Professional Documents
Culture Documents
Dat Nuoc 2022 Chi Tiet
Dat Nuoc 2022 Chi Tiet
I. GIỚI THIỆU
1. Tác giả: sinh năm 1943
- Quê: Thừa Thiên - Huế
- Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ những năm
chống Mĩ cứu nước.
- Phong cách nghệ thuật: giàu chất suy tư, chính luận, xúc cảm lắng
đọng, thể hiện tâm tư của người tri thức tham gia tích cực vào cuộc
chiến đấu của nhân dân. (trữ tình-chính luận)
- TP chính: Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (1974) …
2. Tác phẩm
2.1. Hoàn cảnh ra đời
- Sáng tác 1971, tại chiến khu Trị - Thiên (những năm cuối của cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước diễn ra ác liệt) - In lần đầu năm 1974.
Trường ca “Mặt đường khát vọng” gồm 9 chương viết về sự thức tỉnh
của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiến miền Nam, nhận rõ bộ mặt bọn xâm
lược Mỹ, hướng về nhân dân đất nước, ý thức được thế hệ mình,
xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc
Mỹ xâm lược.
2.2. Thể loại: trường ca - Là thể loại tác phẩm có sự kết hợp hài hòa
hai yếu tố tự sự và trữ tình.
2.3. Đề tài: Đất Nước quen thuộc
2.4. Đoạn trích: phần đầu chương V của trường ca.
- Chương V có vị trí đặc biệt, hội tụ chủ đề tư tưởng tác phẩm: sự thức
tỉnh của thế hệ trẻ các thành thị miền Nam, (rộng hơn: sự tự nhận thức
của tuổi trẻ VN) về sứ mệnh và trách nhiệm với dân tộc.
2.5. Bố cục
- Phần 1: Cảm nhận mới mẻ về Đất Nước trên nhiều phương diện lịch
sử, địa lí, văn hóa gắn bó mật thiết với đời sống của nhân dân
. Đoạn 1: ĐN có từ khi nào?
. Đoạn 2: ĐN là gì?
. Đoạn 3: Trách nhiệm đối với ĐN
- Phần 2 : Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”: Nhân dân làm nên Đất
Nước
. Đoạn 4:
. Đoạn 5:
- Đoạn thơ nói về sự hình thành của Đất Nước gắn liền với những điều
quen thuộc gần gũi trong cuộc sống con người
Đất Nước có từ trong cái ngày xửa ngày mẹ thường hay kể
- Đất nước có trong câu chuyện cổ tích ra đời từ xa xưa. “ngày xửa
ngày xưa” - Đó là nhịp điệu mở đầu gợi lên một khoảng thời gian xa
xưa của dân tộc, ĐN. Nguyễn Khoa Điềm dựa vào cổ tích để tính tuổi
đất nước, không ai biết chính xác, chỉ biết là nó đã có từ rất lâu rồi.
- Những câu chuyện cổ tích gắn liền với trẻ thơ, là những bài học đầu
đời dạy trẻ thơ biết yêu cái thiện, căm ghét cái ác, nuôi dưỡng ước mơ
về cuộc sống công bằng, hạnh phúc. Đất nước đã tồn tại, lớn lên cùng
với tâm hồn trẻ thơ như thế.
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu sa
(Lâm Thị Mĩ Dạ)
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
- Trong miếng trầu giản dị bà ăn lại chứa đựng cả bề dày văn hóa lâu
đời của dân tộc. Hình ảnh miếng trầu nhắc đến phong tục giao tế xa
xưa của ta, “miếng trầu là đầu câu chuyện”, gợi cả đến sự tích Trầu
Cau: tình nghĩa chung thủy của vợ chồng, tình anh em hòa thuận. Từ
ấy trở thành miếng trầu giao duyên, là sợi tơ hồng nối kết lứa đôi, tín
hiệu của hôn nhân. (“Có trầu mà chẳng có cau/ làm sao cho thắm môi
nhau thì làm”)
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
→ Quá trình bảo vệ đất nước. Đất nước tồn tại và phát triển trong
công cuộc giữ nước của cha ông. Hình ảnh cây tre quen thuộc gắn bó
với đời sống dân làng: lũy tre làng chứng kiến kỷ niệm, vật dụng trong
nhà, đi vào lịch sử cùng nhân dân xông pha trận mạc: “tre giữ làng,
giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”. Gợi đến cả truyền
thuyết Thánh Gióng: ca ngợi sức mạnh thần kỳ của dân tộc khi đất
nước lâm nguy, một đứa trẻ ba tuổi trở thành người hùng dân tộc, tinh
thần kiên cường bất khuất, chống giặc ngoại xâm là dân tộc của những
con người không cam chịu làm nô lệ.
