You are on page 1of 6

KỊCH: HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT

Lưu Quang Vũ

I. TÌM HIỂU CHUNG:


1. Tác giả: Lưu Quang Vũ
- “Hiện tượng” đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm 80 của thế kỉ
XX.
- Một trong những nhà soạn kịch tài năng của nền văn học nghệ thuật Việt
Nam hiện đại.
• Tài hoa nhiều mặt: sáng tác thơ, vẽ tranh, viết truyện ngắn, soạn kịch tài ba.
(• Nguồn cảm hứng: động lực thôi thúc viết kịch cũng là động lực khiến tác giả viết thơ =>
khát vọng được bày tỏ tâm hồn mình và thế giới, muốn tham dự vào dòng chảy cuộn xiết của
đời sống, được trao gửi và dâng hiến đầy rạo rực, trăn trở, khát khao. => Lựa chọn kịch nói là
một cách “xung trận” trực tiếp, có thể tác động vào xã hội nhanh nhạy, hiệu quả, thể hiện trọn
vẹn nhiệt hứng Lưu Quang Vũ.)

2. Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt:


a. Xuất xứ:
- Vở kịch được viết từ năm 1981, được công diễn vào năm 1984.
- Từ một cốt truyện dân gian, tác giả đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện
đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu
sắc.
- Truyện dân gian gây kịch tính sau khi Hồn Trương Ba nhập vào xác anh
hàng thịt dẫn tới "vụ tranh chấp" chồng của hai bà vợ phải đưa ra xử, bà
Trương Ba thắng kiện được đưa chồng về. Lưu Quang Vũ khai thác tình
huống kịch bắt đầu ở chỗ kết thúc của tích truyện dân gian. Khi hồn Trương
Ba được sống "hợp pháp" trong xác anh hàng thịt, mọi sự càng trở nên rắc rối,
éo le để rồi cuối cùng đau khổ, tuyệt vọng khiến Hồn Trương Ba không chịu
nổi phải cầu xin Đế Thích cho mình được chết hẳn.
b. Đoạn trích:
- Phần lớn là cảnh VII của vở kịch.
- Đây cũng là đoạn kết của vở kịch, đúng vào lúc xung đột trung tâm của vở
kịch lên đến đỉnh điểm.

II. ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN:


1.Tình huống, xung đột kịch: lên đến đỉnh điểm
- Sau mấy tháng sống trong tình trạng "bên trong một đằng, bên ngoài một
nẻo", nhân vật Hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, người thân
trong gia đình. Trương Ba dần dần đổi tính: cũng uống nhiều rượu, ham bán
thịt, không còn mặn mà với trò chơi thanh cao trí tuệ là đánh cờ nữa
- Trương Ba càng khổ sở hơn vì ông ý thức được những điều đó mà không thể
giải quyết được. Ông tự chán ghét chính mình, muốn thoát ra khỏi nghịch
cảnh trớ trêu. Tình cảnh éo le đó được đẩy lên cao trào qua các cuộc đối thoại.

