: Trong truyện Nôm bình dân, bon quan lại hiện lên chỉ là những kẻ bất tài, bất lực, chỉ giỏi việc xu nịnh
vua, giỏi ức hiếp dân. Cả lũ triều thần trong Phạm Tải-Ngọc Hoa không ngăn cản nổi vua làm điều xằng bậy lại
con xúi giục vua đi sâu vào tội lỗi. Tên quan trong Phƣơng Hoa chỉ vì không lấy đƣợc ngƣời con gái đã hứa hôn
đã đem tay chân đến giết hại, cƣớp của, phá nhà của cô gái ấy.

-Bọn nhà giàu ở nông thôn:

Những phú ông, những trƣởng giả-bọn giàu có ở nông thôn đƣợc phản ánh trong các truyện Nôm khuyết danh
bình dân khá sâu sắc. Nét nổi bật ở bọn ngƣời này là tâm lý tham tiền. Vì tiền, bọn chúng có thể làm tất cả. Có độc
giả nào lại không căm ghét tên trƣởng giả trong Tống Trân-Cúc Hoa. Vì tiền mà hắn đã coi con gái nhƣ một món
hàng có thể đánh mõ, rao làng, gả bán mấy lần cũng đƣợc. Chẳng cần giữ một chút liêm sĩ nào cả, y ép Cúc Hoa
phải bỏ chồng đi vắng để lấy một ngƣời triệu phú trong làng. Khi con gái kháng cự lại, y đã hành hạ con không
tiếc tay và cuối cùng vẫn gả bán con cho bằng đƣợc mặc cho cô gái tội nghiệp kêu than.

*Tóm lại: Tất cả những bọn này để đạt đƣợc mục tiêu ích kỷ, đê hèn của mình đã không từ một âm mƣu, một thủ
đoạn đen tối, hiểm độc nào. Chúng đã giày xéo lên những đạo đức, luân lý cơ bản nhất, giày xéo lên những pháp
luật mà chúng đặt ra, giày xéo lên tính mạng của ngƣời dân và phá hoại hạnh phúc của bao nhiêu ngƣời vô tội.

Ðồng thời với việc tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, tác giả của bộ phận văn học này đã nói lên đƣợc nỗi thống
khổ của quần chúng lao động (hạnh phúc tan vỡ, tính mạng bị đe dọa.. .) với một thái độ đồng tình sâu sắc.

2.1.2.Ðề cao những phẩm chất tốt đẹp của quần chúng lao động.

Truyện Nôm bình dân có một giá trị nhân đạo khá sâu sắc bởi nó không chỉ tố cáo những tội ác của giai cấp
thống trị với quần chúng lao động , với những con ngƣời bị áp bức, đè nén mà các tác giả của bộ phận văn học này
còn có ý thức đề cao phẩm chất tốt đẹp của quần chúng lao động, đặc biệt là đề cao ngƣời phụ nữ- con ngƣời thấp
hèn nhất trong xã hội xƣa.

-Khuynh hƣớng đề cao quần chúng lao động đều thể hiện rất rõ trong mọi truyện Nôm bình dân. Ta thấy
rằng các nhân vật chính bao giờ cũng là những ngƣời lao động, những ngƣời bị áp bức, bóc lột. Truyện viết về họ
nên tác giả thƣờng lấy tên họ đặt cho tác phẩm: Thạch Sanh, Tấm Cám, Trƣơng Chi.. .

-Ðề cao phẩm chất tốt đẹp của quần chúngü, tác giả của bộ phận văn học này chủ yếu viết về những tình
cảm tốt đẹp và lòng nhân đạo cao quý của họ. Trƣớc hết là lòng thƣơng ngƣời, một tình thƣơng hết sức mộc mạc,
chân thành mà cảm động và vững bền.

-Ðó là những con ngƣời nhƣ Cúc Hoa, Ngọc Hoa sẵn sàng yêu thƣơng kẻ nghèo khó khốn cùng (mẹ con
Phạm Công, Phạm Tải). Ðó là tấm lòng cƣu mang những con ngƣời sa cơ, lỡ vận; là tấm lòng chí hiếu của những
nàng dâu đối với mẹ chồng nhƣ Thoai Khanh đối với mẹ Châu Tuấn, Cúc Hoa đối với mẹ Phạm Công. Quan hệ
mẹ chồng-nàng dâu ở đây đƣợc khẳng định là một tình cảm tốt đẹp, đáng quý chứ không phủ định nhƣ ở ca dao.
http://diendankienthuc.net 66 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

-Nổi bật nhất vẫn là tình cảm, tình yêu của những cặp vợ chồng, họ yêu thƣơng thắm thiết và chung thủy hết
mực với nhau. Sự chung thủy của vợ chồng Phạm Công-Cúc Hoa, Phạm Tải-Ngọc Hoa đã giúp họ vƣợt qua mọi
thử thách, mọi cảnh ngộ éo le mà xã hội phong kiến đã bày ra, giúo họ vƣợt lên trên sự cám dỗ của giàu sang, phú
quý, đứng vững trƣớc sự đe dọa của cƣờng quyền, bạo lực.

-Ðề cao quần chúng lao động, tác giả của bộ phận văn học này cũng đặc biệt chú ý đề cao ngƣời phụ nữ.
Ðây cũng là một nét đặc sắc của văn học giai đoạn này đồng thời nó cũng là sự phản ánh vai trò, chức năng của
ngƣời phụ nữ vào văn học. Các nhân vật phụ nữ xuất hiện trong các truyện Nôm bình dân có nhiều nét đổi mới:
Họ xuất hiện với một tƣ thế của ngƣời vƣơn lên làm chủ vận mệnh. Thƣờng xuất thân từ lá ngọc cành vàng (con
nhà triệu phú trở lên nhƣ Cúc Hoa) nhƣng các nhân vật nữ này lại có thân phận cụ thể của quần chúng lao động
(họ cũng bị áp bức, đè nén; giàu lòng trắc ẩn, giàu lòng thƣơng ngƣời).

Các điểm cần lƣu ý.

+Các nhân vật nữ đã dám hành động theo suy nghĩ của mình chứ không theo đạo đức phong kiến.
Hành động của Cúc Hoa, Ngọc Hoa quả là những hành động táo bạo. Hai cô gái này đã cƣơng quyết lấy ngƣời con
trai mà mình đã thƣơng yêu dù những chàng trai đó là những ngƣời ăn mày nghèo nàn. Quan niệm về hôn nhân
của Cúc Hoa, Ngọc Hoa là một quan niệm hết sức tiến bộ, nó vƣợt xa quan niệm môn đăng hộ đối của các cô gái
quý tộc xƣa. Hai cô dám nhìn thẳng vào chân giá trị của những con ngƣời nghèo hèn nhất, đến với họ và đến với
cả một tấm lòng yêu thƣơng và thông cảm.

+Hoàn toàn khác với các cô gái trong truyện Nôm bác học, đến với tình yêu bằng sự rung động của
giới tính, cac cô gái của truyện Nôm bình dân đã đến với tình yêu bằng sự rung động của đạo đức-lòng yêu thƣơng
những ngƣời nghèo. Ðây chính là cơ sở của nhiều mối tình son sắt, thủy chung bất chấp những ngang trái của cuộc
đời cũ.

+Một số nhân vật nữ không chỉ dám chủ động xây dựng hạnh phúc mà còn tích cực đấu tranh để bảo vệ hạnh
phúc và tình yêu đẹp đẽ của mình (nên nhớ rằng các nhân vật này bảo vệ tình yêu, hạnh phúc của bản thân chứ
không phải để bảo vệ đạo đức phong kiến). Và trong cuộc đấu tranh đó họ đã bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp
(lòng vị tha, đức hi sinh, nghị lực phi thƣờng, trí thông minh quyết đoán...) mà nội dung phản ánh còn đƣợc mở
rộng, ý nghĩa xã hội của chủ đề đƣợc nâng cao. Cuộc đấu tranh của họ ngoài ý nghĩa bảo vệ hạnh phúc, tình yêu
còn có ý nghĩa bảo vệ nhân phẩm, bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ công lý.

+Cố nhiên những phẩm chất đạo đức trên thƣờng bị tác giả quy vào những quan niệm: trung, hiếu,
tiết, nghĩa của hệ thôïng luân lý Nho giáo. Nhƣng xét cho cùng những khái niệm đạo đức đó căn bản đã có một nội
dung nhân đạo đƣợc nhân dân tán thành và ƣa chuộng.

2.1.3.Cách giải quyết các vấn đề xã hội.

-Truyện Nôm bình dân không chỉ đặt ra những vấn đề lớn lao mà truyện Nôm còn đƣa ra đƣợc cách giải quyết tích
cực là để những ngƣời lƣơng thiện chiến thắng các lực lƣợng bạo tàn. Ðây là phần lãng mạn tích cực của bộ phận
văn học này vì thực ra trong chế độ phong kiến nói chung nhân dân lao động làm gì kiếm ra đƣợc hạnh phúc trọn
vẹn bởi các cuộc khởi nghĩa của nông dân thƣờng đi đến thất bại hoặc chỉ đƣa đến một sự thay đổi triều đại rồi đâu
lại vào đấy.

-Nhƣng có một điều là sống trong xã hội đen tối đó quần chúng lao động bao giờ cũng có một ƣớc mơ về một xã
hội không có sự bất công, bất bình đẳng, một xã hội thái bình trong đó ngƣời ta sống yêu thƣơng nhau và có hạnh
phúc đầy đủ, họ ƣớc mơ một xã hội có vua tốt, tôi hiền. (Văn học dân gian nói đến vấn đề này rất rõ). Ðó là những
mơ ƣớc chính đáng (xét trong hoàn cảnh xã hội) chứ chƣa phải là nhữnh mơ ƣớc đúng đắn nhất, đầy đủ nhất. Tác
giả của bộ phận văn học này là những ngƣời có cuộc sống khá gần gũi với quần chúng lao động nên họ hiểu đƣợc
quần chúng nhiều hơn và phản ánh đƣợc những ƣớc mơ đẹp đẽ, phản ánh đƣợc tinh thần lạc quan mạnh khỏe của

http://diendankienthuc.net 67 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

quần chúng vào sáng tác của mình. Vì thế các sáng tác của các tác giả bình dân này đã tiếp thêm sức sống cho con
ngƣời lao động trong xã hộ xƣa, quần chúng tìm đến những sáng tạo nghệ thuật này một phần cũng vì lý do trên.

-Chúng ta cũng cần biết thêm rằng: Do những hạn chế của lịch sử cho nên các tác giả cũng chƣa nhìn thấy ở quần
chúng cái động lực để giải quyết các vấn đề thời đại đặt ra, cho nên trong đấu tranh họ phải nhờ đến những lực
lƣợng siêu hình nhƣ thần phật giúp đỡ. Nhƣng thần phật cũng chỉ có mặt để cho con ngƣời chiến đấu hết mình với
hoàn cảnh. Trong cuộc đấu tranh sinh tử ấy, con ngƣời vẫn phải chủ động, vẫn phải nỗ lực rất nhiều.

2.Ðặc điểm nghệ thuật.

2.2.1.Kết cấu cốt truyện.

-Truyện Nôm bình dân có một phong cách gần giống với truyện cổ dân gian, có thể coi nó là gạch nối giữa văn
học dân gian và văn học bác học.

-Phần lớn các truyện bình dân này đều mƣợn kết cấu, cốt truyện của truyện cổ dân gian và bảo lƣu khuôn
dạng của truyện cổ. Cơ sở cốt truyện là xung đột xã hội, xung đột giữa thiện, ác nhƣng các truyện Nôm bình dân
chỉ biểu hiện ở góc độ bảo vệ tình yêu, hạnh phúc; chống lại sự thống trị của giai cấp phong kiến; kết cấu theo
đƣờng thẳng; kết thúc có hậu; tình tiết phát triển theo sự phát triển của nhân vật chính.

-Tuy nhiên so với văn học dân gian, truyện Nôm bình dân cũng có một số nét khác biệt thể hiện của một thể
loại có khả năng phản ánh hơn truyện cổ nhƣ tác giả đã chú ý mô tả một số cảnh sinh hoạt xã hộivà con ngƣời, yếu
tố trữ tình ít nhiều đã có vị trí đáng kể, thỉnh thoảng có tác giả đã chú ý miêu tảí tâm trạng của nhân vật. Ngoài ra
truyện Nôm bình dân cũng không còn những lời bình luận, triết lý về cuộc đời của tác giả ở đầu hay cuối truyện
nhƣ ở truyện cổ.

2.2.2.Nhân vật.

Nhà văn quan tâm đến việc dựng câu chuyện, đến hành động chứ không chú ý

đến tâm ly ïnhân vật. Thƣờng nhân vật phản diện thành công hơn nhân vật chính diện. Nhiều nhân vật còn rất đơn
giản mặc dù đã đúng về bản chất.

2.2.3.Phƣơng pháp sáng tác.

Ðã có sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn nhƣng sự kết hợp này còn non nớt vô cùng, nó chƣa
phản ánh đƣợc một cách chân thực quá trình phát triển biện chứng của nhân vật, mỗi truyện đều chƣa có đƣợc
phong cách riêng, nhiều chuyện còn có chung môtip về nhân vật chính diện (nho sĩ nghèo đỗ trạng nguyên(bị ép
duyên rồi vì từ chối mà bị hãm hại hoặc đi sứ xa, sau đƣợc sum họp).

III.MỘT SỐ NÉT HẠN CHẾ

-Thể hiện cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt trong xã hội mới ở khía cạnh đấu tranh bảo vệ tình yêu, hạnh
phúc lứa đôi.

-Chƣa phản ánh khía cạnh giai cấp thống trị cấu kết với nhau để bóc lột nhân dân về kinh tế.

-Chƣa gắn đƣợc cuộc đấu tranh giữa những ngƣời bị áp bức vào cuộc đấu tranh của quần chúng lao động
trong xã hội.

-Ƣớc mơ cuối cùng của tác giả là thay đổi triều đại chứ chƣa phải là thay đổi chế độ xã hội.

http://diendankienthuc.net 68 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Những hạn chế trên là tất yếu vì sống trong xã hội phong kiến các tác giả không thể thoát khỏi ảnh hƣởng nhiều
hay ít của tƣ tƣởng thống trị xã hội cũng nhƣ không thể vƣợt qua đƣợc hạn chế của lịch sử.

IV.KẾT LUẬN

Tuy còn có một số hạn chế nhất định nhƣng Truyện bình dân vẫn là một bộ phận văn học có giá trị, là vốn quý
trong gia tài văn hóa chung của dân tộc. Bộ phận văn học này đã đóng góp tiếng nói vào loại hình tự sự của nền
văn học nƣớc nhà. Cùng với các bộ phận truyện Nôm khác, bộ phận truyện Nôm khuyết danh tạo nên một nền
rộng rãi để trên cơ sở đó xuất hiện kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Chƣơng 15: Nguyễn Du và Truyện Kiều.

Phần thứ nhất.

VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI, CON NGƢỜI VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƢƠNG CỦA NGUYỄN DU

I.CUỘC ĐỜI VÀ CON NGƢỜI

1.Thời đại.

Thời đại là một cơ sở sâu xa tạo nên sự xuất hiện gƣơng mặt thiên tài văn học Nguyễn Du.

-Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (tính ra dƣơng lịch là ngày 3 tháng 1 năm 1766) tại kinh đô
Thăng Long và lớn lên ở đấy. Ông mất ngày 16 tháng 9 năm 1920 tại Huế. Nhà thơ sống vào giai đoạn lịch sử xã
hội Việt Nam có nhiều biến động dữ dội, nhất là khoảng 30 năm đầu của cuộc đời nhà thơ. Nguyễn Du đã có dịp
chứng kiến những biến cố lịch sử trọng đại nhất: Sự sụp đổ thảm hại của tập đoàn phong kiến thống trị Lê-Trịnh,
vận mệnh ngắn ngủi nhƣng rạng rỡ của phong trào Tây Sơn và triều đại Quang Trung, công cuộc trung hƣng của
nhà Nguyễn.

-Ông đã sống trong một thời đại mà truyền thống nhân văn và tinh thần dân tộc đƣợc kết tinh một cách rực
rỡ.

-Những biến cố xã hội, truyền thống nhân văn và tinh thần dân tộc của thời đại đã để lại những âm hƣởng,
những màu sắc trong nhân cách cũng nhƣ sáng tác của nhà thơ.

2.Gia đình.

-Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình phong kiến đại quý tộc, trí thức, tài hoa và có danh vọng vào bậc
nhất đƣơng thời. Không những thế, gia đình này còn có một truyền thống về văn học. Hoàn cảnh gia đình đã có
những tác động rõ rệt đối với sự hình thành thiên tài văn học ở Nguyễn Du.

-Gia đình Nguyễn Du có nhiều ngƣời đậu đạt cao và làm quan to tại triều đình:

+ Thân sinh của Nguyễn Du đậu tiến sĩ, từng làm tể tƣớng.

+Nguyễn Khản, anh cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du đậu tiến sĩ giữ chức lớn dƣới cả hai thời Trịnh Sâm và
Trịnh Tông .

+Nguyễn Huệ, bác ruột Nguyễn Du, đậu tiến sĩ.


http://diendankienthuc.net 69 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

+Theo Phạm Ðình Hổ thì dòng họ này có 12 tiến sĩ và 5 quận công.

Hoàn cảnh gia đình đã để lại những dấu ấn vàng son trong tâm hồn nhà thơ và cũng chắc chắn rằng qua thực tiễn
của gia đình, ông cũng đã nhận thức đƣợc nhiều điều về giới quan lại đƣơng thời.

-Dòng họ này còn có truyền thống văn học.Thân sinh của ông là Nguyễn Nghiễm là một sử gia cũng là một nhà
thơ. Nguyễn Khản giỏi thơ Nôm, tƣơng truyền có dịch Chinh phụ ngâm. Nguyễn Hành, Nguyễn Thiện (cháu gọi
Nguyễn Du bằng chú) đều là những nhà thơ, nhà văn nổi tiếng đƣơng thời.

3.Bản thân Nguyễn Du.

-Là một con ngƣời tài năng.

-Xuất thân trong một gia đình phong kiến đại quý tộc có danh vọng vào loại bậc nhất đƣơng thời nhƣng Nguyễn
Du sống trong cuộc sống nhung lụa không đƣợc bao lâu. Bởi vì nhà thơ lớn lên giữa lúc gia đình đang sụp đổ
nhanh chóng theo đà sụp đổ của tập đoàn phong kiến thống trị Lê-Trịnh. Nguyễn Du phải sớm đƣơng đầu với
những biến cố lớn lao của gia đình và xã hội. Có lúc nhà thơ cũng bị hất ra giữa cuộc đời, đã từng chịu nhiều nỗi
bất hạnh. Ông có một thời gian dài khoảng 16 năm sống lƣu lạc ở quê vợ ở Thái Bình, quê cha Hà Tĩnh. Những
năm tháng bất hạnh này có ảnh hƣởng trực tiếp quyết định đến sự hình thành con ngƣời nghệ sĩ vĩ đại ở ông.

-Nguyễn Du là một nhà thơ có tấm lòng nhân đạo sâu xa. Qua thơ chữ Hán, Văn chiêu hồn, Truyện Kiều ta thấy
ông luôn day dứt về số phận con ngƣời, trong tác phẩm của mình đã hơn một lần nhà thơ thốt lên:

Ðau đớn thay phận đàn bà

*Tóm lại: Nguyễn Du đã có những yếu tố cơ bản đêí trở thành một nghệ sĩ thiên tài: tài năng, tri thức, vốn sống,
tâm hồn, tƣ tƣởng tình cảm.

II.SỰ NGHIỆP VĂN CHƢƠNG

Nhà thơ đã để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng bằng chữ Hán và chữ Nôm.

1.Về chữ Hán.

Ông có ba tập thơ:

-Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) 1786-1804.

-Nam trung tạp ngâm: 1805-1812.

-Bắc hành tạp lục: 1813-1814.

Cả ba tập thơ đã đƣợc tập hợp lại thành tập Thơ chữ Hán của Nguyễn Du do nhóm Lê Thƣớc và Trƣơng Chính
giới thiệu, xuất bản năm 1965 gồm 243 bài thơ.

2.Về chữ Nôm.

-Ðoạn trƣờng tân thanh (tên Truyện Kiều là do quần chúng đặt cho tác phẩm).

-Văn chiêu hồn (còn gọi là Văn tế thập loại chúng sinh).

http://diendankienthuc.net 70 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

-Sinh tế Trƣờng Lƣu nhị nữ.

-Thác lời trai phƣờng nón.

Chƣơng 16: NGUYỄN CÔNG TRỨ

(1778-1858)

I.THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP

-Nguyễn Công Trứ sinh năm 1788, mất năm 1858, thọ 81 tuổi. Ông lấy biệt hiệu là Hy Văn. Ông quê ở làng
Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

-Thân sinh là Nguyễn Công Tấn, giữ chức quan nhỏ dƣới triều Lê. Khi Tây Sơn ra Bắc, ông chống lại
Nguyễn Huệ lên ngôi ông không chịu ra làm quan mà trở về quê hƣơng mở trƣờng dạy học. Gia đình Nguyễn
Công Trứ vì vậy cũng sa sút và nghèo đi.

-Nguyễn Công Trứ là ngƣời thích lối sống tự do, phóng khoáng. Ông cũng là ngƣời có tài, ham học, có chí và
rất hăm hở trong việc lập danh. Ông đi thi rất nhiều lần, trƣợt vẫn không nản, 41 tuổi mới đậu giải nguyên, 42 tuổi
mới ra làm quan (chức hành tẩu ở Sứ quán).

-Con đƣờng làm quan của ông dƣới triều Nguyễn có nhiều thăng trầm, có lúc làm tƣớng , làm tôíng đốc Hải
An nhƣng có lúc phải làm một anh lính ở biên cƣơng. Trong thời gian 28 năm làm quan thì ông bị đến năm lần
giáng chức và cách chức.

-Trong cuộc đời làm quan của Nguyễn Công Trứ có hai điểm đáng chú ý:

+Ông là ngƣời kiên quyết bảo vệ trật tự xã hội phong kiến vì thế ông có nhiều công trạng đối với nhà
Nguyễn trong việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa (chủ yếu là của nông dân) chống lại triều đình.

+Ngƣợc lại trong thời gian làm Dinh điền sứ ở Thái Bình và Ninh Bình ông đã chiêu mộ nông dân lƣu vong ở
các nơi đến để khai khẩn đất hoang ở hai tỉnh này và đã lập nên hai huyện Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái
Bình).

Hai việc làm này mới nhìn vào có vẻ trái ngƣợc nhau nhƣng trong thâm tâm, trong nhận thức bao giờ Nguyễn
công Trứ cũng đinh ninh rằng việc làm của ông là trên vì vua, dƣới vì dân.

II.THƠ VĂN NGUYỄN CÔNG TRỨ

-Sáng tác của Nguyễn Công Trứ hầu hết bằng chữ Nôm và bị thất lạc nhiều. Hiện nay sƣu tầm đƣợc khoảng 150
bài gồm thơ, ca trù, phú.

-Ngoài ra ông còn có một số tác phẩm thơ văn chữ Hán.

-Thơ văn ông bao hàm nội dung khá phức tạp, kết tinh trạng thái ý thức của một thế hệ nhà nho nhƣ Nguyễn Công
Trứ. Nhƣng tổng quát, thơ ông tập trung vào ba chủ đề chính:

+Chí nam nhi.

+Cái nghèo và thế thái, nhân tình.

+Triết lí hƣởng lạc.


http://diendankienthuc.net 71 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

1.Chí nam nhi. (chí của kẻ làm trai, chí anh hùng).

*Tại sao chí nam nhi trở thành một chủ đề lớn trong thơ Nguyễn Công Trứ?

-Nguyễn Công Trứ xuất thân trong một gia đình quan lại nhỏ, mới một đời làm quan, hƣởng ân huệ của triều Lê-
Trịnh không bao nhiêu.

-Nguyễn Công Trứ lớn lên giữa lúc Tây Sơn sụp đổ, nhà Nguyễn lên thay, đang tích cực củng cố địa vị
thống trị của mình, xã hội có vẻ ổn định.

