You are on page 1of 277

MỤC LỤC

Giáo dục giới tính trong gia đình


Giáo dục

Giáo dục giới tính trong gia đình

Suy tư mùa Chay về gia đình


Bài 1. BẬP BỀNH CON THUYỀN GIA ĐÌNH
Bài 2. NHỮNG CƠN GIÔNG, BÃO TỐ CHỰC CHỜ
BÀI 3. NHỮNG CƠN GIÔNG, BÃO TỐ CHỰC CHỜ (2)

Bài 4. PHẬN HOÀNG VƯƠNG GIỮA CÕI TỤC


Hôn nhân: Tình yêu vừa nhân linh vừa thần linh
NGỪA THAI VÀ HÔN NHÂN
GIÁO LÝ CHUẨN BỊ
GIÁO LÝ CHUẨN BỊ (tt)
Bài 1: Huyền nhiệm Nadaret
Bài 2: Gia đình thông truyền sự sống
Bài 3: Gia đình sống thử thách
Bài 4: Gia đình linh hồn của xã hội
MỤC LỤC

Bài 5: Công việc và ngày lễ trong gia đình


Bài 6: Công việc: nguồn sống đối với gia đình
Bài 7: Công việc: thách đố đối với gia đình
Bài 8: Ngày lễ: thời gian dành cho gia đình
Bài 9: Ngày lễ: thời gian dành cho Chúa
Bài 10: Ngày lễ: thời gian dành cho cộng đoàn
Đại hội các gia đình thế giới 2012 tại Milano “Gia
Đình: công việc và ngày lễ”:
Giáo dục giới tính trong gia đình
Hướng về Đại hội Thế giới Các gia đình lần thứ
VII – Milano 2012
HỘI ĐỒNG TÒA THÁNH VỀ GIA ĐÌNH
NGỪA THAI VÀ HÔN NHÂN
Thư của Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI gửi Đức
hồng y Chủ tịch Hội đồng Tòa thánh về Gia đình
về việc chuẩn bị cho Đại hội các gia đình thế giới
lần thứ VII
MỤC LỤC

Giáo dục giới tính trong gia đình

Lm. Luy Nguyễn Anh Tuấn


Tổng thư ký UBMV Gia đình

Ngày nay, dẫu khắp nơi thấy có nhiều người tuyên bố


rằng tình dục không còn là chuyện cấm kị nữa, dẫu
đâu đâu cũng đều có những kẻ chủ trương một cách
thẳng thắn thái độ tự do phóng túng trong “chuyện
ấy”, ta cũng phải công nhận một điều rằng là tình dục
không phải là một kinh nghiệm dễ dãi.

Tình dục hay tính dục (sexuality) mà càng bị hạ cấp,


càng bị làm trở nên dung tục, thì dường như càng
hiện lộ rõ hơn những mặt tối và nguy hiểm của nó
(như bạo lực và lạm dụng (tình dục), những biểu hiện
u ám nghiện ngập, những kiểu cách thực hành tính
dục đa dạng và đồi trụy, khát vọng sa đọa …) Những
lối ăn nói táo tợn, dạn dĩ, những hành vi khiêu khích
là biểu hiện của ý tưởng vụng về chối bỏ tính chất
huyền nhiệm không thể nắm bắt được của kinh
nghiệm dục tính.

Tính dục vẫn mãi là một thực tại hấp dẫn nhưng rất
hàm hồ và chất chứa nhiều nguy cơ. Nó không chỉ là
MỤC LỤC

sự hấp dẫn do khoái cảm nhưng còn có thể mang cả


đắng cay và sự xáo trộn.

Đừng dung tục hóa tính dục

Một thái độ sống hết sức quan trọng mà cha mẹ cần


thông truyền cho con cái là biết tôn trọng con người
như một nhân vị, kính trọng sự sống, khám phá tính
dục như một huyền nhiệm lớn lao, hấp dẫn nhưng với
thái độ kính trọng.

Quan tâm đến vấn đề này, chúng ta cần xem xét hai
khuynh hướng thái độ cũng như định hướng sống cho
những người trẻ ngày nay.

Trước hết, khuynh hướng thứ nhất muốn xem giá trị
biểu tượng của tính dục, ý nghĩa thông giao
(communicative) và trao đổi của nó cần phải được
làm sáng tỏ hơn bao giờ hết. Người ta không thể tách
biệt tính dục và tình cảm. Để thỏa mãn trọn vẹn và
mãnh liệt tính dục, người bạn tình (partner) chỉ tỏ tình
hay bộc lộ tình cảm mình cách chung chung là không
đủ, tình cảm người đó còn cần phải được trải nghiệm
để chứng tỏ sự chín chắn, có ý thức và thành thực.
MỤC LỤC

Ngày càng có nhiều thanh thiếu niên hiểu và chia sẻ


sự thật đó dẫu nó đòi hỏi nhiều nỗ lực dấn thân hơn.
Ở châu Âu chẳng hạn, trong những năm gần đây độ
tuổi trung bình lần đầu tiên có quan hệ tính dục đang
tăng lên. Đó là một điều rất có ý nghĩa.

Đàng khác, khuynh hướng thứ hai có vẻ nhiều hơn và


được ủng hộ đặc biệt bởi văn hóa môi trường sinh
thái. Những người này xem việc tìm khoái lạc tính
dục tự thân như là một mục đích. Tiêu chuẩn mà họ
chọn là sự thỏa mãn nhất thời ở mức tột đỉnh. Còn
dấn thân vào chuyện tình yêu được cho là nguy hiểm;
tự ràng buộc mình với một bạn tình chỉ sinh phiền
muộn, đau khổ và bị vỡ mộng. Họ cho rằng tốt hơn
chỉ nên phiêu lãng với những gặp gỡ qua đường dễ
dãi và tình cờ, họ cảm thấy như thể là mình không
cần đến tình yêu mà chỉ cần cảm giác khoái lạc. Kinh
nghiệm tình dục bị mất đi giá trị biểu tượng của nó và
giá trị của một sự dấn thân đích thực và vô điều kiện
của hai con người và bị biến chất thành ra như một sự
phô bày thân thể, thỏa mãn dễ dãi.

Người ta không quan tâm đến chính con người đối


tác, tức là người bạn tình, mà chỉ để ý đến vẻ đẹp cơ
thể người ấy và sự ban phát lạc thú do nó đem đến.
Não trạng đó mở đường cho bao nhiêu hình thức ít
MỤC LỤC

nhiều mang tính chất mua bán đổi chác liên hệ đến
tình dục, hoặc những hình thức phô bày mới và rất
phổ biến thứ tình dục chỉ biết tìm kiếm cảm giác mà
không có một gặp gỡ liên vị nào cả. Tình dục bị giản
lược chỉ còn là một chức năng đơn thuần tìm kiếm lạc
thú của riêng từng cá nhân: một thứ tình dục tột đỉnh
và xâm lấn mọi ngõ ngách nhưng lại vô trách nhiệm
và phi ngã vị. Cũng phổ biến thứ tình dục muốn
hưởng lạc đẩy cảm giác lên “mức cực mạnh nhưng lại
ít cảm xúc”. Những người làm cha làm mẹ bởi chính
kinh nghiệm của mình họ biết rằng một quan hệ thân
mật giả thiết đòi hỏi người ta phải dấn mình cùng với
một sự chín muồi nào đó về tình cảm, và, điều đó, đối
với đứa con niên thiếu của họ là chưa thể đạt được,
cần có thời gian chuẩn bị và vun trồng cho con bằng
một sự đầu tư giáo dục thật thích hợp và mạnh mẽ.

Thực vậy, nét đặc trưng của tuổi mới lớn thường biểu
lộ trong những mối quan hệ là tìm sự thỏa mãn tức
thời, bận tâm làm sao chinh phục được tình cảm của
đối tượng. Những đặc điểm này, hẳn là có liên hệ đến
quá trình tiến triển theo lứa tuổi, dẫn các bạn trẻ đến
chỗ bù đắp những chiều sâu mà mình chưa đạt tới
bằng những lối mở chiều rộng (như yêu vội sống
cuồng, chạy theo những đam mê ngây dại và nhất
thời, dấn mình vào những trải nghiệm mới lạ nhưng
MỤC LỤC

mong manh của đời đôi lứa) và bằng những vỏ bọc


bên ngoài ấn tượng (như lối ăn nói tục tĩu, thái độ gây
hấn, thụ hưởng và lan truyền các ấn phẩm khiêu
dâm).

Ngày nay, hơn bao giờ hết, thời kì chuẩn bị cho một
tình yêu đích thực thật là quan trọng. Sự tiết dục cũng
có giá trị của nó, nếu được hiểu không phải như một
sự đè nén và chối bỏ thân xác và các xung năng của
nó, nhưng như một triển vọng hấp dẫn nhưng không
dễ dãi hướng về một sự thỏa mãn tính dục với chất
lượng mới.

Những kiểu sống mới đời đôi bạn như hiện nay thực
ra rất là bận rộn. Kỳ vọng về một tình yêu “vĩnh cửu”,
một tình yêu “duy nhất và độc hữu”, tiêu biểu cho
một tình yêu lãng mạn không còn chắc chắn và được
bảo đảm nữa. Ngược lại, người ta giả định phải có
một cam kết, không bao giờ dứt điểm, nhằm xây dựng
và củng cố một tương quan đặt cơ sở trên sự bình
đẳng, trên những nhu cầu rõ ràng thẳng thắn của cả
hai người, trên một thỏa thuận trong đó sự thân mật
và nỗi đam mê được quí trọng và nuôi dưỡng theo
một cảm quan chung, còn tình yêu phải chịu tan biến.
Thiếu một khung giá trị đạo đức khả dĩ giúp ngăn
chặn những tình cảm tiêu cực tác hại, lại còn không
MỤC LỤC

có một kế hoạch đời sống lứa đôi để thường xuyên


tham khảo, sinh hoạt tính dục vẫn mãi bị thúc ép bởi
cảm giác “trống trải”, để đi tìm một cảm giác viên
mãn vốn luôn mong manh và càng trở nên bi đát hơn
khi nhu cầu tình yêu càng bộc lộ mạnh mẽ trong một
xã hội phức tạp, cạnh tranh và đầy bất trắc.

Trong những lúc sống thân mật và đam mê, những cử


chỉ, hành động và lời nói dành cho nhau luôn diễn tả
một hứa hẹn, tiên báo một cam kết. Nếu như điều ấy
không được thực hiện có thể người ta rất đau khổ vì
thất vọng hay vì cảm thấy mình bị lừa dối. Như thế
đó, thực tế không hoan lạc và vui thú như có vẻ đã
hứa hẹn, tính dục hóa thành một kinh nghiệm chỉ gây
thương tổn đau đớn và tồi tệ.

Chỉ sau một thời gian chuẩn bị dài vừa đủ để nhận


biết ý nghĩa và giá trị của sự tự chủ, quan hệ tính dục
mới diễn tả sự hiến thân chân thật và bền vững.Tính
dục như là một ngôn ngữ cần phải được học, được
tinh luyện, đào sâu, với một sự cam kết kéo dài suốt
cuộc đời. Người ta sẽ không tránh được việc biến
người bạn mình thành như một thứ phương tiện và
như thế có nghĩa là tình yêu chấm dứt, nếu như những
hành vi tính dục không phải là cao đỉnh của một sự
hòa hợp đã có trong những mặt khác của cuộc sống.
MỤC LỤC

Điều mà người ta không thể thực hiện trong đời sống


thường ngày không thể được bù đắp trong nỗi say
đắm của quan hệ tình dục. Bực dọc cáu kỉnh, thiếu
khoan dung hay chấp nhất, ích kỉ, tất cả những cái đó
không tự động biến thành dịu dàng, cảm thông, đối
thoại trong quan hệ tình dục. Hoan lạc tình dục là
biểu lộ của một gặp gỡ thật sự đôi bạn đã có rồi qua
những khía cạnh khác của con người.

Để có sự thỏa mãn và cảm giác an toàn quan hệ tình


dục cần trải nghiệm một hành trình khám phá, lắng
nghe, kiên nhẫn đối với nhau. Bởi lẽ trong những
kinh nghiệm đầu tiên nhất là khi chưa chín muồi,
quan hệ thường chỉ mới là một tình yêu trong mộng
tưởng, vẫn còn trong sự hướng vọng đến một tương
lai đẹp.

Tính dục thỏa đáng là một kinh nghiệm thực sự đã


chín chắn vì nó giả thiết người ta có những khả năng
chỉ có được khi trưởng thành. Ngược lại không đúng.
Thực hành tính dục, tự thân và tại thân, nó không làm
cho tình yêu chín muồi.

Là nam là nữ
Tính dục không đơn tính nhưng lưỡng tính: là nam và
là nữ. Đàn ông hay là đàn bà không phải là những cái
MỤC LỤC

nhãn được gắn vào con người của ta lúc sinh ra. Cha
mẹ cho con chất liệu di truyền định cấu trúc giới tính
nhưng không dừng lại ở đó. Như là một người đàn
ông và như là một người đàn bà, cha mẹ, trong toàn
thể lối sống của mình, trở thành mẫu cho con cái định
hình nhân cách trong cả quá trình dài xây dựng căn
cước giới tính của chúng. Trong sự kết hợp hòa điệu
giữa cha mẹ, gia đình trở thành một sân khấu nhỏ
trong đó mỗi người học sống vai của mình. Những
yếu tố của môi trường xã hội cũng ảnh hưởng lên sự
định hình căn cước giới tính và lên quá trình thích
ứng với cách sống của mẫu phái tính là nam hay nữ.
Thế nhưng, về mặt này, chúng ta không nên xem
thường bất cứ điều gì. Các vai trò thuộc phái tính đã
bị xáo trộn bởi biến chuyển xã hội. Không còn vai trò
chức năng nào là không thể linh động và được quyết
định trước: cả căn cước giới tính (là nam hay nữ)
người ta cũng có thể chọn lấy cho mình.

Trong tình hình bất định về phái tính như thế, các giai
đoạn phát triển lứa tuổi cũng như chính kinh nghiệm
về các độ tuổi càng ngày càng mù mờ hơn, con cái
chúng ta cũng gặp nhiều khó khăn nhọc nhằn để định
hình chính bản thân chúng.
MỤC LỤC

Khi cuộc sống đôi lứa bị qui hướng quá nhiều về cực
bổn phận làm cha và làm mẹ (càng hiệu quả khi các
vai trò càng hoán đổi được cho nhau) thì tương quan
và sự hòa điệu giữa người đàn ông và người đàn bà
(càng giúp ích cho sự định hình nhân cách con cái khi
căn cước giới tính của họ càng rõ và phân biệt) càng
bị nghèo nàn đi. Hơn nữa, ngoài những khó khăn của
đôi lứa, ngày nay người ta còn xét thấy có cả sự
khủng hoảng của căn tính nam giới. Người ta có thể
xác định trong số nhiều hiện tượng hai dấu hiệu đáng
quan ngại tạo nên khủng hoảng này, đó là: văn hóa
khiêu dâm càng ngày càng lan tràn và sự bùng nổ các
hình thái bạo lực và lạm dụng tình dục nghiêm trọng.
Đó là hai hiện tượng tiêu biểu thuộc khu vực nam
giới.

Có lẽ chúng ta nên xem việc thụ hưởng những văn


hóa vật thể khiêu dâm đó như một hành động tiềm
thức, bù trừ cho những khó khăn và thất bại trong
quan hệ riêng tư thân mật. Nam giới có lẽ ít được
chuẩn bị hơn người bạn đời nữ giới của mình để đối
phó với những khó khăn này. Đàn ông gặp khó khăn
trong việc này vì nó thuộc lãnh vực truyền thông cảm
xúc với chính mình và với người khác trong một bối
cảnh bình đẳng. Đó là một phản ứng đối với nỗi khó
MỤC LỤC

khăn phải thích nghi với cuộc cách mạng nhanh


chóng và dễ gây choáng váng về căn tính nữ giới.

Phụ nữ không còn chấp nhận để đàn ông chiếm ưu thế


trên bình diện tính dục. Cuộc sống lứa đôi đã trở
thành một cuộc hành trình mở ra cùng với những nhu
cầu mới và những tâm trạng lo âu mới.

Những giai đoạn phát triển tâm lí-tính dục


Cha mẹ có một ảnh hưởng sâu đậm trên quá trình xác
lập căn cước giới tính của con cái mình không như
bất cứ một tương quan xã hội nào có thể tác động. Từ
những phản ứng chủ quan khi biết được phái tính của
đứa con sắp hạ sinh cho đến những thái độ và chọn
lựa mà họ chấp nhận (như đặt tên cho con, chọn
những đồ chơi và áo quần, những cách biểu lộ tình
cảm đối với con trẻ) gia đình có một vai trò quyết
định và đóng góp rất lớn cho xã hội những con người
có khả năng sống căn cước giới tính của mình một
cách hoan hỉ và tích cực.

Những giai đoạn phát triển tâm lí-tính dục của con cái
đang lớn cũng đồng thời đặt ra cho cả cha và mẹ
những mục tiêu giáo dục phải xác định và chứng
thực.
MỤC LỤC

Trong giai đoạn ấu thơ sự phát triển tâm lí của em bé


được hướng dẫn bởi nguyên tắc thỏa mãn nhu cầu
ngay tức thì. Dần dần khi sự tin tưởng của bé vào mẹ
ngày càng lớn lên, tiêu chuẩn này không còn được ưu
thế nữa. Những bước khởi đầu, những lời lẽ đầu tiên,
những hình thái ban đầu bé hội nhập vào xã hội con
người bắt đầu tiến trình tách li dần khỏi mẹ. Khoảng
tám tháng tuổi bé có thể phân biệt bản thân mình khác
với thực tại xung quanh.

Đến khoảng bốn hay năm tuổi bé bắt đầu có những


tình cảm thù ghét hoặc trìu mến đối với mẹ cha (thời
kì Oedipus, theo S. Freud). Đó là một giai đoạn đặc
biệt tinh tế: thời của những ganh tị, của những hình
ảnh tưởng tượng bị cấm đoán, của sự khẳng định bản
thân và kình địch của bé trai đối với cha, bé gái đối
với mẹ.

Cuối thời kì thơ ấu, một số nét tự lập đầu tiên nơi em
bắt đầu chín dần và sự phụ thuộc mẹ cha cũng giảm
bớt dần. Khả năng yêu thương có nhiều hơn. Phát
triển những khả năng quan trọng như tư duy ẩn dụ,
hiểu biết bằng biểu tượng. Học biết thương lượng
bình yên với những xung lực bản năng của mình.
MỤC LỤC

Chuyển tiếp sang tuổi thiếu niên là thời tiền dậy thì,
bao hàm sự biến đổi rõ ràng các nội tiết tố đánh dấu
khởi đầu một sự thay đổi quan trọng trong cơ thể. Cơ
quan sinh dục phát triển cùng với các đặc trưng giới
tính thứ yếu. Cơ thể đang chuyển biến làm em lo lắng
và thắc mắc, điều đó tạo nên những tình cảm lẫn lộn
và bất ổn trước những xung năng trỗi dậy và đồng
thời phát sinh hướng chiều về những cảm xúc mạnh
mẽ.

Một sự kiện rất quan trọng đối với bé gái cần được
quan tâm chăm chút với sự trân trọng là sự xuất hiện
kinh nguyệt lần đầu tiên như dấu hiệu bắt đầu thành
một thiếu nữ. Giới tính chín dần khi em hòa hợp được
với thể xác mình. Hòa hợp với đấng sinh thành cùng
phái tính với mình sẽ giúp em rất nhiều nhìn nhận và
đón nhận chính mình.

Tính dục luôn là một thực tại biến chuyển, nó có thể


thoái hóa, dừng lại hoặc tiến triển, thế nhưng lao
động, vốn đã khởi sự từ tuổi thơ ấu và tiếp tục trong
thời niên thiếu, sẽ đặt những cơ sở chắc chắn cho một
cuộc sống thăng bằng luôn luôn mới mẻ.
MỤC LỤC

Cùng nhau làm cha làm mẹ

Để trưởng thành tình cảm và tính dục cần có thời gian


dài cho những biến đổi và để đảm nhận trọn vẹn
những thay đổi đó. Thổ lộ những tâm tư thầm kín với
cha hay với mẹ cũng như chính khuôn mẫu của cha
mẹ là sự trợ giúp và tham vấn an toàn nhất. Gặp một
người đàn bà và một người đàn ông như đôi bạn là
cha và là mẹ mình có thể giúp con hiểu về vẻ đẹp và
sự khó nhọc của tuổi tăng trưởng, về sức mạnh
(nhưng cũng là điểm yếu) của giao tiếp tình cảm, về
sự phong nhiêu của tình yêu con người. Không nơi
nào hơn tình yêu thương gia đình góp phần vào việc
tái thiết lại sự liên kết vốn thâm sâu giữa tính dục và
sự sinh sản, là những chiều kích ngày nay người ta
sống như những mặt tách biệt, độc lập với nhau. Sinh
sản là một hành động có cả người đàn bà lẫn đàn ông
tham dự vào. Điều kiện lí tưởng cho một giáo dục
giới tính bình lặng là sự hiện diện của cả cha và mẹ
và cùng hợp tác trong các vai trò khác nhau và bổ túc
cho nhau. Những người đang làm cha mẹ cần quan
tâm đến điều này, đó là: các bạn trẻ mà đã có một
hình ảnh tiêu cực về người cha hoặc không đẹp về
người mẹ của mình, họ sẽ gặp khó khăn lớn khi tạo
lập tương quan với thực tại, khi xây dựng căn tính của
chính mình.
MỤC LỤC

Kết luận

Ngày nay các bậc cha mẹ cần quan tâm đến giáo dục
tình yêu cho con cái đang lớn không chủ yếu bằng
những cấm đoán hay mệnh lệnh, nhưng cần nhấn
mạnh đến sự thật này: là tính dục không thể tách rời
khỏi tương quan con người, hiểu theo nghĩa trọn vẹn
của nó, và hơn nữa, nên giới thiệu viễn ảnh rất đẹp
mà Kinh Thánh trình bày về tính dục con người như
là tặng phẩm dành cho nhau liên hệ đến toàn thể con
người cả hồn-xác. Cần lên án như là phi nhân lối thực
hành tính dục không tình yêu, vì điều đó hạ giá trị và
làm nghèo nàn đi ý nghĩa của tính dục, thậm chí trở
nên như một hành vi mua bán đổi chác. Trái lại cổ võ
sự cao cả của tính dục con người hiểu như một cuộc
sống hiến dâng. Chỉ trong tương quan hoàn toàn nhân
bản con người mới có thể thực hiện được chính bản
thân mình và do đó được hạnh phúc. Đức khiết tịnh
kitô giáo là một phẩm chất giúp hòa nhập và hòa hợp
tính dục với toàn thể con người, giúp ta sống tính dục
như một thứ năng lượng để thăng tiến. Khiết tịnh là
ẩn dụ đẹp nhất của ân sủng vì nó có khả năng giao
hòa được giữa tự do với kỉ luật, giữa tính bộc phát và
sự vượt trên những điều kiện ràng buộc của thân xác,
giữa tính sáng tạo và sự nhạy cảm, giữa trí thông
MỤC LỤC

minh và niềm hoan hỉ, giữa tình cảm con người và


cảm thức về mầu nhiệm. ■

Lm Luy Nguyễn Anh Tuấn


MỤC LỤC

Suy tư mùa Chay về gia đình


Bài 1. BẬP BỀNH CON THUYỀN GIA ĐÌNH

Trong những thập niên cuối này gia đình, và cách


riêng là đôi vợ chồng, trụ cột của gia đình, đã phản
chiếu những căng thẳng và mọi thứ xáo trộn đã làm
thay đổi xã hội chúng ta. Có những dấu hiệu, một
đàng là càng ngày người ta càng ít chọn lựa sống hôn
nhân so với sự gia tăng những hình thức sống chung
khác, đàng khác càng ngày càng có nhiều vụ ly thân,
ly dị hơn. Thế nhưng, sống giữa khủng hoảng và hy
vọng, hoàn cảnh đó có thể trở thành một thách đố, có
thể thúc đẩy chúng ta phải lao vào cuộc để làm thay
đổi thực trạng hiện nay của hôn nhân; có thể trở nên
nguồn cho một thứ năng lượng mới, phác ra những
viễn tượng mới, canh tân lời tiên tri.

1. Sự mong manh của quan hệ vợ chồng

Người ta cần ý thức tính chất phức tạp của hoàn cảnh
chung và tìm phân tích trong tinh thần cởi mở để tìm
biết những nguyên nhân của tình cảnh ấy.

Trước hết, ngày nay người ta cần phải nhìn nhận


quyền tự do lựa chọn người bạn đời là một trong
MỤC LỤC

những cuộc cách mạng âm thầm của lịch sử nhân loại.


Từ mấy ngàn năm qua việc lựa chọn bạn đời đã được
định và phải tuân thủ theo những bận tâm hay lợi ích
khác xa lạ với đôi bạn, và dĩ nhiên, cũng khác tùy
theo họ thuộc giai cấp thống trị hay bị trị. Người ta đã
bị (được) kết hôn chứ không kết hôn. Những cuộc
hôn nhân ấy có thể bền chặt bên ngoài bởi vì được
bủa vây bởi một loạt những kiểm soát khá cứng cỏi từ
phía xã hội, thế nhưng mối quan hệ nam-nữ sẽ khó có
thể phát triển theo chiều sâu vì thiếu điều kiện tiên
quyết là sự quí trọng nhau và sự tự do chọn lựa nhau.
Hôn nhân bởi tình yêu chắc hẳn là mỏng manh hơn,
nhưng phong phú hơn nhiều những cuộc hôn nhân
bởi sự sắp đặt. Ngày nay người ta lấy nhau vì tình
yêu. Cưới nhau mà không có tình yêu thì không còn ý
nghĩa gì nữa. Mỗi người chọn lựa cho mình người
bạn đời cách tự do và như thế tự quyết định về chính
số phận của mình1.

Dần dần người ta xác định rằng trong cuộc sống lứa
đôi điều quan trọng không phải là làm sao duy trì hôn
nhân bằng mọi giá, dù phải kiên nhẫn chịu đựng lâu
dài, phải trung thành trong lầm lì bất mãn, dù là giả
dối với một đời sống chung mà không có sức sống,
nhưng là tự nguyện dấn thân thật sự để ở với nhau,
thích được gặp nhau. Tất cả những điều ấy là một
MỤC LỤC

trong những thay đổi quan trọng nhất đã thành hiện


thực trong thế kỷ trước và hiện vẫn còn đang thay đổi
ở bên trong tiến trình chuyển biến triệt để về ý nghĩa
và giá trị của gia đình. Thế nhưng, thay đổi sâu xa ấy
cũng có kèm theo những nguy cơ. Đó là người ta
không nắm bắt được cái cốt lõi nhất của hoàn cảnh,
người ta có thể đánh giá và chọn lựa quá đơn giản và
hời hợt, bởi lẽ do sự phức tạp của hoàn cảnh cần có
một phân tích nghiêm túc.

Giải pháp được đề nghị là tránh hai thái cực đối


nghịch: hoặc là cám dỗ theo một kiểu chung thủy vợ
chồng duy hình thức mà thiếu sự dấn thân bằng cả
tình cảm lẫn lý trí, hoặc là cám dỗ theo một thứ nổi
loạn đập vỡ quá dễ dàng thiếu sự dấn thân đi tìm một
giải pháp tích cực hơn. Đó là một giải pháp khác,
chắc chắn là phải bận tâm bận trí hơn, mà cũng mắc
mứu nhiều hơn. Nó đòi tình yêu phải được nuôi
dưỡng bằng một sự trung thành hằng ngày; tình vợ
chồng phải được nối tiếp bằng những gặp gỡ nhau
trong hân hoan và thích thú; những lúc khủng hoảng,
căng thẳng, hiểu lầm nhau có ý nghĩa làm cho hai bên
hiểu biết nhau sâu sắc hơn; không nên biến những
xung đột thành những thất bại tiêu cực. Giải pháp đề
nghị là: hôn nhân vẫn là một quan hệ rất ưu việt có
MỤC LỤC

thể tiến bộ và vượt qua được sự khủng hoảng mà


không gãy đổ.

2 . Nỗi cô đơn của đôi bạn

Làm một đôi vợ chồng hạnh phúc và bền vững là một


điều rất tốt mà mọi người đều muốn khi khởi đầu một
cuộc tình. Thế nhưng không dễ dàng có được như thế,
trước hết chính là vì người ta đã mong đợi quá nhiều
ở quan hệ ấy, và hơn nữa, là vì đôi bạn cô đơn trước
những khó khăn của mình.

Đâu là những yếu tố ảnh hưởng đáng kể trên thực tại


mọi ngày và trên cách suy nghĩ và hành động của gia
đình? Đôi bạn và gia đình ngày nay thiếu sự an sinh
hơn ngày xưa, sự an sinh được bảo đảm do bối cảnh
xã hội rộng lớn hơn trong đó các cặp vợ chồng trẻ
đang sống. Đôi bạn và gia đình ngày nay bị tước đi
nhiều nhiệm vụ mà trước đây được đảm nhiệm từ bên
trong gia đình hay gia tộc như lao động – giáo dục – y
tế - thông tin – thời gian rảnh rỗi. Ngày nay những
yếu tố đó được đảm đương bởi xã hội dân sự.

Trong hoàn cảnh đó, đôi bạn ngày nay được đưa về
với cái cốt yếu nhất của mình, tức là nhiệm vụ hãy là
chính mình. Gia đình được mời gọi tìm ra cách thức
MỤC LỤC

hiện hữu riêng cho mình, như là đôi bạn và như là gia
đình, vì con cái của mình.Thế nhưng, với thực trạng
ngày nay các nền văn hóa bị phân mảnh đã dẫn đến
tình trạng mô hình gia đình duy nhất cũng bị tan vỡ
theo, nhường chỗ cho một thực tế là có nhiều kiểu gia
đình khác nhau phát sinh và phát triển theo các tiến
trình hình thành và chọn lựa giá trị khác nhau của
từng đôi bạn riêng lẻ. Họ thiếu một mẫu mực gia đình
để quy chuẩn.

Một khi những chức năng mà trước kia xem ra chiếm


ưu thế nay đã rơi rụng, thì giờ đây quan hệ liên vị và
sự bền vững của quan hệ ấy là đối tượng hàng đầu mà
các đôi bạn cần chú ý. Thế nhưng, đôi bạn cảm thấy
lẻ loi một mình vì họ phải tự nghĩ ra cách thức quan
hệ, đôi bạn lẻ loi một mình vì họ phải tự tạo lập nền
móng cho quan hệ của mình được bền vững, đôi bạn
lẻ loi một mình vì họ phải tự sáng tạo ra kế hoạch
sống tình yêu và tình chồng vợ. Đôi bạn lẻ loi một
mình và trong nỗi cô đơn này mối bận tâm tập trung
cho tương quan ấy cuối cùng có thể trở nên quá sức.
Vì họ mong đợi gặt hái từ chính quan hệ đó tất cả
những gì mà họ không thể có được từ đời sống xã hội
về các mặt nhu cầu như tình cảm, tương giao, bộc lộ
mình.
MỤC LỤC

Tuy nhiên, hoàn cảnh cô độc đó có thể trở thành một


cơ hội và là một thách thức đặc biệt cho cuộc sống
của họ, một thời kỳ của ân sủng đặc biệt để được sáng
tỏ thêm ý thức về thực tại nhân bản là chính đôi bạn
và về ý nghĩa sâu xa của đôi bạn trong lịch sử cứu độ
của dân Thiên Chúa.

3. Xung khắc là không thể tránh được trong lịch sử


của mọi đôi bạn 2

Quả thực đôi vợ chồng trẻ cảm thấy cô đơn, không


thể đương đầu nổi với những hoàn cảnh khó khăn,
những xung khắc, những căng thẳng lớn hay nhỏ.
Nhưng trong mọi cuộc hành trình hôn nhân hầu hết
đều không thể tránh khỏi những xung đột và căng
thẳng. Chúng ta cần phải ý thức điều ấy với một thái
độ bình thản.

