Professional Documents
Culture Documents
Giáo D C Gi I Tính Trong Gia Đình
Giáo D C Gi I Tính Trong Gia Đình
Tính dục vẫn mãi là một thực tại hấp dẫn nhưng rất
hàm hồ và chất chứa nhiều nguy cơ. Nó không chỉ là
MỤC LỤC
Quan tâm đến vấn đề này, chúng ta cần xem xét hai
khuynh hướng thái độ cũng như định hướng sống cho
những người trẻ ngày nay.
Trước hết, khuynh hướng thứ nhất muốn xem giá trị
biểu tượng của tính dục, ý nghĩa thông giao
(communicative) và trao đổi của nó cần phải được
làm sáng tỏ hơn bao giờ hết. Người ta không thể tách
biệt tính dục và tình cảm. Để thỏa mãn trọn vẹn và
mãnh liệt tính dục, người bạn tình (partner) chỉ tỏ tình
hay bộc lộ tình cảm mình cách chung chung là không
đủ, tình cảm người đó còn cần phải được trải nghiệm
để chứng tỏ sự chín chắn, có ý thức và thành thực.
MỤC LỤC
nhiều mang tính chất mua bán đổi chác liên hệ đến
tình dục, hoặc những hình thức phô bày mới và rất
phổ biến thứ tình dục chỉ biết tìm kiếm cảm giác mà
không có một gặp gỡ liên vị nào cả. Tình dục bị giản
lược chỉ còn là một chức năng đơn thuần tìm kiếm lạc
thú của riêng từng cá nhân: một thứ tình dục tột đỉnh
và xâm lấn mọi ngõ ngách nhưng lại vô trách nhiệm
và phi ngã vị. Cũng phổ biến thứ tình dục muốn
hưởng lạc đẩy cảm giác lên “mức cực mạnh nhưng lại
ít cảm xúc”. Những người làm cha làm mẹ bởi chính
kinh nghiệm của mình họ biết rằng một quan hệ thân
mật giả thiết đòi hỏi người ta phải dấn mình cùng với
một sự chín muồi nào đó về tình cảm, và, điều đó, đối
với đứa con niên thiếu của họ là chưa thể đạt được,
cần có thời gian chuẩn bị và vun trồng cho con bằng
một sự đầu tư giáo dục thật thích hợp và mạnh mẽ.
Thực vậy, nét đặc trưng của tuổi mới lớn thường biểu
lộ trong những mối quan hệ là tìm sự thỏa mãn tức
thời, bận tâm làm sao chinh phục được tình cảm của
đối tượng. Những đặc điểm này, hẳn là có liên hệ đến
quá trình tiến triển theo lứa tuổi, dẫn các bạn trẻ đến
chỗ bù đắp những chiều sâu mà mình chưa đạt tới
bằng những lối mở chiều rộng (như yêu vội sống
cuồng, chạy theo những đam mê ngây dại và nhất
thời, dấn mình vào những trải nghiệm mới lạ nhưng
MỤC LỤC
Ngày nay, hơn bao giờ hết, thời kì chuẩn bị cho một
tình yêu đích thực thật là quan trọng. Sự tiết dục cũng
có giá trị của nó, nếu được hiểu không phải như một
sự đè nén và chối bỏ thân xác và các xung năng của
nó, nhưng như một triển vọng hấp dẫn nhưng không
dễ dãi hướng về một sự thỏa mãn tính dục với chất
lượng mới.
Những kiểu sống mới đời đôi bạn như hiện nay thực
ra rất là bận rộn. Kỳ vọng về một tình yêu “vĩnh cửu”,
một tình yêu “duy nhất và độc hữu”, tiêu biểu cho
một tình yêu lãng mạn không còn chắc chắn và được
bảo đảm nữa. Ngược lại, người ta giả định phải có
một cam kết, không bao giờ dứt điểm, nhằm xây dựng
và củng cố một tương quan đặt cơ sở trên sự bình
đẳng, trên những nhu cầu rõ ràng thẳng thắn của cả
hai người, trên một thỏa thuận trong đó sự thân mật
và nỗi đam mê được quí trọng và nuôi dưỡng theo
một cảm quan chung, còn tình yêu phải chịu tan biến.
Thiếu một khung giá trị đạo đức khả dĩ giúp ngăn
chặn những tình cảm tiêu cực tác hại, lại còn không
MỤC LỤC
Là nam là nữ
Tính dục không đơn tính nhưng lưỡng tính: là nam và
là nữ. Đàn ông hay là đàn bà không phải là những cái
MỤC LỤC
nhãn được gắn vào con người của ta lúc sinh ra. Cha
mẹ cho con chất liệu di truyền định cấu trúc giới tính
nhưng không dừng lại ở đó. Như là một người đàn
ông và như là một người đàn bà, cha mẹ, trong toàn
thể lối sống của mình, trở thành mẫu cho con cái định
hình nhân cách trong cả quá trình dài xây dựng căn
cước giới tính của chúng. Trong sự kết hợp hòa điệu
giữa cha mẹ, gia đình trở thành một sân khấu nhỏ
trong đó mỗi người học sống vai của mình. Những
yếu tố của môi trường xã hội cũng ảnh hưởng lên sự
định hình căn cước giới tính và lên quá trình thích
ứng với cách sống của mẫu phái tính là nam hay nữ.
Thế nhưng, về mặt này, chúng ta không nên xem
thường bất cứ điều gì. Các vai trò thuộc phái tính đã
bị xáo trộn bởi biến chuyển xã hội. Không còn vai trò
chức năng nào là không thể linh động và được quyết
định trước: cả căn cước giới tính (là nam hay nữ)
người ta cũng có thể chọn lấy cho mình.
Trong tình hình bất định về phái tính như thế, các giai
đoạn phát triển lứa tuổi cũng như chính kinh nghiệm
về các độ tuổi càng ngày càng mù mờ hơn, con cái
chúng ta cũng gặp nhiều khó khăn nhọc nhằn để định
hình chính bản thân chúng.
MỤC LỤC
Khi cuộc sống đôi lứa bị qui hướng quá nhiều về cực
bổn phận làm cha và làm mẹ (càng hiệu quả khi các
vai trò càng hoán đổi được cho nhau) thì tương quan
và sự hòa điệu giữa người đàn ông và người đàn bà
(càng giúp ích cho sự định hình nhân cách con cái khi
căn cước giới tính của họ càng rõ và phân biệt) càng
bị nghèo nàn đi. Hơn nữa, ngoài những khó khăn của
đôi lứa, ngày nay người ta còn xét thấy có cả sự
khủng hoảng của căn tính nam giới. Người ta có thể
xác định trong số nhiều hiện tượng hai dấu hiệu đáng
quan ngại tạo nên khủng hoảng này, đó là: văn hóa
khiêu dâm càng ngày càng lan tràn và sự bùng nổ các
hình thái bạo lực và lạm dụng tình dục nghiêm trọng.
Đó là hai hiện tượng tiêu biểu thuộc khu vực nam
giới.
Những giai đoạn phát triển tâm lí-tính dục của con cái
đang lớn cũng đồng thời đặt ra cho cả cha và mẹ
những mục tiêu giáo dục phải xác định và chứng
thực.
MỤC LỤC
Cuối thời kì thơ ấu, một số nét tự lập đầu tiên nơi em
bắt đầu chín dần và sự phụ thuộc mẹ cha cũng giảm
bớt dần. Khả năng yêu thương có nhiều hơn. Phát
triển những khả năng quan trọng như tư duy ẩn dụ,
hiểu biết bằng biểu tượng. Học biết thương lượng
bình yên với những xung lực bản năng của mình.
MỤC LỤC
Chuyển tiếp sang tuổi thiếu niên là thời tiền dậy thì,
bao hàm sự biến đổi rõ ràng các nội tiết tố đánh dấu
khởi đầu một sự thay đổi quan trọng trong cơ thể. Cơ
quan sinh dục phát triển cùng với các đặc trưng giới
tính thứ yếu. Cơ thể đang chuyển biến làm em lo lắng
và thắc mắc, điều đó tạo nên những tình cảm lẫn lộn
và bất ổn trước những xung năng trỗi dậy và đồng
thời phát sinh hướng chiều về những cảm xúc mạnh
mẽ.
Một sự kiện rất quan trọng đối với bé gái cần được
quan tâm chăm chút với sự trân trọng là sự xuất hiện
kinh nguyệt lần đầu tiên như dấu hiệu bắt đầu thành
một thiếu nữ. Giới tính chín dần khi em hòa hợp được
với thể xác mình. Hòa hợp với đấng sinh thành cùng
phái tính với mình sẽ giúp em rất nhiều nhìn nhận và
đón nhận chính mình.
Kết luận
Ngày nay các bậc cha mẹ cần quan tâm đến giáo dục
tình yêu cho con cái đang lớn không chủ yếu bằng
những cấm đoán hay mệnh lệnh, nhưng cần nhấn
mạnh đến sự thật này: là tính dục không thể tách rời
khỏi tương quan con người, hiểu theo nghĩa trọn vẹn
của nó, và hơn nữa, nên giới thiệu viễn ảnh rất đẹp
mà Kinh Thánh trình bày về tính dục con người như
là tặng phẩm dành cho nhau liên hệ đến toàn thể con
người cả hồn-xác. Cần lên án như là phi nhân lối thực
hành tính dục không tình yêu, vì điều đó hạ giá trị và
làm nghèo nàn đi ý nghĩa của tính dục, thậm chí trở
nên như một hành vi mua bán đổi chác. Trái lại cổ võ
sự cao cả của tính dục con người hiểu như một cuộc
sống hiến dâng. Chỉ trong tương quan hoàn toàn nhân
bản con người mới có thể thực hiện được chính bản
thân mình và do đó được hạnh phúc. Đức khiết tịnh
kitô giáo là một phẩm chất giúp hòa nhập và hòa hợp
tính dục với toàn thể con người, giúp ta sống tính dục
như một thứ năng lượng để thăng tiến. Khiết tịnh là
ẩn dụ đẹp nhất của ân sủng vì nó có khả năng giao
hòa được giữa tự do với kỉ luật, giữa tính bộc phát và
sự vượt trên những điều kiện ràng buộc của thân xác,
giữa tính sáng tạo và sự nhạy cảm, giữa trí thông
MỤC LỤC
Người ta cần ý thức tính chất phức tạp của hoàn cảnh
chung và tìm phân tích trong tinh thần cởi mở để tìm
biết những nguyên nhân của tình cảnh ấy.
Dần dần người ta xác định rằng trong cuộc sống lứa
đôi điều quan trọng không phải là làm sao duy trì hôn
nhân bằng mọi giá, dù phải kiên nhẫn chịu đựng lâu
dài, phải trung thành trong lầm lì bất mãn, dù là giả
dối với một đời sống chung mà không có sức sống,
nhưng là tự nguyện dấn thân thật sự để ở với nhau,
thích được gặp nhau. Tất cả những điều ấy là một
MỤC LỤC
Trong hoàn cảnh đó, đôi bạn ngày nay được đưa về
với cái cốt yếu nhất của mình, tức là nhiệm vụ hãy là
chính mình. Gia đình được mời gọi tìm ra cách thức
MỤC LỤC
hiện hữu riêng cho mình, như là đôi bạn và như là gia
đình, vì con cái của mình.Thế nhưng, với thực trạng
ngày nay các nền văn hóa bị phân mảnh đã dẫn đến
tình trạng mô hình gia đình duy nhất cũng bị tan vỡ
theo, nhường chỗ cho một thực tế là có nhiều kiểu gia
đình khác nhau phát sinh và phát triển theo các tiến
trình hình thành và chọn lựa giá trị khác nhau của
từng đôi bạn riêng lẻ. Họ thiếu một mẫu mực gia đình
để quy chuẩn.
Không thể hình dung được một cuộc sống hôn nhân
mà lại không có khủng hoảng, xung đột, hay căng
thẳng. Đúng hơn, có khi chính sự thiếu vắng căng
thẳng, chính sự yên ắng không sức sống, chính sự hòa
bình không do xây dựng mà do chịu đựng là triệu
chứng đáng lo ngại của một cuộc hôn nhân thực tế
không được xây dựng hằng ngày bởi một dự phóng,
mà từng ngày trôi qua trong quán tính và im lặng.
Đi cho đến tận cùng có thể dẫn đến chỗ sáng sủa của
ban ngày cũng như bóng tối của đêm đen. Trong
trường hợp nào đi nữa điều quan trọng khi vượt qua
khủng hoảng là ý thức về những thời gian xung đột,
biết cách sống cũng như biết cách vượt qua những
xung đột ấy4.
Nơi một đôi bạn mới lấy nhau thường người ta thấy
những bộc lộ của họ như muốn tan chảy hòa quyện
vào nhau. Dường như không có khoảng cách giữa
thực tại và mộng mơ. Một đàng người ta say đắm,
đàng khác người ta sống chỉ những gì tinh túy nhất.
Những người mới lấy nhau sống chủ yếu với trí tưởng
tượng của họ. Trí tưởng tượng ấy vốn là tổng hợp của
những hình ảnh và tâm tưởng, của tri giác và của
những liên tưởng nội tâm mà mỗi trong hai người đối
ngẫu (partners) mang đến theo mình. Sự tưởng tượng
của từng người trong thời gian gặp gỡ nhau là phần
còn lại của chuyện cuộc đời mà họ đã sống cho tới lúc
bấy giờ. Đôi bạn cần phải xem xét đến tâm tưởng của
nhau.
Tới đây cần phải sẵn sàng để sống điều mà các nhà
tâm lý gọi là sự than khóc thứ nhất cho cuộc hôn
nhân: một sự mất mát mà không phải lúc nào người ta
cũng sẵn sàng. Vả lại, đối với con người đối diện với
một chia ly, mất mát luôn luôn là một khó khăn. Tuy
nhiên, nhờ suy nghĩ và nhìn nhau ở bên trong người
ta có thể đi đến chỗ hiểu được rằng không phải là họ
mất người yêu còn đang sống đó, nhưng là mất cái
‘hình ảnh’ mà người ta đã tạo ra cho mình về người
yêu, hay cái lý tưởng về đôi lứa. Đó chỉ là một sự mất
đi những hình ảnh đã tưởng tượng! Nếu không có
bước chuyển căn bản này, người ta không thể tiếp tục
xây dựng chính thực tế đôi bạn và những xung đột ẩn
núp ở góc xó nào đó sẽ sẵn đó trườn ra.
MỤC LỤC
2. Nhìn nhận người bạn đời rất khác biệt với ta là một
nỗi khó khăn
MỤC LỤC
Cuộc hành trình mạo hiểm nhưng cũng rất phong phú
và năng động của đôi bạn chỉ thực sự bắt đầu khi họ
biết nhìn nhận “sự khác biệt” của nhau hay còn gọi là
tha tính (otherness/l’altérité) trong quan hệ vợ chồng
“một xương một thịt”.
Nhìn nhận người kia khác biệt với tôi là một giai
đoạn khó khăn phải trải qua, nhưng rất cần thiết cho
việc xây dựng đời sống gia đình. Sẽ có những hậu quả
khá nghiêm trọng nếu tha nhân, tức người bạn đời,
không được nhìn nhận với thực tế của người ấy; nếu
hai người không nhìn nhận nhau, nếu họ không chấp
nhận mọi mặt tích cực cũng như tiêu cực của nhau.
Ta sẽ không nếm được cái ý nghĩa sâu xa của sự kiện
người này vừa quí giá vừa nghèo nàn trước mắt người
MỤC LỤC
kia; và như thế làm sao có thể biết tôn trọng nhau và
cùng có trách nhiệm cùng nhau thăng tiến bản thân
từng cá nhân và đôi lứa.
thể tạo ra những kiểu kết hợp hòa quyện nguy hiểm.
Ngược lại, nếu như những khía cạnh tiêu cực mà
được nhìn nhận và đón nhận như thực tế chúng là thế,
như là phần bên kia của cái tôi chưa được nhận biết
hay chưa được tháp nhập, cả chúng nữa cũng sẽ có
thể trở thành phương thế cho sự thăng tiến, tăng
trưởng, hòa nhập với thế giới bên trong chúng ta, với
người phối ngẫu, với thế giới bên ngoài. Điều cấp
bách hơn, và trước cả sự nhìn nhận và đón nhận tha
tính, là nhìn nhận và đón nhận chính chủ thể tính của
mình.
thực tại không thành đạt của tôi, những khát khao
không thỏa mãn, những hoài bão không thực hiện
được của tôi chăng? Tôi có xu hướng phụ thuộc vào
người kia, hòa tan mình với người kia không? Tôi có
biết sống khoảng không gian và thời gian riêng của
tôi một mình không?
Nếu như chúng ta vẫn còn chưa đạt tới trưởng thành
nhân cách đủ mức, và một khi ta ý thức về điều ấy, ta
có thể sẽ đạt được nhờ sự giúp đỡ quí giá của bạn
mình, vốn là một nguồn suối mới phải tận dụng. Về
điều này, không hề có những con đường tắt dễ dãi,
không thể tránh né đi con đường ấy nếu người ta
muốn có một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc.
Vấn đề tính dục luôn luôn là kết quả của một lịch sử.
Và trong lãnh vực rộng lớn này người ta cần phải tìm
chìa khóa để đọc nhằm đối diện với mọi hoàn cảnh
hôn nhân khó khăn do hiểu lầm hoặc không thỏa mãn
trong lãnh vực này.
MỤC LỤC
chú ý, lo lắng, tích cực tìm cách phát triển hơn nữa sự
đồng điệu, đồng cảm về tính dục.
Trước hết, có những thực hành tính dục như một thứ
quyền lực áp đặt trên người khác hoặc chỉ như là một
kiểu hành lạc. Những kiểu đó không diễn tả tình yêu
cũng không làm cho tình yêu ra hoa. Chúng còn xa lạ
lắm với tình yêu đích thực.
Ngược lại, có một sai lầm người ta hay vấp phải xuất
phát từ một lối giáo dục có xu hướng đàn áp tính dục
trên bình diện luân lý cũng như tôn giáo, và là nguồn
cho bao nhiêu đau khổ của con người. Sai lầm đó
chính là ở chỗ người ta không coi trọng sự đồng cảm
của đôi bạn với nhau về tính dục. Vẫn còn thấy ở đây
đó quan niệm nghĩa vụ vợ chồng, một quan niệm cổ
xưa hé mở cho thấy một tình cảnh thụ động buồn tẻ.