- Đất Nước có trong những vật dụng quen thuộc hằng ngày:
“Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
→ Cái kèo cái cột che mưa che nắng. Hạt gạo hằng ngày ta ăn. Những
thứ đơn giản thế thôi cũng là Đất Nước.
- Khi cha ông biết dùng kèo, dùng cột dựng nhà, mái ấm hình thành là
cũng dựng nên ĐN. Gia đình là nền tảng tạo nên ĐN. Lời thơ còn gợi
nhắc đến tập tục đặt tên dùng cái kèo, cái cột gọi tên con cái của ông
bà xưa.
- Thành ngữ “một nắng hai sương”: ông cha ta phải vất vả gian khổ
để kiếm cái ăn, để có được hạt gạo là cả một quá trình lao động. Quá
trình ấy được liệt kê bằng những động từ “xay, giã, giần, sàng” → sự
khó nhọc để làm nên hạt gạo nhỏ bé.
→ Nhắc đến nền nông nghiệp lúa nước thuở đầu còn thô sơ, nặng nề
→ thông qua đó ca ngợi sự chịu thương chịu khó, tính tỉ mỉ, cần mẫn
của tổ tiên. Trong hạt gạo giản đơn là nền văn minh lúa nước lâu đời.
- Với cách nói quy nạp tác giả đã khẳng định sự ra đời của đất nước
với lịch sử lâu đời xa xưa. ĐN có từ ngày đó.
Ngày đó là ngày nào không thể xác định rõ, chỉ biết là lâu lắm rồi.
Dấu … tạo âm hưởng ngân dài như sự trường tồn của ĐN.
Sơ kết:
- Từ “Đất Nước” được lặp lại nhiều lần, viết hoa một cách trang trọng,
mang ý nghĩa thiêng liêng cao quý, thể hiện tình cảm yêu mến tự hào
của con người đối với ĐN.
- Đặc biệt đoạn thơ mang đậm màu sắc dân gian qua việc vận dụng
phong phú các chất liệu văn hóa và văn học dân gian như ca dao,
truyện cổ... tạo không gian nghệ thuật vừa bay bổng diệu kỳ vừa quen
thuộc gần gũi, tạo nên hồn thơ đậm đà bản sắc dân tộc, giàu sắc trí tuệ.
vừa truyền thống vừa hiện đại.
-Nhịp điệu, tiết tấu: đa dạng, linh hoạt bởi cách sắp xếp không gây
nhàm chán với những câu văn dài ngắn đan xen
- Cách nói điệp cấu trúc: “Đất Nước có trong…,ĐN bắt đầu…, ĐN
lớn lên…” thể hiện quá trình hình thành, tồn tại và phát triển lâu dài
của đất nước.
- Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận đất nước qua thời gian lịch sử và
không gian địa lý. ĐN tươi đẹp trải nhiều năm tháng con người mở
mang bờ cõi, xây dựng ĐN có dáng hình như hôm nay.
“Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
- ĐN tươi đẹp, trù phú, qua bao tháng năm trở thành nơi 54 dân tộc
anh em suốt mọi miền đất nước cùng sống, cùng yêu thương bảo vệ
đất nước
- Đất Nước là không gian thiêng liêng của bao thế hệ, là sự hiện diện
của cộng đồng dân tộc đoàn kết. Câu thơ “Đất Nước…tụ” với từ “ dân
mình” gợi tình cảm thiêng liêng máu thịt vì chung một Đất Nước,
cùng hiện diện trên một mảnh đất của dân tộc.
- Tác giả cảm nhận đất nước trên phương diện lịch sử dài lâu gắn liền
với bề sâu văn hóa dân tộc:
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
→ Nhắc đến truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ: truyền thuyết
của thuở lịch sử ban sơ mở cõi, lí giải cội nguồn của dân tộc cao quý:
con Rồng cháu Tiên. Cách viết hoa cùng phép liệt kê “Chim
về”,“Rồng ở” thể hiện niềm tự hào về mảnh đất thiêng đất lành, về
nguồn gốc con Rồng cháu Tiên của dân tộc từ truyền thuyết Lạc Long
Quân và Âu Cơ, cùng với hình ảnh bọc trứng mang ý nghĩa thiêng
liêng sâu sắc gợi lên tình dân tộc nghĩa đồng bào.