-Không vƣớng mắc với tƣ tƣởng trung thần bất sự nhị quân, những năm tuổi trẻ nhà thơ đã hăm hở bƣớc đi
dƣới triều đại mới, lòng đầy hoài bão về sự nghiệp. Hoài bão ấy đã để lại một dấu ấn rất đậm trong thơ ông. Ðọc
thơ ông ngƣời ta thấy có một khái niệm thƣờng trở đi trở lại nhƣ một điệp khúc, đó là chí nam nhi”.

*Nội dung của chí nam nhi.

-Nguyễn Công Trứ quan niệm rằng kẻ làm trai sống ở đời nhất thiết phải làm những việc có ích cho đời,
không thể "tiêu lƣng ba vạn sáu.

-Nhiều lần trong thơ Nguyễn Công Trứ đã đặt vấn đề;

Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu.

(Chí nam nhi).

Ðã mang tiếng trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông.

(Ði thi tự vịnh)

Vũ trụ giai ngô phận sự

Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn.

(Nợ tang bồng)

-Cái công danh trong thơ Nguyễn Công Trứ thực ra không phải là cái danh hão, không phải là một quan niệm
hƣởng thụ, là cái bã vinh hoa tầm thƣờng. Xét trong toàn bộ cuộc đời và thơ văn của ông chúng ta thấy quan niệm
công danh của nhà thơ trƣớc hết có ý nghĩa là nhiệm vụ của kẻ làm trai. Kẻ làm trai sống ở trên đời nhất thiết phải
chiếm lấy một địa vị để trên cơ sở đó làm những việc có ích cho đời. Nguyễn Công Trứ có đề cao cá nhân nhƣng
nội dung chủ yếu là đòi hỏi phải đóng góp cho xã hội. Nhà thơ coi nhiệm vụ đó nhƣ một món nợ lần phải trả.

-Tang bồng là cái nợ

Làm trai chi sợ áng công danh.

(Quân tử cố cùng I)

-Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái

Cái công danh là cái nợ lần


http://diendankienthuc.net 72 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

(Nợ nam nhi)

-Có một điều đáng quý là trong khi khẳng định nhiệm vụ của kẻ làm trai, Nguyễn Công Trứ đồng thời rất ý thức
đƣợc tài năng của bản thân vì thế mà nhà thơ có một niềm tin lạc quan, một niềm tin mãnh liệt vào hoài bão của
mình. Suốt thời kỳ tuổi trẻ, mặc dù sống trong cảnh nghèo, ông vẫn hăm hở đi học, đi thi mãi tới năm 41 tuổi mới
đậu nhƣng vẫn không nản.

-Mộng công danh đó, niềm tin mãnh liệt đó, lòng hăng say đó của Nguyễn Công Trứ sẽ có ý nghĩa tích cực, sẽ có
lợi cho dân cho nƣớc biết bao nếu nhƣ ông sống trong một triều đại phong kiến tích cực, tiến bộ. Nhƣng đáng tiếc
ông sống vào giai đoạn lịch sử mà giai cấp phong kiến thống trị đã đi vào phản động, đã đi ngƣợc lại với quyền lợi
của nhân dân. Vì thế mà lý tƣởng nam nhi của ông không khỏi nhuốm màu hình thức chủ nghĩa. Nguyễn Công Trứ
đã vận dụng lý tƣởng tốt đẹp của nhà nho vào một hoàn cảnh xã hội không còn tiền đề tồn tại cho nó nữa.

-Trải qua thực tế dần dần nhà thơ cũng đã nhận thức ra tính chất xấu xa, tàn bạo của chế độ nhà Nguyễn và tinh
thần lạc quan ban đầu ấy của nhà thơ cũng dần dần bị sụp đổ và thay vào đó là một thái độ cực đoan. Ðó là sự bất
mãn đến chua chát đối với chế độ xã hội và một tinh thần bi quan có tính chất hƣ vô chủ nghĩa.

-Ôi nhân sinh là thế đấy

Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao

Cuộc đời đối với ông không còn nghĩa lí gì. Thậm chí có những lúc nhà thơ ao ƣớc đừng bao giờ trở lại làm ngƣời
mà chỉ làm cây thông đứng giữa trời mà reo

-Con ngƣời tích cực hoạt động ấy, con ngƣời say sƣa với lí tƣởng, công danh ấy cuối cùng đã phải rút lui khỏi
quan trƣờng, sống một cuộc đời ẩn dật, ngông nghênh. Cuộc đời nhà thơ vì vậy cũng đã có ý nghĩa tố cáo chế độ
phản động nhà Nguyễn.

2.Tâm sự trong cảnh nghèo và thế thái, nhân tình.

-Buổi đầu nhà thơ say sƣa với chí nam nhi, trải qua nhiều năm tháng làm quan cho nhà Nguyễn, va chạm với nhiều
thực tế, dần dần Nguyễn Công Trứ nhận ra bản chất phản động của triều đaiû đƣơng thời, ông đâm ra chán ghét
nó. Cũng nhờ vậy mà Nguyễn Công Trứ đã có đƣợc những nhận thức khách quan về xã hội, về con ngƣời. Ðó
cũng là nguyên nhân làm cho thơ của ông mang nhiều chất hiện thực.

-Ông tố cáo thói đen bạc trong xã hội phong kiến đã làm cho những ngƣời nghèo khổ không thể ngóc đầu dậy
đƣợc.

-Gớm chết nhân tình thế thái

Lạt nồng coi chiếc túi vơi đầy

(Nhân tình thế thái)

-Thế thái nhân tình gớm chết thay!

Lạt nồng, trông chiếc túi vơi đầy

Hễ không điều lợi, khôn thành dại,

Ðã có đồng tiền dở cũng hay

http://diendankienthuc.net 73 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

(Vịnh nhân tình thế thái)

-Nhà thơ tố cáo sức tàn phá của đồng tiền đối với nhân cách, đạo đức con ngƣời:

Tiền tài hai chữ son khuyên ngược

Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi

(Thế thái bạc bẽo)

-Ông phê phán bọn quan lại bâït tài, bọn giá áo túi cơm nhƣng lại tàn bạo hay hại ngƣời:

Tuổi tác càng già càng xốp xáp

Ruột gan không có, có gai chông.

Những câu thơ viết về thế thái, nhân tình đậm thấm cảm xúc sâu sắc của một con ngƣời từng trải cho nên mặc dù
phần nào có trừu tƣợng, chung chung, thiếu những hình ảnh sinh động của cuộc sống nhƣng chúng vẫn có sức lay
động mạnh đối với ngƣời đọc.

-Thơ văn Nguyễn Công Trứ cũng đã ghi lại đƣợc tình cảnh nghèo khổ của bản thân ông đồng thời cũng là tình
cảnh của các nho sĩ lớp dƣới đƣơng thời. Tình cảnh ấy đƣợc thể hiện tập trung trong bài phú Nôm Hàn nho phong
vị phú (Bài phú về phong vị cảnh nghèo của một nhà nho chƣa đậu đạt). Bài phú là một bức tranh sinh động về cái
nghèo. Ngòi bút của nhà thơ có màu sắc trào lộng nhẹ nhàng. Tuy nhiên tác giả chƣa thấy đƣợc nguyên nhân của
sự nghèo khổ nên đi đến giải thích sai lệch. Ông cho khổ là bởi tại trời, tại số mạng. Vì vậy thái độ của nhà thơ
vẫn là thái độ cam chịu, chờ đợi.

3.Triết lí hƣởng lạc.

-Ngay từ đầu, Nguyễn Công Trứ đã có chủ trƣơng con ngƣời có quyền hƣởng lạc. Ông xếp nó trở thành một
mục trong chƣơng trình sống lí tƣởng của mình. Thời kì đầu ông cho rằng con ngƣời chỉ đƣợc hƣởng lạc khi đã
hoàn thành nhiệm vụ. Con ngƣời chỉ có thể thảnh thơi với thơ phú, với bầu rƣợu khi nợ tang bồng trang trắng vỗ
tay reo. Nhà thơ quan niệm hành lạc là một thứ đãi ngộ, là phần thƣởng cho kẻ anh hùng, cho ngƣời hành động.
Nội dung hành lạc thời kì đầu cũng rất thanh sạch; du lãm trong thiên nhiên với thơ, với rƣợu, với đàn.

-Về sau, ông lại nâng quan niệm hành lạc ấy lên thành một triết lí sống. Ông kêu gọi mọi ngƣời ăn chơi, hành lạc:

Nhân sình bất hành lạc

Thiên tuế diệc vi thương.

Nội dung của hành lạc trong giai đoạn này cũng không còn là cuộc sống tiêu dao trong thiên nhiên với rƣợu, với
đàn, với thơ mà còn cả gái đẹp đi theo. Ðẩy hành lạc lên thành một triêt lí sống đó là một bƣớc sa đọa về phƣơng
diện tƣ tƣởng của Nguyễn Công Trứ. Thực chất đó cũng là cách nhà thơ phản ứng lại xã hội, phản ứng lại triều
đình nhà Nguyễn nhƣng phản ứng này lại mang tính chất cá nhân, tiêu cực.

III.NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN CÔNG TRỨ

http://diendankienthuc.net 74 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

-Hoạt động thơ văn không phải là hoạt động chính, hoạt động chủ yếu của cuộc đời Nguyễn Công Trứ (hoạt động
chính là quân sự, chính tri, kinh tế). Thơ văn cũng chỉ nhằm phục vụ cho sự nghiệp kinh bang tế thế của ông. Vì
thế nhà thơ ít chú trọng gia công về nghệ thuật nên thơ ông có cái mộc mạc, nôm na.

-Ông rất kiên trì sáng tác chữ Nôm.

-Nhà thơ thành công nhất với thể ca trù (là loại bài hát phổ nhịp cho các cô đào hát trong các hành viện), ông nâng
nó thành một thể thơ dân tộc độc đáo.

IV.TỔNG KẾT

-Ðiều giá trị nhất trong thơ văn Nguyễn Công Trứ là nhà thơ đã tuyên dƣơng một lý tƣởng sống tích cực .

-Con ngƣời Nguyễn Công Trứ là con ngƣời hành động, ý thức đƣợc tài năng, phẩm chất của mình

Chƣơng17: CAO BÁ QUÁT


(?-1855)

I.THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP

1.Thân thế.

-Cao Bá Quát là một nhà thơ lỗi lạc đồng thời là một lãnh tụ của phong trào nông dân khởi nghĩa ở giai đoạn
nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX.

-Cao Bá Quát sinh vào khoảng 1808-1810 và mất năm 1855.

-Cao Bá Quát tự là Chu Thần (bậc thần tử của nhà họ Chu), hiệu là Cúc Ðƣờng, Mẫn Hiên. Ông ngƣời làng
Phú Thọ, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh.

- Cao Bá Quát xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo. Thân sinh của ông sống vào thời kỳ Lê mạt, xã
hội loạn lạc nên ông không đi thi để ra làm quan mà chỉ sống bằng nghề dạy học. Nhƣng dòng họ Cao là một dòng
họ có truyền thống về thi phú và khoa bảng.

-Ngay từ nhỏ, ông đã là một ngƣời thông minh, học giỏi và bản lĩnh. Tƣơng truyền năm 14 tuổi ông đã lều
chõng đi thi nhƣng không đỗ, chín năm sau (1831) ông mới đỗ thứ hai kỳ thi hƣơng (đỗ á nguyên, sau giải nguyên,
đỗ cử nhân thứ hai nhƣng sau bộ Lễ xếp lại đánh tuộtt xuống cuối bảng). Sau đó nhiều lần Cao Bá Quát đi thi hội
ở kinh đô nhƣng không đậu, trƣợt mãi (chắc không phải vì bất tài mà vì ông là ngƣời cƣơng trực nên bị bọn quan
lại ghen ghét). Mặt khác ông vốn là ngƣời tự do, phóng túng nên không chịu viết văn theo khuôn phép trƣờng thi.

-Ðậu cử nhân từ năm 1831 nhƣng mãi đến năm 1841 ông mới đƣợc bổ làm một chức quan nhỏ mọn: chức
hành tẩu bộ Lễ (bộ Lễ: nơi làm việc của quan văn có nhiều chức, chức hành tẩu là nhỏ nhất chỉ là chân thƣ ký).
Thời gian này ông đƣợc cử làm sơ khảo kỳ thi hƣơng ở trƣờng thi Thừa Thiên. Thấy một số bài thi xuất sắc nhƣng
phạm húy, ông đã cùng một ngƣời bạn chữa lỗi cho những bài thi đó để lấy đậu nhƣng bị phát giác. Ông bị khép
vào tội chết, sau triều đình xét lại chỉ cách chức và đày vào Ðà Nẵng. Sau ba năm bị giam, ông đƣợc cử đi phục
dịch một đoàn sứ bộ của triều đình đi công cán ở Xinhgapo để lập công chuộc tội (gọi là đi dƣơng trình hiệu lực).

-Ở nƣớc ngoài về, ông đƣợc giữ chức cũ một thời gian rồi lại bị thải, ông trở về sống với vợ con ở Thăng
Long.
http://diendankienthuc.net 75 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

-1847, ông lại nhận đƣợc chiếu chỉ của nhà vua bổ vào làm việc ở Viện Hàn Lâm (sƣu tầm, sắp xếp các bài
thơ cho nhà vua ngâm vịnh). Nhƣng vốn là một con ngƣời có tài.và cƣơng trực cho nên Cao Bá Quát trở thành cái
gai trong mắt bọn quan lại ở triều đình, vì thế chúng đã tìm cách đẩy ông đi xa.

-1852, ông bị đẩy đi làm Giáo thụ ở phủ Quốc Oai, Sơn Tây (chức quan trông coi việc học hành ở một
vùng). Nơi này là một vùng hẻo lánh, ít ngƣời đi học. Ðối với ông, đó là một việc đày ải thực sự nên càng làm cho
ông bất bình. Năm ấy mùa màng lại bị châu chấu tàn phá, nhân dân vô cùng đói khổ, nhất là ở vùng Sơn Tây. Bị
đẩy đến bƣớc đƣờng cùng, họ đã đứng lên chống bọn địa chủ, quan lại để giành sự sống. Cao Bá Quát liên lạc
đƣợc với các lãnh tụ khởi nghĩa bèn vứt bỏ chức Giáo thụ quèn. Ông mƣợn cớ phò Lê, tôn Lê Duy Cự làm minh
chủ, mình làm quốc sƣ đứng lên kêu gọi nhân dân vùng này khởi nghĩa đánh đổ triều Nguyễn. Ðáng tiếc là cuộc
khởi nghĩa lại sớm thất bại. Cao Bá Quát hi sinh trong một cuộc chiến với quân triều đình. Sau khi ông mất, nhà
Nguyễn đã trả thù dòng họ này một cách dã man bằng cách thi hành lệnh tru di tam tộc cả dòng họ.

2.Sự nghiệp thơ văn.

-Sáng tác của Cao Bá Quát chủ yếu bằng chữ Hán, chữ Nôm cũng có nhƣng ít. Khác với Nguyễn Công Trứ, Cao
Bá Quát sống vào thời kỳ chính sách đề cao chữ Hán của nhà Nguyễn đã có ảnh hƣởng sâu rộng trong giới nho sĩ.
Có lẽ Cao Bá Quát chịu ảnh hƣởng của chủ trƣơng này.

-Về tác phẩm chữ Hán ông có hai tập thơ: Chu Thần thi tập và Cúc Ðƣờng thi thảo. Cả hai tập thơ này có tên
chung là Cao Bá Quát thi tập. Số bài thơ của hai tập thơ này chƣa rõ là bao nhiêu nhƣng chắc chắn nhiều hơn số
hiện nay chúng ta sƣu tập đƣợc: 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi. Sau khi nhà thơ qua đời, tác phẩm của ông cũng
phải chịu sự bạc đãi của triều đình nhà Nguyễn.

-Về mặt chữ Nôm: ông có bài phú nổi tiếng Tài tử đa cùng (Ngƣời tài giỏi có nhiều điều cùng khổ).

Ngoài ra ông còn có một số bài thơ Ðƣờng luật và ca trù.

II.MỘT SỐ NÉT ĐẶC SẮC TRONG THƠ CAO BA QUÁT.

1.Thơ ông chứa đựng một nội dung hiện thực phong phú.

-Thơ văn Cao Bá Quát thuộc khuynh hƣớng phê phán hiện thực, bộ mặt của xã hội đƣơng thời đƣợc phản ánh khá
rộng rãi, đa dạng và phong phú trong tác phẩm của ông. Chẳng hạn qua thơ văn của ông ngƣời ta có thể thấy cuộc
sống thiếu thốn, vất vả của một nhà nho nghèo có hoài bão, tâm huyết đến cuộc sống của một kẻ bị tù tội oan
uổng; những sức ép tàn bạo bằng ngục tù, roi đòn của nhà Nguyễn đối với những con ngƣời có tài năng, có tƣ
tƣởng tiến bộ rồi cuộc đời cùng quẫn của nhân dân lao động trong xã hội đƣơng thời. Cũng nhƣ bao nhà thơ tiến
bộ khác, Cao Bá Quát cũng bắt đầu từ những vấn đề của cá nhân để đi đến những vấn đề có tính xã hội và càng về
sau thơ văn ông càng giàu tính hiện thực. Từ những chi tiết mang tính hiện thực ấy ta thấy hiện lên bộ mặt của một
chế độ đã già cỗi, tàn bạo, bất nhân đáng nguyền rủa và đáng bị tiêu diệt.

2. Thơ Cao Bá Quát chứa đựng nhiều tình cảm tốt đẹp, nhiều tƣ tƣởng tiến bộ.

Thơ văn Cao Bá Quát là sản phẩm tinh thần của một con ngƣời có nhân cách cứng cỏi, trí tuệ sáng suốt; một tâm
hồn lộng gió thời đại, một trái tim nhạy bén giàu cảm xúc. Vì vậy thơ văn ông chứa đựng nhiều tình cảm tốt đẹp,
nhiều tƣ tƣởng tiến bộ.

2.2.1.Lòng yêu nƣớc và tự hào dân tộc.

-Khâm phục và ngƣỡng mộ những ngƣời anh hùng cứu nƣớc, ông viết các bài thơ Vịnh Phù Ðổng
Thiên Vƣơng, Vịnh Trần Hƣng Ðạo...Qua việc ca ngợi những ngƣời anh hùng đó Cao Bá Quát bộc lộ ƣớc muốn
http://diendankienthuc.net 76 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

cứu dân, cứu nƣớc của mình. Ông nhƣ tìm thấy sự tiếp sức từ trong lịch sử của dân tộc. Ðây là điểm khác biệt
giữa thơ vịnh lịch sử của ông và các nhà thơ khác (họ vịnh lịch sử để quay lƣng với hiện thực cuộc sống).

-Cao Bá Quát còn là con ngƣời say mê với những cảnh đẹp của non sông đất nƣớc, ông ca ngợi những
cảch đẹp ấy. Hầu hết các danh lam thắng cảnh của miền Bắc, ông đều có đến thăm và đề thơ ngâm vịnh nhƣ: núi
Ba Vì, hồ Tây, núi Thúy Dục, sông Hƣơng. Nét đặc sắc của nhà thơ khi miêu tả các cảnh này là ở chỗ ông không
miêu tả nó theo lối của những ẩn sĩ đi du ngoạn để chữa bệnh tinh thần mà lại kèm theo hào khí dân tộc. Dải sông
Hƣơng mềm mại đến thế mà khi hiện lên trong thơ ông vẫn mang một hào khí hùng tráng:

Trường giang như kiếm lập thanh thiên

(Con sông dài như thanh kiếm dựng giữa trời xanh)

(Buổi sáng qua sông Hƣơng).

Núi Dục Thúy, núi Tản Viên, hồ Tây từ lâu đã trở thành niềm tự hào của đất nƣớc và đặc biệt là là hình tƣợng núi
Tản đã từng tƣợng trƣng cho khí phách hào hùng của dân tộc ta. Và trong thơ Cao Bá Quát nét đặc sắc là câu tự
vấn của tác giả: Non sông nhƣ thế, mình thì sao đây? khi đứng trƣớc những thắng cảnh ấy. Tình cảm của ông bao
giờ cũng là tình cảm hai chiều: Yêu thƣơng và trách nhiệm. Ðây không phải là điều dễ tìm thấy ở các nhà thơ
đƣơng thời.

-Ðặc biệt trong thời đại sống của mình Cao Bá Quát đã ý thức, đã băn khoăn cho số mệnh của đất nƣớc trƣớc hiểm
họa xâm lăng từ phƣơng Tây.

2.2.2.Lòng yêu thƣơng con ngƣời nghèo khổ, bất hạnh.

Ðây là nét đặc sắc nổi bật nhất, phân cách giữa Cao Bá Quát và các nhà thơ đƣơng thời. Cao Bá Quát có một ý
thức vì dân thực sự, ông đã đứng về phía quần chúng lao động để thông cảm với những nỗi khổ đói cơm, rách áo
của họ.

-Nhà thơ đã thực sự xúc động trƣớc những tình cảnh đói cơm, rách áo của những ngƣời dân nghèo:

+Bài thơ Dọc đƣờng gặp ngƣời đói giúp ta cảm nhận đƣợc một tấm lòng yêu thƣơng với tình cảm dạt dào.

+Bài Ngƣời tát nƣớc trên đồng cao buổi sángtáïc giả miêu tả cảnh những ngƣời lao động đang tát nƣớc trên
đồng cao. Buổi sáng sƣơng núi còn dày đặc, trời rét, bụng đói, môi run cầm cập mà cứ phải luôn tay kéo gàu.

+Bài Cô gái từ trên cầu trở về lúc buổi tối (Mộ kiều qui nữ) tả cảnh buổi chiều tối, trời rét, một cô gái phải đi
bán áo để mua cám cho gia đình, khi trở về qua cầu gió hun hút thổi mà cô gái vẫn thản nhiên bƣớc đi bởi lòng cô
nhƣ ấm lên khi nghĩ tới ngƣời nhà đang tựa cửa chờ mình.

-Cao Bá Quát cũng đã nhìn thấy đƣợc nguyên nhân của sự đói khổ của quần chúng lao động là do sự áp bức,
bóc lột của giai cấp thống trị. Vì thế nhà thơ đã hết sức căm giận và trực tiếp phê phán chính sách cai trị hà khắc
của triều đình nhà Nguyễn. Lòng yêu thƣơng quần chúng của Cao Bá Quát cũng đã biến thành trách nhiệm, đây
cũng là nét đặc sắc của tác giả này. Ông băn khoăn, day dứt về trách nhiệm của mình đối với dân. Có lúc ông tỏ ra
bực tức vì thấy mình đã già, đã bất lực:

Lòng thẹn với lòng này hóa lão

Cúi đầu lẳng lặng dựa bên tường

http://diendankienthuc.net 77 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

2.2.3.Thơ ông chứa đựng nhiều tình cảm đậm đà, chung thủy trong quan hệ bè bạn, gia đình, làng xóm.Thời
kỳ bị giam, nhà thơ đã viết nhiều bài thơ thể hiện lòng thƣơng vợ, nhớ con, nhớ quê hƣơng, bạn bè da diết.

-Ở bài thơ Tiếp thƣ của vợ gửi áo rét, bút và vài thứ nhà thơ đã viết những câu thơ thật xúc động:

Trước đèn thư mở lệ muôn hàng

Hồn gửi phòng the luống vấn vương

-Bài Mộng vong nữ (Chiêm bao thấy con gái đã mất) là tiếng nói yêu thƣơng, đau xót thể hiện một tâm hồn
giàu chất nhân văn của nhà thơ. Tronh mơ ông thấy ngƣời con gái đã mất trở về với quần áo mong manh, rách
nát, sắc diện thê thiết.

-Bài Trả lời ngƣời bạn hỏi thăm viết khi bị thải về nhà:

Chợt nghĩ tới mình ruột gan như từng khúc

Nhớ bạn mỗi ngày tính đến trăm lần

2.2.4.Thơ ông còn chứa đựng nhiều tƣ tƣởng tiến bộ.

