You are on page 1of 24

I.

TRIẾT HỌC VÀ KHÁI LƯỢC VỀ TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN


1. Khái lược về triết học
- Nguồn gốc của triết học
Triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc nhận thức: Khi kho tàng tri thức của loài người đã hình thành vốn
hiểu biết nhất định → tư duy con người đạt đến trình độ có khả năng rút ra được cái
chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ.
Nguồn gốc xã hội: Nền sản xuất xã hội đã có sự phân công lao động và loài người
đã xuất hiện giai cấp, Nhà nước.
- Khái niệm triết học: (theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin)
Triết học là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí con
người trong thế giới đó, là khoa học về những quy luật vận động, phát triển chung
nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Triết học – hạt nhân lý luận của thế giới quan
Thế giới quan là toàn bộ quan điểm, quan niệm của con người về thế giới và vị trí
của con người trong thế thế giới đó.
Thế giới quan bao gồm: Tri thức, niềm tin, lý tưởng. Trong đó yếu tố quan trọng
nhất là tri thức. Triết học là nguồn cung cấp chính về tri thức cho thế giới quan (tri thức
về thế giới, về con người)
Có 3 loại hình thế giới quan: Thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo,
thế giới quan triết học.
Thế giới quan huyền thoại là quan điểm quan niệm của con người xa xưa về thế
giới, gắn với những câu chuyện huyền thoại, hoang đường để giải thích về thế giới như
họ giải thích hiện tượng lũ lụt là do Sơn Tinh, Thủy Tinh, giải thích nguồn gốc con
người qua tích chuyện Lạc Long Quân – Âu Cơ.
Thế giới quan tôn giáo: Dựa trên niềm tin tôn giáo; tín ngưỡng cao hơn lý trí, cái
ảo lấn át cái thực, cái thần vượt trội cái người. Nó là bước phát triển hơn thế giới quan
huyền thoại (ở tính thống nhất các luận điểm). Ví dụ họ quan niệm con người sinh ra là
do lực lượng siêu nhiên, số mệnh con người là do lực lượng siêu nhiên quyết định.
Thế giới quan triết học: Quan niệm của con người về thế giới được diễn tả dưới
dạng hệ thống các khái niệm, quy luật, phạm trù. Đây là thế giới quan phát triển sau
cùng và mang những dấu ấn tiến bộ hơn.
- Vấn đề cơ bản của triết học:

1
2. Một số vấn đề về Triết học Mác – Lênin
* Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác
- Điều kiện kinh tế - xã hội
+ Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều
kiện cách mạng công nghiệp
+ Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tư cách một lực lượng
chính trị - xã hội độc lập
+ Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản là cơ sở chủ yếu nhất cho sự ra đời
triết học Mác.
- Tiền đề lý luận (Bao gồm Triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị cổ điển Anh
và Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp)
- Tiền đề khoa học tự nhiên (nổi lên vai trò của 3 công trình này)
+ Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng (Giulơ và Lômônôxốp)
+ Thuyết tế bào (M.J.Schleiden)
+ Thuyết tiến hoá (Đácuyn)
- Nhân tố chủ quan: Yếu tố chủ quan thuộc về Mác, Ăngghen, Lê nin.
* Các giai đoạn hình thành và phát triển triết học Mác
- Thời kỳ hình thành tư tưởng triết học với bước quá độ từ chủ nghĩa duy tâm và
dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản (1841 – 1844)
- Thời kỳ đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
(1845-1848)
- Thời kỳ bổ sung, phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử (1849-1895).
* Đối tượng của Triết học Mác – Lênin
- Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng
- Nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội
và tư duy.
* Chức năng của Triết học Mác – Lênin
- Chức năng thế giới quan: Cung cấp cho con người những tri thức, niềm tin, lý
tưởng đúng đắn về thế giới.
- Chức năng phương pháp luận: Cung cấp cho con người những phương pháp
chung nhất để nhận thức và cải tạo thế giới.
* Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng do C.Mác và Ph.Ănghen thực hiện
- Khắc phục tính chất trực quan, siêu hình của CNDV cũ, khắc phục tính chất duy
tâm, thần bí của phép biện chứng duy tâm, sáng tạo ra một chủ nghĩa duy vật triết học
hoàn bị - đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Vận dụng và mở rộng quan điểm duy vật biện chứng vào nghiên cứu lịch sử xã
hội, sáng tạo ra Chủ nghĩa duy vật lịch sử - Nội dung chủ yếu của bước ngoặt cách
mạng trong triết học
- Sáng tạo ra một triết học chân chính khoa học với những đặc tính mới - triết học
duy vật biện chứng
2
* Vai trò của Triết học Mác- Lênin trong đời sống XH và trong sự nghiệp
đổi mới ở Việt Nam hiện nay
- Thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng cho con người trong
nhận thức và thực tiễn
- Cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và cách mạng để phân tích
xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại phát triển mạnh mẽ.
- Triết học Mác - Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng CNXH
trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN ở Việt Nam
II- VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất và phương thức tồn tại của vật chất
a) Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C. Mác về
phạm trù vật chất
Các nhà triết học duy tâm đã phủ nhận đặc tính tồn tại khách quan của vật chất.
Các nhà duy vật thời cổ đại quy vật chất về một hay một vài dạng cụ thể và xem
chúng là khởi nguyên của thế giới: nước (Thales), lửa (Heraclitus), không khí
(Anaximenes); đất, nước, lửa, gió (Tứ đại - Ấn Độ); kim, mộc, thủy, hỏa, thổ (Ngũ hành
- Trung Quốc).
Bước tiến quan trọng nhất của sự phát triển phạm trù vật chất là định nghĩa vật
chất của hai nhà triết học Hy Lạp cổ đại là Leucippus (Lơxíp) và Democritos
(Đêmôcrít). Cả hai ông đều cho rằng, vật chất là nguyên tử.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định bản chất của thế giới này là thế giới
vật chất, trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, V.I.
Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin bao hàm các nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan - cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức và
không lệ thuộc vào ý thức, vô hạn và vô tận - Đây là đặc tính quan trọng nhất của vật chất.
Thông thường, chúng ta hay gọi cái xe, cái nhà, cái bút….là vật chất. Nhưng
trong triết học thì không phải vậy, nếu gọi cái xe là vật chất, cái nhà là vật chất… thì sẽ
không phản ánh được hết đặc tính của vật chất như khái niệm đã nêu. Vật chất là cái vô
cùng, vô tận, là một thế giới tồn tại bên ngoài ý thức con người, và như vậy nếu nói cái
xe là vật chất thì những cái núi, cái nhà, hành tinh xa xôi kia là cái gì? Do vậy, cái xe,
cái nhà, cái bàn….chỉ là một hình thức tồn tại, một dạng cụ thể của vật chất mà thôi.
Vật chất nó biểu hiện ra muôn vàn các dạng cụ thể, có cái chúng ta đã biết, có cái chúng
ta chưa biết.
Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem lại
cho con người cảm giác. Với nội dung này, định nghĩa đã trả lời cho câu hỏi vật chất và
ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau: Vật chất là cái có trước, là tính thứ nhất, là cội

3
nguồn của cảm giác (ý thức); còn cảm giác (ý thức) là cái có sau, là tính thứ hai, là cái
phụ thuộc vào vật chất.
Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó. Khẳng
định trên đây có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bác bỏ thuyết “bất khả tri”,
khẳng định con người có thể nhận thức được bản chất của thế giới.
d) Phương thức tồn tại của vật chất
Vận động là cách thức tồn tại, đồng thời là hình thức tồn tại của vật chất; không
gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Vận động theo nghĩa chung nhất là mọi
sự biến đổi nói chung. Không ở đâu và ở nơi nào lại có thể có vật chất không vận động.
Sự tồn tại của vật chất là tồn tại bằng cách vận động, Ví dụ như cái bàn, nó tồn tại
và ta cảm nhận được là nhờ nó đang vận động (các hạt phân tử, nguyên tử đang vận
động để cấu kết với nhau tạo nên chất liệu gỗ, sắt…) cái bàn nó đang trong quá trình
“già” đi, nhưng nó chậm nên ta không cảm nhận được.
Vật chất (dưới các dạng biểu hiện cụ thể của nó…như cái cây, cái bàn, cái nhà…)
luôn luôn trong quá trình biến đổi không ngừng. Mỗi một khoảnh khắc qua đi là ta đã già
thêm 1 khoảnh khắc, ta vừa nhận thức được ta thì nhận thức xong ta đã không còn là ta của
1 khoảnh khắc trước…và vì thế, Hê-ra-clit đã có một câu kinh điển “Không ai tắm hai lần
trên một dòng sông" để nói lên sự vận động không ngừng của thế giới vật chất.
- Sự vận động không ngừng của vật chất không những không loại trừ mà trái lại
còn bao hàm trong đó sự đứng im tương đối. Đứng im chỉ có tính tạm thời, chỉ xảy ra
trong một mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi mối quan hệ cùng một thời
điểm (Ví dụ: Con tàu trên sân ga thì con tàu chỉ đứng im trong mối quan hệ với sân ga,
còn nó đang chuyển động so với mặt trăng, hay bên trong đó, các hạt phân tử, nguyên tử
đang chuyển động), chỉ xảy ra với một hình thức vận động nào đó, ở một lúc nào đó,
chứ không phải cùng một lúc đối với mọi hình thức vận động (ví dụ ta đang ngồi im, thì
với hình thức vận động cơ học là ta đứng im, nhưng hình thức vận động sinh học thì ta
đang vận động (hít – thở).
2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức
a. Về nguồn gốc của ý thức:

