You are on page 1of 18

CHUYÊN ĐỀ 2: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Như chúng ta đã thấy tổng sản phẩm trong nước (GDP) của một nền kinh tế cùng một
lúc đo lường cả tổng thu nhập tạo ra trong nền kinh tế và tổng chi tiêu về hàng hóa và
dịch vụ của nền kinh tế ấy. GDP thực tế là một chỉ tiêu tốt phản ánh sự thịnh vượng kinh
tế và sự tăng trưởng của GDP thực tế là một thước đo tốt đối với sự tiến bộ kinh tế. Ở đây
chúng ta tập trung vào xem xét các nhân tố quyết định quy mô và sự tăng trưởng của
GDP thực tế trong dài hạn.
Cuộc thảo luận của chúng ta về tăng trưởng kinh tế được tiến hành theo trật tự sau.
Đầu tiên, chúng ta giới thiệu khái niệm về tăng trưởng kinh tế và giải thích tại sao tăng
trưởng nhanh và bền vững là mối quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia. Sau đó chúng ta
nghiên cứu các nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Phần cuối cùng
sẽ bàn đến các chính sách mà chính phủ có thể sử dụng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

I.Ý nghĩa của tăng trưởng kinh tế

Khi một nước có tăng trưởng kinh tế, thì dân cư trong nước nhìn chung sẽ có cuộc
sống sung túc hơn. Tăng trưởng kinh tế được định nghĩa là sự gia tăng mức sản xuất mà
nền kinh tế tạo ra theo thời gian.
Nhìn chung tăng trưởng kinh tế được tính bằng phần trăm thay đổi của mức sản lượng
quốc dân. Như chúng ta đã biết từ chương 2 GDP là thước đo được chấp nhận rộng rãi về
mức sản lượng của một nền kinh tế. Tất nhiên ở đây chúng ta nói đến GDP thực tế chứ
không phải GDP danh nghĩa, tức là chúng ta không tính đến sự biến động của giá cả theo
thời gian.

Thước đo trên có thể gây nhầm lẫn nếu như dân số các nước tăng rất nhanh trong khi
GDP thực tế lại tăng trưởng chậm. Một định nghĩa khác có thể thích hợp hơn về tăng
trưởng kinh tế tính theo mức sản lượng bình quân đầu ngừơi được tính bằng tổng sản
lượng hàng hóa và dịch vụ được tạo ra trong năm chia cho dân số. Do đó chúng ta đưa ra
chỉ tiêu đầy đủ nhất về tăng trưởng kinh tế, đó là phần trăm thay đổi của GDP thực tế
bình quân đầu người của thời kỳ nghiên cứu so với thời kỳ trước – thông thường tính cho
một năm.
1. Lợi ích của tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng và mức sống
Tăng trưởng nhanh và bền vững là mục tiêu hàng đầu đối với mọi quốc gia. Đặc biệt
đây là vấn đề sống còn đối với những nước đi sau, có xuất phát điểm thấp về kinh tế như
Việt Nam. Khi sản lượng tăng một cách tương đối so với dân số thì mức sống của người
dân sẽ cao hơn. Sản lượng thực tế được mở rộng có nghĩa là nhiều hàng hóa và dịch vụ
được tạo ra hơn và do đó có thể thoả mãn tốt hơn nhu cầu của các cá nhân trong xã hội.
Nếu mọi người được hưởng lợi từ tăng trưởng thì tăng trưởng chính là công cụ đắc lực để
giảm đói nghèo.
Hiện tại, theo Báo cáo Phát triển Con người của Liên Hiệp Quốc năm 2004 GDP bình
quân đầu người tính theo sự ngang bằng sức mua năm 2002 của Việt Nam là 2300 USD,
đứng thứ 124 trong số 177 nước có số liệu công bố. Mức thu nhập đó bằng khoản 9,6%
so với Xingapo; 13,6% so với Hàn Quốc, 32,8% so với Thái Lan, 50,2% so với Trung
Quốc3. Tuy nhiên, vị trí tương đối của các nước thường xuyên thay đổi tùy thuộc vào tốc
độ tăng trưởng kinh tế theo thời gian. Theo quy tắc 70, nếu một biến số tăng với tỷ lệ x
phần trăm một năm thì nó sẽ gấp đôi sau 70/x năm. Trong một nền kinh tế mà thu nhập
bình quân đầu người chỉ tăng 1 phần trăm hàng năm, thì phải mất 70 năm để mức sống
tăng gấp đôi; trong khi mức sống chỉ tăng gấp đôi sau có 10 năm nếu GDP bình quân đầu
người tăng có 7% mỗi năm. Do vậy chỉ có tăng trưởng nhanh hơn và bền vững hơn thì
chúng ta mới tránh được nguy cơ tụt hậu, giảm dần khoản cách về mức thu nhập so với
các nước phát triển hơn và sẽ sớm được xếp vào nhóm các nước có mức thu nhập trung
bình trong khu vực.

