Professional Documents
Culture Documents
Bài tập nhóm Kinh tế lượng
Bài tập nhóm Kinh tế lượng
1
Phạm vi không gian: Phạm vi địa lý của nghiên cứu bao gồm 130 quốc gia trên thế
giới về Chỉ số Phát triển Con người (HDI), bao quát các khu vực đa dạng và rộng lớn trên
toàn cầu. Từ các nước đang trong quá trình phát triển đến những nền kinh tế đã phát triển,
bao gồm các quốc gia trải đều trên các lục địa khác nhau
4.3. Phạm vi thời gian:
Dữ liệu được tìm hiểu và nghiên cứu vào năm 2021.
2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HDI CỦA CÁC QUỐC
GIA TRÊN THẾ GIỚI
I.1. Cơ sở lý luận
I.1.1. Khái niệm HDI
Human Development Index (HDI) là một chỉ số đo lường sự phát triển con người
được nghiên cứu bởi Mahbub ul Haq và Amartya Sen năm 1990. HDI được phát triển bởi
Tổ chức Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) nhằm đo lường sự phát triển vượt qua chỉ số
GDP mà tập trung vào các yếu tố kinh tế. Nghiên cứu của Haq và Sen (1990) đã chỉ ra ba
tiêu chí cơ bản để đánh giá sự phát triển con người: tuổi thọ trung bình, giáo dục và mức
sống. Được tính toán dựa trên các chỉ số con và sau đó được kết hợp thành một chỉ số
duy nhất nhằm so sánh mức độ phát triển của các quốc gia. Nghiên cứu của Amartya Sen
(1997) đã nhấn mạnh về tầm quan trọng của HDI trong việc thay đổi cách nhìn nhận về
sự phát triển. Trước khi HDI được giới thiệu, chỉ số GDP (Tổng sản phẩm quốc nội)
được sử dụng như một chỉ số đơn giản để đo lường sự phát triển. Tuy nhiên, GDP không
thể thu thập được thông tin về chất lượng cuộc sống hoặc sự chênh lệch phát triển giữa
các quốc gia. HDI cung cấp một cái nhìn tổng quan hơn về phát triển con người, đồng
thời tổng hợp các yếu tố quan trọng khác như sức khỏe và giáo dục.
Tại Việt Nam, theo nghị Quyết số 89/2010/NQ-CP của Chính phủ Việt Nam đã
xác định HDI là một trong các chỉ tiêu phục vụ đánh giá và quản lý phát triển xã hội và
kinh tế của quốc gia. Nghiên cứu của Đỗ Kim Thành, Đinh Bá Tiến, và Trần Trường
Thủy (năm 2020), cùng với Nguyễn Quốc Hùng và Chu Văn Lâm (năm 2019) cũng chỉ ra
rằng HDI là một chỉ số quan trọng dùng để đánh giá và so sánh mức độ phát triển con
người trong các quốc gia dựa trên các chỉ số chính như tuổi thọ bình quân, mức độ giáo
dục và mức độ thu nhập. HDI đã giúp xác định và đo lường sự tiến bộ của một quốc gia
trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển con người.
Như vậy, Chỉ số phát triển con người (HDI) là thước đo tóm tắt thành tích trung
bình trong các khía cạnh chính của phát triển con người: sống lâu và khỏe mạnh, có tri
thức và có mức sống khá. HDI là giá trị trung bình hình học của các chỉ số được chuẩn
hóa cho từng chiều trong ba chiều. Khía cạnh sức khỏe được đánh giá bằng tuổi thọ bình
quân, khía cạnh giáo dục được đo lường bằng số năm đi học trung bình của người lớn từ
25 tuổi trở lên và số năm đi học dự kiến đối với trẻ em trong độ tuổi bắt đầu đi học.
Chiều mức sống được đo bằng tổng thu nhập quốc dân bình quân đầu người. HDI có thể
được sử dụng để đặt câu hỏi về các lựa chọn chính sách quốc gia, đặt câu hỏi làm thế nào
hai quốc gia có cùng mức GNI bình quân đầu người lại có thể đạt được các kết quả phát
triển con người khác nhau. Những sự tương phản này có thể kích thích tranh luận về các
ưu tiên chính sách của chính phủ.