Bộ óc người
(hoạt động bình thường)

Nguồn gốc
tự nhiên Thế giới khách quan
(Thế giới tồn tại bên ngoài ý thức)

Nguồn gốc
của ý thức Lao động (Lao động làm cho thế giới khách
Nguồn gốc quan bộc lộ bản chất để con người nhận thức)
xã hội
Ngôn ngữ (giúp con người tiếp nhận tri thức
và tư duy)

4
Nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần, còn nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ để
ý thức hình thành, tồn tại và phát triển. Nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự
ra đời và phát triển của ý thức là lao động.
b) Bản chất của ý thức
Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình
phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người. Thực chất, ý thức chỉ là
thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất đặc biệt là bộ óc người; nói cách khác, chỉ có
con người mới có ý thức.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là nội dung mà ý thức
phản ánh là khách quan, còn hình thức phản ánh là chủ quan. Hình ảnh (về vật chất bên
ngoài) trong đầu óc của con người được cải biến đi. Sự cải biến như thế nào tùy thuộc
vào nhiều yếu tố: đối tượng phản ánh, điều kiện lịch sử - xã hội, phẩm chất, năng lực,
kinh nghiệm sống của chủ thể phản ánh. Ví dụ đứng trước cùng một bức tranh, có người
hiểu hoặc không hiểu, người thấy xấu, người thấy đẹp, không ai giống ai vì nó bị chi
phối bởi yếu tố chủ quan của người xem (trình độ thẩm mỹ).
Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo, gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội. Tính
tích cực tự giác ở đây là con người phản ánh thế giới bên ngoài vào bộ óc có mục đích,
có định hướng, không phải là sự thụ động (ví dụ các bạn muốn tìm hiểu, muốn học về
ngành gì thì các bạn chủ động đăng ký học ngành đó). Sau khi phản ánh, ý thức sáng
tạo ra các tri thức mới và sau đó tác động quay trở lại cải tạo thực tiễn chứ không thụ
động nằm im trong não (ví dụ các bạn học, tiếp thu tri thức, sau đó tư duy, phát triển tri
thức đó, xong thì áp dụng tri thức để đi làm).
Như vậy, sáng tạo là đặc trưng bản chất nhất của ý thức. Tính sáng tạo của ý thức
không phải là ý thức sáng tạo ra vật chất mà ở chỗ ý thức sáng tạo ra những hình ảnh
mới trong bộ não (dựa trên những hình ảnh của thế giới khách quan). Ví dụ khi 1 cô gái
nhìn thấy 1 trai đẹp, họ đã sáng tạo thêm hình ảnh ngôi nhà và những đứa trẻ.
c) Kết cấu của ý thức
* Cấu trúc của ý thức (chiều ngang): Tri thức -Tình cảm - Niềm tin - Ý chí
* Các cấp độ của ý thức (chiều dọc): Tự ý thức - Tiềm thức - Vô thức
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
* Vật chất quyết định ý thức
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
* Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh
thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì
ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ thuộc một
cách máy móc vào vật chất, trong một số hoàn cảnh cụ thể thì vật chất không làm quyết
định được ý thức ví dụ như tiền bạc, gái đẹp không lung lay được ý chí con người. Ý
5
thức có thể thay đổi nhanh, chậm, song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung nó
thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất (Ví dụ xã hội đã thay đổi
nhưng ý thức trọng nam khinh nữ vẫn còn).
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Nếu bạn chỉ suy nghĩ trong đầu thì không thể thay đổi được hoàn
cảnh, nhưng từ ý nghĩ đó, bạn hành động thì có thể thay đổi được hoàn cảnh.
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con
người theo 2 hướng tích cực và tiêu cực (ví dụ như bạn bạn có ý thức đúng đắn về việc
học tập thì nó sẽ chỉ đạo hành động học tập đúng đắn và ngược lại)
Ý nghĩa phương pháp luận: Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học
Mác - Lênin, rút ra nguyên tắc phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp
với phát huy tính năng động chủ quan. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ
trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ
những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan, nếu không sẽ gây ra những hậu quả tai hại khôn lường. Nhận thức sự vật,
hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, tránh tô hồng hoặc bôi đen đối tượng, không được
gán cho đối tượng cái mà nó không có. Nhìn chung, nhận thức, cải tạo sự vật, hiện
tượng, phải xuất phát từ chính bản thân sự vật, hiện tượng đó với những thuộc tính, mối
liên hệ bên trong vốn có của nó. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy
ý chí; chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan. Phải
phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con người,
chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo;
phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng.
II- PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Phép biện chứng duy vật đã đưa ra nội dung gồm hai nguyên lý, sáu cặp phạm trù
và ba quy luật cơ bản.
1. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
* Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- “Mối liên hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ,
quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa
các đối tượng với nhau.
Liên hệ là quan hệ giữa hai đối tượng nếu sự thay đổi của một trong số chúng
nhất định làm đối tượng kia thay đổi.
- Tính chất của mối liên hệ phổ biến: Tính khách quan, tính phổ biến, tính đa
dạng phong phú.
- Từ nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, phép biện chứng khái quát
thành nguyên tắc toàn diện, lịch sử - cụ thể với những yêu cầu đối với chủ thể hoạt
động nhận thức và thực tiễn sau:
Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể
thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối liên hệ
của chỉnh thể đó (Ví dụ như đánh giá một sinh viên phải đánh giá trên nhiều mặt (diện
là cái mặt, toàn diện là nhiều mặt), tức là phải đặt sinh viên đó vào các mối liên hệ như
liên hệ giữa sinh viên A với nhiệm vụ học tập (sẽ làm bộc lộc việc A học thế nào), đặt A
6
trong mối liên hệ với nội quy sẽ làm bộc lộ việc chấp hành kỷ luật của A, đặt A trong
mối liên hệ với các phong trào (sẽ làm bộc lộ thái độ tham gia hoạt động chung của A) .
Thứ hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng
đó và nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại, bởi chỉ có như vậy, nhận thức
mới có thể phản ánh được đầy đủ sự tồn tại khách quan với nhiều thuộc tính, nhiều mối
liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của đối tượng. (Ví dụ trong nhiều mối liên hệ của A
thì phải xem xét mối liên hệ giữa A với nhiệm vụ học tập, A với nội quy là mối liên hệ
tất yếu, chủ yếu để xem xét đánh giá A)
Thứ ba, cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với
môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp; trong
không gian, thời gian nhất định, tức là cần nghiên cứu cả những mối liên hệ của đối
tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán tương lai. (Ví dụ như việc A đi học muộn
đầu khóa học, đến cuối năm học, đánh giá việc đi muộn của A thì phải xem xét việc đi
muộn đó trong không gian, thời gian, các mối liên hệ đầu năm học để đánh giá. Đầu
năm có thể A chưa thuộc đường, chưa nắm được nội quy, nên việc đi muộn có thể bỏ
qua, phải xem sau việc đi muộn đó, A có thay đổi không…)
Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ
thấy mặt này mà không thấy mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét dàn
trải, không thấy mặt bản chất của đối tượng. (Ví dụ: Mới nhìn thấy việc A đi muộn mà
đánh giá cả con người A là không tốt, thấy A đi với 1 cô gái mà đánh giá họ yêu nhau,
hoặc để đánh giá xem A có phải là sinh viên tốt không thì không tập trung đánh giá chủ
yếu vào mối liên hệ A với học tập, A với nội quy nhà trường, A với bạn bè, thầy cô mà
tập trung xem xét cả A với các mối liên hệ khác (ví dụ cả với thú cưng)…dẫn đến bị
loãng thông tin, ko đúng cái mình cần đánh giá, mang tính chất vơ đũa cả nắm.
* Nguyên lý về sự phát triển
Phát triển là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn. Như vậy, phát triển là vận động nhưng
không phải mọi vận động đều là phát triển, mà chỉ vận động nào theo khuynh hướng đi
lên thì mới là phát triển.
Phát triển có tính khách quan, tính phổ biến, có tính kế thừa, tính đa dạng, phong phú.
Nghiên cứu nguyên lý rút ra nguyên tắc phát triển. Nguyên tắc này yêu cầu:
Thứ nhất, khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu hướng
biến đổi của nó để không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được
khuynh hướng phát triển trong tương lai. (Ví dụ khi các bạn xem xét đăng ký học ngành
nào thì các bạn đã đặt nó trong sự vận động phát triển, tương lai nó phát triển ra sao, có
tạo ra cơ hội cho mình không???)
Thứ hai, cần nhận thức được rằng, phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn,
mỗi giai đoạn có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức,
phương pháp tác động phù hợp để thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển đó (Ví dụ như
quá trình phát triển của học sinh thì phải chia thành các cấp học để có tác động cho phù
hợp với sự phát triển)
Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện
cho nó phát triển; chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. (Ví dụ bạn đang lười,
7
một hôm bạn quyết tâm dậy sớm tập thể dục, đó là cái mới tiến bộ, bạn phải quan tâm
và để cho cái mới đó tiếp tục phát triển)
Thứ tư, trong quá trình thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới phải biết kế thừa các
yếu tố tích cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
2. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
* Cái riêng và cái chung
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng nhất định. (Ví
dụ trong lớp học của chúng ta, mỗi một bạn sinh viên là một cái riêng; trong một hồ cá,
mỗi con cá là một cái riêng)
Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm chỉ vốn có ở
một sự vật, hiện tượng (một cái riêng) nào đó mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng nào
khác. (Ví dụ như dấu vân tay của mỗi người là một cái đơn nhất)
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không
những có ở một sự vật, hiện tượng nào đó, mà còn lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng
(nhiều cái riêng) khác. (Ví dụ như trong lớp chúng ta, 150 người là 150 cái riêng, từ 150
cái riêng đó rút ra được cái chung đều là sinh viên, đều trẻ, đều học môn triết học…các
con cá trong hồ thì có cái chung là sống dưới nước, có mang, bơi…)
- Không có cái chung thuần tuý tồn tại ngoài cái riêng, cái chung thông qua cái
riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình
Ví dụ: Cái chung của những con cá là động vật có xương sống, ở dưới nước, bơi
bằng mang, thở bằng vây. Cái chung này không tồn tại độc lập, ta không thể cầm nắm
được nó mà chỉ có thể rút ra được từ mỗi một con cá riêng.
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là, không có cái
riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung.
Bởi vì: Một mặt, bất cứ cái riêng nào cũng tồn tại trong một môi trường, hoàn cảnh
nhất định, có liên hệ với các sự vật hiện tượng xung quanh, bất cứ cái riêng nào trong quá
trình tồn tại và phát triển của nó cũng chịu sự chi phối của cái chung, quy luật chung.
Ví dụ: Mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi người không thể tồn tại ngoài
mối liên hệ với xã hội và tự nhiên. Không cá nhân nào không chịu sự tác động của các
quy luật sinh học và quy luật xã hội. Đó là cái chung trong mỗi con người.
- Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung; cái chung là cái bộ phận,
nhưng sâu sắc hơn, bản chất hơn cái riêng. Nghĩa là, cái riêng là cái chỉnh thể, nó
không gia nhập hết vào cái chung; còn cái chung chỉ là một mặt, một khía cạnh hay một
bản chất của cái riêng.
Ví dụ: Người nông dân Việt Nam bên cạnh những cái chung với nông dân của các
nước trên thế giới là có tư hữu nhỏ, sản xuất nông nghiệp, sống ở nông thôn còn có đặc
điểm riêng là chịu ảnh hưởng của văn hóa làng xã, của các tập quán lâu đời của dân tộc,
của điều kiện tự nhiên của đất nước nên rất cần cù lao động, có khả năng chịu đựng
được những khó khăn trong cuộc sống.
Ví dụ: Mỗi sinh viên A, B, C có những thuộc tính riêng về hình dáng, hoàn cảnh
gia đình, trình độ nhận thức, đoàn viên, lớp trưởng nhưng đều là sinh viên của lớp.