Tăng trưởng và phân phối lại thu nhập

Không phải mọi người đều được lợi như nhau từ tăng trưởng kinh tế. Nhiều dân nghèo
thậm chí không nằm trong lực lượng lao động và do đó không được nhận mức tiền lương
cao hơn. Tiền lương và lợi nhuận là những phương tiện chủ yếu để phân phối lợi ích từ
tăng trưởng. Vì lý
3
Theo Human Development Report 2004, GDP bình quân đầu người (PPP US$) của Việt Nam la 2300,
docủanày, ngay
Trung Quốc cả của
là 4580, trong nền
Thái Lan kinh
là 7010, tế Quốc
của Hàn đang có tăng
là 16950 trưởnglà chính
và của Singapore 24040 sách phân phối lại là cần
thiết nếu như nghèo đói vẫn là một vấn đề cần khắc phục.
Tỷ lệ tăng trưởng nhanh làm cho việc giảm nghèo đói trở nên dễ dàng hơn về mặt chính
trị. Nếu như thu nhập hiện tại cần được phân phối lại, mức sống của một số người cần
phải thấp hơn. Tuy nhiên, khi có tăng trưởng kinh tế và khi phần thu nhập gia tăng được
phân phối lại chúng ta vẫn có thể làm giảm bất bình đẳng mà không làm giảm thu nhập
của bất kỳ ai. Sẽ dễ dàng hơn nhiều cho một nền kinh tế tăng trưởng nhanh trở nên hào
phóng đối với các công dân kém may mắn hơn so với nền kinh tế không có tăng trưởng.
Tăng trưởng và lối sống
Các hộ gia đình thường nhận thấy là sự thay đổi lớn trong mức thu nhập có thể dẫn
đến sự thay đổi lớn trong hình mẫu tiêu dùng của họ - chi tiêu cho hàng thứ cấp giảm và
chi tiêu cho hàng xa xỉ tăng. Hoàn toàn tương tự các thành viên xã hội có thể thay đổi
hình mẫu tiêu dùng khi thu nhập trung bình của họ tăng lên. Không chỉ các thị trường
trong một nền kinh tế có tăng trưởng nhanh mang lại nhiều lợi nhuận để tái đầu tư mở
rộng sản xuất mà chính phủ cũng có nhiều nguồn thu và có thể xây dựng được nhiều
đường cao tốc hơn và tạo ra nhiều khu vui chơi giải trí cho các công nhân đã trở nên giàu
có hơn và cũng như đầu tư được nhiều hơn cho dân cư ở các vùng sâu, vùng xa. Tuy
nhiên, vào giai đoạn sau đó, mối quan tâm về môi trường, về an toàn xã hội trở nên quan
trọng hơn và chỉ tiêu cho chúng có thể chiếm một phần quan trọng trong GDP. Các khía
cạnh phản ánh chất lượng cuộc sống sẽ được xã hội đặc biệt quan tâm một khi tăng
trưởng đã đảm bảo thoả mãn các yêu cầu thiết yếu của dân cư về lương thực, thực phẩm,
quần áo và nhà ở.
2. Chi phí của tăng trưởng
Trong điều kiện cái khác không thay đổi, phần lớn chúng ta đều coi tăng trưởng nhanh
là đáng mong muốn hơn so với tăng trưởng chậm. Tuy nhiên, trong thực tế những cái
khác thường cũng thay đổi.
Chi phí cơ hội của tăng trưởng
Trong thế giới khan hiếm, hầu như không có cái gì là cho không cả. Tăng trưởng đòi
hỏi đầu tư nhiều nguồn lực hơn vào hàng hóa tư bản cũng như các hoạt động như giáo
dục. Các dự án đầu tư thường cần nhiều thời gian mới có thể đưa vào vận hành để tạo ra
sản phẩm đáp ứng nhu cầu về tiêu dùng của dân cư, do vậy chúng hàm ý rằng thế hệ
những người tiêu dùng hiện tại cần chấp nhận một sự hi sinh. Tăng trưởng đem lại nhiều
hàng hóa hơn trong tương lai bằng cách tiêu dùng ít hơn trong hiện tại. Đối với tổng thể
nền kinh tế, sự hy sinh tiêu dùng hiện tại là chi phí chủ yếu của tăng trưởng.
Một ví dụ để chúng ta có thể hình dung được quy mô của chi phí này. Giả sử một nền
kinh tế ban đầu ở trạng thái toàn dụng và đang tăng trưởng với tỷ lệ 2% một năm. Các
công dân của nó tiêu dùng 85% GDP và đầu tư 15%. Họ biết rằng nếu hiện tại họ giảm
tiêu dùng xuống 77% GDP, thì họ sẽ sản xuất được nhiều hàng hóa tư bản hơn và đưa tỷ
lệ tăng trưởng lên 3%. Tỷ lệ tăng trưởng mới sẽ được duy trì miễn là giữ được tỷ lệ tiết
kiệm và đầu tư ở mức 23% của GDP.
Chi phí xã hội và cá nhân của tăng trưởng kinh tế
Một nền kinh tế đang tăng trưởng là một nền kinh tế thay đổi. Quá trình đổi mới làm
cho nhiều máy móc bị trở nên lỗi thời và làm cho nhiều công nhân trở nên tụt hậu. Không
phụ thuộc vào các công nhân hiện tại 25 tuổi được đào tạo như thế nào, 25 năm sau nhiều
người trong số họ nhận thấy tay nghề của họ phần nào không đáp ứng được nhu cầu mới
của thị trường và có thể trở thành thất nghiệp cơ cấu. Để tăng trưởng nhanh, nền kinh tế
phải điều chỉnh nhanh phù hợp với môi trường thường xuyên thay đổi, điều này có thể
gây tổn thất cho những người chậm thích ứng.
Người ta thường lập luận những chi phí loại này là khá nhỏ so với lợi ích có được từ
tăng trưởng kinh tế. Ngay cả khi điều này là đúng với tổng thể nền kinh tế, thì những chi
phí này sẽ không được phân bổ đều giữa các cá nhân trong nền kinh tế. Một số cá nhân bị
mất việc làm là do vậy họ không được hưởng lợi ích do tăng trưởng kinh tế mang lại.
II. Tăng trưởng và đường giới hạn năng lực sản xuất
Chúng ta có thể mô tả tăng trưởng kinh tế bằng đồ thị thông qua việc sử dụng đường
giới hạn năng lực sản xuất. Hình 3.1 biểu diễn các đường giới hạn năng lực sản xuất cho
hai năm, ví dụ năm 1995 và năm 2000. Trục hoành biểu diễn sản lượng của ngành nông
nghiệp, còn trục tung biểu diễn sản lượng của ngành công nghiệp. Hình này hàm ý nền
kinh tế đã có tăng trưởng kinh tế giữa năm 1995 và năm 2000 bởi vì đường giới hạn năng
lực sản xuất của năm 2000 nằm bên ngoài đường giới hạn năng lực sản xuất của năm
1995. Sự dịch chuyển ra phía ngoài của đường giới hạn năng lực sản xuất phản ánh sự gia
tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế.

Hình 3.1 Tăng trưởng kinh tế

Sản lượng thực tế và sản lượng tiềm năng

Đường giới hạn năng lực sản xuất cho biết mức sản lượng tối đa mà nền kinh tế có thể
đạt được với các nguồn lực hiện có. Trên thực tế các nguồn lực có thể không được sử
dụng đầy đủ. Đường giới hạn năng lực sản xuất có thể dịch chuyển ra phía ngoài, nhưng
mức độ sử dụng các nguồn lực trên thực tế có thể thấp hơn mức sử dụng tối đa được mô
tả bằng đường giới hạn năng lực sản xuất. Hãy quan sát hình 3.2. Ở đây chúng ta biểu
diễn đường giới hạn năng lực sản xuất cho năm 1995 dịch chuyển ra phía ngoài giống
như hình 3.1.
Năm 1995 nền kinh tế bắt đầu tại điểm A, nhưng vào năm 2000 nền kinh tế chuyển tới
B với các nguồn lực không được sử dụng hết. Thậm chí nền kinh tế có thể có mức sản
lượng thực tế thấp hơn trong năm 2000 so với năm 1995 nếu như nền kinh tế chuyển tới
C. Như vậy thực chất đường giới hạn năng lực sản xuất của năm 2000 phản ánh mức sản
lượng tiềm năng được định nghĩa là mức sản lượng mà một nước có thể tạo ra nếu như
các nguồn lực được sử dụng đầy đủ, hay nói cách khác nó hoạt động trên đường giới hạn
năng lực sản xuất. Do đó, sản lượng thực tế nhìn chung không thể vượt quá mức tiềm
năng nhưng lại có thể thấp hơn. Trong dài hạn, sự thay đổi lượng tiềm năng có ý nghĩa
quyết định đối với tăng trưởng kinh tế, nhưng trong ngắn hạn sự thay đổi sản lượng thực
tế là quan trọng.

