Professional Documents
Culture Documents
CHUYÊN ĐỀ 2KINH TÊHOC
CHUYÊN ĐỀ 2KINH TÊHOC
Như chúng ta đã thấy tổng sản phẩm trong nước (GDP) của một nền kinh tế cùng một
lúc đo lường cả tổng thu nhập tạo ra trong nền kinh tế và tổng chi tiêu về hàng hóa và
dịch vụ của nền kinh tế ấy. GDP thực tế là một chỉ tiêu tốt phản ánh sự thịnh vượng kinh
tế và sự tăng trưởng của GDP thực tế là một thước đo tốt đối với sự tiến bộ kinh tế. Ở đây
chúng ta tập trung vào xem xét các nhân tố quyết định quy mô và sự tăng trưởng của
GDP thực tế trong dài hạn.
Cuộc thảo luận của chúng ta về tăng trưởng kinh tế được tiến hành theo trật tự sau.
Đầu tiên, chúng ta giới thiệu khái niệm về tăng trưởng kinh tế và giải thích tại sao tăng
trưởng nhanh và bền vững là mối quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia. Sau đó chúng ta
nghiên cứu các nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Phần cuối cùng
sẽ bàn đến các chính sách mà chính phủ có thể sử dụng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Khi một nước có tăng trưởng kinh tế, thì dân cư trong nước nhìn chung sẽ có cuộc
sống sung túc hơn. Tăng trưởng kinh tế được định nghĩa là sự gia tăng mức sản xuất mà
nền kinh tế tạo ra theo thời gian.
Nhìn chung tăng trưởng kinh tế được tính bằng phần trăm thay đổi của mức sản lượng
quốc dân. Như chúng ta đã biết từ chương 2 GDP là thước đo được chấp nhận rộng rãi về
mức sản lượng của một nền kinh tế. Tất nhiên ở đây chúng ta nói đến GDP thực tế chứ
không phải GDP danh nghĩa, tức là chúng ta không tính đến sự biến động của giá cả theo
thời gian.
Thước đo trên có thể gây nhầm lẫn nếu như dân số các nước tăng rất nhanh trong khi
GDP thực tế lại tăng trưởng chậm. Một định nghĩa khác có thể thích hợp hơn về tăng
trưởng kinh tế tính theo mức sản lượng bình quân đầu ngừơi được tính bằng tổng sản
lượng hàng hóa và dịch vụ được tạo ra trong năm chia cho dân số. Do đó chúng ta đưa ra
chỉ tiêu đầy đủ nhất về tăng trưởng kinh tế, đó là phần trăm thay đổi của GDP thực tế
bình quân đầu người của thời kỳ nghiên cứu so với thời kỳ trước – thông thường tính cho
một năm.
1. Lợi ích của tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng và mức sống
Tăng trưởng nhanh và bền vững là mục tiêu hàng đầu đối với mọi quốc gia. Đặc biệt
đây là vấn đề sống còn đối với những nước đi sau, có xuất phát điểm thấp về kinh tế như
Việt Nam. Khi sản lượng tăng một cách tương đối so với dân số thì mức sống của người
dân sẽ cao hơn. Sản lượng thực tế được mở rộng có nghĩa là nhiều hàng hóa và dịch vụ
được tạo ra hơn và do đó có thể thoả mãn tốt hơn nhu cầu của các cá nhân trong xã hội.
Nếu mọi người được hưởng lợi từ tăng trưởng thì tăng trưởng chính là công cụ đắc lực để
giảm đói nghèo.
Hiện tại, theo Báo cáo Phát triển Con người của Liên Hiệp Quốc năm 2004 GDP bình
quân đầu người tính theo sự ngang bằng sức mua năm 2002 của Việt Nam là 2300 USD,
đứng thứ 124 trong số 177 nước có số liệu công bố. Mức thu nhập đó bằng khoản 9,6%
so với Xingapo; 13,6% so với Hàn Quốc, 32,8% so với Thái Lan, 50,2% so với Trung
Quốc3. Tuy nhiên, vị trí tương đối của các nước thường xuyên thay đổi tùy thuộc vào tốc
độ tăng trưởng kinh tế theo thời gian. Theo quy tắc 70, nếu một biến số tăng với tỷ lệ x
phần trăm một năm thì nó sẽ gấp đôi sau 70/x năm. Trong một nền kinh tế mà thu nhập
bình quân đầu người chỉ tăng 1 phần trăm hàng năm, thì phải mất 70 năm để mức sống
tăng gấp đôi; trong khi mức sống chỉ tăng gấp đôi sau có 10 năm nếu GDP bình quân đầu
người tăng có 7% mỗi năm. Do vậy chỉ có tăng trưởng nhanh hơn và bền vững hơn thì
chúng ta mới tránh được nguy cơ tụt hậu, giảm dần khoản cách về mức thu nhập so với
các nước phát triển hơn và sẽ sớm được xếp vào nhóm các nước có mức thu nhập trung
bình trong khu vực.