I.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới HDI của các quốc gia trên thế giới
Quá trình đọc tổng quan, nhóm nghiên cứu tổng hợp được 8 yếu tố ảnh hưởng đến
HDI bao gồm Edu Government, EPI, FDI, GDP per capita, Inflation, Life expectancy,
Population Growth, và Unemployment được tổng hợp như bảng dưới đây.
3
STT Tên biến Khái niệm Nguồn
1 Chi tiêu công cho Chi tiêu cho giáo dục bao Hamzah và cộng sự (2012),
giáo dục (Edu gồm các khoản chi thường Merita Pahlevi (2017),
Government) xuyên (chẳng hạn như bồi Razmi et al. (2012), Bloom
thường cho nhân viên và cộng sự. (2001), Castro-
giảng dạy và không giảng Leal và cộng sự. (2000) và
dạy, sách giáo khoa và các Qureshi (2009), Klara Shinta
tài liệu giảng dạy khác, Claudia và Muhammad Arif
hàng hóa và dịch vụ khác) (2022)
và chi tiêu vốn.
2 Chỉ số chất lượng Chỉ số chất lượng môi Hamzah và cộng sự (2012),
môi trường (EPI - trường (EPI) là một Merita Pahlevi (2017),
environmental phương pháp định lượng Razmi et al. (2012), Bloom
performance index) và đánh dấu bằng số hiệu và cộng sự. (2001), Castro-
suất môi trường của một Leal và cộng sự. (2000) và
chính sách của một tiểu Qureshi (2009), Klara Shinta
bang. Claudia và Muhammad Arif
(2022)
3 Dòng vốn đầu tư Dòng vốn FDI ra ròng là Hamzah và cộng sự (2012),
trực tiếp nước ngoài giá trị đầu tư trực tiếp ra Merita Pahlevi (2017),
(FDI) nước ngoài của các cư dân Razmi et al. (2012), Bloom
của nền kinh tế báo cáo và cộng sự. (2001), Castro-
cho các nền kinh tế bên Leal và cộng sự. (2000) và
ngoài, bao gồm thu nhập Qureshi (2009), Klara Shinta
tái đầu tư và các khoản Claudia và Muhammad Arif
vay nội bộ công ty, các (2022)
khoản thu ròng từ việc hồi
hương vốn và trả các
khoản vay.
4 GDP bình quân đầu GDP bình quân đầu người Anne Therese Connolly và
người (GDP per là tổng giá trị gia tăng của cộng sự (2014), Smit Shah
capita) tất cả các nhà sản xuất (2016), Joko Sangaji (2016),
thường trú trong nền kinh Aldona MigalaWarchol &
tế cộng với bất kỳ loại Marek Sobolewski (2020),
thuế sản phẩm nào (trừ trợ Arisman (2018), Irina
cấp) không bao gồm trong Georgescu và cộng sự (2020)
định giá sản lượng, chia
cho dân số giữa năm.
4
5 Lạm phát (Inflation) Lạm phát được đo bằng Joko Sangaji (2016), Y.
tốc độ tăng trưởng hàng Yolanda (2017), Cordelia
năm của chỉ số giảm phát Onyinyechi Omodero (2019)
tiềm ẩn GDP cho thấy tốc
độ thay đổi giá trong toàn
bộ nền kinh tế. Chỉ số
giảm phát tiềm ẩn GDP là
tỷ lệ GDP tính theo nội tệ
hiện tại so với GDP tính
theo nội tệ cố định.
6 Tuổi thọ trung bình Tuổi thọ trung bình hay Báo cáo Phát triển Con
hay kỳ vọng (Life kỳ vọng sống là số năm người của Liên Hợp Quốc
expectancy) dự kiến còn lại của cuộc (2011), Anne Therese
đời ở độ tuổi nhất định. Connolly và cộng sự (2014),
Yakunina R.P và cộng sự
(2015), Smit Shah (2016),
Joko Sangaji (2016),
Gherardo Girardi và cộng sự
(2017)
7 Gia tăng dân số Gia tăng dân số là sự gia Philip W. Zgheib và cộng sự
(Population Growth) tăng số lượng người trong (2006), Hamzah và cộng sự
một quần thể hoặc một (2012), Najid Ahmad và
nhóm phân tán. cộng sự (2012), Arif và cộng
sự (2019), Muhammad
Arshad và cộng sự (2021)
8 Thất nghiệp Thất nghiệp trong kinh tế Hamzah và cộng sự (2012),
(Unemployment) học, là tình trạng người Eleonora Sofilda và cộng sự
lao động muốn có việc (2015), Aldona
làm mà không tìm được MigalaWarchol và cộng sự
việc làm hoặc không được (2020), Eko Wahyu
tổ chức, công ty và cộng Nugrahadi và cộng sự (2018)
đồng nhận vào làm. Tỷ lệ
thất nghiệp là phần trăm
số người lao động không
có việc làm trên tổng số
lực lượng lao động của xã
hội.