Hình 3.2 Sản lượng thực tế và sản lượng tiềm năng


Sản lượng tiềm năng tăng lên bằng cách tăng các nguồn lực trong nền kinh tế và đó là
một quá trình dài hạn. Do đó tăng trưởng kinh tế đơn giản đạt được bằng cách sử dụng
đầy đủ hơn các nguồn lực hiện có, nó sẽ khác cả về mặt chất và lượng so với tăng sản
lượng tiềm năng – đây chỉ là hiện tượng ngắn hạn. Loại tăng trưởng này có thể được coi
là kết quả của quá trình phục hồi kinh tế. Tăng trưởng kinh chỉ dựa trên phục hồi thì cuối
cùng sẽ chấm dứt khi các nguồn lực hiện có đã được sử dụng hết. Do đó cần phải phân
biệt giữa giai đoạn phục hồi kinh tế ngắn hạn (sử dụng đầy đủ hơn các nguồn lực hiện có)
với sự tăng trưởng sản lượng tiềm năng của một nước.
I. Các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế
Trong phần này chúng ta nghiên cứu một số lý thuyết mới giải thích tăng trưởng kinh
tế. Đây là một lĩnh vực rất thú vị. Những tư tưởng về tăng trưởng kinh tế đã thay đổi rất
nhanh khi nhiều nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm được thực hiện để mở mang thêm
sự hiểu biết của chúng ta. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu gợi ra bốn nhân tố quan
trọng nhất quyết định tăng trưởng kinh tế của một quốc gia bao gồm:
1. Sự tăng trưởng của lực lượng lao động xuất hiện do tăng dân số hay tăng tỷ lệ
tham gia lực lượng lao động
2. Đầu tư vào tư bản con người thông qua đào tạo hay tích lũy kinh nghiệm từ thực
tiễn công tác.
3. Đầu tư vào tư bản hiện vật như xây dựng nhà máy mới, mua sắm máy móc thiết bị
mới cũng như các phương tiện vận tải và viễn thông mới.
4. Sự đổi mới công nghệ tạo ra những sản phẩm mới, các phương pháp sản xuất mới,
và hình thức tổ chức kinh doanh mới.
1. Hàm sản xuất tổng thể
Để nghiên cứu ảnh hưởng của bốn nhân tố này đến tăng trưởng tế, chúng bắt đầu với
phương trình liên kết các yếu tố đầu vào: tổng lượng lao động (L) và tư bản (K) được sử
dụng và tổng sản lượng tạo ra của một nền kinh tế, Y:
Y = F(L,K)
Đây là hàm sản xuất tổng thể. Nó là tổng vì nó liên kết tổng sản lượng của nền kinh
tế,Y, với hai nhân tố sản xuất chủ yếu được sử dụng để tạo ra mức sản lượng đó. Hàm sản
xuất trong kinh tế vi mô liên kết sản lượng của một doanh nghiệp hoặc một ngành với các
nhân tố sản xuất được sử dụng bởi doanh nghiệp hoặc ngành đó. Hàm số được biểu diễn
bằng chữ F biểu thị mối liên kết giữa các đầu vào L và K và tổng sản lượng Y. Hàm sản
xuất cho chúng ta biết bao nhiêu sản lượng được tạo ra từ một số lượng lao động và tư
bản nhất định được sử dụng. Ví dụ hàm sản xuất này cho chúng ta biết khi có 20 triệu
đơn vị lao động và 30 triệu đơn vị tư bản được sử dụng, thì GDP của nền kinh tế sẽ là
245 triệu.
Bây giờ chúng ta có thể sử dụng hàm sản xuất tổng thể này để giới thiệu một số lý
thuyết về tăng trưởng kinh tế.
2. Lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển
Một nhóm các lý thuyết tân cổ điển giải thích tăng trưởng khi tri thức công nghệ chưa
thay đổi: không có các phát minh, sáng chế không có các sản phẩm mới và không có các
phương pháp sản xuất mới. Do đó, mối liên kết giữa đầu vào và đầu ra được biểu thị bằng
hàm suất không thay đổi. Điểm mấu chốt của lý thuyết tân cổ điển là hàm sản xuất tổng
thể biểu thị lợi ích giảm dần khi mỗi nhân tố sản xuất tăng lên, và lợi tức không đổi theo
quy mô khi cả hai nhân tố sản xuất tăng lên theo cùng một tỷ lệ.
Lợi tức giảm dần đối với mỗi nhân tố sản xuất
Bảng 3.1 Lợi tức giảm dần
Số ĐV Số đơn vị Số đơn vị Sản phẩm trung bình Sản phẩm cận
tư bản của lao động, biên của lao
lao động sản lượng
APL động, MPL

9 1 12 12 12

9 2 17 8.5 5

9 3 20.8 6.9 3.8

9 4 24 6 3.2

9 5 26.8 5.4 2.8

9 6 29.4 4.9 2.6

9 7 31.9 4.6 2.5

9 8 34 4.25 2.1

9 9 36 4 2

9 10 37.9 3.8 1.9

Chúng ta bắt đầu với giả thiết cho rằng dân số trong nước tăng lên trong khi khối
lượng tư bản không thay đổi. Ngày càng có nhiều công nhân sử dụng một khối lượng tư
bản không thay đổi. Khối lượng mà mỗi đơn vị đầu vào mới bổ sung vào tổng sản lượng
được gọi là sản phẩm cận biên. Quy luật lợi tức giảm dần cho chúng ta biết rằng bổ sung
thêm cùng một lượng lao động như nhau cuối cùng sẽ làm tăng tổng sản lượng ít hơn so
với những đơn vị lao động trước đó. Nói cách khác, sớm hay muộn, mỗi đơn vị lao động
bổ sung thêm sẽ phải đối mặt với việc sản phẩm cận biên của lao động giảm dần. Bảng 3-
1 và hình 3-3 minh họa lợi tức giảm dần đối với một nhân tố sản xuất.