Người ta vẫn còn có thái độ phản vệ, với xu hướng
chế ngự và chối bỏ, hoặc duy lý hóa và đè nén, khả
năng tính dục của con người. Họ che dấu nỗi sợ hãi
phải chấp nhận mình như là một con người có giới
tính và sống tính dục của ta cách viên mãn trong cuộc
gặp gỡ với người bạn đời. Thật ra, ý nghĩa của giao
ước hôn phối giữa một người nam và một người nữ,
dấu chỉ của giao ước yêu thương giữa con người với
Thiên Chúa, được bộc lộ đầy đủ hơn, lời nói yêu
MỤC LỤC
cảm người ta cảm thấy trong một mái nhà bấy giờ là
bầu khí tỏa sáng, khuây khỏa và vui tươi.” 3
Mọi đôi bạn nếu muốn sống thực sự cuộc sống lứa
đôi của mình phải luôn hướng tới sự tách ly khỏi hình
bóng của cha mẹ. Người ta thường quá xem nhẹ sự
tách ly khỏi cha mẹ về thể lý cũng như về tâm lý. Đó
có thể trở thành nguyên do (có khi kín đáo và không
được ý thức) cho những khủng hoảng sâu xa trên
hành trình hôn nhân của đôi vợ chồng trẻ. Người ta
cảm thấy bất an nghĩ rằng cuộc sống lứa đôi của mình
chưa bao giờ thật sự bắt đầu và càng không cảm thấy
nó triển nở một cách riêng tư và độc lập đối với bóng
dáng cha mẹ.
Có khi khuôn mẫu của cha mẹ, và một cách đặc biệt
khuôn mẫu của người mà đã để lại trên ta một dấu ấn
sâu đậm nhất trong suốt thời kỳ ta lớn dậy, tồn tại nơi
một trong hai người bạn đời sâu đến nỗi được tái tạo
lại trong thực tại gia đình mới với cũng một cung
cách cư xử hằng ngày y như thế. Và còn hơn thế nữa,
khuôn mẫu ấy xuất hiện khi người ta giáo dục con cái
MỤC LỤC
qua sự tái hiện lại cùng những khuôn văn hóa và qui
tắc giáo dục xưa. Từ đó có thể nảy sinh xung đột nơi
đôi bạn, bởi lẽ người ta cảm thấy căn tính mới của đôi
bạn không hề triển nở, mà chỉ đơn thuần là tái hiện
trở lại những gì trước đây một trong hai đôi bạn đã
tham dự. Đó chỉ là một cái tiền sử không được xét lại,
không được đổi mới, không sinh ra từ thực tại mới
của vợ chồng, một tiền sử mà người bạn đời kia như
kẻ ngoại cuộc.
Độc lập đối với cha mẹ về mặt tâm lý quả thật không
phải dễ dàng còn bởi một lý do nữa. Khi bắt đầu một
cuộc hành trình theo hướng tách ly như thế đó, người
ta thường cảm thấy ít nhiều mặc cảm tội lỗi và phản
bội như thể mình đã “bỏ rơi” đấng bậc sinh thành.
Đàng khác, “chỉ người nào có can đảm và sức mạnh
tách ly dần khỏi những người khác, kể cả cha mẹ
mình, để thể hiện chính mình cách đầy đủ, mới có thể
tìm thấy lại được người khác và chính mình trong
khuôn khổ của một tình yêu dâng hiến chứ không
phải là của một thứ vị kỷ được che đậy”1. Theo nghĩa
đó, lời mời gọi của Thánh kinh thật ý nghĩa và cấp
bách: “Con người sẽ lìa bỏ cha mẹ mình và cả hai sẽ
nên một xác thịt” (St 2,24).
Một hình thức đầu tiên của sự bất trung thường nhật
là sự bất trung của những kẻ không bước vào tương
giao. Lời nói có thể là dấu chỉ của sự trung thành, mà
cũng có thể là của sự bất trung nếu chúng không thực
sự ăn khớp với cảm giác và tình cảm của chúng ta.
Rồi thinh lặng cũng thế, đó có thể chất chứa sự trung
thành hay bất trung. Một thái độ thinh lặng không nói
nhưng kèm theo những cử chỉ yêu thương hay tận tụy
thường nhật với sự chia sẻ đầy đủ những tình cảm là
một sự thinh lặng trung thành. Một sự thinh lặng do
không biết bộc lộ bằng lời những tình cảm như giận
dữ, thù ghét, phục tùng tự ý hay miễn cưỡng, muốn
gây hấn mà không bộc phát được, không chia sẻ qua
những cử chỉ yêu thương hay có trách nhiệm, là một
sự thinh lặng chất chứa bất trung cản trở thiết lập mọi
tương giao.
MỤC LỤC
Đối tượng của tình yêu thương có thể được thay thế
dễ dàng bởi những thứ khác như một sự né tránh, nơi
trốn tránh. Chẳng hạn như công việc, hay thú tiêu
khiển giải trí cho tới lúc ấy chỉ như là trò giải trí cho
qua thời gian rỗi rảnh, bạn bè, nhà cửa, một góc vườn
kín đáo nơi dành mọi bận tâm, chăm sóc. Người ta
không còn nghĩ kẻ sống bên cạnh mình luôn là một
con người mới cần phải khám phá, hiểu biết hơn về
MỤC LỤC
hòa ấy trộn lẫn và tiêu diệt các căn tính hoàn toàn
khác lạ với quan hệ tình yêu đích thực. Tình trạng này
dầu sao đi nữa cũng không thể coi là một sự trung
thành thực sự được, vì đó là một sự trung thành đối
với một tình yêu không tưởng, chưa hề là tình yêu
đích thực vốn được xây dựng trên những nền tảng
khác. Bởi đó là sự trung thành, xét cho kỹ, của hai kẻ
không có khả năng chấp nhận cô đơn, không có khả
năng để cho người khác được cô đơn; và như thế là
của hai con người chưa có tự do thật.
6. Khi không có tự do
Một cuộc hôn nhân trung tín là một hôn nhân có sức
giải phóng, đem lại sự giải thoát, tự do đích thật cho
con người. Một người kết hôn mà không lo liệu giải
phóng mình khỏi những áp lực, khống chế bên ngoài
lên trên chính mình, và đồng thời không giúp cho
MỤC LỤC
người bạn của mình cũng được giải phóng như thế,
thì không trung tín với giao ước, với bí tích. Bởi lẽ
chỉ có giao ước và bí tích thật sự và có sức sống khi
hai vợ chồng trao ban cho nhau khoảng không gian để
thực hiện các ân huệ mà Chúa Cha đã trao ban cho
mỗi người con của Ngài, cách trọn vẹn. Thế nên
không có mâu thuẫn giữa trung thành và tự do. Đúng
hơn, trung thành là trung thành trong tự do; tự do thật
là tự do để yêu thương cách trung thành.
Nhiều người bắt đầu cuộc sống hôn nhân với ý nghĩ
là, vì tình yêu mà lấy nhau người ta cần khước từ sự
tự do của mình. Bổn phận, trách nhiệm có xu hướng
khiến người ta bị ngột ngạt và thay thế tình yêu.
Ngược lại, sự tự do nội tâm của mỗi người đối ngẫu
là một bảo đảm chính yếu cho sự bền vững của quan
hệ vợ chồng. Hôn nhân không phải là một sợi dây
ràng buộc thắt chặt, nhưng là một sự hợp nhất tự
nguyện và tự do qua từng ngày.
Cứ thế suốt đời đại bàng con chỉ làm những việc mà
lũ gà con vẫn làm, và cứ tưởng mình là một gà con.
Nó cũng bới đất tìm sâu bọ, cũng kêu cục tác như các
ả gà mái và cũng quen đập cánh bay lên cao chừng
hơn nửa thước. Thời gian thấm thoát trôi, đại bàng ta
rồi cũng già. Bữa kia, nó trông thấy một con chim
tuyệt đẹp bay phía trên nó trong bầu trời lồng lộng
thênh thang. Với dáng vẻ uy nghi dũng mãnh, cánh
chim ấy nhẹ nhàng băng giữa cuồng phong, chỉ lâu
MỤC LỤC
Thật vậy, chúng ta hãy nghe Thiên Chúa nói khi Ngài
sắp sáng tạo con người: “Chúng ta hãy làm ra con
người theo hình ảnh, giống như chúng ta.” (St 1,26).
Và “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh
mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh
Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam
có nữ” (St 1,27). Thiên Chúa không phản chiếu chính
mình nơi con người như một cá vị nhưng như một
cộng đoàn. Chuyện con người là hình ảnh, giống
Thiên Chúa không hệ tại ở bản thể cho bằng là nơi
việc làm: Thiên Chúa sáng tạo (creation) sự sống, còn
con người được sáng tạo nên có khả năng sáng tạo sự
sống mới theo nghĩa là sinh sản (pro-creation) một
con người mới, tức là “đồng sáng tạo” với Thiên
Chúa . Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh
Ngài trong viễn tượng một Giao ước mới. Cấu trúc
giao ước ấy đã được ghi sẵn nơi tính chất bổ túc cho
nhau giữa người đàn ông và người đàn bà. Sự kết hợp
vợ chồng giống như và tương ứng với tặng phẩm của
Tạo Hóa. Khi bà Evà sinh đứa con đầu lòng, bà đã
thốt lên: “Tôi đã có được một con người bởi Đức
Chúa” (St 4,1). Trong tặng phẩm sự sống con người
mới đó có bàn tay can thiệp sáng tạo của Thiên
Chúa ! Đỉnh cao của Giao ước ấy chính là Đức Kitô,
Con Thiên Chúa làm người, Vị Hôn Phu của Hội
Thánh, Người là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình”
MỤC LỤC
(Cl 1,15). Sự kết hợp nên một xương một thịt của
người đàn ông và người đàn bà là hình ảnh tiên báo
có tính tiên tri của một mầu nhiệm (bí tích) lớn lao.
Đó là sự kết hợp của Đức Kitô và Hội Thánh. Đối với
đôi bạn Kitô hữu, sự kết hợp yêu thương của họ
không chỉ là hình ảnh, nhưng còn là chính “hiện thực”
của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi giữa trần gian. Hôn
phối của họ là bí tích, nghĩa là một dấu chỉ hữu hiệu
nhìn thấy, nghe thấy, chạm tới được!
hoạch thần linh không chỉ liên hệ đến tương lai của
họ nhưng còn liên hệ đến tương lai của nhân loại và
cả tương lai của Thiên Chúa. Việc đôi vợ chồng hiến
thân hoàn toàn cho nhau hàm ẩn trong đó một sự mở
ra với một kẻ thứ ba, là đứa con, nhưng cũng hàm ẩn
cách sâu xa hơn sự mở ngỏ ra trước một ngôi vị thứ
ba thần linh, là Chúa Thánh Thần, được hiến ban cho
đôi bạn như hoa trái tình yêu họ dành cho nhau.
Thánh Thần Thiên Chúa là chính sự phong nhiêu của
Tình Yêu nội tại Ba Ngôi đã thành một ngôi vị, chính
Ngài cũng hoàn tất sự hợp nhất của đôi vợ chồng
bằng một ân ban, là một con người và là sự nối kết họ
lại với nhau. Thế nên, có một sự phong nhiêu thiêng
liêng của hôn nhân Kitô giáo, vốn luôn đi kèm với
tình yêu hôn nhân đích thực, là khả năng cụ thể sáng
tạo một con người mới. Sự phong nhiêu thiêng liêng
này làm chứng Ba Ngôi hiện diện trong đền thờ gia
đình và nhập thể trong lịch sử nhân loại qua Giáo hội
tại gia.
Thế nhưng, trên bình diện hiện sinh, “Hội thánh tại
gia”, cũng đồng thời gồm những con người mỏng
giòn và tội lỗi, sẽ không thể thể hiện mình như là một
bí tích của Tình yêu tinh tuyền nếu không siêng năng
tham dự các bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, Bí
tích tuyệt đỉnh, và Bí tích Hòa Giải.
Tội lỗi hiển lộ trước hết như một sự thiếu vắng “lòng
kính sợ Chúa”, xúc phạm đến tình yêu của Ngài, như
một “hành vi chống lại Thiên Chúa” (Tv 51,5-6). Tội
lỗi làm “gãy vỡ mối quan hệ cá nhân giữa con người
với Thiên Chúa, chứ không đơn thuần chỉ là vi phạm
một trật tự luân lí hay xã hội, lấy mất đi sự hiệp thông
với Chúa, và như thế giao phó số phận con người vào
trong tay họ, phó mặc họ cho chính họ định đoạt. Tội
lỗi của đôi vợ chồng đầu tiên, nguyên mẫu của mọi
cặp vợ chồng khác, là chính sự từ chối Giao ước.
Câu trả lời của Đức Giêsu chạm tới điều cốt yếu nhất:
phải khôi phục lại quan hệ với Thiên Chúa và với anh
em. Vì “ma quỉ, kẻ đã dụ dỗ con người ngay từ đầu,
đã chia rẽ họ với Thiên Chúa, chia rẽ con người với
nhau” (San Massimo Confessore, Epist.2 PG 91, 96-
MỤC LỤC
Lời rao giảng của Đức Giêsu nhằm đặt con người tội
nhân đối diện với toàn thể thực tại, là Thiên Chúa, và
mời gọi họ trở lại hiệp thông hoàn toàn với Ngài. Rao
giảng về ơn tha thứ và lòng thương xót Chúa Cha
nhằm tới mục đích này. Sứ mạng của Chúa Giêsu cốt
yếu hệ tại ở việc chiến thắng tội lỗi trong xác thịt, để
giao hòa thế gian lại với Thiên Chúa và giải thoát con
người khỏi tội lỗi và sống cho Thiên Chúa.
Thực tại tội lỗi trong đời sống hôn nhân Kitô giáo
xuất phát từ sự chối bỏ bí tích, chối bỏ tình yêu bí tích
ơn gọi của đôi vợ chồng Kitô hữu. Tự phân ly điều
Thiên Chúa đã kết hợp, con người cũng chối bỏ uy
quyền, tình yêu, không vâng phục Thiên Chúa.
Nước Trời đòi hỏi những người tín hữu dấn thân đi xa
hơn giới răn cấm ngoại tình. Họ cần một con tim khao
khát sự trong sạch. Đức Giêsu nói: “Thầy bảo thật
cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm
muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”
(Mt 5,28). Con người, sau khi nguyên tổ sa ngã đã
mất sự nguyên tuyền nguyên thủy, cũng đánh mất
luôn ý nghĩa của thân xác vốn được dựng nên để sống
hiệp thông các ngôi vị. Con người làm hư hỏng ngôn
ngữ quà tặng của thân xác, khi hạ thấp thân xác
xuống chỉ còn ham muốn chiếm hữu ích kỷ chỉ để
thỏa mãn một nhu cầu tính dục. Như thế, tha nhân bị
đối xử chỉ như một đồ vật để thỏa mãn ham muốn
mất trật tự của thân xác. Đức Giêsu lên án sự ham
muốn xác thịt này đâm rễ trong lòng con người, làm
nguy hại đến sự hiệp thông ngôi vị.
3/ Tội lỗi của đôi bạn Kitô hữu mâu thuẫn với ơn gọi
sống tình yêu bí tích của họ. Yếu tính sâu xa của tội
lỗi họ, hôm nay cũng như từ muôn đời, là chối bỏ
Giao ước với Thiên Chúa. Điều đó có nghĩa là bỏ
quên hay xem nhẹ chiều kích đối thần của hôn nhân,
là đánh mất cảm thức về sự hiện diện của Chúa Kitô ở
trung tâm của tương quan vợ chồng và dửng dưng với
Chúa Thánh Thần, Đấng hợp tác thâm sâu với tình
yêu của họ. Một hình thức đầu tiên của tội này, tội
MỤC LỤC
Thiên Chúa luôn mời gọi con người sống hiệp thông
với Ngài. Nhưng con người tội nhân, kẻ đã “bị bán
làm tôi cho tội lỗi” (Rm 7,14), đã tự ý chấp nhận
mang lấy ách đam mê tội tình. Thế nên, muốn đáp lại
tiếng mời gọi của Thiên Chúa con người tội lỗi của
chúng ta phải làm một cuộc “trở lại” (epistréphein),
một cuộc hoán cải suốt cuộc đời với tâm tình sám hối
ăn năn (metanoéin). Nghĩa là, vừa có sự thay đổi đời
sống thực tế bên ngoài vừa có một sự biến chuyển nội
tâm. Chúa Giêsu mời gọi “hãy sám hối và tin vào
Phúc âm” (Mc 1,15). Lời mời gọi này gồm cả hai mặt
ấy. Phép Rửa tội ghi nhận sự thống hối ăn năn và đã
ghi dấu một lần dứt khoát ơn tha tội. Thế nhưng, thân
phận con người dù đã được rửa tội vẫn mỏng giòn,
vẫn có khả năng sa ngã phạm tội. Bởi thế, họ cần một
MỤC LỤC
Đối với đôi bạn Kitô hữu, sự sám hối trở về, phải vừa
thực tế vừa thiêng liêng, buộc họ phải thực hiện
những chọn lựa đạo đức phù hợp với ý muốn của Đức
Kitô và trong sự hiệp thông trong Thánh Thần. Ngày
nay, những mục tiêu riêng của đời hôn nhân (hợp
nhất, trung thành và mở ngỏ cho sự sống) cần phải
được sống đến mức làm nổi bật sự ưu việt của tính bí
tích, tức là đôi bạn và gia đình của họ phải sống làm
sao chiếu tỏa ánh rạng ngời thiêng liêng. Họ không
chỉ là một cộng đoàn “được cứu độ” đón nhận tình
yêu của Chúa Kitô, mà còn hơn thế nữa, được gọi để
chuyển thông tình yêu của Chúa Kitô đến cho anh em
mình nghĩa là trở thành một cộng đoàn “cứu độ”. Một
gia đình truyền giáo.
Sự sám hối của đôi bạn trở về với tình yêu Chúa Kitô
đồng thời giả thiết đôi bạn phải cởi mở cụ thể và
thường xuyên đối với mọi tác động của Chúa Thánh
Thần, vì thiếu Ngài sẽ không thể có sự thánh thiện,
cũng như sự hiệp thông và truyền giáo. “Phàm ai
được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái
Thiên Chúa” (Rm 8,14). Sự phong nhiêu (fertility)
mang tính bí tích và truyền giáo của đôi bạn và gia
MỤC LỤC
Hôn nhân: Tình yêu vừa nhân linh vừa thần linh
Nhận thấy đề tài được thảo luận trên báo Tuổi Trẻ
cũng liên quan đến việc giáo dục lối sống cho các bạn
trẻ hiện nay trong các gia đình công giáo, WHĐ đã
thực hiện cuộc phỏng vấn cha Luy Nguyễn Anh
Tuấn, Tổng Thư ký Ủy ban Mục vụ Gia đình trực
thuộc HĐGMVN.
Cảm ơn cha Luy đã nhận trả lời phỏng vấn và xin trân
trọng giới thiệu cùng quý độc giả.
***
MỤC LỤC
1. Thưa cha, hiện nay báo Tuổi Trẻ liên tiếp đăng tải
bài viết và ý kiến của độc giả về vấn đề “Tình dục
trước hôn nhân trong giới trẻ”.
Ý kiến của cha như thế nào: nên hay không thảo luận
công khai đề tài “nhạy cảm” và “khó nói” này?