- Dân tộc nhân dân đều cùng cha cùng mẹ, cùng một bào thai chính vì
thế ta trở thành “đồng bào” nên yêu thương, gắn kết, san sẻ.
- Cách sử dụng từ ngữ thuần Việt (đẻ) mộc mạc, chân chất, gần gũi
với lời ăn tiếng nói của nhân dân
- Đất Nước còn là sự kế thừa, tiếp nối của thế hệ, từ đời này sang đời
khác.
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ”
“ Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
5
- Nhìn lại lịch sử dài lâu, Tác giả nhận ra Đất Nước tồn tại bởi sự tiếp
nối qua nhiều thế hệ đầy ý thức và trách nhiệm, cùng mở mang bờ cõi,
xây dựng, phát triển và bảo vệ ĐN, tạo nên nhiều thành quả và lưu
truyền mai sau. Nhân dân đã bền bỉ kiên cường giữ gìn duy trì nòi
giống, kế thừa phát huy truyền thồng dân tộc và luôn có ý thức nhớ về
cội nguồn dân tộc. Hàng loạt từ ngữ chỉ thời gian tiếp nối đã khuất,
bây giờ, mai sau gợi nên sự trường tồn của ĐN muôn đời.
-Và thế hệ sau phải có trách nhiệm tiếp nối, phát huy truyền thống làm
cho đất nước trở nên vẻ vang sánh vai cùng năm châu. Con cháu luôn
Nhớ ơn tổ tiên, hành động “cúi đầu” thể hiện sự thành kính. Bởi vì tổ
tiên đã xây dựng, mở mang bờ cõi, tạo lập cho chúng ta cuộc sống
ngày nay. Như Bác Hồ đã dặn: Các vua HÙng đã có công dựng nước,
bác cháu ta hãy cùng nhay giữ lấy nước.
→ dân tộc ta có truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Chúng
ta là một dân tộc nặng nghĩa nặng tình, sống hôm nay luôn nhớ về
hôm qua.
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba
- Nhà thơ cảm nhận đất nước là sự hòa quyện không thể tách rời giữa
cá nhân và cộng đồng dân tộc và kế thừa của quá khứ, hiện tại hướng
đến tương lai, xây dựng Đất Nước hướng về nguồn cội và luôn có ý
thức giữ gìn bản sắc dân tộc. Đoạn thơ nhấn mạnh nhân dân giữ vai
trò chủ thể trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Đất Nước.
Thời gian lịch sử ở đây được đo bằng những hình tượng huyền
thoại lấy từ truyền thuyết: Lạc Long Quân, Âu Cơ, truyền thuyết Hùng
Vương, ngày giỗ Tổ. Không gian thấm đẫm tính nguồn cội, hướng
người đọc về với cội nguồn dân tộc, nhắc nhở các thế hệ nhớ về lịch
sử dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng sáng tạo các yếu tố ca
dao, truyền thuyết dân gian để tạo nên được những hình tượng nghệ
thuật vừa gần gũi, vừa mới mẻ về đất nước trên cả bề rộng về không
gian địa lí và cả chiều dài thời gian lịch sử, chiều sâu văn hóa.
Sơ kết:
- Điệp cấu trúc câu ‘D là nơi…, N là nơi…., ĐN là nơi…” đưa ra
những định nghĩa về đất nước không khô khan, triết lý mà tràn đầy
cảm xúc, phong phú và đa dạng bởi những liên tưởng độc đáo, qua sự
trải nghiệm của chính tác giả.
- Từ “Đất Nước” được lặp lại nhiều lần, viết hoa một cách trang trọng,
mang ý nghĩa thiêng liêng cao quý, thể hiện tình cảm yêu mến tự hào
của con người đối với ĐN.
- Đặc biệt đoạn thơ mang đậm màu sắc dân gian qua việc vận dụng
phong phú các chất liệu văn hóa và văn học dân gian như ca dao,
truyện cổ... tạo không gian nghệ thuật diệu kì, tạo nên hồn thơ đậm đà
bản sắc dân tộc, giàu sắc trí tuệ, vừa truyền thống vừa hiện đại.