8
- Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hoá được cho nhau trong những điều
kiện nhất định. Nghĩa là, trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong những
điều kiện nhất định, cái đơn nhất có thể biến thành cái chung, và ngược lại.
Ví dụ: Cái chung của các lớp là lười học, sau khi động viên các bạn, sự lười học
giảm xuống chỉ còn xuất hiện ở 100 bạn, rồi 50 bạn, rồi 10, 1 bạn. Hiện tượng tiêu cực
trên trở thành cá biệt, đơn lẻ.
Ví dụ: Phương pháp học tập môn triết đạt hiệu qủa lúc đầu chỉ có ở học viên A.
Sau một thời gian, phương pháp này đã được tất cả các học viên áp dụng đem lại kết
quả tốt. Như vậy từ cái đơn nhất - cái riêng đã trở thành cái chung.
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong nhận thức và cải tạo thực tiễn phải phát hiện cái chung trong cái riêng, xuất
phát từ cái riêng thông qua cái riêng, tránh xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người.
- Trong nhận thức và hoạt động phải vươn tới cái chung, dựa vào cái chung để cải
tạo cái riêng; gắn liền nguyên lý chung với điều kiện, hoàn cảnh riêng.
- Trong hoạt động thực tiễn cần tạo điều kiện, hoàn cảnh thuận lợi để cái đơn nhất
tích cực trở thành cái chung và cái chung bất lợi trở thành cái đơn nhất.
Ví dụ: Nhân rộng gương điển hình tiên tiến, cá nhân học giỏi trong lớp, hạn chế
tình trạng học viên học yếu, chấp hành quy định học tập không nghiêm.
- Nắm vững mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng để có phương pháp giải quyết
và phát triển mối quan hệ giữa cá nhân với tập thể; cá nhân với cá nhân; giữa cục bộ và
toàn thể trong hoạt động thực tiễn.
* Nguyên nhân – Kết quả
- Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tương tác giữa các mặt trong một sự
vật, hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra những biến đổi nhất định.
- Kết quả là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn
nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
Ví dụ: Sự tương tác giữa điện và dây dẫn (là nguyên nhân gây) nên bóng đèn
sáng (Kết quả).
Tiếng vỗ tay là do sự tương tác giữa 2 bàn tay. Nguyên nhân của tình yêu tan
vỡ là do sự tác động qua lại giữa hai người không tốt hoặc sự tác động của người thứ
3 vào tình yêu đó.
Nếu nói nguyên nhân bị cảm cúm là do vi rút hoặc thời tiết thì chưa đúng vì vi
rút, thời tiết nó vẫn tồn tại, nếu nó không tác động vào cơ thể mình thì mình sẽ không
bị ốm. Như vậy phải nói chính xác là: nguyên nhân của việc bị cảm cúm là sự tác
động của vi rút vào cơ thể ta.
- Quan hệ nhân - quả mang tính khách quan, phổ biến và tất yếu
- Nguyên nhân sinh ra kết quả
+ Nguyên nhân sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả; còn
kết quả bao giờ cũng có sau khi nguyên nhân đã xuất hiện.
Tuy nhiên không phải hai hiện tượng nào nối tiếp về mặt thời gian cũng là quan
hệ nhân - quả; chỉ những mối liên hệ nối tiếp về mặt thời gian và có quan hệ sản sinh
mới là quan hệ nhân - quả.
9
Ví dụ: Ngày - đêm; bốn mùa; sấm - chớp không phải là nhân - quả của nhau.
Nguyên nhân của ngày và đêm là do trái đất tự quay quanh trục của nó; Nguyên nhân
sinh ra sấm và chớp là do sự phóng điện giữa hai đám mây mang điện tích trái dấu.
+ Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra; và một nguyên nhân trong
những điều kiện khác nhau cũng có thể sinh ra những kết quả khác nhau.
Ví dụ: Phẩm chất đạo đức của một học sinh có được vừa là kết quả phấn đấu của
bản thân, vừa là kết quả giáo dục phối hợp của cả gia đình, nhà trường và toàn xã hội
(các nguyên nhân tác động cùng lúc).
- Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân
Kết quả là do nguyên nhân sinh ra, nhưng sau khi xuất hiện kết quả lại coảnh
hưởng trở lại đối với nguyên nhân. Sự ảnh hưởng của kết quả đối với nguyên nhân diễn
ra theo hai hướng: thúc đẩy hay cản trở sự hoạt động của nguyên nhân.
Ví dụ: Kết quả học tập tốt sẽ làm cho người học ngày càng hứng thú, say mê học
tập; ngược lại sẽ ngày càng chán nản, không muốn học.
- Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau. Nghĩa là, cái ở trong
mối quan hệ này là nguyên nhân thì ở trong mối quan hệ khác lại là kết quả, và ngược
lại. Do tính vô cùng vô tận của thế giới nên sự thay đổi này không có điểm kết thúc. Có
một vấn đề thú vị ở đây đó là câu hỏi muôn thuở: Con gà có trước hay quả trứng có
trước (sự tác động giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài của con gà là nguyên nhân
sinh ra quả trứng hay sự tác động giữa các yếu tố bên trong quả trứng và bên ngoài là
nguyên nhân sinh ra con gà? Chúng ta chỉ có thể xác định được cái nào là nguyên nhân
của cái nào khi xác định ở con gà hoặc quả trứng cụ thể. Tức là con gà và quả trứng đó
phải tồn tại hiện thực, trước mặt ta chẳng hạn, thì khi con gà đẻ, quả trứng ở ta có xác
định được con gà đó là nguyên nhân sinh ra quả trứng đó…)
Ý nghĩa phương pháp luận
- Mối quan hệ nhân - quả có tính khách quan và phổ biến. Chúng ta phải đi tìm
nguyên nhân từ hiện thực khách quan chứ không nên suy diễn chủ quan.
- Nguyên nhân có trước kết quả vì vậy phải tìm nó ở những mối liên hệ trước đó.
- Một kết quả do nghiều nguyên nhân sinh ra. Vì vậy chúng ta phải tìm ra các
nguyên nhân và phân loại nguyên nhân để có phương pháp tác động cho phù hợp.
- Nguyên nhân, kết quả tồn tại gắn với những điều kiện nhất định, vì vậy, cần tạo
điều kiện để nguyên nhân biến thành kết quả.
- Khi có kết quả phải tiếp tục tạo điều kiện và tác động vào sự vật bởi vì nó sẽ là
nguyên nhân cho kết quả tiếp theo.
* Tất nhiên và ngẫu nhiên
- Tất nhiên là cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong kết cấu vật chất quyết
định và trong những điều kiện nhất định phải xảy ra như thế chứ không thể khác được.
Ví dụ: Nếu tôi chăm học, có phương pháp học tốt, kết quả cao là tất nhiên.
- Ngẫu nhiên là cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong của kết cấu, bên trong
sự vật quyết định mà do các nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh
bên ngoài quyết định; do đó, nó có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện
như thế này, hoặc có thể xuất hiện như thế khác.