– Thời đại của thông tin với các phương tiện truyền
thông đa dạng khuyến khích và mời gọi mọi cá nhân
cũng như tập thể nói lên tiếng nói của mình qua đó
diễn tả ý kiến, quan điểm về cuộc sống và về con
người. Tình dục-tình yêu-hôn nhân-gia đình không
phải chỉ là một mảng của đời sống con người mà còn
là chính cuộc sống con người. Vì thế không chỉ
những người trẻ quan tâm đến đề tài này, mà cả người
lớn, người cao tuổi cũng quan tâm, bởi lẽ nó liên hệ
đến bản thân và cuộc sống trong đó mỗi người đang
sống. Diễn đàn “Tình dục trước hôn nhân trong giới
trẻ” trong mục Nhịp Sống trẻ của Báo Tuổi Trẻ trong
những ngày qua, tạo cơ hội cho nhiều người nhất là
các bạn trẻ bộc lộ ý kiến, bộc bạch tâm tư cùng những
nỗi niềm đã và đang trải nghiệm rất khác nhau về vấn
đề này, là đáng trân trọng, cần tiếp tục được mỗi
người suy nghĩ và phân tích, từ đó có thể tìm thấy cho
mình một hướng đi để có một cuộc sống hạnh phúc
thật sự theo nghĩa đầy đủ nhất. Thế nên thảo luận về
MỤC LỤC
Đối với nhiều người trẻ, tìm giải đáp cho vấn đề có
nên hay không nên “quan hệ tình dục trước hôn nhân”
có lẽ cũng bức xúc như vấn đề “quan hệ tình dục
ngoài hôn nhân” nghĩa là quan hệ với người đã có vợ
hay có chồng (có sự ngoại tình), hoặc với người mình
không có ý định kết hôn (“yêu” nhưng không muốn
kết hôn), hoặc với người mình không yêu (tình dục
không tình yêu). Hoàn cảnh thực tế xã hội của hai vấn
đề khác nhau, và đối với nhiều người trưởng thành
theo đạo đức truyền thống của Á Đông, dường như
đặt vấn đề trước (quan hệ tình dục trước hôn nhân) có
phần nghiêm túc hơn đặt vấn đề sau (quan hệ tình dục
ngoài hôn nhân). Nghĩa là nếu ai đó rơi vào trường
hợp trước thì dễ được xã hội thông cảm, tha thứ hơn
rơi vào trường hợp sau. Khi đặt vấn đề “quan hệ tình
dục trước hôn nhân” thì đã hàm ý “có ý định sẽ tiến
đến hôn nhân” (do “lỡ” hoặc có ý muốn sống thử
trước khi kết hôn). Ở đây, câu hỏi chỉ nhằm tới
trường hợp thứ nhất.
nào đó, ý kiến của những bạn trẻ tán thành “tình dục
trước hôn nhân” dường như càng được nạp thêm
“năng lượng”! Đàng khác, trong giới Công giáo, một
số rất đông các bạn trẻ Công giáo ở tổng giáo phận
Huế trong một Đại Hội giới trẻ nào đó cách đây
không lâu kiên quyết nói KHÔNG với “tình dục trước
trước hôn nhân” cũng là một tiếng nói ngược lại trong
bộ phận những người trẻ cũng cần phải quan tâm.
cho rằng: “Nếu hai người yêu nhau thật lòng, chuẩn
bị cho mình đủ kiến thức tối thiểu về tình dục an toàn,
biết các biện pháp tránh thai và biết cách bảo vệ sức
khỏe chính mình thì có gì là ghê gớm khi họ đồng ý
“quan hệ” cùng nhau. Chẳng có gì là mất đạo đức hay
thiếu tư cách ở đây cả. Pháp luật chỉ kết tội hành vi
hiếp dâm, không điều chỉnh tình yêu nam nữ và càng
không đề cập đến khái niệm thế nào là sớm hay muộn
trong quan hệ tình dục... họ chịu trách nhiệm về chính
những điều họ làm chứ không phải ai khác. Như thế,
chẳng có lý do gì để chúng ta cảm thấy thương hại
hay được quyền lên án những hành vi ấy... Bởi họ
sống cuộc đời của chính họ chứ không sống giùm,
sống thay, sống vì ai khác” (BTT 5.7.2010). Đối với
những người “tán thành” nói chung, tình dục là bản
năng không có gì xấu cả. Có một bạn gái quan niệm
thoáng hơn, cho rằng: “Chẳng thể nói chỉ những
người có gia đình mới được quan hệ tình dục và chỉ
được quan hệ tình dục với duy nhất người bạn đời của
mình” !?(BTT 7.7.2010). Chúng ta phải trả lời như
thế nào trước những ý kiến, quan điểm sống này?
Trong hoàn cảnh này, người thì tán thành “tình dục
trước hôn nhân” kẻ thì không, như là một người công
giáo tôi nghĩ mình cũng cần nói lên quan điểm và suy
nghĩ của mình.
Trước hết, tôi nghĩ cần phải trở lại câu hỏi căn bản
hơn: hành vi tính dục (ở đây tôi dùng chữ tính dục
thay cho tình dục trong nhiều trường hợp vì muốn chỉ
một thực tại tự nhiên và khách quan nơi thân xác con
người vốn luôn là một thân xác có giới tính) diễn tả
nơi thân xác giữa một người nam với một người nữ
có ý nghĩa gì? Vì có hiểu bản chất và ý nghĩa của
hành vi ta mới biết phải hành động thế nào. Vì hành
động đi theo bản chất.
Hành vi tính dục của con người diễn ra nơi thân xác
con người. Nhưng thân xác con người khác với thể
xác của các con vật ở chỗ nhờ nó và qua nó tôi thể
hiện chính mình. Cái “tôi” là cả một thế giới tinh thần
bên trong mà ở nơi sâu thẳm đó tôi đang sống với bao
ý nghĩ, tâm tư, tình cảm, ước muốn thầm kín, và cả
những quyết định riêng tư với một sự tự do bất khả
xâm phạm, cái “tôi” ấy thể hiện mình ra bên ngoài
nhờ thân xác và qua thân xác. Đó là cái tôi chủ thể, là
một nhân vị. Con người hay nhân vị là “một” thể
thống nhất của thân xác và tinh thần (xác-hồn). Thân
xác con người vì thế được gọi là “tinh thần nhập thể”
(spiritual body) [1] khác với thân xác của con vật và
mọi vật khác. Nhưng thân xác ấy là nam hay là nữ,
nghĩa là được phân giới tính (sexed body) ngay “từ
thuở ban đầu” [2]. Giới tính cùng với sức cuốn hút
mạnh mẽ của nó khi đứng trước tha nhân là dấu chỉ
cho thấy rằng tương giao là nhu cầu thiết yếu của
cuộc sống của một con người [3]. Tính dục hay giới
tính là ngôn ngữ của thân xác để nói một điều gì hơn
nữa không chỉ là thân xác. Tính dục hay giới tính là
một phương thế và là lực đẩy con người bước ra khỏi
cái tôi khép kín, buồn tủi, héo mòn để bước vào tương
giao với thế giới, với những con người khác, với
Thiên Chúa, để hiệp thông trong yêu thương. Hai
MỤC LỤC
thức nào đó, tức kết hôn. Vì thế, cả khi hai bạn thực
sự yêu nhau và đã quyết định dấn thân trong hôn
nhân, chuyện bày tỏ tình yêu qua hành động kết hợp
thân xác (giao hợp) trước khi kết hôn vẫn là hành
động rất thiếu khôn ngoan và không chính đáng.
Hơn nữa, người Kitô hữu nhận biết tình yêu của đôi
bạn nam-nữ, tự nó hướng tới sự phối hôn nhờ thân
xác của người nam và người nữ, được mời gọi càng
ngày càng trở nên là hình ảnh của Tình yêu Hiệp
Thông của Ba Ngôi Thiên Chúa, khác biệt và bất khả
phân li. Tình yêu của đôi bạn Kitô hữu đã thành hôn
là bí tích, nghĩa là dấu chỉ hữu hình và hữu hiệu giữa
thế giới này của Tình yêu Chúa Kitô với Hội Thánh,
dấu chỉ trong không gian và thời gian của Tình yêu
Thiên Chúa trung thành qua Giao ước ký kết bằng
Máu châu báu của Chúa Kitô với Dân Người. Thế
nên, tình yêu của đôi bạn, tự nó vốn hướng tới vĩnh
cửu, cũng là một hành trình trong thời gian với đầy
những khó khăn, thử thách, cám dỗ do xu hướng
hướng về tội lỗi (mà dục vọng là một dấu hiệu) cần
đến ơn Chúa trợ lực. Bởi thế, “tình dục trước hôn
nhân” hay ngoài hôn nhân không diễn tả Tình yêu
vừa nhân linh vừa thần linh này, là quan hệ rất mong
manh.
MỤC LỤC
5. Cha có lời khuyên nào đối với các gia đình có con
cái chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân?
– Các cha mẹ có con tới tuổi dậy thì, sắp tới tuổi
thành hôn, cần nói chuyện thẳng thắn với con, theo
nghĩa là đối thoại hơn là dạy dỗ áp đặt. Cha mẹ có
trách nhiệm giáo dục trước hết, và không ai thay thế
được, nếu tránh né hay lần lữa, các em sẽ tự động đi
học với những “người thầy” khác là bạn bè, sách báo,
internet... liệu có bảo đảm, an toàn không?
Những đòi hỏi của Giáo Luật cho Hôn nhân hoàn hợp
Con người là một hữu thể thống nhất của xác và hồn.
Là hữu thể tinh thần, nhưng con người không chỉ là
hữu thể tinh thần sử dụng một thân xác, giống như
một thuyền trưởng lái con tàu của mình. Con người
còn là hữu thể thân xác, nhưng không chỉ là thân xác
thiếu chiều kích phi-vật-thể (như những người theo
thuyết duy vật tin tưởng). Con người được gọi cách
chính xác là những “linh hồn nhập thể”. Quan hệ hôn
nhân là diễn tả duy nhất của sự hợp nhất hồn-xác này.
tới khi nào những người bạn ấy vẫn còn muốn làm
bạn với nhau. Nếu có một người nào không ưng thuận
nữa, mối quan hệ ấy (dẫu còn hay không còn tình
cảm) coi như chấm dứt.
Hôn nhân cũng là một loại tình bạn đòi hỏi phải có
sự ưng thuận (“sự ưng thuận trong hôn nhân”). Thế
nhưng, nó là cái gì đó còn hơn là một tình bạn thông
thường được xây dựng và gìn giữ chỉ bằng sự ưng
thuận của hai người thông dự. Nó còn có một chiều
kích xác thân sâu thẳm – chiều kích “một xương một
thịt” được thực hiện qua hành vi giao hợp đầu tiên
(xem St 2,24; Mt 19,5; Ep 5,31). Tính chất “một
xương một thịt” này có hiện hữu hay không là do,
như thánh Phaolô giải thích, những người này có kết
hôn với nhau hay không (x. 1Cr 6,16). Nhưng bởi vì
hành động “ăn ở với nhau” (“giao hợp”) nối kết hai
người thành chỉ một thân xác một linh hồn, diễn tả
khả năng tình thâm giao sâu nặng (radical human
intimacy) và sinh sản thuộc nhân tính, cho nên hành
động ấy phải là duy chỉ thuộc về hôn nhân. Điều đó
có nghĩa là nó phải là một hành động thể hiện và tham
dự vào một mối quan hệ mang tính chất bền vững,
độc hữu và phong nhiêu (khả năng sinh sản).
MỤC LỤC
Nếu hai người phối ngẫu chưa ưng thuận cùng nhau
sống một đời đôi bạn kiểu hôn nhân kéo dài suốt cuộc
đời, hành động giao hợp của họ là vô luân
(disordered) bởi lẽ nó tạo nên một sự kết hợp nên một
thân xác nhưng trên cơ sở một quan hệ không trường
cửu. Đức Gioan Phaolô II nói rằng “ngôn ngữ thân
xác” mà được biểu lộ qua một quan hệ ngoài hôn
nhân là dối trá. “Bởi lẽ tôi nói qua thân xác tôi rằng
em thuộc về tôi và tôi thuộc về em mãi mãi; nhưng tôi
lại chưa ưng thuận một kết hợp kiểu như thế.”
Giáo Luật
Bây giờ chúng ta trở lại với câu hỏi liệu một hành vi
giao hợp có ý tránh mang thai có hoàn hợp cuộc hôn
nhân hay không. Chú giải 1985 về Bộ Giáo Luật của
Hiệp Hội Giáo Luật Hoa Kỳ nói rằng: “Những nhà cố
vấn khi bàn thảo các điều khoản Giáo luật này đã ngã
hướng về quan niệm cho rằng sự giao hợp tự nhiên đã
là hoàn hợp và việc sử dụng các phương thế ngừa thai
không ngăn trở tính hoàn hợp thật sự của hành động
ấy chừng nào chúng không cản trở hành động giao
hợp thể lí” [1].
Tôi hiểu đoạn văn này muốn nói rằng các nhà cố vấn
(tức là, các chuyên viên về Giáo luật mà Vatican đã
tham vấn trong khi chuẩn bị cho ra đời Bộ Giáo Luật
MỤC LỤC
Cả Dr. May và tôi đều cho rằng phán quyết này là sai
lầm (và nhiều nhà thần học luân lí ngày nay cũng
thế). Tôi sẽ trình bày cách ngắn gọn nhất lập luận bảo
vệ cho quan điểm của mình. Để một hành động giao
hợp mang đặc tính “hôn ước” (hay “vợ
chồng”/“marital”) và hợp pháp, hành động ấy phải
hàm chứa hai điều thiện hảo chính yếu của hôn nhân,
đó là sinh sản con cái (procreation) và kết hợp vợ
chồng (unity). Nếu có ước muốn rõ ràng ngược lại
với một trong hai thiện hảo này của hôn nhân, thì dù
cho hành động thể lí xem ra có thể giống hành động
MỤC LỤC
Tôi tin rằng một linh mục mà biết một cặp vợ chồng
có ý thực hành ngừa thai sau khi họ cưới nhau sẽ hết
MỤC LỤC
GIÁO LÝ CHUẨN BỊ
Bài 1: Huyền nhiệm Nadaret
thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. (Ga
1,11-12).
40 Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh,
đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên
Chúa.
1. Người đến giữa người nhà mình. Tại sao gia đình
phải chọn một lối sống? Ngày nay gia đình làm việc
và nghỉ lễ theo lối mới như thế nào? Hai đoạn Kinh
Thánh mô tả cách Chúa Giêsu đã đến giữa chúng ta
(Ga 1,11-12) và đã sống trong một gia đình nhân loại
(Lc 2,40-41.51-52).
Chúa Giêsu đòi hỏi gia đình phải là nơi tiếp đón và
truyền sinh sự sống cách sung mãn. Gia đình không
những ban cho sự sống thể lý, mà còn mở ra cho lời
hứa và niềm vui. Gia đình trở nên có khả năng “tiếp
đón” nếu biết giữ sự thân mật riêng tư, lịch sử của
từng người, các truyền thống gia đình, niềm tin tưởng
cuộc sống, niềm trông cậy vào Chúa. Gia đình trở nên
có khả năng “truyền sinh” khi chuyển thông những ơn
đã lãnh nhận, khi giữ được nhịp nhàng trong cuộc
sống hằng ngày giữa làm việc và nghỉ ngơi, giữa yêu
MỤC LỤC
Gia đình có nhịp điệu riêng, giống như nhịp đập của
trái tim; là nơi của nghỉ ngơi và đà vươn tới, nơi đến
và đi, nơi của an bình và mơ mộng, của dịu dàng và
trách nhiệm. Vợ chồng phải xây dựng hoà khí trước
khi những đứa con ra đời. Công việc không thể làm
cho nhà cửa hoang vắng, gia đình phải học cách sống
và nối kết thời gian làm việc và nghỉ ngơi. Gia đình
thường xuyên phải đối phó với những áp lực bên
ngoài không cho phép lựa chọn điều lý tưởng, nhưng
các môn đệ của Chúa là những người, sống trong
những tình huống cụ thể, biết thêm hương vị cho tất
cả mọi thứ, ngay cả những gì không thể thay đổi
được: họ là muối đất. Đặc biệt, ngày Chúa nhật nên là
thời gian dành cho niềm tin, sự thoải mái, gặp gỡ,
nghỉ ngơi, và chia sẻ. Chúa nhật là thời điểm gặp gỡ
giữa người nam và người nữ. Hơn hết, ngày Chúa
nhật là Ngày của Chúa, là thời gian cầu nguyện, thời
gian dành cho Lời Chúa, Thánh Thể, mở rộng ra với
cộng đoàn và việc bác ái. Và vì thế ngay cả các ngày
trong tuần cũng sẽ nhận được ánh sáng từ ngày Chúa
nhật và nghỉ lễ: ít tản mát và gặp gỡ sẽ nhiều hơn, bớt
MỤC LỤC
hối hả và đối thoại nhiều hơn, ít bận tâm đến vật này
việc kia nhưng hiện diện với nhau nhiều hơn. Một
bước đầu tiên theo hướng này là xem chúng ta đang
sống trong nhà như thế nào, chúng ta làm gì trong tổ
ấm của chúng ta. Cần quan sát nơi ở của chúng ta như
thế nào và xem xét cách ăn lối ở của chúng ta, những
lựa chọn chúng ta đã thực hiện, những ước mơ mà
chúng ta đã vun trồng, những đau khổ chúng ta đang
sống, những đấu tranh chúng đang cầm cự, những hy
vọng chúng ta đang nuôi dưỡng.
Câu điệp khúc mở đầu đoạn văn phác hoạ một vài nét
về “huyền nhiệm Nadaret”. Đó là nơi để lớn lên trong
khôn ngoan và ân sủng của Thiên Chúa, trong khung
cảnh của một gia đình tiếp đón và truyền sinh. “Con
trẻ lớn lên và thêm sức mạnh, đầy khôn ngoan và ân
MỤC LỤC
Thật vậy, câu điệp khúc kết thúc đoạn văn này nói
rằng Chúa Giêsu “đi xuống cùng với cha mẹ, trở về
Nadaret và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người
thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn
Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn
và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và loài người”.
Đây là mầu nhiệm sâu thẳm của Nadaret: Chúa Giêsu,
Ngôi Lời của Thiên Chúa, đã dìm mình trong bản tính
nhân loại chúng ta ba mươi năm. Những lời nói của
con người, những mối quan hệ gia đình, kinh nghiệm
về tình bằng hữu và xung đột, về sức khỏe và bệnh
tật, về niềm vui và nỗi đau đã trở nên ngôn ngữ mà
MỤC LỤC
Chúng ta cũng lớn lên trong một gia đình nhân loại,
bên trong những mối quan hệ tiếp đón làm chúng ta
phát triển và đáp ứng với cuộc sống và với Thiên
Chúa. Chúng ta cũng trở thành những gì chúng ta đã
nhận lãnh. Huyền nhiệm Nadaret là tập hợp của tất cả
mối quan hệ này: gia đình và truyền thống tôn giáo,
nguồn gốc của chúng ta và những người thân của
chúng ta, cuộc sống hằng ngày và những ước mơ cho
ngày mai. Cuộc phiêu lưu của đời sống con người
xuất phát từ những gì chúng ta đã nhận được: sự
sống, gia đình, tình yêu, ngôn ngữ, đức tin. Bản tính
nhân loại của chúng ta được trui rèn từ một gia đình
cụ thể với sự giàu có và nghèo khó của gia đình ấy.