I.2. Cơ sở thực tiễn về HDI của các quốc gia trên thế giới
I.2.1. Thực tiễn về HDI của Việt Nam và các quốc gia trên thế giới năm 2021
5
Theo báo cáo về Phát triển Con người 2021-2022 của Chương trình Phát triển
Liên hợp quốc (UNDP), chỉ số Phát triển Con người trên toàn cầu đã giảm hai năm liên
tiếp, điều chưa từng xảy ra trong 32 năm lịch sử của chỉ số này, chủ yếu do đại dịch
Covid-19. Sự suy giảm này đã đưa chỉ số quay về mức của năm 2016, phá vỡ nhiều tiến
bộ hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững.
Tính trên quy mô toàn cầu, năm 2021, các quốc gia có chỉ số HDI cao nhất là
Thuỵ Sỹ (0,962), Na Uy (0,961), Iceland (0,959), Úc (0,951), Đan Mạch (0,948), Thuỵ
Điển (0,947), Ireland (0,945), Đức (0,942), Hà Lan (0,941) và Phần Lan (0,940). Châu
Âu và Bắc Mỹ tiếp tục là nơi tập trung các quốc gia có HDI cao nhất trên thế giới.
Trong khu vực Đông Nam Á, vào năm 2021, Singapore dẫn đầu với chỉ số HDI
đạt 0,939, tiếp theo là Brunei với giá trị HDI là 0,829. Malaysia, Thái Lan và Indonesia
cũng nằm trong top 5 quốc gia có chỉ số HDI cao nhất trong khu vực Đông Nam Á vào
năm 2021.
Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam và các nước trong khu vực
Đông Nam Á năm 2021. Nguồn: UNDP.
6
Các kinh nghiệm từ các quốc gia có trình độ phát triển tương đương với Việt Nam:
Theo UNDP, HDI của Ấn Độ trong năm 2021 đứng ở vị trí thấp, chỉ xếp thứ 131 trên thế
giới, với tỷ lệ người dân còn đói nghèo cao (21,9%) (10) và hàng triệu người dân không
có quyền tiếp cận với nguồn điện quốc gia. GDP bình quân đầu người ở Ấn Độ chỉ đạt
khoảng 2.256 USD. Những vấn đề chính bao gồm dân số đông, sự phân hóa giàu nghèo
cùng với việc vẫn tồn tại quan niệm về đẳng cấp và vấn đề tham nhũng. Tuy nhiên, Ấn
Độ đã nhận thức về những hạn chế này và thực hiện cải cách, tự do hóa kinh tế và triển
khai nhiều biện pháp sáng tạo trong nông nghiệp, chính sách công nghiệp mới, văn hóa
mềm cùng với cải thiện trong lĩnh vực y tế, giáo dục. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của họ
đạt trên 7% trong những năm gần đây và được đánh giá là quốc gia có tốc độ tăng trưởng
nhanh nhất thế giới, đồng thời đã cải thiện một phần vấn đề xã hội.
Colombia là một quốc gia đang phát triển với tốc độ tăng trưởng ổn định trong
nhiều năm qua. Theo UNDP, HDI của Colombia đứng ở vị trí thứ 88 trên thế giới trong
năm 2021, tăng 0.32% trong 10 năm từ 2012 - 2021. Quốc gia này tập trung vào việc tạo
ra cơ hội việc làm mới cho người dân và cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua việc
đầu tư vào nhiều ngành công nghiệp, nông nghiệp, khai thác khoáng sản, cũng như lĩnh
vực thông tin và truyền thông, chế biến thực phẩm và dược phẩm, du lịch. Tuy nhiên, như
nhiều quốc gia khác, Colombia vẫn đối mặt với nhiều thách thức xã hội, bao gồm việc
giảm chênh lệch giữa giàu và nghèo, phát triển hạ tầng, cải cách nền hành chính công.