10
Ví dụ: Quy trình học tập: Thi. Kiểm tra là tất nhiên, nhưng kiểm tra bài nào, câu nào
là ngẫu nhiên.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, phổ biến
Tức là tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại tồn tại ở bên ngoài và độc lập với ý thức
của con người và đều có vị trí nhất định đối với sự phát triển của sự vật.
Trong quá trình phát triển của sự vật, tất nhiên và ngẫu nhiên đều có vai trò quan
trọng: tất nhiên chi phối sự phát triển của sự vật, còn ngẫu nhiên làm cho sự phát triển
của sự vật diễn ra nhanh hoặc chậm.
Tất nhiên là: Chăm chỉ lao động, tiết kiệm thì ta sẽ có tiền để dành. Tuy nhiên,
ngẫu nhiên trúng số hoặc ngẫu nhiên bị bệnh sẽ làm cho quá trình để dành tiền của ta
diễn ra nhanh hay chậm.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên không tồn tại biệt lập với nhau, mà luôn tồn tại trong
sự thống nhất hữu cơ với nhau
+ Tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình xuyên qua vô số cái ngẫu
nhiên. Ví dụ: Cây cam phát triển, năm nay gặp hạn hán, năm sau gặp sâu bệnh làm cho
sản lượng thấp - đó là cái ngẫu nhiên, nhưng từ nhiều cái ngẫu nhiên đó ra rút ra cái tất
nhiên: Cây cam được tưới nước đầy đủ, phòng trừ sâu bệnh tốt sẽ cho sản lượng cao.
+ Ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên, bổ sung cho tất nhiên: nó làm phong
phú thêm tất nhiên, là cho tất nhiên đa dạng, nhiều vẻ và được bộc lộ ra một cách sinh động, cụ
thể. Ngẫu nhiên nhiều khi tác động đem lại kết quả cùng chiều với tất nhiên.
Ví dụ: Có những phát minh khoa học ra đời một cách “ngẫu nhiên”, góp phần bổ
sung vào cái tất nhiên của quá trình nghiên cứu. Chẳng hạn, Niutơn tìm ra định luật
“vạn vật hấp dẫn” do tình cờ bị quả táo rơi vào đầu. Ácsimét tìm ra lực đẩy khi ông
đang tắm (Ơrêka).
- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoá cho nhau trong những điều kiện nhất định.
Ví dụ: Việc trao đổi vật này lấy vật khác trong xã hội công xã nguyên thủy lúc
đầu chỉ là việc ngẫu nhiên, vì khi đó lực lượng sản xuất thấp kém, mỗi công xã chỉ sản
xuất đủ cho riêng mình dùng, chưa có sản phẩm dư thừa. Nhưng về sau, nhờ có sự phân
công lao động, kinh nghiệm sản xuất của con người cũng được tích lũy, con người đã
sản xuất được nhiều của cải hơn và có sản phẩm dư thừa. Khi đó sự trao đổi sản phẩm
trở nên thường xuyên hơn và biến thành một hiện tượng tất nhiên của xã hội.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải căn cứ vào cái tất nhiên, nhưng
không được bỏ qua cái ngẫu nhiên, phải thông qua ngẫu nhiên để tìm ra cái tất nhiên.
- Cần có những phương án dự phòng trong các trường hợp cái ngẫu nhiên bất ngờ
xuất hiện và tạo những điều kiện cần thiết để ngăn cản hoăc làm chuyển hóa những
ngẫu nhiên theo mục đích của mình.
* Nội dung và hình thức
- Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố những quá trình tạo nên sự vật.
- Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối
liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó.