Đời sống gia đình mang nơi mình một phong cách
độc đáo, mới mẻ, sáng tạo để sống và hưởng nếm
MỤC LỤC
Điều này trước tiên phải được sống từ bên trong gia
đình và nhờ đôi vợ chồng, nhờ nỗ lực dấn thân hằng
ngày nhằm thăng tiến một cộng đoàn đích thực các
nhân vị, đặt nền tảng và được nuôi dưỡng bởi sự hiệp
thông bên trong của tình yêu. Kế đến, điều này phải
được phát triển trong môi trường rộng lớn hơn của
cộng đồng Giáo Hội, là nơi gia đình Kitô hữu hội
nhập vào: nhờ đức ái của gia đình, Giáo Hội có thể và
MỤC LỤC
phải mặc lấy chiều kích gia đình hơn, nghĩa là thân
thiết hơn, bằng cách áp dụng một lối sống các mối
quan hệ nhân bản và huynh đệ hơn.
Những câu hỏi dành cho nhóm gia đình và cộng đoàn:
1. Có những lối sống mới nào dành cho gia đình ngày
nay giữa công việc và nghỉ lễ?
Những trang Kinh Thánh đầu tiên cho thấy điều tốt
lành Thiên Chúa đã dự định cho những thụ tạo của
MỤC LỤC
Lịch sử giao ước của Đức Chúa với dân riêng Ngài
soi sáng cho câu chuyện sáng tạo người nam và người
nữ. Họ được tạo dựng nhờ một giao ước không chỉ
liên hệ đến chính họ mà còn liên can đến Đấng Tạo
Hoá: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh
và họa ảnh của Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con
người có nam có nữ”.
Cuộc gặp gỡ với một người khác phái luôn khơi dậy
sự tò mò, cảm kích, ước muốn được chú ý, được cho
đi điều tốt nhất của mình, được tỏ bày giá trị bản
thân, được quan tâm, được che chở…; đó là một cuộc
gặp gỡ năng động, chứa đầy năng lượng tích cực, bởi
vì trong tương quan với người khác chúng ta khám
phá và tăng triển chính mình. Căn tính của phái nam
và phái nữ nổi bật cách đặc biệt khi giữa họ phát sinh
tình yêu kỳ diệu do gặp gỡ nhau và ước muốn gắn bó
bền lâu.
Tình yêu vợ chồng, thực hiện qua việc lôi cuốn, đồng
hành, đối thoại, tình bạn, chăm sóc… bắt nguồn từ
tình yêu Thiên Chúa, là Đấng ngay từ nguyên thuỷ đã
MỤC LỤC
“Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt
tôi!”: người đàn ông thốt lên những lời đầu tiên này
trước mặt người phụ nữ. Cho đến lúc này chàng đã
“làm việc” bằng cách đặt tên cho các loài vật, mà vẫn
còn đơn độc, không thể nói lời hiệp thông. Trái lại,
khi thấy người phụ nữ trước mặt mình, người đàn ông
đã thốt ra những lời kinh ngạc, khi nhận ra nơi nàng
một Thiên Chúa cao cả và tình cảm tươi đẹp. Thiên
Chúa giao phó công trình tạo dựng của Ngài cho
người đàn ông và người đàn bà hiệp thông với nhau,
trong ngỡ ngàng, biết ơn và liên đới. Bằng việc kết
ước với nhau trong tình yêu, họ sẽ trở nên một
“xương thịt duy nhất” theo thời gian.
Kiểu nói “một xương thịt duy nhất” chắc chắn ám chỉ
đến con cái, nhưng trước hết nó gợi lên sự hiệp thông
liên vị giữa người nam và người nữ hoàn toàn gắn kết
với nhau, đến độ tạo thành một thực tại mới. Kết hợp
nên một như thế người nam và người nữ có thể và
phải sẵn sàng thông truyền sự sống, sẵn sàng đón
nhận, bằng cách sinh sản con cái nhưng cũng đồng
thời rộng mở cho những hình thức cho và nhận con
nuôi. Quả thật, sự thân mật vợ chồng là nơi từ ban
đầu đã được Thiên Chúa muốn và đặt định, là nơi sự
sống con người không những được thông truyền và
sinh ra, mà còn là nơi tập hợp tất cả những tình cảm
MỤC LỤC
Tình yêu, nguồn mạch và linh hồn của đời sống gia
đình
Ngoài ra, gia đình Kitô hữu còn được mời gọi trải
nghiệm một sự hiệp thông mới mẻ và độc đáo, củng
cố cho sự hiệp thông tự nhiên và nhân bản. Thật vậy,
ân sủng của Đức Giêsu Kitô, người “Anh Cả của một
MỤC LỤC
Tất cả mọi thành phần trong gia đình, mỗi người theo
ơn riêng của mình, đều có ân sủng và trách nhiệm để
ngày này sang ngày khác xây dựng mối hiệp thông
giữa các ngôi vị, bằng cách biến gia đình thành một
“trường học đào tạo nhân tính được hoàn hảo và
phong phú hơn” (GS, 52). Điều đó được thể hiện qua
việc yêu thương chăm sóc trẻ nhỏ, những người đau
yếu, những người già cả, qua những việc phục vụ lẫn
nhau trong đời sống hằng ngày, qua việc chia sẻ của
cải, chia sẻ những niềm vui và nỗi khổ. [Familiaris
Consortio, 21]
MỤC LỤC
Gia đình được mời gọi can dự vào toàn bộ cuộc sống
của các phần tử, từ khi sinh ra cho tới khi qua đời.
Gia đình thật là “cung thánh của sự sống… là nơi mà
sự sống, hồng ân của Thiên Chúa ban, có thể được
đón nhận cách xứng hợp và bảo hộ chống lại bao
nhiêu đe dọa chực tấn công, và là nơi mà sự sống có
thể phát triển theo những đòi hỏi cho một tăng trưởng
nhân bản đích thực”[2]. Vì thế vai trò của gia đình có
tính quyết định và không thể thay thế, để xây dựng
nền văn hoá sự sống.
Xét như là Giáo Hội tại gia, gia đình được mời gọi
loan báo, cử hành và phục vụ Tin mừng về sự sống.
Đó là sứ mệnh liên quan trước hết đến đôi bạn, những
người được mời gọi để truyền ban sự sống, dựa trên
một ý thức luôn được canh tân về ý nghĩa của truyền
sinh, coi đó là sự kiện ưu tiên biểu lộ sự sống của con
người là một hồng ân được tiếp nhận, để rồi lại được
trao ban. Khi tạo nên một sự sống mới, người cha
người mẹ như muốn nói rằng đứa con “nếu như là kết
quả của việc họ tự hiến cho nhau trong tình yêu, thì
đến lượt nó, nó trở nên một hồng ân cho cả hai người:
một hồng ân phát sinh từ một hồng ân”[3]
Trên hết chính qua việc giáo dục con cái mà gia đình
làm tròn sứ mệnh loan báo Tin mừng về sự sống.
MỤC LỤC
1. Chúng ta sống như thế nào [để hoà hợp] giữa ham
muốn và ân cần trong quan hệ của chúng ta?
2. Những cản trở nào giăng kín hành trình giao ước
thâm sâu của chúng ta?
Những câu hỏi dành cho nhóm gia đình và cộng đoàn:
2. Làm thế nào để giúp các gia đình thông tin dễ dàng
và giúp đỡ lẫn nhau?
––––––––––––––––––––––––––––––
[3] Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn trước các tham dự
viên Hội nghị Giám mục Âu châu về đề tài “Những
thái độ đương thời trước việc sinh ra đời và trước cái
chết: một thách đố cho việc rao giảng Tin Mừng”
(17.10.1989), số 5. Con cái theo truyền thống Kinh
Thánh được trình bày cách rõ ràng như là hồng ân của
Thiên Chúa (x. Tv 127,3) và như là dấu chỉ phúc lành
của Ngài xuống trên những ai đi trong đường lối của
Ngài (x. Tv 128,3-4)
19 Khi Hêrôđê băng hà, thì đây thiên thần Chúa hiện
ra cùng Giuse trong giấc mơ bên Ai Cập20 và bảo:
“Hãy trỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất
Israel, vì những kẻ tìm hại mạng sống Người đã
chết”.21 Ông liền trỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người
về đất Israel.22 Nhưng nghe rằng Arkhêlao làm vua
xứ Giuđa thay cho Hêrôđê là cha mình, thì Giuse sợ
không dám về đó. Ðược báo trong giấc mộng, ông
lánh sang địa phận xứ Galilêa,23 và lập cư trong
thành gọi là Nadaret, để ứng nghiệm lời đã phán qua
MỤC LỤC
Với cung giọng đầy kịch tính, đoạn Tin Mừng trên
mô tả cuộc hành trình của một gia đình, cụ thể là gia
đình Đức Giêsu, có vẻ tương tự như nhiều gia đình
khác: con trẻ gặp nguy hiểm, cần phải lên đường ngay
trong đêm tối để đến một vùng đất lạ. Gia đình non
trẻ này buộc phải cất bước trên một con đường có thể
MỤC LỤC
có nhiều bất trắc đang chờ đón, phức tạp và bất ổn.
Đó cũng là những gì mà ngày nay đang xảy ra cho
nhiều gia đình, những gia đình bị buộc phải rời bỏ nơi
sinh sống để có thể tạo lập cho con cái một môi
trường sống tốt đẹp hơn và để bảo vệ chúng khỏi
những nguy hiểm của thế giới chung quanh. Tuy
nhiên, có lẽ câu chuyện trốn sang Ai Cập ngụ ý nói
đến một sự kiện phổ quát hơn, có liên quan đến mọi
gia đình: các cha mẹ nhất thiết phải bước đi trong
hành trình cuộc sống để đạt tới trưởng thành cũng
như để con cái họ được lớn lên, với ý thức về ơn gọi
của mình. Để được điều đó nhiều khi phải trả giá
bằng những quyết định đau đớn. Đó là hành trình kiến
tạo gia đình, hành trình sinh dưỡng và giáo dục con
cái, một hành trình gian khổ, khó khăn, đòi hỏi nhiều
cố gắng mà lắm khi có nhiều khó khăn không thể
tránh khỏi làm nản chí nhiều gia đình.
nhân vật chính của hành trình gia đình là cha mẹ, đặc
biệt là người cha. Cha mẹ được kêu gọi chuẩn bị
trước những điều kiện sống tốt đẹp nhất cho con cái.
Theo một kiểu nói của Kinh Thánh, thánh Giuse được
báo mộng cho biết nhu cầu cần phải lên đường. Trước
đó, thánh nhân cũng được báo mộng (Mt 1,20-21) bởi
sứ thần truyền tin cho biết việc Đức Maria mang thai
và kêu gọi ngài hãy đón nhận và đem Mẹ về nhà mình
(x. Mt 1,20-21).
Thiên thần mời gọi thức tỉnh, nhận lấy, đem đi trốn
… và phó thác trong khi lưu lại tại đất khách quê
người cho tới khi Chúa báo lại. Thánh Giuse nhận lấy
trách nhiệm và là nhân vật chính trong biến cố này,
nhưng ngài không cảm thấy lẻ loi, bởi vì ngài tin
tưởng vào Đấng quan phòng chăm lo cho cuộc sống
của con người. Sự tin tưởng vào Thiên Chúa không
miễn cho chúng ta khỏi phải suy nghĩ, đánh giá tình
huống, và tiến tới quyết định, đúng hơn tin tưởng
giúp ta sống được trong mọi hoàn cảnh mà không bao
giờ phải thất vọng hay thoái thác. Thánh Giuse là con
người tỉnh thức, có thể đối diện với mọi biến cố để
bảo vệ sự sống cho người mẹ và con trẻ, nhưng đồng
thời ngài cũng hành động với ý thức hoàn toàn Thiên
Chúa phù trợ và bảo vệ thực sự.
MỤC LỤC
những tấn công rình rập, khỏi bạo lực, nhưng mang
lại niềm hy vọng, giúp giữ gìn một khái niệm tốt đẹp
về Thiên Chúa và về cuộc sống.
Bản văn Kinh Thánh gợi lên rằng người cha tìm thấy
căn tính và vai trò của mình khi gìn giữ người mẹ, tức
là khi chăm sóc mối tương quan của vợ chồng. Chúng
ta biết rõ là sự hoà hợp giữa cha mẹ có vai trò quyết
định trong việc bảo vệ, giữ gìn và khích lệ con cái
như thế nào. Chúng ta cũng biết người đàn ông gặp
khó khăn như thế nào khi phải bảo vệ người phụ nữ
khỏi những đêm cô đơn, im lặng và không giao tiếp.
MỤC LỤC
3. Trốn sang Ai Cập. Hành trình của một gia đình là:
ra đi, rời khỏi vùng đất khắc nghiệt để đến một nơi dễ
sống hơn, là đất nước Ai Cập, một thời vốn là vùng
đất của cảnh trạng nô lệ và đau khổ, nhưng cũng là
nơi Thiên Chúa mạc khải tình yêu thương đối với dân
Israel của Ngài.
Đối với dân Israel, đất Ai cập gắn liền với nhiều ý
nghĩa: đó là nơi Giacop và các con của ông được đón
tiếp cư ngụ và trước đó nữa, nơi Giuse con của
Giacop đã bị đem đến sau khi bị anh em bán. Đó là
vùng đất mà dân Israel từng chịu cảnh nô lệ và cảm
nghiệm được ơn giải thoát. Và cũng là vùng đất từng
cưu mang chính Môsê và sau đó ông đã trốn thoát.
Thiên thần kêu gọi thánh Giuse đến chính vùng đất đó
để cứu thoát con trẻ, điều này như muốn nói rằng nhờ
được viếng thăm trở lại và lưu trú trong hy vọng và
tin tưởng mà ngay cả một nơi của chết chóc cũng có
thể trở thành cái nôi cho sự sống. Nhưng để được như
vậy cần phải can đảm trở lại đó và quyết định sống tại
nơi khó khăn đó, nhờ tin tưởng vào Thiên Chúa của
MỤC LỤC
Cha mẹ cần bảo vệ con cái khỏi muôn vàn đêm tối
của các mối quan hệ, của các vấn đề của chúng, và
những đêm tối đôi khi rất đau đớn do chính chúng
chọn lựa những điều sai trái. Đặc biệt vào những lúc
này, người cha cần quan tâm chăm sóc con hơn, bảo
đảm chắc chắn, dẫu cho cả khi người mẹ cảm thấy
đau lòng, tìm được cho con một nơi nương náu. Nơi
nương náu đó thường không phải là nơi nào khác
MỤC LỤC
ngoài tâm hồn của chính cha mẹ, nơi đó hình ảnh của
đứa con không bao giờ suy suyển và cũng nơi đó cha
mẹ tìm lại được sự kiên nhẫn và niềm hy vọng để tiếp
tục yêu thương con.
tiên tri nhiệm mầu soi sáng – lập cư tại Nadaret, nơi
đó an toàn hơn ở vùng Giuđêa. Giấc mộng một lần
nữa lại trở thành nơi mặc khải và chiến thắng sự thù
địch và bạo lực mặc dù nó vô hình và gần như không
chắc chắn, nhưng nó lại trở thành nơi phân định kỹ
lưỡng và can đảm, có thể đánh bại được vũ khí hiển
nhiên và chắc chắn nhất của quyền lực. Không gì có
thể làm suy giảm sự quan phòng của Thiên Chúa, một
sự quan phòng luôn có thể cứu giúp những ai tin
tưởng thoát khỏi những tình huống khó khăn và nguy
hiểm nhất. Thiên Chúa luôn hiện diện trong những
đêm tối của gia đình chúng ta, và trong nơi kín ẩn và
đôi khi tăm tối của các biến cố, Ngài dệt nên chương
trình cứu độ của Ngài.
đời sống gia đình đang phải chịu và hôm nay cũng
kêu gọi các chủ chăn, thừa tác viên giáo dân, các gia
đình, hãy làm phong phú thêm cái nhìn của Giáo Hội
trên đoàn dân đông đảo như “đàn chiên không người
chăn dắt”.
Những khó khăn khác mà gia đình cần đến cộng đoàn
giáo hội và các chủ chăn giúp đỡ, có thể là: con cái ở
tuổi thiếu niên năng động bướng bỉnh, có khi làm náo
động; hôn nhân của chúng tách lìa chúng ra khỏi gia
đình gốc; người thân thiếu thông cảm hay thiếu yêu
thương; bị người bạn đời bỏ rơi hay phải chịu cảnh
goá bụa, hay sự mất mát của một người thân làm thay
đổi sâu sắc căn tính nguyên thuỷ của gia đình
[Familiaris Consortio 18].
2. Tôi là người đàn ông thế nào đối với người mẹ của
các con tôi? Tôi là người phụ nữ thế nào đối với
người cha của các con tôi? Chúng tôi là người cha
người mẹ thế nào đối với các con của chúng tôi?
Những câu hỏi dành cho nhóm gia đình và cộng đoàn:
Có nhiều lời của Chúa Giêsu được ghi lại trong các
Phúc Âm soi sáng cho đời sống gia đình. Ngoài ra, sự
hiểu biết khôn ngoan của Chúa Giêsu về cuộc sống
con người được lớn lên nhờ bầu khí gia đình trong đó
Người đã sống phần lớn cuộc đời mình. Chính trong
gia đình Người đã học biết sống bao nhiêu thứ tình
cảm, đã cảm nghiệm được sự đón tiếp, sự dịu hiền, sự
tha thứ, sự quảng đại, sự tận tụy. Trong gia dình của
mình, Người đã nhận thấy rằng cho đi thì hơn là đòi
chiếm hữu, tha thứ thay cho trả thù, trao hiến thì hơn
là giữ lại cho mình, chấp nhận tiêu hao đi mà không
giữ lại sự sống của riêng mình. Việc loan báo Nước
Trời của Chúa Giêsu phát sinh trong kinh nghiệm gia
đình trực tiếp và Người xây dựng mọi mối tương
quan, khởi đi từ chính những tương quan gia đình,
trong khi soi sáng những tương quan đó bằng một ánh
MỤC LỤC
sáng mới và trải rộng chúng ra vượt quá biên giới của
luật cũ. Chúa Giêsu kêu mời chúng ta vượt qua nhãn
giới ích kỷ của các liên hệ gia đình và xã hội, để mở
rộng tình cảm ra vượt quá vòng chật hẹp của gia đình
riêng của mình, để trở nên men công chính cho đời
sống xã hội.
họa ảnh Thiên Chúa “thuở xưa”, mời gọi họ hiến thân
mình cho tha nhân theo đường lối của Thiên Chúa,
không lo âu sợ hãi, vượt trên những tính toán và bảo
đảm lợi lộc riêng tư.
2. Anh em mới là con của Cha anh em, Đấng ngự trên
trời. Chúa Giêsu đòi hỏi cách sống đặc biệt này và
như thế Người mặc khải rằng con người được tạo
dựng để dành cho những điều cao cả này. Người tỏ lộ
trong giáo huấn là các gia đình, trong ý định của
Thiên Chúa, có thể hiến dâng sống theo con đường
yêu thương của Người.