Hình 3-3 Sản phẩm trung bình và sản phẩm cận biên của lao động
Quy luật lợi tức cận biên giảm dần áp dụng cho mỗi đầu vào thay đổi trong khi các đầu
vào khác được giữ không thay đổi. Như vậy bổ sung thêm cùng một lượng tư bản trong
khi cố định quy mô lực lượng lao động cuối cùng cũng sẽ làm tăng số lượng ngày càng ít.
Theo quy luật lợi tức giảm dần, mức tăng thêm của tổng sản lượng cuối cùng sẽ giảm
dần trước một sự gia tăng như nhau của một biến đầu vào trong điều kiện các nhân tố
sản xuất khác giữ nguyên không thay đổi.
Lợi tức không thay đổi theo qui mô
Một đặc tính quan trọng khác của hàm sản xuất tổng thể tân cổ điển là lợi tức không
thay đổi theo qui mô. Qui tắc này nói rằng nếu số lượng của cả hai nhân tố là lao động và
tư bản đều tăng lên theo cùng một tỷ lệ thì mức tăng thêm của tổng sản lượng cuối cùng
cũng tăng lên cùng tỷ lệ đó . Nếu lượng lao động và tư bản sử dụng tăng 10% thì GDP
cũng tăng 10%.
Các nguồn tăng trưởng kinh tế trong mô hình tân cổ điển
Bây giờ chúng ta xem xét từng nguồn tăng trưởng kinh tế đã đề cập ở trên.
Sự tăng trưởng của lực lượng lao động. Trong dài hạn chúng ta liên kết sự tăng trưởng
lực lượng lao động với sự tăng trưởng dân số (mặc dù trong ngắn hạn lực lượng lao động
có thể tăng lên do tỷ lệ tham gia lực lượng lao động tăng lên khi dân số không thay đổi).
Khi nhiều lao động được sử dụng hơn, sản lượng được tạo ra nhiều hơn và do vậy có sự
tăng trưởng của tổng sản lượng. Qui luật lợi tức giảm dần chỉ ra rằng sớm hay muộn mỗi
đơn vị lao động được bổ sung thêm sẽ làm tăng sẽ lượng ngày càng ít. Cuối cùng không
chỉ sản phẩm cận biên của lao động giảm mà sản phẩm trung bình của lao động (hay năng
suất lao động) cũng giảm. Vượt quá điểm đó mặc dù tổng sản lượng vẫn tăng, nhưng mức
sống được tính bằng sản lượng bình quân đầu người giảm. Nếu mối quan tâm của chúng
ta là nâng cao mức sống, thì sự gia tăng của GDP bình quân đầu người mới thực sự có ý
nghĩa. Bất kì khi nào qui luật lợi tức giảm dần phát huy tác dụng, bản thân việc tăng dân
số sẽ đi kèm với giảm mức sống.
Tư bản hữu hình. Bản thân việc tăng tư bản có ảnh hưởng đến GDP theo cách tương tự
như tăng trưởng dân số. Cuối cùng thì mỗi đơn vị tư bản bổ sung sẽ làm tăng tổng sản
lượng ít hơn so với đơn vị tư bản trước đó.
Tuy nhiên, có một sự khác biệt quan trọng so với trường hợp tăng trưởng lao động bởi
vì sản lượng bình quân đầu người chứ không phải sản lượng bình quân một đơn vị tư bản
quyết định mức sống. Như vậy, khi tư bản tăng lên, mức sống được nâng cao bởi vì sản
lượng tăng khi dân số không thay đổi. Thực ra sản lượng bình quân đầu người có thể tăng
lên bằng cách bổ sung thêm tư bản miễn là sản phẩm cận biên của tư bản lớn hơn không.
Tuy nhiên sự gia tăng sản lượng bị chi phối bởi qui luật lợi tức giảm dần, việc tiếp tục bổ
sung thêm tư bản trong nền kinh tế tạo ra mức sản lượng tăng thêm giảm dần.
Theo mô hình tân cổ điển, sự phát huy tác dụng của qui luật lợi tức giảm dần có nghĩa
là việc tích lũy tư bản sẽ làm tăng sản lượng ngày càng ít tính cho một đơn vị tư bản.
Tư bản con người hay còn gọi là vốn nhân lực. Khi nói đến tư bản, chúng ta thường
chỉ giới hạn ở tư bản hiện vật. Tuy nhiên một dạng khác của tư bản có vai trò hết sức
quan trọng đối với quá trình tăng trưởng kinh tế đó là tư bản con người. Tư bản con
người là thuật ngữ mà các nhà kinh tế sử dụng để chỉ những kiến thức và kĩ năng mà
người công nhân thu được thông qua giáo dục đào tạo và kinh nghiệm. Tư bản con người
bao gồm những kỹ năng tích lũy được từ thời kỳ học phổ thông cơ sở, phổ thông trung
học và các chương trình đào tạo nghề nghiệp cho các đối tượng lao động.
Mặc dù giáo dục, đào taọp kinh nghiệm công tác không dễ cảm nhận như máy móc,
thiết bị hay nhà xưởng, nhưng tư bản con người và tư bản hữu hình có nhiều điểm tương
đồng. Giống như tư bản hữu hình, tư bản con người làm tăng năng suất sản xuất hàng hóa
và dịch vụ của một quốc gia. Cũng như tư bản hữu hình, tư bản con người là nhân tố
được tạo ra bởi quá trình sản xuất. Việc tạo ra tư bản con người đòi hỏi các yếu tố đầu
vào như giáo viên, thư viện và thời gan học tập. Có thể coi sinh viên như những “công
nhân” có nhiệm vụ quan trọng là sản xuất ra tư bản con người nhằm phục vụ cho sản xuất
trong tương lai.
Tăng trưởng cân bằng. Bây giờ chúng ta xét điều gì xảy ra nếu cả tư bản và lao động
tăng lên theo cùng một tỷ lệ. Trong trường hợp này giả thiết tân cổ điển về lợi tức không
đổi theo quy mô cho rằng tổng sản lượng tăng lên theo cùng một tỷ lệ với các yếu tố đầu
vào. Do đó sản lượng bình quân đầu người không thay đổi. Như vậy dạng tăng trưởng
cân bằng này không ảnh hưởng đến mức sống. Mức sống hoàn toàn không thay đổi: khi
nền kinh tế càng lớn thì sử dụng càng nhiều tư bản và lao động hơn, tuy nhiên phương
thức kết hợp giữa tư bản và lao động không hề thay đổi.
Tăng trưởng và mức sống. Trong mô hình tân cổ điển này với công nghệ không thay
đổi, cách duy nhất để tăng mức sống chính là tăng trang bị tư bản cho một công nhân.
Tuy nhiên qui luật lợi tức giảm dần chỉ ra rằng sự gia tăng mức sống gây ra bởi sự gia
tăng tiếp tục như nhau của tư bản sẽ ngày càng giảm.
Số dư Solow
Năm 1975, R. Solow, người sau đó đã nhận được giải thưởng Nobel về kinh tế đã
quyết định xem xét số liệu để kiểm định mô hình mà chúng ta vừa thảo luận. Ông lấy số
liệu của Mỹ từ năm 1909 đến năm 1949, sử dụng các thước đo về lực lượng lao động,
tổng lượng tư bản và GDP để đưa vào hàm sản xuất tân cổ điển mà chúng ta vừa giới
thiệu trong phần trước. Ông có hai phát hiện quan trọng.
Thứ nhất, chỉ khoản một nữa trong tăng trưởng của GDP là do sự tăng trưởng của các
yếu tố đầu vào là lao động và tư bản. Thứ hai, không đến 20% của tăng trưởng GDP bình
quân đầu người được tính cho sự tăng trưởng của tư bản. Sự tăng trưởng của GDP không
được giải thích bởi sự gia tăng tư bản và lao động được gọi là số dư Solow. Nó được giả
thiết là gây ra do sự thay đổi kỹ thuật bắt nguồn từ đổi mới (mặc dù có ảnh hưởng khác
đến tư bản và lao động không được tổng hợp trong việc đo lường của Solow cũng có ảnh
hưởng quan trọng.
Trong mô hình tân cổ điển, sự thay đổi công nghệ có thể coi là sự dịch chuyển của
hàm sản xuất sao cho cùng một khối lượng lao động và tư bản tạo ra nhiều GDP hơn.
Sự thay đổi công nghệ
Tri thức và phát minh mới có thể đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng của GDP tiềm
năng. Để thấy được điều này, giả sử là tỷ lệ của các nguồn lực xã hội dành cho sản xuất
hàng hóa tư bản chỉ vừa đủ để thay thế tư bản đã hao mòn. Như vậy, nếu tư bản cũ đơn
giản chỉ được thay thế bằng tư bản mới cùng loại, thì lượng tư bản trong nền kinh tế cố
định, và sẽ không có sự gia tăng năng lực sản xuất. Tuy nhiên, nếu có sự tiến bộ công
nghệ khi máy cũ hư hỏng, nó có thể được thay thế bằng máy mới có năng suất cao hơn,
thu nhập quốc dân sẽ tăng. Lịch sử cho thấy vai trò to lớn của sự thay đổi kỹ thuật với
tăng trưởng kinh tế. Dây chuyền sản xuất và tự động hóa đã làm thay đổi bộ mặt của hầu
hết các ngành công nghiệp máy bay đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lĩnh vực vận tải,
và các thiết bị điện tử hiện nay đang thống trị trong ngành công nghiệp công nghệ thông
tin … Những phát minh này cộng với những thay đổi không nổi tiếng bằng nhưng không
kém phần quan trọng – như sự cải tiến tải trọng của thép, năng suất cây trồng, và kỹ thuật
khám phá các nguyên liệu thô cơ bản từ dưới lòng đất - tạo ra những cơ hội đầu tư mới.
Những thay đổi ít nổi bật hơn nhưng rất quan trọng không liên quan đến kỹ thuật mà
sự thay đổi trong tổ chức sản xuất, ví dụ như cải tiến kỹ thuật quản lý, thiết kế, tiếp thị…