Tình trạng thăng bằng ổn định là không bao giờ chắc


chắn mãi mãi trong lịch sử của mọi cặp vợ chồng,
đúng hơn đời hôn nhân là một thực tại liên tục đang
thành (becoming), bởi lẽ luôn có những biến đổi bên
trong lẫn bên ngoài phạm vi đôi vợ chồng làm cho
tình trạng ấy không thể yên ổn và phải thay đổi, họ
phải không ngừng tìm kiếm nhằm đạt tới được một
đỉnh cao mới sao cho từ đó họ thấy được những
MỤC LỤC

không gian mới và chân trời mới. Đời hôn nhân là


một cuộc lữ hành và một tiến trình, là chính cuộc
sống của đôi bạn, là một cuộc xuất hành liên tục đi ra
khỏi tình trạng cũ trước đó cũng như hiện giờ để mở
ngỏ cho mọi cơ hội mới đang hình thành trong quan
hệ với người khác và với những người khác. Đó là
một tiến trình liên tục khám phá sự khác biệt của
nhau đồng thời chấp nhận để tìm được một sự hài hòa
gia đình, một giá trị lớn lao hơn vô hạn
(differentiation-integration).

Không thể hình dung được một cuộc sống hôn nhân
mà lại không có khủng hoảng, xung đột, hay căng
thẳng. Đúng hơn, có khi chính sự thiếu vắng căng
thẳng, chính sự yên ắng không sức sống, chính sự hòa
bình không do xây dựng mà do chịu đựng là triệu
chứng đáng lo ngại của một cuộc hôn nhân thực tế
không được xây dựng hằng ngày bởi một dự phóng,
mà từng ngày trôi qua trong quán tính và im lặng.

Xung đột, căng thẳng và khủng hoảng do đấy là


không thể tránh khỏi, hay nói đúng hơn, là tất yếu.
Dẫu thế, chúng có thể trở nên cơ hội quí báu để tái
định hướng, lúc này hay lúc khác, cuộc hành trình của
đôi bạn, miễn là, khi chúng xuất hiện người ta không
nên chạy trốn hay né tránh nhưng cùng nhau đi xuyên
MỤC LỤC

qua bên trong, can đảm đối diện, để chuyển hóa từ


chỗ chối bỏ hay giữ thinh lặng về sự kiện đó sang ý
thức về những nguyên nhân đích thực của sự chia rẽ,
của những bất ổn ngấm ngầm, những bực dọc và
phiền muộn, để có thể tháo gỡ và vượt qua những khó
khăn đó.

Có những giai đoạn của đời sống vợ chồng khi những


xung đột xuất hiện rõ ràng hơn. Đời sống đôi bạn
thường trải qua vài chặng đường như sau, đó là, lúc
khởi đầu tạo lập đời sống hôn nhân gia đình, cử hành
lễ hôn phối và tách ly khỏi gia đình cha mẹ, lúc sinh
con cái, khi con đến tuổi vị thành niên, khi chúng
sống tách rời xa cha mẹ, khi đến tuổi về hưu, bị bệnh
tật, một trong hai người phối ngẫu qua đời. Những
giai đoạn ấy là những thời gian mà người ta thấy rõ
dễ xuất hiện nhất những bất hòa, những tình cảm
xung khắc, những động lực tâm lý làm phai nhạt tình
yêu, làm quan hệ vợ chồng bất ổn. Thực ra, hiểu theo
cách nào đó, đó là những giai đoạn tiến hóa, nếu sống
một cách tích cực và năng động, giúp đôi bạn thoát
khỏi sự kềm chế của một giai đoạn ấu trĩ của quan hệ
vợ chồng để đạt tới mức trưởng thành hơn.

Vạch ra những xung đột trong đời sống đôi bạn


không chỉ là một dấu chỉ của tình yêu, mà còn là một
MỤC LỤC

hành động ngay thật. Hơn nữa, xung đột và căng


thẳng cùng lắm không phải là triệu chứng của một
hoàn cảnh thỏa hiệp, nhưng rất thường đó là một sự
kiện thuộc sinh lý học có liên hệ tới sự tăng trưởng
của đôi bạn, chứ không nhất thiết cứ phải là sự kiện
bệnh lý dẫn đến chỗ khai tử đôi lứa.

Đời sống vợ chồng thực ra được xây dựng bởi một


chuỗi những giai đoạn thường đánh dấu bởi những
gãy vỡ, rách nát, khủng hoảng. Thực ra, cuộc sống
hôn nhân một khi đã thành một công thức cũ kỹ, với
những gặt hái ít nhiều đã mãn nguyện, cũng có thể
một ngày giông bão bất chợt nào đó rơi vào khủng
hoảng. Khi ấy có lẽ đôi bạn phải can đảm tái cấu trúc
lại một trật tự, một công thức mới, ở một mức độ chín
chắn hơn và toàn vẹn hơn.

Đôi vợ chồng lành mạnh, có sức sống và năng động,


là đôi vợ chồng có khả năng làm lộ hiện ra những
xung khắc và khủng hoảng ngầm, có khả năng xác
định bản chất của chúng, trải qua những khó khăn đó
và để mình được đổi mới. Ngược lại đôi vợ chồng sẽ
lâm vào tình thế nghiêm trọng khi sống khép kín, ù lì,
không có khả năng làm lộ hiện những xung khắc,
không có khả năng làm chủ chúng, không có khả
năng chấp nhận đối mặt với bối cảnh bên ngoài, nghĩa
MỤC LỤC

là không có khả năng đi qua và đi ra khỏi khủng


hoảng mà được đổi mới3.

Đi cho đến tận cùng có thể dẫn đến chỗ sáng sủa của
ban ngày cũng như bóng tối của đêm đen. Trong
trường hợp nào đi nữa điều quan trọng khi vượt qua
khủng hoảng là ý thức về những thời gian xung đột,
biết cách sống cũng như biết cách vượt qua những
xung đột ấy4.

Ban Mục vụ Gia đình TGP.TPHCM


MỤC LỤC

Bài 2. NHỮNG CƠN GIÔNG, BÃO TỐ


CHỰC CHỜ …
Gia đình là ngã tư đường nơi những căng thẳng ngày
nay của nơi công cộng và chốn riêng tư gặp gỡ nhau.
Vì thế những khó khăn mà các đôi bạn gặp phải liên
kết chặt chẽ với bối cảnh rộng lớn hơn như đại gia
đình, gia tộc, bạn hữu, xóm giềng, sở làm, hay xã hội
rộng lớn hơn. Nhưng ta sẽ không bàn đến những
tương tác đó ở đây, mà sẽ dừng lại nơi những xung
đột liên kết chặt chẽ với đôi bạn trong tư cách như là
đôi bạn, thực tại tách biệt. Nghĩa là chỉ xét đến những
xung đột liên hệ đến lãnh vực tâm lí, cảm xúc, tình
cảm, và tính dục, là những lãnh vực tế nhị hơn, phức
tạp hơn, và phụ thuộc lẫn nhau. Cũng là những khu
vực tập hợp lại những kinh nghiệm quá khứ, có để lại
dấu vết hằn sâu nơi tiềm thức lẫn ít nhiều có ý thức.

Ở nguồn gốc của những khủng hoảng vợ chồng


thường có nguyên nhân là người ta không có khả
năng nhìn nhận và đón nhận chính thực tế của riêng
mình, thực tế của người bạn đời, thực tế của cả cặp vợ
chồng.

1. Kẻ phải lòng, nghĩa là người đang yêu, thì có tưởng


tượng phong phú
MỤC LỤC

Nơi một đôi bạn mới lấy nhau thường người ta thấy
những bộc lộ của họ như muốn tan chảy hòa quyện
vào nhau. Dường như không có khoảng cách giữa
thực tại và mộng mơ. Một đàng người ta say đắm,
đàng khác người ta sống chỉ những gì tinh túy nhất.
Những người mới lấy nhau sống chủ yếu với trí tưởng
tượng của họ. Trí tưởng tượng ấy vốn là tổng hợp của
những hình ảnh và tâm tưởng, của tri giác và của
những liên tưởng nội tâm mà mỗi trong hai người đối
ngẫu (partners) mang đến theo mình. Sự tưởng tượng
của từng người trong thời gian gặp gỡ nhau là phần
còn lại của chuyện cuộc đời mà họ đã sống cho tới lúc
bấy giờ. Đôi bạn cần phải xem xét đến tâm tưởng của
nhau.

Thuở ban đầu lưu luyến ấy là một thời gian mạnh mẽ


gây cho cả hai người những bàng hoàng, kinh ngạc,
mê mẩn, quyến rũ. Đời sao như là mơ ấy, thật là lý
tưởng! Tự khép mình trong thế giới tâm tưởng của
tình yêu, hai người xem ra không thể tách rời nhau
được; có nguy cơ là mỗi người có thể phản chiếu
tưởng tượng của mình lên người kia. Đối tượng của
tình yêu thường đến bất ngờ và dường như lấp đầy
mọi mong chờ. Thế nhưng, khi phóng chiếu sự tưởng
tượng của mình lên tha nhân như thế có thể người ta
luôn luôn và chỉ yêu chính mình. Giống như là một
MỤC LỤC

bong bóng to đùng trong đó hai người nhìn nhau,


nghe nhau, sống với nhau, nhưng mọi sự còn lại thì ở
ngoài. Nhưng cái bong bóng ấy không thể giải quyết
mọi chiều kích và hơi thở của cuộc sống, và, khi
người ta bị yêu sách phải mở rộng cõi lòng cho những
yếu tố khác lạ (tha tính), hai người thấy mình hoài
nghi khi phải giải quyết chuyện thực tế cuộc sống:
Đối tượng yêu thương, “người yêu” đó, sao khác
nhiều với những gì mình đã tưởng1.

Tới đây cần phải sẵn sàng để sống điều mà các nhà
tâm lý gọi là sự than khóc thứ nhất cho cuộc hôn
nhân: một sự mất mát mà không phải lúc nào người ta
cũng sẵn sàng. Vả lại, đối với con người đối diện với
một chia ly, mất mát luôn luôn là một khó khăn. Tuy
nhiên, nhờ suy nghĩ và nhìn nhau ở bên trong người
ta có thể đi đến chỗ hiểu được rằng không phải là họ
mất người yêu còn đang sống đó, nhưng là mất cái
‘hình ảnh’ mà người ta đã tạo ra cho mình về người
yêu, hay cái lý tưởng về đôi lứa. Đó chỉ là một sự mất
đi những hình ảnh đã tưởng tượng! Nếu không có
bước chuyển căn bản này, người ta không thể tiếp tục
xây dựng chính thực tế đôi bạn và những xung đột ẩn
núp ở góc xó nào đó sẽ sẵn đó trườn ra.
MỤC LỤC

Thường thì những ảo tưởng đó được sống quá lâu như


là thực tại duy nhất về đôi bạn, chúng chiếm cứ mọi
không gian và lấp đầy mọi khoảng cách của tương
quan vợ chồng, tự đặt mình như một mục tiêu giả trá
của một cặp vợ chồng lý tưởng. Nhưng người ta
không được gọi để sống mối quan hệ của một đôi bạn
lý tưởng phi thực tế; cũng như không hề có những
khuôn mẫu, như là sản phẩm của nền văn hóa, để mà
bắt chước, và không hề có thứ tình yêu lý tưởng của
thời kỳ phải lòng kéo dài đến vô tận. Tình yêu không
thể được nuôi dưỡng chỉ bằng lý tưởng tưởng tượng,
nhưng để sống tình yêu cần phải nhập thể.

Vì vậy không hề có đôi bạn lý tưởng. Ngược lại, có


nhiều quan hệ vợ chồng rất khác biệt nhau, ít nhiều đã
thành sự, là thực tại vừa đẹp và giàu tiềm năng,
nhưng thực tế cũng có đôi nghèo nàn và hạn chế; đó
là những quan hệ của một người đàn ông và một
người đàn bà đồng hành với nhau để trở nên những
người được kêu gọi để trở thành đôi bạn duy nhất và
độc đáo.

2. Nhìn nhận người bạn đời rất khác biệt với ta là một
nỗi khó khăn
MỤC LỤC

Cuộc hành trình mạo hiểm nhưng cũng rất phong phú
và năng động của đôi bạn chỉ thực sự bắt đầu khi họ
biết nhìn nhận “sự khác biệt” của nhau hay còn gọi là
tha tính (otherness/l’altérité) trong quan hệ vợ chồng
“một xương một thịt”.

Ngày nay chúng ta thấy rất nhiều cặp vợ chồng đổ vỡ.


Rất có thể nguyên do của khủng hoảng sau cùng dẫn
hôn nhân của họ đến thất bại vì họ thiếu óc thực tế, có
lẽ họ đã không thực sự hiểu biết nhau, không biết con
người thực tế của nhau (gồm những vốn quí, sự
phong phú, và cả những giới hạn, khuyết điểm của
nhau). Có khi điều đó đưa đến tình trạng không hẳn là
đổ vỡ, nhưng họ sống như hai cái bóng cùng tồn tại
trong đau khổ, trong một thế thăng bằng chông chênh
luôn luôn rất khó giải quyết.

Nhìn nhận người kia khác biệt với tôi là một giai
đoạn khó khăn phải trải qua, nhưng rất cần thiết cho
việc xây dựng đời sống gia đình. Sẽ có những hậu quả
khá nghiêm trọng nếu tha nhân, tức người bạn đời,
không được nhìn nhận với thực tế của người ấy; nếu
hai người không nhìn nhận nhau, nếu họ không chấp
nhận mọi mặt tích cực cũng như tiêu cực của nhau.
Ta sẽ không nếm được cái ý nghĩa sâu xa của sự kiện
người này vừa quí giá vừa nghèo nàn trước mắt người
MỤC LỤC

kia; và như thế làm sao có thể biết tôn trọng nhau và
cùng có trách nhiệm cùng nhau thăng tiến bản thân
từng cá nhân và đôi lứa.

Nếu ai đó nhìn nhận chúng ta, yêu thương chúng ta,


đón nhận chúng ta đúng như thực tế chúng ta là như
thế đó, thì sẽ có điều nhiệm mầu xảy ra. Ơn cứu độ
bắt đầu. Đó chính là sự phong phú thực sự của đời
hôn nhân. Đó chính là lý do tại sao sống cô độc một
mình sẽ nên hết sức nghèo nàn. Đó là lý do tại sao
được chọn và được yêu lại là một đặc ân.

Có điểu chúng ta cần lưu ý, đó là tiến trình nhìn nhận


và đón nhận, cả cái tốt lẫn cái xấu, cái tích cực lẫn cái
tiêu cực, của nhau ấy rất khó thực hiện, nếu như trong
thâm sâu ta không nhìn nhận và đón nhận chính thực
tế riêng của cá nhân mình. Bởi nếu ta không nhìn
nhận chính mình với con người thực tế toàn thể của
mình, thì ta khó có thể làm như thế đối với người
khác. Đúng hơn ta có khuynh hướng phóng chiếu lên
trên người khác những mặt tiêu cực của mình, những
khuyết điểm của ta mà ta không nhìn nhận, những
hình ảnh làm cha làm mẹ thiếu chu đáo chẳng hạn, tất
cả những bóng ma của lịch sử nội tâm của mình.
Những cái đó sẽ tiếp tục cản trở chúng ta gặp gỡ toàn
thể nhân tính của người khác trong sự tự do; chúng có
MỤC LỤC

thể tạo ra những kiểu kết hợp hòa quyện nguy hiểm.
Ngược lại, nếu như những khía cạnh tiêu cực mà
được nhìn nhận và đón nhận như thực tế chúng là thế,
như là phần bên kia của cái tôi chưa được nhận biết
hay chưa được tháp nhập, cả chúng nữa cũng sẽ có
thể trở thành phương thế cho sự thăng tiến, tăng
trưởng, hòa nhập với thế giới bên trong chúng ta, với
người phối ngẫu, với thế giới bên ngoài. Điều cấp
bách hơn, và trước cả sự nhìn nhận và đón nhận tha
tính, là nhìn nhận và đón nhận chính chủ thể tính của
mình.

“Hãy yêu thương chính mình” là một mệnh lệnh cũng


mạnh mẽ như “hãy yêu thương người thân cận của
mình”. Đúng hơn, chính tình yêu đối với bản thân là
nền tảng cho tình yêu đối với tha nhân.

Như thế, điều quan trọng là cần phải ý thức về chính


căn tính của mình, về chính lịch sử đời mình trước
khi có sự gặp gỡ tha nhân, trước khi đích thân tiến
bước đến chỗ chọn lựa tha nhân: cái gì đã khuấy động
tôi trong chọn lựa này vậy? có lẽ chăng một nhu cầu
tình yêu không được hay không thể thỏa mãn? Tiến
trình trưởng thành nhân cách của tôi có trải qua
những bước tiến tăng trưởng êm ả hay không? Có lẽ
tôi đã phóng chiếu lên con người của tha nhân những
MỤC LỤC

thực tại không thành đạt của tôi, những khát khao
không thỏa mãn, những hoài bão không thực hiện
được của tôi chăng? Tôi có xu hướng phụ thuộc vào
người kia, hòa tan mình với người kia không? Tôi có
biết sống khoảng không gian và thời gian riêng của
tôi một mình không?

Nếu như chúng ta vẫn còn chưa đạt tới trưởng thành
nhân cách đủ mức, và một khi ta ý thức về điều ấy, ta
có thể sẽ đạt được nhờ sự giúp đỡ quí giá của bạn
mình, vốn là một nguồn suối mới phải tận dụng. Về
điều này, không hề có những con đường tắt dễ dãi,
không thể tránh né đi con đường ấy nếu người ta
muốn có một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc.

Đôi khi chính vì một trong hai người, hoặc cả hai


người, không nhìn nhận mình thiếu trưởng thành, mà
khiến cho cuộc hôn nhân thất bại.

3. Đời sống tính dục không được thỏa mãn

Vấn đề tính dục luôn luôn là kết quả của một lịch sử.
Và trong lãnh vực rộng lớn này người ta cần phải tìm
chìa khóa để đọc nhằm đối diện với mọi hoàn cảnh
hôn nhân khó khăn do hiểu lầm hoặc không thỏa mãn
trong lãnh vực này.
MỤC LỤC

Mỗi cá nhân có nguồn gốc không bởi từ một cá nhân


khác, mà bởi từ một đôi (vợ chồng), và về mặt tâm lý
đứa trẻ hấp thu không chỉ nguyên mẫu của người cha
và của người mẹ, mà còn hấp thu cả cái nguyên mẫu
của quan hệ liên vị, giữa một người đàn ông và một
người đàn bà như là một đôi vợ chồng. Do đó, chúng
ta hiểu tại sao lãnh vực tính dục lại hết sức phức tạp
và tại sao lối sống tính dục của một người trưởng
thành bộc lộ những gì mà người ấy đã sống và hấp
thụ được từ cha mẹ trong tuổi ấu thơ và suốt thời gian
niên thiếu và tuổi trẻ. Bởi thế, có ai đó đã nói rằng
“cách thức để bảo đảm tốt nhất cho một cuộc hôn
nhân hạnh phúc và một đời sống gia đình hạnh phúc
là làm sao để được sinh ra từ một cuộc hôn nhân hạnh
phúc”. Hẳn là nếu ta lớn lên trong tình yêu thương
của cha mẹ đã sống một cuộc hôn nhân hạnh phúc,
nếu ta đã hấp thụ được một giáo dục về giới tính một
cách hài hòa, thì ta sẽ dễ dàng đi đến chỗ chấp nhận
căn tính về tính dục của mình và gặp gỡ người bạn
khác giới kia hơn rất nhiều. Thế nhưng ta đâu có thể
tác động lên trên một quãng đường đã đi qua. Nhưng
hiểu được sự quan trọng nền tảng của một đời sống
tính dục hài hòa, lành mạnh, vui tươi cho hạnh phúc
lứa đôi đã là tốt lắm rồi; bởi lẽ như thế người ta sẽ
MỤC LỤC

chú ý, lo lắng, tích cực tìm cách phát triển hơn nữa sự
đồng điệu, đồng cảm về tính dục.

Trước hết, có những thực hành tính dục như một thứ
quyền lực áp đặt trên người khác hoặc chỉ như là một
kiểu hành lạc. Những kiểu đó không diễn tả tình yêu
cũng không làm cho tình yêu ra hoa. Chúng còn xa lạ
lắm với tình yêu đích thực.

Ngược lại, có một sai lầm người ta hay vấp phải xuất
phát từ một lối giáo dục có xu hướng đàn áp tính dục
trên bình diện luân lý cũng như tôn giáo, và là nguồn
cho bao nhiêu đau khổ của con người. Sai lầm đó
chính là ở chỗ người ta không coi trọng sự đồng cảm
của đôi bạn với nhau về tính dục. Vẫn còn thấy ở đây
đó quan niệm nghĩa vụ vợ chồng, một quan niệm cổ
xưa hé mở cho thấy một tình cảnh thụ động buồn tẻ.
Người ta vẫn còn có thái độ phản vệ, với xu hướng
chế ngự và chối bỏ, hoặc duy lý hóa và đè nén, khả
năng tính dục của con người. Họ che dấu nỗi sợ hãi
phải chấp nhận mình như là một con người có giới
tính và sống tính dục của ta cách viên mãn trong cuộc
gặp gỡ với người bạn đời. Thật ra, ý nghĩa của giao
ước hôn phối giữa một người nam và một người nữ,
dấu chỉ của giao ước yêu thương giữa con người với
Thiên Chúa, được bộc lộ đầy đủ hơn, lời nói yêu
MỤC LỤC

thương mang một ý nghĩa đầy đủ hơn, khi chiều kích


tính dục trong quan hệ vợ chồng được coi trọng như
là tiền đề cho một sự phát triển bình thường mối quan
hệ theo nghĩa yêu đương” 2.

Một đôi bạn mà không sống sự hòa điệu vui tươi


đồng cảm về tính dục, sẽ thấm thía nỗi buồn của một
tình yêu “bị gặm mòn” trong thinh lặng, sẽ kinh
nghiệm sự thịnh nộ của những nhục nhằn bị đè nén,
nỗi cay đắng của bao cảm xúc đã không thể bộc lộ,
tình héo khô bởi nhiều cảm giác không có cơ hội để
sống. Sự khủng hoảng không thể không phản âm trên
toàn bộ cuộc sống vợ chồng, bởi lẽ một quan hệ tính
dục không mặn nồng và bị ức chế cách này cách khác
sẽ dễ trở thành một thói quen ngăn trở xây đắp một
tình thân mật vợ chồng về mặt tâm lý, khả dĩ đem lại
một sự thỏa mãn và thành tựu nào đó cho cả hai vợ
chồng.

“Sex dĩ nhiên không phải là tất cả mọi sự, nhưng nó


là chất xúc tác cho nhiều chuyện khác. Và sở dĩ nhiều
chuyện khác có chạy tốt được như thế là nhờ sex hoạt
động tốt, cho nên tính dục cũng là hòn đá thử vàng để
đo chất lượng toàn thể của một mối quan hệ. Khi tính
dục hoat động tốt, con gnười sẽ khác đi, bầu khí tình
MỤC LỤC

cảm người ta cảm thấy trong một mái nhà bấy giờ là
bầu khí tỏa sáng, khuây khỏa và vui tươi.” 3

Đó có phải là một nghịch lý chăng? Hay một sự khiêu


khích? Có lẽ không hẳn như vậy. Bởi cũng có nhận
xét sau đây cho rằng: trong nhiều cặp hôn nhân chính
sự đồng điệu với nhau về tính dục có thể đã khỏa lấp
nhiều hoàn cảnh khác không tích cực và có thể thúc
đẩy hôn nhân tiếp tục đi tới; đang khi rất thường
xuyên ở nơi nào mà thiếu sự hài hòa thân mật vợ
chồng như thế, không có một sự đồng cảm vượt trên
lý trí, quan hệ vợ chồng khó có thể giữ được bền
vững.4

Ban Mục vụ Gia đình TGP.TPHCM


MỤC LỤC

BÀI 3. NHỮNG CƠN GIÔNG, BÃO TỐ


CHỰC CHỜ … (2)

4. Không thể tách ly khỏi bóng dáng của cha mẹ

Mọi đôi bạn nếu muốn sống thực sự cuộc sống lứa
đôi của mình phải luôn hướng tới sự tách ly khỏi hình
bóng của cha mẹ. Người ta thường quá xem nhẹ sự
tách ly khỏi cha mẹ về thể lý cũng như về tâm lý. Đó
có thể trở thành nguyên do (có khi kín đáo và không
được ý thức) cho những khủng hoảng sâu xa trên
hành trình hôn nhân của đôi vợ chồng trẻ. Người ta
cảm thấy bất an nghĩ rằng cuộc sống lứa đôi của mình
chưa bao giờ thật sự bắt đầu và càng không cảm thấy
nó triển nở một cách riêng tư và độc lập đối với bóng
dáng cha mẹ.

“Người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mình và mẹ mình” đây


hẳn không chỉ là một lời mời ra đi, đi ra khỏi nhà cha
mẹ để tạo một mái nhà khác. Lời mời gọi kinh thánh
này còn vang vọng những ý nghĩa khác xa hơn, mời
gọi mỗi người đàn ông và người đàn bà, tự cõi thâm
sâu nhất, tách ly hoàn toàn ra khỏi các đấng đã sinh
thành mình, để có thể gặp gỡ tha nhân với ý thức
hoàn toàn về tự ngã của mình.
MỤC LỤC

Hôn nhân thường được định nghĩa như là một cuộc


phiêu lưu khởi đầu từ lúc nói lời ưng thuận cách công
khai, một cuộc hành trình sẽ phải dẫn đến một sự tách
ly trong nội tâm khỏi hình bóng của cha của mẹ. Điều
chính yếu không phải là tách ly để mà quên, nhưng để
có khả năng biến đổi những khuôn mặt đó trở nên
mới trong nội tâm của mình và việc nội tâm hóa đó
phải nhiều lắm để làm phát sinh một tự ngã mới từ
những hình bóng đó. Những hình ảnh của cha của mẹ
ấy sẽ được sống một cách mới mẻ và cách khác với
trước.

“Đôi khi người ta nghĩ là đã cưới một người đàn ông


của đời mình nhưng người ta lại tái tạo cho anh ta
những tiếp xúc vỗ về của người mẹ. Hay ngược lại,
người ta nghĩ là đã cưới một người phụ nữ của đời
mình nhưng lại tái tạo cho cô nàng một lối giao tiếp
bảo bọc của người cha.”

Có khi khuôn mẫu của cha mẹ, và một cách đặc biệt
khuôn mẫu của người mà đã để lại trên ta một dấu ấn
sâu đậm nhất trong suốt thời kỳ ta lớn dậy, tồn tại nơi
một trong hai người bạn đời sâu đến nỗi được tái tạo
lại trong thực tại gia đình mới với cũng một cung
cách cư xử hằng ngày y như thế. Và còn hơn thế nữa,
khuôn mẫu ấy xuất hiện khi người ta giáo dục con cái
MỤC LỤC

qua sự tái hiện lại cùng những khuôn văn hóa và qui
tắc giáo dục xưa. Từ đó có thể nảy sinh xung đột nơi
đôi bạn, bởi lẽ người ta cảm thấy căn tính mới của đôi
bạn không hề triển nở, mà chỉ đơn thuần là tái hiện
trở lại những gì trước đây một trong hai đôi bạn đã
tham dự. Đó chỉ là một cái tiền sử không được xét lại,
không được đổi mới, không sinh ra từ thực tại mới
của vợ chồng, một tiền sử mà người bạn đời kia như
kẻ ngoại cuộc.

Độc lập đối với cha mẹ về mặt tâm lý quả thật không
phải dễ dàng còn bởi một lý do nữa. Khi bắt đầu một
cuộc hành trình theo hướng tách ly như thế đó, người
ta thường cảm thấy ít nhiều mặc cảm tội lỗi và phản
bội như thể mình đã “bỏ rơi” đấng bậc sinh thành.
Đàng khác, “chỉ người nào có can đảm và sức mạnh
tách ly dần khỏi những người khác, kể cả cha mẹ
mình, để thể hiện chính mình cách đầy đủ, mới có thể
tìm thấy lại được người khác và chính mình trong
khuôn khổ của một tình yêu dâng hiến chứ không
phải là của một thứ vị kỷ được che đậy”1. Theo nghĩa
đó, lời mời gọi của Thánh kinh thật ý nghĩa và cấp
bách: “Con người sẽ lìa bỏ cha mẹ mình và cả hai sẽ
nên một xác thịt” (St 2,24).

5. Những bất trung


MỤC LỤC

Sự bất trung, là điều vốn thường xuyên bào mòn quan


hệ vợ chồng. Trước hết, là sự bất trung tinh vi và
hằng ngày được thực hiện gần như là không cố ý, và
xem ra không góp phần gì quan trọng cho hành vi
phản bội, nhưng ngược lại, chính vì nhỏ nhặt và tinh
tế mà nó dần đục khoét thành những hố sâu ngăn
cách.

Một hình thức đầu tiên của sự bất trung thường nhật
là sự bất trung của những kẻ không bước vào tương
giao. Lời nói có thể là dấu chỉ của sự trung thành, mà
cũng có thể là của sự bất trung nếu chúng không thực
sự ăn khớp với cảm giác và tình cảm của chúng ta.
Rồi thinh lặng cũng thế, đó có thể chất chứa sự trung
thành hay bất trung. Một thái độ thinh lặng không nói
nhưng kèm theo những cử chỉ yêu thương hay tận tụy
thường nhật với sự chia sẻ đầy đủ những tình cảm là
một sự thinh lặng trung thành. Một sự thinh lặng do
không biết bộc lộ bằng lời những tình cảm như giận
dữ, thù ghét, phục tùng tự ý hay miễn cưỡng, muốn
gây hấn mà không bộc phát được, không chia sẻ qua
những cử chỉ yêu thương hay có trách nhiệm, là một
sự thinh lặng chất chứa bất trung cản trở thiết lập mọi
tương giao.
MỤC LỤC

Do đó sự bất trung có thể nảy sinh do thiếu tương


giao sâu đậm trong cuộc sống hằng ngày, cũng như
có thể nảy sinh do thường xuyên thiếu sự chia sẻ và
nhất là thiếu sự dịu dàng nhân hậu và đồng cảm. Sự
bất trung cũng nảy sinh khi mối quan hệ bị tàn phá do
tràn ngập những khó khăn hay ngược lại do sự đều
đặn buồn tẻ của cuộc sống hằng ngày. Nó là một tấm
màn che phủ làm mờ nhòa mọi sự và làm mọi sắc
màu nhạt phai, đó là sự đều đặn nhàm chán của cái
thường nhật, là tuyến đường thẳng băng không một
chút gợn gờ nhấp nhô đe dọa, nếu đôi bạn không tìm
thấy nơi mình khả năng tái sinh, đổi mới cung cách
quan hệ. Tình trạng đó được nhận ra khi thấy sự mệt
mỏi chán chường chiếm ngự không gian sống của đôi
bạn. Càng ngày người này càng mất khả năng nhìn
người kia với một cặp mắt mới; những lời nói yêu
thương dành cho nhau trở nên thưa dần.

Đối tượng của tình yêu thương có thể được thay thế
dễ dàng bởi những thứ khác như một sự né tránh, nơi
trốn tránh. Chẳng hạn như công việc, hay thú tiêu
khiển giải trí cho tới lúc ấy chỉ như là trò giải trí cho
qua thời gian rỗi rảnh, bạn bè, nhà cửa, một góc vườn
kín đáo nơi dành mọi bận tâm, chăm sóc. Người ta
không còn nghĩ kẻ sống bên cạnh mình luôn là một
con người mới cần phải khám phá, hiểu biết hơn về
MỤC LỤC

những khát vọng, hy vọng của người ấy, cũng như


những thất bại, suy nghĩ thầm kín nhất, những cảm
giác sâu xa nhất của người ấy. Có thể có cám dỗ về
một thứ bất trung khác: một người đàn ông khác hay
một người phụ nữ khác là một cái gì mới mẻ, khả dĩ
làm tươi mới lại những lời nói yêu thương đã đi vào
quên lãng, khả dĩ làm sống trở lại những cảm xúc,
những tình cảm xem ra như đã mất.