Theo UNDP, HDI của Mông Cổ đứng ở vị trí thứ 96 trên thế giới trong năm 2021,
tăng 0.48% trong khoảng 10 năm từ 2012 - 2021. Mông Cổ đã có những phát triển đáng
kể trong nền kinh tế, với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình khoảng 8% mỗi năm. Họ
đang tập trung vào phát triển thương mại, du lịch, sử dụng tài nguyên và năng lực để tạo
thêm việc làm và xây dựng tương lai cho người dân. Mặc dù đã đạt được tiến bộ đáng kể
trong việc cải thiện HDI, nhưng vẫn còn những thách thức về bất bình đẳng và giảm
nghèo.
Năm 1990, HDI của Peru chỉ đạt 0,543, xếp thứ 101 trên tổng số 130 quốc gia.
Tuy nhiên, đến năm 2019, HDI của Peru đã tăng lên 0,757, xếp thứ 76 trên 189 quốc gia,
với dự kiến tăng trưởng trong những năm tiếp theo. Việc cải thiện sức khỏe, giáo dục và
thu nhập cùng với việc giảm tỷ lệ thất nghiệp đã góp phần tăng HDI của Peru lên 0,762
vào năm 2021, xếp thứ 84 trên 193 quốc gia. Peru cũng đã thu hút được sự quan tâm và
đầu tư từ các quốc gia khác để nâng cao HDI.
Những kinh nghiệm từ các quốc gia có trình độ phát triển tương đương với Việt
Nam cho thấy rằng tăng cường giáo dục, sức khỏe cộng đồng, khuyến khích cân bằng
giới tính, cải thiện thất nghiệp, bài trừ tham nhũng và kiểm soát lạm phát là những khía
cạnh mà Việt Nam có thể học hỏi để nâng cao chỉ số phát triển con người HDI, như được
nhóm tác giả tiếp cận và nghiên cứu trong bài nghiên cứu này.
7
yếu tố quan trọng; trong khi đó, một số nghiên cứu nước ngoài thì có sự khác biệt về
những nhân tố được xét nghiệm, bởi sự đa dạng về tính chất nền kinh tế và sự phát triển
của các quốc gia. Còn thiếu đi nhiều nghiên cứu trên phạm vi toàn cầu và việc đưa ra
những hàm ý chính sách cần thiết cho Việt Nam. Do đó, nhóm nghiên cứu đã quyết định
chọn đề tài “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến chỉ số HDI của các quốc gia trên thế
giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam” này với hy vọng có thể bổ sung và hoàn thiện
thêm các nhân tố cũng như đề xuất một số chính sách giúp nâng cao chỉ số HDI của đất
nước.
8
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
9
GDP (FDI), Government expenditure on education, Population Growth, Chương trình
Phát triển của Liên Hợp Quốc (https://www.undp.org/vi/vietnam): Chỉ số phát triển con
người (HDI), Đại học Yale (https://www.yale.edu/): Chỉ số hiệu quả môi trường (EPI)
10
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
11
Bảng 1. Kết quả hồi quy
Qua kết quả phân tích hồi quy ta có mô hình:
Y= F(x) = 0.6806 - 0.0009EG + 0.0037EPI + 0.0039FDI + 0.002GDP - 0.0002IF -
0.0013LE - 0.0576PG + 0.0005UNE
12
β8 = - 0.0576: Cho biết, khi các yếu tố khác không thay đổi, Gia tăng dân số tăng 1% thì
chỉ số HDI năm 2021 của các quốc gia trung bình sẽ giảm 0.0576 điểm
β9 = 0.0005: Cho biết, khi các yếu tố khác không thay đổi, Thất nghiệp tăng 1% thì chỉ số
HDI năm 2021 của các quốc gia trung bình sẽ giảm 0.0005 điểm
13
H05: β5 = 0 biến không phù hợp
H15: β5 ≠ 0 biến phù hợp
Prob = 0,0000 > α = 0.05: Bác bỏ giả thiết H05
Vậy, với mức ý nghĩa 5%, GDP bình quân đầu người có tác động đến HDI của các quốc
gia trên thế giới năm 2021.
Kết quả kiểm định giả thuyết về các hệ số hồi quy cho thấy với mức ý nghĩa 5%
Prob. nhỏ hơn 0,05 nghĩa là mô hình hồi quy phù hợp với dữ liệu thu thập được và các
biến đưa vào đều có ý nghĩa trong thống kê với mức ý nghĩa 5%. Kết quả này cũng khẳng
định các giả thuyết nêu ra trong mô hình nghiên cứu được chấp nhận và được kiểm định
phù hợp. Như vậy, các biến độc lập trong mô hình có quan hệ đối với biến phụ thuộc
HDI của các quốc gia trên thế giới năm 2021. (Bảng 1).