-Ông là ngƣời có thái độ đúng đắn trƣớc sức mạnh vật chất của ngƣời phƣơng Tây. Ông không tỏ ra khiếp sợ tuy
có ngạc nhiên. Bài thơ Hồng mao hỏa thuyền ca ông miêu tả con tàu không buồm, không chèo, không ngƣời đẩy
mà đi ngang, chạy ngƣợc nhanh nhƣ ngựa phi. Khói phun ngùn ngụt, sóng tung tóe ầm ầm nhƣ sóng. Nhƣng kết
thúc bài thơ, ông kết luận đầy khí phách, cảnh cáo con tàu đừng chủ quan khi đến biển Ðông. Bởi sóng nƣớc ở
đây không dễ dàng nhƣ bể Tây đâu.

-Ông có một thái độ đúng đắn và tiến bộ trƣớc lối học từ chƣơng khoa cử của nền giáo dục phong kiến từ ngàn
đời nay. Cao Bá Quát là ngƣời đầu tiên dám phê phán và phủ định lối học đó, ông coi lối học từ chƣơng là trò
nhai văn nhá chữ, là lối học trẻ con, hoàn toàn xa lạ với cuộc sống thực tế. Ông phê phán bằng lời và cả hành
động của mình. Việc ông chữa các bài phạm húy tựu trung cũng mang ý nghĩa phản kháng, phê phán, xuất phát từ
chỗ ông không đồng ý với những phép tắc ngu xuẩn của trƣờng thi thời bấy giờ.

-Ông quan tâm đến tác dụng của văn thơ và đề xuất một số quan niệm về văn thơ rất tiến bộ. Ông cho rằng thơ
vừa phải có quy cách vừa phải có tính tình nhƣng tính tình là cái quyết định.

3.Thơ Cao Bá Quát in đậm dấu ấn bản lĩnh và phong cách nhà thơ.

Cao Bá Quát là một con ngƣời phóng túng, có nhân cách cứng cỏi, có tâm hồn, có trái tim giàu cảm xúc. Những
điều đó đã in đậm vào sáng tác và trở thành phong cách riêng của nhà thơ, phong cách đó tạm quy vào mấy nét
sau:

-Sáng tác của ông mang tính chất phóng túng: Tiêu biểu nhất là trong thơ chữ Hán, ông sử dụng nhiều hình
tƣợng mới mẻ, có nhiều tứ thơ đột xuất. Nói tới hoa mai, các nhà thơ xƣa thƣờng ca ngợi sự trắng trong và tinh
khiết của nó. Cao Bá Quát cũng ca ngợi cái tinh khiết, cái trắng trong đó của hoa mai nhƣng thiết thực hơn ông
muốn tự tay mình gieo lên núi một rừng mai để rồi khi xuân đến mai sẽ xanh tƣơi điểm tô cho bầu trời, mai sẽ trở
thành bức tranh tuyệt tác cho đời xem chung (Tài mai). Nói đến dòng sông Hƣơng của Huế, ngƣời ta thƣờng nghĩ
tới một dòng sông hiền hòa mềm mại, nhƣng dƣới con mắt của Cao Bá Quát thì sông Hƣơng lại giống nhƣ một
thanh kiếm dựng đứng giữa trời xanh. Bài phú Tài tử đa cùng cũng là một hiện tƣợng đặc biệt. Do tính chất biền
ngẫu của câu văn nên phú thƣờng có cái gò bó của nó nhƣng đọc bài phú của Cao Bá Quát ta thấy ngòi bút của
ông vẫn phóng túng hết mực. Ông vẫn diễn tả đƣợc một cách sôi nổi cái háo hức của tuổi trẻ. Trong bài phú ông
dùng nhiều động từ diễn tả hành động mạnh bạo để thể hiện tƣ tƣởng lành mạnh, tiến bộ của mình.
http://diendankienthuc.net 78 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

-Thơ Cao Bá Quát kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và suy nghĩ, giữa tình cảm và lí trí. Lí trí làm cho
tình cảm của nhà thơ trở nên sâu sắc hơn, đậm đà hơn ngƣợc lại tình cảm làm cho suy nghĩ của nhà thơ trở nên
đúng đắn hơn. Ông luôn băn khoăn về con đƣờng đi của mình, về trách nhiệm của một nhà nho đối với nhân dân.

-Hiện thực trong thơ ông nôm na mà bay bổng (chất thơ) để nói rõ sự việc Cao Bá Quát đã không ngại đi
vào những chi tiết chân thực nhất của cuộc sống.

III.KẾT LUẬN

Cao Bá Quát là nhà thơ lớn nhất trong khuynh hƣớng phê phán hiện thực của văn học nửa đầu thế kỷ XIX. Ðóng
góp của thơ văn Cao Bá Quát trƣớc hết là ở nội dung, cái hơn ngƣời của ông là nội dung tƣ tƣởng, là lòng dũng
cảm, là sự sáng suốt cả về chính trị lẫn văn hóa. Cuộc đời của ông vẫn là một bài học quí, khi cần thiết ông biết
ném cây bút để nắm lấy Long tuyền.

Chƣơng 18: HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ.

I.VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM

1.Tác giả.
-Ý kiến truyền thống: Một số nhà nghiên cứu cho rằng tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí là ba anh
em thuộc dòng họ Ngô Thì, ngƣời làng tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Ðông cũ (nay là tỉnh Hà Sơn
Bình). Ngô Thì Chí là ngƣời khởi thảo viết bảy hồi đầu. Ngô Thì Du và Ngô Thì Thiến viết mƣời hồi cuối.
-Các tác giả này đều là cựu thần của nhà Lê. Bản thân Ngô Thì Chí từng làm quan văn dƣới thời Lê Chiêu
Thống và là ngƣời đã trung thành với vua Lê cho đến phút cuối cùng của đời mình.

2.Tác phẩm
-Hoàng Lê nhất thống chí ghi chép các sự kiện lịch sử lớn nhất của xã hội phong kiến Việt Nam vào
khoảng ba mƣơi năm cuối thế kỷ XVIII và mấy năm đầu của thế kỷ XIX. Cụ thể tác phẩm ghi chép các sự kiện từ
khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa, Ðặng Thị Huệ lộng quyền cho đến khi Nguyễn Aïnh lật đổ nhà Tây Sơn lập nên triều
đại nhà Nguyễn (1768-1802).
-Cuốn sách đƣợc viết bằng chữ Hán và theo lối diễn nghĩa của tiểu thuyết chƣơng hồi Trung Quốc.
-Tác phẩm do nhiều ngƣời viết nhƣng về nội dung và hình thức vẫn có đƣợc một sự thống nhất bởi vì ngƣời
khởi thảo cũng nhƣ ngƣời tục biên đều tuân thủ một phƣơng pháp: ghi chép ngƣời thực và việc thực theo một chủ
đề nhất định. Và các tác giả này đều có thái độ tôn trọng sự thật lịch sử khách quan.
-Cho đến nay Hoàng Lê nhất thống chí đã có tới bốn bản dịch trong đó có hai bản dịch đƣợc coi là thành
công nhất là bản dịch của Ngô Tất Tố (1942) và bản dịch của Kiều Ðức Vân và Nguyễn Thu Hoạch(1964).
II.NỘI DUNG
1.Sự sụp đổ không gì cƣỡng lại đƣợc của tập đoàn phong kiến thống trị Lê-Trịnh.
Mặc dù lập trƣờng tƣ tƣởng là lập trƣờng tƣ tƣởng phong kiến và với tƣ cách là bề tôi trung thành của nhà
Lê, momg ƣớc cho chính quyền nhất thống về tay nhà Lê, các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí vẫn phải ghi nhận
một sự thật lịch sử:Sự sụp đổ của tập đoàn phong kiến thống trị Lê-Trịnh là không thể tránh khỏi.
-Tác phẩm có đến hàng trăm nhân vật và các sự kiện lớn nhỏ nhƣng tất cả chỉ xoay quanh thể hiện mấy ông
vua, mấy ông chúa và các bề tôi miếu đƣờng của chúng. Hàng
ngày tất cả những con ngƣời này vây quanh chiêïc ngai vàng đã mục nát, ọp ẹp để tranh giành quyền lực, địa vị.
Có khi đó là cuộc tranh giành trong nội bộ nhà vua Lê hoặc trong nội bộ nhà chúa Trịnh, có khi đó là cuộc tranh
giành giữa vua Lê và chúa Trịnh.
-Ngay từ thế kỷ XVI, giai cấp phong kiến thống trị đã bộc lộ bản chất xấu xa bên trong của mình. Nhƣng có
lẽ không lúc nào bằng lúc này- những ngày mạt vận, chúng bộc lộ một cách đầy đủ nhất, sâu sắc nhất bản chất xấu
http://diendankienthuc.net 79 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

xa của mình. Dƣới ngòi bút miêu tả hiện thực sắc sảo của các tác giả, bọn vua chúa, những thần tƣợng vốn đƣợc
coi là thiêng liêng, tôn quí thì nay chỉ còn là những con ngƣời bế tắc về trí tuệ, sa đọa về đạo đức, cùng mòn trong
đƣờng lối chính trị.
-Vua chúa:
+Vua Lê Hiển Tông: Ông vua đầu tiên của giai đoạn này bề ngoài có đầy đủ khí tƣợng đế vƣơng, nào là râu
rồng, mũi cao, tóc hạc, mắt phƣợng, đi nhẹ nhƣ nước, ngồi vững như non nhưng bốn mươi năm trên ngôi là bốn
mươi năm khoanh tay rủ áo, quẩn quanh trong một xó hoàng cung. Tiêu phí thời gian bằng cách sai các cung nữ
mặc áo trận, cầm giáo mác, chia thế ba nƣớc: Ngụy, Thục, Ngô rồi dạy cho họ cách ngồi, đứng, đâm, đỡ để mua
vui. Ðáng sợ nhất là ở chỗ ông taý thức đƣợc thân phận bù nhìn của mình nhƣng vẫn không lấy đó làm điều sỉ
nhục, trái lại vẫn vui vẻ nhƣ thƣờng vì triết lí sống của vua ta là: Trời sai chúa phò ta, chúa gánh cái lo, ta hưởng
cái vui, mất chúa tức cái lo lại về ta, ta còn vui nỗi gì. Y là hiện thân đầy đủ cho sự bất tài, bất lực của tập đoàn
phong kiến nhà Lê.
+Vua Lê Chiêu Thống: Ðây là một tên vua bán nƣớc cầu vinh mà lịch sử dân tộc muôn đời lên án. Nhờ Tây
Sơn mà y đƣợc lên ngôi vua. Thực tế những ngày ngồi trên ngai vàng, y cũng chẳng làm đƣợc gì. Vì quyền lợi ích
kỷ của bản thân mà y sẵn sàng bán rẻ quyền lợi dân tộc. Nổi bật ở con ngƣời này vẫn là sự bất tài, tham lam, bạc
nhƣợc. Ðứng trên lập trƣờng dân tộc, tác giả đã phê phán tên vua này nhƣ sau: Nƣớc Nam ta từ khi có đế có vƣơng
đến nay chƣa có ông vua nào đê hèn và luồn cúi như vậy . Bởi vì tiếng là làm vua nhưng niên hiệu vẫn viết Càn
Long, việc gì cũng do viên tổng đốïc họ Tôn khác gì phụ thuộc vào Trung Quốc. Có thể nói khi bán rẻ quyền lợi
dân tộc, Lê Chiêu Thống cũng bán rẻ luôn nhân cách của mình. Những ngày cuối đời y sống ở Trung Quốc thật là
nhục nhã, cái chết mà y phải đón nhận thật xứng đáng với phần đời mà y đã sống và làm hại dân tộc.
+Trịnh Sâm: Tác giả giới thiệu y là một ngƣời cứng rắn, thông minh, quyết đoán, sáng suốt, trí tuệ
hơn ngƣời, có đủ tài cả văn lẫn võ. Nhƣng thực tế y chỉ là một kẻ chuyên quyền, cậy thế. Ðọc tác phẩm, chúng ta
không thấy tài cán của chúa đƣợc thể hiện ở đâu hết, chỉ thấy lúc nào chúa cũng ăn chơi trác táng, cung điện đầy
ắp cung nữ để chúa mặc ý vui chơi thỏa thích. Trịnh Sâm cũng đã trở thành đầu mối của mọi cuộc biến loạn
trong phủ chúa với tội trạng bỏ con trƣởng, lập con thứ. Y say mê Ðặng Thị Huệ mà đi đến bỏ bê cả triều chính.
+Trịnh Tông: Là ngƣời nối tiếp Trịnh Sâm. Nhờ đám kiêu binh mà y dành lại đƣợc ngôi chúa và thực ra y
cũng chỉ là con rối trong tay đám kiêu binh mà thôi.
-Quan lại:
+Châu tuần xung quanh bọn vua chúa trên là những quan lớn , quan nhỏ. Tất cả chỉ là một lũ bất tài, hám
danh, tâm địa tráo trở. Có thể nói nguyên tắc sống cao nhất của đám quan lại lúc bấy giờ là quyền lợi, là địa vị, vì
những cái đó chúng sẵn sàng làm tất cả: vu oan, tố cáo, hãm hại, chém giết, sát phạt, lẫn nhau. Và nếu cần, buôn
vua bán chúa chúng cũng không nề hà. Có nhiều kẻ đã trở thành bọn đầu cơ chính trị, nhân việc nƣớc trôi giạt mà
mƣu cầu phú quí.
+Ðinh Tích Nhƣỡng: Là một võ tƣớng, con nhà dòng dõi mƣời tám đời làm quận công, trƣớc y theo chúa
chống vua, thấy chúa thất thế y ngã về phía vua, khi vua không còn sức lực để tồn tại nữa thì y ngã về phía Tây
Sơn và cho quân đi báo với Tây Sơn chỗ ở của vua và xin sai quân đến bắt. Chỉ cần với một câu nói của y mà tác
giả đã khái quát đƣợc nhân cách bỉ ổi của tên võ tƣớng này: Vua không thương ta, ta còn cần gì vị nể nhà vua nữa.
Ở đây tác giả Hoàng Lê nhất thống chí đã thấy đƣợc tính chất cơ hội chủ nghĩa hết sức bỉ ổi là nét tâm lí hếøt sức
điển hình của bọn ngƣời này mà tập trung ngòi bút của mình, xoáy sâu vào phê phán.
+Nguyễn Hữu Chỉnh: con ngƣời này hiện lên trong tác phẩm nhƣ một tên gian hùng của đời loạn. Là một
con ngƣời có tài, nhƣng xuất thân từ tầng lớp thƣơng nhân nên lúc nào y cũng mang trong mình những ý nghĩ đen
tối, tham lam. Vì địa vị, quyền lợi của mình, y sẵn sàng làm tất cả- phản chủ, giết bạn, giết ngƣời thân thích. Gió
chiều nào y xoay theo chiều đó.
-Binh lính: Từ chỗ là đội quân ƣu binh, là đội quân đặc biệt đã từng là nanh vuốt của triều đình, đến giai đoạn này
chỉ còn là bọn kiêu binh. Một đội quân kiêu căng, hống hách, tàn phá triều đình từ bên trong. Tất cả triều đình phải
bó tay, ai cũng e sợ trƣớc sức tàn phá của bọn này.
-Trên cái đà tàn lụi đó của chế độü thì tất cả những cái đƣợc gọi là cƣơng thƣờng đạo lí, nền móng của xã hội đều
bị đảo lộn: Nghĩa cả vua tôi, tình thầy trò, cha con, vợ chồng, anh em, mẹ con không còn gì là thiêng liêng nữa.
*Tóm lại, một xã hội từ vua chúa, quan lại, binh lính cho đến nền móng đều thối nát, sụp đổ nhƣ thế thì còn sức
nào đứng vững đƣợc nữa. Nhƣ thế về khách quan Hoàng Lê nhất thống chí đã nêu đƣợc xu thế tất yếu của lịch sử:
Sự sụp đổ của tập đoàn vua Lê- chúa Trịnh là không thể tránh khỏi. Nguyên nhân thì có nhiều nhƣng trƣớc hết vẫn
http://diendankienthuc.net 80 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

do bản chất xấu xa thối nát của chính giai cấp này gây nên. Và rồi chính bão tố của phong trào nông dân khởi
nghĩa đã nhanh chóng đƣa chúng đến sào huyệt của mình
2.Khí thế quật khởi quyết liệt chống thù trong giặc ngoài của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn.
Có thể nói các tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí đã dũng cảm phản ánh phong trào, dám ghi lại khí thế quật
khởi của cuộc khởi nghĩa. Mặc dù chƣa thật hiểu, chƣa miêu tả và phản ánh đƣợc một cách đúng đắn và đầy đủ về
phong trào nhƣ nó vốn có trong lịch sử, nhƣng cho đến nay Hoàng Lê nhất thống chí vẫn là tác phẩm duy nhất ghi
lại đƣợc khí thế quật khởi của cuộc khởi nghĩa này.
-Thành công của tác phẩm khi phản ánh sự kiện này là ở chỗ:
+Bằng hình tƣợng nghệ thuật Hoàng Lê nhất thống chí đã dựng lên đƣợc hình ảnh Nguyễn Huệ và phong trào khởi
nghĩa trên một bối cảnh lịch sử rộng lớn với giai đoạn phát triển khá dài, từ khi Tây Sơn dựng cơ dấy nghiệp, trải
qua nhiều chiến công hiển hách cho đến lúc bị bại vong.
+Tác phẩm đã khẳng định sức mạnh vô địch của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, khẳng định Nguyễn Huệ
nhƣ một anh hùng chân chính có nhiều công lao đối với dân tộc, đất nƣớc.
+Ðặc biệt ở hồi thứ XIV của tác phẩm, các tác giả đã miêu tả cuộc hành quân, tiến quân ra Bắc đánh tan hơn hai
mƣơi vạn quân Thanh của nghĩa quân Tây Sơn. Hồi thứ XIV đã đƣợc xem nhƣ một bản anh hùng ca nổi bật giữa
những trang văn xám xịt miêu tả sự khủng hoảng thối nát của tập đoàn phong kiến thống trị Lê- Trịnh. Từ chỗ là
ngƣời chứng kiến, tác giả đã nhập thân vào cuộc chiến đấu, theo sát từng trận đánh, miêu tả thật tỉ mỉ. Ðặc biệt họ
đã tập trung khắc họa Nguyễn Huệ, vua Quang Trung đã trở thành linh hồn của cuộc chiến đấu. Ba chữ vua Quang
Trung cứ trở đi trở lại nhƣ một điệp khúc tự hào trong hồi XIV này. Chính nhiệt tình yêu nƣớc ở các tác giả đã
giúp họ phần nào chiến thắng đƣợc định kiến giai cấp của mình. Họ không đồng tình với khởi nghĩa Tây Sơn
nhƣng họ lại tán đồng, lại ca ngợi hành động chống xâm lƣợc của nghĩa quân.

3.Nguyên nhân thành công và hạn chế của tác phẩm.

2.3.1.Nguyên nhân thành công:


Nguyên nhân chính làm nên phần thành công của tác phẩm là lập trƣờng dân tộüc và sự tác độüng của đời
sống thực tế.
2.3.2. Hạn chế của tác phẩm:
Tác phẩm có những hạn chế là tất yếu bởi vì những ngƣời cầm bút đều mang tƣ tƣởng chính thống phò Lê.
Các tác giả còn rơi vào duy tâm siêu hình khi đánh giá các sự kiện lịch sử. Họ cắt nghĩa những biến cố lịch sử
bằng vai trò của cá nhân và tƣ tƣởng thiên mệnh.
III.NGHỆ THUẬT

1.Thể loại.
Cũng có thể là không nên gò ép tác phẩm thuộc thể loại nào nhƣng chúng ta vẫn phải xác định Hoàng Lê
nhất thống chí là một tác phẩm thuộc thể loại kí sự lịch sử. Khẳng định nhƣ vậy là xét về hoàn cảnh ra đời, nội
dung phản ánh hiện thực và đặc trƣng kết cấu cuả tác phẩm.
2.Nghệ thuật miêu tả.
-Ðiểm đáng chú ý nhất trong Hoàng Lê nhất thống chí vẫn là nghệ thuật miêu tả. Ðọc tác phẩm ta thấy
tất cả các sự kiện lịch sử chính xác nhƣ những sự kiện trong một cuốn sách sử học nhƣng không phải đƣợc kể lại
một cách khô khan, trần trụi mà đƣợc các tác giả miểu tả, dựng lên thành những bức tranh cụ thể, sinh động và có
ý nghĩa khái quát hóa, có giá trị về mặt mĩ học.
-Hiện thực đƣợc phản ánh ở đây phong phú đa dạng cho nên ngòi bút miêu tả của các tác giả cũng trở nên đa dạng,
phong phú và mang nhiều sắc thái thẩm mĩ khác nhau. Ðối với bọn vua chúa, quan lại bao giờ tác giả cũng dùng
ngòi bút miêu tả có tính chất trào phúng, khôi hài và cũng có khi châm biếm sâu cay. Khi miêu tả cảnh kiêu binh
phò Trịnh Tông lên ngôi chúa, tác giả đã dùng ngòi bút so sánh để làm nổi bật tính chất khôi hài, trò hề trong hành
động của Tông. Ðây cũng là một trong những cảnh có ý nghĩa trong tác phẩm.

http://diendankienthuc.net 81 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

-Ngòi bút miêu tả đó cũng có khi mang không khí trang trọng hùng tráng của anh hùng ca. Ðó là trƣờng hợp nhà
văn miêu tả Nguyễn Huệ duyệt binh và ra lệnh cho quân lính trong buổi lễ xuất quân tiến thẳng ra Thăng Long
tiêu diệt quân ngoại xâm. Dƣới ngòi bút của tác giả, chiến dịch này nhƣ một bản anh hùng ca bất diệt, tác giả miêu
tả nó với một thái độ hả hê, sảng khoái.
-Chính ngòi bút miêu tả hiện thực phong phú đa dạng với nhiều sắc thái thẩm mĩ đã góp phần tạo nên giá trị phản
ánh hiện thực lớn lao của tác phẩm.

3.Nghệ thuật xây dựng nhân vật.


Các nhân vật tuy chƣa đạt tới tính cách hoàn chỉnh nhƣng mỗi nhân vật đã có đƣợc vẻ mặt riêng, cuộc sống
riêng độc đáo, gây ấn tƣợng ở ngƣời đọc. Chẳng hạn cùng tính toán đêí bảo vệ lợi ích cá nhân nhƣng cách làm của
Lê Hiển Thông khác với cách làm của Lê Chiêu Thống, cách làm của quận Huy khác với cách làm của Nguyễn
Hữu Chỉnh.
IV.TỔNG KẾT
Trong văn xuôi chữ Hán của văn học dân tộc, trƣớc và sau Hoàng Lê nhất thống chí không có một tác
phẩm thứ hai nào có qui mô lớn và đạt nhiều thành công nhƣ tác phẩm này

Chƣơng 19: KHÁI QUÁT VĂN HỌC YÊU NƢỚC VIỆT NAM
NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX (1858-1900)

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ:


1.Sự xâm lƣợc của thực dân Pháp trên đất nƣớc ta:
Thực dân Pháp đã có ý đồ xâm chiếm nƣớc ta từ lâu, từ cuối thế kỷ XVIII nhƣng âm mƣu này chƣa thực hiện
đƣợc. Mãi đến cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp lấy cớ triều đình nhà Nguyễn đã bắn giết các giáo sĩ và ngăn chặn
thông thƣơng nên đã chính thức xâm lƣợc Việt Nam.
Thực dân Pháp phải mất gần 40 năm mới đặt ách thống trị trên đất nƣớc ta và non một thế kỷ nhân dân ta phải
sống dƣới sự cai trị của Pháp.
Trong điều kiện xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX thì sự kiện Pháp xâm lƣợc Việt Nam là sự kiện quan trọng,
nổi bật, chi phối các sự kiện khác và có ảnh hƣởng rất lớn đến mọi tầng lớp ngƣời trong xã hội.