Rồi còn có một thứ bất trung cuối cùng, thường ít


được nhận thấy, đó là: chạy theo một lý tưởng đời đôi
bạn tưởng tượng viển vông, không thực tế. Lý tưởng
đó có thể là về đối tượng phối ngẫu mà ta muốn sống
với, do trí tưởng tượng dựng lên một cách thiếu thực
tế đến độ kẻ sống bên cạnh ta không thể đáp ứng và
chịu đựng nổi, cảm thấy mình không xứng hợp và dần
dần chối từ làm bạn đồng hành và nhường chỗ cho cái
‘đài tưởng niệm’ không tưởng đó. Lý tưởng cũng có
thể là về chính bản thân ta: tham vọng về mình quá
cao và quá xa vời so với thực tế của chính bản thân,
so với ước muốn của người bạn đời kia, vốn chỉ mong
có một người bạn đơn sơ, cụ thể và có khả năng chia
sẻ một cuộc sống thực tế.

Cũng có bất trung trong mối quan hệ vợ chồng ở mãi


trong tình trạng hòa quyện tan hòa vào nhau. Sự tan
MỤC LỤC

hòa ấy trộn lẫn và tiêu diệt các căn tính hoàn toàn
khác lạ với quan hệ tình yêu đích thực. Tình trạng này
dầu sao đi nữa cũng không thể coi là một sự trung
thành thực sự được, vì đó là một sự trung thành đối
với một tình yêu không tưởng, chưa hề là tình yêu
đích thực vốn được xây dựng trên những nền tảng
khác. Bởi đó là sự trung thành, xét cho kỹ, của hai kẻ
không có khả năng chấp nhận cô đơn, không có khả
năng để cho người khác được cô đơn; và như thế là
của hai con người chưa có tự do thật.

Thật là một hiểu lầm đáng buồn nếu ta xem trung


thành được diễn tả như một khát vọng chiếm hữu,
một quyến luyến bệnh hoạn, không để không gian cho
người kia diễn tả mình, hoặc như một thái độ bảo bọc
muốn lo toan mọi sự, tiên liệu mọi sự, chu cấp mọi
sự, khiến người kia không còn gì để mà khát khao,
chọn lựa, không còn gì có thể sai lầm! Một tình yêu
mà nhân danh một sự trung thành ngột ngạt như thế
thực ra là một sự bất trung sâu xa đối với dự phóng
nền tảng của mọi hôn nhân, một cuộc hôn nhân nhìn
thấy trên hành trình yêu thương tự do và đem lại giải
thoát một cơ hội cho mọi tiềm năng và phong phú cá
nhân được triển nở.
MỤC LỤC

Cũng một cách y như vậy sự bất trung ẩn mình dưới


mọi hình thức lệ thuộc. Sự lệ thuộc, có thể là dưới
những hình thức cung ứng quá dư thừa những tiện
nghi dù là vì yêu, sẽ dễ dàng sinh ra nhiều sự bất
trung nho nhỏ. Những bất trung tạo nên bởi những
khát vọng không thực hiện, bởi những mơ mộng hoài
vọng không được chia sẻ, bởi những hành động thực
hiện theo hướng nghĩa vụ chứ không do một chọn lựa
yêu thương, bởi những lời nói trên môi cười mà lòng
dửng dưng, bởi những mong đợi ở nhau không được
bộc lộ và đáp ứng, không được nhận biết, thông cảm,
đón nhận.

6. Khi không có tự do

Một bất trung nặng nề là một bất trung không đi tìm


chính sự tự do của bản thân mình và cũng không giúp
người bạn đời kia được tự do. Tự do là một gút mắt
quan trọng và khó khăn nhất trong mọi quan hệ đích
thực, nhất là quan hệ hôn nhân.

Một cuộc hôn nhân trung tín là một hôn nhân có sức
giải phóng, đem lại sự giải thoát, tự do đích thật cho
con người. Một người kết hôn mà không lo liệu giải
phóng mình khỏi những áp lực, khống chế bên ngoài
lên trên chính mình, và đồng thời không giúp cho
MỤC LỤC

người bạn của mình cũng được giải phóng như thế,
thì không trung tín với giao ước, với bí tích. Bởi lẽ
chỉ có giao ước và bí tích thật sự và có sức sống khi
hai vợ chồng trao ban cho nhau khoảng không gian để
thực hiện các ân huệ mà Chúa Cha đã trao ban cho
mỗi người con của Ngài, cách trọn vẹn. Thế nên
không có mâu thuẫn giữa trung thành và tự do. Đúng
hơn, trung thành là trung thành trong tự do; tự do thật
là tự do để yêu thương cách trung thành.

Xác định đâu là những khía cạnh không có tự do


trong quan hệ, đâu là những lý do để cuộc hành trình
hướng tới tự do đích thực trở nên bấp bênh và bế tắc,
không phải là việc dễ dàng. Tình trạng nội tâm giới
hạn thực sự sự tự do đôi khi rất khó xác định, và để
giải thoát thì càng khó hơn. Tình trạng ấy có thể là cá
nhân, gắn liền với lịch sử đã qua của mỗi người, hoặc
có thể xuất phát từ cách sống và xây dựng đời đôi
bạn.

Sự tự do mà ta đang nói tới không phải là sự tự do


làm theo dục vọng và ước muốn riêng của mình, cho
bằng là sự tự do của tư tưởng và hành động. Hành
động của mỗi người thường là kết quả qui định bởi
những hạn chế nhỏ hay lớn của cuộc sống hằng ngày
ngăn cản người ta thực hiện điều người ta khát mong.
MỤC LỤC

Nhưng nếu trí óc và con tim biết di chuyển tự do


trong không gian của một ước vọng và một dự phóng,
là điều vốn được chia sẻ bởi người bạn đời kia, thì
người ta sẽ không có cảm giác bị áp chế, thất vọng,
thù ghét ngấm ngầm chực chờ bộc phát bạo lực.
Những tâm trạng tiêu cực đó gây ra nhiều thiệt hại
cho đời sống hôn nhân và là nguyên nhân cho khủng
hoảng sâu sắc, nhất là khi chúng bị dồn nén với cảm
giác tâm lý bị ức chế không bộc lộ được cách tự do.

Đàng khác, chính những gì người ta nói, bàn về tình


yêu vẫn còn hàm hồ. Bởi lẽ, người ta thường nhân
danh chính tình yêu sinh chuyện áp chế, làm bầu khí
ngột ngạt, với những qui định một chiều. Xác định
những điều đó và thoát ra khỏi chúng không phải dễ
dàng. Bởi lẽ những khía cạnh hoà tan vào nhau của ái
tình thuở đầu hoạt động mạnh mẽ và len lỏi sâu xa
đến độ có khi sau nhiều năm hôn phối hai người vẫn
không thể thoát ra khỏi sự quá lệ thuộc nhau. Người
ta cứ luôn cần phụ thuộc vào người kia hoặc cần
người kia phụ thuộc mình. Thế nhưng sự phụ thuộc
đến độ nô lệ không phải là dấu chỉ của tình yêu đích
thật vì trong sự phụ thuộc đó không có tự do chọn
lựa, không có nhiệt tình tự nguyện dấn thân, không có
sự dâng hiến của ân ban. Đúng hơn, khi không có khả
năng chọn lựa nào khác, người ta không thể bộc lộ
MỤC LỤC

chính mình, sự lệ thuộc chỉ khiến người ta cam chịu


không sống đời mình một cách viên mãn được.

Nhiều người bắt đầu cuộc sống hôn nhân với ý nghĩ
là, vì tình yêu mà lấy nhau người ta cần khước từ sự
tự do của mình. Bổn phận, trách nhiệm có xu hướng
khiến người ta bị ngột ngạt và thay thế tình yêu.
Ngược lại, sự tự do nội tâm của mỗi người đối ngẫu
là một bảo đảm chính yếu cho sự bền vững của quan
hệ vợ chồng. Hôn nhân không phải là một sợi dây
ràng buộc thắt chặt, nhưng là một sự hợp nhất tự
nguyện và tự do qua từng ngày.

Hẳn là tự do làm ta lo sợ, nhất là khi phải bỏ đi những


khung suy nghĩ cũ kĩ mà từ đó người ta xây dựng
cuộc đời và quan hệ vợ chồng riêng mình. Đó là
những cớ lý thuận tiện thường được dùng để chống
đỡ những bất lực và những sợ hãi của ta. Sợ phải
phiêu lưu để tìm tòi khám phá những điều mới mẻ, sợ
mình không có khả năng chấp nhận những cách thức
sống mới với chính bản thân, với người bạn đời, với
những người khác. Thế nhưng, chỉ có con đường giải
phóng được người bạn đời mới có thể sống hiệp
thông thật sự.
MỤC LỤC

Tự do chắc chắn là có mạo hiểm và đó chính là điều


đôi khi người ta sợ phải chấp nhận. Nhưng sự mạo
hiểm của tự do của ta và của người bạn đời mới là
trọng tâm. Không có tự do cũng sẽ không có đạo lý vì
không có chọn lựa và cũng không thể có được tình
yêu. Tự do ở ngay trung tâm của cuộc sống của chúng
ta, một cuộc sống Thiên Chúa muốn phải được sống
trong tự do và đã trả bằng cái giá của thập tự.

Ban Mục vụ Gia đình TGP.TPHCM


MỤC LỤC

Bài 4. PHẬN HOÀNG VƯƠNG GIỮA CÕI


TỤC

Linh đạo là để thức tỉnh con người. Từ đó tôi tự hỏi


làm sao các gia đình thức tỉnh về ơn gọi cao cả đích
thực của mình. Làm thế nào để các gia đình nhận ra
ánh sáng nơi chính mình, họ không hèn kém như họ
tưởng. Họ thật sự là đại bàng của trời cao mà cứ ngỡ
và sống như phận chú gà trong góc vườn nhà, như câu
chuyện “chú đại bàng” của cha Anthony de Mello sau
đây:

Có người nọ nhặt được quả trứng đại bàng, đem bỏ


vào ổ gà đang ấp trong chuồng. Chú đại bàng con nở
ra và lớn lên cùng lứa với đàn gà con.

Cứ thế suốt đời đại bàng con chỉ làm những việc mà
lũ gà con vẫn làm, và cứ tưởng mình là một gà con.
Nó cũng bới đất tìm sâu bọ, cũng kêu cục tác như các
ả gà mái và cũng quen đập cánh bay lên cao chừng
hơn nửa thước. Thời gian thấm thoát trôi, đại bàng ta
rồi cũng già. Bữa kia, nó trông thấy một con chim
tuyệt đẹp bay phía trên nó trong bầu trời lồng lộng
thênh thang. Với dáng vẻ uy nghi dũng mãnh, cánh
chim ấy nhẹ nhàng băng giữa cuồng phong, chỉ lâu
MỤC LỤC

lâu mới khẽ vỗ nhịp đôi cánh vàng mạnh mẽ của


mình.

Đại bàng ta nhìn lên kinh hãi. Nó hỏi “cái gì vậy?”.


Một bạn gà của nó trả lời: “Đó là đại bàng – vua của
các loài chim. Đại bàng thuộc về trời cao, còn bọn
mình thuộc về mặt đất. Bọn mình chỉ là loài gà”.

Cứ vậy, đại bàng ta sống và chết như một chú gà vì


nó vẫn đinh ninh mình chỉ là gà.

Gia đình phản chiếu chính tình yêu Ba Ngôi Thiên


Chúa. Cách riêng, các gia đình Kitô giáo là bí tích của
Tình yêu vĩnh cửu ấy.

“Yếu tính và nhiệm vụ của gia đình xét cho cùng


được xác định bởi tình yêu. Bởi thế, gia đình đón
nhận sứ mạng bảo vệ, mạc khải và thông truyền tình
yêu, là tia sáng phản chiếu sống động và thực tế cũng
như tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa đối với loài
người và tình yêu của Chúa Kitô đối với Giáo hội
Hiền thê của Người” (FC 17).

1. Gia đình là hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi


MỤC LỤC

Thật vậy, chúng ta hãy nghe Thiên Chúa nói khi Ngài
sắp sáng tạo con người: “Chúng ta hãy làm ra con
người theo hình ảnh, giống như chúng ta.” (St 1,26).
Và “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh
mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh
Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam
có nữ” (St 1,27). Thiên Chúa không phản chiếu chính
mình nơi con người như một cá vị nhưng như một
cộng đoàn. Chuyện con người là hình ảnh, giống
Thiên Chúa không hệ tại ở bản thể cho bằng là nơi
việc làm: Thiên Chúa sáng tạo (creation) sự sống, còn
con người được sáng tạo nên có khả năng sáng tạo sự
sống mới theo nghĩa là sinh sản (pro-creation) một
con người mới, tức là “đồng sáng tạo” với Thiên
Chúa . Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh
Ngài trong viễn tượng một Giao ước mới. Cấu trúc
giao ước ấy đã được ghi sẵn nơi tính chất bổ túc cho
nhau giữa người đàn ông và người đàn bà. Sự kết hợp
vợ chồng giống như và tương ứng với tặng phẩm của
Tạo Hóa. Khi bà Evà sinh đứa con đầu lòng, bà đã
thốt lên: “Tôi đã có được một con người bởi Đức
Chúa” (St 4,1). Trong tặng phẩm sự sống con người
mới đó có bàn tay can thiệp sáng tạo của Thiên
Chúa ! Đỉnh cao của Giao ước ấy chính là Đức Kitô,
Con Thiên Chúa làm người, Vị Hôn Phu của Hội
Thánh, Người là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình”
MỤC LỤC

(Cl 1,15). Sự kết hợp nên một xương một thịt của
người đàn ông và người đàn bà là hình ảnh tiên báo
có tính tiên tri của một mầu nhiệm (bí tích) lớn lao.
Đó là sự kết hợp của Đức Kitô và Hội Thánh. Đối với
đôi bạn Kitô hữu, sự kết hợp yêu thương của họ
không chỉ là hình ảnh, nhưng còn là chính “hiện thực”
của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi giữa trần gian. Hôn
phối của họ là bí tích, nghĩa là một dấu chỉ hữu hiệu
nhìn thấy, nghe thấy, chạm tới được!

Tình yêu vợ chồng và tình yêu gia đình không chỉ là


một hình ảnh của tình yêu của Đức Kitô và của Hội
Thánh, nhưng là chính thực tại sinh động của tình yêu
ấy, một thực tại mang tính bí tích. “Đôi vợ chồng
thuộc về nhau, đó là một hình ảnh thực (vì là dấu chỉ
bí tích) của mối quan hệ của Đức Kitô với Hội Thánh
của Người” (FC 13). Điều đó có nghĩa là tình yêu vợ
chồng và tình mẫu/phụ tử của đôi vợ chồng hàm ẩn
trong đó một thực tại vượt xa chính bản thân họ vô
hạn, đó là “dấu chỉ hữu hình của chính tình yêu Thiên
Chúa” (FC 14).

Với bí tích hôn phối, đôi vợ chồng nhận ra ân sủng


của tình yêu của họ, nhận ra Đấng là Tác Giả, là Hôn
Phu của tình yêu của họ, như là cứu cánh siêu việt của
tình yêu ấy. Họ khám phá ra mình ở trong một kế
MỤC LỤC

hoạch thần linh không chỉ liên hệ đến tương lai của
họ nhưng còn liên hệ đến tương lai của nhân loại và
cả tương lai của Thiên Chúa. Việc đôi vợ chồng hiến
thân hoàn toàn cho nhau hàm ẩn trong đó một sự mở
ra với một kẻ thứ ba, là đứa con, nhưng cũng hàm ẩn
cách sâu xa hơn sự mở ngỏ ra trước một ngôi vị thứ
ba thần linh, là Chúa Thánh Thần, được hiến ban cho
đôi bạn như hoa trái tình yêu họ dành cho nhau.
Thánh Thần Thiên Chúa là chính sự phong nhiêu của
Tình Yêu nội tại Ba Ngôi đã thành một ngôi vị, chính
Ngài cũng hoàn tất sự hợp nhất của đôi vợ chồng
bằng một ân ban, là một con người và là sự nối kết họ
lại với nhau. Thế nên, có một sự phong nhiêu thiêng
liêng của hôn nhân Kitô giáo, vốn luôn đi kèm với
tình yêu hôn nhân đích thực, là khả năng cụ thể sáng
tạo một con người mới. Sự phong nhiêu thiêng liêng
này làm chứng Ba Ngôi hiện diện trong đền thờ gia
đình và nhập thể trong lịch sử nhân loại qua Giáo hội
tại gia.

Một khi đã trở thành “icôn” (biểu tượng bí tích)


trong trật tự “tạo thành mới” nhờ công trình cứu độ
của Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần,
gia đình muốn nói rằng sự hiệp thông tình yêu của đôi
bạn Kitô hữu là một mạc khải và hiện thực sống động
MỤC LỤC

của sự hiệp thông vĩnh cửu của Chúa Cha và Chúa


Con trong Chúa Thánh Thần.

Tham dự vào sự hiệp thông Ba Ngôi là nền tảng cuối


cùng của gia đình xét như một thực tại có tính Hội
thánh.

Thế nhưng, trên bình diện hiện sinh, “Hội thánh tại
gia”, cũng đồng thời gồm những con người mỏng
giòn và tội lỗi, sẽ không thể thể hiện mình như là một
bí tích của Tình yêu tinh tuyền nếu không siêng năng
tham dự các bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, Bí
tích tuyệt đỉnh, và Bí tích Hòa Giải.

2. Tội lỗi nghịch cùng bí tich hôn nhân

Tội lỗi là gì? Tội là từ chối Thiên Chúa Yahvê không


chấp nhận Ngài là Chúa của Giao ước. Hình thức rõ
nhất của tội lỗi là thờ ngẫu thần, giới răn cấm đầu tiên
của Thập Giới, mà các tiên tri thường xuyên trách
mắng dân và đôi khi được coi như là nguồn gốc của
tất cả mọi tội (Xh 20,3; Am 2,4 tt; Kn 14,22-31; Rm
1,18.32). Thánh Kinh, khi đồng hóa lòng ham muốn
(concupiscentia) với ngẫu tượng, cho thấy ở chiều sâu
đó chính là tội thiếu “đức tin” làm hư hỏng mối quan
MỤC LỤC

hệ của con người với Thiên Chúa, không trung thành


với Giao ước.

Tội lỗi hiển lộ trước hết như một sự thiếu vắng “lòng
kính sợ Chúa”, xúc phạm đến tình yêu của Ngài, như
một “hành vi chống lại Thiên Chúa” (Tv 51,5-6). Tội
lỗi làm “gãy vỡ mối quan hệ cá nhân giữa con người
với Thiên Chúa, chứ không đơn thuần chỉ là vi phạm
một trật tự luân lí hay xã hội, lấy mất đi sự hiệp thông
với Chúa, và như thế giao phó số phận con người vào
trong tay họ, phó mặc họ cho chính họ định đoạt. Tội
lỗi của đôi vợ chồng đầu tiên, nguyên mẫu của mọi
cặp vợ chồng khác, là chính sự từ chối Giao ước.

1/ “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không


được phân ly”. Họ thưa với Người: “Thế sao ông
Môsê lại truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ?”. Đức
Giêsu bảo họ: “Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông
Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu,
không có thế đâu” (Mt 19,6-8).

Câu trả lời của Đức Giêsu chạm tới điều cốt yếu nhất:
phải khôi phục lại quan hệ với Thiên Chúa và với anh
em. Vì “ma quỉ, kẻ đã dụ dỗ con người ngay từ đầu,
đã chia rẽ họ với Thiên Chúa, chia rẽ con người với
nhau” (San Massimo Confessore, Epist.2 PG 91, 96-
MỤC LỤC

397). Con người phạm tội đã chống lại Thiên Chúa,


từ khước quyền uy tuyệt đối của Ngài trên cuộc sống
mình, chối từ tình yêu trọn vẹn và không chịu vâng
phục Ngài.

Lời rao giảng của Đức Giêsu nhằm đặt con người tội
nhân đối diện với toàn thể thực tại, là Thiên Chúa, và
mời gọi họ trở lại hiệp thông hoàn toàn với Ngài. Rao
giảng về ơn tha thứ và lòng thương xót Chúa Cha
nhằm tới mục đích này. Sứ mạng của Chúa Giêsu cốt
yếu hệ tại ở việc chiến thắng tội lỗi trong xác thịt, để
giao hòa thế gian lại với Thiên Chúa và giải thoát con
người khỏi tội lỗi và sống cho Thiên Chúa.

Thực tại tội lỗi trong đời sống hôn nhân Kitô giáo
xuất phát từ sự chối bỏ bí tích, chối bỏ tình yêu bí tích
ơn gọi của đôi vợ chồng Kitô hữu. Tự phân ly điều
Thiên Chúa đã kết hợp, con người cũng chối bỏ uy
quyền, tình yêu, không vâng phục Thiên Chúa.

2/ “Ngươi chớ ngoại tình”

“Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình”


(Mt 19,9). “…có những người tự ý không kết hôn vì
Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu.” (Mt 19,12).
MỤC LỤC

Nước Trời đòi hỏi những người tín hữu dấn thân đi xa
hơn giới răn cấm ngoại tình. Họ cần một con tim khao
khát sự trong sạch. Đức Giêsu nói: “Thầy bảo thật
cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm
muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”
(Mt 5,28). Con người, sau khi nguyên tổ sa ngã đã
mất sự nguyên tuyền nguyên thủy, cũng đánh mất
luôn ý nghĩa của thân xác vốn được dựng nên để sống
hiệp thông các ngôi vị. Con người làm hư hỏng ngôn
ngữ quà tặng của thân xác, khi hạ thấp thân xác
xuống chỉ còn ham muốn chiếm hữu ích kỷ chỉ để
thỏa mãn một nhu cầu tính dục. Như thế, tha nhân bị
đối xử chỉ như một đồ vật để thỏa mãn ham muốn
mất trật tự của thân xác. Đức Giêsu lên án sự ham
muốn xác thịt này đâm rễ trong lòng con người, làm
nguy hại đến sự hiệp thông ngôi vị.

3/ Tội lỗi của đôi bạn Kitô hữu mâu thuẫn với ơn gọi
sống tình yêu bí tích của họ. Yếu tính sâu xa của tội
lỗi họ, hôm nay cũng như từ muôn đời, là chối bỏ
Giao ước với Thiên Chúa. Điều đó có nghĩa là bỏ
quên hay xem nhẹ chiều kích đối thần của hôn nhân,
là đánh mất cảm thức về sự hiện diện của Chúa Kitô ở
trung tâm của tương quan vợ chồng và dửng dưng với
Chúa Thánh Thần, Đấng hợp tác thâm sâu với tình
yêu của họ. Một hình thức đầu tiên của tội này, tội
MỤC LỤC

nghịch cùng bí tích, là từ chối không chịu đón nhận bí


tích khi hai người đã rửa tội quyết định kết hợp đời
sống với nhau mà không cưới xin, hoặc khi họ quyết
định chỉ làm đám cưới dân sự. Sự từ chối bí tích cũng
có thể được biểu lộ qua sự chểnh mảng hoặc hoàn
toàn không còn đến với Bí tích Hòa Giải và Bí tích
Thánh Thể nữa.

3. Sám hối trở về với sự phong nhiêu (fertility) bí tích


của hôn nhân

Thiên Chúa luôn mời gọi con người sống hiệp thông
với Ngài. Nhưng con người tội nhân, kẻ đã “bị bán
làm tôi cho tội lỗi” (Rm 7,14), đã tự ý chấp nhận
mang lấy ách đam mê tội tình. Thế nên, muốn đáp lại
tiếng mời gọi của Thiên Chúa con người tội lỗi của
chúng ta phải làm một cuộc “trở lại” (epistréphein),
một cuộc hoán cải suốt cuộc đời với tâm tình sám hối
ăn năn (metanoéin). Nghĩa là, vừa có sự thay đổi đời
sống thực tế bên ngoài vừa có một sự biến chuyển nội
tâm. Chúa Giêsu mời gọi “hãy sám hối và tin vào
Phúc âm” (Mc 1,15). Lời mời gọi này gồm cả hai mặt
ấy. Phép Rửa tội ghi nhận sự thống hối ăn năn và đã
ghi dấu một lần dứt khoát ơn tha tội. Thế nhưng, thân
phận con người dù đã được rửa tội vẫn mỏng giòn,
vẫn có khả năng sa ngã phạm tội. Bởi thế, họ cần một
MỤC LỤC

bí tích và nhân đức thống hối như một sự kéo dài ơn


trở lại của bí tích rửa tội.

Đối với đôi bạn Kitô hữu, sự sám hối trở về, phải vừa
thực tế vừa thiêng liêng, buộc họ phải thực hiện
những chọn lựa đạo đức phù hợp với ý muốn của Đức
Kitô và trong sự hiệp thông trong Thánh Thần. Ngày
nay, những mục tiêu riêng của đời hôn nhân (hợp
nhất, trung thành và mở ngỏ cho sự sống) cần phải
được sống đến mức làm nổi bật sự ưu việt của tính bí
tích, tức là đôi bạn và gia đình của họ phải sống làm
sao chiếu tỏa ánh rạng ngời thiêng liêng. Họ không
chỉ là một cộng đoàn “được cứu độ” đón nhận tình
yêu của Chúa Kitô, mà còn hơn thế nữa, được gọi để
chuyển thông tình yêu của Chúa Kitô đến cho anh em
mình nghĩa là trở thành một cộng đoàn “cứu độ”. Một
gia đình truyền giáo.

Sự sám hối của đôi bạn trở về với tình yêu Chúa Kitô
đồng thời giả thiết đôi bạn phải cởi mở cụ thể và
thường xuyên đối với mọi tác động của Chúa Thánh
Thần, vì thiếu Ngài sẽ không thể có sự thánh thiện,
cũng như sự hiệp thông và truyền giáo. “Phàm ai
được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái
Thiên Chúa” (Rm 8,14). Sự phong nhiêu (fertility)
mang tính bí tích và truyền giáo của đôi bạn và gia
MỤC LỤC

đình là công trình của Chúa Thánh Thần, chứ không


phải là hiệu quả của một thái độ duy ý chí, duy luân
lý hay do hoạt động mục vụ ráo riết. Chúa Thánh
Thần là nhà nghệ sĩ đại tài nắn đúc đôi bạn Kitô hữu
theo tình yêu Chúa Kitô, vị Hôn Phu của Hội Thánh.
Chính Ngài làm cho đôi bạn trở nên một tặng phẩm
của sự phong nhiêu của Ngài, để gia đình trở nên đền
thánh và biểu tượng bí tích (icône) rạng rỡ của Ba
Ngôi Rất Thánh.

Kinh nghiệm sự hiệp thông trong Thánh Thần thường


kèm theo một niềm vui thiêng liêng sâu xa. Đó là dấu
hiệu của sự hiệp nhất với Thiên Chúa và là nguồn
mạch của sự phong nhiêu thiêng liêng của đôi vợ
chồng Kitô hữu. Đôi vợ chồng trao hiến cho nhau
chính bản thân mỗi người, chính điều đó phát sinh
niềm vui, bởi không chỉ vì giống hình ảnh Thiên
Chúa , mà còn vì nó thực sự và khiêm tốn hàm chứa
“Tặng Phẩm” thần linh: Chúa Thánh Thần, nơi bản
thân Ngài là sự sống luôn sum sê, Tình yêu luôn dư
tràn ra mãi1. Sự ân cần, lòng quảng đại, niềm vui thỏa
phát sinh từ đó. Tặng phẩm, là đôi vợ chồng, khi ấy
chiếu sáng lên và làm hiển lộ sự hiện diện của Đấng
Ban Tặng Sự Sống.
MỤC LỤC

Nếu niềm vui của tặng phẩm là nguồn mạch chiếu


sáng ánh rạng ngời mang tính bí tích, thì điều ngược
lại làm khô cằn giao ước hôn nhân. Tội lười nhác như
là một nỗi buồn và bất bình trái ngược với sự nhiệt
thành của tình yêu, một tình yêu do Thần Khí ban
tặng. Sự lười lĩnh, uể oải trong đời sống vợ chồng,
còn được gọi là “con quỉ giữa ban trưa”, có thể biểu
hiện qua một vài dấu hiệu như chỉ biết nhìn vào mình,
hay buồn chán, thiếu kiên định, chỉ thích tìm của mới
lạ, bỏ bê gia đình, thiếu quan tâm đến con cái, v.v…
Đôi bạn cần chiến thắng tật xấu này bằng sự cầu
nguyện, thống hối và hy sinh khổ chế. Đó không khác
gì triều thiên của các bậc tử đạo. Tình yêu toàn hảo là
tình yêu chịu đóng đinh, nhưng đồng thời cũng là
niềm vui hoàn hảo theo thánh Phanxicô Assisi.

Cuộc chiến đấu của đôi bạn để dành được sự phong


nhiêu thiêng liêng trong Đức Kitô phải đi ngang qua
thử thách của thời gian, sự nhẫn nại và sự trung thành
thực tế. Yêu một người là cho người ấy thời gian, cho
không giới hạn, vì giá trị vô hạn của một con người,
một nhân vị, vượt trên sự hữu hạn của thời gian. Một
tình yêu triệt để vững bền như thế là một ánh quang
phản chiếu tình yêu Thiên Chúa chiến thắng sự chết
trong Đức Giêsu Kitô.
Ban Mục vụ Gia đình TGP.TPHCM
MỤC LỤC

Hôn nhân: Tình yêu vừa nhân linh


vừa thần linh

Hôn nhân: Tình yêu vừa nhân linh vừa thần linh

Phỏng vấn cha Luy Nguyễn Anh Tuấn, Tổng Thư ký


Ủy ban Mục vụ Gia đình

WHĐ (15.07.2010) – Từ số báo ra ngày thứ Bảy 03-


07-2010, tại chuyên mục “Nhịp sống trẻ”, báo Tuổi
Trẻ liên tiếp đăng tải bài viết và ý kiến của độc giả về
vấn đề “Tình dục trước hôn nhân trong giới trẻ”.

Nhận thấy đề tài được thảo luận trên báo Tuổi Trẻ
cũng liên quan đến việc giáo dục lối sống cho các bạn
trẻ hiện nay trong các gia đình công giáo, WHĐ đã
thực hiện cuộc phỏng vấn cha Luy Nguyễn Anh
Tuấn, Tổng Thư ký Ủy ban Mục vụ Gia đình trực
thuộc HĐGMVN.

Cảm ơn cha Luy đã nhận trả lời phỏng vấn và xin trân
trọng giới thiệu cùng quý độc giả.

***
MỤC LỤC

1. Thưa cha, hiện nay báo Tuổi Trẻ liên tiếp đăng tải
bài viết và ý kiến của độc giả về vấn đề “Tình dục
trước hôn nhân trong giới trẻ”.

Ý kiến của cha như thế nào: nên hay không thảo luận
công khai đề tài “nhạy cảm” và “khó nói” này?