Không phải mọi người đều được lợi như nhau từ tăng trưởng kinh tế. Nhiều dân nghèo
thậm chí không nằm trong lực lượng lao động và do đó không được nhận mức tiền lương
cao hơn. Tiền lương và lợi nhuận là những phương tiện chủ yếu để phân phối lợi ích từ
tăng trưởng. Vì lý
3
Theo Human Development Report 2004, GDP bình quân đầu người (PPP US$) của Việt Nam la 2300,
docủanày, ngay
Trung Quốc cả của
là 4580, trong nền
Thái Lan kinh
là 7010, tế Quốc
của Hàn đang có tăng
là 16950 trưởnglà chính
và của Singapore 24040 sách phân phối lại là cần
thiết nếu như nghèo đói vẫn là một vấn đề cần khắc phục.
Tỷ lệ tăng trưởng nhanh làm cho việc giảm nghèo đói trở nên dễ dàng hơn về mặt chính
trị. Nếu như thu nhập hiện tại cần được phân phối lại, mức sống của một số người cần
phải thấp hơn. Tuy nhiên, khi có tăng trưởng kinh tế và khi phần thu nhập gia tăng được
phân phối lại chúng ta vẫn có thể làm giảm bất bình đẳng mà không làm giảm thu nhập
của bất kỳ ai. Sẽ dễ dàng hơn nhiều cho một nền kinh tế tăng trưởng nhanh trở nên hào
phóng đối với các công dân kém may mắn hơn so với nền kinh tế không có tăng trưởng.
Tăng trưởng và lối sống
Các hộ gia đình thường nhận thấy là sự thay đổi lớn trong mức thu nhập có thể dẫn
đến sự thay đổi lớn trong hình mẫu tiêu dùng của họ - chi tiêu cho hàng thứ cấp giảm và
chi tiêu cho hàng xa xỉ tăng. Hoàn toàn tương tự các thành viên xã hội có thể thay đổi
hình mẫu tiêu dùng khi thu nhập trung bình của họ tăng lên. Không chỉ các thị trường
trong một nền kinh tế có tăng trưởng nhanh mang lại nhiều lợi nhuận để tái đầu tư mở
rộng sản xuất mà chính phủ cũng có nhiều nguồn thu và có thể xây dựng được nhiều
đường cao tốc hơn và tạo ra nhiều khu vui chơi giải trí cho các công nhân đã trở nên giàu
có hơn và cũng như đầu tư được nhiều hơn cho dân cư ở các vùng sâu, vùng xa. Tuy
nhiên, vào giai đoạn sau đó, mối quan tâm về môi trường, về an toàn xã hội trở nên quan
trọng hơn và chỉ tiêu cho chúng có thể chiếm một phần quan trọng trong GDP. Các khía
cạnh phản ánh chất lượng cuộc sống sẽ được xã hội đặc biệt quan tâm một khi tăng
trưởng đã đảm bảo thoả mãn các yêu cầu thiết yếu của dân cư về lương thực, thực phẩm,
quần áo và nhà ở.
2. Chi phí của tăng trưởng
Trong điều kiện cái khác không thay đổi, phần lớn chúng ta đều coi tăng trưởng nhanh
là đáng mong muốn hơn so với tăng trưởng chậm. Tuy nhiên, trong thực tế những cái
khác thường cũng thay đổi.