11
Cần lưu ý, hình thức mà triết học đề cập không phải là hình thức bên ngoài như
màu sắc, hình vẽ của cuốn sách hay là hình thức trang trí bên ngoài của ngôi nhà. Hình
thức ở đây là hình thức bên trong.
Một ngôi nhà thì nội dung của nó là phòng khách, phòng ăn, phòng ngủ, nhà vệ
sinh. Hình thức là sự sắp xếp bố trí các phòng đó như thế nào trong ngôi nhà đó.
Một đội bóng thi đấu, các cầu thủ là nội dung, hình thức là cách thức tổ chức sắp
các vị trí và cách đá (chiến thuật).
- Mọi sự vật đều có nội dung và hình thức, đây là hai mặt đối lập có quan hệ biện
chứng với nhau: Trong đó nội dung quyết định hình thức, hình thức có tính độc lập
tương đối, tác động trở lại nội dung. Nội dung thay đổi trước, hình thức sẽ thay đổi sau.
- Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức
Nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất.
Nghĩa là, nội dung bao giờ cũng tồn tại trong một hình thức nhất định, không có nội
dung chung chung tồn tại tách rời hình thức; không có hình thức tồn tại thuần tuý không
chứa đựng nội dung, tách rời nội dung. Nội dung nào, hình thức ấy.
Ví dụ: Nội dung học tập có nhiều hình thức thể hiện: Giảng bài, thảo luận, bài
tập, viết thu hoạch, tiểu luận, kiểm tra, thi.
- Nội dung quyết định hình thức trong quá trình vận động phát triển của sự vật,
hiện tượng.
Ví dụ trong một đội bóng đá, nội dung (các cầu thủ) sẽ quyết định hình thức đá (nếu
đa số có xu hướng đá tiến công thì hình thức tổ chức chiến thuật sẽ thiên về tiến công).
- Hình thức tác động trở lại nội dung
Ví dụ trong 1 công ty, nội dung là những nhân viên, có nhân viên tích cực, sáng
tạo, có năng lực quản lý, có nhân viên ở mức bình thường, nếu hình thức tổ chức quản
lý mà cào bằng, đãi ngộ như nhau thì sẽ làm triệt tiêu sự cố gắng của các nhân viên tích
cực. Nếu hình thức tổ chức quản lý phù hợp (phân định mức lương, bố trí người tích cực
ở vị trí phù hợp) sẽ làm cho các nhân viên có động lực phấn đấu.
- Nội dung và hình thức có thể chuyển hoá cho nhau tuỳ theo quan hệ đem xét.
Cái ở trong mối quan hệ này là nội dung, thì ở trong mối quan hệ khác lại có thể là hình
thức và ngược lại.
Ví dụ: Xét trong mối quan hệ với việc truyền thụ tri thức thì bài giảng là một hình
thức tổ chức dạy học, nhưng khi xét trong mối quan hệ với chương trình môn học thì bài
giảng lại là một nội dung dạy học của môn giáo dục học trong các nhà trường.
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn tránh sự tách rời giữa nội dung và
hình thức hoặc tuyệt đối hóa từng mặt (chống chủ nghĩa hình thức: Phô trương hào
nhoáng, không đi vào thực chất nội dung; song cũng tránh xem nhẹ hình thức).
- Sử dụng nhiều hình thức phong phú, đa dạng để đáp ứng yêu cầu của nội dung.
Ví dụ: Giáo dục lịch sử, truyền thống cho thanh niên hiện nay phải sử dụng tổng
hợp nhiều hình thức.
- Phải đi sâu nắm được nội dung mới hiểu rõ sự vật. Đồng thời tìm những hình
thức phù hợp để tạo điều kiện cho nội dung tồn tại phát triển.
12
* Bản chất và hiện tượng
- Bản chất là phạm trù chỉ tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tạo
thành một thể thống nhất hữu cơ bên trong quy định sự vận động và phát triển của sự vật.
- Hiện tượng là biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ bản chất ra bên ngoài.
Ví dụ: Bản chất của 1 sinh viên là tốt thì nó sẽ biểu hiện ra hiện tượng bên ngoài
là chăm học, hòa đồng, giúp đỡ mọi người, tích cực làm việc tốt cho xã hội.
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng: Bản chất và hiện tượng tồn tại
thống nhất trong sự vật. Bản chất qui định hiện tượng; hiện tượng là cái biểu hiện của
bản chất. Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo.
Ví dụ: Bản chất của A là chung thủy, hiện tượng sẽ biểu hiện ở việc A quan tâm,
chăm lo bạn gái, A không có mối quan hệ gian gian díu díu mập mờ nào với người khác.
Người bị nghiện hút sẽ biểu hiện qua các hiện tượng là gầy gò, môi thâm, hay
ngáp vặt, sợ nước.
- Tính chất mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng: Đây là sự đối lập giữa cái
bên trong với cái bên ngoài; giữa cái tương đối ổn định với cái thường xuyên biến đổi.
+ Bản chất là cái bên trong, sâu sắc hơn hiện tượng; hiện tượng là cái bên ngoài,
phong phú hơn bản chất.
+ Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm, còn hiện tượng thường xuyên biến
đổi hơn so với bản chất.
+ Hiện tượng xuyên tạc bản chất. Ví dụ như A có bản chất xấu, hay đi dụ dỗ các
cô gái, A sẽ dùng các hiện tượng giả như quan tâm chăm lo, ăn mặc bảnh bao, ga lăng…
để đạt được mục đích xấu. Bọn đa cấp dùng các hiện tượng như ăn mặc lịch sự, dùng đồ
đắt tiền, nói lời hoa mỹ để che dấu bản chất bên trong và dụ dỗ sinh viên.
Ý nghĩa phương pháp luận.
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn muốn hiểu đầy đủ, đúng đắn về sự vật
phải truy tìm bản chất thông qua các hiện tượng, chú trọng đến hiện tượng điển hình
để tìm ra bản chất.
- Chú ý: Hiện tượng có thể đánh lừa bản chất. Tránh việc chỉ xem xét một vài
hiện tượng đã đánh giá bản chất.
* Khả năng và hiện thực
- Khả năng là cái hiện chưa có, chưa tới, nhưng sẽ có, sẽ tới khi chúng có điều
kiện tương ứng.
Khả năng là cái “hiện chưa có”, không có nghĩa khả năng không tồn tại, chỉ có
sự vật được nói tới trong khả năng chưa tồn tại, còn bản thân khả năng thì tồn tại.
- Hiện thực là tất cả những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự.
Hiện thực bao gồm tất cả những sự vật hiện tượng vật chất đang tồn tại khách
quan trong thực tế và cả những gì đang tồn tại trong ý thức của con người.
Ví dụ: Trước mắt ta đang có: gỗ, cưa, đục, đinh đó là hiện thực. Từ đó nảy sinh ý
định làm ra cái bàn. Trong trường hợp này cái bàn là chưa có, chưa tồn tại trên thực tế
nhưng khả năng xuất hiện cái bàn trong tương lai thì đã tồn tại.

13
- Tiêu chí căn bản để phân biệt khả năng với hiện thực là ở chỗ: khả năng là cái
hiện chưa có, còn hiện thực là cái hiện đang có, hiện đang tồn tại.
- Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chuyển hóa
lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật
Vì hiện thực được chuẩn bị từ khả năng, còn khả năng hướng tới trở thành hiện
thực. Hiện thực này trong quá trình phát triển nội tại của mình, lại sinh ra các khả năng
mới, các khả năng mới ấy trong những điều kiện thích hợp lại biến thành hiện thực mới
và cứ thế tiếp tục mãi, tạo thành một quá trình vô tận.
- Trong điều kiện mới sự vật xuất hiện khả năng mới, đồng thời khả năng cũng
thay đổi theo điều kiện
+ Ngoài những khả năng vốn sẵn có, trong những điều kiện mới thì sự vật sẽ xuất
hiện thêm những khả năng mới.
Ví dụ: Với khả năng sẵn có nếu trong điều kiện huy động được nhiều vốn đầu tư
của nước ngoài thì chúng ta có nhiều khả năng thực hiện thành công chương trình “xoá
đói, giảm nghèo”; thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; vươn
lên chống tụt hậu xa hơn về kinh tế.
+ Ngay bản thân mỗi khả năng cũng có sự thay đổi, tuỳ theo những biến đổi cụ
thể của sự vật trong những điều kiện cụ thể.
Ví dụ: Trong một trận chiến đấu có thể biến khả năng thất bại thành chiến thắng, và
ngược lại; hoặc biến khả năng rút lui chiến lược thành một cuộc tháo chạy hoảng loạn.
- Khả năng biến thành hiện thực đòi hỏi phải gắn những điều kiện nhất định
+ Khi có thêm những điều kiện mới bổ sung thì sự vật xuất hiện thêm những khả
năng mới. Ngoài ra, ngay bản thân mỗi khả năng cũng có sự thay đổi. Nó tăng lên hoặc
giảm đi là tùy thuộc vào sự biến đổi của sự vật trong những điều kiện nhất định. Khả
năng biến thành hiện thực không phải chỉ 1 điều kiện mà là tập hợp nhiều điều kiện.
Ví dụ: Để một hạt giống nảy mầm cần hội tụ đủ các điều kiện: Nước, độ ẩm, ánh sáng.
+ Trong lĩnh vực xã hội, bên cạnh điều kiện khách quan, khả năng muôn biến
thành hiện thực cần có điều kiện chủ quan là họat động thực tiễn của con người.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong xem xét và hoạt động thực tiễn phải dựa trên cơ sở hiện thực để phát hiện
khả năng của chúng; dựa vào hiện thực để đề ra chủ trương, phương hướng hành động.
Đồng thời phải tạo mọi điều kiện cần thiết để khả năng biến thành hiện thực. Biết lựa
chọn, dự kiến các khả năng gần, xa, tất nhiên, ngẫu nhiên và phương án hành động khi
các khả năng có thể xảy ra.
- Phát huy yếu tố nguồn lực con người, tính năng động, sáng tạo của họ để có thể
biến khả năng thành hiện thực. Trong học tập của sinh viên cần phát hiện, bồi dưỡng cá
nhân, tập thể để xây dựng thành những cá nhân điển hình, tập thể tiên tiến.
3. Các quy luật của phép biện chứng duy vật
* Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất và ngược lại
Vị trí của quy luật: Là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật chỉ ra
cách thức, trạng thái sự vận động phát triển của sự vật.
14
- Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó mà không
phải là cái khác.
+ Chất là khách quan vốn có của sự vật, không có chất chung chung. Nó được xác
định bởi các yếu tố cấu thành nó và phương thức liên kết giữa chúng.
Ví dụ: Quân đội có thuộc tính anh dũng. Thuộc tính này chỉ được biểu hiện ra
trên chiến trường, trước mặt kẻ thù.
+ Chất là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính của sự vật.
Ví dụ: Tổng hợp các thuộc tính như: Có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ kỹ
chiến thuật tốt, có ý thức tự giác nghiêm minh… nói lên chất của người quân nhân cách
mạng, để phân biệt với các thành viên của các tổ chức khác.
Lượng là phạm trù triết học chỉ tính quy định vốn có của sự vật được biểu thị
bằng số lượng, quy mô, trình độ, tốc độ, nhịp điệu của sự vận động phát triển của sự vật
cũng như các thuộc tính của nó.
+ Lượng sự vật tồn tại khách quan.
+ Lượng biểu thị bằng số lượng các thuộc tính, tổng số các bộ phận đại lượng.
+ Sự vật càng phức tạp thì thông số về lượng càng nhiều, có lượng đo đếm được,
có lượng phải được nhận thức bằng tư duy trừu tượng.
+ Sự phân biệt giữa chất lượng chỉ có giá trị trong những quan hệ tồn tại, ngoài ra
chúng có thể chuyển hóa thay đổi.
- Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng. Phát triển của các
sự vật, hiện tượng trong thế giới diễn ra từ sự thay đổi dần dần về lượng, đến một mức
độ nhất định (điểm nút) vượt quá “độ” sẽ xảy ra sự thay đổi về chất. Chất mới ra đời
tạo điều kiện cho sự biến đổi tiếp tục về lượng tạo nên sự vận động không ngừng của
thế giới vật chất.
“Độ”: Là khoảng giới hạn mà sự biến đổi về lượng chưa làm biến đổi về chất của
sự vật (sự vật còn là nó)
- Phát triển của các sự vật diễn ra từ sự thay đổi dần dần về lượng, đến một mức
độ nhất định (điểm nút) vượt quá “độ” sẽ xảy ra sự thay đổi về chất của sự vật thông
qua “bước nhảy”
+ Phát triển của sự vật bao giờ cũng đi từ sự biến đổi từng bước, tiệm tiến dần
dần về lượng vì: Lượng là tổng số... nên tích lũy phải từng bước, từng bộ phận theo
chiều hướng tiệm tiến.
+ Quá trình tích lũy sẽ dẫn đến chuyển hóa các bộ phận, khi các bộ phận căn bản
chuyển hóa dẫn tới “điểm nút”. “Điểm nút”: Là điểm giới hạn mà ở đó sự thay đổi về
lượng sẽ làm thay đổi về chất của sự vật.
+ Lượng tiếp tục thay đổi sẽ làm biến đổi về chất của sự vật thông qua “bước
nhảy”. “Bước nhảy”: Là sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng trước
đó gây ra.
Như vậy, phát triển của sự vật vừa mang tính liên tục vừa đứt đoạn tạo nên những
đường nút vô tận trong sự vận động phát triển của thế giới vật chất.