2. Nhân vật Trương Ba:


(Hàng thịt vốn tên a. Lai lịch:
Hợi, làm nghề đồ tể, là - 60 tuổi,
một người thô lỗ, - Tính tình: thanh cao, hiền hậu, tốt bụng, yêu thương mọi người
phàm tục, thích rượu - Sở thích thanh cao: thích đánh cờ và rất cao cờ
thịt…) - làm vườn, yêu mến cây cỏ, chăm chút từng mầm non
b. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt:
* Do sự vô tâm và tắc trách của Nam Tào, Trương Ba phải chết một cách vô
lí, Nam Tào sửa sai bằng cách cho hồn Trương Ba sống nhờ thể xác anh hàng
1
thịt.
- Tính cách Trương Ba dần thay đổi. Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản
tính thẳng thắn của Trương Ba dần dần bị xác thịt thô phàm anh hàng thịt sai
khiến, bị nhiễm độc.
- Ý thức được điều đó, linh hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ: "- Không.
Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi!”à tâm trạng chán ngán, lẫn
sợ hãi
- Hồn Trương Ba quyết định chống lại bằng cách tách khỏi xác để tồn tại
độc lập, không còn bị lệ thuộc. à t/g đã sáng tạo một tình huống kì ảo để
Hồn soi ngắm chính mình, bày tỏ những đau khổ day dứt. Đây cũng là tình
tiết hợp lí để dẫn đến cuộc đối thoại giữa hồn – xác đầy chất triết lí, một cuộc
đối đầu thật sự giữa 2 phần quan trọng trong 1 con người.
* Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế đuối
lí, bất lợi:
- Lúc đầu Hồn xem thường, khinh khi Xác “âm u đui mù, không có tiếng nói,
không có tư tưởng, không có cảm xúc, chỉ là cái vỏ bên ngoài” à do vậy
không thể chi phối được linh hồn trong sạch, cao khiết.
- Thế nhưng, Xác đã đưa ra những bằng chứng để khẳng định tiếng nói của
xác, sức mạnh âm u đui mù nhưng có khả năng ghê gớm, lấn át chi phối linh
hồn cao khiết của TB, khiến hồn cũng phải thừa nhận sự tha hóa của chính
mình:
+ Cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với "tay chân run rẩy", "hơi
thở nóng rực", "cổ nghẹn lại" (ham muốn xác thịt tầm thường)
+ Đó là cảm giác "xao xuyến" trước những món ăn mà trước đây hồn cho là
"phàm". (sở thích tầm thường)
+ Đó là cái lần ông tát thằng con "tóe máu mồm máu mũi", (nóng giận,
dùng vũ lực, tàn bạo) …
à linh hồn không sai khiến được xác thịt thô phàm mà còn bị cái xác ấy điều
khiển. Đáng sợ hơn, hồn dần tha hóa, phải thỏa hiệp với những đòi hỏi của
xác, không giữ được sự thanh cao. Còn đâu 1 con người hiền hậu, vui vẻ, tốt
bụng, ưa cuộc sống đạm bạc, cư xử có văn hóa.

- Xác biết rõ những cố gắng của Trương Ba là vô ích nên đã cười nhạo cái lí
lẽ mà hồn đưa ra để ngụy biện “đây là mày chứ, chân tay mày, hơi thở của
mày…”"Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn,
…". à sự ngộ nhận, ảo tưởng của linh hồn (không thể tách rời thể xác – linh
hồn. Hồn đổ hết mọi tội lỗi cho thể xác để linh hồn được an ủi, xoa dịu.)
+ Xác lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc: tuyên bố sức mạnh âm u, đui
mù ghê gớm của mình.
+ Xác còn ve vãn hồn thoả hiệp vì: “chẳng còn cách nào khác đâu”, “cả
hai đã hoà nhau làm một rồi”, Xác đưa ra giải pháp tồn tại hòa bình giữa
Hồn-Xác khi làm gì sai thì cứ đổ tội cho xác để linh hồn được thanh thản, bù
lại Hồn sẽ làm mọi việc để thỏa mãn những ham muốn của xác. Xác hiểu rõ
người ta nghĩ gì về mình, đồng thời cũng tỏ ra thấu hiểu “trò chơi tâm hồn”
của TBa
àXác: lời thoại dài, lập luận chặt chẽ, khi thì cao giọng thách thức khi buồn
rầu thanh minh, đưa những câu hỏi tranh luận giành phần thắng về mình, vừa
dụ dỗ mua chuộc vừa trắng trợn phỉ báng.
- Trước những “lí lẽ ti tiện” của xác, hồn Trương Ba:
+ Ban đầu, nổi giận, phủ định quyết liệt, hăng hái đấu lí, khinh bỉ thân xác
hèn hạ
+ Sau đó, hồn ngậm ngùi thấm thía nghịch cảnh của mình, lúng túng, đuối
lí nên chỉ nói những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng
than, tiếng kêu đau khổ “ta…ta…bảo mày im đi. Ta không muốn nghe mày

2
nữa. Nhưng…nhưng… trời…”
Thỏa hiệp với bản à Hồn: lời lẽ thanh minh yếu ớt, tội nghiệp, thái độ lúng túng
năng (thể xác) sẽ tạo - Cuối cùng, hồn đành phải nhập trở lại vào xác trong sự tuyệt vọng. Hồn
nên bi kịch bị dồn vào đường cùng, không lối thoát, phải chấp nhận sự an bài của hoàn
cảnh ‘Hồn TB - xác hàng thịt”
Phải chú ý những nhu * Mâu thuẫn giữa hồn và xác:
cầu của thể xác. Cân Hồn Xác
đối nhu cầu của thể Thanh nhã Kềnh càng thô lỗ
xác và tâm hồn. Tâm hồn cao khiết, hướng Dục vọng trần tục, bản
thiện, Trong sạch năng, Âm u, đui mù
Đạo đức Tội lỗi
Phần người Phần con
à con người không chỉ sống bằng thân xác mà cũng không thể chỉ sống
bằng tinh thần. Hồn TB và xác anh hàng thịt là hai thực thể đối lập nhưng
không thể tồn tại riêng rẽ à bi kịch của Trương ba: rơi vào hoàn cảnh éo le:
phải sống chung thân xác.