-Nhịp điệu, tiết tấu: đa dạng, linh hoạt bởi cách sắp xếp không gây
nhàm chán với những câu thơ dài ngắn đan xen
- Cảm nhận độc đáo về ĐN của Nguyễn Khoa Điềm:
Đất Nước là một thể thống nhất bởi nhiều yếu tố: đia lý, lịch sử, văn
hóa, phong tục truyền thống, gắn bó sâu sắc với cuộc sống nhân dân…
Đất nước vừa gần gũi, bình dị mà cũng đầy thiêng liêng, cao quý, hài
6
hòa trong mối quan hệ giữa con người cá nhân và cộng đồng dân tộc.
Từ đó làm bật lên tư tưởng thời đại: ĐN của nhân dân, Nhân dân đã
làm ra ĐN. → Đó là một cảm nhận bao quát, toàn diện và sâu sắc.
+ Ở miền Bắc, danh thắng ấy hiện lên với núi Vọng Phu, hòn Trống
Mái biểu tượng cho vẻ đẹp của tình yêu thủy chung bền vững. Hòn
Vọng Phu nay vẫn còn ở Lạng Sơn gắn liền với tích nàng Tô Thị bồng
con chờ chồng hóa đá. Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, Thanh Hóa, tương
truyền do hai vợ chồng yêu nhau hóa thân thành. Thời gian trôi qua,
những vẻ đẹp thủy chung, nghĩa tình đã bất tử. Cảnh được cảm nhận
trong sự gắn kết sâu sắc với con người. Nếu không có người phụ nữ
chờ chồng đến hóa đá sẽ không có núi Vọng Phu, không có cặp vợ
chồng yêu nhau sẽ không có Hòn Trống Mái.
+ Cảnh sắc thiên nhiên ĐN phản ánh lịch sử buổi đầu xây dựng, bảo
vệ ĐN hào hùng, bất khuất .
Đó còn là vẻ đẹp người anh hùng làng Gióng với chứng tích “ao đầm”
hình móng chân ngựa mọc đầy quanh chân núi Sóc Sơn (Hà Nội).
Truyền thống lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc trải bốn
nghìn năm dựng và giữ nước.
+ Đó là quần thể núi non hùng vĩ “chín mươi chín con voi” bao quanh
núi Hi Cương (Phú Thọ) nơi đền thờ vua Hùng ngự trị. Truyền thuyết
thể hiện sự ngợi ca của nhân dân đối với các vị Vua Hùng đã có công
mở mang bờ cõi, xây dựng ĐN buổi đầu.
Đó là “con cóc con gà quê hương góp cho Hạ Long thành thắng
cảnh”.
>Tất cả nhằm nhắc nhở chúng ta nhớ về truyền thống đánh giặc giữ
nước, công cuộc xây dựng, kiến thiết đất nước của cha ông.
+ Ở miền Trung, nhà thơ đưa ta về với vùng đất Quảng Ngãi để chiêm
ngưỡng “núi Bút, non Nghiên” do cậu học trò nghèo dựng nên. Đó là
biểu tượng của truyền thống hiếu học của nhân dân đã góp cho đất
nước bao tên tuổi. Học hành để xây dựng ĐN.
9
+ Ở miền Nam, danh thắng là con sông Cửu Long hiền hòa, tươi đẹp:
“Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”.
Là những người dân hiền lành, chăm chỉ góp nên “tên xã tên làng
trong mỗi chuyến di dân”. Đó là “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà
Điểm”. những con người bình dị đã có công với nước: mở mang bờ
cõi, xây dựng và bảo vệ đất nước. Cho nên tên tuổi của họ được dùng
để đặt tên cho tên làng, xã, tên núi, tên sông
- Từ những địa danh cụ thể, tác giả đã khái quát lại và rút ra kết luận:
cảnh sắc thiên nhiên là một phần tâm hồn máu thịt của nhân dân, gắn
liền với con người và lịch sử dân tộc. Đoạn thơ đã thể hiện nổi bật tư
tưởng: chính nhân dân đã tạo nên đất nước. Đó là những con người
bình dị, vô danh.
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...”