15
- Chất mới ra đời tạo điều kiện cho sự biến đổi tiếp tục về lượng. Cứ như thế sự
vật phát triển không ngừng
Thực chất cái gọi là chất mới chính là sự ra đời của sự vật mới với hệ thống các
mối quan hệ lượng và chất mới sẽ tạo điều kiện để làm thay đổi quy mô nhịp độ vận
động phát triển của sự vật hiện tượng.
+ Chất mới ra đời tác động trở lại lượng của sự vật.
+ Chất mới làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu phát triển của sự vật.

Bước nhảy
Độ
Vẫn là nước (là chất cũ) Biến thành hơi

Nước (Chất mới)

5°C 100°C Điểm


nút

Ý nghĩa phương pháp luận


- Để thay đổi về chất phải biết tích lũy về lượng để thay đổi về chất và kiên quyết
thực hiện bước nhảy khi tích lũy đủ về lượng. (Ví dụ: Để thay đổi từ chất sinh viên sang
chất người lao động có trình độ cử nhân thì phải đi từ tích lũy về lượng (lượng ở đây là
kiến thức, kỹ năng).
- Chống lại quan điểm “tả khuynh” chủ quan, nóng vội, duy ý chí, khi lượng chưa
biến đổi đến độ nhất định đã thực hiện bước nhảy.
- Chống lại quan điểm “hữu khuynh” bảo thủ, trì trệ khi lượng đã biến đổi đến độ
nhất định nhưng không dám thực hiện bước nhảy.
- Phải thấy được tính đa dạng của các bước nhảy, vận dụng linh hoạt các hình
thức bước nhảy trong quá trình phát triển.
- Khi đã hình thành chất mới, cần tiếp tục tích luỹ về lượng mới thúc đẩy sự vật
phát triển không ngừng.
* Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn)
Vị trí của quy luật: Là một trong ba quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng
duy vật là “hạt nhân” của phép biện chứng. Quy luật mâu thuẫn nó vạch ra nguồn gốc
của sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
- Mặt đối lập là một phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những
khuynh hướng, trái ngược nhau làm nên chỉnh thể một sự vật, hiện tượng.
16
Ví dụ: Lực hút - lực đẩy trong các hành tinh; Điện tích dương - điện tích âm trong
nguyên tử; Giai cấp thống trị - giai cấp bị trị trong xã hội có giai cấp.
Không nên nhầm lẫn mặt đối lập với mâu thuẫn vì mỗi mâu thuẫn phải có hai mặt
đối lập. Không phải bất kỳ mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn vì chỉ có mặt đối
lập nào nằm trong một chỉnh thể có liên hệ khăng khít với nhau tác động qua lại với
nhau mới tạo thành mâu thuẫn.
- Khái niệm mâu thuẫn biện chứng
Là sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau của các mặt, những đặc điểm, những
thuộc tính, những khuynh hướng trái ngược nhau cùng tồn tại trong một thể thống nhất.
Ví dụ: Hạt nhân Proton (+) và điện tử electron (-); lực hút và lực đẩy giữa các vật thể.
Mọi sự vật hiện tượng đều là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Thống nhất của các mặt đối lập là tạm thời, tương đối, là điều kiện của đấu tranh; đấu
tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối, là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát
triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới.
- Mọi sự vật hiện tượng đều là sự thống nhất của các mặt đối lập
Thống nhất của các mặt đối lập là một trạng thái của mâu thuẫn trong đó các mặt
đối lập cùng tồn tại bởi sự ràng buộc, nương tựa vào nhau, trong thế tác động ngang
nhau và trên cơ sở có sự giống nhau, đồng nhất giữa chúng.
Ví dụ sinh viên tồn tại là do sự thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt đối lập: Nhu
cầu có trình độ cử nhân và trình độ hiện có của sinh viên. Đây cũng là mâu thuẫn cơ
bản, nếu không có mâu thuẫn này thì không tồn tại người sinh viên. Không có nhu cầu
trình độ cử nhân thì không đi học và không có sinh viên; hoặc trình độ hiện có của sinh
viên đã đạt đến trình độ cử nhân thì ra trường và người sinh viên cũng biến mất.
Người thất tình tồn tại là vì có sự thống nhất giữa hai mặt đối lập: Nhu cầu được
yêu và không có được tình yêu. Hai mặt đối lập này tạo thành mâu thuẫn chủ yếu bên
trong người thất tình. Nếu một trong hai mặt đối lập mất đi thì mâu thuẫn mất đi, người
thất tình không còn tồn tại.
- Mọi sự vận động phát triển của sự vật hiện tượng đều là sự đấu tranh của các
mặt đối lập
Đấu tranh của các mặt đối lập là trạng thái của mâu thuẫn ở đó các mặt đối lập
tác động qua lại theo xu hướng bài trừ phủ định lẫn nhau dẫn tới sự chuyển hóa lẫn nhau
giữa chúng.
Khi có điều kiện chín muồi, hai mặt đối lập chuyển hóa cho nhau mâu thuẫn được
giải quyết. Sự thống nhất giữa hai mặt đối lập bị phá vỡ, sự vật cũ mất đi sự vật mới ra
đời vận động phát triển từ thấp đến cao. Ví dụ như trình độ của hiện có của sinh viên đã
đạt đến trình độ của cử nhân, mâu thuẫn được giải quyết, tân cử nhân ra đời, đó là một
sự phát triển.
Phân loại mâu thuẫn
+ Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài
+ Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
+ Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu
+ Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng
17
Ý nghĩa phương pháp luận
- Thực hiện theo nguyên tắc “phân đôi cái thống nhất và nhận thức các mặt đối
lập của nó”.
- Phải biết phân loại mâu thuẫn. Đặc biệt chú ý đến mâu thuẫn bên trong, mâu
thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu.
- Tích cực đấu tranh, có phương pháp phù hợp để giải quyết từng loại mâu thuẫn.
- Chống mọi biểu hiện không thừa nhận mâu thuẫn; đánh giá không đúng vị trí
vai trò của từng mâu thuẫn; dung hoà mâu thuẫn.
* Quy luật phủ định của phủ định
Vị trí của quy luật: Là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, nói
lên khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc của các sự vật hiện tượng trong thế giới.
- Khái niệm phủ định
Là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.
Nghĩa là một sự vật, hiện tượng nào đó xuất hiện, tồn tại rồi mất đi.
Ví dụ: Hạt thóc bị phủ định khi bị đem nấu thành cơm.
- Khái niệm phủ định biện chứng
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, là
mắt khâu cho quá trình dẫn tới sự ra đời của sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ.
Ví dụ: Người sinh viên phủ định người học sinh trong chính bản thân ta.
Đặc trưng của phủ định biện chứng là có Tính khách quan và Tính kế thừa.
Nội dung quy luật
Sự vận động phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới diễn ra mang tính
chu kỳ, thông qua nhiều lần phủ định biện chứng liên tục, với hai lần phủ định cơ
bản (và có thể có những lần phủ định không cơ bản) thì tái lập được sự vật ban đầu
nhưng trên cơ sở cao hơn. Khuynh hướng chung của sự vận động là phát triển nhưng
con đường quanh co phức tạp theo hình xoáy ốc.
- Phát triển của sự vật, hiện tượng là quá trình phủ định biện chứng liên tục từ
thấp đến cao
Ví dụ: Từ chiếc máy tính thuộc thế hệ đầu tiên do Kỹ sư Konrad Zuse hoàn thành
(1936) đến các thế hệ máy tính hiện đại phải trải qua nhiều lần không ngừng hoàn thiện.
- Phát triển mang tính chu kỳ, mỗi chu kỳ thường có hai lần phủ định cơ bản và
có thể có nhiều lần phủ định trung gian.
Ví dụ: Hạt lúa → PĐ1 Cây lúa → PĐ2 Bông lúa.
Tằm → PĐ1 Nhộng → PĐ2Ngài → Trứng PĐ3 → PĐ4Tằm.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu biết một cách đúng đắn về khuynh
hướng phát triển của sự vật, hiện tượng.
- Biết phát hiện phát hiện đúng, kịp thời cái mới và tin tưởng sẽ chiến thắng cái
lạc hậu, vì nó là cái ra đời phù hợp với quy luật phát triển của sự vật.
- Trong giới tự nhiên, phủ định được diễn ra một cách tự phát, còn lĩnh vực xã hội
phải có sự tham gia của con người có ý thức.
18
4. Lý luận nhận thức duy vật biện chứng
- Nguồn gốc nhận thức bắt nguồn từ thế giới vật chất tồn tại độc lập với con người
- Bản chất của nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo TGKQ
vào đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn.
- THỰC TIỄN là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch
sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên, xã hội và tư duy.
Có 3 hình thức hoạt động thực tiễn: Hình thức sản xuất vật chất, hình thức hoạt
động chính trị xã hội, hình thức thực nghiệm khoa học.
- Vai trò của thực tiễn với nhận thức:
+ Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức
+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý
Các giai đoạn của quá trình nhận thức