* Ý nghĩa của đoạn đối thoại:


+ Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng lại là một cuộc sống đáng hổ
thẹn vì phải sống chung với sự dung tục và bị sự dung tục đồng hoá.
+ Tác giả cảnh báo: khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu sẽ bị
dung tục ngự trị, lấn át và sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý
trong con người
è Trương Ba rơi vào bi kịch bị tha hóa, đánh mất những phẩm chất
tốt đẹp của mình. TBa đau khổ, đấu tranh chống lại sự tầm thường thể
hiện ông là một con người có nhân cách cao đẹp, hướng thiện.

c. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với những người thân:
* Vợ Trương Ba:
- Buồn bã, đau khổ vì: "ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm
vườn ngày xưa" chăm chỉ, nhân hậu, yêu thương vợ con, quan tâm mọi người.
- Đòi bỏ đi, nhường Trương Ba cho vợ anh hàng thịt.
à vừa thương vừa hờn ghen, dằn dỗi chồng mình.
* Cháu gái Trương Ba: phản ứng quyết liệt và dữ dội
- Nó không thể chấp nhận con người đã làm "gãy tiệt cái chồi non", "giẫm lên
nát cả cây sâm quý mới ươm" trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó ghét vì
ông đã làm gãy nát cái diều khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ
tiếc, cứ bắt đền.
- Với nó, "Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy", “tôi không phải là
cháu ông”. Ông nội tôi chết rồi.
- Nó xua đuổi quyết liệt: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!".
à tâm hồn trẻ thơ không chấp nhận sự dung tục.
* Con dâu Trương Ba:
- Thấu hiểu, thương cảm cho hoàn cảnh trớ trêu của bố chồng: Chị biết ông
"khổ hơn xưa nhiều lắm".
- Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình khiến chị không thể chịu được:
"Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng
… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần…", xót xa, ngỡ ngàng bởi
không thấy được hình ảnh con người “hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy
chúng con xưa kia”
à Người chồng, người cha, người ông trong sạch, nhân hậu trước đây đã
và đang thành một kẻ khác, với những thói hư tật xấu của một tên đồ tể thô
lỗ, phàm tục.
 việc chọn các nhân vật khác nhau là để tạo nên một cái nhìn đa chiều về
3
nhân vật, thực chất là sự nhận thức về bản thân mình một cách nghiêm
khắc mà chí tình nhất.
è Trương Ba rơi vào bi kịch bị tha hóa và bị người thân xa lánh. Điều này
khiến bản thân T.Ba và người thân đều đau khổ, gia đình tan vỡ. Nên ông
không muốn tiếp tục tình cảnh bi kịch này nữa.
Liên hệ Chí Phèo,
Hamlet d. Trương Ba độc thoại nội tâm:
- Tâm trạng, cảm xúc của Trương Ba: đau khổ, tuyệt vọng khi vì ông mà tất
cả những người thân phải đau đớn, vì ông mà nhà cửa tan hoang. Bản thân
mình lại tha hóa, không làm chủ được thân xác.
- Ông thẫn thờ, ôm đầu bế tắc, run rẩy trong trong nỗi đau, nhận thấy:
"Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ…”- TB thừa
nhận sự thắng thế của thân xác, đồng nghĩa với việc đối mặt với sự tha hóa
của bản thân
- Đặt những câu hỏi mang tính tự vấn đầy trăn trở: “Nhưng lẽ nào tao chịu
thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình?”, “Nhưng có thật là không
còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác?”à tấn bi kịch của con
người ý thức được quyền sống chính đáng nhưng đang tự đánh mất mình mà
không thể làm gì được.
+ Khẳng định dứt khoát: “Không cần đến cái đời sống do mày mang lại!
Không cần!".à câu phủ định lặp lại thể hiện quyết tâm cao độ của Trương
Ba.
à Trương Ba cũng nhận thấy những thay đổi của mình nên đấu tranh quyết
liệt để giành giật lại bản thân mình, dẫn tới hành động châm hương gọi Đế
Thích.
è xung đột kịch được đẩy lên đỉnh điểm: lời độc thoại của hồn TB nhằm
nhấn mạnh sự đấu tranh giữa thể xác và tâm hồn để hoàn thiện nhân
cách. Đây là cuộc đấu tranh với chính mình để giữ tâm hồn thanh cao.