MỤC LỤC
Cha mẹ, như Giuse và Maria, ngạc nhiên khi thấy con
cái của mình chững chạc trước thế giới người lớn, khi
chúng tỏ ra có khả năng làm thầy dạy cho cả người
lớn: “Hai ông bà tìm thấy con trong Đền Thờ, đang
ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ vừa đặt câu hỏi.
MỤC LỤC
Ai nghe cậu nói cũng hết sức ngạc nhiên về trí thông
minh và sự đối đáp của cậu” (Lc 2, 46-47). Cũng như
gia đình Nadaret, mỗi gia đình qua con cái của mình
trao ban cho xã hội gia sản nhân loại mà mình đã
sống, gồm cả khả năng biết yêu thương thù địch, khả
năng tha thứ không nuôi thù oán, khả năng biết vui
mừng với những thành công của người khác, khả
năng trao ban nhiều hơn cả điều người khác xin ta...
Gia đình là “tế bào thứ nhất và sống động của xã hội”
(Familiaris Consortio 42), bởi vì trong gia đình người
ta học biết mối liên hệ với người khác quan trọng như
thế nào. Trong gia đình người ta nhận thấy năng lực
MỤC LỤC
của tình cảm không thể bị đóng kín “giữa nội bộ” mà
thôi, nhưng phải nhằm tới một chân trời rộng lớn hơn
của đời sống xã hội. Nếu chỉ được sống trong khung
cảnh của gia đình nhỏ bé, tình cảm ấy sẽ dần trở nên
nhàm chán, và thay vì làm lan tỏa ra hơi thở của
mình, sau cùng gia đình sẽ bị nghẹt thở. Cuộc sống
của gia đình được triển nở nhờ mở rộng những mối
liên hệ và tình cảm ra bên ngoài, nếu không, con
người sẽ bị đóng kín lại như ở trong chuồng làm ta
chết mòn.
Bao nhiêu gia đình mở cửa gia đình mình để đón tiếp,
lo lắng giúp đỡ những người khó nghèo và gặp tai
ương, hoặc chỉ là gõ cửa nhà bên cạnh để hỏi xem họ
có cần giúp gì không, hoặc trao tặng một cái áo còn
tốt để làm quà, hoặc cho các bạn học của con mình
trọ nhà để cùng học và làm bài... Hoặc nữa, đón nhận
một đứa trẻ không có gia đình, giúp các gia đình chỉ
còn một ông bố hay một bà mẹ giữ được bầu khí ấm
áp của gia đình, người ta hợp lực để nâng đỡ các gia
đình khác trong muôn vàn khó khăn ngày nay, bằng
cách dạy cho con cái biết nâng đỡ hỗ trợ với người
khác biệt chúng ta về chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa
và tôn giáo. Như vậy, thế giới này được nên đẹp hơn
và đáng cư ngụ hơn cho tất cả mọi người và toàn thể
xã hội được lợi thêm phẩm chất cuộc sống.
MỤC LỤC
Gia đình ban tặng cho xã hội món quà quí giá của tình
yêu vô điều kiện, được khoác bộ áo của sự dịu hiền,
lòng nhân hậu, sự phục vụ, tính vô vị lợi và sự kính
trọng lẫn nhau. Hơn nữa, như đoạn sau đây của Tông
huấn Familiaris Consortio cho thấy, giáo huấn của
Giáo hội luôn nhằm làm sáng tỏ làm thế nào gia đình,
ngoài việc trở nên trường học dạy sống các tình cảm,
cũng là “trường học đầu tiên dạy các nhân đức xã
MỤC LỤC
hội”. Quả thế, gia đình có một chiều kích công cộng
riêng và độc đáo, ảnh hưởng tích cực trên hoạt động
xã hội và sự bền vững của các mối liên kết xã hội.
Công trình tạo dựng của Thiên Chúa được kèm theo
lời của Ngài, đúng hơn, nó được thực hiện nhờ lời của
Ngài: “Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con
người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” ...
Và Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh
mình...” Những gì Thiên Chúa làm ra, trước tiên
không “được dùng” nhưng là để được chiêm ngưỡng.
Thiên Chúa nhìn ngắm những gì Ngài đã làm ra đến
mức chúng tỏa ánh huy hoàng, Ngài thưởng lãm vẻ
đẹp của điều thiện hảo mà Ngài đã tạo dựng nên.
Dưới con mắt của Ngài, công việc làm ấy như một
kiệt tác.
Lời đi kèm công trình tạo dựng của Thiên Chúa cũng
không thể thiếu nơi con người làm việc. Không bao
giờ được để cho công việc siết chặt làm nghẹt thở con
người đến nỗi phải rơi vào thinh lặng! Mất đi quyền
được lên tiếng, người lao động rơi nhào vào phận
người nô lệ, vốn là kẻ không được vui hưởng về kết
quả công việc mình làm, bởi vì bị ông chủ tước đoạt
mất.
Tình trạng gọi là “toàn cầu hóa” đòi hỏi thị trường
việc làm phải “uyển chuyển” sao cho thích hợp, thế
nhưng hoàn cảnh ấy không biện minh cho tình cảnh
thường xuyên “bấp bênh” của những anh chị em chỉ
dựa vào “sức lao động” của mình như nguồn lực duy
nhất bảo đảm cho nhu cầu cuộc sống của chính mình
và gia đình mình. Phải có những trù liệu xã hội và tổ
MỤC LỤC
chức an sinh bảo đảm thích hợp, giúp nền kinh tế lao
động phát triển trọn vẹn hơn, hầu giúp cho các gia
đình nhất là khi phải sống những giai đoạn thật tế nhị,
như khi sinh con, hay khó khăn hơn nữa, như khi lâm
bệnh và thất nghiệp, họ có thể trông cậy vào bảo đảm
an sinh hợp lý.
2. Thiên Chúa phán với họ... hãy sinh sôi cho đầy mặt
đất và thống trị mặt đất. Tạo thành “rất tốt đẹp”
không thể chỉ để chiêm ngắm, nhưng cũng còn là một
lời mời gọi con người hợp tác. Thực thế, đối với mọi
người làm việc là một ơn gọi tham dự vào công trình
của Thiên Chúa và, vì thế, đó chính là nơi để được
thánh hóa. Khi làm biến đổi thực tại, con người nhận
ra rằng thế giới này đến từ Thiên Chúa, là Đấng muốn
họ hoàn tất công trình tốt đẹp mà Ngài đã khởi sự.
Điều đó có nghĩa là, tình trạng thất nghiệp nghiêm
trọng như là hậu quả của khủng hoảng kinh tế thế giới
hiện nay chẳng hạn, không chỉ làm các gia đình mất
đi những phương tiện mưu sinh, nhưng còn cản trở
con người phát triển chính mình cách trọn vẹn vì kinh
nghiệm lao động bị tước mất hay bị lược giản.
cho con người hưởng dùng để con người, nhờ trí tuệ
và nỗ lực của mình, khám phá ra các nguồn tài
nguyên thiết yếu để sống và xử dụng chúng thật thích
đáng. Để đạt mục đích này, ngày nay hơn bao giờ hết,
chúng ta không được quên rằng trái đất được Thiên
Chúa trao phó cho chúng ta như một mảnh vườn để
biết quí trọng và vun trồng (St 2,7).
Sau khi đã làm việc sáu ngày tạo dựng thế giới và con
người, ngày thứ bảy Thiên Chúa nghỉ. Việc Thiên
Chúa nghỉ ngơi nhắc nhở con người cần thiết phải
tạm ngưng làm việc, để đời sống tôn giáo cá nhân, gia
đình, cộng đoàn không bị hy sinh cho các ngẫu tượng
thu góp của cải, thăng tiến địa vị, gia tăng quyền lực.
Người ta không chỉ sống bằng những mối quan hệ
nghề nghiệp, hoạt động kinh tế. Người ta cần có thời
giờ để vun trồng những mối quan hệ vô cầu thuộc
tình cảm gia đình và những mối liên hệ bạn bè và bà
con.
Đấng Tạo Thành và Cứu Độ. Dừng công việc lại, con
người nhớ tới và cảm nghiệm rằng ở ngay nguồn gốc
của hoạt động lao công của họ là hành động sáng tạo
của Thiên Chúa. Sự sáng tạo của con người bắt nguồn
từ trong gốc rễ Thiên Chúa tạo dựng: chỉ có mình
Ngài tạo dựng từ hư không.
Nghỉ ngơi trong Chúa, con người còn tìm lại được
tầm mức đúng đắn của việc làm của mình đối với
tương quan với người bên cạnh. Lao động là để phục
vụ cho các mối liên hệ sâu xa hơn mà Thiên Chúa
muốn cho con người thụ tạo. Tấm bánh kiếm được do
làm việc không chỉ cho chính mình, nhưng còn để
nâng đỡ người khác đang cùng sống với ta. Qua làm
việc, vợ chồng nuôi dưỡng mối quan hệ của họ và
cuộc sống của con cái. Ngoài ra, làm việc cũng là
hành vi công bằng nhờ đó con người tham dự vào
thiện ích của xã hội và đóng góp vào thiện ích chung.
Thời gian rảnh rỗi dành cho các mối quan hệ liên vị
và xã hội, nghỉ ngơi sau khi làm việc là một cơ hội
thích hợp để nuôi dưỡng các tình cảm gia đình, và
hơn nữa còn thắt chặt các mối liên hệ bằng hữu với
các gia đình khác. Thực thế, nhịp điệu làm việc ngày
nay được xác lập bởi một nền kinh tế tiêu thụ đã hạn
chế tới mức độ hầu như phá hủy đi, nhất là trong một
MỤC LỤC
đời sống gia đình và đời sống lao động. Bởi thế, Ngài
khuyến khích tìm một cách sống sao cho có một sự
quân bình và hài hòa giữa gia đình và việc làm. Ngày
nay vẫn có những cố gắng đi theo hướng này, thí dụ,
ở đâu có thể được và thích hợp, thì người ta có thể
sắp xếp lịch làm việc bán thời gian hoặc xin ngày
nghỉ phép sao cho phù hợp với bổn phận công việc,
và cũng tương ứng với nhu cầu của gia đình. Ta cũng
có thể xếp lịch uyển chuyển để tạo được sự quân bình
đúng đắn giữa những đòi hỏi của gia đình (nhất là
trách nhiệm chăm sóc con cái) và các yêu sách của
công việc.
Thời đại ngày nay người ta phải hết sức khẩn thiết
nhớ rằng Ngày của Chúa cũng là ngày nghỉ ngơi
không làm việc. Chúng tôi rất mong ước ngày này
MỤC LỤC
được công nhận như thế cả trong xã hội dân sự, như
thế để người ta có thể được nghỉ ngơi không dính bén
đến các công việc mà không sợ bị trừng phạt. Thật
thế, các Kitô hữu không phải là không có liên hệ gì
với ý nghĩa của ngày sabat trong truyền thống Do
Thái, họ nhìn ngày của Chúa cũng là một ngày nghỉ
ngơi, thong dong đối với mọi công việc lao nhọc hằng
ngày. Điều này có một ý nghĩa rõ rệt bởi vì nó là một
cách tương đối hóa công việc, bởi nó nhắm tới con
người như là mục đích: công việc là cho con người
chứ không phải con người vì công việc. Dễ thấy ngay
từ đó chính con người được bảo vệ và hệ quả là con
người được giải phóng khỏi một hình thức nô lệ. Như
tôi đã xác quyết rằng “việc làm có tầm quan trọng đầu
tiên là để thể hiện con người và để phát triển xã hội,
bởi thế nó cần phải luôn được tổ chức và triển khai
trong sự kính trọng đầy đủ phẩm giá con người và
phục vụ công ích. Đồng thời con người cần phải
không để mình nô lệ cho công việc, và không biến
công việc thành một thứ ngẫu thần, và cho rằng mình
có thể tìm trong công việc ý nghĩa cuối cùng và quyết
định cho cuộc sống”. Ngày Chúa Nhật là một ngày
dành cho Thiên Chúa, chính trong ngày đó con người
hiểu ý nghĩa của cuộc sống mình và của cả việc làm
của mình” (Sacramentum Caritatis, 74).
MỤC LỤC
“việc làm xứng đáng” (số 63): chúng ta phải làm thế
nào để bảo đảm cho tất cả mọi người một công việc
xứng đáng?
Phân chia nhiệm vụ như thế giữa việc nội trợ và việc
nghề nghiệp cho thấy rõ tầm quan trọng của việc
người chồng và người vợ nhất trí chung khi lên kế
hoạch công việc của cả hai. Mỗi người được kêu mời
làm hết sức mình để người kia có thể thể hiện tài năng
của mình tốt hơn. Đến lượt mình, xã hội phải trợ giúp
gia đình hết mức để các đôi vợ chồng có thể chọn lựa
công việc của mình một cách tự do và có trách nhiệm.
Con cái cũng vậy, cùng với người chồng, ca ngợi
người mẹ, tán dương các ơn thiên phú của bà. Với
những nét hẳn rất lý tưởng, bức tranh gia đình này
được đưa ra như một khuôn mẫu từ đó có thể rút ra
cảm hứng và hứng khởi. Gia đình mẫu mực sống
trong sự kính sợ Chúa và đặt niềm tin tưởng vào
Ngài. Sự thịnh vượng mà gia đình thụ hưởng, được
nhìn nhận như là ơn Chúa ban, được gìn giữ và nâng
cao giá trị nhờ làm việc siêng năng hằng ngày.
2. Nàng thức dậy khi trời còn tối. Việc người phụ nữ
thức khuya dậy sớm vì công việc nói lên một lòng
hăng say loại trừ mọi hình thức lười biếng. Sự siêng
năng của người phụ nữ, không hề chểnh mảng, sau
cùng được nhấn mạnh trong bản văn và được ghi
nhận rằng nàng “để mắt trông nom mọi việc trong nhà
và không ăn thứ bánh không bởi mồ hôi nước mắt
nàng làm ra”. Mọi người được mời gọi biết tỉnh thức
luôn để không sa chước cám dỗ làm biếng, xem nhẹ
trách nhiệm riêng của bản thân và lơ là nhiệm vụ.
Tấm gương này, luôn mang tính thời sự, chất vấn đời
sống gia đình. Trong các trách nhiệm của gia đình
MỤC LỤC
4. Tin tưởng nàng nghĩ đến tương lai. Đời sống gia
đình, và đời sống của người phụ nữ trong gia đình,
không dễ dàng và không ở trong tầm tay, như được
mô tả rất lý tưởng trong sách Châm ngôn. Chẳng hạn,
như người nữ buộc phải làm việc gấp đôi cả trong và
ngoài nhà. Các đôi vợ chồng nếu, chẳng hạn như, biết
chia sẻ với nhau nhiệm vụ gia đình và cộng tác với
nhau trong những việc nhà, đó là điều hết sức quan
trọng có tính quyết định, cả về phương diện thực tế
lẫn tình cảm. Ngày nay sự hiện diện của ông bà trở
nên thật quý giá biết bao đối với nhiều gia đình, thế
nhưng có thể có nguy cơ đóng góp của họ đối với gia
đình được nhìn nhận quá ít và bị bóc lột thái quá.
MỤC LỤC
Gia đình là bối cảnh cho việc rèn luyện nhiều nhân
đức, và cũng là trường dạy biết ơn cha mẹ đã dấn thân
quảng đại vô cầu và yêu thương. Học biết nói lời
“cám ơn” trân trọng là điều thật cần thiết.
Công việc là một nguồn lợi cho gia đình theo hai
nghĩa, trước hết nó là một nguồn nuôi sống và phát
triển gia đình, và đồng thời đó cũng là nơi thực thi sự
liên đới giữa các gia đình và giữa các thế hệ với nhau.
Giáo huấn của Giáo hội gợi ý liên kết công việc với
gia đình. Ngoài ra, làm sao ta có thể hình dung ra
được một mô hình phát triển nào đó không có gia
đình mà lại có thể mang lại hoa trái, và qua các chọn
lựa riêng phong nhiêu có thể định hướng cho những
phát triển về sau?
vừa là một cộng đoàn được hiện thực hóa nhờ lao
động và là trường lao động nội bộ đầu tiên cho mỗi
người” [Laborem Exercens, 10].
chính gia đình, nhất là giáo dục. Tuy nhiên hai mục
đích này liên kết với nhau và bổ túc cho nhau về
nhiều mặt.
Nói chung cần phải nhớ và xác định rằng gia đình là
một trong những tiêu chí tham chiếu quan trọng nhất,
và trật tự đạo đức - xã hội của lao động cần phải được
thiết lập theo đó. Giáo lý của Hội thánh luôn dành
một sự quan tâm đặc biệt đối với vấn đề này, và
chúng ta sẽ còn phải trở lại với đề tài đó trong văn
kiện này. Thật vậy, gia đình vừa là một cộng đoàn
được hiện thực hóa nhờ lao động và là trường lao
động nội bộ đầu tiên cho mỗi người. [Laborem
Exercens, 10]
Những câu hỏi dành cho nhóm gia đình và cộng đoàn:
1. Trong thế giới lao động có tồn tại những phân biệt
bất công giữa người nam và người nữ, giữa người nữ
độc thân và người nữ đã lập gia đình không?
3. Làm thế nào khôi phục lại tình liên đới trong thế
giới lao động ngày nay? Giáo hội có thể giúp đỡ thế
nào?
Con người không được tạo nên, như theo quan niệm
của một số tôn giáo Đông Phương Cổ đại, để thay thế
công việc của các vị thần hay để trở thành những
người nô lệ phục vụ thấp hèn nhất của họ. Thiên
Chúa muốn tạo dựng con người để họ trông coi thọ
tạo thiên nhiên và cộng tác tích cực vào công trình
sáng tạo.
lao động là một hình thức con người sống mối tương
quan và sự trung thành của mình với Chúa.
Như thế làm việc không phải là cùng đích của cuộc
sống. Nó luôn được coi cách chính đáng chỉ như là
phương tiện. Sự hiệp thông và chia sẻ trách nhiệm
của con người với Đấng Tạo Hóa mới là cùng đích.
Nếu lao động mà trở thành cùng đích, thì nó biến
thành một ngẫu thần, và như thế lao động của con
người không còn là cộng tác với Thiên Chúa như
Ngài đòi hỏi. Thiên Chúa không chỉ đòi hỏi con
người lao động nhưng yêu cầu họ “lao động bằng cày
cấy và canh giữ” công trình tạo dựng của Chúa. Con
người không chỉ tự thân làm việc, mà cộng tác với
công trình của Thiên Chúa. Thế nhưng, việc cộng tác
này là tích cực và có trách nhiệm, bởi lẽ, để tránh lười
biếng và thực hành siêng năng, con người đã “làm
việc”: họ “cày cấy và canh giữ” đất đai.
Trong thời gian chờ đợi, con người được yêu cầu
sống đức trung tín, giống như nhân đức được đòi hỏi
ở những người, tại Israel, lo việc phục vụ tôn giáo
trong đền thờ. Hơn nữa, sự siêng năng làm việc của
con người đòi hỏi tính khiêm tốn của người nông dân
chăm nom đất đai để đoán biết làm sao canh tác nó tốt
MỤC LỤC
Sự khai thác đúng đắn nguồn tài nguyên trái đất bao
hàm việc bảo vệ công trình tạo dựng và liên đới với
các thế hệ tương lai. Một ngạn ngữ Ấn độ dạy rằng
chúng ta “không bao giờ được nghĩ rằng mình được
thừa hưởng trái đất này từ cha ông chúng ta mà là
đảm lấy nó để chuyển giao lại cho con cái chúng ta”.