Phần lớn phát minh liên quan đến cả sự thay đổi kỹ thuật và sự thay tổ chức sản xuất.
Chúng tạo ra sự thay đổi liên tục trong công nghệ sản xuất và trong bản chất của những
sản phẩm được tạo ra.
Hãy ngược trở lại thế kỷ trước, ta có thể thấy các doanh nghiệp sản xuất ít sản phẩm
giống như cách mà hiện nay chúng ta đang làm. Hiện nay đa số chúng được sản xuất và
tiêu dùng dưới hình thái mới và sản phẩm được cải tiến rất nhiều. Những phát minh chủ
yếu của thế kỷ 20 bao gồm việc chế tạo một sản phẩm quan trọng như điện thoại, thiết bị
bán dẫn, máy tính điện tử và động cơ đốt trong… Chúng ta thật khó hình dung nếu như
cuộc sống không có chúng.
Sự hiểu biết hiện đại rằng các phát minh công nghệ là hạt nhân của quá trình tăng
trưởng đã tạo ra hai sự phát triển quan trọng trong quan điẻm của các nhà kinh tế về tăng
trưởng. Sự phát triển thứ nhất là sự thay đổi công nghệ về cơ bản là nội sinh đối với nền
kinh tế. Hai là đầu tư làm tăng khối lượng tư bản có thể có lợi tức tăng lên chứ không
phải giảm dần. Quan điểm này đã đưa đến các lý thuyết tăng trưởng mới vượt ra khỏi lý
thuyết tân cổ điển.
2. Lý thuyết tăng trưởng nội sinh
Trong mô hình tân cổ điển, phát minh làm dịch chuyển hàm sản xuất nhưng bản thân
nó lại không được giải thích (nó được giả thiết được đo lường bằng số dư không được
giải thích - mức tăng trưởng không thể tính cho bất kỳ một nhân tố nào khác). Quan điểm
này cho rằng tiến bộ công nghệ là ngoại sinh. Nó có ảnh hưởng sâu sắc đến các biến kinh
tế như GDP, nhưng nó không bị ảnh hưởng bởi các nguyên nhân kinh tế.
Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu kinh tế vi mô của các học giả trong vài thập kỷ qua đã
phát hiện ra bằng sự thay đổi công nghệ phản ứng trước các tín hiệu kinh tế như giá cả và
lợi nhuận; nói một cách khác, nó được qui định nội sinh trong hệ thống kinh tế.
Sự thay đổi công nghệ bắt nguồn từ nghiên cứu và triển khai và từ các hoạt động cải
tiến tức là áp dụng tri thức mới vào các qui trình sản xuất hiện có. Các hoạt động hết sức
tốn kém và rủi ro này chủ yếu do các doanh nghiệp thực hiện và thông thường để theo
đuổi mục tiêu lợi nhuận. Không có gì đáng ngạc nhiên khi các hoạt động này phản ứng
trước các biện pháp khuyến khích kinh tế. Nếu giá cả của một loại đầu vào nào đó chẳng
hạn dầu mỏ hay lao động lành nghề tăng, các hoạt động nghiên cứu và triển khai và cải
tiến sẽ được thực hiện để thay đổi hàm sản xuất nhằm tiết kiệm các đầu vào này. Quá
trình này không phải là một sự thay thế các đầu vào rẻ hơn cho các đầu vào đắt hơn trong
phạm vi những công nghệ hiện có; trái lại , nó là sự phát minh ra công nghệ mới để phản
ứng trước sự thay đổi giá cả tương đối.
IV.Các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Bởi vì các nhà kinh tế không nhất trí về một lý thuyết tăng trưởng, do đó khi chính phủ
muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì các vấn của họ sẽ không đưa ra một chương trình
chính sách trọn gói giống nhau. Dưới đây là một số phương án phổ biến:
Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư
Vì tư bản là nhân tố sản xuất được sản xuất ra, cho nên xã hội có thể làm thay đổi khối
lượng tư bản của mình. Nếu hôm nay đất nước sản xuất ra nhiều hàng hóa đầu tư thì ngày
mai nó sẽ có nhiều tư bản hơn và có thể sản xuất ra nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn. Do
đó, một cách để nâng cao năng suất trong tương lai là đầu tư nguồn lực hiện có nhiều hơn
vào quá trình sản xuất hàng đầu tư.
Để thấy tầm quan trọng của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế, chúng ta hãy xem hình
3.1 hình này ghi số liệu của 15 nước trong giai đoạn 1960-1991. Phần (a) biểu diễn tỷ lệ
tăng trưởng từ cao đến thấp. Phần (b) biểu diễn tỷ lệ đầu tư so với GDP. Mối tương quan
giữa đầu tư và tăng trưởng dù không tuyệt đối, nhưng rõ ràng. Các nước có tỷ trọng đầu
tư trong GDP cao, như Xingapo và Nhật Bản, thường có tỷ lệ tăng trưởng cao. Các nước
có tỷ lệ đầu tư so với GDP thấp, như Ruanđa và Bănglađét, thường có tỷ lệ tăng trưởng
thấp. Những nghiên cứu dựa trên kết quả điều tra của nhiều nước hơn đều khẳng định
mối tương quan chặt chẽ đầu tư và tăng trưởng.