+ Hai câu đầu trong bốn câu thơ trên khẳng định dáng hình của Nhân
Dân trong không gian Đất Nước “trên khắp ruộng đồng gò bãi”. Bóng
hình ấy của nhân dân không chỉ làm cho đất nước thêm phần tươi đẹp
mà còn mang “một ao ước, một lối sống cha ông”. Những con người
bình dị, những cuộc đời nhỏ bé, những tâm hồn cao đẹp đã góp phần
làm nên vóc dáng hình hài của đất nước. Họ đã đặt tên, lưu dấu đời
mình trên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất. Nghĩa là nhân dân không
chỉ góp danh lam thắng cảnh, mà còn góp vào đó những giá trị tinh
thần, là phong tục, tập quán, là truyền thống văn hóa lưu dấu tới mai
sau.
+ Ở hai câu cuối, hình tượng thơ được nâng dần lên và chốt lại bằng
một câu đầy trí tuệ: “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”. “Núi sông
ta” sỡ dĩ có được là nhờ “những cuộc đời” đã hóa thân để góp nên.
Nhân Dân không chỉ góp tuổi, góp tên mà còn góp cả cuộc đời và số
phận mình. Con người hữu hạn đã hòa vào sự sống trường tồn của
ĐN.
Qua cái nhìn của nhà thơ, mỗi địa danh không chỉ là những danh
thắng để chiêm ngưỡng mà còn là hiện thân của cuộc đời, số phận,
máu thịt, vẻ đẹp tâm hồn, tình cảm, tinh thần yêu nước, trí tuệ của
nhân dân. Ý thơ giản dị mà sâu sắc khiến ta hình dung Đất Nước thật
gần gũi và thân thuộc.
Cách cảm nhận ĐN mới mẻ độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm: chính
con người đã tạo nên cảnh sắc ĐN chứ không phải bởi tự nhiên trời
đất tạo nên - Nhân dân tạo ra ĐN.
Sơ kết:
Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên được viết theo thể thơ tự do.
Câu thơ mở rộng kéo dài, biến hóa linh hoạt tạo cho đoạn thờ giàu sức
gợi cảm và khái quát cao. Thủ pháp liệt kê địa danh, nhà thơ luôn viết
hoa hai chữ Đất Nước thể hiện sự thành kính thiêng liêng.
- sử dụng Điệp từ “góp” để ca ngợi công lao của nhân dân đối với ĐN
trong sự hóa thân thành những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp,“hóa”
nên hình dáng đất nước của Đất Nước. Chính những người dân bình dị
10
(người vợ chờ chồng, cặp vợ chồng, người học trò nghèo, những
người dân nào…) đã góp phần tạo nên đất nước bằng cuộc đời, tâm
hồn, máu xương, lối sống của họ. Con người đã xây dựng vật chất,
tinh thần cho đất nước, từ khía cạnh trừu tượng đến cụ thể, hiến dâng,
sẵn sàng đánh đổi, biến mình thành dáng hình xứ sở, mở mang bờ cõi,
xây dựng và bảo vệ đất nước trải dài hình chữ S này. Họ là những con
người rất bình dị trong đời thường và anh dũng trong đấu tranh. Chính
Nhân dân đã làm ra ĐN.
- Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” trước hết được thể hiện qua sự
biết ơn sâu nặng của nhà thơ đối với nhân dân đã “góp” cuộc đời
Ôm đất nước những người áo mình, tuổi tên của mình, số phận mình để hóa thân thành những địa
vải danh, thắng cảnh. Những địa danh, thắng cảnh ấy gắn với cuộc sống,
Đã đứng lên thành những anh số phận, tính cách của nhân dân.
hùng (NĐThi) . Cách cảm nhận ĐN mới mẻ độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm: Tác
giả không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc địa lí, mà còn thể hiện tình
cảm tự hào về lịch sử hào hùng, bề dày văn hóa, vẻ đẹp tâm hồn, đời
sống tình cảm của nhân dân. Tất cả làm nên đoạn thơ hay về đất nước.