– Thời đại của thông tin với các phương tiện truyền
thông đa dạng khuyến khích và mời gọi mọi cá nhân
cũng như tập thể nói lên tiếng nói của mình qua đó
diễn tả ý kiến, quan điểm về cuộc sống và về con
người. Tình dục-tình yêu-hôn nhân-gia đình không
phải chỉ là một mảng của đời sống con người mà còn
là chính cuộc sống con người. Vì thế không chỉ
những người trẻ quan tâm đến đề tài này, mà cả người
lớn, người cao tuổi cũng quan tâm, bởi lẽ nó liên hệ
đến bản thân và cuộc sống trong đó mỗi người đang
sống. Diễn đàn “Tình dục trước hôn nhân trong giới
trẻ” trong mục Nhịp Sống trẻ của Báo Tuổi Trẻ trong
những ngày qua, tạo cơ hội cho nhiều người nhất là
các bạn trẻ bộc lộ ý kiến, bộc bạch tâm tư cùng những
nỗi niềm đã và đang trải nghiệm rất khác nhau về vấn
đề này, là đáng trân trọng, cần tiếp tục được mỗi
người suy nghĩ và phân tích, từ đó có thể tìm thấy cho
mình một hướng đi để có một cuộc sống hạnh phúc
thật sự theo nghĩa đầy đủ nhất. Thế nên thảo luận về
MỤC LỤC

đề tài này công khai, trong phạm vi nào đó và với


mục đích cuối cùng là đi tìm hạnh phúc thật sự và
tròn đầy của đời người, tôi nghĩ là nên làm.

Đối với nhiều người trẻ, tìm giải đáp cho vấn đề có
nên hay không nên “quan hệ tình dục trước hôn nhân”
có lẽ cũng bức xúc như vấn đề “quan hệ tình dục
ngoài hôn nhân” nghĩa là quan hệ với người đã có vợ
hay có chồng (có sự ngoại tình), hoặc với người mình
không có ý định kết hôn (“yêu” nhưng không muốn
kết hôn), hoặc với người mình không yêu (tình dục
không tình yêu). Hoàn cảnh thực tế xã hội của hai vấn
đề khác nhau, và đối với nhiều người trưởng thành
theo đạo đức truyền thống của Á Đông, dường như
đặt vấn đề trước (quan hệ tình dục trước hôn nhân) có
phần nghiêm túc hơn đặt vấn đề sau (quan hệ tình dục
ngoài hôn nhân). Nghĩa là nếu ai đó rơi vào trường
hợp trước thì dễ được xã hội thông cảm, tha thứ hơn
rơi vào trường hợp sau. Khi đặt vấn đề “quan hệ tình
dục trước hôn nhân” thì đã hàm ý “có ý định sẽ tiến
đến hôn nhân” (do “lỡ” hoặc có ý muốn sống thử
trước khi kết hôn). Ở đây, câu hỏi chỉ nhằm tới
trường hợp thứ nhất.

2. Ý kiến của độc giả về đề tài trên có thể tạm chia


làm 2 loại: tán thành, không tán thành. Nhóm tán
MỤC LỤC

thành viện các lý do: chuyện “quan hệ” trước sau


cũng tới, nên không gì phải áy náy; thời buổi tân tiến
ngày nay không cần phải đặt nặng chuyện “trinh tiết”;
chuyện “quan hệ” là một nhu cầu tự nhiên, không
thuộc lãnh vực đạo đức, vì thế đừng áp đặt những
ngăn cấm nhân danh đạo đức…

Cha nghĩ gì về những viện dẫn của nhóm “tán


thành”?

– Trước đây, Báo Tuổi Trẻ đã có bàn luận về chuyện


“sống thử trước hôn nhân”, và cũng từng nhận được
nhiều ý kiến trái chiều nhau. Một bên cho rằng nên có
để xem khả năng hòa hợp của hai người. Nhưng bên
ngược lại gay gắt cho rằng đó là điều cấm kỵ, rằng
đạo đức xã hội không thể chấp nhận, và đó là sự ngụy
biện cho lối sống học đòi, buông thả... Ở Diễn Đàn
Nhịp Sống trẻ trên Báo Tuổi Trẻ (từ ngày 3.7.2010)
lần này vấn đề đặt ra có hơi khác: “tình dục trước hôn
nhân”. Những ý kiến trên Diễn Đàn Nhịp Sống trẻ về
vấn đề “tình dục trước hôn nhân” rất đa dạng, khác
nhau. Kẻ tán thành người không tán thành, với những
kinh nghiệm thực tế được chia sẻ và quan niệm về đời
sống tình dục cũng khác nhau. Căn cứ trên con số
40% (không biết thực tế chính xác tới mức nào) sinh
viên đã từng quan hệ tình dục từ một cuộc khảo sát
MỤC LỤC

nào đó, ý kiến của những bạn trẻ tán thành “tình dục
trước hôn nhân” dường như càng được nạp thêm
“năng lượng”! Đàng khác, trong giới Công giáo, một
số rất đông các bạn trẻ Công giáo ở tổng giáo phận
Huế trong một Đại Hội giới trẻ nào đó cách đây
không lâu kiên quyết nói KHÔNG với “tình dục trước
trước hôn nhân” cũng là một tiếng nói ngược lại trong
bộ phận những người trẻ cũng cần phải quan tâm.

Những người tán thành “tình dục trước hôn nhân”


dường như có chung một lập luận này: ngày xưa các
cụ lấy vợ, lấy chồng sớm (lấy chồng từ thuở mười
ba), và như thế quan hệ tình dục (được phép) phát
sinh rất sớm và thoải mái; ngày nay con cháu toàn lập
gia đình trễ (30-35 tuổi) trong khi lại dậy thì sớm hơn,
tránh sao khỏi chuyện ăn cơm trước kẻng. Nhưng
những người này cũng có những “cái nhìn” khác biệt
nhau. Ngoài một số những bạn trẻ vô tư chỉ biết sống
theo bản năng kiểu “tình một đêm” hay “tình dục
không cần tình yêu”, nhiều người khác có suy nghĩ
chín chắn hơn, xem tình dục không tách khỏi tình
yêu: “quan hệ tình dục là một cách thể hiện tình yêu.
Nam nữ yêu nhau, tình cảm mặn nồng, việc gần gũi
và nảy sinh nhu cầu ấy là điều hết sức bình thường và
cũng không nên xem nặng vấn đề này” (Báo Tuổi Trẻ
3.7.2010). Cùng một dòng suy nghĩ ấy, người khác
MỤC LỤC

cho rằng: “Nếu hai người yêu nhau thật lòng, chuẩn
bị cho mình đủ kiến thức tối thiểu về tình dục an toàn,
biết các biện pháp tránh thai và biết cách bảo vệ sức
khỏe chính mình thì có gì là ghê gớm khi họ đồng ý
“quan hệ” cùng nhau. Chẳng có gì là mất đạo đức hay
thiếu tư cách ở đây cả. Pháp luật chỉ kết tội hành vi
hiếp dâm, không điều chỉnh tình yêu nam nữ và càng
không đề cập đến khái niệm thế nào là sớm hay muộn
trong quan hệ tình dục... họ chịu trách nhiệm về chính
những điều họ làm chứ không phải ai khác. Như thế,
chẳng có lý do gì để chúng ta cảm thấy thương hại
hay được quyền lên án những hành vi ấy... Bởi họ
sống cuộc đời của chính họ chứ không sống giùm,
sống thay, sống vì ai khác” (BTT 5.7.2010). Đối với
những người “tán thành” nói chung, tình dục là bản
năng không có gì xấu cả. Có một bạn gái quan niệm
thoáng hơn, cho rằng: “Chẳng thể nói chỉ những
người có gia đình mới được quan hệ tình dục và chỉ
được quan hệ tình dục với duy nhất người bạn đời của
mình” !?(BTT 7.7.2010). Chúng ta phải trả lời như
thế nào trước những ý kiến, quan điểm sống này?

3. Nhóm “không tán thành” nêu các lý do đạo đức


(trinh tiết đồng nhất với sự thủy chung, một lòng một
dạ, chân thực…), tâm lý (để tâm hồn giữ được sự
thanh thản, không phải ái ngại vì đã lỡ chung đụng
MỤC LỤC

thể xác…, khi về chung sống với nhau), sinh lý


(không vướng vào những bệnh lý và hệ lụy sức khỏe
do “quan hệ”…)

Cha nghĩ gì về những viện dẫn trên?

– Những người không tán thành “tình dục trước hôn


nhân” ở Việt Nam xem ra cũng còn rất đông. Lý do
về đạo đức luôn luôn là lý do hàng đầu. Trinh tiết là
cái ngàn vàng. Con gái biết giữ trinh tiết cho tới ngày
lấy chồng là con nhà gia giáo, và đồng thời phản ánh
sự thủy chung. Thế nhưng, không phải những người
“không tán thành” chỉ toàn là những người khăng
khăng với quan điểm truyền thống đạo đức, thuần túy
chỉ là “lý thuyết”. Ngay cả những bạn trẻ đã từng có
kinh nghiệm “sống thử” đã rút ra một kinh nghiệm
đau đớn cho mình như tác giả của bài “19 tuổi, tôi đốt
cháy đời mình” (BTT 8.7.2010) và tác giả của bài
“Giá như tôi biết điểm dừng” (BTT 9.7.2010). Cả
những bạn không “sống thử trước hôn nhân” nhưng
trải qua “chuyện ấy” ít là một lần với người bạn khác
giới của mình, sau những giây phút ngọt ngào nhất
thời là cảm giác lo âu, tự ghê tởm và mâu thuẫn với
chính mình, ray rứt khôn nguôi (x. N.N., “Khôn ba
năm dại một giờ”, BTT 7.7.2010). Cái giá họ thường
phải trả cho những “phút giây lỡ lầm” không chỉ là
MỤC LỤC

những cảm giác tâm lý chủ quan tiêu cực đó (thường


có ở các bạn gái nhiều hơn), nhưng còn là đánh mất
dần tình cảm của mình, và cả tình cảm của người kia
dành cho mình: dường như sau đó chỉ còn là những
oán trách, là gánh nặng của “trách nhiệm”; đam mê
cũng làm cho con người thành mụ mị, mê muội, ảnh
hưởng tới việc học, việc làm, ảnh hưởng tới tương lai
(một bạn nam, BTT 9.7.2010). Hơn nữa, xét về mặt
tâm lý xã hội, như ý kiến của một bạn gái, “ăn cơm
trước kẻng” luôn là một rủi ro, nhất là đối với các bạn
gái, cho dẫu bạn nghĩ đó là một tình yêu dẫn tới hôn
nhân, vì tới “phút 89” vẫn còn bị thua; hơn nữa, cũng
theo bạn ấy, nếu giữ được điều đó thì đến khi cưới
nhau, người chồng sẽ yêu thương bạn hơn bao giờ
hết. Tránh được tình dục trước hôn nhân là giải pháp
tốt nhất cho một tình yêu đẹp và lãng mạn! (T.H.,
Cơm không ăn gạo còn đấy, BTT 10.7.2010).

Lý do tâm lý và đạo đức được bổ sung thêm bởi lý do


về sức khỏe, do làm “tình dục thiếu an toàn” khiến
bệnh lây qua đường sinh dục, từ đó cũng ảnh hưởng
lên sinh lý không còn ham muốn hay ảnh hưởng lên
khả năng có con trong tương lai, tâm lý cũng thay đổi
(một bạn gái, BTT 7.7.2010). Lý giải cho quan niệm
của nhóm “không tán thành” như thế đủ chưa?
MỤC LỤC

Trong hoàn cảnh này, người thì tán thành “tình dục
trước hôn nhân” kẻ thì không, như là một người công
giáo tôi nghĩ mình cũng cần nói lên quan điểm và suy
nghĩ của mình.

Trước hết, tôi nghĩ cần phải trở lại câu hỏi căn bản
hơn: hành vi tính dục (ở đây tôi dùng chữ tính dục
thay cho tình dục trong nhiều trường hợp vì muốn chỉ
một thực tại tự nhiên và khách quan nơi thân xác con
người vốn luôn là một thân xác có giới tính) diễn tả
nơi thân xác giữa một người nam với một người nữ
có ý nghĩa gì? Vì có hiểu bản chất và ý nghĩa của
hành vi ta mới biết phải hành động thế nào. Vì hành
động đi theo bản chất.

Ý kiến của đa số thoạt tiên dường như đều coi tình


dục như là nhu cầu thuộc bản năng, mà đã là nhu cầu
bản năng thì cần được thỏa mãn, như đói cần ăn, khát
cần uống. Đôi chim sẻ, một “chú” và một “ả” kia
đang quấn quít và quần nhau “chuyện ấy” trên mái
nhà ta bên cửa sổ có lẽ cũng đang làm hành động thỏa
mãn nhu cầu bản năng mà đôi bên đều cần nhau. Thế
nhưng “chuyện ấy” nếu đang diễn ra giữa hai con
người một nam và một nữ trong tư cách như hai “con
người” là một hành vi hoàn toàn khác hẳn. Bạn sẽ hỏi
lại có gì khác đâu? Khác ở chỗ nào?
MỤC LỤC

Hành vi tính dục của con người diễn ra nơi thân xác
con người. Nhưng thân xác con người khác với thể
xác của các con vật ở chỗ nhờ nó và qua nó tôi thể
hiện chính mình. Cái “tôi” là cả một thế giới tinh thần
bên trong mà ở nơi sâu thẳm đó tôi đang sống với bao
ý nghĩ, tâm tư, tình cảm, ước muốn thầm kín, và cả
những quyết định riêng tư với một sự tự do bất khả
xâm phạm, cái “tôi” ấy thể hiện mình ra bên ngoài
nhờ thân xác và qua thân xác. Đó là cái tôi chủ thể, là
một nhân vị. Con người hay nhân vị là “một” thể
thống nhất của thân xác và tinh thần (xác-hồn). Thân
xác con người vì thế được gọi là “tinh thần nhập thể”
(spiritual body) [1] khác với thân xác của con vật và
mọi vật khác. Nhưng thân xác ấy là nam hay là nữ,
nghĩa là được phân giới tính (sexed body) ngay “từ
thuở ban đầu” [2]. Giới tính cùng với sức cuốn hút
mạnh mẽ của nó khi đứng trước tha nhân là dấu chỉ
cho thấy rằng tương giao là nhu cầu thiết yếu của
cuộc sống của một con người [3]. Tính dục hay giới
tính là ngôn ngữ của thân xác để nói một điều gì hơn
nữa không chỉ là thân xác. Tính dục hay giới tính là
một phương thế và là lực đẩy con người bước ra khỏi
cái tôi khép kín, buồn tủi, héo mòn để bước vào tương
giao với thế giới, với những con người khác, với
Thiên Chúa, để hiệp thông trong yêu thương. Hai
MỤC LỤC

người, một nam một nữ, đúng nghĩa là con người,


cũng là hai nhân vị, hai “chủ thể” khác biệt (khác giới
tính, và bao nhiêu dị biệt khác nữa), làm hành vi tính
dục là để thể hiện tình yêu muốn nên một “xương một
thịt” [4]. Trước khi kết hợp (qua hành vi tính dục thân
xác), Tôi là Tôi, và Em là Em. Giờ đây, “Tôi” là
“Em”, và “Em” là “Tôi”, bắt đầu hiện hữu cái “Chúng
ta”, và tôi cảm thấy là tôi sung mãn nhờ em, và em
cũng thấy mình đầy đủ hơn nhờ tôi. Điều đó là nhờ
phép mầu của thực tại Tình Yêu, tuôn chảy ra từ
Thiên Chúa Thượng nguồn Tình Yêu. Bởi thế, cái gọi
là “tình một đêm” hay “tình dục mà không có tình
yêu” không phải là thứ “tình” tương xứng với con
người, không phải là tình yêu, mà chỉ là thỏa mãn bản
năng của phần “con (vật)” mà chưa phải là của “(con)
người”, vì “nhân linh ư vạn vật” [5]. Cái cảm giác “lo
âu, tự ghê tởm, mâu thuẫn với chính mình” sau khi
trải qua “ân ái” (với bạn trai) của một bạn gái chia sẻ
trên Diễn đàn (N.N, Khôn ba năm dại một giờ, BTT
7.7.2010) là một dấu cho thấy hành động tính dục ấy
chưa diễn tả bản chất đích thực của nó, vốn là một
tình yêu dâng hiến hoàn toàn tự do sáng suốt của toàn
thể nhân vị. Tình yêu đích thực vốn còn đòi hỏi một
quyết định dấn thân vĩnh viễn của cả hai người cho
nhau và tình yêu ấy cần phải được xã hội, trong đó
hai người đang sống, biết đến qua một thể thức chính
MỤC LỤC

thức nào đó, tức kết hôn. Vì thế, cả khi hai bạn thực
sự yêu nhau và đã quyết định dấn thân trong hôn
nhân, chuyện bày tỏ tình yêu qua hành động kết hợp
thân xác (giao hợp) trước khi kết hôn vẫn là hành
động rất thiếu khôn ngoan và không chính đáng.

Hơn nữa, người Kitô hữu nhận biết tình yêu của đôi
bạn nam-nữ, tự nó hướng tới sự phối hôn nhờ thân
xác của người nam và người nữ, được mời gọi càng
ngày càng trở nên là hình ảnh của Tình yêu Hiệp
Thông của Ba Ngôi Thiên Chúa, khác biệt và bất khả
phân li. Tình yêu của đôi bạn Kitô hữu đã thành hôn
là bí tích, nghĩa là dấu chỉ hữu hình và hữu hiệu giữa
thế giới này của Tình yêu Chúa Kitô với Hội Thánh,
dấu chỉ trong không gian và thời gian của Tình yêu
Thiên Chúa trung thành qua Giao ước ký kết bằng
Máu châu báu của Chúa Kitô với Dân Người. Thế
nên, tình yêu của đôi bạn, tự nó vốn hướng tới vĩnh
cửu, cũng là một hành trình trong thời gian với đầy
những khó khăn, thử thách, cám dỗ do xu hướng
hướng về tội lỗi (mà dục vọng là một dấu hiệu) cần
đến ơn Chúa trợ lực. Bởi thế, “tình dục trước hôn
nhân” hay ngoài hôn nhân không diễn tả Tình yêu
vừa nhân linh vừa thần linh này, là quan hệ rất mong
manh.
MỤC LỤC

4. Lại có lời khuyên: không cần đặt vấn đề “nên” hay


“không nên”, chỉ cần học biết kiến thức về sức khỏe
sinh sản, sử dụng các phương tiện phòng tránh thai
hữu hiệu… là đủ.

Cha nghĩ gì về lời khuyên này?

– Hành vi tính dục diễn tả tình yêu cũng mở ngỏ với


sự sống như là hoa trái của tình yêu. Sự phong nhiêu
(khả năng tạo sinh ra sự sống dồi dào) vốn gắn liền
với tính dục - tình yêu, không thể tách rời. Nhưng nói
thế không có nghĩa từng hành vi kết hợp tính dục đều
phải nhằm tới việc sinh con; sự phong nhiêu và sinh
sản có trách nhiệm, nghĩa là chủ động trong kế hoạch
sinh sản và giáo dục con cái hợp lý, đi liền với nhau.
Tình yêu phong nhiêu của đôi bạn phản chiếu Tình
Yêu phong nhiêu của Thiên Chúa Đấng Hằng Sống,
Nguồn mạch của dòng sự sống luôn không ngừng
tuôn chảy. Bởi thế, mọi hành động có ý hướng ngăn
cản tiến trình hình thành tự nhiên sự sống mới phát
sinh từ sự kết hợp tính dục – tình yêu của đôi bạn là
tự mâu thuẫn với chính mình, do đó trái với ý định
của Thiên Chúa Tạo Hóa. Như thế ngừa thai, theo
nghĩa là can thiệp chủ ý khiến cho chu trình liên tục
“tính dục-tình yêu-phong nhiêu” bị cắt rời, là một lời
dối trá vì tình yêu đã nói KHÔNG với sự sống là tự
MỤC LỤC

mâu thuẫn, nghĩa là không phải yêu đích thực, và


nhân vị cũng bị xúc phạm. Do đó, giáo dục giới tính
trước hết là dạy dỗ các bạn trẻ biết tôn trọng và làm
chủ chính mình, quí trọng phẩm giá cao vời của tình
yêu, chứ không chỉ là dạy những kiến thức về tình
dục và sức khỏe sinh sản, càng không phải là dạy
những kĩ thuật của một thứ gọi là “tình dục an toàn”
nào đó.

5. Cha có lời khuyên nào đối với các gia đình có con
cái chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân?

– Các cha mẹ có con tới tuổi dậy thì, sắp tới tuổi
thành hôn, cần nói chuyện thẳng thắn với con, theo
nghĩa là đối thoại hơn là dạy dỗ áp đặt. Cha mẹ có
trách nhiệm giáo dục trước hết, và không ai thay thế
được, nếu tránh né hay lần lữa, các em sẽ tự động đi
học với những “người thầy” khác là bạn bè, sách báo,
internet... liệu có bảo đảm, an toàn không?

Lm Luy Nguyễn Anh Tuấn


MỤC LỤC

NGỪA THAI VÀ HÔN NHÂN

Lm Luy Nguyễn Anh Tuấn chuyển ngữ

Những đòi hỏi của Giáo Luật cho Hôn nhân hoàn hợp

Sau đây là một vấn đề về đạo đức sinh học mà một


độc giả của Zenit đã nêu lên và được các thành viên
của Viện nghiên cứu về Văn hóa Sự Sống (Culture of
Life Foundation) trả lời. Giải đáp sau đây chỉ là một ý
kiến thần học để giải thích cho khoản Giáo luật 1061.
Bài dịch được đăng tải không nhằm mục đích trước
tiên để tạo nên bàn tròn thảo luận về một vấn đề
chuyên môn cho bằng là vì thấy toát lên một tư tưởng
nhân học thích đáng và hữu ích trong quan niệm hôn
nhân kitô giáo. Tuy nhiên, còn nhiều điểm cần được
đào sâu hơn, và bàn thảo với những ý kiến dị biệt
khác nữa.

WASHINGTON, D.C., 28/07/2010

Câu hỏi: Một hành động giao hợp sinh lí có ý tránh


thai (a contraceptive act of sexual intercourse) có thỏa
những yêu cầu của hôn nhân hoàn hợp
(consummation) hay không? (Độc giả SG. A. – Cape
Town, South Africa).
MỤC LỤC

E. Christian Brugger trả lời như sau:

Trả lời: Cả Giáo Luật và giáo huấn luân lí của Giáo


hội Công Giáo không đưa ra câu trả lời chính thức
cho vấn đề này. Do đó, những ai quan tâm đến vấn đề
và muốn tìm câu trả lời cho lương tâm nên tham khảo
những luận cứ liên quan từ cả hai phía của vấn đề và
rút ra kết luận xem ra đối với họ là đúng đắn nhất
dưới ánh sáng của những chân lí đức tin rộng lớn hơn.
Suy tư của các nhà thần học công giáo về vấn đề này
rất là hữu ích. Thế nhưng, những người Công giáo
không nên “tin” những gì các nhà thần học này nói
xét như là những chân lí mạc khải của Thiên Chúa
hay như là giáo huấn dứt khoát của Giáo hội Công
giáo. Họ cũng không nên xem các ý kiến của các nhà
thần học với cùng thái độ như khi họ “phải kính cẩn
tuân phục bằng ý chí và lí trí” Giáo huấn Công giáo
thuộc Huấn Quyền chưa tuyên bố dứt khoát (x. Cđ.
Vatican II, Lumen gentium, số 25). Đúng hơn, họ nên
xem xét những gì các nhà thần học nói và tự phán
định cho mình những ý kiến ấy là có đúng đắn hay
không. Những gì tôi nói sau đây là lập luận riêng của
tôi về vấn đề hành vi giao hợp sinh lí có ý tránh thai
có hoàn hợp (consummates) cuộc hôn nhân hay
không (nghĩa là, nó có phù hợp hay không để tạo nên
MỤC LỤC

một sự hiệp thông thiết yếu để cả hai người nên một


xương một thịt hầu có được một cuộc hôn nhân bất
khả phân li). Tôi khởi đi từ việc giải thích bản tính
của một con người (nhân vị) vừa xác thể vừa tinh
thần (spiritual-bodily nature) làm cơ sở như thế nào
cho Giáo huấn của Hội thánh Công giáo về bản chất
của hôn nhân.

Con người là một hữu thể thống nhất của xác và hồn.
Là hữu thể tinh thần, nhưng con người không chỉ là
hữu thể tinh thần sử dụng một thân xác, giống như
một thuyền trưởng lái con tàu của mình. Con người
còn là hữu thể thân xác, nhưng không chỉ là thân xác
thiếu chiều kích phi-vật-thể (như những người theo
thuyết duy vật tin tưởng). Con người được gọi cách
chính xác là những “linh hồn nhập thể”. Quan hệ hôn
nhân là diễn tả duy nhất của sự hợp nhất hồn-xác này.

Một số tương quan, chẳng hạn như quan hệ giữa hai


người là bạn, được thiết lập trên cơ sở chiều kích tinh
thần này mà thôi. Nói thế tôi không có ý muốn nói
tình bạn không hề được diễn tả qua thân xác. Dĩ nhiên
là có, nó giống như mọi sự gì thuộc nhân tính. Nhưng
tình bạn hiện hữu là nhờ một hành vi tinh thần, một
hành vi của ý muốn, tức là trên cơ sở của sự ưng
thuận của hai người thông dự. Và nó chỉ tồn tại cho
MỤC LỤC

tới khi nào những người bạn ấy vẫn còn muốn làm
bạn với nhau. Nếu có một người nào không ưng thuận
nữa, mối quan hệ ấy (dẫu còn hay không còn tình
cảm) coi như chấm dứt.

Hôn nhân cũng là một loại tình bạn đòi hỏi phải có
sự ưng thuận (“sự ưng thuận trong hôn nhân”). Thế
nhưng, nó là cái gì đó còn hơn là một tình bạn thông
thường được xây dựng và gìn giữ chỉ bằng sự ưng
thuận của hai người thông dự. Nó còn có một chiều
kích xác thân sâu thẳm – chiều kích “một xương một
thịt” được thực hiện qua hành vi giao hợp đầu tiên
(xem St 2,24; Mt 19,5; Ep 5,31). Tính chất “một
xương một thịt” này có hiện hữu hay không là do,
như thánh Phaolô giải thích, những người này có kết
hôn với nhau hay không (x. 1Cr 6,16). Nhưng bởi vì
hành động “ăn ở với nhau” (“giao hợp”) nối kết hai
người thành chỉ một thân xác một linh hồn, diễn tả
khả năng tình thâm giao sâu nặng (radical human
intimacy) và sinh sản thuộc nhân tính, cho nên hành
động ấy phải là duy chỉ thuộc về hôn nhân. Điều đó
có nghĩa là nó phải là một hành động thể hiện và tham
dự vào một mối quan hệ mang tính chất bền vững,
độc hữu và phong nhiêu (khả năng sinh sản).
MỤC LỤC

Nếu hai người phối ngẫu chưa ưng thuận cùng nhau
sống một đời đôi bạn kiểu hôn nhân kéo dài suốt cuộc
đời, hành động giao hợp của họ là vô luân
(disordered) bởi lẽ nó tạo nên một sự kết hợp nên một
thân xác nhưng trên cơ sở một quan hệ không trường
cửu. Đức Gioan Phaolô II nói rằng “ngôn ngữ thân
xác” mà được biểu lộ qua một quan hệ ngoài hôn
nhân là dối trá. “Bởi lẽ tôi nói qua thân xác tôi rằng
em thuộc về tôi và tôi thuộc về em mãi mãi; nhưng tôi
lại chưa ưng thuận một kết hợp kiểu như thế.”

Thế nên, hôn nhân là một quan hệ bằng hữu trường


tồn nhưng thuộc loại hai-trong-một-thân-xác được
thiết lập trên cơ sở vừa là sự ưng thuận của hai người
phối ngẫu vừa qua một hành động kết hợp hai thân
xác thành một thể thống nhất một-xương-một-thịt. Sự
ưng thuận được tỏ bày tại bàn thờ lúc hai người phối
ngẫu trao đổi lời thề hứa. Nếu hai người thực sự có ý
tham dự mối quan hệ bằng hữu được phối hôn nên
một-xương-một-thịt bất khả phân li, và không có
ngăn trở nào (ví dụ như họ đã kết hôn), thì sự ưng
thuận ấy tạo nên (điều mà Giáo luật nói) một hôn
nhân “thành nhận” (“ratified marriage”), là hôn nhân
đích thật, nhưng chưa là hôn nhân hoàn hợp. Hôn
nhân ấy trở nên hoàn hợp khi đôi bạn thực hiện một
MỤC LỤC

hành vi vợ chồng nên một trên thân xác diễn tả sự


ưng thuận mà họ tuyên bố tại bàn thờ – ưng thuận
trao hiến hoàn toàn bản thân cho nhau không thể hủy
bỏ. Nếu họ chưa hề hoàn hợp, hành động kết hôn
chưa hoàn tất cách trọn vẹn, và tính chất chưa trọn
vẹn của sự kết hôn biểu lộ qua việc dây hôn phối có
thể được Giáo hội tháo gỡ. Nếu hôn nhân đã thành
nhận và đã hoàn hợp, thì không gì có thể tháo gỡ sự
liên kết vợ chồng trừ cái chết.

Giáo Luật

Bây giờ chúng ta trở lại với câu hỏi liệu một hành vi
giao hợp có ý tránh mang thai có hoàn hợp cuộc hôn
nhân hay không. Chú giải 1985 về Bộ Giáo Luật của
Hiệp Hội Giáo Luật Hoa Kỳ nói rằng: “Những nhà cố
vấn khi bàn thảo các điều khoản Giáo luật này đã ngã
hướng về quan niệm cho rằng sự giao hợp tự nhiên đã
là hoàn hợp và việc sử dụng các phương thế ngừa thai
không ngăn trở tính hoàn hợp thật sự của hành động
ấy chừng nào chúng không cản trở hành động giao
hợp thể lí” [1].

Tôi hiểu đoạn văn này muốn nói rằng các nhà cố vấn
(tức là, các chuyên viên về Giáo luật mà Vatican đã
tham vấn trong khi chuẩn bị cho ra đời Bộ Giáo Luật
MỤC LỤC

1983) cho rằng nếu một người vợ đang dùng thuốc


tránh thai để kiểm soát sinh sản (vốn trái với giáo
huấn luân lí của Hội thánh Công giáo – ND.) trong
khi “ăn ở” với nhau lần đầu tiên, hành động ấy vẫn
“tự nó có khả năng dẫn tới sinh sản” (điều 1061)
(nghĩa là, một hành động thuộc “loại” phong nhiêu
(procreative) cho dẫu thực tế không thể sinh con (not
actually a fertile act)). Sỡ dĩ thế không phải là vì các
nhà cố vấn đã cho rằng viên thuốc ngừa thai là hợp
luân lí đạo đức (dù một số người có lẽ vẫn tin như
thế), nhưng vì một hành vi tránh thai bằng cách dùng
dược phẩm không ngăn trở người chồng phóng tinh
vào âm đạo người vợ, đây là điều mà hầu hết các nhà
Giáo luật cho là cốt yếu của sự hoàn hợp.