Hình 1. Tăng trưởng và đầu tư.


Phần (a) biểu thị tỷ lệ tăng trưởng của GDP đầu người ở 15 nước trong khoản thời gian
từ 1960 đến 1991. Phần (b) biểu thị tỷ lệ phần trăm của đầu tư so với GDP của mỗi nước
trong cùng kỳ.
Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích đầu tư. Một mặt, chính
phủ có thể trực tiếp tăng tổng đầu tư xã hội bằng cách dành một phần lớn hơn trong ngân
sách chi cho các dự án đầu tư công cộng như xây dựng đường xá, cầu cống, bến cảng hệ
thống thủy lợi,… Ngày càng có nhiều bằng chứng rằng đầu tư chính phủ vào cơ sở hạ
tầng có thể ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng chung, tức là nó dường như có lợi tức
xã hội rất cao. Mặt khác, chính phủ có thể khuyến khích đầu tư tư nhân thông qua việc
đảm bảo quyền sở hữu của các nhà đầu tư đảm bảo sự ổn định kinh tế và chính trị và tạo
ra các biện pháp kích thích như miễn và giảm thuế cho các dự án đầu tư.
Ngoài ra, chính phủ có thể khuyến khích đầu tư thông qua việc thực hiện các chính
sách khuyến khích tiết kiệm. Lô gíc ở đây hết sức đơn giản: tư bản được coi là một nhân
tố then chốt qui định tăng trưởng và tích lũy tư bản có thể phụ thuộc vào mức tiết kiệm.
Nếu các nguồn lực đã được sử dụng đầy đủ, tăng đầu tư đòi hỏi phải tiêu dùng. Do đó,
đầu tư tăng, hay tích lũy tư bản đòi hỏi phải tăng tiết kiệm đơn giản bởi vì tiết kiệm được
định nghĩa là phần thu nhập tạo ra không được tiêu dùng, và đầu tư có thể được định
nghĩa là việc tạo ra năng lực sản xuất tương lai. Nếu các cá nhân sẵn sàng không tiêu
dùng toàn bộ thu nhập tạo ra thì các doanh nghiệp sẽ nhận được các nguồn lực để thực
hiện các dự án đầu tư. Do đó chúng ta có thể tăng tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam một
cách đáng kể nếu như chúng ta có thể bằng cách nào đó khuyến khích dân cư tiết kiệm
nhiều hơn và sự gia tăng tiết kiệm này sẽ bổ sung cho việc sản xuất hàng hóa tư bản.
Tiết kiệm quốc dân bao gồm tiết kiệm tư nhân và tiết kiệm chính phủ. Do đó một cách
để các nhà hoạch định chính sách có thể thay đổi tỷ lệ tiết kiệm là tăng tiết kiệm chính
phủ - đảm bảo ngân sách có thặng dư chứ không phải thâm hụt. Các nhà hoạch định
chính sách cũng có thể đưa ra các chính sách ảnh hưởng đến các quyết định tiết kiệm của
khu vực tư nhân. Miễn thuế đối với các tài khoản tiết kiệm cá nhân, ổn định lạm phát và
đảm bảo lãi suất thực dương là những ví dụ về biện pháp được thiết kế để khuyến khích
tiết kiệm tư nhân.
Đầu tư từ nước ngoài
Trong một nền kinh tế đóng nguồn vốn duy nhất để thực hiện các dự án đầu tư là tiết
kiệm trong nước. Tất nhiên, trên thực tế, tăng trưởng trong một nền kinh tế đặc biệt có
thể diễn ra trong một bối cảnh quốc tế mà nó có thể ảnh hưởng mạnh đến quá trình tăng
trưởng. Một mặt, một nước có thể đi vay hoặc cho vay vốn với tư cách là một phần của
quá trình tăng trưởng của nó, và điều này sẽ làm thay đổi mối liên kết của tiết kiệm trong
nước, đầu tư trong nước và tăng trưởng. Mặt khác tăng trưởng sẽ liên kết với hình mẫu
thương mại quốc tế của một nước, và mức độ mà nó có thể nhập khẩu sự thay đổi công
nghệ xuất hiện trong các phần khác của thế giới. Khi đó , chúng ta cần tính đến các khía
cạnh tài chính thương mại trong một nền kinh tế mở. Trước hết, chúng ta sẽ bàn về vai
trò của các dòng vốn quốc tế đối với tăng trưởng kinh tế của một nền kinh tế mở.
Chúng ta đã biết rằng trong một nền kinh tế mở, đầu tư trong nước có thể được tài trợ
bằng tiết kiệm từ thế giới bên ngoài chứ không phải từ tiết kiệm trong nước. Có nhiều
cách chuyển vốn từ nước ngoài vào trong nước. Công ty Honda của Nhật Bản đã xây
dựng một nhà máy ở Vĩnh Phúc.Khoản đầu tư vào tư bản thuộc vào quyền sở hữu và
được điều hành bởi một thực tế nước ngoài gọi là đầu tư nước ngoài trực tiếp. Dạng khác
là người Nhật mua cổ phần của một công ty Việt Nam. Khoản đầu tư được tài trợ bằng
tiền nước ngoài, nhưng được cư dân trong nước điều hành gọi là đầu tư nước ngoài gián
tiếp. Trong cả hai trường hợp, người Nhật cung cấp nguồn lực cần thiết để tăng khối
lượng tư bản ở Việt Nam. Nghĩa là, tiết kiệm của Nhật Bản được dùng để tài trợ cho đầu
tư ở Việt Nam.
Khi người nước ngoài đầu tư vào một nước nào đó, họ hy vọng thu được lợi nhuận từ
khoản đầu tư. Công ty Honda của Nhật Bản làm tăng khối lượng tư bản của Việt Nam, do
vậy làm tăng năng suất và GDP của Việt Nam. Nhưng Honda lấy đi phần thu nhập tăng
thêm và chuyển về Nhật Bản dưới dạng lợi nhuận. Tương tự khi nhà đầu tư Nhật mua cổ
phiếu của Việt Nam, nhà đầu tư này có quyền hưởng một phần lợi nhuận mà công ty Việt
Nam kiếm được. Dù sao đi nữa đầu tư nước ngoài vẫn là một cách thúc đẩy tăng trưởng
của một nước. Mặt dù một phần ích lợi của khoản đầu tư này chảy ra nước ngoài, nhưng
nó thực sự làm tăng khối lượng tư bản của đất nước dẫn tới năng suất và tiền lương cao
hơn. Ngoài ra đầu tư nước ngoài là một cách để các nước nghèo trực tiếp học hỏi công
nghệ hiện đại của các nước giàu. Vì lý do đó nhiều nhà kinh tế làm tư vấn cho chính phủ
các nước chậm phát triển cổ vũ chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài. Điều này
thường đồng nghĩa với việc xóa bỏ các hạn chế của chính phủ đối với quyền sở hữu tư
bản trong nước của người nước ngoài.
Một tổ chức nổ lực khuyến khích luồng vốn đầu tư vào các nước nghèo là ngân hàng
thế giới. Tổ chức quốc tế này nhận vốn từ các nước tiên tiến rồi cho các nước nghèo vay
để xây dựng đường sá, hệ thống thoát nước, trường học và các hình thức tư bản khác.