2.2.ĐOẠN 5: Nhân dân làm ra lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước”
→ Giọng điệu thủ thỉ tâm tình
- Tác giả đã đưa em và người đọc thơ quay trở về với bốn nghìn năm
dựng nước giữ nước và cảm nhận về lịch sử dài lâu của dân tộc
- Nhìn lại lịch sử bốn ngàn năm văn hiến, tác giả không đề cập đến các
triều đại như Đinh Lí Trần Lê bao đời gây nền độc lập, các anh hùng
nổi tiếng mà chủ yếu khắc họa hình tượng những con người vô danh
“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”
Càng nhìn sâu vào “bốn nghìn năm Đất Nước”, nhà thơ càng thấm
thía với công lao xây dựng, vun đắp, bảo vệ đất nước. Đặc biệt là lớp
người tuổi trẻ, những “con gái, con trai bằng tuổi chúng ta” đã làm
cho nhà thơ xúc động mãnh liệt. Có lẽ đây là trực cảm của nhà thơ đối
với lớp thanh niên trong thời kì chống Mĩ cứu nước
- Làm lụng chăm chỉ, siêng năng, chiu thương chịu khó → xây dựng
đất nước
- Khi có giặc thì xông pha trận mạc. Đó là những con người bình dị,
sẵn sàng xả thân bảo vệ giang sơn, không phân biệt gái trai, già trẻ.
Với họ việc nước cũng như việc nhà. Và khi cần phụ nữ cũng chống
giặc như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Võ Thị Sáu….
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm”
Từ ngữ Đối lập→ quan niệm sống – chết của những con người bình
dị ấy
- “bình tâm”: đối mặt với cái chết vẫn bình thản, không hề sợ hãi,
luyến tiếc. Bởi họ không quan tâm đến cái sống – cái chết của bản
11
thân, cái họ quan tâm là sự tồn tại của đất nước và họ sống để bảo vệ
vận mệnh đất nước ấy, sẵn sàng sống và chết vì đất nước thân yêu.
Xây dựng và bảo về ĐN, đó là nghĩa vụ, bổn phận, trách nhiệm của
mỗi người dân đối với ĐN. Họ không cần ai nhớ công lao, ca ngọi họ.
- “Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Trãi lịch sử lâu dài, không bia đá tượng đồng hay sử sách ghi lại tên
tuổi những người đã ngã xuống hi sinh vì ĐN. Họ hi sinh âm thầm
lặng lẽ, là những anh hùng vô danh. Nhưng với tấm lòng biết ơn sâu
sắc NKĐ đã khẳng định ca ngợi công lao những con người vô danh
làm ra ĐN.
Và những con người đó, họ đã tạo ra đất nước, tạo nên những giá
trị vật chất, tinh thần cho ĐN.
- “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng”
→ truyền cả cho ta một nền văn minh lúa nước
- “Họ chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi”
chuyền cả cho ta ngọn lửa – ngọn nguồn của sự sống, giữ hơi ấm –
mang ý nghĩa vừa tả thực vừa là biểu tượng. là tình làng nghĩa xóm
“Tối lửa tắt đèn có nhau”
- “Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói”
→Giữ gìn tiếng nói. Đó chính là bản sắc văn hóa. Khi chúng ta mất đi
tiếng nói đó là khi ta mất đi một phần nào đó của đất nước.
- “Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân”
→Dù họ có đi muôn phương, họ cũng không quên nơi chôn nhau cắt
rốn, không quên nguồn cội.
- Cách nói “truyền, giữ”: họ không chỉ tạo nên, họ còn gìn giữ và
truyền lại cho con cháu mai sau
- “Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”
→ Họ tạo nền tảng cho thế hệ mai sau gặt hái thành quả của cha ông
đi trước, họ có trách nhiệm tiếp nối cho những thế hệ mai sau. Những
con người đó họ có ý thức lưu truyền những giá trị truyền thống được
thừa hưởng từ thế hệ cha ông
- Họ còn là những con người yêu nước, sẵn sàng đứng lên bảo vệ đất
nước, đánh ngoại xâm, dẹp nội thù giữ bình yên cho ĐN.
Nghệ thuật:
- Điệp từ “họ”: nhân dân nói chung, những con người bình dị, vô
danh
- Điệp từ “truyền”: thể hiện ý thức dân tộc, ging giữ và bảo vệ những
qua
Liệt kê những hành động nhằm cụ thể hóa công lao của nhân dân đối
với ĐN.
4 câu cuối
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
- Cội nguồn của dân tộc
- Ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông, thiên nhiên vẻ đẹp này sẽ tụ lại rồi
tách ra để đi muôn phương
- Yêu đời, yêu cuộc sống, lạc quan, yêu lao động
- Ca ngợi đất nước và con người
→ lời ca kết thúc đoạn trích
“Ôi”: cảm xúc dâng trào, dào dạt, giọn thơ tha thiết, suy tư trầm lắng
14