2.Sự đấu tranh của nhân dân ta chống Pháp:


Trƣớc sự xâm lƣợc của thực dân Pháp, nhân dân ta đấu tranh chống Pháp quyết liệt.
Giai cấp phong kiến lúc đầu còn chống đối nhƣng ngày càng yếu ớt và cuối cùng thì nhƣợng bộ, thỏa hiệp, đầu
hàng thực dân Pháp.
Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp nơi. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của nông dân chống triều đình phong kiến
đầu hàng và chống Pháp xâm lƣợc. Chẳng hạn nhƣ cuộc khởi nghĩa của Ba Cai Vàng, Ðoàn Hữu Trƣng, Trần
Tấn…
Phong trào đấu tranh yêu nƣớc của các sĩ phu, các lãnh binh đã lãnh đạo nhân dân chống Pháp dƣới ngọn cờ Cần
Vƣơng cũng nổ ra rầm rộ kéo dài từ Bình Ðịnh, Quảng Bình ra đến Hƣng Yên, Thái Bình, Tây Bắc. Các cuộc khởi
nghĩa tiêu biểu nhƣ Phan Ðình Phùng, Ðinh Công Tráng, Tống Duy Tân, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa
Thám…
Phong trào chống Pháp tuy sôi nổi, đều khắp nhƣng không có lực lƣợng hậu thuẫn làm nồng cốt nên cuối cùng
phong trào đấu tranh chống Pháp bị thất bại. Mất nƣớc là do nhà Nguyễn phản động, sợ dân hơn sợ giặc chứ hoàn
toàn không phải do định mệnh.
Mặc dù thất bại nhƣng cũng chứng tỏ đƣợc tinh thần yêu nƣớc nồng nàn, tinh thần dũng cảm của nhân dân,
khẳng định phong trào đấu tranh mang tính nhân dân sâu sắc. Có thể nói, đây là giai đoạn lịch sử đau thƣơng mà
hùng tráng của dân tộc, nhiều hi sinh mất mát nhƣng rất tự hào, giai đoạn Khổ nhục nhƣng vĩ đại.

http://diendankienthuc.net 82 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

3.Sự phân hóa giai cấp trong xã hội:


Trƣớc những biến cố lớn lao, xã hội có sự phân hóa giai cấp sâu sắc. Mỗi tầng lớp bị phân hóa đều mang sắc thái
tâm lý riêng, một thái độ chính trị riêng.
Trong hàng ngũ giai cấp phong kiến, giai cấp thống trị cũ của xã hội, thái dộ của họ không giống nhau nhƣng tâm
lý chủ yếu của tầng lớp này là đầu hàng, thỏa hiệp. Bên cạnh đó có một số sĩ phu, trí thức phong kiến thấy rõ
quyền lợi của phong kiến cũng chỉ là quyền lợi làm tay sai cho đế quốc(*)) , họ tiếp thu truyền thống yêu nƣớc của
dân tộc, sống gần gũi với nhân dân nên đã hăng hái cùng với nhân dân chống giặc.
Số khác là những nhà thơ, nhà văn yêu nƣớc đã dùng ngòi bút để chiến đấu, để nói lên tâm tƣ, nguyện vọng và
thái độ của mình trƣớc cảnh nƣớc mất, nhà tan.
Bên cạnh lực lƣợng nho sĩ, nhiều tầng lớp mới xuất hiện nhƣ tƣ sản, tiểu tƣ sản và vô sản, quyền lợi đối lập nhau.
Giai cấp tƣ sản mới hình thành nên chƣa đủ mạnh để chống lại tƣ sản chính quốc, cũng chƣa đủ sức để vƣơn cao
ngọn cờ yêu nƣớc.
Giai cấp vô sản hầu hết xuất thân từ giai cấp nông dân, giai cấp này lớn mạnh nhanh chóng nhất là sau chiến
tranh thế giới I. Tuy nhiên, sáng tác văn học giai đoạn này vẫn thuộc về giai cấp cũ nên văn học vẫn chịu sự chi
phối của ý thức hệ phong kiến rõ nét.

4.Về văn hóa tƣ tƣởng, khoa học kỹ thuật:


Vẫn trong tình trạng lạc hậu, trì trệ. Triều đình tôn sùng nho học, xem nho giáo là quốc giáo, lợi dụng tôn giáo là
công cụ để thống trị xã hội…Khổng, Mạnh, Trình… đƣợc xem là những vị thánh. Sách vở của họ là thiên kinh địa
nghĩa. Học trò đi thi chỉ học thuộc lòng một số câu, đoạn trong sách vở… Ðiều này làm hạn chế óc sáng tạo của
con ngƣời.
Ngoài nho giáo thì Ðạo giáo, Phật giáo và các tín ngƣỡng khác cũng rất phát triển. Binh tƣớng đều xem bổn
mạng trƣớc khi ra trận, trời hạn hán lâu ngày, các triều thần lập đàn cầu đảo để đƣợc mƣa… Ðiều đó lộ rõ đƣợc sự
bảo thủ nặng nề trong mọi hoạt động. Con ngƣời tin vào mệnh trời. Họ tin vào lực lƣợng siêu hình có khả năng
giải quyết mọi thành bại ở trên đời. Ðiều đó làm hạn chế sự cố gắng của con ngƣời.
Trƣớc tình hình đó vẫn có một số sĩ phu có đầu óc canh tân nhƣ Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trƣờng Tộ… có dịp
học hỏi khoa học kỹ thuật tiến bộ nên đã nhiều lần đƣa ra những kiến nghị cải cách xã hội.
Nguyễn Trƣờng Tộ đả kích lối học từ chƣơng, hƣ văn, chủ trƣơng học khoa học kỹ thuật, học thiên văn, địa lý,
luật, sinh ngữ… Học tức là học cái chƣa biết để mà biết, biết để mà làm (Tế cấp bát điều). Ông say sưa với những
đề nghị cải cách đất nƣớc thậm chí viết cả trên giƣờng bệnh.
Giống nhƣ Nguyễn Trƣờng Tộ, Nguyễn Lộ Trạch chủ trƣơng mở rộng giao thiệp với nƣớc ngoài, trọng việc học
kỹ nghệ Việc học kỹ nghệ không phải khó nhƣ việc cắp nách túi Thái Sơn để vượt qua biển Bắc như lời thầy
Mạnh. Vả lại, theo tình hình khẩn cấp, lúc khát mới lo đào giếng thì đã chậm, nhưng chậm còn hơn là không biết
mãi. Dù mất dê mới lo làm chuồng cũng chưa phải là muộn (Thời vụ sách thứ hai)
Nhƣng triều đình mục nát không nghĩ gì đến vận nƣớc nên nhiều bản điều trần của hai ông bị vùi trong quên
lãng. Tƣ tƣởng con ngƣời quay về với nề nếp nho gia, cổ hủ, có ảnh hƣởng làm hạn chế sự phát triển của văn học
đƣơng thời.

II. TÌNH HÌNH VĂN HỌC:


1. Về nội dung văn học
1.1. Văn học mang tính thời sự:
Tính chất thời sự chi phối toàn bộ đời sống văn học và làm thay đổi diện mạo văn học. Văn học giai đoạn này ra
đời trong hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc biệt có nhiều biến cố trọng đại nên văn học gắn với chính trị và phục vụ cho
cuộc đấu tranh chính trị. Với yêu cầu cấp thiết đó, văn học đã phản ánh những vấn đề trung tâm nóng hổi của thời
đại: Cuộc đấu tranh của nhân ta chống thực dân Pháp. Ðây là chủ đề chính của văn học thời kỳ này. Trƣớc kia
chƣa có một giai đoạn nào mà sự chuyển biến về chủ đề và đề tài trong văn học lại nhanh chóng và theo sát biến
cố đến vậy.
Nhiều tác phẩm yêu nƣớc ra đời đã ghi lại những biến cố lớn lao của đất nƣớc. Miên Thẩm có nhắc đến sự kiện
Pháp tấn công Ðà Nẵng:
http://diendankienthuc.net 83 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Nẵng tuế Tây di phạm Quảng Nam


Quan quân chiến bại huyết thành đàm.
(Mại chỉ y)

Dịch nghĩa:
Năm kia giặc tây đánh Quảng Nam.
Quân ta thua chạy máu chảy thành đầm.
(Mua áo giấy)

Phạm Văn Nghị trên đƣờng hành quân vào Ðà Nẵng đã làm bài Trà sơn quân thứ nói lên lòng căm thù giặc của
mình.
Nguyễn Ðình Chiểu có viết hàng loạt tác phẩm yêu nƣớc phản ánh cuộc chiến đấu của nhân dân, tố cáo tội ác của
giặc và kêu gọi nhân dân đứng lên chống Pháp.

1.2. Văn học mang tính trữ tình:


Văn học giai đoạn này đã kế thừa tính trữ tình của văn học dân gian và văn học bác học đồng thời có sự vƣơn
một buớc theo hoàn cảnh mới của lịch sử. Vì vậy nó chịu ảnh hƣởng sâu sắc tính trữ tình của văn học giai đoạn
trƣớc, chủ yếu đi sâu vào chủ đề con ngƣời nên chất trữ tình của nó rất phong phú và đa dạng. Nhƣng trữ tình ở
đây là trữ tình yêu nƣớc, phát triển trên cảm hứng mới của chủ đề đó là lòng yêu nƣớc gắn liền với những biến cố
lớn lao của đất nƣớc.
Văn học giai đoạn này đã thể hiện tình cảm yêu nƣớc của nhân dân bằng những lời lẽ thiết tha sâu nặng. Do đó
yếu tố lãng mạn đã giữ vai trò không thể thiếu đƣợc để đảm bảo cái nhìn vừa đúng hiện thực vừa vừa phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân. Ngay Nguyễn Khuyến và Tú Xƣơng là những nhà thơ hiện thực trào phúng nhƣng
cũng có những bài thơ trữ tình độc đáo.
Có thể nói, văn thơ yêu nƣớc phong phú về trữ tình nhƣng không thiếu tự sự kể cả trào phúng, tính trữ tình là yếu
tố căn bản của văn học yêu nƣớc chống Pháp.

2. Về hình thức
2.1. Ngôn ngữ:
Vẫn tồn tại hai thành phần chữ Hán và chữ Nôm. Có tác giả viết hoàn toàn bằng chữ Hán nhƣ Miên Thẩm,
Nguyễn Thông, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Xuân Ôn… Có tác giả viết bằng chữ Hán vừa bằng chữ Nôm nhƣ
Nguyễn Khuyến. Có tác giả viết chủ yếu bằng chữ Nôm nhƣ Nguyễn Ðình Chiểu, Trần Tế Xƣơng…
Bên cạnh đó chữ quốc ngữ cũng đƣợc khích lệ dƣới nhiều hình thức: Báo chí, phiên âm, dịch thuật…. Trƣơng
Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của đã cò nhiều hoạt động rộng rãi nhằm phổ biến chữ quốc ngữ nhƣ phiên âm, dịch một số
tác phẩm chữ Nôm và chữ Hán ra chữ quốc ngữ, biên soạn truyện cổ tích bằng chữ quốc ngữ, làm tự điển, ngữ
pháp… Sự ra đời cuốn Ðại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của xuất bản năm 1895 và 1896 là một công trình
biên soạn có giá trị.
Một loạt những ngôn ngữ hàng ngày rất mới, rất mộc mạc đã đi vào thơ văn và có giá trị hiện thực đáng quý.
2.2. Thể loại:
Thể loại thể hiện tính đại chúng, tính nhân dân sâu sắc.
- Các thể loại dài nhƣ: Truyện thơ Lục vân Tiên , Dƣong Từ Hà Mậu, Ngƣ Tiều y thuật vấn đáp.
- Các thể loại ngắn nhƣ:
Sử ca, thơ Ðƣờng, thơ lục bát, vè hịch, văn tế… Trong đó hịch và văn tế là hai thể loại tiêu biểu vì nó thích hợp
cho việc kêu gọi và diễn đạt tình cảm lớn.
Các thể loại ngắn là thể loại thành công hơn cả vì nó sáng tác nhanh, mang tính thời sự và phục vụ kịp thời
đáp ứng đƣợc yêu cầu của cuộc chiế đấu và tình cảm của nhân dân.
- Các thể loại sân khấu: Tuồng, chèo cũng phát triển . Về nội dung chƣa có gì đổi mới đáng kể so với trƣớc
nhƣng về hình thức thì có nhiều đóng góp.

http://diendankienthuc.net 84 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

2.3. Về mặt hình thức nghệ thuật:


Phƣơng pháp chính vẫn là phƣơng pháp sáng tác truyền thống. Nhƣng do yêu cầu phản ánh trung thực và gần gũi
để động viên chiến đấu nên văn học đã vận dụng hniều chất liệu hiện thực, mang sắc thái phê phán và ít nhiều đã
phá vỡ những khuôn khổ của phƣơng pháp sáng tác truyền thống. Ðặc biệt là Trần Tế Xƣơng, tác giả có nhiều
đóng góp trong việc sáng tác một phƣơng pháp mang đậm tính hiện thực.
Trong bộ phận văn học chữ Hán, phong cách biểu hiện của thơ vẫn chƣa có gì đổi mới, vẫn chƣa thoát khỏi biểu
hiện có tính chất công thức, ƣớc lệ của văn học phong kiến. Riêng văn xuôi chữ Hán có phần khác trƣớc, câu văn
trong sáng, giản dị hơn, lập luận cũng chặt chẽ, lô gích hơn.
Trong bộ phận văn học chữ Nôm, nghệ thuật biểu hiện một mặt kế thƣà truyền thống; mặt khác có sự đổi mới
đáng kể. Văn học giai đoạn này bớt lối diễn đạt chung chung, ƣớc lệ, không cụ thể mà bám sát đời sống. Trong thơ
hiện thực trào phúng nổi bật lên tính cụ thể, cá thể rõ nét, các nhà thơ đã dùng tiếng cƣời để xua tan mọi suy nghĩ
siêu hình, tự biện, chất sống của nó rõ hơn trong thơ trữ tình.
Cùng với lối biểu hiện có tính chất cá thể, cụ thể lịch sử, thơ thời kỳ này còn xuất hiện cái tôi trữ tình. Phong
cách cá nhân rõ nét. Những đại từ ngôi thứ nhất số ít nhƣ Tôi, tớ, anh, em, ông, mình… đã thay thế cho ta, hoặc
một ẩn chủ ngữ cùng loại. Ðiều này đã làm cho văn học giai đoạn này có tiếng nói riêng vừa gần gũi vừa đại
chúng.
III. CÁC KHUYNH HƢỚNG VĂN HỌC:
1.Khuynh hƣớng yêu nƣớc chống Pháp:
Yêu nƣớc vốn là truyền thống lâu đời của dân tộc. Trải qua hàng chục thế kỷ chống ngoại xâm, từ buổi đầu dựng
nƣớc cho đến khi có văn học thành văn, nhân dân ta thể hiện lòng yêu nƣớc mãnh liệt của mình.
Ðến nửa cuối thế kỷ XIX, khi Pháp sang, truyền thống yêu nƣớc vốn là truyền thống lâu đời của dân tộc lại có
dịp bùng lên một cách mạnh mẽ. Văn học chống Pháp ra đời đã kế thừa một cách tốt đẹp truyền thống yêu nƣớc
trong lịch sử và và có những bƣớc phát triển phù hợp với hoàn cảnh mới của lịch sử.
Văn thơ yêu nƣớc đã vạch trần những luận điệu hèn nhát, bỉ ổi của triều đình, bọn vua quan vô trách nhiệm, bè lũ
Việt gian bán nƣớc thành những bản án đanh thép hoặc những trang châm biếm sắc sảo.
- Hịch đánh Tây của Lãnh Cồ
- Hà thành thất thủ ca.
- Hà thành chính khí ca.
- Vè thất thủ kinh đô.
- Biểu trần tình của Hoàng Diệu
- Phú kể tội Pháp đánh Bắc kỳ lần I của Phạm Văn Nghị.
- Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây của Nguyễn Ðình Chiểu…
-
Mặt khác , nó còn phản ánh tâm lý đau xót của nhân dân trƣớc cảnh nƣớc mất, nhà tan (bài Cảm tác của Phan Văn
Trị, Vè thất thủ kinh đô của nhân dân Huế, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Ðình Chiểu…)
Khuynh hƣớng này đã đem đến cho văn học một luồng sinh khí mới, một sức sống mới. Các tác giả tiêu biểu của
khuynh hƣớng này là Nguyễn Ðình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Xuân
Ôn…
2. Khuynh hƣớng hiện thực trào phúng:
Có quan hệ chặt chẽ với khuynh hƣớng yêu nƣớc chống Pháp. Các nhà văn này, ban đầu sáng tác văn học yêu
nƣớc nhƣng về sau khi phong trào kháng pháp thất bại, Pháp chiếm toàn bộ đất nƣớc ta, xã hội bộc lộ những
chƣớng tai gai mắt nên các nhà văn này đã dùng ngòi bút của mình để phơi bày những mặt trái của xã hội bằng
khiếu hài hƣớc nhạy bén của mình. Họ đã lấy việc tố cáo làm phƣông tiện để gây căm thù nhằm mục đích kêu gọi
chiến đấu.
Khuynh hƣớng này phát triển thành một khuynh hƣớng độc lập, tuy kkông đông đúc nhƣ khuynh hƣớng yêu nƣớc
chống Pháp nhƣng cũng khá đa dạng, phát triển khắp trong Nam ngoài Bắc. Các tác giả tiêu biểu của khuynh
hứơng này là Nguyễn khuyến, Trần Tế Xƣơng, Học Lạc, Nguyễn Thiện kế, Tú Quỳ, Kép trà, Trần Tích Phiên,,
Nguyễn Hiển Dĩnh, Học Quế… Bên cạnh đó còn có những tác giả dân gian, của loại truyện Ba giai Tú Xuất, chất
tố cáo càng mạnh mẽ.
http://diendankienthuc.net 85 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Các bài thơ tiêu biểu :


- Ông làng hát bội, Chó chết trôi của Học lạc.
- Vịnh Lê Hoan, Vịnh tri phủ Quảng Oai của Nguyễn Thiện kế. -
- Ông Phỗng đá, Thầy đồ ve gái góa của Nguyễn Khuyến.
- Ðất Vị hoàng, Mùng hai tết viếng cô Ký của Trần Tế Xƣơng…
Khuynh hƣớng này có nhiều đóng góp đáng kể cho sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc.
3. Khuynh hƣớng thoát ly hƣởng lạc:
Khuynh hƣớng này ra đời và phát triển song song với khuynh hƣớng hiện thực trào phúng. Ða số các nhà thơ
thuộc khuynh hƣớng này đều xuất thân từ tầng lớp quan lại phong kiến suy tàn, mang tâm lý hƣởng lạc, cá nhân,
tùy thời. Trong bối cảnh chung là sự thất bại của phong trào chống Pháp và việc đặt ách thống trị lên đất nƣớc ta,
một số khác ra làm quan mục đích để hƣởng nhàn chứ không đàn áp phong trào kháng chiến, số khác thoát ly vào
thơ, rƣợu, vào mộng, vào tình yêu…
Khuynh hƣớng này thƣờng viết về thiên nhiên, thời thế,tâm trạng, thỉnh thoảng có bày tỏ nỗi lòng yêu nƣớc thầm
kín nhƣng chủ yếu nói về cuộc sống ăn chơi, hƣởng lạc của họ. Các tác giả tiêu biểu nhƣ Dƣơng Lâm, Dƣơng
Khuê, Chu Mạnh Trinh…
Sáng tác của họ thƣờng bằng chữ Nôm nên đã có những đóng góp nhất định trong việc trau dồi ngôn ngữ dân
tộc. Tuy nhiên, khuynh hƣớng này thƣờng chủ trƣơng là co về mình, thích hƣởng lạc, lao vào ăn chơi nên ít nhiều
cũng gây ảnh hƣởng tai hại.
4. Khuynh hƣớng nô dịch:
Ðây là khuynh hƣớng phản động bao gồm những tên tay sai cho Pháp, nhƣ Tôn Thọ Tƣờng, Hoàng Cao Khải.
Nội dung của khuynh hƣớng này là ca ngợi ngƣời Pháp, bênh vực biện hộ cho những tên tay sai, phục vụ cho
mục đích chính trị của Pháp.
Trong thời kỳ đầu khuynh hƣớng này còn tỏ ra ra dè dặt, úp mở nhƣng càng về sau càng lộ rõ tính chất phản
động của nó. Tiêu biểu có Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh.
IV. ÐẶC ÐIỂM CỦA VĂN HỌC YÊU NƢỚC CHỐNG PHÁP:
1.Văn thơ yêu nƣớc gắn liền với vận mệnh dân tộc:
Văn thơ yêu nƣớc tự phát tham gia gánh vác nhiệm vụ của dân tộc một cách vẻ vang. Nó gắn liền với vận mệnh
của dân tộc trong một giai đoạn lịch sử bi tráng. Ðồng thời nêu lên hai vấn đề có liên quan đến vận mệnh của dân
tộc: Vấn đề chính trị và vấn đề nhân sinh.

1.1. Vấn đề chính trị:


-Vấn đề Duy tân đƣợc thể hiện qua các bản điều trần của những sĩ phu có đầu óc canh tân nhƣ Nguyễn Trƣờng
Tộ, Nguyễn Lộ Trạch. Hai ông đã nhiều lần đề nghị triều đình nghiên cứu thực hiện chủ trƣơng cải cách đất nƣớc,
nhƣng không đƣợc triều đình chấp nhận, việc Duy tân thất bại.
- Vấn đề chống Pháp, chống thỏa hiệp đầu hàng là vấn đề trọng tâm của văn học yêu nứơc chống Pháp.
- Vấn đề vai trò của ngƣời dân có ý nghĩa lịch sử quan trọng, nhất là trong việc chống ngoại xâm. Thơ văn yêu
nƣớc của Nguyễn Ðình Chiểu không chỉ ca ngợi ngƣời dân ở chiến lƣợc, chiến thuật, về tinh thần chiến đấu mà
còn ở nhận thức tự phát của họ:
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình.
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Trong bức thƣ Phan Ðình Phùng trả lời Hoàng cao Khải nhân dân là mục tiêu phục vụ, mục tiêu bảo vệ và chiến
đấu của nghĩa quân, nhân dân gắn liền với phong trào kháng chiến.
1.2. Vấn đề nhân sinh quan:
Nói đến nhân sinh quan là nói sống để làm gì? Sống nhƣ thế nào?Thái độ của con ngƣời trƣớc sự sống và cái
chết? Ðể giải quyết các vấn đề chính trị, thơ văn yêu nƣớc đặt ra những vấn đề mang ý nghĩa thời sự.
- Vấn đề sống - chết được giải quyết không theo quan điểm con người trừu tượng theo kiểu tôn giáo mà từ góc dộ
của cuộc đấu tranh dân tộc. Tức là sống trọng nghĩa và chết đúng đắn
http://diendankienthuc.net 86 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Làm người sao khỏi thác, thác trung thần thác cũng thơm danh
(Hịch Quản Ðịnh)
Hay:
Ninh cam tử táng sài lang vẫn
Khẳng nhẫn sinh phùng bạch quỷ ưu.
(Nguyễn Cao điếu Nguyễn Tri Phương)
- Khái niệm vinh - nhục theo quan điểm thà chết vinh hơn sống nhục. Sống đánh giặc cứu nƣớc là sống đúng, chết
vì nƣớc nhà là vinh, sống theo giặc đầu hàng phản bội là sống nhục (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trƣơng
Ðịnh, Thơ điếu Phan Tòng).
- Khái niệm chính khí gắn với hành động vì nghĩa:
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng
(Nguyễn Ðình Chiểu)
Kiến nghĩa ninh cam bất dũng vi
(Thấy nghĩa há đành làm kẻ không có dũng)
(Hồ Huấn Nghiệp)
Các vấn đề nhân sinh quan đƣợc đặt ra dựa vào các hệ tƣ tƣởng vốn có ở nƣớc ta nhƣng chủ yếu từ cơ sở, tƣ tƣởng
Việt Nam, từ những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc.
2. Văn thơ yêu nƣớc gắn với cuộc sống dân tộc và con ngƣời thời đại:
2.1. Văn thơ yêu nƣớc phản ánh về dân tộc và về thời cuộc:
Văn thơ yêu nƣớc là cuốn sử thi của thời đại đã ghi chép một cách cảm động trung thành cuộc đấu tranh của dân
tộc. Ðó còn là lịch sử khổ nhục nhƣng vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong giai đoạn này.
Văn thơ yêu nƣớc còn chứng tỏ rằng dẫu nƣớc mất nhƣng còn dân, còn giá trị tinh thần truyền thống và tin tƣởng
vào thắng lợi của dân tộc.
2.2. Văn thơ yêu nƣớc phản ánh về con ngƣời thời đại:
Ðó là những con ngƣời tiêu biểu nhƣ ngƣời sĩ phu, ngƣời trí thức bất hợp tác, ngƣời nông dân, ngƣời phụ nữ,
ngƣời nghĩa sĩ … Bên cạnh đó còn có những tên sâu dân mọt nƣớc nhƣ bọn vua quan, bọn tay sai và cả một bức
tranh xã hội Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX đƣợc tái hiện một cách đấy đủ, sinh động.
Có thể nói, với những nét hào hùng về thời đại, về dân tộc, về con ngƣời, văn thơ yêu nƣớc đƣợc xem nhƣ pho sử
thi đau thƣơng nhƣng không kém phần hùng tráng của dân tộc Việt Nam trong giai đoạn lịch sử khổ nhục nhƣng
vĩ đại.
3.Văn thơ yêu nƣớc là bản anh hùng ca:
Cuộc đấu tranh trong giai đoạn này rất hào hùng nhƣng không tránh khỏi thất bại. Âm hƣởng chung của văn thơ
yêu nƣớc giai đoạn này là âm điệu đau thƣơng nhƣng anh dũng. Thậm chí cái buồn, cái bi quan cũng không phải
không gây phẫn uất. Do đó, nó là một âm điệu bi hùng.
V.KẾT LUẬN CHUNG:
Ðây là giai đoạn cuối cùng của văn học đƣợc sáng tác dƣới sự chi phối của ý thức hệ phong kiến. Văn học giai
đoạn này đã bám sát cuộc sống, cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống Pháp, đã ghi lại một cách sinh động trung
thành một giai đoạn lịch sử đau thƣơng mà hùng tráng của dân tộc, ghi lại cuộc chiến đấu bền bỉ của dân tộc ta. Có
thể nói, giai đoạn này mang tính chiến đấu cao, tính dân tộc, tính đại chúng dồi dào, rõ rệt.
Cho đến nay, những tác phẩm yêu nƣớc vẫn luôn mới về tinh thần đấu tranh chống xâm lƣợc, chống thỏa hiệp đầu
hàng, và nó đã để lại không ít bài học về nhiều mặt, từ tƣ tƣởng đến tình cảm, không chỉ cho một thời mà còn cho
lâu dài.