Chi phí cơ hội của tăng trưởng
Trong thế giới khan hiếm, hầu như không có cái gì là cho không cả. Tăng trưởng đòi
hỏi đầu tư nhiều nguồn lực hơn vào hàng hóa tư bản cũng như các hoạt động như giáo
dục. Các dự án đầu tư thường cần nhiều thời gian mới có thể đưa vào vận hành để tạo ra
sản phẩm đáp ứng nhu cầu về tiêu dùng của dân cư, do vậy chúng hàm ý rằng thế hệ
những người tiêu dùng hiện tại cần chấp nhận một sự hi sinh. Tăng trưởng đem lại nhiều
hàng hóa hơn trong tương lai bằng cách tiêu dùng ít hơn trong hiện tại. Đối với tổng thể
nền kinh tế, sự hy sinh tiêu dùng hiện tại là chi phí chủ yếu của tăng trưởng.
Một ví dụ để chúng ta có thể hình dung được quy mô của chi phí này. Giả sử một nền
kinh tế ban đầu ở trạng thái toàn dụng và đang tăng trưởng với tỷ lệ 2% một năm. Các
công dân của nó tiêu dùng 85% GDP và đầu tư 15%. Họ biết rằng nếu hiện tại họ giảm
tiêu dùng xuống 77% GDP, thì họ sẽ sản xuất được nhiều hàng hóa tư bản hơn và đưa tỷ
lệ tăng trưởng lên 3%. Tỷ lệ tăng trưởng mới sẽ được duy trì miễn là giữ được tỷ lệ tiết
kiệm và đầu tư ở mức 23% của GDP.
Chi phí xã hội và cá nhân của tăng trưởng kinh tế
Một nền kinh tế đang tăng trưởng là một nền kinh tế thay đổi. Quá trình đổi mới làm
cho nhiều máy móc bị trở nên lỗi thời và làm cho nhiều công nhân trở nên tụt hậu. Không
phụ thuộc vào các công nhân hiện tại 25 tuổi được đào tạo như thế nào, 25 năm sau nhiều
người trong số họ nhận thấy tay nghề của họ phần nào không đáp ứng được nhu cầu mới
của thị trường và có thể trở thành thất nghiệp cơ cấu. Để tăng trưởng nhanh, nền kinh tế
phải điều chỉnh nhanh phù hợp với môi trường thường xuyên thay đổi, điều này có thể
gây tổn thất cho những người chậm thích ứng.
Người ta thường lập luận những chi phí loại này là khá nhỏ so với lợi ích có được từ
tăng trưởng kinh tế. Ngay cả khi điều này là đúng với tổng thể nền kinh tế, thì những chi
phí này sẽ không được phân bổ đều giữa các cá nhân trong nền kinh tế. Một số cá nhân bị
mất việc làm là do vậy họ không được hưởng lợi ích do tăng trưởng kinh tế mang lại.
II. Tăng trưởng và đường giới hạn năng lực sản xuất
Chúng ta có thể mô tả tăng trưởng kinh tế bằng đồ thị thông qua việc sử dụng đường
giới hạn năng lực sản xuất. Hình 3.1 biểu diễn các đường giới hạn năng lực sản xuất cho
hai năm, ví dụ năm 1995 và năm 2000. Trục hoành biểu diễn sản lượng của ngành nông
nghiệp, còn trục tung biểu diễn sản lượng của ngành công nghiệp. Hình này hàm ý nền
kinh tế đã có tăng trưởng kinh tế giữa năm 1995 và năm 2000 bởi vì đường giới hạn năng
lực sản xuất của năm 2000 nằm bên ngoài đường giới hạn năng lực sản xuất của năm
1995. Sự dịch chuyển ra phía ngoài của đường giới hạn năng lực sản xuất phản ánh sự gia
tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế.
Đường giới hạn năng lực sản xuất cho biết mức sản lượng tối đa mà nền kinh tế có thể
đạt được với các nguồn lực hiện có. Trên thực tế các nguồn lực có thể không được sử
dụng đầy đủ. Đường giới hạn năng lực sản xuất có thể dịch chuyển ra phía ngoài, nhưng
mức độ sử dụng các nguồn lực trên thực tế có thể thấp hơn mức sử dụng tối đa được mô
tả bằng đường giới hạn năng lực sản xuất. Hãy quan sát hình 3.2. Ở đây chúng ta biểu
diễn đường giới hạn năng lực sản xuất cho năm 1995 dịch chuyển ra phía ngoài giống
như hình 3.1.