e. Cuộc trò chuyện giữa hồn Trương Ba với Đế Thích:


* Gặp lại Đế Thích, Trương Ba kiên quyết từ chối, không chấp nhận cảnh
phải sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là
bi kịch của con người tôi toàn vẹn…”
khi bị đặt vào nghịch - Lúc đầu, Đế Thích ngạc nhiên, nhưng khi hiểu ra thì khuyên Trương Ba nên
cảnh phải sống nhờ, chấp nhận vì thế giới vốn không tròn vẹn: “dưới đất, trên trời đều như thế
sống tạm và trái tự cả”
nhiên khiến tâm hồn - Nhưng Trương Ba không chấp nhận lẽ đó, thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế
nhân hậu, thanh cao bị Thích: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì
nhiễm độc và tha hóa ông chẳng cần biết!”
trước sự lấn át của thể * Đế Thích định tiếp tục sửa sai bằng giải pháp ít tệ hại hơn là cho hồn
xác thô lỗ, phàm tục; Trương Ba nhập vào xác cu Tị.
à vẻ đẹp tâm hồn - Hồn TB “lưỡng lự, suy nghĩ” nhưng cuối cùng kiên quyết chối từ, không
người lao động trong chấp nhận cảnh sống giả tạo, cuộc sống mà “khổ hơn là cái chết”, chỉ có lợi
cuộc đấu tranh chống cho đám chức sắc.
lại sự dung tục, bảo vệ à Quyết định dứt khoát, kịp thời xuất phát từ lòng nhân ái: quí mến cu Tị và
quyền được sống trọn xót thương tình cảnh mẹ cu Tị khi mất con, đồng thời Trương Ba cũng hình
vẹn, hài hòa giữa thể dung được bao nhiêu rắc rối khi nhập vào xác cu Tị. à Kết quả của những
xác và tâm hồn, cùng trải nghiệm thấm thía từ một đoạn đời bi hài hồn này xác nọ.
khát vọng hoàn thiện - Trương Ba kêu gọi Đế Thích hãy sửa sai bằng một việc làm đúng, đó là cho
nhân cách. cu Tị được sống lại, còn mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân
thể ai nữa. Đế Thích cuối cùng thuận theo lời đề nghị của Trương Ba.
à Cái chết của cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch tới chỗ “mở nút”.
Sự nhất quán giữa hành động với bản chất tự trọng, sáng suốt, nhân hậu
và có ý thức cao về ý nghĩa cuộc sống của nhân vật Trương Ba.