Cả Dr. May và tôi đều cho rằng phán quyết này là sai
lầm (và nhiều nhà thần học luân lí ngày nay cũng
thế). Tôi sẽ trình bày cách ngắn gọn nhất lập luận bảo
vệ cho quan điểm của mình. Để một hành động giao
hợp mang đặc tính “hôn ước” (hay “vợ
chồng”/“marital”) và hợp pháp, hành động ấy phải
hàm chứa hai điều thiện hảo chính yếu của hôn nhân,
đó là sinh sản con cái (procreation) và kết hợp vợ
chồng (unity). Nếu có ước muốn rõ ràng ngược lại
với một trong hai thiện hảo này của hôn nhân, thì dù
cho hành động thể lí xem ra có thể giống hành động
MỤC LỤC

giao hợp vợ chồng (marital intercourse), hành động


ấy vẫn không phải là hành động vợ chồng (non-
marital). Do đó, ví dụ như, trong đêm tân hôn, người
chồng cưỡng bức vợ mình phải thực hiện việc giao
hợp trái với ý muốn của cô ta, thì đó không phải là
hành động vợ chồng – không có tính hoàn hợp – bởi
lẽ hành động ấy đi ngược với tự do của người vợ nên
trái nghịch với thiện hảo kết hợp vợ chồng (marital
unity) (thậm chí đó không phải là một hành động
nhân linh, ít là từ phía người vợ; đó chỉ là một phần
của hành vi thể lí). Cũng thế, nếu một hoặc cả hai
người phối ngẫu sử dụng phương tiện ngừa thai với ý
định khiến cho hành động giao hợp ấy không thể thụ
thai được, thì bởi ý định rõ ràng chống lại thiện hảo
về sự sinh sản, hành động của họ cũng không có tính
vợ chồng, và như thế (dĩ nhiên) nó không hoàn hợp
cuộc hôn nhân ấy. Do vậy, một hành động giao hợp
mà có ý tránh thai không thỏa các yêu cầu của điều
khoản Giáo Luật 1061 về sự hoàn hợp hôn nhân. (Dr.
May và tôi trong bài nói chuyện gần đây nhất nói về
vấn đề liệu các cặp hữu ý không sinh con (hiếm muộn
hữu ý) có thể kết hôn trong Giáo hội hay không. Vấn
đề này nói cách khác liệu họ có thể hoàn hợp cuộc
hôn nhân của mình hay không).
MỤC LỤC

Nếu luận cứ này là đúng (như tôi đã nói, đây không


phải là giáo huấn của Giáo hội nhưng chỉ là kết luận
của các nhà thần học), nó sẽ có những hệ luận cho
việc chuẩn bị hôn nhân. Nếu một cặp có ý định thực
hành ngừa thai trong những năm đầu hôn nhân để
tránh có con cái như nhiều cặp đã làm, thì cho dù họ
đã kí kết một hôn ước hợp pháp thành nhận (ratified)
trên bàn thờ, họ còn chưa hoàn hợp cuộc hôn nhân
của mình cho đến khi họ chọn một hành động “ăn ở
vợ chồng” mà tôn trọng cả hai thiện hảo của hôn
nhân. Điều này có nghĩa là họ chưa kết hợp nên một
xương một thịt cho tới lúc ấy; họ chưa đón nhận ân
sủng xuống trên cuộc hôn nhân của đôi vợ chồng xét
như là một xương một thịt; hôn nhân của họ vẫn còn
có thể tháo gỡ được. Điều đó cũng có nghĩa là họ
bước vào cuộc hôn nhân của họ trong khi thường
xuyên chọn một hành vi xấu nghiêm trọng, không tốt
cho cuộc hôn nhân của mình. Sau 40 năm nuốt những
viên thuốc đắng đót này, giờ đây các đôi bạn cần
được các vị mục tử trong Giáo hội nói thẳng thắn rõ
ràng: ngừa thai cản trở thiện hảo của một cuộc hôn
nhân, nó chống lại hôn nhân, là một virus luân lí
trong mối quan hệ.

Tôi tin rằng một linh mục mà biết một cặp vợ chồng
có ý thực hành ngừa thai sau khi họ cưới nhau sẽ hết
MỤC LỤC

sức thuyết phục họ làm cách khác. Ngài cố gắng


thuyết phục họ không đơn giản chỉ nói với họ rằng họ
đang làm điều sai trái. Ngài nên giải thích rõ ràng hết
sức những lí do khiến sự giao hợp ngừa thai là sai
trái; và làm thế với lòng bác ái và kiên nhẫn, vì nhận
thấy nhiều người, kể cả nhiều người Công giáo, rất
khó thấy tính chất sai trái của sự ngừa thai. Sau cùng,
nếu như họ từ bỏ giáo huấn của Giáo huấn Công giáo,
các ngài nên từ khước việc kết hôn của họ. Cũng như,
phong chức linh mục cho một người bỏ Giáo huấn
của Hội thánh về đức khiết tịnh của giáo sĩ đối với tôi
là một sai lầm mục vụ nghiêm trọng, cũng thế, đối với
việc kết hôn những người từ bỏ giaó huấn của Giáo
hội Công giáo về đức khiết tịnh hôn nhân.

Mặc dù chọn theo hay không ý kiến của tôi ở đây,


các vị cũng cố gắng trao đổi với các cặp cách rõ ràng
hết sức rằng tội ngừa thai không phải là một chuyện
nhỏ không nguy hại gì cho cuộc hôn nhân của họ, dù
việc thực hành mục vụ trong Hội thánh công giáo đã
tiến hành điều đó với cách thức này từ nhiều thập
niên rồi.

Lm Luy Nguyễn Anh Tuấn


Đại hội các gia đình thế giới 2012 tại Milano “Gia
Đình: công việc và ngày lễ”:
MỤC LỤC

GIÁO LÝ CHUẨN BỊ
Bài 1: Huyền nhiệm Nadaret

A. Bài hát và lời chào mở đầu


B. Kinh Chúa Thánh Thần
C. Bài đọc Lời Chúa

11 Người đến giữa người nhà mình,

nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.

12 Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào


danh Người,

thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. (Ga
1,11-12).

40 Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh,
đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên
Chúa.

41 Hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền


Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua.
MỤC LỤC

51 Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về


Nadarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người
thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. 52
Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm
cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và
người ta. (Lc 2,40-41.51-52).

D. Giáo lý Kinh thánh

1. Người đến giữa người nhà mình. Tại sao gia đình
phải chọn một lối sống? Ngày nay gia đình làm việc
và nghỉ lễ theo lối mới như thế nào? Hai đoạn Kinh
Thánh mô tả cách Chúa Giêsu đã đến giữa chúng ta
(Ga 1,11-12) và đã sống trong một gia đình nhân loại
(Lc 2,40-41.51-52).

Đoạn Kinh thánh đầu giới thiệu cho chúng ta Chúa


Giêsu đang ở giữa người nhà của mình: “Người đến
giữa người nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu
đón nhận. Còn những ai đón nhận Người, tức là
những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền
trở nên con Thiên Chúa”. Lời vĩnh cửu xuất phát từ
cung lòng Chúa Cha, đến giữa người nhà mình và ở
trong một gia đình nhân loại. Dân Thiên Chúa, đáng
lẽ rộng lòng đón tiếp Lời, lại tỏ ra khô khan hờ hững.
Người nhà không đón nhận Người, mà còn xoá đi vị
MỤC LỤC

trí trung tâm của Người. Mầu nhiệm Đức Giêsu


Nadaret bị khước từ được định vị ngay tại trọng tâm
cuộc viếng thăm của Người giữa chúng ta. Còn những
ai đón nhận Người, “thì Người cho họ quyền trở nên
con Thiên Chúa”. Dưới chân thập giá Thánh Gioan
chứng kiến những gì mà ngài công bố trong phần
khởi đầu sách Tin Mừng của ngài được thực hiện.
Đức Giêsu, “khi thấy thân mẫu và môn đệ mình
thương mến đứng bên cạnh” (Ga 19,26) trao cho mẹ
người con mới và giao phó mẹ mình cho người môn
đệ yêu quý. Tác giả Tin mừng còn thêm: “và từ lúc ấy
môn đệ đón bà về nhà mình” (19,27). Đây là “lối
sống” mà Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta để đến giữa
chúng ta: một lối sống có khả năng tiếp đón và sinh
sôi nảy nở.

Chúa Giêsu đòi hỏi gia đình phải là nơi tiếp đón và
truyền sinh sự sống cách sung mãn. Gia đình không
những ban cho sự sống thể lý, mà còn mở ra cho lời
hứa và niềm vui. Gia đình trở nên có khả năng “tiếp
đón” nếu biết giữ sự thân mật riêng tư, lịch sử của
từng người, các truyền thống gia đình, niềm tin tưởng
cuộc sống, niềm trông cậy vào Chúa. Gia đình trở nên
có khả năng “truyền sinh” khi chuyển thông những ơn
đã lãnh nhận, khi giữ được nhịp nhàng trong cuộc
sống hằng ngày giữa làm việc và nghỉ ngơi, giữa yêu
MỤC LỤC

thương và bác ái, giữa bổn phận và tự nguyện trao


ban. Đây là ơn phúc nhận được trong gia đình: bảo vệ
và chuyển thông sự sống, nơi vợ chồng và nơi con
cái.

Gia đình có nhịp điệu riêng, giống như nhịp đập của
trái tim; là nơi của nghỉ ngơi và đà vươn tới, nơi đến
và đi, nơi của an bình và mơ mộng, của dịu dàng và
trách nhiệm. Vợ chồng phải xây dựng hoà khí trước
khi những đứa con ra đời. Công việc không thể làm
cho nhà cửa hoang vắng, gia đình phải học cách sống
và nối kết thời gian làm việc và nghỉ ngơi. Gia đình
thường xuyên phải đối phó với những áp lực bên
ngoài không cho phép lựa chọn điều lý tưởng, nhưng
các môn đệ của Chúa là những người, sống trong
những tình huống cụ thể, biết thêm hương vị cho tất
cả mọi thứ, ngay cả những gì không thể thay đổi
được: họ là muối đất. Đặc biệt, ngày Chúa nhật nên là
thời gian dành cho niềm tin, sự thoải mái, gặp gỡ,
nghỉ ngơi, và chia sẻ. Chúa nhật là thời điểm gặp gỡ
giữa người nam và người nữ. Hơn hết, ngày Chúa
nhật là Ngày của Chúa, là thời gian cầu nguyện, thời
gian dành cho Lời Chúa, Thánh Thể, mở rộng ra với
cộng đoàn và việc bác ái. Và vì thế ngay cả các ngày
trong tuần cũng sẽ nhận được ánh sáng từ ngày Chúa
nhật và nghỉ lễ: ít tản mát và gặp gỡ sẽ nhiều hơn, bớt
MỤC LỤC

hối hả và đối thoại nhiều hơn, ít bận tâm đến vật này
việc kia nhưng hiện diện với nhau nhiều hơn. Một
bước đầu tiên theo hướng này là xem chúng ta đang
sống trong nhà như thế nào, chúng ta làm gì trong tổ
ấm của chúng ta. Cần quan sát nơi ở của chúng ta như
thế nào và xem xét cách ăn lối ở của chúng ta, những
lựa chọn chúng ta đã thực hiện, những ước mơ mà
chúng ta đã vun trồng, những đau khổ chúng ta đang
sống, những đấu tranh chúng đang cầm cự, những hy
vọng chúng ta đang nuôi dưỡng.

2. Huyền nhiệm Nadaret. Trong ngôi làng miền Galilê


này, Chúa Giêsu sống thời gian dài nhất của cuộc đời
mình. Chúa Giêsu trở thành người: rong ruổi nhiều
năm trải qua nhiều kinh nghiệm của con người để cứu
độ tất cả: Người trở thành một người trong chúng ta,
bước vào trong một gia đình nhân loại, sống ba mươi
năm trong thầm lặng tuyệt đối và ba mươi năm ấy trở
thành một mạc khải của mầu nhiệm khiêm hạ
Nadaret.

Câu điệp khúc mở đầu đoạn văn phác hoạ một vài nét
về “huyền nhiệm Nadaret”. Đó là nơi để lớn lên trong
khôn ngoan và ân sủng của Thiên Chúa, trong khung
cảnh của một gia đình tiếp đón và truyền sinh. “Con
trẻ lớn lên và thêm sức mạnh, đầy khôn ngoan và ân
MỤC LỤC

sủng Thiên Chúa”. Huyền nhiệm Nadaret nói với


chúng ta cách đơn giản rằng Chúa Giêsu, Lời đến từ
trên cao, Con của Chúa Cha, mặc lấy bản tính nhân
loại của chúng ta, trở thành trẻ thơ, rồi lớn lên như
một cậu bé trong một gia đình, sống kinh nghiệm tôn
giáo và lề luật, cuộc sống hàng ngày đánh dấu bởi
những ngày làm việc và nghỉ ngơi ngày sabat, và các
ngày lễ. “Con Đấng Tối Cao” mặc lấy những đau khổ
của thân phận mỏng dòn và nghèo hèn, được dẫn dắt
bởi các mục tử và những người bày tỏ niềm hy vọng
của Israel. Tuy nhiên, huyền nhiệm Nadaret, còn hơn
thế nhiều: đó là một bí nhiệm đã hấp dẫn các vị thánh
lớn, như Têrêsa Lisieux và Charles de Foucauld.

Thật vậy, câu điệp khúc kết thúc đoạn văn này nói
rằng Chúa Giêsu “đi xuống cùng với cha mẹ, trở về
Nadaret và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người
thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn
Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn
và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và loài người”.
Đây là mầu nhiệm sâu thẳm của Nadaret: Chúa Giêsu,
Ngôi Lời của Thiên Chúa, đã dìm mình trong bản tính
nhân loại chúng ta ba mươi năm. Những lời nói của
con người, những mối quan hệ gia đình, kinh nghiệm
về tình bằng hữu và xung đột, về sức khỏe và bệnh
tật, về niềm vui và nỗi đau đã trở nên ngôn ngữ mà
MỤC LỤC

Chúa Giêsu học để nói Lời Thiên Chúa. Những lời


nói của Chúa Giêsu, những hình ảnh, những khả năng
Người có khi nhìn ngắm các cánh đồng, người nông
dân đang gieo hạt, mùa lúa chín vàng, người đàn bà
nhào bột, người chăn chiên bị lạc mất con chiên,
người cha có hai con trai, từ đâu đến, nếu không phải
từ gia đình và môi trường của Nadaret. Chúa Giêsu đã
học được ở đâu khả năng tuyệt vời để kể chuyện,
tưởng tượng, so sánh bằng ẩn dụ, cầu nguyện trong
cuộc sống và bằng cuộc sống? Những điều đó không
phải là do Chúa Giêsu dìm mình trong cuộc sống ở
làng Nadaret sao? Bởi thế chúng ta nói rằng Nadaret
là nơi của sự khiêm hạ và ẩn mình. Lời ẩn dật, hạt
giống rơi xuống lòng đất rồi chết đi để đem lại quà
tặng là chính tình yêu Thiên Chúa, ngay cả dung nhan
từ phụ của Thiên Chúa. Đây chính là huyền nhiệm
của Nadaret.

3. Những mối quan hệ gia đình. Chúa Giêsu sống


trong một gia đình được in dấu ấn truyền thống đạo
đức Do thái và sự trung thành giữ lề luật: “Hằng năm
cha mẹ Người lên Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua.
Khi Chúa Giêsu được mười hai tuổi, họ đã đi lên đó
theo phong tục của ngày lễ này”. Gia đình và lề luật
là bối cảnh mà Chúa Giêsu đã lớn lên trong sự khôn
ngoan và ơn sủng. Gia đình Do Thái và tôn giáo Do
MỤC LỤC

Thái giáo, một gia đình theo phụ hệ và một tín


ngưỡng gia truyền, với các lễ mừng hằng năm, với ý
nghĩa của ngày Sabat, với kinh nguyện và công việc
hàng ngày, với phong cách của một tình yêu vợ chồng
thuần khiết và dịu dàng, tất cả làm cho ta hiểu được
Chúa Giêsu đã sống kinh nghiệm sâu xa về gia đình
mình như thế nào.

Chúng ta cũng lớn lên trong một gia đình nhân loại,
bên trong những mối quan hệ tiếp đón làm chúng ta
phát triển và đáp ứng với cuộc sống và với Thiên
Chúa. Chúng ta cũng trở thành những gì chúng ta đã
nhận lãnh. Huyền nhiệm Nadaret là tập hợp của tất cả
mối quan hệ này: gia đình và truyền thống tôn giáo,
nguồn gốc của chúng ta và những người thân của
chúng ta, cuộc sống hằng ngày và những ước mơ cho
ngày mai. Cuộc phiêu lưu của đời sống con người
xuất phát từ những gì chúng ta đã nhận được: sự
sống, gia đình, tình yêu, ngôn ngữ, đức tin. Bản tính
nhân loại của chúng ta được trui rèn từ một gia đình
cụ thể với sự giàu có và nghèo khó của gia đình ấy.

E. Lắng nghe Giáo huấn [của Giáo hội]

Đời sống gia đình mang nơi mình một phong cách
độc đáo, mới mẻ, sáng tạo để sống và hưởng nếm
MỤC LỤC

giữa vợ chồng và để chuyển thông cho con cái sao


cho thế giới được biến đổi. Lối sống Tin mừng trong
đời sống gia đình ảnh hưởng bên trong cũng như bên
ngoài Giáo hội, bằng cách chiếu toả đặc sủng bí tích
hôn nhân, điều răn mới về tình yêu Chúa và tha nhân.
Như một gợi ý, Tông huấn Gia đình Familiaris
Consortio số 64 khuyến khích chúng ta tái khám phá
một diện mạo thân thuộc của Giáo Hội bằng việc tiếp
nhận “một lối sống các mối quan hệ cách nhân bản và
huynh đệ hơn”.

Lối sống Tin mừng trong đời sống gia đình

Được sinh động và nâng đỡ bởi điều răn mới yêu


thương, gia đình Kitô hữu đón tiếp, tôn trọng, phục
vụ mọi người, luôn nhìn mọi người theo phẩm giá của
họ như là nhân vị và là con cái Thiên Chúa.

Điều này trước tiên phải được sống từ bên trong gia
đình và nhờ đôi vợ chồng, nhờ nỗ lực dấn thân hằng
ngày nhằm thăng tiến một cộng đoàn đích thực các
nhân vị, đặt nền tảng và được nuôi dưỡng bởi sự hiệp
thông bên trong của tình yêu. Kế đến, điều này phải
được phát triển trong môi trường rộng lớn hơn của
cộng đồng Giáo Hội, là nơi gia đình Kitô hữu hội
nhập vào: nhờ đức ái của gia đình, Giáo Hội có thể và
MỤC LỤC

phải mặc lấy chiều kích gia đình hơn, nghĩa là thân
thiết hơn, bằng cách áp dụng một lối sống các mối
quan hệ nhân bản và huynh đệ hơn.

Đức ái đi xa hơn biên giới chỉ giữa những anh em


thực sự trong đức tin, bởi vì “mọi người là anh em
tôi”; nơi mỗi người, nhất là người nghèo hèn, yếu
đuối, đau khổ và bị đối xử bất công, đức ái biết khám
phá ra gương mặt của Chúa Kitô và người anh em để
yêu thương và phục vụ.

Để cho việc phục vụ con người được gia đình sống


theo phong cách Tin mừng, cần chăm chút thực hiện
những gì Công đồng Vaticanô II viết: “Để việc thực
thi bác ái đó vượt lên trên mọi nghi ngờ và biểu lộ
được là bác ái đích thực, cần phải nhìn thấy nơi tha
nhân hình ảnh của Thiên Chúa, vì họ đã được dựng
nên theo hình ảnh Ngài, và khi ta giúp cho người túng
thiếu điều gì thì cũng là giúp cho chính Chúa Kitô
điều ấy” (AA 8). [Familiaris Consortio, 64].

F. Những câu hỏi để thảo luận dành cho các đôi vợ


chồng và theo nhóm

Những câu hỏi dành cho các đôi vợ chồng:


MỤC LỤC

1. Gia đình chúng ta có là nơi đón tiếp và truyền sinh


sự sống cách sung mãn trên các bình diện nhân bản
và Kitô giáo không?

2. Chúng ta có những quyết định/chọn lựa nào để gia


đình trở thành nơi tăng trưởng trong khôn ngoan và
ân sủng của Thiên Chúa?

3. Những mẫu quan hệ nào trong gia đình, về tình


cảm, về tôn giáo, bổ ích giúp tăng trưởng vợ chồng và
con cái?

Những câu hỏi dành cho nhóm gia đình và cộng đoàn:

1. Có những lối sống mới nào dành cho gia đình ngày
nay giữa công việc và nghỉ lễ?

2. Những lựa chọn và tiêu chuẩn nào hướng dẫn cuộc


sống hằng ngày của chúng ta?

3. Ta phải đối diện với những khó khăn nào về mặt


truyền thông và xã hội khi làm cho gia đình trở nên là
nơi phát triển nhân bản và Kitô giáo?

4. Ta gặp phải những khó khăn về văn hoá nào khi


thông truyền những mô hình sống tốt và sống đức tin?
MỤC LỤC

G. Một quyết tâm cho đời sống gia đình và xã hội

H. Cầu nguyện tự phát. Kinh Lạy Cha.

I. Bài hát kết thúc.

(Dịch từ bản tiếng Ý)

Lm Đa Minh Nguyễn Công Đắc


MỤC LỤC

Bài 2: Gia đình thông truyền sự sống

A. Bài hát và lời chào mở đầu


B. Kinh Chúa Thánh Thần
C. Bài đọc Lời Chúa

27 Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh


mình,
Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên
Chúa,
Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. (St
1,27)
18 Đức Chúa là Thiên Chúa phán: “Con người ở một
mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương
xứng với nó”.
19 Đức Chúa là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú,
mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con
người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật
là gì, thì tên nó sẽ là thế.
20 Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời
và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho
mình một trợ tá tương xứng.
21 Đức Chúa là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập
xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi
Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp
thịt thế vào.
MỤC LỤC

22 Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút


từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn
đến với con người.
23 Con người nói:“Phen này, đây là xương bởi xương
tôi, thịt bởi thịt tôi!
Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông
ra”.
24 Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với
vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt. (St
2,18-24)

D. Giáo lý Kinh thánh

1. Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Tại


sao Thiên Chúa đã sáng tạo nên người nam và người
nữ? Tại sao Ngài muốn cho đôi nam nữ này, hơn là
các thụ tạo khác, toả sáng hình ảnh Ngài? Người nam
và người nữ yêu thương nhau với trọn bản thân mình,
là chiếc nôi Thiên Chúa đã chọn để đặt tình yêu Ngài,
để tất cả những người con, trai hay gái, được sinh ra
trên thế gian này có thể nhận biết, đón tiếp và sống
tình yêu ấy, từ thế hệ này sang thế hệ khác, mà dâng
lời ngợi khen Đấng Tạo Hoá.

Những trang Kinh Thánh đầu tiên cho thấy điều tốt
lành Thiên Chúa đã dự định cho những thụ tạo của
MỤC LỤC

Ngài. Thiên Chúa đã tạo dựng nên người nam và


người nữ phẩm giá như nhau nhưng lại dị biệt: người
này phái nam, người kia phái nữ. Sự giống nhau kết
hợp sự khác biệt phái tính cho phép cả hai bước vào
trong cuộc đối thoại sáng tạo, kí kết một giao ước đời
sống. Trong Kinh Thánh, giao ước với Đức Chúa đem
lại sự sống cho dân, liên quan đến thế giới và lịch sử
của toàn thể nhân loại. Điều mà Kinh Thánh dạy về
nhân loại và về Thiên Chúa bắt nguồn từ nơi biến cố
Xuất Hành, qua đó dân Do thái cảm nghiệm Đức
Chúa gần gũi độ lượng và trở thành dân riêng Ngài,
khi chấp nhận giao ước mà chỉ nhờ đó dân mới được
sống.

Lịch sử giao ước của Đức Chúa với dân riêng Ngài
soi sáng cho câu chuyện sáng tạo người nam và người
nữ. Họ được tạo dựng nhờ một giao ước không chỉ
liên hệ đến chính họ mà còn liên can đến Đấng Tạo
Hoá: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh
và họa ảnh của Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con
người có nam có nữ”.

Gia đình sinh ra từ đôi vợ chồng đã được dự định, với


sự khác biệt giới tính, theo hình ảnh Thiên Chúa của
giao ước. Nơi gia đình ngôn ngữ thân xác rất được đề
cao vì nói lên điều gì đó về chính Thiên Chúa. Giao
MỤC LỤC

ước mà một người nam và một người nữ, trong sự


khác biệt và bổ túc cho nhau, được mời gọi sống, là
hình ảnh và giống như giao ước Thiên Chúa đã ký kết
với dân riêng Ngài. Thân xác của người nữ được đặt
định để khao khát và đón nhận thân xác người nam và
ngược lại, nhưng trước hết điều đó cũng đúng cả về
“trí tuệ” và “tâm hồn”.

Cuộc gặp gỡ với một người khác phái luôn khơi dậy
sự tò mò, cảm kích, ước muốn được chú ý, được cho
đi điều tốt nhất của mình, được tỏ bày giá trị bản
thân, được quan tâm, được che chở…; đó là một cuộc
gặp gỡ năng động, chứa đầy năng lượng tích cực, bởi
vì trong tương quan với người khác chúng ta khám
phá và tăng triển chính mình. Căn tính của phái nam
và phái nữ nổi bật cách đặc biệt khi giữa họ phát sinh
tình yêu kỳ diệu do gặp gỡ nhau và ước muốn gắn bó
bền lâu.

Trong bài tường thuật sách Sáng thế chương 2, Ađam


khám phá ra mình là phái nam vào chính lúc ông
nhận ra người nữ: cuộc gặp gỡ với người phụ nữ làm
cho ông nhận thức và xác định mình là người đàn
ông. Việc người nam và người nữ nhận ra nhau làm
tan biến sự xấu xa là nỗi đơn độc và vén mở cho thấy
điều tốt lành của giao ước vợ chồng. Trái với chủ
MỤC LỤC

trương của nhóm ý thức hệ về giới [1], sự khác biệt


giữa hai phái tính rất là quan trọng. Đây là điều kiện
tiên quyết cho mỗi người có thể phát triển nhân cách
trong việc quan hệ và tương tác với người khác. Khi
hai người phối ngẫu tự trao hiến hoàn toàn cho nhau,
thì đồng thời họ cũng trao ban chính mình cho con cái
sẽ được sinh ra. Tính năng động của việc trao hiến
này bị giảm thiểu mỗi khi người ta sử dụng tính dục
cách ích kỷ, loại trừ mọi chiều kích mở ra cho sự
sống.

2. Con người ở một mình thì không tốt. Để lấp đầy sự


đơn độc của Ađam, Thiên Chúa tạo dựng cho ông
“một trợ tá tương xứng với ông”. Trong Kinh Thánh
hạn từ “trợ tá” (người trợ giúp/đấng phù trợ) hầu hết
được dùng với chủ thể là Thiên Chúa, đến nỗi trở
thành một tên gọi của Thiên Chúa («Đức Chúa ở
cùng tôi, Ngài là đấng phù trợ tôi” Tv 118,7). Hơn
nữa từ “trợ tá” không được hiểu như một sự can thiệp
chung chung mà như là một sự cứu viện đến bên kẻ
đang gặp nguy tử. Khi dựng nên người nữ như là trợ
trá tương xứng cho người nam, Thiên Chúa kéo ông
ra khỏi sự đơn độc xấu xa khiến phải chết, và đưa ông
vào giao ước ban sự sống: giao ước vợ chồng, theo đó
người nam và người nữ trao ban sự sống cho nhau;
MỤC LỤC

giao ước phụ mẫu, theo đó người cha và người mẹ


thông truyền sự sống cho con cái.

Người nữ và người nam, người này là “trợ tá” cho


người kia, người này “đứng trước mặt” người kia,
nâng đỡ, chia sẻ, thông truyền, đồng thời loại trừ bất
cứ hình thức coi khinh hoặc lấn lướt nào. Phẩm giá
ngang bằng nhau giữa người nam và người nữ không
cho phép bất cứ một thứ phân giai cấp nào và đồng
thời không loại trừ sự khác biệt. Sự khác biệt cho
phép người nam và người nữ kết ước với nhau và
giao ước này làm cho họ thêm bền vững. Sách Huấn
ca dạy như thế: “Cưới vợ là khởi đầu sự nghiệp, là có
một trợ lực tương xứng, và một cột trụ để tựa nương.
Không có hàng rào, trang trại bị cướp phá, vắng bóng
đàn bà, đàn ông sẽ lang thang, rên rỉ” (Hc 36,24-25).

Người nam và người nữ yêu nhau bằng sự ham muốn


và dịu dàng của thân xác, cũng như bằng đối thoại sâu
xa, họ trở thành những đồng minh nhận ra người này
là ân sủng cho người kia, giữ lời đã nói và trung thành
với lời giao kết, giúp đỡ nhau hiện thực hóa hình ảnh
Thiên Chúa, xét như là người nam và người nữ, mà
họ được mời gọi ngay từ khi tạo thành thế giới. Suốt
hành trình đời sống họ nghiền ngẫm ngôn ngữ thân
xác và lời nói, bởi vì cả hai đều cần thiết như không
MỤC LỤC

khí và nước. Người nam và người nữ cần tránh cạm


bẫy của sự im lặng, xa cách và hiểu lầm. Không phải
là hiếm vì những nhịp độ của công việc mà họ trở nên
mệt mỏi, bớt xén thời gian và nhiệt tình dành cho việc
chăm sóc quan hệ vợ chồng: chính lúc đó cần phải có
thời gian nghỉ ngơi để cử hành giao ước và ăn mừng
cuộc sống.

Việc tạo dựng người nữ xảy ra đang khi người nam


ngủ mê. Giấc ngủ mê mà Thiên Chúa giáng xuống
cho người nam diễn tả thái độ phó thác cho một mầu
nhiệm mà người nam không thể nào hiểu thấu. Nguồn
gốc của người nữ được che phủ trong mầu nhiệm
Thiên Chúa, cũng giống như đối với đôi vợ chồng
khởi nguồn của tình yêu của họ, động lực thúc đẩy họ
đến gặp gỡ và thu hút lẫn nhau, từ đó dẫn đến đời
sống hiệp thông, vẫn mãi là một mầu nhiệm. Tuy
nhiên, có một điều dường như thật chắc chắn: Thiên
Chúa đã ghi khắc vào trong quan hệ vợ chồng cái
“logic” tình yêu của Ngài, nhờ đó mà điều thiện hảo
của sự sống bản thân mình hệ tại nơi sự tự hiến cho
người kia.

Tình yêu vợ chồng, thực hiện qua việc lôi cuốn, đồng
hành, đối thoại, tình bạn, chăm sóc… bắt nguồn từ
tình yêu Thiên Chúa, là Đấng ngay từ nguyên thuỷ đã
MỤC LỤC

đặt định người nam và người nữ như là những thụ tạo


biết yêu thương nhau bằng chính tình yêu của Ngài,
mặc dầu cạm bẫy của tội lỗi có thể làm họ mệt mỏi và
làm lu mờ mối quan hệ của họ. Thật đáng tiếc, tội lỗi
đã thay thế cái logic của tình yêu, của sự tự hiến bằng
cái logic của quyền lực, của sự thống trị và của tính tự
quyết ích kỷ.

3. Cả hai thành một xương một thịt. Được tạo dựng từ


xương sườn người nam, người nữ là “thịt bởi thịt,
xương bởi xương của người nam”. Vì lẽ đó, người nữ
dự phần vào xác thịt yếu đuối của người nam, và vào
cả cái cấu trúc nâng đỡ nó (xương cốt). Sách Talmud
có lời bình chú rằng “Thiên Chúa đã không dựng nên
người nữ từ cái đầu của người nam để nàng thống trị
người nam; Ngài không tạo dựng nàng từ đôi chân
của người nam để nàng phải lụy phục chàng, nhưng
Ngài đã dựng nên người nữ từ xương sườn để nàng
được ở gần trái tim của chàng”. Những lời này âm
vang trong những lời của “người được yêu” trong
sách Diễm Ca: “Hãy đặt em như dấu ấn trên trái tim
chàng...” (Dc 8,6). Những lời này diễn tả một sự kết
hợp sâu xa và mãnh liệt mà tình yêu vợ chồng khát
khao và hướng đến như đích điểm.
MỤC LỤC

“Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt
tôi!”: người đàn ông thốt lên những lời đầu tiên này
trước mặt người phụ nữ. Cho đến lúc này chàng đã
“làm việc” bằng cách đặt tên cho các loài vật, mà vẫn
còn đơn độc, không thể nói lời hiệp thông. Trái lại,
khi thấy người phụ nữ trước mặt mình, người đàn ông
đã thốt ra những lời kinh ngạc, khi nhận ra nơi nàng
một Thiên Chúa cao cả và tình cảm tươi đẹp. Thiên
Chúa giao phó công trình tạo dựng của Ngài cho
người đàn ông và người đàn bà hiệp thông với nhau,
trong ngỡ ngàng, biết ơn và liên đới. Bằng việc kết
ước với nhau trong tình yêu, họ sẽ trở nên một
“xương thịt duy nhất” theo thời gian.