Năm 1995 nền kinh tế bắt đầu tại điểm A, nhưng vào năm 2000 nền kinh tế chuyển tới
B với các nguồn lực không được sử dụng hết. Thậm chí nền kinh tế có thể có mức sản
lượng thực tế thấp hơn trong năm 2000 so với năm 1995 nếu như nền kinh tế chuyển tới
C. Như vậy thực chất đường giới hạn năng lực sản xuất của năm 2000 phản ánh mức sản
lượng tiềm năng được định nghĩa là mức sản lượng mà một nước có thể tạo ra nếu như
các nguồn lực được sử dụng đầy đủ, hay nói cách khác nó hoạt động trên đường giới hạn
năng lực sản xuất. Do đó, sản lượng thực tế nhìn chung không thể vượt quá mức tiềm
năng nhưng lại có thể thấp hơn. Trong dài hạn, sự thay đổi lượng tiềm năng có ý nghĩa
quyết định đối với tăng trưởng kinh tế, nhưng trong ngắn hạn sự thay đổi sản lượng thực
tế là quan trọng.
9 1 12 12 12
9 2 17 8.5 5
9 4 24 6 3.2
9 8 34 4.25 2.1
9 9 36 4 2
Chúng ta bắt đầu với giả thiết cho rằng dân số trong nước tăng lên trong khi khối
lượng tư bản không thay đổi. Ngày càng có nhiều công nhân sử dụng một khối lượng tư
bản không thay đổi. Khối lượng mà mỗi đơn vị đầu vào mới bổ sung vào tổng sản lượng
được gọi là sản phẩm cận biên. Quy luật lợi tức giảm dần cho chúng ta biết rằng bổ sung
thêm cùng một lượng lao động như nhau cuối cùng sẽ làm tăng tổng sản lượng ít hơn so
với những đơn vị lao động trước đó. Nói cách khác, sớm hay muộn, mỗi đơn vị lao động
bổ sung thêm sẽ phải đối mặt với việc sản phẩm cận biên của lao động giảm dần. Bảng 3-
1 và hình 3-3 minh họa lợi tức giảm dần đối với một nhân tố sản xuất.
Hình 3-3 Sản phẩm trung bình và sản phẩm cận biên của lao động
Quy luật lợi tức cận biên giảm dần áp dụng cho mỗi đầu vào thay đổi trong khi các đầu
vào khác được giữ không thay đổi. Như vậy bổ sung thêm cùng một lượng tư bản trong
khi cố định quy mô lực lượng lao động cuối cùng cũng sẽ làm tăng số lượng ngày càng ít.
Theo quy luật lợi tức giảm dần, mức tăng thêm của tổng sản lượng cuối cùng sẽ giảm
dần trước một sự gia tăng như nhau của một biến đầu vào trong điều kiện các nhân tố
sản xuất khác giữ nguyên không thay đổi.
Lợi tức không thay đổi theo qui mô
Một đặc tính quan trọng khác của hàm sản xuất tổng thể tân cổ điển là lợi tức không
thay đổi theo qui mô. Qui tắc này nói rằng nếu số lượng của cả hai nhân tố là lao động và
tư bản đều tăng lên theo cùng một tỷ lệ thì mức tăng thêm của tổng sản lượng cuối cùng
cũng tăng lên cùng tỷ lệ đó . Nếu lượng lao động và tư bản sử dụng tăng 10% thì GDP
cũng tăng 10%.
Các nguồn tăng trưởng kinh tế trong mô hình tân cổ điển
Bây giờ chúng ta xem xét từng nguồn tăng trưởng kinh tế đã đề cập ở trên.
Sự tăng trưởng của lực lượng lao động. Trong dài hạn chúng ta liên kết sự tăng trưởng
lực lượng lao động với sự tăng trưởng dân số (mặc dù trong ngắn hạn lực lượng lao động
có thể tăng lên do tỷ lệ tham gia lực lượng lao động tăng lên khi dân số không thay đổi).
Khi nhiều lao động được sử dụng hơn, sản lượng được tạo ra nhiều hơn và do vậy có sự
tăng trưởng của tổng sản lượng. Qui luật lợi tức giảm dần chỉ ra rằng sớm hay muộn mỗi
đơn vị lao động được bổ sung thêm sẽ làm tăng sẽ lượng ngày càng ít. Cuối cùng không
chỉ sản phẩm cận biên của lao động giảm mà sản phẩm trung bình của lao động (hay năng
suất lao động) cũng giảm. Vượt quá điểm đó mặc dù tổng sản lượng vẫn tăng, nhưng mức
sống được tính bằng sản lượng bình quân đầu người giảm. Nếu mối quan tâm của chúng
ta là nâng cao mức sống, thì sự gia tăng của GDP bình quân đầu người mới thực sự có ý
nghĩa. Bất kì khi nào qui luật lợi tức giảm dần phát huy tác dụng, bản thân việc tăng dân
số sẽ đi kèm với giảm mức sống.