4
* Sự khác nhau trong quan niệm về sự sống giữa Trương Ba và Đế
Thích:
- Đế Thích có cái nhìn khá quan liêu, hời hợt.
- Trương Ba cần cuộc sống có ý nghĩa, phải đúng là mình, hoà hợp toàn vẹn
giữa linh hồn và thể xác.
* Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc qua
đoạn đối thoại này:
- Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có
So sánh với kết thúc một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi.
của dân gian: TB sống - Sống thực sự cho ra con người không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ,
trong thân xác hàng sống chắp vá, không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa, sẽ gây tai
thịt. họa cho nhiều người tốt, tạo cơ hội cho kẻ xấu sách nhiễu.
Dân gian đặt ra vấn đề
sống – chết, khát vọng 3. Kết thúc vở kịch: mang không khí ấm áp, toát lên niềm vui của sự đoàn tụ,
được sống lâu. tiếp nối.
LQV lại quan tâm vấn - Trương Ba chết, trả lại thân xác cho hàng thịt. Cu Tị sống lại. Vợ Trương Ba
đề sống như thế nào? nhớ thương chồng.
Ý nghĩa đích thực của - Vườn cây: rung rinh ánh sáng. à Không gian quen thuộc gắn với con người
sự sống. Trương Ba, tinh thần Trương Ba > nơi lưu dấu những hồi ức tươi đẹp về
Trương Ba trong lòng người thân vẫn được vun xới, để lại chan hòa, ấm áp.
+ Sự xuất hiện của Trương Ba:
- Qua lời văn: chập chờn xuất hiện > chỉ là cái bóng.
- Qua lời Trương Ba: “Tôi vẫn ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà
ta, trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, trong cái cơi bà đựng trầu,
con dao bà giẫy cỏ… Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn
cây nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái
nâng niu” > lời văn thấm đẫm cảm xúc, giàu chất thơ > chất trữ tình trong
kịch Lưu Quang Vũ.
- Qua đối thoại của cái Gái và cu Tị: cây na này ông nội tớ trồng đấy;
qua hành động vùi hạt na xuống đất: “Cho nó mọc thành những cây mới. Ông
nội tớ bảo vậy. Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn. Mãi mãi” -> hình ảnh
biểu tượng: đứa trẻ ngây thơ, trong trắng gieo trồng hạt giống mới biểu trưng
cho sự nối tiếp, sinh sôi bất tử của Hồn Trương Ba, vẻ đẹp Trương Ba – thanh
khiết, vẹn nguyên.
à Những lời nói, hành động của TB có ý nghĩa giáo dục các thế hệ mai sau.
Những điều tốt đẹp sẽ được tiếp nối qua các thế hệ.
>(Nghịch lí logic: Mặc dù giờ đây Hồn Trương Ba không có thân xác trú ngụ,
chỉ là bóng chập chờn mờ ảo, vô hình lại là lúc sự hiện diện của Trương Ba
nhiều nhất, thường trực nhất.)
à Kết thúc mang ý nghĩa triết lí nhân sinh sâu sắc:
-Cuộc sống lại tiếp diễn theo đúng qui luật muôn đời. Dù Trương Ba đã chết
nhưng vẫn sống trong tình yêu thương của mọi người, trong những giá trị tốt
đẹp. Cái chết hẳn về thể xác là sự hoàn nguyên kì diệu cho tâm hồn. Trương
Ba đang sống một cuộc sống khác: sự sống bất diệt trong trái tim những
người thân.
- Ý nghĩa sự sống nhiều khi không phải ở sự tồn tại sinh học mà ở chính sự
hiện diện của ta trong suy nghĩ, nỗi nhớ của những người thương yêu.
- Vẻ đẹp tâm hồn có đời sống dài lâu và bất tử so với thể xác. Tâm hồn cao
khiết của Trương Ba vẫn còn có mặt trong mỗi hoài niệm, mỗi cuộc đời đang
sống.

à kết thúc của vở kịch là sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp và cuộc
sống đích thực.
4. Ý nghĩa của vở kịch:

5
a) Ý nghĩa triết lí:
Qua đoạn trích và vở kịch, tác giả thể hiện những quan niệm có ý nghĩa
triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người
- Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống
trọn vẹn, hài hoà giữa thể xác và tâm hồn còn quý hơn. (tâm hồn trong sạch
trong một thân thể khỏe mạnh)
- Con người phải luôn luôn đấu tranh với nghịch cảnh, chống lại sự tầm
thường, dung tục để hoàn thiện nhân cách.
b) Kịch của Lưu Quang Vũ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính thời sự
và những vấn đề muôn thuở.
- Phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ:
+ Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm
thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển.
+ Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà
chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh
phúc toàn vẹn.
à Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán.
- Đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con
người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình.
Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.
- Phê phán tiêu cực của xã hội (qua những sai sót của thiên đình)

5. Nghệ thuật:
a) Tình huống, xung đột kịch:
- Tạo tình huống độc đáo, éo le, lôi cuốn: hồn người này, xác người kia à
góp phần thể hiện ý nghiã nhân văn của vở kịch
- Xây dựng và triển khai xung đột khéo léo, đề cập được nhiều vấn đề xã hội
và triết lí sâu sắc.
b) Nghệ thuật dựng cảnh: kết hợp yếu tố ảo và thực.
c) Nhân vật: độc đáo, có ý nghĩa biểu tượng
- Tính cách đa diện, phức tạp, sống động.
- Đời sống nội tâm phong phú
- Hành động, lời nói phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần phát triển
tình huống truyện.
d) Ngôn ngữ: bình dị, dân dã kết hợp thầm trầm, triết lí.
- Những đoạn đối thoại được xây dựng giàu kịch tính, đậm chất triết lí, tạo
chiều sâu cho vở kịch.
- Những đoạn độc thoại nội tâm góp phần thể hiện rõ tính cách nhân vật và
quan niệm về lẽ sống đúng đắn.
- Ngôn ngữ phù hợp tính cách nhân vật:
+ Trương Ba: nho nhã, thâm thúy
+ Xác hàng thịt: thô lỗ, tục tằn.

So sánh Trương Ba – Chí Phèo

You might also like