Kết quả phân tích các hệ số hồi quy trong mô hình cho thấy, mức ý nghĩa của các
thành phần X3, X5, X8 Prob. = 0,0000 < 0,05; biến X2, X4, X6, X7, X9 có mức ý nghĩa
Prob. lần lượt là 0,5834; 0,1754; 0,4289; 0,1335; 0,7357 nên các biến X 2, X4, X6, X7, X9
14
bị loại khỏi mô hình. Các biến độc lập (X 3, X5, X8) đều có tác động đến HDI của các quốc
gia trên thế giới năm 2021.
15
Bảng 3. Nhân tử phóng đại
Như vậy, dựa vào kết quả của cột centered VIF, ta thấy VIF đều nhỏ hơn 10, thể hiện tính
đa cộng tuyến của các biến độc lập là không đáng kể và các biến độc lập trong mô hình
chấp nhận được.
3.2.4. Phát hiện phương sai sai số thay đổi bằng kiểm định Breusch-Pagan-Godfrey
16
Bảng 4. Phương sai sai số thay đổi bằng kiểm định Breusch-Pagan-Godfrey
Kiểm định giả thuyết với mức ý nghĩa 5%
H0: mô hình có phương sai sai số đồng đều
H1: mô hình có phương sai sai số thay đổi
Dựa vào kiểm định sự phù hợp của mô hình, cụ thể dựa vào: Prob. F (8,117) và Prob Chi-
square(8), đều có Prob. > 0.05, chưa bác bỏ giả thiết H0, mô hình không có phương sai sai
số thay đổi.
17
bình quân đầu người (0.002). Trong đó, yếu tố Gia tăng dân số có tác động ngược chiều,
hai yếu tố Chỉ số chất lượng môi trường và GDP bình quân đầu người có tác động ngược
chiều đến HDI của các quốc gia trên thế giới năm 2021.
Kết quả nghiên cứu đã góp phần khẳng định các nhận định đề xuất, tuy nhiên, HDI
của các quốc gia trên thế giới phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau nên tùy thuộc vào
từng điều kiện thực tế của các quốc gia, cần có sự điều chỉnh khái niệm và thang đo cho
phù hợp. Thông qua nghiên cứu này, các quốc gia, nhà nước, chính phủ và phụ huynh có
thể hiểu được các yếu tố ảnh hưởng đến HDI của các quốc gia trên thế giới từ đó có giải
pháp để giảm tỷ lệ gia tăng dân số, nâng cao chỉ số chất lượng môi trường và GDP bình
quân đầu người, góp phần nâng cao chỉ số HDI của các quốc gia trên thế giới.
18
Các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
Đầu tư cho bảo vệ môi trường. Để thực thi các chính sách về bảo vệ môi trường,
cần có nguồn lực tài chính và vật chất. Các quốc gia cần tăng cường đầu tư cho bảo vệ
môi trường, bao gồm việc xây dựng các công trình xử lý ô nhiễm môi trường, đào tạo
nhân lực bảo vệ môi trường, và nghiên cứu, phát triển các công nghệ bảo vệ môi trường
mới.
Tăng cường giám sát và kiểm tra việc thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường.
Việc giám sát và kiểm tra việc thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường sẽ giúp đảm bảo
rằng các quy định về bảo vệ môi trường được thực thi nghiêm túc. Các cơ quan chức
năng cần tăng cường giám sát và kiểm tra việc thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường,
bao gồm việc kiểm tra định kỳ các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, và các hoạt động
gây ô nhiễm môi trường khác.
Đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục về bảo vệ môi trường. Để nâng cao nhận thức
của cộng đồng về tầm quan trọng của bảo vệ môi trường, cần tăng cường công tác truyền
thông, giáo dục về bảo vệ môi trường. Các quốc gia cần xây dựng các chương trình
truyền thông, giáo dục về bảo vệ môi trường phù hợp với từng đối tượng và khu vực.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TRONG NƯỚC
1, Ngô Thái Hùng và các cộng sự (2023), “Mối quan hệ giữa chỉ số phát triển con người,
cơ sở hạ tầng công nghệ, năng lượng tái tạo và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam”, Tạp chí
Kinh tế & Phát triển, số 315, trang 13-25.