Tư bản hữu hình. Bản thân việc tăng tư bản có ảnh hưởng đến GDP theo cách tương tự
như tăng trưởng dân số. Cuối cùng thì mỗi đơn vị tư bản bổ sung sẽ làm tăng tổng sản
lượng ít hơn so với đơn vị tư bản trước đó.
Tuy nhiên, có một sự khác biệt quan trọng so với trường hợp tăng trưởng lao động bởi
vì sản lượng bình quân đầu người chứ không phải sản lượng bình quân một đơn vị tư bản
quyết định mức sống. Như vậy, khi tư bản tăng lên, mức sống được nâng cao bởi vì sản
lượng tăng khi dân số không thay đổi. Thực ra sản lượng bình quân đầu người có thể tăng
lên bằng cách bổ sung thêm tư bản miễn là sản phẩm cận biên của tư bản lớn hơn không.
Tuy nhiên sự gia tăng sản lượng bị chi phối bởi qui luật lợi tức giảm dần, việc tiếp tục bổ
sung thêm tư bản trong nền kinh tế tạo ra mức sản lượng tăng thêm giảm dần.
Theo mô hình tân cổ điển, sự phát huy tác dụng của qui luật lợi tức giảm dần có nghĩa
là việc tích lũy tư bản sẽ làm tăng sản lượng ngày càng ít tính cho một đơn vị tư bản.
Tư bản con người hay còn gọi là vốn nhân lực. Khi nói đến tư bản, chúng ta thường
chỉ giới hạn ở tư bản hiện vật. Tuy nhiên một dạng khác của tư bản có vai trò hết sức
quan trọng đối với quá trình tăng trưởng kinh tế đó là tư bản con người. Tư bản con
người là thuật ngữ mà các nhà kinh tế sử dụng để chỉ những kiến thức và kĩ năng mà
người công nhân thu được thông qua giáo dục đào tạo và kinh nghiệm. Tư bản con người
bao gồm những kỹ năng tích lũy được từ thời kỳ học phổ thông cơ sở, phổ thông trung
học và các chương trình đào tạo nghề nghiệp cho các đối tượng lao động.
Mặc dù giáo dục, đào taọp kinh nghiệm công tác không dễ cảm nhận như máy móc,
thiết bị hay nhà xưởng, nhưng tư bản con người và tư bản hữu hình có nhiều điểm tương
đồng. Giống như tư bản hữu hình, tư bản con người làm tăng năng suất sản xuất hàng hóa
và dịch vụ của một quốc gia. Cũng như tư bản hữu hình, tư bản con người là nhân tố
được tạo ra bởi quá trình sản xuất. Việc tạo ra tư bản con người đòi hỏi các yếu tố đầu
vào như giáo viên, thư viện và thời gan học tập. Có thể coi sinh viên như những “công
nhân” có nhiệm vụ quan trọng là sản xuất ra tư bản con người nhằm phục vụ cho sản xuất
trong tương lai.
Tăng trưởng cân bằng. Bây giờ chúng ta xét điều gì xảy ra nếu cả tư bản và lao động
tăng lên theo cùng một tỷ lệ. Trong trường hợp này giả thiết tân cổ điển về lợi tức không
đổi theo quy mô cho rằng tổng sản lượng tăng lên theo cùng một tỷ lệ với các yếu tố đầu
vào. Do đó sản lượng bình quân đầu người không thay đổi. Như vậy dạng tăng trưởng
cân bằng này không ảnh hưởng đến mức sống. Mức sống hoàn toàn không thay đổi: khi
nền kinh tế càng lớn thì sử dụng càng nhiều tư bản và lao động hơn, tuy nhiên phương
thức kết hợp giữa tư bản và lao động không hề thay đổi.
Tăng trưởng và mức sống. Trong mô hình tân cổ điển này với công nghệ không thay
đổi, cách duy nhất để tăng mức sống chính là tăng trang bị tư bản cho một công nhân.