Chƣơng 20: NGUYỄN ÐÌNH CHIỂU


(1822-1888)
***
I.GIỚI THIỆU VỀ CUỘC ÐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
http://diendankienthuc.net 87 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

1.Cuộc đời:
Nguyễn Ðình Chiểu là ngƣời mở đầu cho giai đoạn văn học nửa cuối thế kỷ XIX, tên tuổi ông là tƣợng trƣng cho
lòng yêu nƣớc của nhân dân miền Nam, và thơ văn ông là những trang bất hủ ca ngợi cuộc chiến đấu oanh liệt của
nhân dân ta chống bọn xâm lược phương Tây ngay buổi đầu chúng đặt chân lên đất nước ta.(*)
Nguyễn Ðình Chiểu sinh ngày 1-7-1822 tại làng Tân Thới, huyện Bình Dƣơng phủ Tân Bình, Gia Ðịnh và mất
ngày 3-7-1888 tại Ba Tri, Bến Tre.
Cuộc đời Nguyễn Ðình Chiểu sớm trải qua những chuỗi ngày gia biến và quốc biến hải hùng đã tác động đến
nhận thức của ông.
Ngay từ nhỏ, Nguyễn Ðình Chiểu đã theo cha chạy giặc. Từ một cậu ấm con quan, bỗng chốc trở thành một đứa
trẻ thƣờng dân sống trong cảnh chạy loạn, trả thù, chém giết. Lớn lên, bị bệnh mù mắt, bị gia đình giàu có bội ƣớc,
công danh dang dở. Mặc dù cuộc đời Nguyễn Ðình Chiểu gặp nhiều bất hạnh nhƣng lúc nào ông cũng gắn bó với
nhân dân. Tuy sống trong cảnh mù lòa nhƣng Nguyễn Ðình Chiểu đã tiến thân thành danh bằng con đƣờng hành
đạo của mình. Ông đã mở lớp dạy học, viết văn và hốt thuốc chữa bệnh cho dân. Lúc nào ông cũng quan tâm lo
lắng cho chiến sự. Ở đâu ông cũng làm cùng một lúc ba nhiệm vụ của ba ngƣời tri thức để cứu dân, giúp đời.
Nguyễn Ðình Chiểu có nhiều nghị lực và phẩm chất, phải có nghị lực phi thƣờng và khí phách cứng cỏi thì
Nguyễn Ðình Chiểu mới vƣợt qua những bất hạnh của cá nhân và thời cuộc để đứng vững trƣớc cơn binh lửa hãi
hùng của lịch sử mà không sờn lòng, nản chí. Nguyễn Ðình Chiểu là hiện thân của nhiều phẩm chất cao đẹp làm
ngƣời. Trong ứng xử cà nhân, Ðồ Chiểu là tấm gƣơng sáng về đạo hiếu nghĩa nhân từ. Tất cả cô đúc lại thành khí
tiết của nhà nho yêu nƣớc Việt Nam tiêu biểu cho giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.
2.Sự nghiệp văn chƣơng:
2.1.Quá trình sáng tác:
Văn chƣơng chƣa phải là toàn bộ sự nghiệp của Nguyễn Ðùnh Chiểu. Sự nghiệp của ông còn lớn hơn nhiều. Ông
không chỉ là nhà văn mà còn là nhà giáo, ngƣời thầy thuốc và là một nhà tƣ tƣởng. Nhƣng văn chƣơng của ông đồ
sộ đủ đứng thành sự nghiệp riêng.
Nguyễn Ðình Chiểu bắt đầu viết văn sau khi mù, hầu hết các tác phẩm đều viết bằng chữ Nôm. Căn cứ vào nội
dung có thể chia ra thành hai thời kỳ sáng tác:
-Trƣớc khi Pháp xâm lƣợc Nam Kỳ: Tác phẩm Lục Vân Tiên là tác phẩm đầu tay, có tính chất tự truyện.
-Pháp xâm lƣợc Nam Kỳ:
+ Tác phẩm Dƣơng Từ-Hà Mậu có ý kiến cho rằng tác phẩm đƣợc viết trƣớc khi Pháp xâm lƣợc cũng có ý kiến
ngƣợc lại, mục đích của tác giả là dạy đạo Khổng cho học trò và sau này đƣợc sửa lại cho phù hợp với tình hình.
+ Tác phẩm Ngƣ tiều y thuật vấn đáp chủ yếu nói về các phƣơng thuốc và nghề làm thuốc nhƣng tràn đầy tinh
thần yêu nƣớc.
+ Các bài thơ Ðƣờng luật, các bài hịch, văn tế… tiêu biểu Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc(1861), Mười hai bài thơ và
bài văn tế Trương Ðịnh(1864), Mười bài thơ điếu Phan Tòng(1868), Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh(1874),
Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây, Hịch đánh chuột chưa xác định thời điểm sáng tác.
Với những tác phẩm nổi tiếng của mình, Nguyễn Ðình Chiểu trở thành ngƣời có uy tín lớn. Bọn thực dân nhiều
lần tìm cách mua chuộc ông nhƣng ông vẫn một mực từ chối các ân tứ. (Có nhiều giai đoạn về thái độ bất hợp tác
của Nguyễn Ðình Chiểu với kẻ thù).
Cuộc đời và sự nghiệp văn học của nhà thơ mù Nam Bộ là một bài học lớn về lòng yêu nƣớc, về việc sử dụng
ngòi bút nhƣ một vũ khí đấu tranh sắc bén. Tấm gƣơng Nguyễn Ðình Chiểu theo thời gian vẫn không mờ đi chút
nào.
2.2.Quan điểm văn chƣơng:
Nguyễn Ðình Chiểu tuy không nghị luận về văn chƣơng nhƣng ông có quan điểm văn chƣơng riêng. Quan điểm
văn dĩ tải đạo của ông khác với quan niệm của nhà nho, càng khác với quan niệm chính thống lúc bấy giờ. Nhà
nho quan niệm Ðạo là đạo của trời, còn Ðồ Chiểu cũng nghĩ đến nhưng có khác:
Ðạo trời nào phải ở đâu xa
Gẫm ở lòng người mới thấy ra
Trên nguyên tắc đạo trời đƣợc đề cao nhƣng trong thực tế đạo làm ngƣời đáng quý hơn nhiều. Ðó là quan niệm
bao trùm văn chƣơng Ðồ Chiểu.
http://diendankienthuc.net 88 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Quan điểm văn chƣơng Ðồ Chiểu tuy không đƣợc tuyên ngôn nhƣng đây là quan điểm tiến bộ và gần gũi với văn
chƣơng dân tộc: Văn chƣơng chiến đấu, vị nhân sinh, đầy tinh thần tiến công và tinh thần nhân ái.
II.NỘI DUNG TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN ÐÌNH CHIỂU:
1.Tác phẩm Luc Vân Tiên:
1.1.Tóm tắt cốt truyện:
Ðây là câu truyện thơ lục bát dài 2082 câu. Cốt truyện đƣợc tóm tắt nhƣ sau:
-Lục Vân tiên gặp Kiều Nguyệt Nga (Câu 1-186)
-Lục Vân Tiên bị tai nạn dồn dập và đƣợc cứu giúp (Câu 187-1264)
-Kiều Nguyệt Nga bị cống Phiên (Câu 1265-1664)
-Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga nên nghĩa vợ chồng (câu 1665-2082)
1.2. Lục Vân Tiên thể hiện Ðạo làm ngƣời trong cuộc đời thƣờng:
1.Ðạo đức nhân nghĩa trong tác phẩm Lục Vân Tiên
Khái niệm nhân nghĩa của Nguyễn Ðình Chiểu bắt nguồn từ tƣ tƣởng nhân nghĩa của nho giáo và trong thâm
tâm, ông từng khẳng định và ca ngợi đạo nho Theo đường nhân nghĩa chi bằng đạo nho.
Viết tác phẩm Lục Vân Tiên, tác giả có nêu lên những tấm gƣơng về luân lý, đạo đức kiểu Nhị thập tứ hiếu nhằm
mục đích giáo huấn, cải tạo xã hội:
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.
Quan niệm này xuất hiện rải rác trong toàn bộ tác phẩm thông qua hành động và tính cách các nhân vật (Vân Tiên,
Nguyệt Nga, Tiểu Ðồng…) dễ làm ta nghĩ đến những quan niệm phong kiến Nam nữ thụ thụ bất thân, về lòng
trung thành, về chữ trung, chữ tiết phong kiến.
Nhƣng trong khi thực hiện đạo đức nhân nghĩa, Nguyễn Ðình Chiểu đã nhào nặn lại tƣ tƣởng của đạo nho, đã tiếp
thu một cách sáng tạo phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Trong tác phẩm có đặt ra vấn đề trung, hiếu, tiết,
nghĩa nhƣng không còn theo lý thuyết nho giáo gò bó, áp đặt, cứng nhắc, cực đoan theo kiểu phong kiến mà đƣợc
khúc xạ đến mức khó nhận ra.
Các nhân vật không thấy mình bị gò bó bởi một nguyên lý đạo đức nào. Vân Tiên nghe theo lệnh vua đi chống
giặc Ô Qua là để cứu dân. Ðó là hành động trung quân hay ái quốc cũng đƣợc. Tƣ tƣởng trung quân của Nguyễn
Ðình Chiểu là trung quân có điều kiện, trung với lẽ phải, trung với nƣớc. Nhƣng đối với những ông vua xấu, vua
ác thì ông phê phán:
Quán rằng: ghét việc tầm phào
Ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm
Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm.
Ðể dân đến nỗi sa hầm sẩy hang
Ghét đời U, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần
Ghét đời Ngũ bá phân vân,
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời Thúc quý phân băng,
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng hại dân…
Hành động tự trầm của Nguyệt Nga cũng là thái độ phản kháng đối với chữ trung.
Nghĩa tình nặng cả hai bên.
Lấy mình báo chúa, lấy lòng sự phu.
Nguyễn Ðình Chiểu là một nhà nho sống dƣới thời nhà Nguyễn là thời kỳ nho giáo đƣợc đề cao. Nhƣng có đƣợc
một quan niệm đạo đức nhƣ thế rõ ràng là tiến bộ. Nhƣ vậy, tuy tác phẩm có đề cao trung , hiếu tiết, hạnh nhƣng
không phải hoàn toàn thuộc quan niệm phong kiến mà có nhiều yếu tố nhân dân.
Ðứng trên lập trƣờng nhân dân, ông ca ngợi những ngƣời hành động vì nhân nghĩa và họ xem đó là một nhu cầu
mà không hề nghĩ đến lợi danh, không cần báo đáp.

http://diendankienthuc.net 89 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

-Ðó là những ngƣời rất hào hiệp, nghĩa khí Giữa đƣờng thấy chuyện bất bằng chẳng tha Vân Tiên Tả xung hữu
đột đánh cướp cứu Nguyệt Nga, Hớn Minh bẻ giò con quan tri huyện để cứu người bị ức hiếp thế cô.
-Họ còn là những ngƣời tốt, giàu lòng thƣơng ngƣời, sẵn sàng giúp đỡ ngƣời khác không nghĩ đến thân, quên
mình vì nghĩa. Ông Ngƣ hết lòng chăm sóc cho Vân Tiên trong lúc hoạn nạn:
Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.
Ngƣ rằng: lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn
Nước trong rửa ruột sạch trơn
Một câu nhân nghĩa chi sờn lòng đây.
Tất cả việc làm vì nghĩa của các nhân vật chính diện trong tác phẩm Lục Vân Tiên đều thể hiện được một quan
điểm nhất quán của Ðồ Chiểu về cuộc sống, cũng nhƣ về đạo đức.
Ðể khẳng định tƣ tƣởng nhân nghĩa, một mặt, ông ca ngợi cái chính nghĩa mặt khác ông phê phán cái phi nghĩa.
Các nhân vật trong tác phẩm đƣợc sắp xếp thành hai tuyến nhân vật rất rõ. Một bên là những con ngƣời chính
nghĩa và bên kia là những kẻ bất nhân bất nghĩa nhƣ gia đình họ Võ ăn ở hai lòng, nhƣ Trịnh Hâm tính tình đố kỵ
nhỏ nhen; nhƣ Bùi Kiệm dâm ô, dốt nát và hàng loạt những tên lang băm, phù phép, bối toán nhiễu đời, hại dân
cùng với những tên sâu dân mọt nƣớc nhƣ tên Vua Sở, tên Thái Sƣ trong truyện. Tất cả những nhân vật phản diện
này đều tiêu biểu cho cái xấu, cái ác nên cuối cùng đều bị trừng trị thích đáng.
Cách xử lý của tác giả rất gần với quan niệm của nhân dân Thiện giả thiện báo, ác giả ác báo. Ðó cũng chính là
đạo lý, là ước mơ của nhân dân.
2.Lục Vân Tiên thể hiện bản chất đạo lý nhân dân:
Vấn đề đạo lý còn đƣợc thể hiện qua các quan hệ khác trong tác phẩm: Cha con, chồng vợ, thầy trò, bạn bè…
Nguyễn Ðình Chiểu đã đặt ra những tình huống xử thế trong các mối quan hệ đời thƣờng, gia đình và xã hội. Nó
rất gần gũi và cần thiết với cuộc sống hàng ngày và bao trùm hơn cả là mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời.
Mối tình Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga đƣợc vun đắp từ vấn đề ân nghĩa. Khi nghe tin Vân Tiên mất, nàng
kiên quyết thủ tiết thờ chồng. Nỗi đau buồn của nàng khi đƣợc lệnh cống Ô qua: Trong dạ nhƣ bào, canh chày
chẳng ngủ, những thao thức hoài… và lấy cái chết để giữ tình phu phụ. Vân Tiên cảm phục tấm lòng sắt son chung
thủy của ngƣời yêu nên đã không ngần ngại Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn. Vân Tiên đã làm một việc mà đạo
đức phong kiến không cho phép. Cũng giống nhƣ Nguyệt Nga, nàng đã vƣợt qua lễ giáo phong kiến tự ý đính ƣớc
với Vân Tiên.
Các nhân vật chính diện trong tác phẩm sống rất hồn nhiên, cởi mở. Họ sống có tình, có nghĩa, giản dị, chân chất.
Tình thầy trò giữa Tôn Sƣ và Vân Tiên, tình cảm bạn bè giữa Vân Tiên, Tử Trực, Hớn Minh; Tình nghĩa chủ tớ
giữa Vân Tiên với Tiểu Ðồng; giữa Nguyệt Nga và Kim Liên đƣợc miêu tả giống với cuộc sống và quan niệm của
nhân dân. Ðoạn Vân Tiên bày tiệc tế Tiểu Ðồng rất cảm động, nhƣng Tiểu Ðồng còn sống, gặp lại nhau tớ
thầy vui mừng không xiết:

Trạng nguyên khi ấy mừng vui


Tớ thầy sum hiệp tại nơi Ðại đề
Ðoạn thôi xe trở ra về…
Vân Tiên cùng các bạn là Hớn Minh, Tử Trực vẫn thân thiết nhƣ ngày trƣớc:

Hai người gặp lại hai người


Ðều vào một quán vui cười ngả nghiêng.

Bản chất nhân dân còn thể hiện qua đặc điểm tính cách của nhân vật. Quan điểm thƣơng ghét của Ông Quán rất rõ
ràng, dứt khoát tiêu biểu cho tính cách của ngƣời dân Nam bộ, quan điểm này cũng xuất phát từ tấm lòng thƣơng
yêu trìu mến Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương. Hớn Minh là người nghĩa khí, hành động bẻ giò con quan tri
huyện ỷ thế giàu sang làm càng là tiêu biểu cho hào khí của ngƣời dân lục tỉnh. Cũng nhƣ Tử Trực đƣợc miêu tả là
một ngƣời trực tính, không màng danh lợi, sống có tình có nghĩa, rất mực yêu quý bạn, nghe tin Vân Tiên mất
chàng than khóc:
http://diendankienthuc.net 90 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Nghe qua Tử Trực chạnh lòng


Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa.

Nhƣng tiêu biểu nhất là nhân vật Lục Vân Tiên, chàng là mẫu ngƣỡi lý tƣởng nên hội đủ các điều kiện mà nhân
dân mơ ƣớc: trọng nghĩa khinh tài, phò đời giúp nƣớc, đối nhân xử thế đều theo quan điểm nhân dân.

1.3.Lục Vân Tiên từ dáng dấp một tự truyện, một giấc mơ đến lý tƣởng xã hội:
1.Từ dáng dấp một tự truyện, một giấc mơ:
Lục Vân Tiên là một câu chuyện mang tính chất tự truyện. Tính chất tự truyện thể hiện qua những chi tiết có tính
chất bề nổi và bề sâu của tác phẩm. Chính nội dung tự thuật này đã bao quát toàn bộ cốt truyện và thể hiện suốt
chiều dài tác phẩm.
Lục Vân Tiên thể hiện giấc mơ Ðồ Chiểu Người thanh niên bị phụ tình đã ước mơ một mối tình chung thủy.
Chàng ước mơ những cử chỉ anh hùng, mơ ước trả nợ nước non và tâm sự ấy chàng đã gửi vào Tử Trực, vào Hớn
Minh, nhất là vào Vân Tiên. Vân Tiên cũng bị mù nhưng sẽ có thuốc tiên chữa cho sáng mắt ra. Vân Tiên sẽ thực
hiện cái chí bình sanh của Nguyễn Ðình Chiểu(*)
Ngoài giấc mơ riêng tƣ còn là giấc mơ chung về cuộc đời rộng lớn mà tự nó đã thể hiện ý nghĩa xã hội sâu sắc.
2.Ðến một lý tƣởng xã hội:
-Lục Vân Tiên là cả một xã hội, tất nhiên là xã hội phong kiến với đầy đủ các hạng ngƣời: Vua quan, thứ dân,
đứa ở, kẻ sĩ… Một xã hội với đầy đủ những ngƣời tốt, kẻ xấu. Nguyễn Ðình Chiểu đã dựng ra cả một cuộc đời để
gửi gấm lý tƣởng xã hội của mình.
-Nhà thơ đã xây dựng những mẫu ngƣời lý tƣởng, qua những nhân vật lý tƣởng, ông muốn xây dựng một xã hội lý
tƣởng. Ở đó, cái tốt đẹp đƣợc coi trọng và ngƣỡng mộ, ngƣời tài đức đƣợc trọng dụng, các oan khuất đƣợc giải
minh. Tóm lại, đó là xứ sở của điều thiện, lẽ sống công bằng và lòng nhân ái.
-Bên cạnh đó, nhà thơ phê phán những bất nhân, bất nghĩa. Qua diễn tiến và kết cục của số phận nhân vật phản
diện trong tác phẩm, Nguyễn Ðình Chiểu muốn nói lên rằng muốn xây dựng một xã hội lý tƣởng phải tiêu diệt
những hạng ngƣời xấu xa, độc ác.
Cách xử lý này tuy có phần ảo tƣởng và thỏa hiệp nhƣng có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Nó thể hiện sự cao thƣợng và
càng làm cho tính cách của nhân vật chính diện càng lý tƣởng hơn, thể hiện đƣợc tƣ tƣởng lạc quan của nhân dân:
Cái ác, cái xấu dẫu đƣợc ngƣời tha, thì vẫn là Trời không dung, đất không tha.
-Tác phẩm có xây dựng các yếu tố thần kỳ: Giao long, phật bà, du thần, hai đạo bùa… Các yếu tố thần kỳ này đã
được sự tiếp tay, tiếp sức cho chính nghĩa, thể hiện khát khao công lý và nhân ái của nhân dân.
1.4.Vài đặc điểm về nghệ thuật:
1.Kết cấu:
Kết cấu không khác mấy so với truyện thơ Nôm giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII-nửa đầu thế kỷ XIX, là vẫn xây
dựng hai tuyến nhân vật đối lập nhau nhƣng trong Lục Vân Tiên sự đối lập đƣợc thể hiện trong từng cặp nhân vật
một: Hớn Minh >< Trịnh Hâm; Tử Trực >< Bùi Kiệm; Kiều Nguyệt Nga >< Võ Thể Loan> xây dựng kiểu kết cấu
này giúp tác giả trực tiếp bày tỏ quan điểm của mình.
2.Sự chuyển ý:
Lục Vân Tiên là một tác phẩm được sáng tác để kể hơn là để xem nên cách chuyển ý rất đơn giản và thoải mái.
Từng chƣơng, mục trong tác phẩm không đòi hỏi sự liền mạch và nhất quán vì ở mỗi chƣơng, mục là một nội
dung, là một câu chuyện riêng. Ta vẫn có có thể đọc từng hồi, từng thứ, từng đoạn nhƣng vẫn hiểu mục đích và nội
dung của tác phẩm. Chẳng hạn nhƣ đoạn thƣơng ghét của ông Quán, sự triết lý của ông Quán, ông Ngƣ, ông Tiều
về sự đời, hay những đoạn chế giễu sự khoác lác, bịp bợm của bọn lang băm, thầy bói, thầy pháp… đều gây ấn
tƣợng mạnh mẽ:
Pháp rằng: Aán đã cao tay
Lại thêm phù chú xưa nay ai bì
Qua sông cá thấy xếp vi
Vào rừng cọp thấy phải quỳ lại thưa

http://diendankienthuc.net 91 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam


Cuối cùng cũng lộ rõ mục đích thực dụng của chúng:
Có ba lạng bạc trao sang
Thì Thầy sắm sửa lập đàn chạy cho.
3.Ngôn ngữ:
Tác phẩm này đƣợc sáng tác trong hoàn cảnh mù lòa nên nhiều chỗ còn thô vụng. Tuy nhiên ngôn ngữ trong Lục
Vân Tiên phục vụ đắc lực cho việc kể. Phần nhiều là những lời thơ nôm na, mộc mạc, chất phác, dễ nhớ, dễ truyền
miệng trong dân gian.
4.Sử dụng thành ngữ, ca dao:
Thành ngữ, ca dao đã tham gia hình thành Lục Vân Tiên khá độc đáo. Thí dụ nhƣ đoạn đối đáp của ông quán với
Trịnh Hâm…
5.Ðiển cố:
Ðiển cố đƣợc lấy từ tích các truyện Tàu, là những điển tích quen thuộc với nhân dân. Ví dụ nhƣ đoạn Tử Trực
mắng cha con Võ Thể Loan; đoạn thƣơng ghét của ông Quán…
6.Xây dựng tính cách nhân vật:
Trong tác phẩm Lục Vân Tiên có đoạn nhà thơ đặt chân vào hoàn cảnh có kịch tính, có nhiều chỗ nhân vật cần
bộc lộ tâm trạng nhƣng nhà thơ chƣa thể hiện hết tâm trạng đó. Vì vậy, tâm lý nhân vật còn nhiều khô khan, gò bó,
gƣợng gạo. Ðoạn Lục Vân Tiên cứu Nguyệt Nga, đoạn sum họp.
Lục Vân Tiên là tác phẩm cuối cùng kết thúc một giai đoạn văn học. Tác phẩm đã kế thừa nhiều mặt truyền thống
củ văn học nhân gian, của truyện thơ Nôm bình dân, đã thể hiện trữ tình đạo đức và tính nhân dân sâu sắc.
2.Thơ văn yêu nƣớc của Nguyễn Đình Chiểu: TOP
2.1.Ðặc điểm về thơ văn yêu nƣớc chống Pháp:
- Thơ văn yêu nƣớc của Nguyễn Ðình Chiểu thể hiện tƣ tƣởng nhân nghĩa. Nguyễn Ðình Chiểu đã kế thừa tƣ
tƣởng nhân nghĩa của cha ông trong kháng chiến chống ngoại xâm. Tiêu biểu là tƣ tƣởng nhân nghĩa của Nguyễn
Trãi:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
- Trong thơ văn yêu nƣớc của Nguyễn Ðình Chiểu, tƣ tƣởng nhân nghĩa đƣợc mở rộng thành lời kêu gọi động viên
kêu gọi cứu nƣớc:
Mến nghĩa bao đành làm phản nước
Có nhân nào nỡ phụ tình nhà
(Dương Tử-Hà Mậu)
Ông đã từng tâm niệm:
Hễ làm ngƣời chớ ở hai lòng
Ðã vì nước phải theo một phía
Và sử dụng thơ văn yêu nƣớc làm vũ khí đấu tranh sắc bén:

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm.