Ngân hàng thế giới cũng tư vấn cho các nước nghèo rằng nên sử dụng nguồn vốn thế nào
cho hiệu quả nhất. Cùng với tổ chức sinh đôi của nó là quỹ tiền tệ quốc tế, ngân hàng thế
giới được thành lập từ sau thế chiến II. Một bài học rút ra từ cuộc chiến là nghèo đói
thường dẫn tới bất ổn chính trị, căng thẳng trong quan hệ quốc tế và xung đột vũ trang.
Do đó, tất cả các nước đều mong muốn có sự thịnh vượng kinh tế trên toàn thế giới. Ngân
hàng thế giới và quỹ tiền tệ quốc tế cùng hướng tới việc đạt được mục tiêu chung này.
Khuyến khích thương mại tự do
Một kênh mà nền kinh tế quốc tế có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng của một nước là
thông qua liên kết thương mại. Trong cuộc tranh luận từ những năm 1950 và 1960 về
chiến lược phát triển chở các nước nghèo và có mức thu nhập trung bình, các nhà phân
tích đã xác định hai hình mẫu đối lập nhau về phát triển: hướng ngoại trong đó một nước
mở cửa thị trường thế giới bên ngoài và thúc đẩy xuất khẩu, và hướng nội trong đó một
nước dựng lên các hàng rào thuế quan đối với thương mại quốc tế và tập trung phát triển
các ngành công nghiệp địa phương để thoả mãn thị trường trong nước. Chiến lược này
còn được gọi là mô hình phát triển thay thế nhập khẩu.
Bằng chứng thực nghiệm có xu hướng biểu diễn sự liên kết dương giữa sự cải thiện
năng suất và định hướng xuất khẩu.
Krueger đưa ra một lý do khác để giải thích thành tựu tốt hơn của các nền kinh tế
hướng ngoại. Theo bà, hướng ngoại khuyến khích các chính sách vĩ mô tốt hơn. Ví dụ,
khi một nước thực hiện chính sách chiến lược tăng trưởng hướng về xuất khẩu, các nhà
hoạch định chính sách của nó phải giữ tỷ giá ở mức sao cho xuất khẩu ở mức đó có thể
cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nếu điều này bị bỏ qua chính phủ có thể cần phải trợ
cấp để duy trì được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao, và biện pháp này có thể là quá
trình tốn kém đối với ngân sách. Trong trường hợp như vậy, các nhà hoạch định chính
sách sẽ rất thận trọng tránh để đồng nội tệ lên giá quá mức.
Nguyên nhân cuối cùng quan trọng cho sự liên kết giữa hướng ngoại và tăng trưởng
kinh tế là các nền kinh tế hướng ngoại có mức liên hệ chặt chẽ với các nhà sản xuất nước
ngoài và có thể thu hút tốt hơn các tiến bộ công nghệ tạo ra ở nước ngoài. Các nước đang
phát triển luôn đi sau các nước phát triển trong việc sử dụng các công nghệ mới và
chuyển giao công nghệ trên cơ sở mở cửa với thế giới bên ngoài có thể là một nguồn
quan trọng để tăng năng suất. Các nền kinh tế mở cửa về thương mại cũng có xu hướng là
các nền kinh tế tiếp cận được các tư tưởng mới và công nghệ mới đang sử dụng ở các
nước khác.
Phát triển giáo dục và đào tạo
Giáo dục, nghĩa là đầu tư vào bản thân con người, ít nhất cũng có vai trò quan trọng
như đầu tư vào tư bản hữu hình để đóng góp vào sự thành công về kinh tế trong dài hạn
của một nước. Tại các nước kém phát triển, nơi mà tư bản con người đặc biệt khan hiếm,
khoảng cách giữa tiền công của người có trình độ học vấn cao và ít học rất lớn. Do đó,
chính phủ có thể tăng mức sống bằng cách cải thiện điều kiện giáo dục và khuyến khích
người dân tham gia hệ thống này.
Đầu tư vào tư bản con người, giống như đầu tư vào tư bản hữu hình, có chi phí cơ hội.
Khi sinh viên ngồi trên ghế nhà trường, họ phải từ bỏ số tiền mà họ kiếm được nếu như
họ đi làm. Tại các nước kém phát triển, trẻ em thường bỏ học từ nhỏ, bất chấp lợi ích to
lớn từ việc đến trường, đơn giản là vì chúng phải lao động để giúp đỡ bố mẹ.
Một số nhà kinh tế lập luận rằng tư bản con người là đặc biệt quan trọng đối với tăng
trưởng kinh tế vì tư bản con người hàm chứa ngoại ứng tích cực. Một ngoại ứng là ảnh
hưởng của hành động của một cá nhân này đến phúc lợi của một cá nhân khác. Ví dụ,
một người được đào tạo tốt có thể đưa ra những ý tưởng làm thế nào sản xuất hàng hóa
và dịch vụ tốt nhất. Nếu những ý tưởng ấy trở thành tri thức của xã hội thì mọi người đều
có thể sử dụng, do đó chúng là những lợi ích mở rộng của giáo dục. Trong trường hợp
này, lợi ích từ việc đi học đối với xã hội lớn hơn lợi ích cá nhân. Lập luận này lý giải
những khoản trợ cấp to lớn cho đầu tư vào tư bản con người như chúng ta vẫn thấy dưới
hình thức giáp dục công lập.
Quyền sở hữu tài sản và sự ổn định chính trị
Các nhà hoạch định chính sách có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng cách bảo hộ
quyền sở hữu và tăng cường sự ổn định chính trị. Như chúng ta đã biết các nền kinh tế
hiện đại dựa trên sự phân công lao động ngày càng sâu sắc. Sự phối hợp hàng triệu doanh
ngiệp và người tiêu dùng chủ yếu được thực hiện thông qua giá cả thị trường: giá thị
trường là công cụ để bàn tay vô hình làm cho cung và cầu trên thị trường cân bằng.
Một tiêu đề quan trọng để hệ thống giá cả hoạt động là sự tôn trọng quyền sở hữu tài
sản trên bình diện toàn bộ nền kinh tế. Quyền sở hữu tài sản là khái niệm dược dùng để
chỉ khả năng của con người trong việc thực thi quyền của mình đối với những nguồn lực
mà họ sở hữu. Công ty khai thác mỏ không khai thác quặng nếu nó tin rằng sẽ được lợi
từ việc bán quặng đã khai thác. Vì lý do đó tòa án đóng vai trò quan trọng trong nền kinh
tế thị trường: nó làm cho quyền sở hữu có hiệu lực. Thông qua hệ thống luật hình sự, tòa
án ngăn cản những vụ trộm cắp trực tiếp. Ngoài ra, thông qua hệ thống luật dân sự, tòa án