Tuy nhiên qui luật lợi tức giảm dần chỉ ra rằng sự gia tăng mức sống gây ra bởi sự gia
tăng tiếp tục như nhau của tư bản sẽ ngày càng giảm.
Số dư Solow
Năm 1975, R. Solow, người sau đó đã nhận được giải thưởng Nobel về kinh tế đã
quyết định xem xét số liệu để kiểm định mô hình mà chúng ta vừa thảo luận. Ông lấy số
liệu của Mỹ từ năm 1909 đến năm 1949, sử dụng các thước đo về lực lượng lao động,
tổng lượng tư bản và GDP để đưa vào hàm sản xuất tân cổ điển mà chúng ta vừa giới
thiệu trong phần trước. Ông có hai phát hiện quan trọng.
Thứ nhất, chỉ khoản một nữa trong tăng trưởng của GDP là do sự tăng trưởng của các
yếu tố đầu vào là lao động và tư bản. Thứ hai, không đến 20% của tăng trưởng GDP bình
quân đầu người được tính cho sự tăng trưởng của tư bản. Sự tăng trưởng của GDP không
được giải thích bởi sự gia tăng tư bản và lao động được gọi là số dư Solow. Nó được giả
thiết là gây ra do sự thay đổi kỹ thuật bắt nguồn từ đổi mới (mặc dù có ảnh hưởng khác
đến tư bản và lao động không được tổng hợp trong việc đo lường của Solow cũng có ảnh
hưởng quan trọng.
Trong mô hình tân cổ điển, sự thay đổi công nghệ có thể coi là sự dịch chuyển của
hàm sản xuất sao cho cùng một khối lượng lao động và tư bản tạo ra nhiều GDP hơn.
Sự thay đổi công nghệ
Tri thức và phát minh mới có thể đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng của GDP tiềm
năng. Để thấy được điều này, giả sử là tỷ lệ của các nguồn lực xã hội dành cho sản xuất
hàng hóa tư bản chỉ vừa đủ để thay thế tư bản đã hao mòn. Như vậy, nếu tư bản cũ đơn
giản chỉ được thay thế bằng tư bản mới cùng loại, thì lượng tư bản trong nền kinh tế cố
định, và sẽ không có sự gia tăng năng lực sản xuất. Tuy nhiên, nếu có sự tiến bộ công
nghệ khi máy cũ hư hỏng, nó có thể được thay thế bằng máy mới có năng suất cao hơn,
thu nhập quốc dân sẽ tăng. Lịch sử cho thấy vai trò to lớn của sự thay đổi kỹ thuật với
tăng trưởng kinh tế. Dây chuyền sản xuất và tự động hóa đã làm thay đổi bộ mặt của hầu
hết các ngành công nghiệp máy bay đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lĩnh vực vận tải,
và các thiết bị điện tử hiện nay đang thống trị trong ngành công nghiệp công nghệ thông
tin … Những phát minh này cộng với những thay đổi không nổi tiếng bằng nhưng không
kém phần quan trọng – như sự cải tiến tải trọng của thép, năng suất cây trồng, và kỹ thuật
khám phá các nguyên liệu thô cơ bản từ dưới lòng đất - tạo ra những cơ hội đầu tư mới.
Những thay đổi ít nổi bật hơn nhưng rất quan trọng không liên quan đến kỹ thuật mà
sự thay đổi trong tổ chức sản xuất, ví dụ như cải tiến kỹ thuật quản lý, thiết kế, tiếp thị…
Phần lớn phát minh liên quan đến cả sự thay đổi kỹ thuật và sự thay tổ chức sản xuất.
Chúng tạo ra sự thay đổi liên tục trong công nghệ sản xuất và trong bản chất của những
sản phẩm được tạo ra.
Hãy ngược trở lại thế kỷ trước, ta có thể thấy các doanh nghiệp sản xuất ít sản phẩm
giống như cách mà hiện nay chúng ta đang làm. Hiện nay đa số chúng được sản xuất và
tiêu dùng dưới hình thái mới và sản phẩm được cải tiến rất nhiều. Những phát minh chủ
yếu của thế kỷ 20 bao gồm việc chế tạo một sản phẩm quan trọng như điện thoại, thiết bị
bán dẫn, máy tính điện tử và động cơ đốt trong… Chúng ta thật khó hình dung nếu như
cuộc sống không có chúng.