Kiểu nói “một xương thịt duy nhất” chắc chắn ám chỉ
đến con cái, nhưng trước hết nó gợi lên sự hiệp thông
liên vị giữa người nam và người nữ hoàn toàn gắn kết
với nhau, đến độ tạo thành một thực tại mới. Kết hợp
nên một như thế người nam và người nữ có thể và
phải sẵn sàng thông truyền sự sống, sẵn sàng đón
nhận, bằng cách sinh sản con cái nhưng cũng đồng
thời rộng mở cho những hình thức cho và nhận con
nuôi. Quả thật, sự thân mật vợ chồng là nơi từ ban
đầu đã được Thiên Chúa muốn và đặt định, là nơi sự
sống con người không những được thông truyền và
sinh ra, mà còn là nơi tập hợp tất cả những tình cảm
MỤC LỤC

và các mối quan hệ nhân vị được đón nhận và học


hỏi.

Nơi đời sống đôi bạn, vợ chồng sống sự kỳ diệu, tiếp


đón, cống hiến, an ủi khi gặp bất hạnh và cô đơn, giao
ước và biết ơn vì những việc lạ lùng Thiên Chúa làm.
Và như thế họ trở thành mảnh đất tốt cho sự sống con
người được gieo vào, nảy mầm và vươn ra ánh sáng.
Nơi của sự sống, nơi của Thiên Chúa: đôi vợ chồng
nhân loại, khi cùng đón nhận nhau họ hiện thực hoá
số phận phục vụ cho công trình tạo dựng và, đồng
thời mỗi ngày một trở nên giống Đấng Tạo Hoá hơn,
trên hành trình tiến về sự thánh thiện.

E. Lắng nghe Giáo huấn [của Giáo hội]

Trong đời sống gia đình những tương quan liên vị có


nền tảng và được nuôi dưỡng bởi mầu nhiệm tình
yêu. Hôn nhân Kitô giáo, vốn là mối kết giao mà
người nam và người nữ thề hứa yêu nhau trong Chúa
suốt đời và với toàn thể con người mình, là nguồn
mạch nuôi dưỡng và làm sống động những tương
quan giữa mọi thành viên trong gia đình. Không phải
tình cờ mà trong những đoạn trích sau đây từ Tông
Huấn Familiaris Consortio và Evangelium Vitae, để
MỤC LỤC

minh hoạ huyền nhiệm đời sống gia đình, nhắc đi


nhắc lại nhiều lần hạn từ “hiệp thông” và “hồng ân”.

Tình yêu, nguồn mạch và linh hồn của đời sống gia
đình

Sự hiệp thông vợ chồng là nền tảng trên đó xây dựng


sự hiệp thông rộng lớn hơn trong gia đình, giữa cha
mẹ và con cái, giữa những anh chị em trong nhà với
nhau, giữa những người bà con gần và những thành
phần khác của gia đình.

Một sự hiệp thông như vậy bắt nguồn từ những liên


hệ tự nhiên ruột thịt và được phát triển cho đến mức
toàn thiện thực sự nhân bản, nhờ biết thực hiện và
phát triển đến mức trưởng thành những mối liên hệ
thiêng liêng còn sâu xa và phong phú hơn, đó là: tình
yêu, là linh hồn của những tương quan liên vị giữa
những thành phần khác nhau trong gia đình, tình yêu
này là sức mạnh bên trong làm nên sự hiệp thông và
làm sống động cộng đồng gia đình.

Ngoài ra, gia đình Kitô hữu còn được mời gọi trải
nghiệm một sự hiệp thông mới mẻ và độc đáo, củng
cố cho sự hiệp thông tự nhiên và nhân bản. Thật vậy,
ân sủng của Đức Giêsu Kitô, người “Anh Cả của một
MỤC LỤC

đàn em đông đúc” (Rm 8,29), theo bản tính và sức


năng động nội tại của ơn ấy, là một “ân sủng của tình
huynh đệ” như thánh Tôma Aquinô vẫn gọi (S. Th. II·
II·, 14, 2, ad 4). Thánh Thần được đổ tràn xuống
trong cử hành các bí tích chính là nguồn cội sống
động và lương thực vô tận cho sự hiệp thông siêu
nhiên tập hợp và nối kết các tín hữu với Đức Kitô và
với nhau trong sự hiệp nhất của Hội Thánh Thiên
Chúa. Gia đình Kitô hữu là một mặc khải, một sự
thực hiện đặc biệt mối hiệp thông này trong Hội
Thánh. Vì thế, gia đình Kitô hữu còn được gọi và
phải được gọi là “Hội Thánh tại gia” (LG 11; x.AA,
11).

Tất cả mọi thành phần trong gia đình, mỗi người theo
ơn riêng của mình, đều có ân sủng và trách nhiệm để
ngày này sang ngày khác xây dựng mối hiệp thông
giữa các ngôi vị, bằng cách biến gia đình thành một
“trường học đào tạo nhân tính được hoàn hảo và
phong phú hơn” (GS, 52). Điều đó được thể hiện qua
việc yêu thương chăm sóc trẻ nhỏ, những người đau
yếu, những người già cả, qua những việc phục vụ lẫn
nhau trong đời sống hằng ngày, qua việc chia sẻ của
cải, chia sẻ những niềm vui và nỗi khổ. [Familiaris
Consortio, 21]
MỤC LỤC

Gia đình được mời gọi can dự vào toàn bộ cuộc sống
của các phần tử, từ khi sinh ra cho tới khi qua đời.
Gia đình thật là “cung thánh của sự sống… là nơi mà
sự sống, hồng ân của Thiên Chúa ban, có thể được
đón nhận cách xứng hợp và bảo hộ chống lại bao
nhiêu đe dọa chực tấn công, và là nơi mà sự sống có
thể phát triển theo những đòi hỏi cho một tăng trưởng
nhân bản đích thực”[2]. Vì thế vai trò của gia đình có
tính quyết định và không thể thay thế, để xây dựng
nền văn hoá sự sống.

Xét như là Giáo Hội tại gia, gia đình được mời gọi
loan báo, cử hành và phục vụ Tin mừng về sự sống.
Đó là sứ mệnh liên quan trước hết đến đôi bạn, những
người được mời gọi để truyền ban sự sống, dựa trên
một ý thức luôn được canh tân về ý nghĩa của truyền
sinh, coi đó là sự kiện ưu tiên biểu lộ sự sống của con
người là một hồng ân được tiếp nhận, để rồi lại được
trao ban. Khi tạo nên một sự sống mới, người cha
người mẹ như muốn nói rằng đứa con “nếu như là kết
quả của việc họ tự hiến cho nhau trong tình yêu, thì
đến lượt nó, nó trở nên một hồng ân cho cả hai người:
một hồng ân phát sinh từ một hồng ân”[3]

Trên hết chính qua việc giáo dục con cái mà gia đình
làm tròn sứ mệnh loan báo Tin mừng về sự sống.
MỤC LỤC

Bằng lời nói và bằng gương sáng, trong những tương


quan và chọn lựa hằng ngày, và qua những cử chỉ và
dấu hiệu cụ thể, cha mẹ khai tâm cho con cái về sự tự
do đích thực, vốn được thể hiện trong việc thành thực
hiến thân, và vun trồng cho con cái lòng kính trọng
đối với người khác, ý thức về công bình, lòng hiếu
khách nồng hậu, thái độ đối thoại, tinh thần phục vụ
quảng đại, tình liên đới và các giá trị khác giúp ta
sống cuộc đời như một hồng ân. Công trình giáo dục
của cha mẹ Kitô hữu phải làm sao để phục vụ đức tin
của con cái và giúp chúng đáp trả ơn gọi từ Thiên
Chúa. Cũng trong sứ mệnh giáo dục của cha mẹ là
phải dạy và làm chứng cho con cái biết ý nghĩa thực
của đau khổ và sự chết. Dạy cho chúng biết về những
điều ấy khi họ biết lưu tâm đến mọi người đang đau
khổ mà họ gặp thấy quanh mình, và trước hết, khi họ
biết gần gũi cách cụ thể qua sự đỡ nâng và chia sẻ với
các thành viên đau ốm và những người già yếu, ngay
từ trong gia đình mình. [Evangelium Vitae, 92]

F. Những câu hỏi để thảo luận dành cho các đôi vợ


chồng và theo nhóm

Những câu hỏi dành cho các đôi vợ chồng:


MỤC LỤC

1. Chúng ta sống như thế nào [để hoà hợp] giữa ham
muốn và ân cần trong quan hệ của chúng ta?

2. Những cản trở nào giăng kín hành trình giao ước
thâm sâu của chúng ta?

3. Tình yêu vợ chồng của chúng ta có rộng mở ra để


có con cái, mở ra đối với xã hội và Giáo hội không?

4. Chúng ta có thể có một quyết định nho nhỏ nào để


giúp chúng ta hiểu rõ hơn?

Những câu hỏi dành cho nhóm gia đình và cộng đoàn:

1. Làm thế nào để cổ vũ giá trị tình yêu vợ chồng


trong cộng đoàn chúng ta?

2. Làm thế nào để giúp các gia đình thông tin dễ dàng
và giúp đỡ lẫn nhau?

3. Làm thế nào để giúp những người đang gặp khó


khăn trong đời sống vợ chồng và gia đình?

G. Một quyết tâm cho đời sống gia đình và xã hội

H. Cầu nguyện tự phát. Kinh Lạy Cha.


MỤC LỤC

I. Bài hát kết thúc.

––––––––––––––––––––––––––––––

[1] (Chú thích của người dịch) Ý thức hệ về giới hay


lý thuyết phái tính là một khái niệm chính trong ý
thức hệ nữ quyền hay chủ trương đồng tính luyến ái.
Lý thuyết này phân tách giới (hay phái = gender/bình
diện tâm lý xã hội) ra khỏi tính (tính dục =
sexuality/bình diện sinh học). Chủ trương này cho
rằng giới tính là tập hợp các động thái, hay các kiểu
mẫu phản ứng do học tập mà có. Các động thái này
có thể thay đổi tùy ý hay do ảnh hưởng xã hội và môi
trường chung quanh.

Những người theo ý thức hệ về giới cho rằng loài


người không phải chỉ có hai giới (nam/nữ) mà có đến
những mười một giới (tính) khác nhau. Họ cho rằng
quan điểm chủ trương giới tính đồng nghĩa với giới
tính sinh học (dục tính) chính là nguồn gốc đưa đến
cho tình trạng kỳ thị những người đồng tính luyến ái
và thái độ cố chấp, không khoan dung với những ai
khác biệt.
MỤC LỤC

[2] Đức Gioan Phaolô II, Th.đ. Centesimus Annus –


Năm thứ một trăm (1.5.1991), số 39.

[3] Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn trước các tham dự
viên Hội nghị Giám mục Âu châu về đề tài “Những
thái độ đương thời trước việc sinh ra đời và trước cái
chết: một thách đố cho việc rao giảng Tin Mừng”
(17.10.1989), số 5. Con cái theo truyền thống Kinh
Thánh được trình bày cách rõ ràng như là hồng ân của
Thiên Chúa (x. Tv 127,3) và như là dấu chỉ phúc lành
của Ngài xuống trên những ai đi trong đường lối của
Ngài (x. Tv 128,3-4)

(Dịch từ bản tiếng Ý)

Lm Đa Minh Nguyễn Công Đắc


MỤC LỤC

Bài 3: Gia đình sống thử thách

A. Bài hát và lời chào mở đầu


B. Kinh Chúa Thánh Thần
C. Bài đọc Lời Chúa

13 Thiên thần Chúa hiện ra với ông Giuse trong lúc


ngủ và bảo ông: “Hãy thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ
Người trốn sang Ai Cập, và ở đó cho tới khi tôi báo
lại ông, vì Hêrôđê sắp sửa tìm kiếm Hài Nhi để sát
hại Người”.14 Ông thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ
Người lên đường trốn sang Ai Cập đang lúc ban đêm.
Ông ở lại đó cho tới khi Hêrôđê băng hà, hầu làm cho
trọn điều Chúa dùng miệng tiên tri mà phán rằng: “Ta
gọi con Ta ra khỏi Ai-cập”.

19 Khi Hêrôđê băng hà, thì đây thiên thần Chúa hiện
ra cùng Giuse trong giấc mơ bên Ai Cập20 và bảo:
“Hãy trỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất
Israel, vì những kẻ tìm hại mạng sống Người đã
chết”.21 Ông liền trỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người
về đất Israel.22 Nhưng nghe rằng Arkhêlao làm vua
xứ Giuđa thay cho Hêrôđê là cha mình, thì Giuse sợ
không dám về đó. Ðược báo trong giấc mộng, ông
lánh sang địa phận xứ Galilêa,23 và lập cư trong
thành gọi là Nadaret, để ứng nghiệm lời đã phán qua
MỤC LỤC

các tiên tri rằng: “Người sẽ được gọi là Nadarêô”. (Mt


2,13-14.19-23).

D. Giáo lý Kinh Thánh

1. Thiên thần Chúa hiện ra cùng Giuse trong giấc mơ.


Đời sống gia đình, cách này hay cách khác, sớm
muộn gì cũng gặp phải những thử thách. Vì thế cần
phải có sự khôn ngoan, óc phân định và niềm hy
vọng, và phải hy vọng thật nhiều, lắm lúc phải hy
vọng cả khi không có một chứng cớ hiển nhiên nào từ
phía con người. Khổ đau, giới hạn và sự thất bại là
một phần đời sống thụ tạo của chúng ta, một đời sống
vốn được ghi dấu bởi tội lỗi và bị tội lỗi làm suy giảm
mọi vẻ đẹp và làm hư hoại mọi điều thiện hảo. Điều
này không có nghĩa là chúng ta buộc phải chịu khuất
phục, nhưng việc chấp nhận thân phận này thôi thúc
chúng ta tín thác vào sự hiện diện từ ái của Thiên
Chúa, Đấng có thể đổi mới mọi sự.

Với cung giọng đầy kịch tính, đoạn Tin Mừng trên
mô tả cuộc hành trình của một gia đình, cụ thể là gia
đình Đức Giêsu, có vẻ tương tự như nhiều gia đình
khác: con trẻ gặp nguy hiểm, cần phải lên đường ngay
trong đêm tối để đến một vùng đất lạ. Gia đình non
trẻ này buộc phải cất bước trên một con đường có thể
MỤC LỤC

có nhiều bất trắc đang chờ đón, phức tạp và bất ổn.
Đó cũng là những gì mà ngày nay đang xảy ra cho
nhiều gia đình, những gia đình bị buộc phải rời bỏ nơi
sinh sống để có thể tạo lập cho con cái một môi
trường sống tốt đẹp hơn và để bảo vệ chúng khỏi
những nguy hiểm của thế giới chung quanh. Tuy
nhiên, có lẽ câu chuyện trốn sang Ai Cập ngụ ý nói
đến một sự kiện phổ quát hơn, có liên quan đến mọi
gia đình: các cha mẹ nhất thiết phải bước đi trong
hành trình cuộc sống để đạt tới trưởng thành cũng
như để con cái họ được lớn lên, với ý thức về ơn gọi
của mình. Để được điều đó nhiều khi phải trả giá
bằng những quyết định đau đớn. Đó là hành trình kiến
tạo gia đình, hành trình sinh dưỡng và giáo dục con
cái, một hành trình gian khổ, khó khăn, đòi hỏi nhiều
cố gắng mà lắm khi có nhiều khó khăn không thể
tránh khỏi làm nản chí nhiều gia đình.

Trong đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu ra đi khi còn là


một hài nhi, nhưng khi trở về, Ngài đã được gọi bằng
tên của một người lớn: “Người sẽ được gọi là
Nadarêô” (c.23), tước hiệu này báo trước số phận của
Ngài trên thập giá. Như vậy, chính từ hành trình của
mỗi gia đình, ngoài việc cha mẹ được trưởng thành
hơn, con cái sinh ra cũng được lớn lên theo đến mức
có thể đích thân đón nhận ơn gọi của mình. Những
MỤC LỤC

nhân vật chính của hành trình gia đình là cha mẹ, đặc
biệt là người cha. Cha mẹ được kêu gọi chuẩn bị
trước những điều kiện sống tốt đẹp nhất cho con cái.
Theo một kiểu nói của Kinh Thánh, thánh Giuse được
báo mộng cho biết nhu cầu cần phải lên đường. Trước
đó, thánh nhân cũng được báo mộng (Mt 1,20-21) bởi
sứ thần truyền tin cho biết việc Đức Maria mang thai
và kêu gọi ngài hãy đón nhận và đem Mẹ về nhà mình
(x. Mt 1,20-21).

Chúng ta biết rất ít về thánh Giuse, nhưng một điều


chắc chắn: ngài “là người công chính” (Mt 1,19). Đức
công chính, nhân đức của những mối tương quan liên
vị, đặt an toàn của tha nhân lên hàng đầu. Như thế,
thánh Giuse vì là người công chính nên đã quyết định
từ bỏ Đức Maria cách kín đáo thay vì tố cáo ngài với
công chúng. Với một tâm hồn đơn sơ ngài biết nhận
ra chương trình của Thiên Chúa và đón nhận sự can
thiệp của Thiên Chúa trong các biến cố của cuộc sống
gia đình. Điều căn bản là phải biết “lắng nghe các
thiên thần”, tức là biết phân định thiêng liêng các biến
cố và những cơ hội của đời sống gia đình, để sao cho
các mối quan hệ luôn được chăm chút, được tạo điều
kiện thuận lợi và được chữa lành. Gia đình thật sự
sống nhờ những tương quan tốt đẹp, nhờ những cái
nhìn tích cực đối với nhau, nhờ sự quý mến và tin
MỤC LỤC

tưởng lẫn nhau, và nhờ sự quan tâm bảo vệ cho nhau.


Từ bầu khí này cha mẹ mới có thể nhận định cách kỹ
càng và quyết định đúng lúc để bảo vệ sự sống cho
con cái. Điều này đúng cho mọi gia đình, không chỉ
cho những gia đình đang sống trong những hoàn cảnh
nguy hiểm cụ thể, mà còn cho cả những gia đình đang
sống trong những điều kiện bề ngoài có vẻ an toàn
hơn. Cha mẹ phải luôn lưu tâm tạo cuộc sống tốt đẹp
cho con cái và bảo vệ chúng khỏi những cạm bẫy và
nguy hiểm.

Thiên thần mời gọi thức tỉnh, nhận lấy, đem đi trốn
… và phó thác trong khi lưu lại tại đất khách quê
người cho tới khi Chúa báo lại. Thánh Giuse nhận lấy
trách nhiệm và là nhân vật chính trong biến cố này,
nhưng ngài không cảm thấy lẻ loi, bởi vì ngài tin
tưởng vào Đấng quan phòng chăm lo cho cuộc sống
của con người. Sự tin tưởng vào Thiên Chúa không
miễn cho chúng ta khỏi phải suy nghĩ, đánh giá tình
huống, và tiến tới quyết định, đúng hơn tin tưởng
giúp ta sống được trong mọi hoàn cảnh mà không bao
giờ phải thất vọng hay thoái thác. Thánh Giuse là con
người tỉnh thức, có thể đối diện với mọi biến cố để
bảo vệ sự sống cho người mẹ và con trẻ, nhưng đồng
thời ngài cũng hành động với ý thức hoàn toàn Thiên
Chúa phù trợ và bảo vệ thực sự.
MỤC LỤC

2. Đem Con Trẻ và mẹ Người. Thánh Giuse vâng


phục, đem Con Trẻ và mẹ Người tránh xa khỏi hoàn
cảnh nguy hiểm. Vua Hêrôđê, lẽ ra phải là người bảo
đảm sự sống cho dân của mình, nhưng thực tế lại trở
thành kẻ bách hại mà người ta phải xa tránh. Ngày
nay cũng vậy, gia đình gặp nhiều nguy hiểm và cạm
bẫy lừa lọc: từ nào là đau khổ, đói nghèo, áp bức, và
cả hoàn cảnh phải làm việc với nhịp độ quá tải, rồi
đến một xã hội chạy theo chủ nghĩa tiêu thụ, với thái
độ dửng dưng, tình cảnh bị bỏ rơi và cô đơn… Cả thế
giới có thể tỏ ra như thù nghịch, đối thủ tấn công sự
sống của những con người nhỏ bé nhất dưới nhiều
hình thức khác nhau. Mỗi người cha người mẹ có
trách nhiệm phải làm cho thế giới này nên dễ sống
hơn cho con cái và phải cho chúng thấy rằng cuộc
sống là tốt đẹp và đáng sống.

Những gì cha mẹ làm để chăm sóc con cái ở tuổi thơ


ấu được thúc đẩy bởi lý do này, đó là: cha mẹ cảm
thấy xót xa khi con khóc, họ đau đớn và làm mọi cách
để cho con bớt đau đớn. Cha mẹ làm hết sức cho con
cái để cuộc sống sao cho thật tốt đẹp, thật sự là một
hồng ân, là phúc lành nhờ Danh Chúa. Ý nghĩa của
hành trình sang Ai Cập là thế này: vượt qua đêm tối
nhằm tìm kiếm một nơi an toàn để bảo vệ con trẻ khỏi
MỤC LỤC

những tấn công rình rập, khỏi bạo lực, nhưng mang
lại niềm hy vọng, giúp giữ gìn một khái niệm tốt đẹp
về Thiên Chúa và về cuộc sống.

Trong công trình này, người cha xem ra có vai trò


hàng đầu: chính người cha là người phải tỉnh thức và
khởi xướng. Thánh Giuse được giao phó coi sóc mẹ
và con trẻ; ngài biết là phải đưa cả hai sang Ai Cập
bình an. Thiên thần nhắc đến hai lần, “hãy đem Con
Trẻ và mẹ Người”, và bản văn cũng lặp lại những lời
này hai lần khác nữa. Những lời này vang lên như
một lời khích lệ những người cha vượt qua những
nghi ngại để tiến tới, lo chăm sóc con trẻ và người
mẹ. Các ngành khoa học nhân văn ngày nay đang tái
khám phá tầm quan trọng có tính quyết định của vai
trò người cha trong sự phát triển toàn diện của con
cái.

Bản văn Kinh Thánh gợi lên rằng người cha tìm thấy
căn tính và vai trò của mình khi gìn giữ người mẹ, tức
là khi chăm sóc mối tương quan của vợ chồng. Chúng
ta biết rõ là sự hoà hợp giữa cha mẹ có vai trò quyết
định trong việc bảo vệ, giữ gìn và khích lệ con cái
như thế nào. Chúng ta cũng biết người đàn ông gặp
khó khăn như thế nào khi phải bảo vệ người phụ nữ
khỏi những đêm cô đơn, im lặng và không giao tiếp.
MỤC LỤC

Nếu nhìn kỹ, cả những điều này cũng là những mối


nguy làm cho đời sống của con cái thêm khó khăn.

3. Trốn sang Ai Cập. Hành trình của một gia đình là:
ra đi, rời khỏi vùng đất khắc nghiệt để đến một nơi dễ
sống hơn, là đất nước Ai Cập, một thời vốn là vùng
đất của cảnh trạng nô lệ và đau khổ, nhưng cũng là
nơi Thiên Chúa mạc khải tình yêu thương đối với dân
Israel của Ngài.

Đối với dân Israel, đất Ai cập gắn liền với nhiều ý
nghĩa: đó là nơi Giacop và các con của ông được đón
tiếp cư ngụ và trước đó nữa, nơi Giuse con của
Giacop đã bị đem đến sau khi bị anh em bán. Đó là
vùng đất mà dân Israel từng chịu cảnh nô lệ và cảm
nghiệm được ơn giải thoát. Và cũng là vùng đất từng
cưu mang chính Môsê và sau đó ông đã trốn thoát.
Thiên thần kêu gọi thánh Giuse đến chính vùng đất đó
để cứu thoát con trẻ, điều này như muốn nói rằng nhờ
được viếng thăm trở lại và lưu trú trong hy vọng và
tin tưởng mà ngay cả một nơi của chết chóc cũng có
thể trở thành cái nôi cho sự sống. Nhưng để được như
vậy cần phải can đảm trở lại đó và quyết định sống tại
nơi khó khăn đó, nhờ tin tưởng vào Thiên Chúa của
MỤC LỤC

sự sống. Niềm tin vào Thiên Chúa có thể làm mới


mọi sự và trả lại sức sống cho các gia đình.

Thánh Giuse lên đường “đang lúc ban đêm”. Trong


đêm tối, không thấy gì cả, người ta như đui mù. Tuy
nhiên người ta có thể lắng tai và nghe tiếng nói nâng
đỡ, khích lệ mình. Có nhiều thứ “đêm tối” bao trùm
trên đời sống gia đình: có những đêm tối đầy những
giấc mơ, tốt có xấu có; có những đêm vợ chồng lần
mò trong bóng tối khi mối tương quan giữa họ đang
gặp khó khăn; những đêm tối vì con cái gặp khủng
khoảng, chúng trở nên câm lặng, xa cách, hoặc bướng
bỉnh và nổi loạn… như không thể chấp nhận được.
Tất cả những đêm tối này – như trình thuật về việc
trốn sang Ai cập cho chúng ta thấy – có thể vượt qua
được và đưa con cái đến nơi an toàn khi người ta càng
tin tưởng lắng nghe Lời của Chúa.

Cha mẹ cần bảo vệ con cái khỏi muôn vàn đêm tối
của các mối quan hệ, của các vấn đề của chúng, và
những đêm tối đôi khi rất đau đớn do chính chúng
chọn lựa những điều sai trái. Đặc biệt vào những lúc
này, người cha cần quan tâm chăm sóc con hơn, bảo
đảm chắc chắn, dẫu cho cả khi người mẹ cảm thấy
đau lòng, tìm được cho con một nơi nương náu. Nơi
nương náu đó thường không phải là nơi nào khác
MỤC LỤC

ngoài tâm hồn của chính cha mẹ, nơi đó hình ảnh của
đứa con không bao giờ suy suyển và cũng nơi đó cha
mẹ tìm lại được sự kiên nhẫn và niềm hy vọng để tiếp
tục yêu thương con.

Đức Giêsu sẽ chịu chết tại Giêrusalem, tại chính vùng


đất mà Người từng được đem đi khỏi để tị nạn, và
chết bởi chính bàn tay của cùng một thế lực mà trước
kia cha mẹ Người đã cố bảo vệ cho Ngài. Trong cuộc
sống gia đình, đến một lúc nào đó cha mẹ phải tự rút
lui. Sau khi đã hoàn tất nhiệm vụ của mình là đồng
hành với con để giúp chúng nhận ra ơn gọi của mình,
cha mẹ nên đứng sang một bên, để cho thánh ý Thiên
Chúa được thể hiện. Gia đình không trường cửu, và
sau khi đã giúp con cái nhận ra giá trị tốt đẹp của
cuộc sống đã lãnh nhận, cha mẹ nên khích lệ con cái
ra đi, và đi xa hơn nữa trên con đường cuộc đời của
chúng. Cha mẹ biểu lộ sự khôn ngoan của mình qua
sự hiện diện kín đáo, khi biết đứng sang một bên, điều
đó không phải là bỏ mặc con cái, nhưng là một hình
thức quý trọng và vun trồng tự do giúp chuẩn bị cho
tương lai của thế giới.

Và cũng trong giấc mộng, thánh Giuse nhận ra là đã


đến lúc phải đưa gia đình về lại đất Israel. Ngài cân
nhắc, đánh giá hoàn cảnh và quyết định – nhờ một lời
MỤC LỤC

tiên tri nhiệm mầu soi sáng – lập cư tại Nadaret, nơi
đó an toàn hơn ở vùng Giuđêa. Giấc mộng một lần
nữa lại trở thành nơi mặc khải và chiến thắng sự thù
địch và bạo lực mặc dù nó vô hình và gần như không
chắc chắn, nhưng nó lại trở thành nơi phân định kỹ
lưỡng và can đảm, có thể đánh bại được vũ khí hiển
nhiên và chắc chắn nhất của quyền lực. Không gì có
thể làm suy giảm sự quan phòng của Thiên Chúa, một
sự quan phòng luôn có thể cứu giúp những ai tin
tưởng thoát khỏi những tình huống khó khăn và nguy
hiểm nhất. Thiên Chúa luôn hiện diện trong những
đêm tối của gia đình chúng ta, và trong nơi kín ẩn và
đôi khi tăm tối của các biến cố, Ngài dệt nên chương
trình cứu độ của Ngài.

E. Lắng nghe Giáo huấn [của Giáo hội]

Số 18 của Tông huấn Familiaris Consortio trình bày


một bức tranh sống động về “những đêm tối của gia
đình” có thể đè nặng trên mọi lứa tuổi cũng như thời
kỳ của đời sống con người. Tông huấn giúp cho mọi
người trên thế giới, với trí khôn sáng suốt và con tim
trắc ẩn, đọc được những khó khăn riêng của gia đình
trong thời hiện tại. Thu thập những bận tâm mục vụ
của các Nghị Phụ, Đức Gioan Phaolô II muốn Giáo
Hội ưu ái lưu ý đến những đau khổ và lao nhọc mà
MỤC LỤC

đời sống gia đình đang phải chịu và hôm nay cũng
kêu gọi các chủ chăn, thừa tác viên giáo dân, các gia
đình, hãy làm phong phú thêm cái nhìn của Giáo Hội
trên đoàn dân đông đảo như “đàn chiên không người
chăn dắt”.

Nâng đỡ gia đình gặp khó khăn

Noi gương vị Mục Tử Nhân Lành, mọi người được


kêu gọi dấn thân cách quảng đại, thông minh và khôn
ngoan hơn nữa, vào mục vụ cho các gia đình – mà
thường vì ngoài ý muốn hay bị áp lực bởi nhiều yếu
tố khác nhau – vốn đang phải đối diện với những
hoàn cảnh khó khăn khách quan […]

Những khó khăn khách quan như thế có thể kể ra, ví


dụ như, những gia đình di trú vì lý do công ăn việc
làm; gia đình có những người buộc phải vắng mặt lâu
ngày, như quân nhân, những người đi biển, những
người lữ hành thuộc mọi kiểu; gia đình của những tù
nhân, của những người lưu vong, những người bị lưu
đày; những gia đình sống bên lề xã hội trong các
thành phố lớn; những gia đình lang thang không nhà;
những gia đình chỉ có một cha hoặc mẹ; những gia
đình có con bị tàn tật hay nghiện ngập ma tuý, rượu
chè; những gia đình không còn giữ hay có nguy cơ
MỤC LỤC

mất nguồn gốc văn hoá, xã hội; những gia đình bị


miệt thị vì lý do chính trị hay lý do khác; những gia
đình nội bộ chia rẽ vì ý thức hệ; những gia đình
không thể dễ dàng liên lạc với giáo xứ; những gia
đình bị hành hung hay bị ngược đãi vì lý do đức tin;
những gia đình của các cặp vợ chồng vị thành niên;
những người già thường buộc phải sống trong cô đơn
và thiếu các phương tiện sinh sống xứng đáng.

Những khó khăn khác mà gia đình cần đến cộng đoàn
giáo hội và các chủ chăn giúp đỡ, có thể là: con cái ở
tuổi thiếu niên năng động bướng bỉnh, có khi làm náo
động; hôn nhân của chúng tách lìa chúng ra khỏi gia
đình gốc; người thân thiếu thông cảm hay thiếu yêu
thương; bị người bạn đời bỏ rơi hay phải chịu cảnh
goá bụa, hay sự mất mát của một người thân làm thay
đổi sâu sắc căn tính nguyên thuỷ của gia đình
[Familiaris Consortio 18].

F. Những câu hỏi để thảo luận dành cho các đôi vợ


chồng và theo nhóm

Những câu hỏi dành cho các đôi vợ chồng:

1. Đâu là những “thử thách” hiện tại của gia đình


chúng ta? Chúng ta đối diện với chúng như thế nào?
MỤC LỤC

2. Tôi là người đàn ông thế nào đối với người mẹ của
các con tôi? Tôi là người phụ nữ thế nào đối với
người cha của các con tôi? Chúng tôi là người cha
người mẹ thế nào đối với các con của chúng tôi?