Nhiệm vụ bảo vệ trái đất đòi hỏi ta phải tôn trọng
thiên nhiên, nhìn nhận trật tự theo ý muốn của Tạo
Hóa. Như thế, lao động của con người mới thoát khỏi
nỗi cám dỗ phung phá tài nguyên và làm biến dạng vẻ
đẹp của hành tinh trái đất, trái lại sẽ làm cho nó trở
nên, theo ước mong của Thiên Chúa, khu vườn chung
sống và là nơi hòa hợp gia đình nhân loại, được Cha
trên trời chúc phúc.
những bận tâm trần thế, với xác tín là nơi đó người ta
có thể thỏa mãn mọi ước muốn. Để tránh khỏi những
lạc hướng này, cần có sự cân bằng đúng mực trong
làm việc, điều đó đòi hỏi gia đình biết phân định
những chọn lựa giữa việc nhà và việc nghề nghiệp.
Về mặt này, nguyên tắc vốn chỉ giao phó việc nội trợ
và trông nom nhà cửa cho người phụ nữ có vẻ bất
công. Cả gia đình phải dấn thân vào nhiệm vụ này
theo một sự phân chia nhiệm vụ công bằng. Trái lại,
về hoạt động nghề nghiệp, dĩ nhiên làm sao vợ chồng
cần thống nhất với nhau tránh việc vắng nhà quá lâu.
Tiếc thay, trong thực tế nhu cầu chu cấp nuôi sống gia
đình rất thường không để cho đôi vợ chồng có thể
chọn lựa một cách khôn ngoan và hài hòa.
Đôi khi cha mẹ thái quá muốn tránh cho con cái mọi
thứ nhọc nhằn. Họ không nên quên rằng gia đình là
trường dạy lao động đầu tiên, nơi đó người ta học
chịu trách nhiệm về mình và về những người khác
trong môi trường sống chung. Đời sống gia đình,
cùng với những việc nhà, dạy cho người ta biết quý
trọng sự mệt nhọc và củng cố ý chí hướng đến phúc
lợi cộng đồng và lợi ích chung.
Người Kitô hữu nhìn nhận giá trị của lao động, nhưng
cũng biết nhìn thấy trong đó cả những sự biến dạng
do tội lỗi gây ra. Bởi thế gia đình Kitô hữu đón nhận
lao động như một sự quan phòng đối với cuộc sống
của mình và của những người thân trong gia đình.
Nhưng gia đình phải tránh biến lao động thành một
giá trị tuyệt đối và xem khuynh hướng này, một
khuynh hướng khá phổ biến ngày nay, như là một
trong những cám dỗ thờ ngẫu tượng của thời đại. Đó
không chỉ là một xác tín khác. Cám dỗ đó áp đặt cuộc
sống gia đình bộc lộ một chọn lựa ưu tiên. Gia đình
phải bận tâm, như Thông điệp Laborem Exercens số 9
diễn tả, làm sao để trong “lao động, nhờ đó mà giá trị
vật chất được thăng hoa, phẩm giá của chính con
người không bị giảm thiểu”.
Lao động: một thiện hảo cho con người và cho phẩm
giá của con người
trong lao động, chứ không thoái hóa vì lao động, làm
tổn hao không chỉ sức khỏe thể lý (điều nay ít ra theo
một mức nào đó, là không thể tránh khỏi), mà nhất là
khắc ghi phẩm giá và chủ thể tính, cái thuộc về riêng
con người. [Laborem Exercens, 9]
Những câu hỏi dành cho nhóm gia đình và cộng đoàn:
MỤC LỤC
1. Khủng hoảng kinh tế tác động đến đời sống của các
gia đình chúng ta như thế nào?
1 Thế là trời đất cùng với mọi thành phần đã hoàn tất.
2 Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc
Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người,
ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi.
3 Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và
thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ, ngưng
làm mọi công việc sáng tạo của Người.
4 Đó là gốc tích trời đất khi được sáng tạo (St 2,1-4a).
8 Ngươi hãy nhớ ngày sabat, mà coi đó là ngày thánh.
9 Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công
việc của ngươi. 10 Còn ngày thứ bảy là ngày sabat
kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó,
ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng
như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại
kiều ở trong thành của ngươi. 11 Vì trong sáu ngày,
Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn
loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi
vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày sabat và coi đó
là ngày thánh (Xh 20,8-11).
MỤC LỤC
1. Ngày thứ bảy của tạo dựng. Con người tân thời tạo
nên thời giờ rảnh rỗi và đánh mất ý nghĩa của ngày
nghỉ lễ. Cần phải khôi phục ý nghĩa của ngày lễ, và
đặc biệt của ngày Chúa nhật, như là “một thời gian
cho con người”, đúng hơn là một “thời gian dành cho
gia đình”. Tìm lại được trọng tâm của ngày nghỉ lễ là
điều quyết định ngay cả để làm cho lao động mang
tính nhân văn, để mang lại cho nó một ý nghĩa mà
không giảm thiểu nó thành chỉ như một đáp ứng cho
nhu cầu, nhưng là mở ra cho quan hệ và cho chia sẻ:
với cộng đoàn, với tha nhân và với Thiên Chúa.
Ngày thứ bảy đối với người Kitô hữu là “ngày của
Chúa”, vì đó là ngày mừng kính Đấng Phục sinh hiện
diện sống động trong cộng đoàn Kitô hữu, trong gia
đình và trong đời sống cá nhân. Đó là lễ vượt qua
trong tuần. Ngày Chúa nhật không phá vỡ sự tiếp nối
với ngày sabat Do thái, nhưng đúng hơn, hoàn tất nó.
Như thế, để hiểu tính độc đáo của ngày Chúa nhật
Kitô giáo, ta cần quy chiếu về ý nghĩa của giới răn
ngày sabat. Để thánh hóa ngày nghỉ lễ, theo giới răn
đó, dân Chúa cần phải dành một thời gian cho Thiên
Chúa và cho con người. Trong Cựu ước có một mối
MỤC LỤC
liên hệ chặt chẽ giữa ngày thứ bảy của tạo dựng và
luật thánh hóa ngày sabat. Giới răn ngày sabat, dành
riêng một thời gian cho Thiên Chúa, cũng gìn giữ ý
hướng của Ngài muốn tạo nên một thời gian dành cho
con người.
Người ta không chỉ nghỉ ngơi để trở lại với công việc,
mà để mừng lễ. Thật thích hợp lúc này hơn bao giờ
hết gia đình cần khám phá lại ngày nghỉ lễ như là nơi
để gặp gỡ Chúa và gần gũi nhau, bằng cách tạo ra bầu
khí gia đình, nhất là, khi con cái còn nhỏ. Bẩu khí
sống những năm đầu đời tại nhà cha mẹ vẫn được
khắc ghi mãi trong ký ức của con người. Cũng như
những hành vi đức tin vào ngày Chúa nhật và các
MỤC LỤC
ngày lễ hàng năm phải đánh dấu đời sống gia đình,
trong nhà và trong việc tham gia vào đời sống cộng
đoàn. Người ta nói rằng “không phải dân Do Thái giữ
ngày sabat cho bằng ngày sabat giữ gìn dân Do thái”.
Như thế, ngay cả ngày Chúa nhật Kitô giáo cũng gìn
giữ gia đình và cộng đoàn Kitô hữu mừng lễ, bởi vì
nó mở ra cho ta gặp gỡ mầu nhiệm thánh về Thiên
Chúa và canh tân các tương quan gia đình.
2. Giới răn thánh hóa ngày sabat. Giới răn thứ ba của
Thập giới nhắc lại cuộc giải phóng khỏi Ai Cập, là ơn
tự do tạo thành dân Israel. Đây là một “dấu chỉ trường
tồn” của giao ước giữa Thiên Chúa và con người, mà
mọi sự sống kể cả sự sống loài vật đều tham dự vào.
Trái đất (được nghỉ ngơi vào năm thứ bảy) và toàn thể
tạo thành (nghỉ trong năm thánh toàn xá, năm sabat)
cũng tham dự vào giao ước đó (Lv 25, 1-7.8-55). Vì
thế, ngày sabat của Thập giới có một ý nghĩa xã hội
và giải phóng. Giới răn này không chỉ liên hệ tới công
trình tạo dựng mà còn với hành động cứu độ: “Ngươi
hãy nhớ ngươi đã làm nô lệ tại đất Ai Cập, và Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã dang cánh tay mạnh
mẽ uy quyền đưa ngươi ra khỏi đó... Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi đã truyền cho ngươi cử hành ngày
sabat” (Đnl 5, 15). Công trình tạo dựng và tưởng
niệm việc giải phóng nối kết với nhau. “Giữ ngày
MỤC LỤC
3. Lời nguyện tiến lễ nhắc trên đây kết thúc như thế
này: cho chúng con đón nhận chính Chúa để đổi lại
(khi chúng con dâng tiến của lễ do Chúa tặng ban).
Cầu xin Chúa không chỉ được sức khỏe, thanh bình,
bình an trong gia đình, nhưng không gì hơn ngoài
chính Người. Ý nghĩa của những nhọc nhằn vất vả
ngày thường là biến công việc của chúng ta thành lễ
vật tạ ơn, nhận biết những ơn lành Chúa đã tặng ban
cho chúng ta: sự sống, người bạn đời, con cái, sức
khỏe, việc làm, những vấp ngã và đứng dậy tiếp tục
sống. Sự tự do Kitô hữu hệ tại ở việc giải phóng con
người khỏi lao dịch và trong lao động, để con người
trở nên tự do đối với Thiên Chúa và với người khác.
Người ta, nam cũng như nữ, nhất là gia đình, phải đưa
vào lối sống của mình ý nghĩa của ngày nghỉ lễ, làm
sao để sống mà không chỉ như là chạy theo mưu sinh,
nhưng còn là như cộng đoàn gặp gỡ.
Chúa nhật để sống niềm vui gặp gỡ. Bàn tiệc ngày lễ
là thời gian cho Thiên Chúa, là không gian để lắng
nghe và hiệp thông, sẵn sàng thực hành thờ phượng
và bác ái. Việc mừng lễ và phục vụ là hai hình thức
căn bản của lề luật, qua đó người ta tôn vinh Thiên
Chúa và đón nhận ơn lành yêu thương của Ngài. Khi
chúng ta thờ phượng Thiên Chúa, Ngài thông truyền
cho chúng ta tình yêu thương của Ngài cách vô điều
kiện. Khi phục vụ, ơn chúng ta nhận được trở thành
tình yêu được chia sẻ và được sống với người khác.
Ngày của Chúa còn phải trở thành một ngày của con
người! Nếu tiếp cận ngày nghỉ lễ theo cách đó, thì gia
đình có thể sống ngày nghỉ lễ như là ngày “của
Chúa”.
Gia đình mà biết tạm ngưng dòng thời gian liên tục và
dừng chân để cảm mến tưởng niệm những ơn lành
Chúa đã ban cho, là tập bước vào sự nghỉ ngơi của
Chúa. Gia đình được mời gọi nghỉ ngơi trong Chúa
biết định hướng lại những ngày sống tản mạn hướng
đến ngày của tạ ơn. Gia đình biết biến những chờ đợi
của mỗi ngày thành sự mong đợi duy nhất Ngày của
Chúa. Gia đình trở về như người phong được chữa
lành để tạ ơn Chúa vì Ngài đã cứu độ mọi người. Cầu
MỤC LỤC
khẩn liên lỉ gia đình làm ngắn lại thời gian chờ đợi
ngày thứ tám, ngày mà Đấng Phu quân đã hứa với
Hiền thê: “Vâng, anh đến ngay đây!” Amen. Xin hãy
đến, lạy Chúa Giêsu (Kh 22, 20).
Giới luật Thập giới qua đó Thiên Chúa buộc giữ ngày
sabat, trong Sách Xuất hành, có một công thức đặc
trưng: “Ngươi hãy nhớ ngày sabat mà coi đó là ngày
thánh” (20,8). Và hơn thế nữa, bản văn linh hứng còn
cho nó một lý do khi nhắc lại công trình của Thiên
Chúa: “Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời
đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người
đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc
phúc cho ngày sabat và coi đó là ngày thánh” (c.11).
Trước khi buộc một điều gì đó, giới luật ra một dấu gì
đó để ghi nhớ. Luật mời gọi hãy tỉnh thức tưởng nhớ
đến những công trình lớn lao và nền tảng của Thiên
Chúa, đó là tạo thành. Sự tưởng niệm ấy làm sống
động toàn thể đời sống đạo của con người, để rồi qui
về ngày mà con người được kêu gọi nghỉ ngơi. Như
thế, sự nghỉ ngơi mang một giá trị thánh thiêng tiêu
biểu: người tín hữu được mời gọi nghỉ ngơi không chỉ
như Thiên Chúa nghỉ ngơi, mà còn nghỉ ngơi trong
Chúa, qui về Người mọi công trình tạo dựng, với tâm
MỤC LỤC
cách sâu xa, đồng thời có thể cảm thấy một sự rung
động vui sướng mà chính Đấng Tạo hóa đã cảm thấy
sau khi tạo dựng, Ngài thấy mọi sự Ngài làm ra “đều
rất tốt đẹp” (St 1,31). [Tông Thư Dies Domini (Ngày
của Chúa), 16t.]
Những câu hỏi dành cho nhóm gia đình và cộng đoàn:
thánh lễ, gia đình được nuôi dưỡng bởi bàn tiệc Lời
Chúa và Bánh Thánh Thể, bàn tiệc này sẽ cho gia
đình hưởng nếm hương vị và ý nghĩa của lời và lương
thực chia sẻ nơi bàn ăn gia đình. Ngay từ thuở nhỏ,
con cái cần được dạy để lắng nghe lời Chúa, nhờ việc
đưa vào trong gia đình điều mà các em đã được nghe
nơi cộng đoàn. Điều đó sẽ giúp chúng khám phá ra
ngày Chúa nhật như là “ngày của Chúa”. Việc gặp gỡ
Chúa Giêsu Phục sinh, vốn là tâm điểm của ngày
Chúa nhật, phải được nuôi dưỡng nhờ tưởng niệm
Chúa Giêsu, nhờ trình thuật của Tin Mừng, nhờ thực
tại bánh được bẻ ra và thân mình được trao ban. Việc
tưởng niệm Đấng Chịu Đóng Đinh đã phục sinh ghi
dấu sự khác biệt giữa ngày Chúa nhật với thời gian
rảnh rỗi. Nếu như chúng ta không gặp gỡ Người, thì
ngày lễ không có ý nghĩa gì, sự hiệp thông chỉ là một
cảm tính và việc bác ái chỉ còn là một hành vi tương
trợ chứ không mang ý nghĩa xây dựng cộng đoàn Kitô
hữu cũng như không mang tính giáo dục sứ mạng.
Trong khi dẫn chúng ta vào cung lòng Thiên Chúa,
thánh lễ Chúa nhật làm nên gia đình, và gia đình,
trong cộng đoàn Kitô hữu, một cách nào đó, làm nên
Thánh lễ.
những bổng lộc thu được cho vị chủ tọa để vị này trợ
giúp những trẻ mồ côi, những người góa bụa và
những người đau yếu hoặc những người có những
nhu cầu khác, kể cả những người bị cầm tù và những
người tha phương. Tóm lại là chăm sóc đến tất cả
những người thiếu thốn” (x. I Apologia (Hộ giáo I),
LXVII, 36).
Gia đình được dành riêng cho ngày Chúa nhật, “ngày
của niềm vui và sự nghỉ ngơi”: Công đồng đã định
nghĩa như thế trong Hiến chế Phụng vụ Sacrosanctum
MỤC LỤC
Những câu hỏi dành cho nhóm gia đình và cộng đoàn:
4. Làm cách nào để hành trình của năm phụng vụ, với
những mùa và những ngày lễ kính, diễn tả được niềm
mong đợi Chúa?
46Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến
Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa
với lòng đơn sơ vui vẻ. 47Họ ca tụng Thiên Chúa, và
được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn
mỗi ngày có thêm những người được cứu độ (Cv
2,46-47).
là những dung mạo của Hội thánh được biết đến rất
nhiều bởi đặc tính thân tình tiếp đón mọi người.
Trong rất nhiều nước, các giáo xứ đã bộc lộ một “đời
sống tốt lành” theo Tin Mừng của Chúa Giêsu và đã
minh chứng cảm thức thuộc về Hội thánh. Như Công
đồng Vatican II khẳng định, nơi các Hội thánh địa
phương “Hội thánh đồng hành với toàn thể nhân loại
và cùng chia sẻ số phận trần thế với thế giới” (Hc.
Gaudium et Spes/Vui mừng và Hy vọng, 40). Trong
giáo xứ, các gia đình là “hội thánh tại gia”, vừa làm
thành cộng đoàn giáo xứ vừa là một hội thánh giữa
các gia đình nhân loại. Trong cuộc sống hằng ngày,
với nhịp điệu của công việc và ngày lễ, gia đình chấp
nhận để thế giới bước vào ngôi nhà của mình đồng
thời gia đình cũng mở ra với thế giới. Mặt khác, cộng
đoàn Kitô hữu phải lưu tâm đến các gia đình, giúp gia
đình thoát khỏi cám dỗ khép kín trong “căn hộ” của
mình và mở ra với cuộc lữ hành đức tin. Trong gia
đình, sự sống được thông truyền như hồng ân và lời
hứa; trong giáo xứ lời hứa hồng ân sự sống được đón
nhận và nuôi dưỡng. Ngày của Chúa trở thành ngày
của Hội thánh khi Hội thánh trợ giúp người ta cảm
nghiệm vẻ đẹp của một ngày Chúa nhật chung sống
với nhau, nhờ tránh đi tính vô vị tầm thường của một
ngày cuối tuần chỉ biết hưởng thụ, và thỉnh thoảng
MỤC LỤC
2. Ngày của đức ái. Ngày của Chúa như là ngày của
Hội thánh (dies ecclesiae) trở thành ngày của đức ái.
Hội thánh được nuôi dưỡng bởi thánh lễ Chúa nhật
cũng là cộng đoàn phục vụ mọi người. Gia đình, mặc
dù không đơn độc, là mạng lưới thông truyền sứ vụ
này. Bản văn Tin Mừng của thánh Marcô rất đẹp ở
trên đây minh họa, như trong thánh lễ Chúa nhật,
Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta như một người
phục vụ. Sau đây là tiêu chuẩn của sự phục vụ trong
cộng đoàn: ai muốn làm lớn nhất thì phải làm người
nhỏ nhất (người phục vụ anh em), và ai muốn là
người trước hết, người ấy hãy dấn thân phục vụ người
nghèo và người bé mọn (tôi tớ của mọi người). Việc
bác ái là một đặc điểm của ngày Chúa nhật Kitô giáo.