Sự hiểu biết hiện đại rằng các phát minh công nghệ là hạt nhân của quá trình tăng
trưởng đã tạo ra hai sự phát triển quan trọng trong quan điẻm của các nhà kinh tế về tăng
trưởng. Sự phát triển thứ nhất là sự thay đổi công nghệ về cơ bản là nội sinh đối với nền
kinh tế. Hai là đầu tư làm tăng khối lượng tư bản có thể có lợi tức tăng lên chứ không
phải giảm dần. Quan điểm này đã đưa đến các lý thuyết tăng trưởng mới vượt ra khỏi lý
thuyết tân cổ điển.
2. Lý thuyết tăng trưởng nội sinh
Trong mô hình tân cổ điển, phát minh làm dịch chuyển hàm sản xuất nhưng bản thân
nó lại không được giải thích (nó được giả thiết được đo lường bằng số dư không được
giải thích - mức tăng trưởng không thể tính cho bất kỳ một nhân tố nào khác). Quan điểm
này cho rằng tiến bộ công nghệ là ngoại sinh. Nó có ảnh hưởng sâu sắc đến các biến kinh
tế như GDP, nhưng nó không bị ảnh hưởng bởi các nguyên nhân kinh tế.
Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu kinh tế vi mô của các học giả trong vài thập kỷ qua đã
phát hiện ra bằng sự thay đổi công nghệ phản ứng trước các tín hiệu kinh tế như giá cả và
lợi nhuận; nói một cách khác, nó được qui định nội sinh trong hệ thống kinh tế.
Sự thay đổi công nghệ bắt nguồn từ nghiên cứu và triển khai và từ các hoạt động cải
tiến tức là áp dụng tri thức mới vào các qui trình sản xuất hiện có. Các hoạt động hết sức
tốn kém và rủi ro này chủ yếu do các doanh nghiệp thực hiện và thông thường để theo
đuổi mục tiêu lợi nhuận. Không có gì đáng ngạc nhiên khi các hoạt động này phản ứng
trước các biện pháp khuyến khích kinh tế. Nếu giá cả của một loại đầu vào nào đó chẳng
hạn dầu mỏ hay lao động lành nghề tăng, các hoạt động nghiên cứu và triển khai và cải
tiến sẽ được thực hiện để thay đổi hàm sản xuất nhằm tiết kiệm các đầu vào này. Quá
trình này không phải là một sự thay thế các đầu vào rẻ hơn cho các đầu vào đắt hơn trong
phạm vi những công nghệ hiện có; trái lại , nó là sự phát minh ra công nghệ mới để phản
ứng trước sự thay đổi giá cả tương đối.
IV.Các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Bởi vì các nhà kinh tế không nhất trí về một lý thuyết tăng trưởng, do đó khi chính phủ
muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì các vấn của họ sẽ không đưa ra một chương trình
chính sách trọn gói giống nhau. Dưới đây là một số phương án phổ biến:
Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư
Vì tư bản là nhân tố sản xuất được sản xuất ra, cho nên xã hội có thể làm thay đổi khối
lượng tư bản của mình. Nếu hôm nay đất nước sản xuất ra nhiều hàng hóa đầu tư thì ngày
mai nó sẽ có nhiều tư bản hơn và có thể sản xuất ra nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn. Do
đó, một cách để nâng cao năng suất trong tương lai là đầu tư nguồn lực hiện có nhiều hơn
vào quá trình sản xuất hàng đầu tư.
Để thấy tầm quan trọng của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế, chúng ta hãy xem hình
3.1 hình này ghi số liệu của 15 nước trong giai đoạn 1960-1991. Phần (a) biểu diễn tỷ lệ
tăng trưởng từ cao đến thấp. Phần (b) biểu diễn tỷ lệ đầu tư so với GDP. Mối tương quan
giữa đầu tư và tăng trưởng dù không tuyệt đối, nhưng rõ ràng. Các nước có tỷ trọng đầu
tư trong GDP cao, như Xingapo và Nhật Bản, thường có tỷ lệ tăng trưởng cao. Các nước
có tỷ lệ đầu tư so với GDP thấp, như Ruanđa và Bănglađét, thường có tỷ lệ tăng trưởng
thấp. Những nghiên cứu dựa trên kết quả điều tra của nhiều nước hơn đều khẳng định
mối tương quan chặt chẽ đầu tư và tăng trưởng.