3. Làm sao để thăng tiến đôi vợ chồng chúng ta trong


tin tưởng và hy vọng trước những hoàn cảnh khó
khăn và đau khổ?

4. Chúng ta có thể thực hiện một quyết định nho nhỏ


nào?

Những câu hỏi dành cho nhóm gia đình và cộng đoàn:

1. Đâu là những điều chính yếu đang đe dọa các gia


đình trong nền văn hoá và xã hội chúng ta hiện nay ?

2. Chúng ta làm thế nào để cho thế giới dễ sống hơn


đối với con cái chúng ta ?

3. Làm thế nào để giúp cộng đoàn chúng ta gia tăng


niềm hy vọng vào tương lai ?

G. Một quyết tâm cho đời sống gia đình và xã hội


MỤC LỤC

H. Cầu nguyện tự phát. Kinh Lạy Cha.

I. Bài hát kết thúc.

(Dịch từ bản tiếng Ý)

Lm Đa Minh Nguyễn Công Đắc


MỤC LỤC

Bài 4: Gia đình linh hồn của xã hội

A. Bài hát và lời chào mở đầu


B. Kinh Chúa Thánh Thần
C. Bài đọc Lời Chúa

5,43 “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng


loại và hãy ghét kẻ thù. 44 Còn Thầy, Thầy bảo anh
em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ
ngược đãi anh em. 45 Như vậy, anh em mới được trở
nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì
Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ
xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người
công chính cũng như kẻ bất chính. 46 Vì nếu anh em
yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có
công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng
làm như thế sao? 47 Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em
mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay
cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? 48 Vậy
anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời
là Đấng hoàn thiện”.
6,1 “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi
chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng
không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng
ngự trên trời, ban thưởng. 2 Vậy khi bố thí, đừng có
khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường
MỤC LỤC

biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để


người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được
phần thưởng rồi. 3 Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay
trái biết việc tay phải làm, 4 để việc anh bố thí được
kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì
kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 5,43 – 6,4).

D. Giáo lý Kinh Thánh

1. Anh em đã nghe Luật dạy rằng… còn Thầy, Thầy


bảo anh em. Tại sao giáo dục con cái chúng ta sống
quảng đại, có thái độ tiếp đón, có lòng biết ơn, tinh
thần phục vụ, tình liên đới, sống hòa bình, và tất cả
các đức tính xã hội, thật quan trọng cho phẩm chất
con người trong cuộc sống? Người ta rút ra được từ
đó điều gì có lợi? Có lẽ không thêm tiền của, uy tín,
an sinh. Tuy nhiên chỉ khi lo vun trồng các đức tính
này con người mới có được một tương lai trên mặt đất
này. Các đức tính đó tăng trưởng là nhờ có những
người, như các bậc cha mẹ, kiên trì giáo dục những
thế hệ mới đạt tới sự thiện. Sứ điệp Kitô giáo khích lệ
chúng ta hướng tới một cái gì đó vĩ đại hơn, đẹp đẽ
hơn, phiêu lưu hơn và hứa hẹn nhiều hơn. Đó là nhân
tính của gia đình, nhờ chút ánh sáng thần linh hiện
diện trong đó mà ngay cả tội lỗi cũng không lấy đi
được, có thể đổi mới xã hội theo kế hoạch của Đấng
MỤC LỤC

Tạo Thành. Tình yêu Thiên Chúa thúc đẩy chúng ta


bước vào con đường biết yêu thương người thù địch,
con đường hiến thân cho người không quen biết,
quảng đại đi xa hơn những gì phải làm. Gia đình tham
dự vào sự quảng đại tràn đầy của Thiên Chúa chúng
ta: vì thế người ta có thể ngắm nhìn xa hơn và có thể
có một niềm vui sống lớn hơn, một niềm hy vọng
mạnh mẽ hơn, can đảm lớn hơn trong những chọn
lựa.

Có nhiều lời của Chúa Giêsu được ghi lại trong các
Phúc Âm soi sáng cho đời sống gia đình. Ngoài ra, sự
hiểu biết khôn ngoan của Chúa Giêsu về cuộc sống
con người được lớn lên nhờ bầu khí gia đình trong đó
Người đã sống phần lớn cuộc đời mình. Chính trong
gia đình Người đã học biết sống bao nhiêu thứ tình
cảm, đã cảm nghiệm được sự đón tiếp, sự dịu hiền, sự
tha thứ, sự quảng đại, sự tận tụy. Trong gia dình của
mình, Người đã nhận thấy rằng cho đi thì hơn là đòi
chiếm hữu, tha thứ thay cho trả thù, trao hiến thì hơn
là giữ lại cho mình, chấp nhận tiêu hao đi mà không
giữ lại sự sống của riêng mình. Việc loan báo Nước
Trời của Chúa Giêsu phát sinh trong kinh nghiệm gia
đình trực tiếp và Người xây dựng mọi mối tương
quan, khởi đi từ chính những tương quan gia đình,
trong khi soi sáng những tương quan đó bằng một ánh
MỤC LỤC

sáng mới và trải rộng chúng ra vượt quá biên giới của
luật cũ. Chúa Giêsu kêu mời chúng ta vượt qua nhãn
giới ích kỷ của các liên hệ gia đình và xã hội, để mở
rộng tình cảm ra vượt quá vòng chật hẹp của gia đình
riêng của mình, để trở nên men công chính cho đời
sống xã hội.

Gia đình là trường học đầu tiên dạy về tình cảm, là


chiếc nôi của sự sống con người nơi đó con người có
thể đối diện với sự ác và vượt qua. Gia đình là một
nguồn mạch quí hóa của sự thiện trao ban cho xã hội.
Gia đình là hạt giống từ đó nảy sinh ra những gia đình
khác được mời gọi để làm cho thế giới nên tốt đẹp
hơn. Thế nhưng, những mối liên hệ gia đình có thể
cản trở việc phát triển vai trò xã hội của tình cảm.
Điều này xảy ra khi gia đình chiếm hữu cho mình mọi
nguồn lực, khép kín với lối suy nghĩ chỉ quanh quẩn
trong vòng gia đình mình mà không góp một di sản
nào cho tương lai của xã hội.

Chúa Giêsu muốn giải thoát các cặp vợ chồng và gia


đình khỏi cám dỗ đóng kín vào chính mình: “Vì nếu
anh em yêu thương kẻ yêu thương mình... Nếu anh
em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm
gì lạ thường đâu?” Với những lời có tính cách mạng
này, Chúa Giêsu nhắc các thính giả của mình về cái
MỤC LỤC

họa ảnh Thiên Chúa “thuở xưa”, mời gọi họ hiến thân
mình cho tha nhân theo đường lối của Thiên Chúa,
không lo âu sợ hãi, vượt trên những tính toán và bảo
đảm lợi lộc riêng tư.

Những người nghe Chúa Giêsu ngỡ ngàng khi Người


dạy làm sao có thể con cái nên giống Chúa Cha trên
trời. Người lôi chúng ta ra khỏi sự chây lười buông
xuôi và ích kỉ, và Người nói với chúng ta một cách
mạnh mẽ rằng hãy yêu thương kẻ thù địch và cầu
nguyện cho kẻ bách hại chúng ta, điều này ở trong
tầm tay của chúng ta. Người nói chúng ta có thể loại
bỏ bạo lực khỏi con tim của mình khi ta tha thứ cho
những người xúc phạm đến mình. Người nói sự
quảng đại của chúng ta có thể vượt qua kiểu suy nghĩ
chỉ biết tính toán đổi chác thôi.

2. Anh em mới là con của Cha anh em, Đấng ngự trên
trời. Chúa Giêsu đòi hỏi cách sống đặc biệt này và
như thế Người mặc khải rằng con người được tạo
dựng để dành cho những điều cao cả này. Người tỏ lộ
trong giáo huấn là các gia đình, trong ý định của
Thiên Chúa, có thể hiến dâng sống theo con đường
yêu thương của Người.
MỤC LỤC

Trong gia đình chúng ta được dạy để biết nói “cám


ơn” và “xin vui lòng”, được dạy để trở nên quảng đại
và sẵn sàng phục vụ, sẵn sàng nhường những gì mình
sở hữu cho người khác, lưu tâm tới những nhu cầu và
cảm xúc của người khác, và nhìn tới những nỗi vất vả
và khó khăn của những người thân cận mình. Trong
những hành động nhỏ nhặt của đời sống thường ngày
con cái học biết thiết lập những tương quan tốt đẹp
với người khác và học sống chia sẻ. Vun trồng những
đức tính cá nhân là bước đầu tiên để đi tới việc giáo
dục các đức tính xã hội. Trong gia đình người ta dạy
cho trẻ con biết cho mượn đồ chơi của chúng, biết
giúp bạn ở trường, biết xin một cách lịch sự nhã nhặn,
không xúc phạm tới người yếu kém, và biết quảng đại
để làm ơn giúp đỡ. Bởi thế, người lớn cố gắng nêu
gương biết sống quan tâm, tận tụy, quảng đại, vị tha.
Như thế gia đình trở nên nơi đầu tiên để ta học biết ý
nghĩa đích thật về sự công bằng, liên đới, thanh bạch,
đơn sơ, lương thiện, chân thật và ngay thẳng, cùng
với sự say mê tìm hiểu lịch sử con người và xã hội.

Cha mẹ, như Giuse và Maria, ngạc nhiên khi thấy con
cái của mình chững chạc trước thế giới người lớn, khi
chúng tỏ ra có khả năng làm thầy dạy cho cả người
lớn: “Hai ông bà tìm thấy con trong Đền Thờ, đang
ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ vừa đặt câu hỏi.
MỤC LỤC

Ai nghe cậu nói cũng hết sức ngạc nhiên về trí thông
minh và sự đối đáp của cậu” (Lc 2, 46-47). Cũng như
gia đình Nadaret, mỗi gia đình qua con cái của mình
trao ban cho xã hội gia sản nhân loại mà mình đã
sống, gồm cả khả năng biết yêu thương thù địch, khả
năng tha thứ không nuôi thù oán, khả năng biết vui
mừng với những thành công của người khác, khả
năng trao ban nhiều hơn cả điều người khác xin ta...

Thật ra, cả trong gia đình cũng có những chia rẽ và


xâu xé, cả trong gia đình cũng nảy sinh những thù
địch, và thù địch đây có thể là người bạn đời, là cha
hay mẹ, là con, là anh hay chị, em ... Thế nhưng,
trong gia đình người ta yêu thương nhau, người ta
thành thực ước muốn điều tốt cho người khác, người
ta đau khổ khi có ai đó đau ốm, cả khi người này sống
như “thù địch”, người ta cầu nguyện cho những ai
làm mất lòng mình, người ta sẵn sàng từ bỏ những tư
hữu của riêng mình miễn sao cho người kia được
hạnh phúc, người ta hiểu rằng sự sống thật tươi đẹp
khi hi sinh cho người khác.

Gia đình là “tế bào thứ nhất và sống động của xã hội”
(Familiaris Consortio 42), bởi vì trong gia đình người
ta học biết mối liên hệ với người khác quan trọng như
thế nào. Trong gia đình người ta nhận thấy năng lực
MỤC LỤC

của tình cảm không thể bị đóng kín “giữa nội bộ” mà
thôi, nhưng phải nhằm tới một chân trời rộng lớn hơn
của đời sống xã hội. Nếu chỉ được sống trong khung
cảnh của gia đình nhỏ bé, tình cảm ấy sẽ dần trở nên
nhàm chán, và thay vì làm lan tỏa ra hơi thở của
mình, sau cùng gia đình sẽ bị nghẹt thở. Cuộc sống
của gia đình được triển nở nhờ mở rộng những mối
liên hệ và tình cảm ra bên ngoài, nếu không, con
người sẽ bị đóng kín lại như ở trong chuồng làm ta
chết mòn.

3. Cha của anh… thấu suốt những gì kín đáo. Các


mối liên hệ và tình cảm gia đình sẽ được bảo vệ tốt
hơn hơn khi người ta sống tốt và quảng đại với các
gia đình khác, khi biết quan tâm tới các nỗi đau của
họ, tới các vấn đề con cái của họ cho dù có khác với
con cái của chúng ta. Gia đình càng mở ra với xã hội,
càng biết quan tâm và trợ giúp nhu cầu của người
khác, mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái, giữa
chồng với vợ, càng tốt đẹp. Bằng cách đó, gia đình có
được những động lực để chu toàn nhiệm vụ xã hội
của mình, đồng thời trở nên nền tảng và nguồn lực
chính yếu của xã hội. Khả năng yêu thương có được
thường vượt qua những nhu cầu của gia đình riêng
của mình. Vợ chồng trở nên sẵn sàng phục vụ và giáo
dục các thanh thiếu niên khác, ngoài con cái mình:
MỤC LỤC

như thế, các cha mẹ trở nên những người cha và


người mẹ của nhiều người.

“Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên


trời là Đấng hoàn thiện”: sự hoàn thiện hay trọn lành
đem các gia đình hướng tới gần Chúa Cha là Đấng
ngự trên trời. Đó là một đời sống hiến dâng xa hơn,
bên ngoài khung cảnh gia đình, là một dấu vết của
tình yêu tràn đầy mà Thiên Chúa đổ xuống trên các
thụ tạo.

Bao nhiêu gia đình mở cửa gia đình mình để đón tiếp,
lo lắng giúp đỡ những người khó nghèo và gặp tai
ương, hoặc chỉ là gõ cửa nhà bên cạnh để hỏi xem họ
có cần giúp gì không, hoặc trao tặng một cái áo còn
tốt để làm quà, hoặc cho các bạn học của con mình
trọ nhà để cùng học và làm bài... Hoặc nữa, đón nhận
một đứa trẻ không có gia đình, giúp các gia đình chỉ
còn một ông bố hay một bà mẹ giữ được bầu khí ấm
áp của gia đình, người ta hợp lực để nâng đỡ các gia
đình khác trong muôn vàn khó khăn ngày nay, bằng
cách dạy cho con cái biết nâng đỡ hỗ trợ với người
khác biệt chúng ta về chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa
và tôn giáo. Như vậy, thế giới này được nên đẹp hơn
và đáng cư ngụ hơn cho tất cả mọi người và toàn thể
xã hội được lợi thêm phẩm chất cuộc sống.
MỤC LỤC

Không phải ngẫu nhiên mà đoạn Phúc Âm, sau khi


nhắc nhở tới sự trọn lành, lại nói về vấn đề bố thí làm
phúc. Đó là điều mà trong thời đại xa xưa, trong một
nền kinh tế tự lập, như là một cách thế để phân bổ lại
các nguồn lợi tức, một hình thức cụ thể thực hành sự
công bình xã hội. Chúa Giêsu khuyên nhủ chúng ta
đừng tìm cách để người khác nhìn nhận mình, như thể
lợi dụng người nghèo để làm cho mình được tăng uy
tín, nhưng hãy hành động cách kín đáo. Trong nơi kín
ẩn của tâm hồn cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa xác nhận
căn tính riêng của người con, rất giống Chúa Cha;
một mục tiêu cao cả, bề ngoài xem ra không thể đạt
tới được, mà cuộc sống trong gia đình làm cho nó nên
gần gũi hơn.

E. Lắng nghe Giáo huấn [của Giáo hội]

Gia đình ban tặng cho xã hội món quà quí giá của tình
yêu vô điều kiện, được khoác bộ áo của sự dịu hiền,
lòng nhân hậu, sự phục vụ, tính vô vị lợi và sự kính
trọng lẫn nhau. Hơn nữa, như đoạn sau đây của Tông
huấn Familiaris Consortio cho thấy, giáo huấn của
Giáo hội luôn nhằm làm sáng tỏ làm thế nào gia đình,
ngoài việc trở nên trường học dạy sống các tình cảm,
cũng là “trường học đầu tiên dạy các nhân đức xã
MỤC LỤC

hội”. Quả thế, gia đình có một chiều kích công cộng
riêng và độc đáo, ảnh hưởng tích cực trên hoạt động
xã hội và sự bền vững của các mối liên kết xã hội.

Nhiệm vụ xã hội của gia đình

Gia đình có những mối liên kết sống động và hữu cơ


với xã hội, bởi vì gia đình là nền tảng và là nguồn
cung ứng lương thực không ngưng nghỉ cho xã hội
nhờ bổn phận phục vụ sự sống của nó. Quả thế, từ gia
đình sinh ra các công dân và trong gia đình các công
dân này tìm được trường học đầu tiên dạy cho họ các
đức tính xã hội, là linh hồn của cuộc sống và của sự
phát triển của chính xã hội. Như thế, do chính bản
tính và ơn gọi của mình, thay vì đóng kín vào chính
mình, gia đình mở ra với các gia đình khác và với xã
hội, khi đảm nhận trách vụ xã hội của mình. Chính
kinh nghiệm về hiệp thông và tham dự, những điều
phải là đặc tính của cuộc sống hằng ngày của gia
đình, là sự đóng góp đầu tiên và căn bản của gia đình
cho xã hội. Các mối liên hệ giữa các phần tử trong
cộng đoàn gia đình được gợi hứng và được hướng
dẫn bởi luật về “sự vô cầu” (gratuità), khi tôn trọng
và cổ vũ phẩm giá con người nơi tất cả và mỗi người
như là tước hiệu của giá trị duy nhất. Luật sống đó
biến thành sự tiếp đón chân thành, những gặp gỡ và
MỤC LỤC

đối thoại, tinh thần sẵn sàng giúp đỡ không vụ lợi,


phục vụ quảng đại, liên đới sâu xa (Familiaris
Consortio, 42).

F. Những câu hỏi để thảo luận dành cho các đôi vợ


chồng và theo nhóm

Những câu hỏi dành cho các đôi vợ chồng:

1. Đâu là những giá trị mà con cái chúng ta học hỏi


được từ cách sống của chúng ta?

2. Gia đình chúng ta đã chú ý thế nào với đời sống xã


hội?

3. Đâu là sự trợ giúp của chúng ta dành cho người


nghèo và người túng thiếu?

Những câu hỏi dành cho nhóm gia đình và cộng


đồng:

1. Đâu là những nhu cầu khẩn thiết nhất trong cộng


đoàn của chúng ta?

2. Chúng ta có thể làm gì cho những người đang túng


thiếu?
MỤC LỤC

3. Đâu là những gia đình chúng ta có thể giúp đỡ? và


làm thế nào để giúp đỡ?

G. Một quyết tâm cho đời sống gia đình và xã hội

H. Cầu nguyện tự phát. Kinh Lạy Cha.

I. Bài hát kết thúc.

(Dịch từ bản tiếng Ý)

ĐÔ Phanxicô B. Trần Văn Khả


MỤC LỤC

Bài 5: Công việc và ngày lễ trong gia


đình

A. Bài hát và lời chào mở đầu


B. Kinh Chúa Thánh Thần
C. Bài đọc Lời Chúa

26 Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con người


theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con
người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú,
tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.”
27 Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh
mình,
Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên
Chúa,
Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.
28 Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa
phán với họ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy
mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển,
chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.” 29 Thiên
Chúa phán: “Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ
mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có
trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các
ngươi. 30 Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi
vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng
mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực. Liền có như
MỤC LỤC

vậy.” 31 Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra


quả là rất tốt đẹp! Qua một buổi chiều và một buổi
sáng: đó là ngày thứ sáu. 2,1 Thế là trời đất cùng với
mọi thành phần đã hoàn tất.
2 Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc
Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người,
ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi.
3 Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và
thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ, ngưng
làm mọi công việc sáng tạo của Người.
4 Đó là gốc tích trời đất khi được sáng tạo. (St 1,26 –
2, 4).

D. Giáo lý Kinh Thánh

1. Thiên Chúa phán: Chúng ta hãy làm ra con người.


Trình thuật Kinh Thánh về nguồn gốc trình bày việc
tạo dựng con người, nam và nữ, như là công trình của
Thiên Chúa, kết quả của công việc Ngài làm. Thiên
Chúa tạo dựng con người khi Ngài làm việc như
người thợ gốm nặn ra chiếc bình sành (St 2,7). Và cả
khi Ngài ban sự sống cho Dân Ngài là Israel, khi giải
phóng họ khỏi ách nô lệ của người Ai Cập và dẫn đưa
họ về Đất Hứa, công việc của Thiên Chúa cũng giống
như của người mục tử, ra công làm việc bằng cách
dẫn đoàn chiên ra đồng cỏ (x. Tv 77, 21).
MỤC LỤC

Công trình tạo dựng của Thiên Chúa được kèm theo
lời của Ngài, đúng hơn, nó được thực hiện nhờ lời của
Ngài: “Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con
người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” ...
Và Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh
mình...” Những gì Thiên Chúa làm ra, trước tiên
không “được dùng” nhưng là để được chiêm ngưỡng.
Thiên Chúa nhìn ngắm những gì Ngài đã làm ra đến
mức chúng tỏa ánh huy hoàng, Ngài thưởng lãm vẻ
đẹp của điều thiện hảo mà Ngài đã tạo dựng nên.
Dưới con mắt của Ngài, công việc làm ấy như một
kiệt tác.

Người nào còn biết ngạc nhiên vì những kỳ công của


thế giới, một cách nào đó họ làm sống lại niềm vui
của Thiên Chúa. Cũng thế, ngày nay với đức tin và
lòng đơn sơ người nào biết nhìn vẻ đẹp của vũ trụ, họ
cũng đồng thời mời gọi người khác nhận biết bàn tay
của Thiên Chúa và hiểu rằng vũ trụ này không phải là
một sản phẩm ngẫu nhiên, nhưng đó là công trình
đáng yêu của Đấng Tạo Thành dành cho con người,
loài thọ tạo không chỉ “tốt lành” như các thọ tạo khác,
nhưng còn là “rất tốt lành”.
MỤC LỤC

Lời đi kèm công trình tạo dựng của Thiên Chúa cũng
không thể thiếu nơi con người làm việc. Không bao
giờ được để cho công việc siết chặt làm nghẹt thở con
người đến nỗi phải rơi vào thinh lặng! Mất đi quyền
được lên tiếng, người lao động rơi nhào vào phận
người nô lệ, vốn là kẻ không được vui hưởng về kết
quả công việc mình làm, bởi vì bị ông chủ tước đoạt
mất.

Con người phải làm việc, để có thể sống, nhưng


những điều kiện làm việc phải cứu vãn và nhất là phải
cổ võ phẩm giá của con người họ. Thị trường việc
làm ngày nay buộc không ít người, nhất là những
người trẻ và phụ nữ, rơi vào những tình trạng luôn
bấp bênh, việc làm không cố định và thiếu bảo đảm
về mặt kinh tế và xã hội, chỉ những bảo đảm ấy mới
giúp các thế hệ trẻ tạo lập gia đình và cho các gia
đình sinh sản và dưỡng dục con cái.

Tình trạng gọi là “toàn cầu hóa” đòi hỏi thị trường
việc làm phải “uyển chuyển” sao cho thích hợp, thế
nhưng hoàn cảnh ấy không biện minh cho tình cảnh
thường xuyên “bấp bênh” của những anh chị em chỉ
dựa vào “sức lao động” của mình như nguồn lực duy
nhất bảo đảm cho nhu cầu cuộc sống của chính mình
và gia đình mình. Phải có những trù liệu xã hội và tổ
MỤC LỤC

chức an sinh bảo đảm thích hợp, giúp nền kinh tế lao
động phát triển trọn vẹn hơn, hầu giúp cho các gia
đình nhất là khi phải sống những giai đoạn thật tế nhị,
như khi sinh con, hay khó khăn hơn nữa, như khi lâm
bệnh và thất nghiệp, họ có thể trông cậy vào bảo đảm
an sinh hợp lý.

2. Thiên Chúa phán với họ... hãy sinh sôi cho đầy mặt
đất và thống trị mặt đất. Tạo thành “rất tốt đẹp”
không thể chỉ để chiêm ngắm, nhưng cũng còn là một
lời mời gọi con người hợp tác. Thực thế, đối với mọi
người làm việc là một ơn gọi tham dự vào công trình
của Thiên Chúa và, vì thế, đó chính là nơi để được
thánh hóa. Khi làm biến đổi thực tại, con người nhận
ra rằng thế giới này đến từ Thiên Chúa, là Đấng muốn
họ hoàn tất công trình tốt đẹp mà Ngài đã khởi sự.
Điều đó có nghĩa là, tình trạng thất nghiệp nghiêm
trọng như là hậu quả của khủng hoảng kinh tế thế giới
hiện nay chẳng hạn, không chỉ làm các gia đình mất
đi những phương tiện mưu sinh, nhưng còn cản trở
con người phát triển chính mình cách trọn vẹn vì kinh
nghiệm lao động bị tước mất hay bị lược giản.

Công việc không được đè bẹp con người, nhưng là


chính con người được mời gọi qua lao động “thống
trị” mặt đất (St 1,28). Toàn thể trái đất được xếp đặt
MỤC LỤC

cho con người hưởng dùng để con người, nhờ trí tuệ
và nỗ lực của mình, khám phá ra các nguồn tài
nguyên thiết yếu để sống và xử dụng chúng thật thích
đáng. Để đạt mục đích này, ngày nay hơn bao giờ hết,
chúng ta không được quên rằng trái đất được Thiên
Chúa trao phó cho chúng ta như một mảnh vườn để
biết quí trọng và vun trồng (St 2,7).

Việc sử dụng có trách nhiệm các tài nguyên thiên


nhiên của trái đất, nhằm mục đích phát triển một cách
có thể chấp nhận được, ngày nay trở nên một vấn đề ở
hàng đầu, “vấn đề môi sinh”. Môi trường thoái hóa tại
nhiều vùng trên địa cầu này, việc tăng thêm những
mức độ ô nhiễm và các yếu tố tiêu cực khác như việc
trái đất này bị hâm nóng quá độ như là những tiếng
chuông báo động vang lên gây ý thức về một kiểu
phát triển khoa học kỹ thuật nhưng lại coi thường
những hệ quả đi kèm nơi các xí nghiệp. Nghiên cứu
những chính sách công nghiệp, nông nghiệp và đô thị
đặt trọng tâm ở con người và việc bảo tồn tạo thành
thiên nhiên là điều kiện không thể bỏ qua để bảo đảm
cho các gia đình, ngay từ hôm nay và đặc biệt trong
tương lai, có một thế giới có thể ở được và có khả
năng tiếp đón.
MỤC LỤC

Sau khi đã làm việc sáu ngày tạo dựng thế giới và con
người, ngày thứ bảy Thiên Chúa nghỉ. Việc Thiên
Chúa nghỉ ngơi nhắc nhở con người cần thiết phải
tạm ngưng làm việc, để đời sống tôn giáo cá nhân, gia
đình, cộng đoàn không bị hy sinh cho các ngẫu tượng
thu góp của cải, thăng tiến địa vị, gia tăng quyền lực.
Người ta không chỉ sống bằng những mối quan hệ
nghề nghiệp, hoạt động kinh tế. Người ta cần có thời
giờ để vun trồng những mối quan hệ vô cầu thuộc
tình cảm gia đình và những mối liên hệ bạn bè và bà
con.

Tại Tây Phương nền văn hóa có xu hướng chủ yếu


thực dụng coi cá nhân chỉ trong tương quan với xã hội
sản xuất và tiêu thụ: con người thường được nhìn trên
phương diện hiệu quả sản xuất nhiều hơn vì, một khi
sẵn sàng di động và uyển chuyển về giờ giấc hơn, xét
theo tỉ lệ phần trăm, họ tiêu thụ nhiều hơn những
người sống trong gia đình.

3. Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh


chúng ta, giống như chúng ta. Được tạo dựng theo
hình ảnh và giống Thiên Chúa (St 1,26), con người,
cũng như Thiên Chúa, làm việc và nghỉ ngơi. Thời
gian nghỉ ngơi thanh bình và thời gian vui tươi của
ngày nghỉ lễ cũng là không gian để tạ ơn Thiên Chúa,
MỤC LỤC

Đấng Tạo Thành và Cứu Độ. Dừng công việc lại, con
người nhớ tới và cảm nghiệm rằng ở ngay nguồn gốc
của hoạt động lao công của họ là hành động sáng tạo
của Thiên Chúa. Sự sáng tạo của con người bắt nguồn
từ trong gốc rễ Thiên Chúa tạo dựng: chỉ có mình
Ngài tạo dựng từ hư không.

Nghỉ ngơi trong Chúa, con người còn tìm lại được
tầm mức đúng đắn của việc làm của mình đối với
tương quan với người bên cạnh. Lao động là để phục
vụ cho các mối liên hệ sâu xa hơn mà Thiên Chúa
muốn cho con người thụ tạo. Tấm bánh kiếm được do
làm việc không chỉ cho chính mình, nhưng còn để
nâng đỡ người khác đang cùng sống với ta. Qua làm
việc, vợ chồng nuôi dưỡng mối quan hệ của họ và
cuộc sống của con cái. Ngoài ra, làm việc cũng là
hành vi công bằng nhờ đó con người tham dự vào
thiện ích của xã hội và đóng góp vào thiện ích chung.

Thời gian rảnh rỗi dành cho các mối quan hệ liên vị
và xã hội, nghỉ ngơi sau khi làm việc là một cơ hội
thích hợp để nuôi dưỡng các tình cảm gia đình, và
hơn nữa còn thắt chặt các mối liên hệ bằng hữu với
các gia đình khác. Thực thế, nhịp điệu làm việc ngày
nay được xác lập bởi một nền kinh tế tiêu thụ đã hạn
chế tới mức độ hầu như phá hủy đi, nhất là trong một
MỤC LỤC

số nghề nghiệp, không gian của đời sống chung, nhất


là trong gia đình. Hoàn cảnh sống hiện thời xem ra
như chối bỏ những gì mà cho tới gần đây người ta
vẫn tưởng nghĩ. Chúng ta vẫn hằng mong đợi tiến bộ
kỹ thuật sẽ làm tăng thêm thời gian rảnh rỗi. Các nhịp
độ cuồng nhiệt của công việc, các cuộc đi lại để đến
sở làm và trở về nhà, làm giảm thiểu ghê gớm khoảng
thời gian để vợ chồng gặp mặt và chia sẻ với nhau
cũng như thời gian sống với con cái. Giữa các thách
đố gay go nhất của các nước phát triển về kinh tế, có
thách đố này: làm sao để quân bình được thời giờ
trong gia đình với thời gian làm việc. Trái lại, nhiệm
vụ khó khăn của các nước đang trên đà phát triển là
làm sao gia tăng sản xuất mà không đánh mất sự
phong phú của các mối quan hệ nhân bản, gia đình và
cộng đoàn, giải quyết và hòa hợp được mối tương
quan giữa gia đình – công việc trong bối cảnh các
cuộc di dân ra bên ngoài cũng như bên trong của cùng
một xứ sở.

4. Thiên Chúa chúc lành cho họ... Từ trình thuật về


tạo thành xuất hiện một nối kết mật thiết giữa tình
yêu vợ chồng và hoạt động lao công: quả thật, lời
chúc lành của Thiên Chúa hướng đến sự phong nhiêu
của đôi vợ chồng và việc làm bá chủ trái đất. Hai lời
chúc lành mời gọi chúng ta nhận biết sự tốt lành của
MỤC LỤC

đời sống gia đình và đời sống lao động. Bởi thế, Ngài
khuyến khích tìm một cách sống sao cho có một sự
quân bình và hài hòa giữa gia đình và việc làm. Ngày
nay vẫn có những cố gắng đi theo hướng này, thí dụ,
ở đâu có thể được và thích hợp, thì người ta có thể
sắp xếp lịch làm việc bán thời gian hoặc xin ngày
nghỉ phép sao cho phù hợp với bổn phận công việc,
và cũng tương ứng với nhu cầu của gia đình. Ta cũng
có thể xếp lịch uyển chuyển để tạo được sự quân bình
đúng đắn giữa những đòi hỏi của gia đình (nhất là
trách nhiệm chăm sóc con cái) và các yêu sách của
công việc.