Một vài mùa phụng vụ (Mùa Vọng và nhất là mùa
Chay), việc bác ái được đề nghị như một bổn phận
thiết yếu của các gia đình và cộng đoàn. Như thế
Chúa nhật trở thành “ngày của đức ái”.
hiện việc bổn phận: nhưng phải làm cho mối liên kết
giữa người với người, giữa đời sống đức tin với đức
ái, ngày càng tăng thêm. Không có kinh nghiệm phục
vụ trong gia đình, không giúp đỡ lẫn nhau cũng như
không thông phần vào những khó nhọc chung trong
gia đình thì khó mà có một con tim có khả năng yêu
thương. Trong gia đình, con cái cảm nghiệm từng
ngày tấm gương dâng hiến không biết mệt mỏi cũng
như sự phục vụ khiêm hạ của cha mẹ, qua học hỏi
gương sáng âm thầm yêu thương của họ. Trong cộng
đoàn giáo xứ, các thiếu nhi và giới trẻ nên mở rộng
chân trời bác ái đến với những người khác, có thể
chia sẻ kinh nghiệm yêu thương và phục vụ mà các
em đã học được trong gia đình. Việc dạy thực hành
đức ái, nhất là trong các gia đình chỉ có một người
con duy nhất, nên mở ra ngay với những hình thức,
lớn hay nhỏ, phục vụ tha nhân.
3. Ngày của bài sai sứ vụ. Chiều kích truyền giáo của
Hội thánh là trung tâm của thánh lễ Chúa nhật và mở
ra những cánh cửa cuộc sống gia đình ra với thế giới.
Cộng đoàn Chúa nhật được định nghĩa là cộng đoàn
truyền giáo. Đoạn sách Công vụ Tông đồ trích trên
đây trình bày một hình ảnh đẹp về cộng đoàn
Antiôkia, có thể là ngày Chúa nhật, đang khi họ làm
việc thờ phượng Chúa, Thánh Thần thúc đẩy ra đi
MỤC LỤC
thể hiện trọn vẹn nơi tất cả mọi người qua một thái độ
canh tân sâu xa. Không nên hiểu Chúa nhật như ngày
lễ cho mọi người khác chỉ theo nghĩa phụng vụ:
không chỉ là một hồng ân Kitô giáo, ngày lễ còn có
một giá trị nhân bản. Không sống mọi ngày như nhau
(và chỉ ngày Chúa nhật mới có bí nhiệm của sự khác
biệt), dành thời gian cho cộng đoàn và cho việc bác
ái, đó là một đường lối hữu hiệu cho sự giải thoát con
người khỏi nô lệ công việc.
2. Mối tương quan giữa gia đình chúng ta, với những
gia đình khác và cộng đoàn Kitô hữu ra sao?
Những câu hỏi dành cho nhóm gia đình và cộng đoàn:
có thôi thúc các cộng đoàn Kitô hữu hướng đến một
lối sống huynh đệ hơn không?
4. Làm thế nào để trợ giúp các gia đình trong việc
giáo dục về giá trị của một cuộc sống xả thân vì
người khác, và khơi dậy các ơn gọi truyền giáo?
CHƯƠNG TRÌNH
Thứ ba 29/05
– Đón tiếp (tại các giáo xứ, v.v...) những người tham
dự
– 20g: Gặp gỡ tại Nhà Hát “Teatro alla Scala” cho các
đoàn đại biểu đến từ các nước khác nhau
Tính dục vẫn mãi là một thực tại hấp dẫn nhưng rất
hàm hồ và chất chứa nhiều nguy cơ. Nó không chỉ là
MỤC LỤC
Quan tâm đến vấn đề này, chúng ta cần xem xét hai
khuynh hướng thái độ cũng như định hướng sống cho
những người trẻ ngày nay.
Trước hết, khuynh hướng thứ nhất muốn xem giá trị
biểu tượng của tính dục, ý nghĩa thông giao
(communicative) và trao đổi của nó cần phải được
làm sáng tỏ hơn bao giờ hết. Người ta không thể tách
biệt tính dục và tình cảm. Để thỏa mãn trọn vẹn và
mãnh liệt tính dục, người bạn tình (partner) chỉ tỏ tình
hay bộc lộ tình cảm mình cách chung chung là không
đủ, tình cảm người đó còn cần phải được trải nghiệm
để chứng tỏ sự chín chắn, có ý thức và thành thực.
MỤC LỤC
nhiều mang tính chất mua bán đổi chác liên hệ đến
tình dục, hoặc những hình thức phô bày mới và rất
phổ biến thứ tình dục chỉ biết tìm kiếm cảm giác mà
không có một gặp gỡ liên vị nào cả. Tình dục bị giản
lược chỉ còn là một chức năng đơn thuần tìm kiếm lạc
thú của riêng từng cá nhân: một thứ tình dục tột đỉnh
và xâm lấn mọi ngõ ngách nhưng lại vô trách nhiệm
và phi ngã vị. Cũng phổ biến thứ tình dục muốn
hưởng lạc đẩy cảm giác lên “mức cực mạnh nhưng lại
ít cảm xúc”. Những người làm cha làm mẹ bởi chính
kinh nghiệm của mình họ biết rằng một quan hệ thân
mật giả thiết đòi hỏi người ta phải dấn mình cùng với
một sự chín muồi nào đó về tình cảm, và, điều đó, đối
với đứa con niên thiếu của họ là chưa thể đạt được,
cần có thời gian chuẩn bị và vun trồng cho con bằng
một sự đầu tư giáo dục thật thích hợp và mạnh mẽ.
Thực vậy, nét đặc trưng của tuổi mới lớn thường biểu
lộ trong những mối quan hệ là tìm sự thỏa mãn tức
thời, bận tâm làm sao chinh phục được tình cảm của
đối tượng. Những đặc điểm này, hẳn là có liên hệ đến
quá trình tiến triển theo lứa tuổi, dẫn các bạn trẻ đến
chỗ bù đắp những chiều sâu mà mình chưa đạt tới
bằng những lối mở chiều rộng (như yêu vội sống
cuồng, chạy theo những đam mê ngây dại và nhất
thời, dấn mình vào những trải nghiệm mới lạ nhưng
MỤC LỤC
Ngày nay, hơn bao giờ hết, thời kì chuẩn bị cho một
tình yêu đích thực thật là quan trọng. Sự tiết dục cũng
có giá trị của nó, nếu được hiểu không phải như một
sự đè nén và chối bỏ thân xác và các xung năng của
nó, nhưng như một triển vọng hấp dẫn nhưng không
dễ dãi hướng về một sự thỏa mãn tính dục với chất
lượng mới.
Những kiểu sống mới đời đôi bạn như hiện nay thực
ra rất là bận rộn. Kỳ vọng về một tình yêu “vĩnh cửu”,
một tình yêu “duy nhất và độc hữu”, tiêu biểu cho
một tình yêu lãng mạn không còn chắc chắn và được
bảo đảm nữa. Ngược lại, người ta giả định phải có
một cam kết, không bao giờ dứt điểm, nhằm xây dựng
và củng cố một tương quan đặt cơ sở trên sự bình
đẳng, trên những nhu cầu rõ ràng thẳng thắn của cả
hai người, trên một thỏa thuận trong đó sự thân mật
và nỗi đam mê được quí trọng và nuôi dưỡng theo
một cảm quan chung, còn tình yêu phải chịu tan biến.
Thiếu một khung giá trị đạo đức khả dĩ giúp ngăn
chặn những tình cảm tiêu cực tác hại, lại còn không
MỤC LỤC
Là nam là nữ
MỤC LỤC
Trong tình hình bất định về phái tính như thế, các giai
đoạn phát triển lứa tuổi cũng như chính kinh nghiệm
về các độ tuổi càng ngày càng mù mờ hơn, con cái
chúng ta cũng gặp nhiều khó khăn nhọc nhằn để định
hình chính bản thân chúng.
MỤC LỤC
Khi cuộc sống đôi lứa bị qui hướng quá nhiều về cực
bổn phận làm cha và làm mẹ (càng hiệu quả khi các
vai trò càng hoán đổi được cho nhau) thì tương quan
và sự hòa điệu giữa người đàn ông và người đàn bà
(càng giúp ích cho sự định hình nhân cách con cái khi
căn cước giới tính của họ càng rõ và phân biệt) càng
bị nghèo nàn đi. Hơn nữa, ngoài những khó khăn của
đôi lứa, ngày nay người ta còn xét thấy có cả sự
khủng hoảng của căn tính nam giới. Người ta có thể
xác định trong số nhiều hiện tượng hai dấu hiệu đáng
quan ngại tạo nên khủng hoảng này, đó là: văn hóa
khiêu dâm càng ngày càng lan tràn và sự bùng nổ các
hình thái bạo lực và lạm dụng tình dục nghiêm trọng.
Đó là hai hiện tượng tiêu biểu thuộc khu vực nam
giới.
Cha mẹ có một ảnh hưởng sâu đậm trên quá trình xác
lập căn cước giới tính của con cái mình không như
bất cứ một tương quan xã hội nào có thể tác động. Từ
những phản ứng chủ quan khi biết được phái tính của
đứa con sắp hạ sinh cho đến những thái độ và chọn
lựa mà họ chấp nhận (như đặt tên cho con, chọn
những đồ chơi và áo quần, những cách biểu lộ tình
cảm đối với con trẻ) gia đình có một vai trò quyết
định và đóng góp rất lớn cho xã hội những con người
có khả năng sống căn cước giới tính của mình một
cách hoan hỉ và tích cực.
Những giai đoạn phát triển tâm lí-tính dục của con cái
đang lớn cũng đồng thời đặt ra cho cả cha và mẹ
những mục tiêu giáo dục phải xác định và chứng
thực.
MỤC LỤC
Cuối thời kì thơ ấu, một số nét tự lập đầu tiên nơi em
bắt đầu chín dần và sự phụ thuộc mẹ cha cũng giảm
bớt dần. Khả năng yêu thương có nhiều hơn. Phát
triển những khả năng quan trọng như tư duy ẩn dụ,
hiểu biết bằng biểu tượng. Học biết thương lượng
bình yên với những xung lực bản năng của mình.
MỤC LỤC
Chuyển tiếp sang tuổi thiếu niên là thời tiền dậy thì,
bao hàm sự biến đổi rõ ràng các nội tiết tố đánh dấu
khởi đầu một sự thay đổi quan trọng trong cơ thể. Cơ
quan sinh dục phát triển cùng với các đặc trưng giới
tính thứ yếu. Cơ thể đang chuyển biến làm em lo lắng
và thắc mắc, điều đó tạo nên những tình cảm lẫn lộn
và bất ổn trước những xung năng trỗi dậy và đồng
thời phát sinh hướng chiều về những cảm xúc mạnh
mẽ.
Một sự kiện rất quan trọng đối với bé gái cần được
quan tâm chăm chút với sự trân trọng là sự xuất hiện
kinh nguyệt lần đầu tiên như dấu hiệu bắt đầu thành
một thiếu nữ. Giới tính chín dần khi em hòa hợp được
với thể xác mình. Hòa hợp với đấng sinh thành cùng
phái tính với mình sẽ giúp em rất nhiều nhìn nhận và
đón nhận chính mình.
Kết luận
MỤC LỤC
Ngày nay các bậc cha mẹ cần quan tâm đến giáo dục
tình yêu cho con cái đang lớn không chủ yếu bằng
những cấm đoán hay mệnh lệnh, nhưng cần nhấn
mạnh đến sự thật này: là tính dục không thể tách rời
khỏi tương quan con người, hiểu theo nghĩa trọn vẹn
của nó, và hơn nữa, nên giới thiệu viễn ảnh rất đẹp
mà Kinh Thánh trình bày về tính dục con người như
là tặng phẩm dành cho nhau liên hệ đến toàn thể con
người cả hồn-xác. Cần lên án như là phi nhân lối thực
hành tính dục không tình yêu, vì điều đó hạ giá trị và
làm nghèo nàn đi ý nghĩa của tính dục, thậm chí trở
nên như một hành vi mua bán đổi chác. Trái lại cổ võ
sự cao cả của tính dục con người hiểu như một cuộc
sống hiến dâng. Chỉ trong tương quan hoàn toàn nhân
bản con người mới có thể thực hiện được chính bản
thân mình và do đó được hạnh phúc. Đức khiết tịnh
kitô giáo là một phẩm chất giúp hòa nhập và hòa hợp
tính dục với toàn thể con người, giúp ta sống tính dục
như một thứ năng lượng để thăng tiến. Khiết tịnh là
ẩn dụ đẹp nhất của ân sủng vì nó có khả năng giao
hòa được giữa tự do với kỉ luật, giữa tính bộc phát và
sự vượt trên những điều kiện ràng buộc của thân xác,
giữa tính sáng tạo và sự nhạy cảm, giữa trí thông
minh và niềm hoan hỉ, giữa tình cảm con người và
cảm thức về mầu nhiệm. ■
MỤC LỤC
GIÁO LÝ CHUẨN BỊ
Mục lục:
Chủ đề:
MỤC LỤC
Hôn nhân: Tình yêu vừa nhân linh vừa thần linh
MỤC LỤC
Hôn nhân: Tình yêu vừa nhân linh vừa thần linh
Nhận thấy đề tài được thảo luận trên báo Tuổi Trẻ
cũng liên quan đến việc giáo dục lối sống cho các bạn
trẻ hiện nay trong các gia đình công giáo, WHĐ đã
thực hiện cuộc phỏng vấn cha Luy Nguyễn Anh
Tuấn, Tổng Thư ký Ủy ban Mục vụ Gia đình trực
thuộc HĐGMVN.
Cảm ơn cha Luy đã nhận trả lời phỏng vấn và xin trân
trọng giới thiệu cùng quý độc giả.
***
1. Thưa cha, hiện nay báo Tuổi Trẻ liên tiếp đăng tải
bài viết và ý kiến của độc giả về vấn đề “Tình dục
trước hôn nhân trong giới trẻ”.
MỤC LỤC
Ý kiến của cha như thế nào: nên hay không thảo luận
công khai đề tài “nhạy cảm” và “khó nói” này?
– Thời đại của thông tin với các phương tiện truyền
thông đa dạng khuyến khích và mời gọi mọi cá nhân
cũng như tập thể nói lên tiếng nói của mình qua đó
diễn tả ý kiến, quan điểm về cuộc sống và về con
người. Tình dục-tình yêu-hôn nhân-gia đình không
phải chỉ là một mảng của đời sống con người mà còn
là chính cuộc sống con người. Vì thế không chỉ
những người trẻ quan tâm đến đề tài này, mà cả người
lớn, người cao tuổi cũng quan tâm, bởi lẽ nó liên hệ
đến bản thân và cuộc sống trong đó mỗi người đang
sống. Diễn đàn “Tình dục trước hôn nhân trong giới
trẻ” trong mục Nhịp Sống trẻ của Báo Tuổi Trẻ trong
những ngày qua, tạo cơ hội cho nhiều người nhất là
các bạn trẻ bộc lộ ý kiến, bộc bạch tâm tư cùng những
nỗi niềm đã và đang trải nghiệm rất khác nhau về vấn
đề này, là đáng trân trọng, cần tiếp tục được mỗi
người suy nghĩ và phân tích, từ đó có thể tìm thấy cho
mình một hướng đi để có một cuộc sống hạnh phúc
thật sự theo nghĩa đầy đủ nhất. Thế nên thảo luận về
đề tài này công khai, trong phạm vi nào đó và với
mục đích cuối cùng là đi tìm hạnh phúc thật sự và
tròn đầy của đời người, tôi nghĩ là nên làm.
MỤC LỤC
Đối với nhiều người trẻ, tìm giải đáp cho vấn đề có
nên hay không nên “quan hệ tình dục trước hôn nhân”
có lẽ cũng bức xúc như vấn đề “quan hệ tình dục
ngoài hôn nhân” nghĩa là quan hệ với người đã có vợ
hay có chồng (có sự ngoại tình), hoặc với người mình
không có ý định kết hôn (“yêu” nhưng không muốn
kết hôn), hoặc với người mình không yêu (tình dục
không tình yêu). Hoàn cảnh thực tế xã hội của hai vấn
đề khác nhau, và đối với nhiều người trưởng thành
theo đạo đức truyền thống của Á Đông, dường như
đặt vấn đề trước (quan hệ tình dục trước hôn nhân) có
phần nghiêm túc hơn đặt vấn đề sau (quan hệ tình dục
ngoài hôn nhân). Nghĩa là nếu ai đó rơi vào trường
hợp trước thì dễ được xã hội thông cảm, tha thứ hơn
rơi vào trường hợp sau. Khi đặt vấn đề “quan hệ tình
dục trước hôn nhân” thì đã hàm ý “có ý định sẽ tiến
đến hôn nhân” (do “lỡ” hoặc có ý muốn sống thử
trước khi kết hôn). Ở đây, câu hỏi chỉ nhằm tới
trường hợp thứ nhất.
số rất đông các bạn trẻ Công giáo ở tổng giáo phận
Huế trong một Đại Hội giới trẻ nào đó cách đây
không lâu kiên quyết nói KHÔNG với “tình dục trước
trước hôn nhân” cũng là một tiếng nói ngược lại trong
bộ phận những người trẻ cũng cần phải quan tâm.
Trong hoàn cảnh này, người thì tán thành “tình dục
trước hôn nhân” kẻ thì không, như là một người công
MỤC LỤC
giáo tôi nghĩ mình cũng cần nói lên quan điểm và suy
nghĩ của mình.
Trước hết, tôi nghĩ cần phải trở lại câu hỏi căn bản
hơn: hành vi tính dục (ở đây tôi dùng chữ tính dục
thay cho tình dục trong nhiều trường hợp vì muốn chỉ
một thực tại tự nhiên và khách quan nơi thân xác con
người vốn luôn là một thân xác có giới tính) diễn tả
nơi thân xác giữa một người nam với một người nữ
có ý nghĩa gì? Vì có hiểu bản chất và ý nghĩa của
hành vi ta mới biết phải hành động thế nào. Vì hành
động đi theo bản chất.