Ðâm mấy thằng gian bút chẳng tà
- Nguyễn Ðình Chiểu đã xác định vị trí chiến đấu của mình, vị trí vinh quang gắn liền với truyền thống của ngƣời
trí thƣc Việt Nam. Thơ văn yêu nƣớc của Nguyễn Ðình Chiểu giữ vị trí tiên phong của thời đại, cả mở đầu lẫn dẫn
đầu, cả về chiều sâu lẫn độ cao, độ chín. Ðó là bƣớc phát triển vƣợt bậc nhƣng vẫn nhất quán và liền mạch.
2.2.Các nhân vật chính trong thơ văn yêu nƣớc chống Pháp:
1.Nhân vật là ngƣời nông dân đánh Tây:
1.1.Vị trí của ngƣời dân trong văn chƣơng:
Trƣớc đây vai trò của ngƣời dân chƣa đƣợc đề cao trong văn chƣơng. Trong giai đoạn trƣớc Nguyễn Ðình Chiểu,
ngƣời dân cũng giữ vai trò quan trọng nhƣng chua quyết định nhƣ giai đoạn này. Nhân dân chỉ là lực lƣợng phục
tùng. Số phận của họ đƣợc định đoạt dựa vào nhà nƣớc phong kiến.
http://diendankienthuc.net 92 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Trong thơ văn yêu nƣớc, vai trò ngƣời dân nổi bật hơn trƣớc. Họ trở thành ngƣời dân mộ nghĩa, thành trang dẹp
loạn. Trong số ấy có người là Dân ấp, dân lân, những người nông dân Nam bộ cùng khổ lúc bấy giờ. Họ trở thành
nhân vật chính mà sử sách gọi là ngƣời nghĩa sĩ nông dân và Nguyễn Ðình Chiểu đã viết về họ nhƣ những ngƣời
anh hùng của thời đại.
1.2.Cái nhìn mới mẻ về ngƣời nông dân trong cuộc đấu tranh chống Pháp:
Từ Chạy Tây đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, ngƣời dân Nam bộ đã đi những bƣớc thật dài và cái nhìn của Ðồ
Chiểu cũng tiến những bƣớc thật dài. Ở Chạy Tây là nhân dân và ở Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là người nông dân.
Nguyễn Ðình Chiểu đã khái quát về thời cuộc và đánh giá khái quát về cuộc đời nhân vật, kể về cuộc đời nhân
vật là ngƣời nông dân nghèo khổ, chƣa quen với việc cung kiếm binh đao bỗng chốc trở thành ngƣời nông dân
đánh Tây. Họ yêu nƣớc, tự ý thức đƣợc nghĩa vụ của mình nên chiến đấu rất dũng cảm kiên cƣờng và lập nên
những chiến công hiển hách:
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Khá khen thay! Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo vòng ở lính diễu binh,
chẳng qua là dân ấp, dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
Mười tám ban võ nghệ, nào nơi tập rèn, chín chục trận binh thư không chờ bày bố.
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi;
trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ.
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xonh nhà dạy đạo kia;
gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; Nào sợ thằng Tây bắn
đạn nhỏ, đạn to, xô của xông vào liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho mã tà, ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu chiếc, tàu đồng, súng nổ.
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Ngòi bút Nguyễn Ðình Chiểu đã ca ngợi họ và khắc sâu vào tâm trí hình ảnh bất tử của nghĩa quân, nhắc lại quá
trình chiến đấu gian khổ mà ngƣời nông dân Cần Giuộc đã trải qua. Ðó là con đƣờng của dân tộc đã đi từ bấy đến
giờ, rất thực và cũng rất thơ.
1.3.Tấm lòng của nhà thơ:
Tình cảm của nhà thơ đối với ngƣời đã mất cũng nhƣ đối với ngƣời còn sống là rất nhân hậu và thành thực. Nhà
thơ đau xót trƣớc sự hy sinh của nghĩa quân và trút trách nhiệm ấy lên bọn vua quan bán nƣớc.
Vì ai khiến dưa chia khăn xé, nhìn giang sơn ba tỉnh luống thêm buồn.
Biết thuở nào cờ phất, trống rung, hỡi nhật nguyệt hai vầng sao chẳng đoái
Tác giả thƣơng ngƣời còn sống, thƣơng mẹ già, vợ góa, con côi… tình cảm đó đƣợc diễn đạt bằng những câu thơ
rất não nùng.
Ðau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét ở trong lều.
Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ
Nhà thơ còn nghĩa đến quê hƣơng, đến đồng bào trong cơn lửa loạn và nhỏ lệ khóc thƣơng
Binh tướng nó hãy đóng ở sông Bến Nghé làm cho bốn phía mây đen.
Ông cha ta còn ở đất Ðồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ
2.Nhân vật là ngƣời sĩ phu kháng Pháp:
Là những lãnh tụ nghĩa binh chống Pháp nhƣ Trƣơng Ðịnh, Phan Tòng… Nhà thơ đã ca ngợi, nhắc nhở, ghi công
trạng của họ.
Ca ngợi Trƣơng Ðịnh, Phan Tòng Vì nƣớc, giúp đời, xem thƣờng cái chết Anh hùng thà thác chẳng đầu Tây. Hình
ảnh của họ rất hiên ngang, đẹp đẽ, đi vào lịch sử và mang đậm nét bi hùng:

Làm người trung người đáng bia son


Ðứng giữa càng khôn tiếng chẳng mòn
Cơm áo đền bồi ơn đất nước
http://diendankienthuc.net 93 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Râu mày giữ vẹn phận tôi con


Tinh thần hai chữ phau sương tuyết
Khí phách nghìn thu rỡ núi non
(Ðiếu Phan Tòng)

Có thể nói, qua nguyên mẫu một Trƣơng Ðịnh, Phan Tòng, Nguyễn Ðình Chiểu đã dựng lên hình tƣợng ngƣời sĩ
phu tiêu biểu cho cả một tầng lớp kẻ sĩ ƣu tú nhất của thời đại lúc bấy giờ.
3.Nhân vật là ngƣời trí thức bất hợp tác với kẻ thù:
Hình ảnh Kỳ Nhân Sƣ trong tác phẩm Ngƣ Tiều y thuật vấn đáp là tiêu biểu cho ngƣời tri thức bất hợp tác với kẻ
thù. Nhân Sƣ đã tự xông mắt cho mù để khỏi làm sĩ liêu, làm thái y cho giặc (Thà đui mà giữ đạo nhà). Ðây là
hành động tự hủy để giữ thân, giữ đạo:
Sự đời thà khuất đôi tròng thịt
Lòng đạo xin tròn một tấm gương.
Nhƣng Nhân Sƣ không hề bỏ rơi trách nhiệm của mình, luôn làm điều thiện để thực hiện thiên chức cao cả: Làm
thuốc, dạy thuốc chữa bệnh cho dân, tập hợp và giác ngộ những ngƣời dân yêu nƣớc, đợi thời cơ ra cứu nƣớc:
Hỡi bạn y lâm ai có hỏi
Ðò xưa bến cũ có ta đây
Từ thái độ của Nhân Sƣ có thể thấy đƣợc thái độ của Nguyễn Ðình Chiểu: Yêu nuớc nhƣng bất lực đến dày vò tâm
hồn:
Ðã cam chút phận dở dang
Trí quân hai chữ mơ màng năm canh
Mặc dù bất lực nhƣng tác phẩm vẫn thể hiện đƣợc niềm tin tƣởng lạc quan vào tƣơng lai dân tộc:
Bao giờ nhật nguyệt dày gương sáng
Bốn bể câu ca hiệp một nhà
Và điều cảm động là tấm lòng của nhà thơ trƣớc sau cũng đều thuộc về dân, về nƣớc, thủy chung, son sắt:
Mắt nhìn trong tiết thanh minh,
U Yên đất cũ cảnh tình trêu ngươi.
Trăm hoa nửa khóc nửa cười,
Như tuồng xiêu lạc gặp người cố hương.
Cỏ cây đưa nhánh đón đường,
Như tuồng nếu hỏi: Ðông hoàng ở đâu?
Bên non đá cụm cuối đầu,
Như tuồng oan khuất lạy cầu cứu sinh.
Líu lo chim nói trên cành,
Như tuồng kẻ mách tình hình dân đau.
Ngày xuân mà cảnh chẳng xuân,
Mưa sầu, gió tủi biết chừng nào thanh!
Có thể thấy ba nhân vật chính đã trở thành văn chƣơng. Ba nhân vật nhƣng cùng mộ tấm lòng, một thái độ. Tấm
lòng đối với dân và thái độ đối với kẻ thù. Ðó cũng là mẫu ngƣời và cách sống cao đẹp nhất mà khuôn khổ lúc
bấy giờ quy định và cho phép.
III. KẾT LUẬN:
Lục Vân Tiên là tác phẩm đầu tiên của nhân dân Nam bộ có tiếng vang và được đón nhận mang tầm cả nƣớc và
đến thơ văn yêu nƣớc, Nguyễn Ðình Chiểu không chỉ đứng đầu và mở đầu của v ăn chƣơng yêu nƣớc mà còn đƣa
ông lên hàng tác gia lớn của văn chƣơng cả nƣớc trong dòng chủ lƣu này.
Nguyễn Ðình Chiểu xứng đáng là tấm gƣơng phản ánh hiện thực xã hội miền Nam nửa sau thế kỷ XIX và trong
thực tế ông là lá cờ đầu trong của dòng văn học yêu nƣớc Nguyễn Ðình Chiểu là ngƣời trí sĩ yêu nƣớc, một nhà
thơ lớn của nƣớc ta và sự nghiệp của Nguyễn Ðình Chiểu là tấm gương sáng nêu cao địa vị và tác dụng của văn
học nghệ thuật, nêu cao sứ mạng của người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng (Phạm Văn Ðồng)

http://diendankienthuc.net 94 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Chƣơng 21: NGUYỄN KHUYẾN
(1835-1909)

I. CUỘC ÐỜI, THỜI ÐẠI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC


1. Cuộc đời:

Nguyễn Khuyến sinh năm 1835, tại làng Hoàng Xá, huyện Ý yên Nam Ðịnh. Lớn lên sống ở làng Yên Ðỗ, huyện
Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông Mất ngày 24/2/1909.
Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một ngƣời thông minh, hiếu học.
Năm 1864, Nguyễn Khuyến đi thi Hƣơng và đỗ giải nguyên ở trƣờng Nam Ðịnh.
Năm 1871, Thi Hội lần hai, đỗ Hội nguyên và thi Ðình đỗ Ðình nguyên. Ông từng thi đỗ Tam nguyên nên ngƣời ta
gọi Nguyễn Khuyến là Tam nguyên yên Ðỗ và làm quan dƣới riều Tự Ðức.
Nguyễn Khuyến là ngƣời có phẩm chất trong sạch, mặc dù ra làm quan nhƣng nổi tiếng là thanh liêm,
chính trực. Nhiều giai thoại kể về đời sống đời sống và sự gắn bó của Nguyễn Khuyến đối với nhân dân.
Ông là ngƣời có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trƣớc cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên.

2. Sự nghiệp:
Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng Chữ Nôm với nhiều thể loại khác nhau .
Có bài tác giả viết bằng chữ Hán rồi dịch ra tiếng Việt, hoặc ngƣợc lại, ông viết bằng chữ Việt rồi dịch sang chữ
Hán. Cả hai loại đều khó xác định vì nó rất điêu luyện.
Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình. Còn trong thơ chữ
Hán thì hầu hết là thơ trữ tình. Có thể nói trên hai lĩnh vƣcï Nguyễn Khuyến đều thành công.
3. Thời đại:
Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nƣớc mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn nhƣ sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị
quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện đƣợc.
Lúc này Nam kỳ rơi vào tay giặc Pháp. Năm 1882, Pháp bắt đầu đánh ra Hà Nội. Năm 1885, chúng tấn công kinh
thành Huế. Kinh thành thất thủ, Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vƣơng, nhân dân hƣởng ứng khắp nơi. Nhƣng cuối
cùng phong trào Cần Vƣơng tan rã.
Có thể nói, sống giữa thời kỳ các phong trào đấu tranh yêu nƣớc bị dập tắt, Nguyễn Khuyến bất lực vì không
làm đƣợc gì để thay đổi thời cuộc và cũng không cam tâm làm tay sai cho Pháp nên ông xin cáo quan về ở ẩn. Từ
đó dẫn đến tâm trạng bất mãn, bế tắc của nhà thơ.
II. NỘI DUNG THƠ VĂN NGUYỄN KHUYẾN:
1.Tấm lòng yêu nƣớc thiết tha sâu nặng:
1.1. Tƣ tƣởng yêu nƣớc của Nguyễn Khuyến:
Tƣ tƣởng yêu nƣớc của Nguyễn Khuyến trƣớc hết gắn kiền với tƣ tƣởng trung quân. Ðây là một tƣ tƣởng yêu
nƣớc hết sức chân chính tiến bộ. Nguyễn Khuyến vừa là nhà nho vừa là một ông quan từng hƣởng bổng lộc của
triều đình nên tƣ tƣởng trung quân đậm nét. Trong Di chúc, ông thể hiện rõ quan điểm của mình:
Khi đưa Thầy con rước đầu tiên
Cờ biển vua ban ngày trứơc
Sống giữa thời kỳ nƣớc mất nhà tan, Nguyễn Khuyến không đành nhìn đất nứơc rơi vào tay giặc, lại không cam
tâm ở lại triều đình để làm bù nhìn nên ông quyết định xin cáo quan về ở ẩn. Lòng Nguyễn Khuyến từng dạt dào
bao ý định chua xót về quyết định này:
Khứ quốc khởi vô bằng bối tại,
Quy gia vị tất tử tôn hiền?
(Cảm tác)
Dịch nghĩa:
http://diendankienthuc.net 95 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Bỏ chức há không bạn bè ở lại


Về nhà vị tất con cháu đã khen thay?
Về sau, thời cuộc biến chuyển, nhiều ngƣời tiếp tục từ quan. Nguyễn Khuyến thấy rất rõ họ không phải là kẻ bất
tài, mà trái lại, đó là những kẻ dũng thoái :
Khả hạnh chư quân năng dũng thoái,
Vị ưng nhất chức tẫn phi tài
Bách niên tứ hà vi giả,
Ngô ấp khâu lăng diệc mỹ tai!
(Vũ hậu xuân túy cảm thành)
Dịch nghĩa:
Ðáng mừng các bạn mạnh dạn dám lui về,
Ðâu phải là đối với chức vụ mình không làm nổi
Cuộc đời trăm năm xe ngựa có ra trò gì,
Mà ở quê chúng ta gò núi vẫn tươi đẹp lắm
(Cảm hoài sau bữa chén xuân sau cơn mưa )

Sau khi cáo quan, Nguyễn Khuyến sống ở làng quê và xem quê hƣơng nhƣ chiếc nôi, chỗ dựa vững chắc ch cuộc
sống bình dị của mình. Ông sống khiêm tốn, trong sạch, giữ tiết tháo, chan hòa với mọi ngƣời. Ông thƣờng làm
các bài thơ ngâm vịnh ca ngợi vẻ đẹp của các loai hoa, ca ngợi công dụng các loài cây, qua đó muốn nói đến cái
đức của mình.
Nguyễn Khuyến còn nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn của con ngƣời nhằm khẳng định phẩm chất trong sạch của ông.
Ông quan niệm:
Ngoại mạo bất cầu như mỹ ngọc
Tâm trung thường thủ tự kiên kim
Lời ca ngợi tiết tháo của ngƣời đàn bà đáng thƣơng trong bài thơ Mẹ mốc của Nguyễn khuyến có cái gì giống nhƣ
sự quyết tâm của nhà thơ:
Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết.
Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ.
Nguyễn Khuyến là ngƣời coi trọng danh dự và khí tiết nên nhiều lần nhà thơ từng trăn trở về vấn đề này:
Thế đồ kim hựu đa kha khảm,
Lợi cục nan năng quả oán vưu.
Vị ngã phất tu chung hữu khích,
Thức nhân thỏa diện tích bằng ưu.
(Tiểu thán)
Dịch nghĩa:
Trên đường đời, nay lại gặp nhiều bứơc gập gềnh,
Trong cuộc đời khó giữ được ít lời oán trách.
Kẻ phẩy râu cho mình, rốt cuộc cũng gây nên hiềm khích,
Người ta nhổ vào mặt mình chùi đi, đời xưa còn cho là đáng lo.
(Vài lời than)
Có thể nói, hành động ở ẩn của Nguyễn Khuyến cũng là cách để nhà thơ giữ phẩm chất của mình. Nhiều bài thơ
tiêu biểu có tính chất triết lý cao: Di chúc, Vƣờn Bùi chốn cũ, Vịnh cây tùng, Cây lược đồi mồi, Mẹ Mốc, Xuân dạ
lân nga, nhân tặng nhục, Tiểu thán...
1.2. Sự quan tâm lo lắngcho đất nƣớc:
Thể hiện qua nỗi đau của nhà thơ khi không làm đƣợc gì để thay đổi thời cuộc. Lời thơ thƣờng đƣợm buồn, đầy
nƣớc mắt khi nói về đất nƣớc:
Ðời loạn người về như hạt độc
Tuổi già hình bóng tựa mây côi.
http://diendankienthuc.net 96 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

(Cảm tác)
Sách vở ích gì cho buổi ấy
Aùo xiêm nghĩ lại thẹn thân già
(Ngày xuân dặn các con)
Hình ảnh quê hƣơng đất nƣớc xuất hiện trong thơ ôngkhi trực tiếp, khi gián tiếp, khi cụ thể nhƣng đều dƣới dạng
trữ tình ảm đạm của nhà thơ:
Cố quốc sơn hà chân thảm đạm
(Hung niên)
Nhất độ giang sơn nhất bạc đầu
(Thu tứ)
Nhà thơ từng mƣợn tiếng cuốc kêu để thể hiện tâm trạng nhớ nƣớc da diết, khắc khoải của mình. Bài thơ Cuốc
kêu c ảm hứng nhƣ một lời nỉ non tâm sự, từng làm xao xuyến tâm hồn bao thế hệ khi gợi nhớ non sông.
Nói chung, âm điệu trong phần lớn thơ trữ tình của Nguyễn Khyến là buồn. Nghe tiếng hát giữa đêm khuya hay
tết đến, xuân về đều khiến nhà thơ buồn tê tái:
Xuân về ngày loạn còn lơ láo
Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ,
2. Thái độ phản kháng đối với xã hội thực dân nửa phong kiến
2.1.Ðối với thực dân Pháp:
Ðả kích những việc làm gây tiếng vang ầm ĩ lúc bấy giờ, lên án những thủ đoạn bóc lột sức ngƣời, sức của của
nhân dân. Bọn chúng đã đẩy hàng vạn ngƣời dân vô tội đến chốn ma thiêng nƣớc độc. Bài thơ Hội Tây, Hoài cổ,
Văn tế Cơ ri vi e(*)… đã phản ánh thực trạng đó bằng bút pháp hiện thực trào phúng sâu sắc:
Hỡi ôi!
Ông ở bê Tây,
Ông qua bảo hộ.
Cái tóc ông quăn,
Cái mũi ông lõ,
Ðít ông cưỡi lừa,
Miệng ông húyt chó,
Lưng ông đeo súng lục liên,
Chân ông đi giày có mỏ,
Ông dẹp cờ đen
Ðể yên con đỏ.
Ai ngờ:
Nó bắt được ông,
Nó chặt mất sỏ.
Cái đầu ông đâu?
Cái đít ông đó.
Khốn khổ thân ông
Ðéo mẹ cha nó
2.2. Ðối với bọn quan lại, bọn me Tây, gái điếm:
Nguyễn Khuyến từng làm quan nên đã thấy rõ hiện thực quan trƣờng và thế giới khoa bảng nói chung là đổ nát và
thảm hại.
Ngòi bút ông đã vạch trần nhiều mặt xấu xa thối nát của bọn quan lại nào là bất tài, vô dụng, dốt nát chỉ là thứ
phỗng đá không hơn không kém, trơ trơ trƣớc sự nguyền rủa của dân.
Thái độ của Nguyễn Khuyến rất dứt khoát. Ông mắng chúng không kiêng nể. Bằng lối nói mát chửi mát theo
kiểu Việt Nam Nói ngọt mà lọt đến xƣơng, Nguyễn Khuyến đả kích, châm biếm xỏ ngầm rất thâm độc. Thậm chí
khi cần, ông cũng chuyển roi quất mạnh bằng các biện pháp nghệ thuật độc đáo nhƣ chơi chữ, nói láy, dùng từ đa
nghĩa, dùng âm của chữ Hán chuyển sang từ Việt.
http://diendankienthuc.net 97 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp,