Giai đoạn nhận thức cảm tính


Nhận thức lý tính (Tư duy trừu tượng )
(Trực quan sinh động)
Mang lại cho ta tri thức lý luận
Ta chưa nhận thức được bản chất sự vật

Cảm giác Tri giác Biểu tượng Khái niệm Phán đoán Suy lý

Nhận thức

* Cấp độ của quá trình nhận thức


- Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận
+ Nhận thức kinh nghiệm: Là loại nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự
vật hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học. Kết quả của
nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm
+ Nhận thức lý luận: Là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát về bản chất,
quy luật của các sự vật hiện tượng dựa trên tri thức kinh nghiệm. Nó mang tính hệ thống
và sâu sắc hơn, chính xác hơn nhận thức kinh nghiệm
- Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học
+ Nhận thức thông thường: Là nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ
hoạt động hàng ngày của con người.
+ Nhận thức lý luận: Là nhận thức được nhìn thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự
phản ánh những đặc điểm bản chất, quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu dưới dạng
các khái niệm, phạm trù, quy luật khoa học.
5. Khái niệm và vai trò của sản xuất vật chất
a) Khái niệm:
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự
nhiên (trực tiếp hoặc gián tiếp), cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra
của cải vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
19
b) Vai trò
Sản xuất vật chất là cơ sở nền tảng, là điều kiện khách quan quyết định sự tồn tại
và phát triển của xã hội loài người.
- Sản xuất vật chất trực tiếp tạo ra tư liệu sinh hoạt nhằm duy trì sự tồn tại và phát
triển của từng con người và xã hội loài người.
- Nhờ lao động sản xuất mà con người tách khỏi giới tự nhiên hình thành phát triển
những phẩm chất xã hội, sáng tạo ra chính bản thân con người.
- Sản xuất vật chất là tiền đề của mọi hoạt động lịch sử nhờ đó con người sáng tạo
ra đời sống vật chất và tinh thần của xã hội, phát triển các quan điểm tư tưởng và các
thiết chế xã hội.
6. Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất
ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Mỗi phương thức sản xuất
gồm hai mặt cấu thành là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Để sản xuất, con người phải giải quyết 2 mối quan hệ. Mối quan hệ thứ nhất là
giữa con người với tự nhiên (lực lượng sản xuất) và mối quan hệ giữa con người với
con người trong quá trình sản xuất (quan hệ sản xuất)
Lực lượng sản xuất: Là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động (với kinh
nghiệm, kỹ năng, tri thức…) và tư liệu sản xuất, mà trước hết là công cụ lao động, thể
hiện mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.
Quan hệ sản xuất: Là toàn bộ những quan hệ giữa người với người được hình
thành một cách khách quan trong những giai đoạn lịch sử nhất định của sản xuất.

Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là một trong hai quy luật cơ bản của sự tồn tại và phát triển của xã hội, là quy luật
nền tảng, quy luật gốc cho mọi quy luật lịch sử, là động lực phát triển của xã hội. Nó tác
động ở mọi quốc gia dân tộc và trong toàn bộ lịch sử nhân loại.