2, Phùng Danh Cường (2014), “Những nhân tố tác động đến sự phát triển con người toàn
diện ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
3, Trương Văn Cảnh và các cộng sự (2014), “Nghiên cứu chỉ số phát triển con người
(HDI) thành phố Đà Nẵng”, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đà Nẵng, số 2, trang 96-
101.
4, Đặng Thị Kim Thoa (2014), “Chỉ số phát triển con người (HDI) và vấn đề phát triển
con người ở Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, số 205, trang 34-39.
NƯỚC NGOÀI
5, Verma, A., Giri, A. K., & Debata, B. (2022), “Leapfrogging into knowledge economy:
Information and communication technology for human development”, Australasian
Journal of Information Systems, 26.
6, Eftimoski, D. (2022), “On the inconclusive effect of human capital on growth: A new
look at extended specifications”, Economic Analysis and Policy, 76, 708-727.
7, Taqi, M., e Ali, M. S., Parveen, S., Babar, M., và Khan, I. M. (2021), “An analysis of
Human Development Index and Economic Growth. A Case Study of Pakistan”, iRASD
Journal of Economics, 3(3), 261-271
8, Wang, Z., Zhang, B., & Wang, B. (2018), “Renewable energy consumption, economic
growth and human development index in Pakistan: evidence form simultaneous equation
model”, Journal of cleaner production, 184, 1081-1090
20
9, Acheampong, A. O., Opoku, E. E. O., Dzator, J., và Kufuor, N. K. (2022), “Enhancing
human development in developing regions: Do ICT and transport infrastructure matter?”,
Technological Forecasting and Social Change, 180, 121725.
10, Acheampong, A.O., Erdiaw-Kwasie, M.O., Abunyewah, M. (2021), “Does energy
accessibility improve human development? Evidence from energy-poor regions”, Energy
Economics 96, 105165.
11, Boateng, E., Agbola, F.W., Mahmood, A., (2021), “Foreign aid volatility and
economic growth in Sub-Saharan Africa: Does institutional quality matter?”, Economic
Modelling 96, 111–127.
12, Pan, L., Biru, A., Lettu, S., (2021), “Energy poverty and public health: Global
evidence”, Energy Economics 101, 105423.
21
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
TRONG NƯỚC
1. Mối quan hệ giữa chỉ số phát triển con người, cơ sở hạ tầng công nghệ, năng
lượng tái tạo và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
Tạp chí Kinh tế & Phát triển, Ngô Thái Hùng và các cộng sự, 9/2023
Năng lượng sạch và công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) dần dần đóng một
vai trò quan trọng trong cuộc sống của mọi người, thay đổi cách thức hoạt động của xã
hội và nền kinh tế. Nghiên cứu này đóng góp về lý thuyết thực nghiệm bằng cách xác
định mối quan hệ giữa năng lượng tái tạo, cơ sở hạ tầng công nghệ, tăng trưởng kinh tế
và chỉ số phát triển con người ở Việt Nam trong miền tần số và thời gian khác nhau sử
dụng phân tích wavelet và kiểm định nhân quả dạng phổ được giới thiệu bởi Breitung &
Candelon (2006). Các phát hiện cho thấy tồn tại quan hệ hai chiều của cơ sở hạ tầng công
nghệ, năng lượng tái tạo đối với chỉ số phát triển con người, riêng tăng trưởng kinh tế và
chỉ số phát triển con người có mối quan hệ cả tích cực và tiêu cực tại Việt Nam ở trung
và dài hạn, từ đó cho thấy đầu tư năng lượng tái tạo, đổi mới cơ sở hạ tầng công nghệ và
phát triển kinh tế hỗ trợ quá trình nâng cao chỉ số con người. Kết quả nghiên cứu cung
cấp một số hàm ý quan trọng là cải thiện ICT, tăng cường năng lượng tái tạo và phát triển
kinh tế nhằm tạo thuận lợi cho phát triển con người tại Việt Nam.
2, NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN
DIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Trong bài viết này, tác giả đã xác định những nhân tố tác động đến sự phát triển
con người toàn diện ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Bằng việc chỉ ra các nhân tố
khách quan và chủ quan tác động đến sự phát triển con người toàn diện ở Việt Nam,
trong đó, xác định sự phát triển về kinh tế với tư cách nhân tố khách quan; sự nhận thức
và năng lực hoạt động thực tiễn của chính bản thân mỗi con người với tư cách nhân tố
chủ quan là hai nhân tố quyết định. Qua đó, tác giả bài viết khẳng định kết quả nghiên
cứu này góp phần bổ sung và phát triển lý luận về phát triển con người và xây dựng chiến
lược phát triển con người Việt Nam trong thời đại mới.
22
3, Nghiên cứu chỉ số phát triển con người (HDI) thành phố Đà Nẵng
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đà Nẵng 2015
Trong nền kinh tế tri thức hiện nay, thành phố Đà Nẵng nói riêng và cả nước nói
chung đều đặt trọng tâm vào nâng cao chỉ số phát triển con người (HDI). Tuy nhiên, việc
tính toán và phân tích chỉ số này mới chỉ được thực hiện ở cấp tỉnh/thành phố, còn các
cấp quận/huyện thì chưa được tiến hành. Vì vậy, trong bài báo này, chúng tôi đã tiến
hành nghiên cứu thực trạng chỉ số phát triển con người (HDI) ở thành phố Đà Nẵng theo
từng chỉ số thành phần. Việc tính toán và nghiên cứu này được tiến hành trên phạm vi
toàn thành phố Đà Nẵng với tất cả các quận/huyện (trừ huyện đảo Hoàng Sa). Kết quả
nghiên cứu được cho thấy Đà Nẵng là một trong những địa phương có chỉ số HDI tương
đối cao và có sự chênh lệch về phát triển con người giữa các địa phương trong thành phố
nhưng không quá lớn.
4, Chỉ số phát triển con người (HDI) và vấn đề phát triển con người ở Việt Nam
Phát triển con người toàn diện là một trong những quan điểm cơ bản không thể
thiếu để bảo đảm tính nhân văn và tính hiện thực của xã hội mới (Nguyễn Thị Nga,
2011). Báo cáo phát triển con người của UNDP năm 1990, lần đầu tiên đưa ra một
phương pháp mới để đánh giá tổng hợp trình độ phát triển con người, đó là Chỉ số phát
triển con người (HDI). HDI là một chỉ số đo lường thống nhất các mục tiêu kinh tế - xã
hội cần đạt được và phản ánh toàn bộ các khía cạnh của cuộc sống. HDI phản ánh mức độ
trung bình đạt được của một nước về các năng lực cơ bản của con người đồng thời xác
định liệu con người có được một cuộc sống trường thọ và khỏe mạnh, được giáo dục và
trang bị kiến thức và được hưởng một mức sống tử tế hay không. Bài viết trình bày rõ
bản chất của chỉ số HDI, nội dung, cách xác định đồng thời phân tích chỉ số này ở Việt
Nam trong mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới.
NƯỚC NGOÀI
1. Leapfrogging into knowledge economy: Information and communication
technology for human development
Verma, A., Giri, A. K., & Debata, B. (2022), Australasian Journal of Information
Systems, 26.
Tăng trưởng kinh tế hiện đại tập trung vào năng suất và đổi mới, trong đó đưa
thông tin và công nghệ trở thành một phần không thể thiếu trong các vấn đề chính sách
kinh tế. Trong bối cảnh này, CNTT có một vị trí quan trọng vì nó làm tăng hiệu quả, thúc
đẩy phổ biến thông tin và tăng cường đổi mới, dẫn đến sự thay đổi toàn cầu trong quá
trình phát triển xã hội và con người. Mục đích của nghiên cứu này là xem xét tầm quan
trọng của việc phổ biến CNTT trong việc thúc đẩy phát triển con người ở các quốc gia
thuộc Hiệp hội Hợp tác Khu vực Nam Á (SAARC) từ năm 2005 đến năm 2019. Phổ biến
CNTT được đo lường bằng chỉ số tổng hợp dựa trên phân tích thành phần chính (PCA) .