bảo đảm người mua và người bán phải thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
Tại nhiều nước đang phát triển, hệ thống hệ thống pháp luật không mấy hiệu quả. Hợp
đồng khó thực hiện và lừu đảo thường không bị trừng phạt. Trong một số trường hợp cực
đoan, chính phủ không những không thực thi quyền sở hữu tài sản, mà trên thực tế còn
xâm phạm nó. Để hoạt động kinh doanh ở một số nước doanh nghiệp thường phải đút lót
các cơ quan chức chính phủ có quyền thế. Tệ nạn này làm giảm khả năng phối hợp của
thị trường. Nó cũng cản trở tiết kiệm trong nước và làm nản lòng các đầu tư nước ngoài.
Sự bất ổn chính trị cũng đe dọa các quyền sở hữu tài sản. Khi cách mạng và đảo chính
thường xuyên diễn ra, không ai biết trong tương lai quyền sở hữu tài sản có được tôn
trọng hay không nếu chính phủ cách mạng tịch thu tài sản của một số doanh nghiệp, thì
người dân sẽ mất động cơ tiết kiệm, đầu tư và thành lập doanh nghiệp mới. Đồng thời
người nước ngoài cũng không muốn đầu tư vào nền kinh tế trong nước nữa. Ngay cả mối
đe dọa của một cuộc cách mạng cũng có thể làm giảm mức sống của một nước.
Do đó, sự thịnh vượng về kinh tế một phần phụ thuộc vào sự thịnh vượng về chính trị.
Nước có hệ thống tòa án hữu hiệu, quan chức chính phủ thanh liêm và thể chế ổn định sẽ
được hưởng mức sống cao hơn so với nước có hệ thống tòa án yếu kém, quan chức tham
nhũng, thường xuyên bị bạo loạn và đảo chính đe dọa.
Thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và triển khai
Lý do căn bản để mức sống ngày hôm nay cao hơn những thập kỷ trước là tiến bộ
công nghệ. Mặc dù phần lớn các tiến bộ về công nghệ bắt nguồn từ các công ty và nhà
sáng chế độc lập, nhưng nhà nước cũng rất quan tâm đến việc thúc đẩy những nổ lực này.
Các chính sách nhằm khuyến khích tiến bộ công nghệ bao gồm miễn thuế, trợ cấp cho
hoạt động nghiên cứu và triển khai và chính phủ nên cấp vốn cho các hoạt động nghiên
cứu cơ bản.
Còn một cách khác mà chính phủ có thể sử dụng để khuyến khích hoạt động nghiên
cứu và triển khai là thông qua hệ thống bản quyền. Khi một cá nhân hay doanh nghiệp
sáng chế ra một sản phẩm mới, thì nhà sáng chế có thể đệ đơn xin cấp bằng sáng chế.
Nếu sản phẩm đó quả đúng là một sáng chế thực sự, chính phủ sẽ cấp bằng sáng chế và
nhà sáng chế có đặc quyền độc quyền chế tạo sản phẩm ấy trong một số năm nhất định.
Về bản chất, bằng sáng chế chứng nhận quyền sở hữu của người sáng chế đối với sản
phẩm của anh ta, biến ý tưởng mới của anh ta từ một hàng hóa công cộng sang một hàng
hóa tư nhân. Bằng cách cho phép nhà sáng chế thu được lợi nhuận từ sáng chế của mình
– dù chỉ tạm thời - hệ thống bằng sáng chế thúc đẩy động cơ khuyến khích cá nhân và
doanh nghiệp tham gia nghiên cứu.
Tóm tắt
 Tăng trưởng kinh tế thường được đo lường bằng tỷ lệ thay đổi của GDP thực tế
tiềm năng bình quân đầu người hay tính cho một giờ lao động. Ảnh hưởng tích tụ của sự
khác biệt trong tỷ lệ tăng trưởng mặc dù nhỏ sẽ trở thành lớn sau một thập kỷ hoặc
khoảng thời gian dài hơn.
 Lợi ích quan trọng nhất của tăng trưởng là sự đóng góp của nó đối với việc nâng
cao mức sống và thoát khỏi đói nghèo. Tăng trưởng cũng làm cho việc phân phối lại thu
nhập trở nên dễ dàng hơn giữa các cá nhân. Bên cạnh đó tăng trưởng cũng gây ra những
chi phí nhất định. Chi phí cơ hội của tăng trưởng kinh tế là việc chuyển nguồn lực từ tiêu
dùng hiện tại sang tích lũy tư bản. Đối với các cá nhân bị tụt hậu trong một thế giới thay
đổi rất nhanh, các chi phí sẽ lớn hơn và mang tính các nhân hơn.
 Mô hình tân cổ điển cho thấy lợi tức giảm dần khi chỉ một nhân tố sản xuất tăng
lên và hiệu suất không đổi khi mọi nhân tố sản xuất cùng tăng lên. Trong trường hợp tăng
trưởng cân bằng cả lao động tư bản và thu nhập quốc dân đều tăng theo cùng một tỷ lệ
và mức sống không hề thay đổi.
 Khi mô hình tân cổ điển được kiểm định bằng các số liệu thực tế, thì phần lớn tăng
trưởng của thu nhập quốc dân quan sát được không thể giải thích được bằng tăng trưởng
của tư bản và lao động. Tăng trưởng không được giải thích được gọi là số dư được quy
cho do tiến bộ công nghệ.
 Lý thuyết tăng trưởng hiện đại coi thay đổi công nghệ như là một biến nội sinh
phản ứng với các tín hiệu thị trường việc phổ biến công nghệ cũng là nội sinh. Đây là một
tốn kém và thường diễn ra với tốc độ khá chậm.
 Các chính sách của chính phủ có thể ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng của nền
kinh tế theo nhiều cách: khuyến khích tiết kiệm và đầu tư, khuyến khích đầu tư nước
ngoài, thúc đẩy giáo dục thực thi quyền sở hữu tài sản và đảm bảo sự ổn định chính trị,
cho phép tự do thương mại, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và hoạt động triển khai công
nghệ mới.
Câu hỏi ôn tập
1. Tỷ lệ tăng GDP phản ánh điều gì ? Bạn muốn sống ở một đất nước GDP cao với tỷ
lệ tăng trưởng thấp hay ở một đất nước có GDP thấp nhưng tỷ lệ tăng trưởng cao ?
2. Giải thích qui tắc 70.
3. Liệt kê và giải thích các nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế theo lý thuyết tân
cổ điển.
4. Hãy giải thích tại sao một mức tiết kiệm cao hơn lại dẫn tới mức sống cao hơn.
Điều gì có thể ngăn cản các nhà hoạch định chính sách cố gắng tăng tỷ lệ tiết kiệm ?
5. Tại sao việc xóa bỏ những hàng rào cản thương mại như thuế quan, hạn ngạch sẽ
dẫn tới tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn ?
6. Miêu tả các cách mà chính phủ có thể sử dụng để khuyến khích hoạt động nghiên
cứu và triển khai.

You might also like