Hành vi tính dục của con người diễn ra nơi thân xác
con người. Nhưng thân xác con người khác với thể
xác của các con vật ở chỗ nhờ nó và qua nó tôi thể
hiện chính mình. Cái “tôi” là cả một thế giới tinh thần
bên trong mà ở nơi sâu thẳm đó tôi đang sống với bao
ý nghĩ, tâm tư, tình cảm, ước muốn thầm kín, và cả
những quyết định riêng tư với một sự tự do bất khả
xâm phạm, cái “tôi” ấy thể hiện mình ra bên ngoài
nhờ thân xác và qua thân xác. Đó là cái tôi chủ thể, là
một nhân vị. Con người hay nhân vị là “một” thể
thống nhất của thân xác và tinh thần (xác-hồn). Thân
xác con người vì thế được gọi là “tinh thần nhập thể”
(spiritual body) [1] khác với thân xác của con vật và
mọi vật khác. Nhưng thân xác ấy là nam hay là nữ,
nghĩa là được phân giới tính (sexed body) ngay “từ
thuở ban đầu” [2]. Giới tính cùng với sức cuốn hút
mạnh mẽ của nó khi đứng trước tha nhân là dấu chỉ
cho thấy rằng tương giao là nhu cầu thiết yếu của
cuộc sống của một con người [3]. Tính dục hay giới
tính là ngôn ngữ của thân xác để nói một điều gì hơn
nữa không chỉ là thân xác. Tính dục hay giới tính là
một phương thế và là lực đẩy con người bước ra khỏi
cái tôi khép kín, buồn tủi, héo mòn để bước vào tương
giao với thế giới, với những con người khác, với
Thiên Chúa, để hiệp thông trong yêu thương. Hai
người, một nam một nữ, đúng nghĩa là con người,
MỤC LỤC
cũng là hai nhân vị, hai “chủ thể” khác biệt (khác giới
tính, và bao nhiêu dị biệt khác nữa), làm hành vi tính
dục là để thể hiện tình yêu muốn nên một “xương một
thịt” [4]. Trước khi kết hợp (qua hành vi tính dục thân
xác), Tôi là Tôi, và Em là Em. Giờ đây, “Tôi” là
“Em”, và “Em” là “Tôi”, bắt đầu hiện hữu cái “Chúng
ta”, và tôi cảm thấy là tôi sung mãn nhờ em, và em
cũng thấy mình đầy đủ hơn nhờ tôi. Điều đó là nhờ
phép mầu của thực tại Tình Yêu, tuôn chảy ra từ
Thiên Chúa Thượng nguồn Tình Yêu. Bởi thế, cái gọi
là “tình một đêm” hay “tình dục mà không có tình
yêu” không phải là thứ “tình” tương xứng với con
người, không phải là tình yêu, mà chỉ là thỏa mãn bản
năng của phần “con (vật)” mà chưa phải là của “(con)
người”, vì “nhân linh ư vạn vật” [5]. Cái cảm giác “lo
âu, tự ghê tởm, mâu thuẫn với chính mình” sau khi
trải qua “ân ái” (với bạn trai) của một bạn gái chia sẻ
trên Diễn đàn (N.N, Khôn ba năm dại một giờ, BTT
7.7.2010) là một dấu cho thấy hành động tính dục ấy
chưa diễn tả bản chất đích thực của nó, vốn là một
tình yêu dâng hiến hoàn toàn tự do sáng suốt của toàn
thể nhân vị. Tình yêu đích thực vốn còn đòi hỏi một
quyết định dấn thân vĩnh viễn của cả hai người cho
nhau và tình yêu ấy cần phải được xã hội, trong đó
hai người đang sống, biết đến qua một thể thức chính
thức nào đó, tức kết hôn. Vì thế, cả khi hai bạn thực
MỤC LỤC
Hơn nữa, người Kitô hữu nhận biết tình yêu của đôi
bạn nam-nữ, tự nó hướng tới sự phối hôn nhờ thân
xác của người nam và người nữ, được mời gọi càng
ngày càng trở nên là hình ảnh của Tình yêu Hiệp
Thông của Ba Ngôi Thiên Chúa, khác biệt và bất khả
phân li. Tình yêu của đôi bạn Kitô hữu đã thành hôn
là bí tích, nghĩa là dấu chỉ hữu hình và hữu hiệu giữa
thế giới này của Tình yêu Chúa Kitô với Hội Thánh,
dấu chỉ trong không gian và thời gian của Tình yêu
Thiên Chúa trung thành qua Giao ước ký kết bằng
Máu châu báu của Chúa Kitô với Dân Người. Thế
nên, tình yêu của đôi bạn, tự nó vốn hướng tới vĩnh
cửu, cũng là một hành trình trong thời gian với đầy
những khó khăn, thử thách, cám dỗ do xu hướng
hướng về tội lỗi (mà dục vọng là một dấu hiệu) cần
đến ơn Chúa trợ lực. Bởi thế, “tình dục trước hôn
nhân” hay ngoài hôn nhân không diễn tả Tình yêu
vừa nhân linh vừa thần linh này, là quan hệ rất mong
manh.
MỤC LỤC
5. Cha có lời khuyên nào đối với các gia đình có con
cái chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân?
– Các cha mẹ có con tới tuổi dậy thì, sắp tới tuổi
thành hôn, cần nói chuyện thẳng thắn với con, theo
nghĩa là đối thoại hơn là dạy dỗ áp đặt. Cha mẹ có
trách nhiệm giáo dục trước hết, và không ai thay thế
được, nếu tránh né hay lần lữa, các em sẽ tự động đi
học với những “người thầy” khác là bạn bè, sách báo,
internet... liệu có bảo đảm, an toàn không?
Hướng về Đại hội Thế giới Các gia đình lần thứ VII
Milano 2012
Đại hội lần đầu tiên được tổ chức tại Roma, tiếp theo
là Rio de Janeiro, Brazil (1997); lần thứ ba cũng ở
Roma (2000); rồi đến Manila, Philippines (2003);
Valencia, Tây Ban Nha (2006, lần đầu tiên với Đức
giáo hoàng Bênêđictô XVI); Mexico, Mexico (2009).
Năm 2012 Đại hội Thế giới các gia đình lần thứ VII
tổ chức tại Milano, Italia từ ngày 30 tháng Năm đến
ngày 3 tháng Sáu. Tổng giáo phận Milano và Hội
đồng Tòa Thánh về Gia Đình cùng tổ chức Đại hội.
Theo truyền thống, Đại hội Thế giới các gia đình diễn
ra như sau:
MỤC LỤC
Trước tiên là Hội nghị thần học mục vụ kéo dài trong
vài ngày dành cho những người làm công tác mục vụ,
bao gồm các cuộc gặp gỡ, trao đổi và hội thảo về chủ
đề được Đức giáo hoàng chọn. Chủ đề Đại hội lần thứ
VII là “Gia Đình: Công việc và ngày lễ”.
Sau đó là Cuộc gặp gỡ dành cho các tín hữu, gồm các
gia đình của giáo phận chủ nhà và các gia đình khác
trên khắp thế giới. Cuộc gặp gỡ này bắt đầu vào ngày
thứ Bảy bằng một buổi canh thức cầu nguyện do Đức
giáo hoàng chủ sự. Trong buổi canh thức, các gia
đình đến từ nhiều quốc gia khác nhau sẽ nêu các
chứng từ cuộc sống và đức tin. Sáng Chúa nhật là cao
điểm của Đại hội với Thánh Lễ do Đức giáo hoàng
chủ tế cùng hàng trăm ngàn tín hữu.
***
MỤC LỤC
Trong vài tháng nữa sẽ diễn ra Đại hội Thế giới các
Gia đình lần thứ VII năm 2012, tôi thật lòng hy vọng
được gặp Đức Tổng tại Milano cùng với một phái
đoàn chính thức và nhiều gia đình của quý quốc cùng
muốn đến chia sẻ kinh nghiệm Hội thánh sâu đậm
này, với sự hiện diện của Đức Thánh Cha và của Giáo
Hội tại Milano, là nơi đón tiếp chúng ta và đại diện
của tất cả các gia đình trên thế giới. Đó là lý do khiến
tôi muốn lặp lại lời mời của Đức Tổng giám mục
Milano cách đây vài tháng và tôi cũng xin Đức Tổng
giám mục vui lòng khích lệ các hiền huynh trong Hội
đồng Giám mục mà ngài là Chủ tịch.
Trong lá thư kêu gọi tham gia sự kiện này viết ngày
23.8.2010, Đức Thánh Cha đã minh nhiên yêu cầu
một “lộ trình chuẩn bị thích đáng trên bình diện giáo
hội và văn hóa […] cùng với những sáng kiến ở cấp
giáo xứ, giáo phận và quốc gia, nhằm nêu lên các
kinh nghiệm lao động và mừng lễ trong những khía
MỤC LỤC
cạnh chân thực và tích cực nhất, chú trọng đặc biệt
đến ảnh hưởng của sự kiện này trên cuộc sống cụ thể
các gia đình”. Thật vậy, việc chuẩn bị, trong mỗi giáo
phận và giữa lòng mỗi giáo xứ, cũng quan trọng như
cuộc họp mừng ở Milano: chỉ bằng cách này mà sự
kiện trên sẽ thật sự tác động trên đời sống gia đình,
giáo hội, văn hóa, xã hội và chính trị; và chỉ như thế
Đại hội các Gia đình sẽ trở thành một sự hiệp thông
sâu sắc của Dân Chúa và của tất cả các gia đình Kitô
hữu chung quanh Đức Thánh Cha. Để khích lệ và tạo
điều kiện dễ dàng cho việc chuẩn bị ấy, 10 bài giáo lý
Kinh Thánh đã được soạn ra quanh chủ đề “Gia đình,
công việc và ngày lễ”. Các bài này được Libreria
Editrice Vaticana phổ biến trong 7 thứ tiếng và có thể
tải xuống từ trang web chính thức
www.family2012.com. (*)
Hơn nữa Hội đồng Tòa Thánh về Gia đình, dựa trên
kinh nghiệm được thực hiện trong nhiều giáo phận
trên thế giới, đã soạn thảo một đề nghị đơn sơ và uyển
chuyển mang tên “Tuần lễ Gia đình”. Tôi vui mừng
gửi đến Đức Cha. Những thông tin hữu ích khác hiện
đang có trên trang web mới của Hội đồng Tòa Thánh
này: www.familia.va.
MỤC LỤC
Thật là điều rất tốt khi thúc đẩy các sáng kiến mục vụ
chuẩn bị đang được hình thành cũng như khích lệ các
truyền thống các kinh nghiệm và các chứng từ cộng
đồng và gia đình liên quan đến chủ đề Đại hội.
Nguyên sự truyền thông cũng diễn tả và tạo lập sự
hiệp thông; việc đó cũng làm phong phú thêm chính
cuộc Họp mừng ở Milano. Tất cả các tin tức trên có
thể gửi về các địa chỉ thư điện tử của Hội Đồng Tòa
Thánh pcf@family.va và của Tổng giáo phận Milano
info@family2012.com.
Những đòi hỏi của Giáo Luật cho Hôn nhân hoàn
hợp
Con người là một hữu thể thống nhất của xác và hồn.
Là hữu thể tinh thần, nhưng con người không chỉ là
hữu thể tinh thần sử dụng một thân xác, giống như
một thuyền trưởng lái con tàu của mình. Con người
còn là hữu thể thân xác, nhưng không chỉ là thân xác
thiếu chiều kích phi-vật-thể (như những người theo
thuyết duy vật tin tưởng). Con người được gọi cách
chính xác là những “linh hồn nhập thể”. Quan hệ hôn
nhân là diễn tả duy nhất của sự hợp nhất hồn-xác này.
Hôn nhân cũng là một loại tình bạn đòi hỏi phải có sự
ưng thuận (“sự ưng thuận trong hôn nhân”). Thế
nhưng, nó là cái gì đó còn hơn là một tình bạn thông
thường được xây dựng và gìn giữ chỉ bằng sự ưng
thuận của hai người thông dự. Nó còn có một chiều
kích xác thân sâu thẳm – chiều kích “một xương một
thịt” được thực hiện qua hành vi giao hợp đầu tiên
(xem St 2,24; Mt 19,5; Ep 5,31). Tính chất “một
xương một thịt” này có hiện hữu hay không là do,
như thánh Phaolô giải thích, những người này có kết
hôn với nhau hay không (x. 1Cr 6,16). Nhưng bởi vì
hành động “ăn ở với nhau” (“giao hợp”) nối kết hai
người thành chỉ một thân xác một linh hồn, diễn tả
khả năng tình thâm giao sâu nặng (radical human
intimacy) và sinh sản thuộc nhân tính, cho nên hành
động ấy phải là duy chỉ thuộc về hôn nhân. Điều đó
có nghĩa là nó phải là một hành động thể hiện và tham
dự vào một mối quan hệ mang tính chất bền vững,
độc hữu và phong nhiêu (khả năng sinh sản).
MỤC LỤC
Nếu hai người phối ngẫu chưa ưng thuận cùng nhau
sống một đời đôi bạn kiểu hôn nhân kéo dài suốt cuộc
đời, hành động giao hợp của họ là vô luân
(disordered) bởi lẽ nó tạo nên một sự kết hợp nên một
thân xác nhưng trên cơ sở một quan hệ không trường
cửu. Đức Gioan Phaolô II nói rằng “ngôn ngữ thân
xác” mà được biểu lộ qua một quan hệ ngoài hôn
nhân là dối trá. “Bởi lẽ tôi nói qua thân xác tôi rằng
em thuộc về tôi và tôi thuộc về em mãi mãi; nhưng tôi
lại chưa ưng thuận một kết hợp kiểu như thế.”
Giáo Luật
Bây giờ chúng ta trở lại với câu hỏi liệu một hành vi
giao hợp có ý tránh mang thai có hoàn hợp cuộc hôn
nhân hay không. Chú giải 1985 về Bộ Giáo Luật của
Hiệp Hội Giáo Luật Hoa Kỳ nói rằng: “Những nhà cố
vấn khi bàn thảo các điều khoản Giáo luật này đã ngã
hướng về quan niệm cho rằng sự giao hợp tự nhiên đã
là hoàn hợp và việc sử dụng các phương thế ngừa thai
không ngăn trở tính hoàn hợp thật sự của hành động
ấy chừng nào chúng không cản trở hành động giao
hợp thể lí” [1].
Tôi hiểu đoạn văn này muốn nói rằng các nhà cố vấn
(tức là, các chuyên viên về Giáo luật mà Vatican đã
tham vấn trong khi chuẩn bị cho ra đời Bộ Giáo Luật
1983) cho rằng nếu một người vợ đang dùng thuốc
MỤC LỤC
tránh thai để kiểm soát sinh sản (vốn trái với giáo
huấn luân lí của Hội thánh Công giáo – ND.) trong
khi “ăn ở” với nhau lần đầu tiên, hành động ấy vẫn
“tự nó có khả năng dẫn tới sinh sản” (điều 1061)
(nghĩa là, một hành động thuộc “loại” phong nhiêu
(procreative) cho dẫu thực tế không thể sinh con (not
actually a fertile act)). Sỡ dĩ thế không phải là vì các
nhà cố vấn đã cho rằng viên thuốc ngừa thai là hợp
luân lí đạo đức (dù một số người có lẽ vẫn tin như
thế), nhưng vì một hành vi tránh thai bằng cách dùng
dược phẩm không ngăn trở người chồng phóng tinh
vào âm đạo người vợ, đây là điều mà hầu hết các nhà
Giáo luật cho là cốt yếu của sự hoàn hợp.
Cả Dr. May và tôi đều cho rằng phán quyết này là sai
lầm (và nhiều nhà thần học luân lí ngày nay cũng
thế). Tôi sẽ trình bày cách ngắn gọn nhất lập luận bảo
vệ cho quan điểm của mình. Để một hành động giao
hợp mang đặc tính “hôn ước” (hay “vợ
chồng”/“marital”) và hợp pháp, hành động ấy phải
hàm chứa hai điều thiện hảo chính yếu của hôn nhân,
đó là sinh sản con cái (procreation) và kết hợp vợ
chồng (unity). Nếu có ước muốn rõ ràng ngược lại
với một trong hai thiện hảo này của hôn nhân, thì dù
cho hành động thể lí xem ra có thể giống hành động
giao hợp vợ chồng (marital intercourse), hành động
MỤC LỤC
Tôi tin rằng một linh mục mà biết một cặp vợ chồng
có ý thực hành ngừa thai sau khi họ cưới nhau sẽ hết
sức thuyết phục họ làm cách khác. Ngài cố gắng
thuyết phục họ không đơn giản chỉ nói với họ rằng họ
MỤC LỤC
đang làm điều sai trái. Ngài nên giải thích rõ ràng hết
sức những lí do khiến sự giao hợp ngừa thai là sai
trái; và làm thế với lòng bác ái và kiên nhẫn, vì nhận
thấy nhiều người, kể cả nhiều người Công giáo, rất
khó thấy tính chất sai trái của sự ngừa thai. Sau cùng,
nếu như họ từ bỏ giáo huấn của Giáo huấn Công giáo,
các ngài nên từ khước việc kết hôn của họ. Cũng như,
phong chức linh mục cho một người bỏ Giáo huấn
của Hội thánh về đức khiết tịnh của giáo sĩ đối với tôi
là một sai lầm mục vụ nghiêm trọng, cũng thế, đối với
việc kết hôn những người từ bỏ giaó huấn của Giáo
hội Công giáo về đức khiết tịnh hôn nhân.
Mặc dù chọn theo hay không ý kiến của tôi ở đây, các
vị cũng cố gắng trao đổi với các cặp cách rõ ràng hết
sức rằng tội ngừa thai không phải là một chuyện nhỏ
không nguy hại gì cho cuộc hôn nhân của họ, dù việc
thực hành mục vụ trong Hội thánh công giáo đã tiến
hành điều đó với cách thức này từ nhiều thập niên rồi.
Kính gửi:
Khi kết thúc Đại hội Thế giới các Gia đình lần thứ VI,
diễn ra tại thành phố Mexico vào tháng 1 năm 2009,
tôi đã loan báo cuộc Hội ngộ kế tiếp của các gia đình
Công giáo cả thế giới với Đấng kế vị thánh Phêrô sẽ
diễn ra tại Milano vào năm 2012, về đề tài “Gia đình:
công việc và ngày nghỉ”. Ước mong khởi đầu việc
chuẩn bị một biến cố quan trọng như thế, tôi vui
mừng xác định rằng nếu đẹp lòng Chúa, cuộc gặp gỡ
sắp tới sẽ diễn ra từ ngày 30 tháng 5 đến ngày 3 tháng
6 và đồng thời cung cấp một vài hướng dẫn chi tiết
hơn liên quan đến chủ đề và cách thức tiến hành.
Công việc và ngày nghỉ gắn liền chặt chẽ với đời
sống của các gia đình: chi phối các quyết định của các
gia đình, ảnh hưởng đến các mối tương quan giữa vợ
MỤC LỤC
người, ngày của gia đình, của cộng đoàn và của tình
liên đới.
Cuộc Hội ngộ các gia đình thế giới sắp tới tạo nên
một cơ hội thuận lợi để suy nghĩ lại về công việc và
ngày lễ trong viễn tượng của một gia đình hiệp nhất
và mở ra với sự sống, hội nhập thực sự vào xã hội và
Giáo hội, lưu tâm đến phẩm chất của các mối tương
quan cũng như đến chính cấu trúc hạt nhân của gia
đình.
Ước mong sao các gia đình Kitô hữu và cộng đoàn
Hội thánh trên cả thế giới cảm thấy mình được thách
đố và liên lụy, và khẩn thiết lên đường tiến đến
“Milano 2012”. Cuộc Hội ngộ các gia đình lần thứ
VII này cũng như những lần trước sẽ kéo dài năm
ngày và đỉnh cao là vào tối thứ Bảy với “Lễ hội các
Chứng từ” và Thánh lễ trọng thể vào sáng Chúa nhật.
Trong khi nài xin sự phù trì của Gia đình thánh
Nadaret, gia đình vừa tận tụy với công việc hằng ngày
vừa chuyên cần cử hành các ngày lễ với những người
MỤC LỤC
Bênêđictô XVI