Kết hợp việc sử dụng điện thoại, di động, băng thông rộng và internet. Chương trình Phát
triển Liên Hợp Quốc (UNDP) đã tạo ra Chỉ số Phát triển Con người (HDI) đóng vai trò là
đại diện cho sự phát triển con người. Để điều chỉnh bất kỳ sai lệch gây nhiễu nào, các chỉ
23
số kinh tế vĩ mô, chẳng hạn như tổng sản phẩm quốc nội (GDP), lạm phát và thương mại
cũng được đưa vào. Bằng cách sử dụng các phương pháp kinh tế lượng mạnh mẽ đối với
sự phụ thuộc chéo (CSD), chẳng hạn như công cụ ước tính hiệu ứng tương quan chung
động (DCCE), hồi quy Driscoll-Kraay (DK) và thử nghiệm quan hệ nhân quả
Dumitrescu-Hurlin (DH), nghiên cứu nhấn mạnh mối quan hệ tích cực mạnh mẽ giữa
CNTT và HDI. Ngoài ra, GDP còn thúc đẩy HDI nhờ tăng năng suất. Tương tự, mở rộng
thương mại, ngoài những tác động trực tiếp, còn ảnh hưởng đến HDI bằng cách thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, lạm phát có tác động tiêu cực đến HDI. Do đó, nghiên cứu
đề xuất một bối cảnh gắn kết nhằm thống nhất CNTT-TT với sự phát triển con người
trong khuôn khổ hiện đại này.
2, On the inconclusive effect of human capital on growth: A new look at
extended specifications
Eftimoski, D. (2022), Economic Analysis and Policy, 76, 708-727.
Một trong những lý do dẫn đến tác động yếu và không thuyết phục của vốn nhân
lực đối với tăng trưởng trong các nghiên cứu xuyên quốc gia hiện nay có thể là việc sử
dụng các thông số kỹ thuật không phù hợp, không tính đến các kênh khác nhau mà vốn
nhân lực ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Có ý kiến cho rằng cả nguồn dự trữ ban đầu
và những thay đổi trong nguồn vốn con người đều có tác động tăng trưởng tích cực khi
xem xét cùng nhau, trong khi mỗi kênh thường xuất hiện không đáng kể nếu đứng riêng
lẻ. Điều này ngụ ý rằng tác động của vốn con người có thể bị đánh giá thấp trong các
thông số kỹ thuật hạn chế (một kênh). Tuy nhiên, bài viết này cho thấy rằng các thông số
kỹ thuật mở rộng (hai kênh) cũng có thể không đưa ra được lời giải thích hợp lý cho
những tác động vốn nhân lực không nhất quán trong các tài liệu tăng trưởng hiện có. Có
vẻ như vấn đề sai lệch biến số bị bỏ qua do việc mô tả 'không đầy đủ' về vốn con người
trong hồi quy tăng trưởng có thể không rõ ràng như mong đợi. Ngoài ra, chúng tôi xem
xét một số khía cạnh của sai số đo lường và tín hiệu thấp trong những thay đổi về vốn con
người.
24
luận rằng mức độ HDI có thể ảnh hưởng đến GDP bình quân đầu người. Tăng trưởng
kinh tế cho phép đạt được mức độ phát triển cao của con người, một mặt, mức độ phát
triển con người ngày càng tăng dẫn đến tăng cơ hội tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ
nhân quả giữa tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của con người trở thành một mối quan
hệ có ảnh hưởng lẫn nhau. Vì vậy, rõ ràng sự phát triển của con người trong nước liên
quan đến ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế được nhìn thấy trong thu nhập bình quân đầu
người (GDP bình quân đầu người) có thể là một chỉ số về phúc lợi trong nước.
25
động khác nhau đến vốn con người (giáo dục) và sức khỏe (tuổi thọ, trẻ dưới 5 tuổi và tỷ
lệ tử vong bà mẹ). Phân tích sâu hơn cho thấy kết quả khác nhau giữa Nam Á, châu Phi
cận Sahara và châu Mỹ Latinh-Caribbean. Những kết quả này rất chắc chắn đối với một
công cụ ước tính kinh tế lượng thay thế. Ý nghĩa chính sách của những phát hiện này sẽ
được thảo luận.
26
lại tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Chúng tôi nhận thấy rằng mặc dù chất
lượng thể chế và các khía cạnh phụ của nó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng nó không
thể giảm bớt tác động bất lợi của biến động viện trợ đối với tăng trưởng kinh tế. Về dòng
viện trợ, viện trợ chỉ mang lại lợi ích cho một quốc gia nếu nhà tài trợ cam kết cung cấp
viện trợ cho quốc gia nhận viện trợ. Khai thác hàm ý chính sách của các dòng viện trợ,
bài viết còn khám phá thêm rằng việc thúc đẩy một thể chế hiệu quả có thể nâng cao hiệu
quả viện trợ ở Châu Phi cận Sahara.
27