Tiên là ý chú muốn vòi xu
Từ vàng sao chẳng luôn từ bạc
Không khéo mà roi nó phết cho
(Bồ tiên thi)
Các bài thơ tiêu biểu: Ông phỗng đá, Lời vợ ngƣời hát chèo, Hỏi thăm quan tuần bị mất cướp, Bồ tiên thi, tặng ông
Ðốc học Hà Nam đều là những bài thơ vạch mặt chỉ tên những tên quan bất tài, hống hách bằng thái độ châm
biếm tố cáo sâu sắc.
Trong bài thơ chữ Hán Quá quận công Hữu Ðộ sinh từ hữu cảm là thái độ khinh bỉ, mỉa mai của Nguyễn Khuyến
đả kích tên Nguyễn Hữu Ðộ, sau khi hắn chết, đi qua sinh từ của hắn, nhà thơ nghĩ:
Công tại, tứ thời tập quan đới,
Ðắc dự giả hỉ, bất dự bi.
Công khứ, quan đới bất phục tập,
Hương hỏa tịch tịch hoà ly ly.
Dản kiến đệ nhị vô danh công,
Triêu tịch huề trượng lai vu ty.
Trần gian hưng phế đẳng nhàn sự,
Bất tri cửu nguyên thùy dữ quy?
Dịch nghĩa:
Khi ông còn thì áo mũ cân đai bốn mùa tấp nập,
Kẻ được dự vào đó thì mừng, kẻ không được dự thì buồn,
Sau khi ông mất rồi thì không thấy mũ áo xúm xít lại nữa,
Hương lửa vắng tanh, lúa mọc rườm rà.
Chỉ thấy có ông Thứ nhì không tên
Sớm sớm chiều chiều chống gậy vào ngôi nhà ấy.
Ở đời có lúc thịnh, lúa suy, đó là việc thường,
Không biết dưới chín suối bây giờ ông theo ai?
(Cảm nghĩ lúc qua sinh từ quận công Nguyễn Hữu Ðộ)
Nhƣng có lẽ đả kích bọn quan lại cay độc nhất là khi nhà thơ liệt chúng ngang hàng Vợ bợm chồng quan danh
phận đó (Ðĩ Cầu Nôm) dễ làm ta liên tưởng đến câu tục ngữ mèo mả gà đồng, là những tên không ra gì.
Ðặc biệt, ngòi bút của Nguyễn Khuyến tỏ ra không khoang nhƣợng khi viết về bọn me Tây, gái điếm. Trong một
vế câu đối Mừng cô Tƣ Hồng ông viết: Có tàn, có tán, có hương án thờ vua danh giá lẫy lừng ba mươi sáu tỉnh.
Ở một câu đối khác: Thôi cũng đừng cõng rắn cắn gà nhà, phong lưu chú Bát, phú quý dì Tư, mây nổi đã từng
qua trước mắt
Có thể nói, cũng nhƣ các nhà thơ thuộc khuynh hƣớng hiện thực tố cáo giai đoạn này, Nguyễn Khuyến đã bám
vào hiện tƣợng cụ thể để đả kích. Từng con ngƣời, từng hiện tƣợng và những sự việc lố lăng trong xã hội đều bị
vạch trần và thể hiện rõ phong cách độc đáo của ông.
2.3.Ðối với khoa danh, khoa giáp thời ấy:
Cũng bị lên án khắc nghiệt vì những tên quan lại đều xuất thân từ khoa bảng nhƣng khoa bảng lúc bấy giờ lại mục
nát, suy đồi. Nho sĩ không còn sĩ khí, uy thế nhƣ xƣa nữa. Thế nhƣng nhà Nguyễn nẫn cố duy trì ba kỳ thi: Thi
Hƣơng , thi Hội, thi Ðình nên đã sinh ra những ông Nghè, ông Cống. Vì vậy, sự tƣơng phản càng rõ nét.
Nguyễn Khuyến phê phán nhân tài của xã hội chỉ là những ngƣời không ra gì. Có danh nhƣng không thực. Mặc
dù:
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai
Cũng gọi ông Nghè có kém ai

Nhƣng ông lại tiếc rẻ:


Chiếc thân xiêm áo sao mà nhẹ

http://diendankienthuc.net 98 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Cái giá khoa danh thế mới hời

Ấy thế còn ra dáng đƣờng bệ:


Ghế tréo lộng xanh ngồi bảnh chọe
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi
Bài thơ gợi ra mối liên tƣởng tới thân phận những kẻ khoa bảng, bọn quan lại ở thời kỳ nƣớc mất, nhà tan. Ðạo
nho sắp đến ngày mạt vận đang cơn hấp hối nhƣng nhà Nguyễn vẫn cho diễn lại cái trò lều chõng thêm vài chục
năm để đào tạo tiếp tay sai phục vụ cho bộ máy bù nhìn của chúng.
Ông mai mỉa cảnh khoa cử suy đồi, đạo đức của kẻ sĩ bị đánh mất trƣớc tiền tài và danh vọng. Bài thơ Thầy đồ ve
gái goá là một ví dụ tiêu biểu:
Ở góa thế gian nào mấy mụ
Ði ve thiên hạ thiếu chi thầy
Yêu thầy cũng muốn cho thầy dạy
Dạy cháu nên rồi mẹ cháu ngây.
3. Một tâm hồn giàu cảm xúc yêu thƣơng:
3.1. Lòng yêu thiên nhiên và cảnh vật Việt Nam:
Nguyễn Khuyến cáo quan về quê nhƣng ông không hề thoát ly hiện thực. Lúc nào ông cũng say sƣa chan hoà với
quê hƣơng. Cảnh sắc đƣợc ông miêu tả hết sức chân thật và sống động.
- Tả cảnh bốn mùa, đặc biệt là cảnh mùa thu thật sắc sảo, đậm nét. Cảnh mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến
không hề ƣớc lệ, trang trọng, khuôn sáo nhƣ trong văn chƣơng, sách vở mà chỉ là những cảnh gần gũi, quen thuộc
nhƣ trời thu, gió thu, ao thu, trăng thu, lá thu … đƣợc tác giả thi vị hoá hết sức tài tình. Ba bài thơ Thu ẩm, Thu
điếu, Thu vịnh đã gợi được cái hồn, cái thần, cái tinh tế của cảnh vật màu thu, là ba bức tranh đặc sắc về cảnh
nông thôn nƣớc ta, nhất là cảnh đồng chiêm trũng miền Bắc.
- Nguyễn Khuyến còn những bài thơ tả cảnh hè (Ðêm mùa hạ) và cảnh xuân (Ngày xuân) rất độc đáo.
- Những bài tả cảnh núi (Vịnh núi An lão), cảnh chùa (Về chơi chùa Ðọi) đều trở thành những danh lam thắng
cảnh của đất nƣớc.
Nguyễn Khuyến nhìn cảnh vật bằng cặp mắt của ngƣời thƣởng ngoạn và bằng tâm hồn của thi nhân nên trƣớc vẻ
đẹp của đất nƣớc đã vẽ lên một bức tranh nghệ thuật tuyệt đẹp. Cảnh sông, núi, trăng, sao, thời tiết, mùa màng
qua cảm nhận của ông đều trở nên có hồn và tinh tế.
3.2. Tình cảm của Nguyễn Khuyến:
3.2.1 Trƣớc những nỗi điêu linh thống khổ của nhân dân:
Nguyễn Khuyến là nhà thơ của nông thôn nên viết về nông thôn bằng tất cả tình cảm thân thuộc quyến luyến. Có
thể nói, trái tim ông đã rung lên cùng một nhịp với trái tim của ngƣời lao đôïng nghèo.Ôâng đã sống với tâm trạng
của họ, vui với cái vui của họ, buồn với cái buồn của họ và mơ ƣớc cái họ từng mơ ƣớc. Vì vậy, ông có những vần
thơ xuất phát từ tình cảm chân thành của mình thể hiện tâm trạng nhà thơ lúc nào cũng gắn bó với nhân dân:
Lão làm ái táo, miên tương khởi,
Tân cốc hàm huyên, phúc tiệm phì
(Hạ nhật tân tình)
Dịch nghĩa:
Tằm già thích khô ráo, đương ngủ sắp trở dậy,
Lúa mới ngậm hơi ấm, đòng đòng dần mẫn ra.
(Ngày hè mưa mãi mới tạnh)
Bài thơ đã ghi nhận những chi tiết sinh động và chính xác về bức tranh của cuộc sống.
Ngoài những lo toan tính toán vì công nợ của nhà nông:
Năm nay cày cấy vẫn chân thua.
Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa
(Chốn quê)

http://diendankienthuc.net 99 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Bức tranh nông thôn của Nguyễn Khuyến còn phản ánh những sinh hoạt khác nhƣ tâm trạng vui vẻ của ngƣời
nông dân vào những ngày tết đƣợc mùa đƣợc ông ghi nhận:
Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng
Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt
Hoặc cái buồn của cảnh chợ tết vào những năm mất mùa đói khổ:
Dở trời mưa bụi còn hơn rét,
Nếm rượu tượng đình được mấy ông?
Hàng quán người về nghe xao xác,
Nợ nần năm trước hỏi lung tung.
(Chợ đồng)
3.2.2. Tình cảm đối với gia đình, bạn bè làng xóm:
Ông sống rất chan hoà với gia đình, bạn bè, làng xóm. Những tình cảm tƣởng chừng nhƣ bình thƣờng ấy đã đi vào
thơ Nguyễn Khuyến với một giá trị chân thật, đáng quý.
- Ðối với vợ, ông có tình cảm yêu kính rất đậm đà Câu đối khóc vợ là một tiếng khóc chân thành của ông
đối với vợ.:
Nhà chỉn cũng nghèo thay, nhờ được bà hay làm, hay làm thắt lưng có que,xắn váy quai cồng, tất cả chân đăm đá
chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc.
Bà đi đâu vội mấy, để cho lão vất vơ, vất vưởng búi tóc củ hành, buông quần lá toạ,gật gù tay đũa chạm tay chén,
cùng ai kể lể chuyện trăm năm
- Ðối với con,ông rất thƣơng yêu và quý trọng các con. Lo lắng khuyên nhủ các con sống làm ngƣời hữu ích cho
xã hội, thấy các con lơ là việc đèn sách, ông khuyên bảo rất chí tình:
Hoàn cư bất mãn cửu cao thổ,
Tố nghiệp thƣ tha nhất thúc thƣ.
Nhi tào hoặc khả thừa ngô chí,
Bút nghiêng vô hoang đạo, thúc, sơ.
(Xuân nhật thị chư nhi (I) )
Dịch nghĩa:
Khu nhà ở quây quần, không đầy chín sào đất,
Nghiệp cũ chẳng có gì ngoài một bó sách
Các con nối chí cha nên biết
Bút nghiêng đừng quên lúa, đậu, cà
(Ngày xuân dặn các con (I) )
- Ông không chỉ viết về gia đình mà còn làm câu đối, làm thơ để tặng bác thông gia, bác hàng xóm, một anh hàng
thịt, một chú thợ nhuộm, thợ rèn... Bài nào cũng chân tình giản dị.
- Ông còn viết thơ thăm hỏi bạn bè, bỏ hết những khuôn sáo cầu kỳ, lời thơ xuúat phát từ tấm lòng thành của ông
(Khóc Dƣơng Khuê, Nƣớc lụt thăm bạn ... ). Trƣớc cái chết của bạn, Nguyễn Khuyến làm thơ thể hiện tâm trạng
đau xót của mình:
Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác vài ngày.
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời!
Ai chả biết chán đời là phải,
Sao vội vàng đã mãi lên tiên?
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua, không phải không tiền, không mua
(Khóc Dương Khuê)
III.NGHỆ THUẬT THƠ VĂN NGUYỄN KHUYẾN:
1. Ngôn ngữ:
http://diendankienthuc.net 100 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

1.1. Ðặc điểm chung:


Ngôn ngữ thơ Nguyễn Khuyến rất phong phú không những trong cách nói mà còn rất mỹ lệ, gợi cảm trong cách
miêu tả.
Nguyễn Khuyến còn có biệt tài khai thác khả năng diễn tả của từ ghép rất độc đáo:Thấp le te, đóm lập lòe, tẻo
teo, ve ve, tênh nghếch, làng nhàng, khỏe khoe…
Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe
(Thu ẩm)
Nhiều danh từ, những cách nói, những thành ngữ, tục ngữ đƣợc dùng ở nông thôn đƣợc ông sử dụng khá thành
thạo: xôi bánh trâu heo, anh em làng xóm,văn dai như chão, người ba đấng, của ba loài.
Ông có làm một bài thơ cùng tên với câu tục ngữ dân gian Nhất vợ nhì trời để lý giải vì sao nhƣ vậy:
Trời dẫu yêu nhƣng vì có phận
Vợ mà vụng dại đếch ăn ai.
Cớ sao vợ lại hơn trời nhỉ?
Vợ chỉ hơn trời có cái chai!
Ông tiếp tục truyền thống học tập ca dao, tục ngữ của những nhà thơ Nôm các thế kỷ trƣớc, nhƣng ông có lối sáng
tạo riêng.
Ca dao có câu Gái có chồng nhƣ gông đeo cổ thì nhà thơ làm bài thơ Muốn lấy chồng phát triển cái tứ ngược lại:
Mới biết có chồng nhƣ có cánh
Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông.
1.2. Ngôn ngữ trào phúng:
Ngôn ngữ trào phúng của Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng hóm hỉnh, nhiều cung bậc. Trào phúng của Nguyễn Khuyến
có nét riêng không giống nhƣ Hồ Xuân Hƣơng hay Tú Xƣơng là đánh một cái cho biết. Cái cƣời của ông đối với
kẻ thù tuy có cay nhƣng không độc địa bốp chát, mặc dù ông ông có so sánh cờ nƣớc Pháp với váy phụ nữ:
Ba vuông phất phới cờ bay dọc
Một bức tung hoành váy xắn ngang
(Lấy Tây)
Ông có biệt tài, cƣờng điệu và chơi chữ rất tài tình:
Văn hay chữ tốt ra tuồng
Văn dai như chão chữ vuông như hòm
Vẽ thầy như vẽ con tôm
Vẽ tay ngoái cám, vẽ mồm húp tương.
(Ðùa chế ông Ðồ Cự Lộc)
Hoặc cái dí dỏm của câu đối tết viết dùm ngƣời hàng thịt:
Tứ thời bát tiết canh chung thủy
Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang
Các bài thơ tiêu biểu: Than già, Bác đến chơi nhà, Tự trào, Bóng đè cô đầu, Tạ lại gnười cho hoa trà, Lấy tây, Ðùa
chế ông đồ Cự Lộc, Câu đối tết… đều là những vần thơ trào phúng độc đáo của Nguyễn Khuyến.
1.2. Ngôn ngữ tả cảnh:
Nguyễn Khuyến rất thành công trong việc miêu tả cảnh sắc thiên nhiên. Thơ du vịnh và thơ bốn mùa không chỉ tả
cảnh mà còn miêu tả tâm trạng của nhà thơ.
Ngôn ngữ tả cảnh rất chính xác, cách chọn chữ , dùng từ thích hợp, từ ngữ thƣờng lấp láy giàu nhạc điệu, có khả
năng gợi tả cao.
Sử dụng vốn ngôn ngữ bình dân nhƣng không hề rơi vào sự thông tục hóa, cảnh nào cũng đƣợc vẽ, đƣợc chạm
khắc thần tình đạt đến mức nghệ thuật.
2. Hình ảnh:

http://diendankienthuc.net 101 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Hình ảnh sử dụng thƣờng đơn sơ, khêu gợi thể hiện qua những chi tiết thật bình dị, sống động. Nó có giá trị nâng
các câu thơ làm tăng sức biểu cảm. Hình ảnh hoa nở, trăng trôi, chiếc thuyền thấp thoáng, bé tẻo teo, ngõ trúc
quanh co, thấp le te, đóm lập lòe… đầy sức sống.
Thơ ông có sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và màu sắc gợi cảm giác vừa xem tranh thủy mặc vừa nghe thơ
Ðƣờng.
Âm thanh của tiếng muỗi, tiếng dế, tiếng gnỗng, tiếng trâu thở, tiếng hạc bay, tiếng chó sủa, tiếng sóng vỗ đã lột
tả đƣợc đặc điểm của ngoại cảnh và tâm lý:
Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách
Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà
(Vịnh lụt)

Màu sắc tuyệt diệu có khả năng gợi tả cao: Màu xanh của nƣớc, màu xanh của trời, xanh, xanh của ngọc, xanh của
tre, xanh của bèo, màu đỏ hoe của mắt, màu sƣơng chiều, màu sáng của trăng đã tạo nên màu sắc đậm nhạt, mờ ảo
thanh đạm, lặng lẽ. Làn ao lóng lánh bóng trăng loe dễ gây ấn tƣợng thị giác.
Nguyễn Khuyến là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh nhất là trong việc tả cảnh sắc thiên nhiên.
Ông đƣợc mệnh danh là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam vì những cảnh, ngƣời, vật qua cảm nhận của ông đều
đậm đà phong vị của quê hƣơng đất nƣớc. Nguyễn Khuyến đã có những cống hiến quan trọng làm cho ngôn ngữ
đi sát với đời sống và ông đã thành công trong việc chuyển cái tinh túy của đời thƣờng thành thơ.
IV.KẾT LUẬN:
Nguyễn Khuyến là nhà thơ có tài năng về nhiều mặt. Thơ trào phúng của ông bao giờ cũng tự nhiên, tƣơi tắn tạo
nên những nụ cƣời nhẹ nhàng, thanh nhã, ý vị; Thơ tả cảnh tả tình có cái nhẹ nhàng, mềm mại thanh thoát, ý tứ
gần gũi, chất liệu lấy từ cuộc sống nông thôn.
Nguyễn Khuyến đã thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc, trong việc tả cảnh sắc thiên nhiên. Ông
xứng đáng là nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam.

Chƣơng 22: TRẦN TẾ XƢƠNG


(1871-1907)

***

I.CUỘC ÐỜI, THỜI ÐẠI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC:


1.Cuộc đời:
Trần Tế Xƣơng tên thật là Trần Duy Uyên, quen gọi là Tú Xƣơng, tự là Mặc Trai, hiệu là Mộng Tích, đến khi thi
Hƣơng mới lấy tên là Trần Tế Xƣơng. Ông sinh ngày 10-8-1871 tại lànVị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, Nam Ðịnh và
mất ngày 20-1-1907 ở làng Ðịa Tứ cùng huyện.
Tú Xƣơng là một ngƣời rất thông minh, tính tình thích trào lộng. Có nhiều giai thoại kể về cá tính của ông.
Cuộc đời Tú Xƣơng lận đận về thi cử. Tám khoa đều hỏng nên dấu ấn thi rớt in đậm nét trong tiềm thức Tú
Xƣơng.
Ông cƣới vợ rất sớm. Phạm Thị Mẫn từ một cô gái quê Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ. Tiếng có miếng
không, gặp hay chăng chớ trở thành bà Tú tần tảo một nắng hai sƣơng Quanh năm buôn bán ở mom sông. Nuôi
đủ năm con với một chồng. Ông Tú vẫn có thể có tiền để ăn chơi nhưng gia cảnh nghèo túng, việc nhà trông cậy
vào một tay bà Tú.
Có thể nói, việc hỏng thi và cảnh nghèo của gia đình là nguồn đề tài phong phú trong sáng tác của Tú Xƣơng.
2.Thời đại:
Cuộc đời ông nằm gọn trong giai đoạn nƣớc mất, nhà tan.
Năm Tú Xƣơng ba tuổi (1873) Pháp đánh Hà Nội lần thứ nhất rồi tấn công Nam Ðịnh.
Năm mƣời bốn tuổi (1884) triều đình ký hàng ƣớc dâng đất nƣớc ta cho giặc.

http://diendankienthuc.net 102 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Tuổi thơ của Tú Xƣơng trôi qua trong những ngày đen tối và ký ức về những cuộc chiến đấu của các phong trào
khởi nghĩa chống Pháp cũng mờ dần. Nhất là sau cuộc khởi nghĩa của Phan Ðình Phùng (1896) bị thất bại thì
phong trào đấu tranh chống Pháp dƣờng nhƣ tắt hẳn.
Năm 1897, Pháp đặt nền móng cai trị đất nƣớc, xã hội có nhiều biến động, nhất là ở thành thị. Tú Xƣơng lại sinh
ra và lớn lên ở thành thị vào thời kỳ chế độ thực dân nửa phong kiến đƣợc xác lập, nền kinh tế tƣ bản phát triển ở
một nƣớc thuộc địa làm đảo lộn trật tự xã hội, đảo lộn đời sống tinh thần của nhân dân. Nhà thơ đã ghi lại rất sinh
động, trung thành bức tranh xã hội buổi giao thời ấy và thể hiện tâm trạng của mình.
Có thể nói, đứng trƣớc sự tha hoá của xã hội nên nguyên tắc Tam cƣơng ngũ thường của Tú Xương không đậm
như Nguyễn Khuyến và càng xa rời Ðồ Chiểu.

3. Tác phẩm:
Tú Xƣơng mất sớm, ông chua đi trọn con đƣờng sáng tác của mình. Nhƣng những tác phẩm Tú Xƣơng để lại có
tác dụng nhƣ một bản cáo trạng đanh thép lên án xã hội thực dân nửa phong kiến trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ
XIX.
Tú Xƣơng sáng tác rất nhiều và thất lạc cũng nhiều. Ông viết khoảng 151 bài thơ bằng chữ Nôm với đủ các thể
loại. Ngoài ra, ông có dịch một số thơ Ðƣờng.
II.NỘI DUNG THƠ VĂN TRẦN TẾ XƢƠNG:
1.Thơ Tú Xƣơng là một bức tranh nhiều vẻ, sinh động về một xã hội thực dân nửa phong kiến:

Trong thơ ông có hình bóng con ngƣời và sinh hoạt của xã hội phong kiến cũ đã bị thực dân hóa, và có hình bóng
những vật mới, những sinh hoạt mới - sản phẩm của xã hội thực dân nửa phong kiến. Thơ Tú Xƣơng là tiếng nói
đả kích, châm biếm sâu sắc và dữ dội vào các đối tƣợng mà ông căm ghét.
1.1.Ðả kích bọn thực dân Pháp:
Ðốái với thực dân Pháp, tuy chua phải là đối tƣợng chính để tập trung phê phán nhƣng ta vẫn bắt gặp bóng dáng
những tên thực dân xuất hiện với dáng vẻ rất buồn cƣời. Ðó là hình ảnh những ông Tây, bà Ðầm rất nghênh ngang
lố bịch (Vịnh khoa thi Hương năm Ðinh Dậu). Với ngòi bút châm biếm sắc sảo, Tú Xương đả kích chúng không
khoang nhƣợng, vạch trần thói gian ác, bần tiện, thủ đoạn kiếm ăn dơ bẩn của chúng bằng bút pháp trào phúng sâu
sắc (Ông Cò).
1.2.Ðối với bọn quan lại, tay sai:
Ðề tài này thật ra không có gì mới mẻ so với trƣớc, nhƣng cái mới ở đây là bút pháp của Tú Xƣơng có cá tính và
mang nét cảm hứng thời sự.
Dƣới ngòi bút của ông, hình ảnh bọn quan lại hiện lên rất phong phú đa dạng. Ðó là những lũ bất tài, dốt nát (Bác
Cử Nhu); chúng không khác chi những tên hề (Hát bội).
Ông phê phán trò gian lận, hối lộ, bòn rút của dân không nghĩ gì đến trách nhiệm (Ðùa ông Phủ).
Ông còn vạch trần bản chất làm tay sai của những tên quan lại lúc bấy giờ (Cô hầu gửi quan lớn).
Từ đó thấy đƣợc thái độ phẫn uất của Tú Xƣơng trƣớc thực trạng xã hội và ông đã dùng ngòi bút của mình để lên
án, phê phán những con ngƣời, những hiện tƣợng trái tai, gai mắt.
Nhà thơ đã dựng lại chân dung của bọn quan lại, mỗi ngƣời mỗi vẻ nhƣng đều rất sắc cạnh, cụ thể. Một tên quan
huyện Mình trung đâu đấy trách ngƣời trinh, một ông Aám Chạy lăng quăng, ấm chẳng ngồi, ông Ðốc cờ bạc ăn
chơi rặt một màu, ông Cử Sách như hủ nút, chữ như mù, một cô Bố Chồng chung, vợ chạ, một chú Hàn thì Ðậu
lạy, quan xin… và cả một xã hội lố lăng, rởm đời với quý vị phu nhân, các cậu ấm tử, sƣ sãi… cũng đƣợc Tú
Xƣơng tái hiện, sinh động, cụ thể:
Hai cậu con con đóng vai ấm tử, lỗi bếp bồi cậu cũng như nhau.
Ðôi đức bà lên mặt phu nhân, ngón đĩ thỏa bà nào cũng nhất.
Nhất tắc mộ sư mô chi cực, nay chùa này, mai chùa khác, mở lòng từ tô tượng, đúc chuông.
Nhất tắc ham chài lái chi khu, lên mành nọ xuống mành kia, che miệng thế đong dầu rót mật
(Khai lý lịch)
1.3.Ðối với khoa cử, nho học:

http://diendankienthuc.net 103 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Trong bức tranh xã hội của Tú Xƣơng còn có những nho sĩ đi thi, những ông Nghè, ông Cống; có hình ảnh của
trƣờng thi, của một nền nho học đang xuống dốc trầm trọng. Thời Tú Xƣơng không còn tìm thấy hình ảnh uy nghi,
trang trọng của một trƣờng thi chữ Hán xƣa kia nữa mà nó đang lùi dần trƣớc uy thế của kẻ thù.
Ông phản ánh thực trạng nho học suy đồi bằng tiếng thở dài áo não (Than đạo học). Ông còn chế giễu những
ngƣời kéo nhau đi thi ở những trƣờng lớp mới mở của thực dân (Ðổi thi).
Trong buổi lễ xứng danh khoa Ðinh Dậu, nhà thơ đã vẽ ra trƣớc mắt ngƣời đọc bức tranh về cảnh trƣờng thi cảnh
ngao ngán của sĩ tử trƣớc thực trạng nƣớc mất, nhà tan, sĩ khí tiêu điều, bút lông hết đƣợc săn đón Vứt bút lộng đi
giắt bút chì. Ðó là hình ảnh:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra
Cái tàn tạ của nho học đƣợc Nguyễn Bính ghi lại:
Mực tàu giấy bản là đây
Nước non đi hết những người áo xanh
Lỡ duyên bút tóc củ hành
Trường thi Nam Ðịnh biến thành trường bay.
Tú Xƣơng than thở cho số phận của một ông Nghè, ông Cống và giễu cả những ông Phán:
Nào có gì lạ cái chữ nho
Ông nghè, ông cống cũng nằm co
Sao bằng đi học làm ông Phán.
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò
(Chữ nho)
1.4. Phê phán thế lực đồng tiền:
Trƣớc Tú Xƣơng, nhiều tác giả Việt Nam cũng nhƣ nừơc ngoài đã lên án sức mạnh đồng tiền. Nó chi phối tƣ
tƣởng và hành động của con ngƣời. Ðến thời Tú Xƣơng, đồng tiền lại một lần nữa gây đảo điên xã hội nhất là ở
thành thị. Nó làm cho đạo đức suy đồi từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội.
Tú Xƣơng đã mắng nhiếc cái xã hội đã hỗn loạn lên vì đồng tiền (Ðất Vị hoàng, Vị Hoàng hoài cổ)
Có thể thấy bức tranh xã hội của Tú Xƣơng bị tha hóa đến trầm trọng. Nào là cảnh:
Ở phố Hàng Song thật lắm quan
Thành thì đen kịt, độc thì lang
Chồng chung vợ cha kìa cô Bố
Ðậu lại quan xin nọ chú Hàn
( Phố Hàng song)
Vì đồng tiền, con ngƣời lƣờng gạt nhau để sống, đối xử với nhau không ra gì. Tình nghĩa cha con, vợ chồng, tình
yêu, tình bè bạn . . . đều bị chà đạp bởi thế lực của đồng tiền. Bài thơ Mùng hai tết viếng cô Ký, Ðể vợ chơi nhăng
đã phê phán thói đời thật đáng sợ. Ông chồng khóc vợ chết chỉ vì thƣơng cái xe tay. Còn vợ đối với chồng thì
Trăm năm tuổi lại trăm thằng
Ngòi bút Tú Xƣơng đã khái quát bức tranh hiện thực sinh động về một xã hội lố lăng, rởm đời, có những cảnh
khá nực cƣời, những cảnh chƣớng tai, gai mắt cứ nhan nhản xuất hiện trong thơ Tú Xƣơng ( Năm mới, Thói đời,
Chữ nho):
Khăn là bác nọ lo tày rế,
Váy lĩnh cô kia quét sạch hè.
Công đức tu hành sư có lọng,
Xu hào xủng xoảng mán ngồi xe.
( Năm mới)
Hay cảnh nực cƣời khác:
Chí cha chí chát khua giày dép,

http://diendankienthuc.net 104 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Ðen thủi đen thui cũng lụa là.


1.5 Lên án những thói hƣ tật xấu của thời đại:
Phê phán những ngƣời hành đạo mà lòng dạ xấu xa và hành vi bẩn thỉu nhƣ cảnh sƣ sãi vụng trộm trong chùa, sƣ
cho vay nặng lãi, sƣ chứa của gian đến nỗi phải ở tù (Sư ở từ, Ông sư và mấy ả lên đồng)
Ông còn lên án thói đồng bóng, cho đồng bóng là trò mê tín giả dối không thể chịu đƣợc:
Ðồng giỏi sao đồng không giúp nước
Hay là đồng sợ súng thần công.
Phê phán những phong tục xa hoa, phù phiếm trong ngày tết ý tứ mỉa mai trƣớc thực trạng nƣớc mất, nhà tan
(Thói đời), vạch trần những tâm lý giả dối, sáo rỗng của con ngƣời trong ngày tết bằng lời lẽ châm biếm sắc sảo.
Bài thơ Chúc tết đã chế giễu độc địa và sâu sắc:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen này ông quyết đi buôn cối,
Thiên hạ bao nhiêu đứa giả trầu.

Nó lại chúc nhau cái sự sang!


Ðứa thời mua tước đứa mua quan.
Phen này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng.

Nó lại mừng nhau cái sự giàu!


Trăm ngìn vạn mớ để vào đâu?
Phen này ắt hẳn gà ăn bạc,
Ðồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu

Nó lại mừng nhau sự lắm con


Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.
Phố phường chật hẹp người đông đúc,
Bồng bế nhau lên nó ở non.
2. Thơ Tú Xƣơng là tiếng nói tâm tình trĩu nặng đau xót:
2.1. Nỗi đau xót về bản thân và thời cuộc:
- Về bản thân:
Gánh nặng đeo đẳng nhà thơ suốt đòi là nợ lều chõng. Ban đầu hỏng thi, ông còn cƣời cợt, còn tự nghĩ
cách để an ủi mình. Nhƣng các khoa thi sau ( 1903, 1906) ông càng thất vọng, càng chua chát. Tú Xƣơng ngày
càng đau buồn, chán nãn, tuyệt vọng và cay cú:
Học đã sôi cơm nhưng chữa chín.
Thi không ăn ớt thế mà cay
Ðến khoa thi cuối ( 1906) tiếng thở dài của Tú Xuơng càng áo não và bi thiết hơn nhiều:
Bụng buồn còn biết nói năng chi
Ðệ nhất buồn là cái hỏng thi
Một việc văn chương thôi cũng nhảm
Trăm năm thân thế chẳng ra gì
( Buồn thi hỏng)
Ở đây, dù đau vì thi rớt, vì công danh không thành đạt nhƣng Tú Xƣơng vẫn ít ủy mị và luôn tỏ thái độ khôi hài,
lúc nào nụ cƣời trào phúng cũng đến với ông. Qua những lời tự trào, tƣ thú về mình càng thấy rõ con ngƣời và tính
cách Tú Xƣơng:
Tú Xƣơng tự khoe về sự ăn chơi của mình: Nghiện chèm nghiện rượu, nghiện cả cao lâu,

http://diendankienthuc.net 105 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Hay hát, hay chơi, hay nghề xuống lõng.


Quanh năm phong vận, áo hàng Tàu, khăn nhiễu tím, ô Nhật Bản anh,
Ra phố nghênh ngang, quần Tố nữ, bít tất tơ, giày Gia Ðịnh bóng . . .
( Phú hòng thi)
- Về cảnh nghèo: Qua thơ ông, gia cảnh nhà ông hiện lên rất áo não và bi thiết
( Mùa nực mặc áo bông) Nhà thơ từng thấm thía cảnh chạy ăn, vay nợ, nhiều lúc ông phải gào lên:
Van nợ lắm khi trào nước mắt
Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi
( Than nghèo)
Trong hoàn cảnh nào, Tú Xƣơng vẫn cƣời cợt, châm biếm, nói ngông. Vì nghèo quá, ông đã tính đến chuyện đi tu
nhƣng không phải tu vì đạo lý mà tu vì tấm áo (Nghèo), rồi nghĩ đến chuyện làm mứt rận đãi gai đình trong ngày
tết, có những ý nghĩ ngông nghênh, hợm hĩnh ( Mứt rận), hoặc nhiều lúc ông đâm ra chán chƣờng tuyệt vọng:
Ngủ quách sự đời thây đứa thức.
Bên chùa chú trọc đã khua chuông.
( Ðêm hè)
Vốn là con nhà trào phúng nên trong hoàn cảnh nào nhà thơ vẫn có thể cƣời cợt, vẫn bông đùa:
Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo
Tiền bạc trong kho chữa lĩnh tiêu
Ðúng là nói cho vui, chứ kho đâu mà lĩnh, tiền đâu mà tiêu? Chính cái nghịch lý này đã hình thành nên tính cách
của Tú Xƣơng.
2.2. Nỗi lo lắng thầm kín của Tú Xƣơng trƣớc thời cuộc và vận mệnh đất nƣớc:
- Tình cảm của Tú Xƣơng đối với nhân dân:
Ðối với ngƣời nghèo nhƣ những ngƣời học trò, những ngƣời nông dân chân lắm tay bùn (Thề với ăn xin) . . .
những dòng thơ của Tú Xƣơng chứa chan tình cảm và đầy lòng ƣu ái (Ðại hạn)
Hoặc ở một bài thơ khác, tâm trạng Tú Xƣơng càng thể hiện rõ hơn:
Ỳ ào tiếng học nghe không rõ
Mát mẻ nhà ai ngủ hẳn lâu
Ông lão nhà quê tan tản dậy,
Bảo con đem đó, chớ đem gầu . . .
Ðối với ngƣời phụ nữ, hình ảnh họ hiện lên thật đáng thƣơng, họ không những khổ sở về vật chất mà còn bị đau
đớn về mặt tinh thần Thƣơng vợ là một bài thơ tiêu biểu của Tú Xƣơng viết về vợ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.
Nỗi u hoài kín đáo của Tú Xƣơng trƣớc thời cuộc và vận mệnh đất nƣớc thƣờng triền miên, day dứt:
Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà
( Vịnh khoa thi Hương năm Ðinh dậu)
Nhà thơ thƣờng thao thức suốt đêm dài để lặng lẽ suy tƣ và thấy đƣợc cái heo hút Vắng lặng của đêm trường:
Ðêm sao đêm mãi tối mò mò,
Ðêm đến bao giờ mới sáng cho.
Ðàn trẻ u ơ chừng muốn dậy,
Ông già thúng thắng vẫn đang ho.
http://diendankienthuc.net 106 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Ngọn đèn rình trộm khêu còn bé,


Tiếng chó kinh người cắn vẫn to.
Hàng xóm bốn bề ai dậy chửa,
Dậy thì lên tiếng gọi nhà nho.
( Ðêm dài)
Trong hoàn cảnh đó, nhà thơ vẫn còn tỉnh táo để nhận ra mình:
Kìa cái đêm nay mới gọi đêm
Mắt giương không ngủ bũng không thèm
Tình này ai thấu cho ta nhỉ
Tâm sự năm canh một bóng đèn.
Ðiểm sáng nhất, xúc động nhất trong thơ ông là ở tình này. Ðó là tình cảm của ông đối với quê hƣơng đất nƣớc.
Nỗi đau khi nhìn thấy đất nƣớc đổi thay mà bản thân ông thì không làm gì thay đổi thời cuộc ( Sông lấp). Bài thơ
chứng tỏ Tú Xƣơng vẫn là ngƣời nặng tình đời và tha thiết với cuộc sống. Mặc dù có lúc ông đâm ra bối rối, lạc
lõng, mất phƣơng hƣớng trƣớc bao biến đổi của thời cuộc:
Hỏi người chỉ thấy non xanh ngắt,
Ðợi nước càng thêm tóc bạc phơ
Ðường đất xa khơi ai mách bảo?
Biết đâu mà ngóng dến bao giờ?
( Lạc đường)
Lòng yêu nƣớc của Tú Xuơng còn thể hiện qua sự khâm phục của Tú Xƣơng đối với những ngƣời có tài, có đức ra
cứu đời, giúp nƣớc:
Vá trời gặp hội mây năm vẻ
Lấp bể ra công đất một hòn
( Gửi cụ thủ khoa Phan)
Tuy không đủ dũng khí để đi vào cuộc cách mạnh nhƣ bao nghĩa sĩ yêu nƣớc khác nhƣng ông có cảm tình nồng
hậu đối với những ngƣời làm cách mạng. Hình ảnh Phan Bội Châu Vá trời, lấp bể đã đến với Tú Xƣơng bằng tất
cả sự kính mến, khâm phục.
3. Triết lý sống của Tú Xƣơng giữa thời buổi loạn ly của đất nƣớc:
Triết lý sống của Tú Xƣơng đặc biệt không giống ai giữa thời buổi loạn ly. Ông sống giả câm, giả điếc, làm ngơ
trƣớc dƣ luận. Sống nhƣ ông phải có kiểu cách riêng, giống nhƣ hình ảnh của chú Mán ở Nam Ðịnh:
Khi để chỏm, lúc cạo đầu
Nghêu ngao câu hát nửa tàu, nửa ta
Chẳng đội nón chịu màu da dãi nắng,
Chẳng nhuộm răng để trắng dễ cười đời,
Chốn quyền môn lòn cúi mặc ai,
Ngoài cương tỏa thảnh thơi ai đã biết.
( Chú Mán)
Thái độ sống khác của Tú Xƣơng có phải chăng là thái độ chống đối của nhà thơ trƣớc thời cuộc? Ông không
muốn hòa vào cuộc sống ngột ngạt không lối thoát này, không muốn hợp tác với cái văn minh trong thời kỳ nƣớc
mất, nhà tan. Giữa bao cái rối rắm mà mọi ngƣời đang tìm cách chen chân vào thì Tú Xƣơng tách khỏi nó. Từ đó
thể hiện sự yêu thích tự do, không chịu cúi lòn làm nô lệ.
Triết lý sống của Tú Xƣơng nếu đem đặt bên cạnh triết lý sống của các nhà chiến sĩ yêu nƣớc là xả thân vì nƣớc
lúc bấy giờ thì triết lý sống của Tú Xƣơng có phần nhạt nhẽo, vô vị. Nhƣng nói chung, triết lý sống của ông đã
phần nào phản ảnh đƣợc tâm trạng của lớp ngƣời sống trong thời buổi không đành tâm theo giặc cũng không cầm
vũ khí chống giặc.
III. NGHỆ THUẬT THƠ VĂN TRẦN TẾ XƢƠNG:
1. Kết cấu:

http://diendankienthuc.net 107 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

1.1.Thơ trào phúng của Tú Xương hết sức đa dạng và phong phú.
Có bài thơ vừa có hiện thực vừa có trào phúng. Bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật, Tú Xƣơng sử dụng tiếng cƣời làm
vũ khí. Ở Tú Xƣơng không có cái nhàn nhạt, cái lƣng chừng, cƣời là cƣời phá, chửi là chửi độc, chua chát đến ứa
mật, ứa máu.
Có những bài tự trào, tự khoe về mình, dùng ngôn ngữ lấp lững, ỡm ờ, hoặc những từ hoàn toàn thô tục . . . Tứ
thơ thƣờng độc đáo, đột ngột, táo bạo gây sự chú ý và bám vào linh hồn của chủ đề. Tú Xƣơng đã quàng vào cổ
ông Hàn nọ ( Vốn làm nghề nấu rƣợu) những xâu, chai, lọ, vung, nồi lổn nhổn:
Hàn lâm tu soạn kém gì ai?
Ðủ cả vung nồi, cả cóng chai
( Ðưa ông hàn)
Cái tài tình của Tú Xƣơng là chợp đúng cái thần của sự vật bằng một vài nét điển hình, rồi với cách nói thẳng
thừng, táo bạo và hài hƣớc của mình, ông phơi bày cái lõi của sự thật cho mọi ngƣời xem có khi ở câu đầu:
Lúc túng toan lên bán cả trời
Trời rằng thằng bé nó hay chơi
( Tự cười mình)
Có khi ở cuối câu:
Cụ Xứ có cô con gái đẹp
Lăm le xin bố cưới làm chồng
( Ði thi nói ngông)
Có khi mƣợn lối chơi chữ:
Ấm không ra ấm, ấm ra nồi
Ấm chạy lăng quăng, ấm chẳng ngồi
( Bỡn ông ấm Ðiềm)
Có lúc nhân cái mồm tu hú của đối tƣợng mà hạ một ý thật lạ lùng:
Cậu này ắt hẵn hay nghề sáo,
Dây vũ dây văn vụng ngón đàn
( Thông gia với quan)
Hoặc mở đầu bài thơ Ðể vợ chơi nhăng là đánh thẳng đối tƣợng là anh chồng ngu”:
Thọ kia mày có biết hay chăng
Con vợ mày kia xiết nói năng
Vợ đẹp của người không giữ được
Chồng ngu mượn đứa để chơi nhăng
Nhƣng mục đích chính là đả kích mụ vợ, nên khổ thơ cứ dồn dập và quyết liệt:
Ra đường đáng giá người trinh thục
Trong bụng sao mà những gió trăng,
Mới biết hồng nhan là thế thế,
Trăm năm, trăm tuổi, lại trăm thằng.
Có thể nói, Tú Xƣơng đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật kết cấu trong thơ trào phúng, trƣớc hết vì tiếng cƣời của
ông là sự phê phán của một lý trí và cảm xúc nhạy bén của con tim nên tiếng cƣời trào phúng của Tú Xƣơng rất
chắc, hiệu quả cao.
1.2.Thơ trữ tình của Tú Xƣơng:
Lời thơ nhuần nhuyễn, ý thơ gần gũi, sâu lắng.
Các bài thơ tiêu biểu Ðêm hè, Ngẫu hứng, Sông lấp, Gửi cụ thủ khoa Phan, Nhớ bạn phương trời . . . thể hiện cái
sâu xa trong tâm trạng của ông đó là tinh thần dân tộc, tuy có giới hạn nhƣng rất đáng quý, đã hình thành nên tính
cách Tú Xƣơng.
Ông có những bài thơ thể hiện tình cảm lãng mạn cũng khá hiện đại:
Em gửi cho anh mãnh lụa đào
Không biết rằng em bán thế nào
http://diendankienthuc.net 108 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

( Tặng người quen)


Ðề tài thơ trữ tình của Tú Xƣơng tuy không phong phú và đa dạng nhƣ thơ trào phúng nhƣng cũng rất sâu sắc và
đậm đà. Nhà thơ sử dụng nhiều chi tiết từ cuộc sống nên tứ thơ rất sinh động, nhiều chi tiết xác thực nhƣ bản thân
đời sống . Hình ảnh bà Tú đƣợc tái hiện bằng những nét rất thực:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
( Thương vợ)
Bài thơ Nhớ bạn phƣơng trời đã đi sâu vào thế gới tâm trạng, tràn ngập cảm xúc trữ tình của nhà thơ đối với nhà
cách mạng Phan Bội Châu.
Ta nhớ người xa cách núi sông,
Người xa, xa lắm nhớ ta không?
Sao đang vui vẻ ra buồn bã
Vừa mới quen nhau đã lạ lùng
Lúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng
Khi riêng riêng đến cả tình chung
Tương tư lọ phải là trai gái,
Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng.
1.3.Sự kết hợp hai yếu tố hiện thực và trữ tình:
Rất độc đáo và sâu sắc. Kết cấu bài thơ không gò bó. Tính phóng túng trong suy nghĩ cũng nhƣ trong tính tình đã
đem vào khuôn khổ thể thơ bảy chữ tám câu nhiều nét mới đã phá vỡ mọi qui định:
Việc bác không xong tôi chết ngay!
Chết ngay? Như thế vội vàng thay!
( Bỡn người làm mối)

Hỏi lão đâu ta?- Lão ở Liêm


Trông ra bóng dáng đã hom hem
( Già chơi trống bỏi)

Người đói ta đây cũng chẳng no,


Cha thằng nào có tiếc không cho
( Thề với ăn xin)
Rất nhiều bài thơ của Tú Xƣơng có sự kết hợp hài hòa hai yếu tố hiện thực và trữ tình (Vịnh khoa thi hƣơng năm
Ðinh Dậu, Thƣơng vợ, Thề với ăn xin . . .)
Nói về sự kết hợp giữa hai yếu tố hiện thực và trữ tình trong một bài thơ, Nguyễn Tuân cho rằng: Sở dĩ thơ Tú
Xƣơng không bị tắt gió, không bị bay ra khỏi là vì thơ Tú Xương đã đi bằng hai chân hiện thực và lãng mạn, là vì
thi pháp của Tú Xương phối hợp cả hiện thực và trữ tình
2. Ngôn ngữ và chất liệu dân gian:
2.1. Ngôn ngữ:
Tú Xƣơng là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh. Ngôn ngữ giản dị, chính xác, uyển chuyển, gợi
hình và có tính chất dân gian ( Ði hát mất ô) đƣợc xem là bài duyên dáng, hóm hĩnh, độc đáo của Tú Xƣơng vì ông
đã thể hiện đƣợc cái thần của bài thơ.
Sử dụng ngôn ngữ hàng ngày, tƣơi mát, tự nhiên mà vẫn thanh nhã, óng chuốt. Mấy câu sau đây nhƣ lời nói ở
cửa miệng, không thêm bớt mà rất chân thành:
Tôi hỏi thăm ông đến tận nhà,
Trước nhà có miếu, có cây đa
Cửa hè sân ngõ chừng ba thước,
Nửa tá tre pheo đủ một tòa . . .
( Ông ấm Ðiềm)
http://diendankienthuc.net 109 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Hoặc đây là cách nói ngang tàng nhƣng rất tự nhiên:


Gái tơ đi lấy làm hai họ
Năm mới vừa sang được một ngày
( Viếng cô Ký)
Hai họ là vợ hai, đối với Một ngày tức mùng một tết. Vậy câu thơ chỉ giữ cái vỏ của phép đối mà vƣợt qua những
ràng buộc khác khiến cho lời thơ của Tú Xƣơng không những êm tai, sƣớng miệng mà còn rất độc đáo, có giá trị
châm biếm cao.
2.2.Chất liệu dân gian:
Nhiều thành ngữ dân gian, ca dao đã đi vào thơ Tú Xƣơng bằng sự sáng tạo riêng.
Các thành ngữ nhƣ Học đã sôi cơm, thi không ăn ớt, vuốt râu nịnh vợ, quắc mắt khinh đời, năm nắng mưới mưa,
thân cò lặn lội . . . đã được Tú Xương vận dụng khá độc đáo trong thơ.
Vuốt râu nịnh vợ con bu nó
Quắc mắt khinh đời cái bộ anh.
Tú Xƣơng rất am hiểu ca dao, nhiều câu ca dao còn thể hiện cái tình tứ, duyên dáng, hóm hỉnh của nhà thơ.
Ai ơi còn nhớ ai không?
Trời mưa một mảnh áo bông che đầu
Nào ai có tiếc ai đâu
Áo bông ai ướt khăn đầu ai khô?
Người đi tam đảo, ngũ hồ.
Kẻ về khóc trúc, than ngô một mình.
Non non, nước nước, tình tình
Vì ai ngơ ngẩn cho mình ngẩn ngơ
( Áo bông che đầu)
IV. KẾT LUẬN:
Về nội dung, thơ trào phúng và trữ tình của Tú Xƣơng có giá trị hiện thực cao. Thơ Tú Xƣơng là tiếng nói, là nỗi
lòng của tầng lớp nho sĩ đang đứng giữa thời cuộc không đành tâm theo giặc cũng không cầm vũ khí chống giặc.
Về nghệ thuật, cả hai mặt trào phúng và trữ tình, Tú Xƣơng xứng đáng là nhà thơ lớn của dân tộc, xứng đáng
đƣợc Yên Ðỗ ( Nguyễn Khuyến) nhà thơ cùng thời xếp vào loại thi hào bất tử :
Kìa ai chín suối Xương không nát
Có nhẽ nghìn thu tiếng vẫn còn.

http://diendankienthuc.net 110 Thandieu2 _ Sƣu tầm

You might also like