20
Nội dung của quy luật: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản
của phương thức sản xuất thống nhất biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết
định quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất tác động to lớn trở lại lực lượng sản xuất và
phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong xem xét và cải tạo xã hội phải nghiên cứu nắm vững quy luật này, đi từ
giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất gắn với thực tiễn
hoạt động của con người.
- Coi trọng cải tạo và xây dựng cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, xây
dựng đồng bộ các yếu tố của lực lượng sản xuất và các mặt của quan hệ sản xuất, không
được tuyệt đối hóa một mặt, một yếu tố nào.
- Việc cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất phải xuất phát từ thực trạng và yêu cầu
phát triển của lực lượng sản xuất. Khi vận dụng quy luật này phải gắn với hệ thống các
quy luật đang vận hành trong xã hội. Chống chủ quan, duy ý chí trong tạo dựng quan hệ
sản xuất.
7. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
- Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của
một xã hội nhất định. (Cần lưu ý ở đây: Nhiều bạn hay nhầm cơ sở hạ tầng là điện,
đường, trường trạm (hạ tầng giao thông, xây dựng….)
- Kết cấu: Thông thường có các loại quan hệ sản xuất như sau:
+ Quan hệ sản xuất thống trị là quan hệ sản xuất bao trùm, đặc trưng, phổ biến trong
mỗi xã hội cụ thể (quan hệ sản xuất của giai cấp đang lãnh đạo xã hội).
+ Quan hệ sản xuất tàn dư là những bộ phận của quan hệ sản xuất cũ, của xã hội
trớc còn tồn tại trong xã hội hiện tại.
+ Quan hệ sản xuất mầm mống là những dấu hiệu, những bộ phận của quan hệ sản
xuất mới nảy sinh trong lòng xã hội hiện tại.
Ví dụ trong thời kì tư bản thì quan hệ sản xuất thống trị là quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa, quan hệ sản xuất tàn dư là của phong kiến (đã lỗi thời và rơi rớt lại) và quan
hệ sản xuất mầm mống là quan quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa (mầm mống của cái
mới tiến bộ)
- Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, đạo
đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học với những thể chế tương ứng như: Đảng phái, Nhà
nước, giáo hội, các đoàn thể…) được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
- Kết cấu của kiến trúc thượng tầng thường gồm hai bộ phận cơ bản:
+ Yếu tố tinh thần (quan điểm tư tưởng): Chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo,
nghệ thuật, triết học…
+ Yếu tố vật chất (các thể chế): Những tổ chức xã hội tương ứng như Nhà nước,
đảng phái…
- Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một trong hai
quy luật cơ bản của sự tồn tại và phát triển của xã hội, là quy luật chung, quy luật phổ
biến, quy luật cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, cũng là quy luật cơ bản của học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
21
Nội dung của quy luật: Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cơ bản
(mặt vật chất và mặt tinh thần) của đời sống xã hội gắn bó hữu cơ tác động biện chứng với
nhau. Trong đó, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, song kiến trúc thượng
tầng có tính độc lập tương đối và tác động to lớn trở lại cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động thực tiễn xây dựng và cải tạo kiến trúc thượng tầng phải xuất
phát từ thực trạng và yêu cầu củng cố phát triển cơ sở hạ tầng; chống chủ quan duy ý
chí trong việc thiết lập kiến trúc thượng tầng.
- Mặc dù cơ sở hạ tầng có vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng, nhưng cần thấy
rõ vai trò tác động to lớn của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng, do vậy cần
chống quan điểm tuyệt đối hóa cơ sở hạ tầng.
- Đây là cơ sở khoa học cho việc nhận thức đúng đắn đường lối quan điểm của
Đảng ta về đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị, cũng như quán triệt quan điểm
Đảng ta trong đổi mới hiện nay.
8. Giai cấp và đấu tranh giai cấp
Chỉ có hình thái kinh tế xã hôi Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, Tư bản chủ nghĩa là
có tồn tại giai cấp.
Sự khác nhau về địa vị của giai cấp trong hệ thống sản xuất là do những đặc trưng sau:
- Đặc trưng 1: Giai cấp là những tập đoàn người khác nhau về quan hệ của họ đối
với việc sở hữu những tư liệu sản xuất của xã hội. Đây là đặc trưng quyết định sự hình
thành và phân chia giai cấp.
- Đặc trưng 2: Các giai cấp khác nhau về vai trò trong tổ chức quản lý sản xuất, tổ
chức quản lý lao động xã hội. Tức là khác nhau về quyền điều khiển sản xuất, điều
khiển Nhà nước do đặc trưng 1 quyết định.
- Đặc trưng 3: Các giai cấp khác nhau về phương thức và quy mô thu nhập những
sản phẩm lao động của xã hội, tức là khác nhau về của cải xã hội ít hay nhiều mà họ
được hưởng do đặc trưng 1 quyết định.
- Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của cả giai cấp này chống lại giai cấp khác cụ thể
là đấu tranh giữa 2 giai cấp đối kháng về lợi ích trong xã hội và phải diễn ra ngoài vòng
pháp luật.
- Đấu tranh của nhóm người, tập thể được xem là đấu tranh giai cấp khi: Có nhận thức tự
giác về lợi ích giai cấp mình và phải đặt trong phong trào chung của đấu tranh giai cấp.
Nguyên nhân của đấu tranh giai cấp:
- Từ mâu thuẫn kinh tế: Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Biểu hiện về mặt xã hội: Mâu thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản trong xã hội.
Vai trò của đấu tranh giai cấp
Trong xã hội có đối kháng giai cấp thì Đấu tranh giai cấp là phương thức, động lực cơ
bản, trực tiếp của sự phát triển xã hội.
9. Cách mạng xã hội và nhà nước
- Theo nghĩa rộng: Cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặc và căn
bản về chất trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, là phương thức thay thế hình thái kinh
tế - xã hội lỗi thời bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn.
22
- Theo nghĩa hẹp: Cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời,
thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn.
- Bản chất của cách mạng xã hội: Giành chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi
cuộc cách mạng xã hội.
Nguyên nhân của cách mạng xã hội
- Nguyên nhân sâu xa: Là do mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Nguyên nhân trực tiếp: Là do đối kháng giai cấp không thể điều hoà (cách mạng
xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp).
Vai trò của cách mạng xã hội
- Cách mạng xã hội là phương thức tất yếu của sự thay thế các hình thái kinh tế -
xã hội trong lịch sử.
- Chỉ có cách mạng xã hội mới thay thế được quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản
xuất mới thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
- Cách mạng xã hội là bước chuyển vĩ đại trong đời sống xã hội về kinh tế, chính
trị, văn hóa.
- Xã hội loài người đã trải qua 4 cuộc cách mạng, trong đó cách mạng vô sản là
kiểu cách mạng xã hội mới về chất.
Tính chất, lực lượng và động lực của cách mạng xã hội
- Tính chất của cách mạng xã hội: Đề cập đến việc cuộc cách mạng đó giải quyết
mâu thuẫn kinh kế và mâu thuẫn xã hội. Nhiệm vụ của nó là xoá bỏ mâu thuẫn của giai
cấp nào, xoá bỏ xã hội nào, xác lập xã hội nào?
Ví dụ: Cuộc cách mạng tháng Tám 1945 ở nước ta. Đây là cuộc cách mạng do giai
cấp vô sản lãnh đạo. Nó giải quyết mâu thuẫn cơ bản: giữa toàn thể dân tộc Việt Nam
với đế quốc và phong kiến. Lực lượng xã hội tiến hành là: công nhân, nông dân, trí
thức, tiểu tư sản… Đối tượng của cách mạng là đế quốc, phong kiến.
- Lực lượng của cách mạng: Là những giai cấp, lực lượng xã hội có lợi ích ít nhiều
gắn bó với cách mạng. Lực lượng cách mạng do tính chất và điều kiện lịch sử của cuộc
cách mạng chi phối.
Ví dụ: Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 ở nước ta.
- Động lực của cách mạng: Là những giai cấp có lợi ích gắn bó chặt chẽ và lâu dài
với cách mạng.
Ví dụ: Công nhân và nông dân là động lực của cuộc cách mạng tháng Tám năm
1945 ở Việt Nam.
- Vai trò lãnh đạo cách mạng xã hội: Là giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của thời
đại, đại biểu cho phương thức sản xuất mới.
Quan điểm của Triết học Mác – Lênin về nguồn gốc Nhà nước
- Khái niệm nhà nước: là một tổ chức chính trị đặc biệt của giai cấp thống trị nhằm
bảo vệ trật tự xã hội hiện hành và trấn áp sự phản kháng của các giai cấp khác.
- Nguồn gốc của nhà nước:
+ Nguồn gốc sâu xa: Chế độ chiếm hữu tư nhân về Tư liệu sản xuất
+ Nguồn gốc trực tiếp: Xuất hiện và đối kháng giai cấp trong xã hội.
23
Bản chất của nhà nước
Nhà nước mang bản chất cảu giai cấp đã tổ chức, nuôi dưỡng và sử dụng nó. Bản
chất của nhà nước CHXHCN Việt Nam là bản chất giai cấp công nhân.
Đặc trưng của nhà nước
- Quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định.
- Có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành
viên trong xã hội. (Quân đội, cảnh sát, nhà tù… và bộ máy quản lý hành chính từ trung
ương đến địa phương).
- Hình thành hệ thống thuế khóa để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị (đề ra các
loại thuế, thu thuế).
Chức năng cơ bản của nhà nước
Bản chất của nhà nước còn thể hiện ở chức năng của nó. Dưới góc độ bản chất của quyền
lực, nhà nước có chức năng thống trị chính trị của giai cấp (chức năng giai cấp) và chức năng
xã hội. Dưới góc độ phạm vi quyền lực, nhà nước có chức năng đối nội và đối ngoại.
10. Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về con người
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội
- Mặt sinh học: Là mặt vật chất tự nhiên của con người được tồn tại ở góc độ cơ thể
(Tức con người bằng xương, bằng thịt). Là sản phẩm của quá trình phát triển hết sức lâu
dài của thế giới tự nhiên. Con người mang tất cả bản tính sinh học như bất kỳ loài động
vật nào khác như: Di truyền, biến dị, sinh ra và chết đi (sinh - lão - bệnh - tử), tính dục...
- Mặt xã hội: Đó là mặt tinh thần, là lao động sản xuất vật chất, là các quan hệ xã
hội, nghĩa là con người có ý thức và có ý chí.
- Quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội: Mặt sinh học là cơ sở tự nhiên tất yếu
của con người, mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với con vật, nó
có thể “nhân hoá” làm cho nhu cầu sinh học mang giá trị văn minh con người.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ
xã hội
- Con người mà triết học Mác tiếp cận là con người hiện thực (Là con người tồn tại
thực gắn với nền sản xuất vật chất, gắn với các quan hệ xã hội…).
- Bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Thông qua các quan hệ
xã hội này mà bản chất con người được biểu hiện ra như một xu thế chung, xu thế tất
yếu. Tất cả các mối quan hệ xã hội đều góp phần hình thành bản chất con người. Nhưng
không phải là cộng lại mà là tổng hoà, tức là: Chúng có vị trí, vai trò khác nhau song
không tách rời nhau mà tác động qua lại lẫn nhau, thâm nhập vào nhau.
Con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể của lịch sử
- Con người là sản phẩm của lịch sử: Nếu không có giới tự nhiên, không có lịch sử
xã hội thì không tồn tại con người.
- Con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử: Với tư cách là thực thể xã hội, bằng hoạt
động thực tiễn, con người đã tác động vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên đồng thời thúc đẩy
sự vận động phát triển của lịch sử xã hội.

24

You might also like