Các đôi vợ chồng được chúc lành để họ nên phong


nhiêu và kết trái từ sự phong nhiêu của trái đất. Gia
đình, một khi được Thiên Chúa chúc phúc, được mời
gọi nhận ra các ơn huệ họ nhận được từ Thiên Chúa.
Một cách cụ thể để nhớ đến các ơn lành của Thiên
Chúa, Đấng là nguồn mạch của mọi ơn huệ, đó là khi
gia đình cầu nguyện xin Chúa chúc lành vào các bữa
ăn. Việc tụ họp lại để ca tụng Thiên Chúa và cám ơn
Ngài đã ban cho bữa ăn là một cử chỉ thật đơn sơ
nhưng cũng thật sâu sắc. Đó chính là bày tỏ lòng biết
ơn đối với Cha trên trời là Đấng hằng chăm lo cho
con cái mình trên mặt đất này, khi tuôn đổ trên họ ơn
MỤC LỤC

sủng biết yêu thương nhau và ban cho họ bánh để


nuôi sống.

E. Lắng nghe Giáo huấn [của Giáo hội]

Không chỉ làm việc, mà còn chính sự nghỉ lễ là một


quyền căn bản và đồng thời là một điều phúc lợi cần
thiết cho các cá nhân và cho gia đình của họ. Đó là
điều được xác quyết trong Tông huấn hậu Thượng
Hội Đồng Giám Mục Sacramentum Caritatis. Con
người, dù là đàn ông hay đàn bà, có giá trị hơn việc
làm: họ được dựng nên để hiệp thông và để gặp gỡ.
Do đó, ngày Chúa Nhật được lập nên trước hết không
như một thời gian tạm nghỉ để xóa đi sự mệt mỏi, cần
phải được lấp đầy bằng những hoạt động điên cuồng
hay bằng những kinh nghiệm lập dị. Đúng hơn, đó
phải như là một ngày của sự nghỉ ngơi và mở ra gặp
gỡ, giúp ta tái khám phá tha nhân, cho phép dành thời
gian cho liên hệ trong gia đình và bạn bè và cho việc
cầu nguyện.

Ý nghĩa của sự nghỉ ngơi và làm việc

Thời đại ngày nay người ta phải hết sức khẩn thiết
nhớ rằng Ngày của Chúa cũng là ngày nghỉ ngơi
không làm việc. Chúng tôi rất mong ước ngày này
MỤC LỤC

được công nhận như thế cả trong xã hội dân sự, như
thế để người ta có thể được nghỉ ngơi không dính bén
đến các công việc mà không sợ bị trừng phạt. Thật
thế, các Kitô hữu không phải là không có liên hệ gì
với ý nghĩa của ngày sabat trong truyền thống Do
Thái, họ nhìn ngày của Chúa cũng là một ngày nghỉ
ngơi, thong dong đối với mọi công việc lao nhọc hằng
ngày. Điều này có một ý nghĩa rõ rệt bởi vì nó là một
cách tương đối hóa công việc, bởi nó nhắm tới con
người như là mục đích: công việc là cho con người
chứ không phải con người vì công việc. Dễ thấy ngay
từ đó chính con người được bảo vệ và hệ quả là con
người được giải phóng khỏi một hình thức nô lệ. Như
tôi đã xác quyết rằng “việc làm có tầm quan trọng đầu
tiên là để thể hiện con người và để phát triển xã hội,
bởi thế nó cần phải luôn được tổ chức và triển khai
trong sự kính trọng đầy đủ phẩm giá con người và
phục vụ công ích. Đồng thời con người cần phải
không để mình nô lệ cho công việc, và không biến
công việc thành một thứ ngẫu thần, và cho rằng mình
có thể tìm trong công việc ý nghĩa cuối cùng và quyết
định cho cuộc sống”. Ngày Chúa Nhật là một ngày
dành cho Thiên Chúa, chính trong ngày đó con người
hiểu ý nghĩa của cuộc sống mình và của cả việc làm
của mình” (Sacramentum Caritatis, 74).
MỤC LỤC

F. Những câu hỏi để thảo luận dành cho các đôi vợ


chồng và theo nhóm

Những câu hỏi dành cho các đôi vợ chồng:

1. Chúng ta có cảm thấy mình được thể hiện trong


hoạt động lao công của chúng ta không?

2. Chúng ta có trao đổi với nhau về kinh nghiệm làm


việc của mình không?

3. Thi hành nghề nghiệp có đối kháng với các mối


liên hệ vợ chồng và gia đình không?

4. Chúng ta có thói quen cầu nguyện vào bữa ăn


không? Việc làm phép của ăn có ý nghĩa gì đối với
chúng ta?

Những câu hỏi dành cho nhóm gia đình và cộng


đồng:

1. Cộng đoàn Kitô giáo chúng ta có quan tâm tới các


vấn đề việc làm và kinh tế không?

2. Trong thông điệp Caritas in Veritate, Đức giáo


hoàng Bênêđictô XVI nói về các điều kiện để có một
MỤC LỤC

“việc làm xứng đáng” (số 63): chúng ta phải làm thế
nào để bảo đảm cho tất cả mọi người một công việc
xứng đáng?

3. Uyển chuyển trong vấn đề việc làm là một cơ hội


hay một tai họa?

4. Đâu là những hình thức ngẫu tượng trong công


việc có ở trong xã hội chúng ta đang sống?

G. Một quyết tâm cho đời sống gia đình và xã hội

H. Cầu nguyện tự phát. Kinh Lạy Cha.

I. Bài hát kết thúc.

(Dịch từ bản tiếng Ý)

ĐÔ Phanxicô B. Trần Văn Khả


MỤC LỤC

Bài 6: Công việc: nguồn sống đối với


gia đình

A. Bài hát và lời chào mở đầu


B. Kinh Chúa Thánh Thần
C. Bài đọc Lời Chúa

10 Tìm đâu ra một người vợ đảm đang?


Nàng quý giá vượt xa châu ngọc.
11 Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng,
chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc.
12 Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc
chứ không gây tai hoạ cho chồng.
13 Nàng tìm kiếm len và vải gai,
rồi vui vẻ ra tay làm việc.
14 Giống như những thương thuyền,
nàng đem lương thực về từ tận phương xa.
15 Nàng thức dậy khi trời còn tối,
cung cấp phần ăn cho cả nhà, và sai bảo con ăn đứa ở.
16 Nàng để mắt đến một thửa ruộng và tậu lấy;
nàng dùng huê lợi đôi tay mình làm ra
mà canh tác một vườn nho.
17 Nàng thắt lưng cho chặt,
luyện cánh tay cho mạnh mẽ dẻo dai.
18 Nàng thấy công việc sinh nhiều lợi nhuận,
đèn trong nhà thắp sáng thâu đêm.
MỤC LỤC

19 Nàng tra tay vào guồng kéo sợi,


và cầm chắc suốt chỉ trong tay.
20 Nàng rộng tay giúp người nghèo khổ
và đưa tay cứu kẻ khốn cùng.
21 Nàng không sợ người nhà bị lạnh vì tuyết sương,
bởi cả nhà đều được mặc hai áo.
22 Nàng tự tay làm lấy chăn mền,
nàng mặc toàn vải gai, vải tía.
23 Chồng nàng được tiếng thơm nơi cổng thành
khi ngồi chung với hàng kỳ mục trong dân.
24 Nàng dệt vải đem bán,
cung cấp dây lưng cho nhà buôn.
25 Trang phục của nàng là quyền uy danh giá,
nàng mỉm cười khi nghĩ đến tương lai.
26 Nàng khôn ngoan trong lời ăn tiếng nói
và dịu hiền khi dạy dỗ bảo ban.
27 Nàng để mắt trông nom mọi việc trong nhà,
bánh nàng ăn là do mồ hôi nước mắt nàng làm ra,
28 con nàng đứng lên ca tụng nàng có phúc,
chồng nàng cũng tấm tắc ngợi khen:
29 “Có nhiều cô đảm đang,
nhưng em còn trổi trang gấp bội.”
30 Duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là phù vân.
Người phụ nữ kính sợ Ðức Chúa
mới đáng cho người đời ca tụng.
MỤC LỤC

31 Hãy để cho nàng hưởng những thành quả tay nàng


làm ra.
Ước chi nơi cổng thành nàng luôn được tán dương ca
tụng
do những việc nàng làm. (Cn, 31,10-31)

D. Giáo lý Thánh Kinh

1. Tìm đâu ra một người phụ nữ đảm đang? Theo mô


tả của sách Châm ngôn, hoạt động của người phụ nữ
mang một giá trị quan trọng hàng đầu trong kinh tế
gia đình. Người phụ nữ, là khuôn mặt của sự khôn
ngoan nhân loại và thần linh, qua công việc của mình
thể hiện thiên tài sáng tạo của cả nhân loại. Thật vậy,
các phẩm chất được gán cho người phụ nữ, có thể có
giá trị đối với mọi người được mời gọi ý thức trách
nhiệm đối với gia đình và công việc.

Mô tả này là chân dung của người phụ nữ lý tưởng


sống các mối tương quan tốt đẹp ở giữa gia đình.
Trong Israel, tin tưởng vào tài khéo tổ chức công ăn
việc làm của người vợ, người chồng có thể toàn tâm
theo nghề quan tòa, vốn là vai trò thuộc về những
người đàn ông khôn ngoan, bình thường họ là những
người lớn tuổi đã đắc thủ được sự khôn ngoan theo
thời gian.
MỤC LỤC

Phân chia nhiệm vụ như thế giữa việc nội trợ và việc
nghề nghiệp cho thấy rõ tầm quan trọng của việc
người chồng và người vợ nhất trí chung khi lên kế
hoạch công việc của cả hai. Mỗi người được kêu mời
làm hết sức mình để người kia có thể thể hiện tài năng
của mình tốt hơn. Đến lượt mình, xã hội phải trợ giúp
gia đình hết mức để các đôi vợ chồng có thể chọn lựa
công việc của mình một cách tự do và có trách nhiệm.
Con cái cũng vậy, cùng với người chồng, ca ngợi
người mẹ, tán dương các ơn thiên phú của bà. Với
những nét hẳn rất lý tưởng, bức tranh gia đình này
được đưa ra như một khuôn mẫu từ đó có thể rút ra
cảm hứng và hứng khởi. Gia đình mẫu mực sống
trong sự kính sợ Chúa và đặt niềm tin tưởng vào
Ngài. Sự thịnh vượng mà gia đình thụ hưởng, được
nhìn nhận như là ơn Chúa ban, được gìn giữ và nâng
cao giá trị nhờ làm việc siêng năng hằng ngày.

Người phụ nữ cảm thấy trách nhiệm được giao và cố


gắng hết sức để sống phù hợp với bổn phận được yêu
cầu. Qua thái độ của mình, người phụ nữ mời gọi mọi
người không chỉ chịu trách nhiệm về hành động của
mình, mà còn biết quan tâm đến các thành viên khác
trong gia đình và lưu tâm đến đời sống xã hội góp
phần vào công ích. Các ơn huệ và tài năng thiên phú
MỤC LỤC

riêng vừa là một trách nhiệm đối với Chúa vừa là


trách nhiệm đối với tha nhân. Tư tưởng này tương
ứng với dụ ngôn các nén bạc được trao cho mỗi người
để sinh lợi (x. Mt 25,14-30).

2. Nàng thức dậy khi trời còn tối. Việc người phụ nữ
thức khuya dậy sớm vì công việc nói lên một lòng
hăng say loại trừ mọi hình thức lười biếng. Sự siêng
năng của người phụ nữ, không hề chểnh mảng, sau
cùng được nhấn mạnh trong bản văn và được ghi
nhận rằng nàng “để mắt trông nom mọi việc trong nhà
và không ăn thứ bánh không bởi mồ hôi nước mắt
nàng làm ra”. Mọi người được mời gọi biết tỉnh thức
luôn để không sa chước cám dỗ làm biếng, xem nhẹ
trách nhiệm riêng của bản thân và lơ là nhiệm vụ.

Chân dung người phụ nữ lý tưởng, không chút lười


biếng, là hình ảnh tiêu biểu của những ai không sợ lao
nhọc và hy sinh vì biết rằng việc mình bỏ sức ra
không uổng công nhưng mang một ý nghĩa. Thật vậy,
với công việc của mình, người ấy chu cấp cho nhu
cầu của gia đình mình và ngay cả có thể trợ giúp
người nghèo và người hành khất.

Tấm gương này, luôn mang tính thời sự, chất vấn đời
sống gia đình. Trong các trách nhiệm của gia đình
MỤC LỤC

cũng có trách nhiệm mở lòng ra trước nhu cầu của kẻ


khác dù ở xa hay gần. Sự quan tâm đến người nghèo
là một trong những hình thức yêu thương tha nhân
đẹp nhất mà gia đình có thể sống. Ý thức việc làm
của mình giúp đỡ được ai đó đang sống trong thiếu
thốn, thêm sức cho ta dấn thân và nâng đỡ khi ta mệt
mỏi. Mặt khác, khi cho người túng thiếu, chia sẻ với
người nghèo những tài nguyên mình có tức là nhìn
nhận rằng tất cả mọi sự mà chúng ta đã đón nhận đều
là hồng ân, và ở cội rễ của mọi sự thịnh vượng ta
đang có dẫu sao cũng là bởi ơn Chúa, chúng ta không
thể khư khư giữ lại cho mình, mà cần phải chia sẻ với
kẻ khác. Với thái độ như thế người ta làm thăng tiến
công bình xã hội và góp phần vào công ích, phủ nhận
một thái độ sống ích kỷ chỉ biết chiếm hữu của cải và
dửng dưng đối với ích chung.

3. Nàng khôn ngoan trong lời ăn tiếng nói. Một phẩm


chất đặc biệt của gia đình lý tưởng là không ngồi lê
đôi mách. Người ta nói với nhau về điều gì ở trong
gia đình? Đâu là nội dung của các cuộc nói chuyện?
Nét duyên dáng của người phụ nữ như mô tả trong
sách Châm ngôn cũng có được là do nàng biết “khôn
ngoan trong lời ăn tiếng nói và dịu hiền khi dạy dỗ
bảo ban”. Nhiệm vụ của cha mẹ là dạy dỗ con cái
thực thi điều thiện và tránh điều ác và cuối cùng là
MỤC LỤC

yêu chuộng giới răn yêu thương Thiên Chúa và tha


nhân. Cuộc sống xứng hợp của cha mẹ củng cố và
làm cho giáo huấn của họ trở nên xác thực, nhất là khi
liên quan đến thực thi điều thiện và sống yêu thương.
Mẫu gương của người sống điều mình dạy vẫn mãi có
giá trị, và nhất là ngày nay, vẫn giữ được tất cả hiệu
quả không thể sánh được của nó.

Truyền thông ngày nay thường bị bóp méo. Người ta


nói nhiều và gởi những thông điệp hời hợt, thiếu trách
nhiệm về những hậu quả của điều mình nói. Người có
trách nhiệm thường tìm kiếm sự thật về các sự kiện
và nói về điều mình xác tín. Sự khôn ngoan trong
Kinh Thánh kêu gọi ta tránh dối trá và những lời nói
vô bổ. Gia đình Kitô hữu, lắng nghe Lời Chúa, có
trách nhiệm lớn lao làm chứng cho Lời Chúa một
cách trung thành, tránh để Lời Chúa bị bóp nghẹt bởi
nhiều lời vô ích.

Trong một xã hội mà truyền thông bị bóp méo và dối


trá là nguyên nhân của biết bao đau khổ và ngộ nhận,
gia đình có thể trở nên bối cảnh thuận lợi cho việc
giáo dục sự chân thành và sự thật. Biết chấp nhận
những sai lầm của mình, xin tha thứ và mang lấy
trách nhiệm của mình một cách phù hợp, là một lối
MỤC LỤC

sống hoàn toàn không tự phát, đó là điều cần dạy cho


con cái ngay từ tuổi thơ ấu nhất.

Khôn ngoan trong lời ăn tiếng nói, người phụ nữ lý


tưởng “dịu hiền khi dạy dỗ bảo ban’. Sự khôn ngoan
của lời ăn tiếng nói hệ tại ở chỗ lên tiếng bảo vệ sự
thiện, tránh những lời nói chỉ có tính chỉ trích làm
hủy hoại cuộc đối thoại trong gia đình. Để đạt mục
đích đó, phải lắng nghe Lời Chúa, để một khi phẩm
chất của truyền thông được soi sáng và nên phong
phú, đời sống gia đình được phúc âm hóa hơn.

4. Tin tưởng nàng nghĩ đến tương lai. Đời sống gia
đình, và đời sống của người phụ nữ trong gia đình,
không dễ dàng và không ở trong tầm tay, như được
mô tả rất lý tưởng trong sách Châm ngôn. Chẳng hạn,
như người nữ buộc phải làm việc gấp đôi cả trong và
ngoài nhà. Các đôi vợ chồng nếu, chẳng hạn như, biết
chia sẻ với nhau nhiệm vụ gia đình và cộng tác với
nhau trong những việc nhà, đó là điều hết sức quan
trọng có tính quyết định, cả về phương diện thực tế
lẫn tình cảm. Ngày nay sự hiện diện của ông bà trở
nên thật quý giá biết bao đối với nhiều gia đình, thế
nhưng có thể có nguy cơ đóng góp của họ đối với gia
đình được nhìn nhận quá ít và bị bóc lột thái quá.
MỤC LỤC

Sự duyên dáng của người phụ nữ trong tin tưởng


hướng đến tương lai, tức sống hy vọng về tương lai,
là hết sức thời sự. Ngay trong những lao nhọc hằng
ngày, nhiều gia đình nên như một dấu chỉ hy vọng
đích thực đối với xã hội chúng ta. Đức trông cậy bắt
nguồn từ lòng tin tưởng vào Chúa Quan phòng.

Đối với mỗi người vợ và người mẹ ta phải có bổn


phận bày tỏ lòng hết sức biết ơn. Sách Châm ngôn lưu
ý: “Hãy tỏ lòng biết ơn họ về thành quả do tay họ làm
nên”. Công việc nội trợ trông nom nhà cửa, giáo dục
con cái, giúp đỡ người già và người đau yếu, có một
giá trị xã hội cao hơn nhiều nghề nghiệp lao động với
lương cao. Ta phải biết ơn và đánh giá xứng đáng sự
đóng góp không thể thay thế được của người phụ nữ
vào việc đào tạo gia đình và phát triển xã hội.

Gia đình là bối cảnh cho việc rèn luyện nhiều nhân
đức, và cũng là trường dạy biết ơn cha mẹ đã dấn thân
quảng đại vô cầu và yêu thương. Học biết nói lời
“cám ơn” trân trọng là điều thật cần thiết.

“Ơn huệ và trách nhiệm” là một cặp nhân tố trong đó


công việc của gia đình và của mỗi người trong gia
đình gắn liền với nhau. Mọi người được mời gọi nhận
ra các ơn huệ mình đón nhận từ Chúa, và sẵn sàng
MỤC LỤC

dùng những ơn riêng của mình mà phục vụ người


khác và quí trọng những ơn riêng của người khác.
Mỗi người có trách nhiệm đối với cuộc sống của
người khác. Nhờ lao động, mỗi người mang thiện ích
đến cho mọi người trong gia đình và cũng có thể góp
phần giúp đỡ ai đang thiếu thốn. Sống như thế, tình
cảm và mối liên hệ gia đình được trải rộng đến mức
có thể nhận thấy nơi mỗi người nam và mỗi người nữ
là anh chị em, tất cả đều là con cái cùng một Cha trên
trời.

E. Lắng nghe Giáo huấn [của Giáo hội]

Công việc là một nguồn lợi cho gia đình theo hai
nghĩa, trước hết nó là một nguồn nuôi sống và phát
triển gia đình, và đồng thời đó cũng là nơi thực thi sự
liên đới giữa các gia đình và giữa các thế hệ với nhau.
Giáo huấn của Giáo hội gợi ý liên kết công việc với
gia đình. Ngoài ra, làm sao ta có thể hình dung ra
được một mô hình phát triển nào đó không có gia
đình mà lại có thể mang lại hoa trái, và qua các chọn
lựa riêng phong nhiêu có thể định hướng cho những
phát triển về sau?

Thông điệp Laborem Exercens đề nghị liên kết công


việc với gia đình và nhắc chúng ta nhớ rằng “gia đình
MỤC LỤC

vừa là một cộng đoàn được hiện thực hóa nhờ lao
động và là trường lao động nội bộ đầu tiên cho mỗi
người” [Laborem Exercens, 10].

Công việc và gia đình

Lao động là căn bản để hình thành cuộc sống gia


đình, và cuộc sống gia đình vốn là một quyền tự
nhiên và là một ơn gọi của con người. Cả hai phạm
trù giá trị - một nối kết với lao động, còn phạm trù kia
tương hợp với tính cách gia đình của đời sống con
người - cần phải kết hợp với nhau một cách đúng đắn,
và một cách đúng đắn thẩm thấu lẫn nhau. Lao động
theo một cách nào đó là điều kiện để có thể xây dựng
một gia đình, vì để xây dựng gia đình người ta cần
phải có những phương tiện sinh sống, mà theo cách tự
nhiên con người có được là nhờ làm việc. Làm việc
và siêng năng làm việc cũng là điều kiện cho mọi tiến
trình giáo dục trong gia đình, chính vì lý do là: mỗi
người “trở thành người”, ngoài những yếu tố khác,
còn phải qua làm việc, và việc trở thành người diễn tả
đúng mục tiêu chính yếu của mọi quá trình giáo dục.
Dĩ nhiên, theo một nghĩa nào đó, ở đây có liên hệ đến
hai phương diện của lao động: phương diện tạo điều
kiện cho sự sống và duy trì cuộc sống gia đình, và
phương diện nhờ đó thực hiện được các mục đích của
MỤC LỤC

chính gia đình, nhất là giáo dục. Tuy nhiên hai mục
đích này liên kết với nhau và bổ túc cho nhau về
nhiều mặt.

Nói chung cần phải nhớ và xác định rằng gia đình là
một trong những tiêu chí tham chiếu quan trọng nhất,
và trật tự đạo đức - xã hội của lao động cần phải được
thiết lập theo đó. Giáo lý của Hội thánh luôn dành
một sự quan tâm đặc biệt đối với vấn đề này, và
chúng ta sẽ còn phải trở lại với đề tài đó trong văn
kiện này. Thật vậy, gia đình vừa là một cộng đoàn
được hiện thực hóa nhờ lao động và là trường lao
động nội bộ đầu tiên cho mỗi người. [Laborem
Exercens, 10]

F. Những câu hỏi để thảo luận dành cho các đôi vợ


chồng và theo nhóm

Những câu hỏi dành cho các đôi vợ chồng:

1. Chúng ta có cảm tạ Chúa vì Ngài đã ban cho ta


công việc làm để nuôi sống gia đình chúng ta không?

2. Nơi chúng ta, con người lao động và ơn gọi làm vợ


chồng và làm cha mẹ tương quan với nhau như thế
nào?
MỤC LỤC

3. Việc nhà và chăm sóc con cái có được chia sẻ bởi


cả hai người không?

Những câu hỏi dành cho nhóm gia đình và cộng đoàn:

1. Trong thế giới lao động có tồn tại những phân biệt
bất công giữa người nam và người nữ, giữa người nữ
độc thân và người nữ đã lập gia đình không?

2. Gia đình, trường học, giáo xứ có vai trò giáo dục


nào trong việc đào tạo giới trẻ về giá trị của lao động
và về trách nhiệm xã hội?

3. Làm thế nào khôi phục lại tình liên đới trong thế
giới lao động ngày nay? Giáo hội có thể giúp đỡ thế
nào?

G. Một quyết tâm cho đời sống gia đình và xã hội

H. Cầu nguyện tự phát. Kinh Lạy Cha.

I. Bài hát kết thúc.

Gioakim Trương Đình Giai


MỤC LỤC

Bài 7: Công việc: thách đố đối với gia


đình

A. Bài hát và lời chào mở đầu


B. Kinh Chúa Thánh Thần
C. Bài đọc Lời Chúa

8 Rồi Ðức Chúa là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở


Êđen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính
mình nặn ra.

9 Ðức Chúa là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ


mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường
sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác.
10 Một con sông từ Êđen chảy ra tưới khu vườn, và
từ đó chia thành bốn nhánh. 15 Ðức Chúa là Thiên
Chúa đem con người đặt vào vườn Êđen, để cày cấy
và canh giữ đất đai (St 2, 8-10.15)

17 Với con người, Chúa phán: “Vì ngươi đã nghe lời


vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng:
“Ngươi đừng ăn nó”,

nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi;

ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi,


MỤC LỤC

mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra.

18 Ðất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn


cỏ ngoài đồng.

19 Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn,

cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được


lấy ra.

Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.” (St 3, 17-


19)

D. Giáo lý Thánh Kinh

1. Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Êđen. Vườn ở


Êđen là một ơn huệ Chúa ban, là một nơi rất đẹp,
nhiều nước tưới cả thế giới. Nhiệm vụ đầu tiên Chúa
giao cho con người sau khi tạo dựng là làm việc trong
vườn của mình, trồng trọt và chăm nom vườn. Hơi
thở sự sống mà Chúa thổi vào con người, làm cho con
người giàu tính sáng tạo và sức mạnh, thông tuệ và
sức sống, để họ có thể cộng tác vào công trình tạo
dựng của Ngài.
MỤC LỤC

Thiên Chúa không ghen tỵ về công trình của họ mà


để công trình ấy tùy con người sử dụng, không chút
nghi kỵ và rất mực quảng đại. Ngài không chỉ giao
cho con người trông nom mọi thụ tạo khác mà còn
ban cho họ thần khí để họ tham gia một cách tích cực
vào công trình tạo dựng, tạo dựng chúng theo ý định
của Người. Thần Khí là nguồn mạch Thiên Chúa đã
để trong con người để họ trông nom toàn thể tạo
thành cho Người và với Người.

Con người không được tạo nên, như theo quan niệm
của một số tôn giáo Đông Phương Cổ đại, để thay thế
công việc của các vị thần hay để trở thành những
người nô lệ phục vụ thấp hèn nhất của họ. Thiên
Chúa muốn tạo dựng con người để họ trông coi thọ
tạo thiên nhiên và cộng tác tích cực vào công trình
sáng tạo.

Trong truyền thống Thánh kinh công việc tay chân


được đánh giá cao và trong các trường đào tạo rabbi
chúng được kết hợp với việc học. Ngày nay đứng
trước sự người ta ngày càng coi thường đối với một
số nghề nghiệp, đặc biệt là những nghề thủ công, thật
đúng lúc ta cần khám phá lại giá trị của lao động chân
tay. Sự chăm nom và canh tác mảnh vườn trái đất mà
Thiên Chúa giao phó cho con người không chỉ liên
MỤC LỤC

quan đến trí óc và con tim, nhưng phải dùng đến cả


đôi tay. Lao động nông nghiệp và việc sản xuất thủ
công và công nghiệp vẫn là hai cột trụ của lao động
nhờ đó con người góp phần vào sự phát triển của mỗi
người và toàn xã hội. Như Thông điệp Laborem
Exercens, số 9 nói: “Lao động là một thiện hảo của
con người – là một thiện hảo cho nhân tính – vì qua
lao động con người không chỉ biến đổi thiên nhiên để
nó đáp ứng nhu cầu của riêng mình, mà còn thực hiện
chính mình như là người hay đúng hơn, theo một
nghĩa nào đó, ta “trở nên người hơn”.

2. Ðức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào


vườn Êđen. Thiên Chúa không chỉ trồng một cái
vườn, mà còn để cho con người ở đó. Vườn địa đàng
được trao phó cho con người để họ sống hiệp thông
với nhau và, bằng lao động, chăm lo cuộc sống lẫn
nhau. Lao động không phải là một hình phạt của
Chúa, như người ta tưởng tượng trong các truyền
thuyết cổ xưa, cũng không phải là một tình cảnh nô
lệ, như người ta nghĩ trong văn hóa Hy-La. Đúng hơn,
đó là một hoạt động căn bản của mỗi người. Thế giới
đợi chờ con người bắt tay vào việc. Họ có khả năng
và trách nhiệm thực hiện trong thế giới thụ tạo này kế
hoạch của Thiên Chúa Tạo Hóa. Dưới ánh sáng này,
MỤC LỤC

lao động là một hình thức con người sống mối tương
quan và sự trung thành của mình với Chúa.

Như thế làm việc không phải là cùng đích của cuộc
sống. Nó luôn được coi cách chính đáng chỉ như là
phương tiện. Sự hiệp thông và chia sẻ trách nhiệm
của con người với Đấng Tạo Hóa mới là cùng đích.
Nếu lao động mà trở thành cùng đích, thì nó biến
thành một ngẫu thần, và như thế lao động của con
người không còn là cộng tác với Thiên Chúa như
Ngài đòi hỏi. Thiên Chúa không chỉ đòi hỏi con
người lao động nhưng yêu cầu họ “lao động bằng cày
cấy và canh giữ” công trình tạo dựng của Chúa. Con
người không chỉ tự thân làm việc, mà cộng tác với
công trình của Thiên Chúa. Thế nhưng, việc cộng tác
này là tích cực và có trách nhiệm, bởi lẽ, để tránh lười
biếng và thực hành siêng năng, con người đã “làm
việc”: họ “cày cấy và canh giữ” đất đai.

Lao động được dự kiến dành cho con người trong


vườn Êđen là công việc của người nông dân, chủ yếu
là chăm nom đất đai để được phì nhiêu, hạt giống
được gieo vãi trong đó trổ sinh muôn hoa trái dồi dào.
Phát triển thế giới thiên nhiên mà không biến nó
thành dị dạng, làm giàu từ những quy luật vốn được
ghi trong thiên nhiên, dấn thân phục vụ nhân loại,
MỤC LỤC

phục vụ mọi người nam và người nữ được tạo dựng


theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, hành động để
giải thoát con người khỏi mọi hình thức nô lệ ngay cả
nô lệ lao động: đó là một số nhiệm vụ được giao cho
con người để họ góp phần vào việc biến nhân loại
thành một đại gia đình duy nhất.

3. Để họ cày cấy và canh giữ đất đai. Trong khi trình


thuật tạo dựng thứ nhất (St 1) trình bày con người
thống trị muôn thú và làm bá chủ trái đất, trong trình
thuật thứ hai (St 2) người ta muốn nói đến việc gieo
giống và việc canh tác. Và nếu như trong trình thuật
thứ nhất người ta không có ý nói đến một sự thống trị
độc đoán, mà đúng hơn nói đến vương quyền của một
vị vua quảng đại chỉ tìm kiếm lợi ich cho dân của
mình một cách khôn ngoan và công bình, trong trình
thuật thứ hai người ta nói đến sự kiên nhẫn và hy
vọng, trong khi chờ đợi hoa trái.

Trong thời gian chờ đợi, con người được yêu cầu
sống đức trung tín, giống như nhân đức được đòi hỏi
ở những người, tại Israel, lo việc phục vụ tôn giáo
trong đền thờ. Hơn nữa, sự siêng năng làm việc của
con người đòi hỏi tính khiêm tốn của người nông dân
chăm nom đất đai để đoán biết làm sao canh tác nó tốt
MỤC LỤC

hơn, giống như sự khiêm hạ của người thợ mộc đục


xẻ gỗ mà vẫn tôn trọng các đường vân của nó.

Sự khai thác đúng đắn nguồn tài nguyên trái đất bao
hàm việc bảo vệ công trình tạo dựng và liên đới với
các thế hệ tương lai. Một ngạn ngữ Ấn độ dạy rằng
chúng ta “không bao giờ được nghĩ rằng mình được
thừa hưởng trái đất này từ cha ông chúng ta mà là
đảm lấy nó để chuyển giao lại cho con cái chúng ta”.
Nhiệm vụ bảo vệ trái đất đòi hỏi ta phải tôn trọng
thiên nhiên, nhìn nhận trật tự theo ý muốn của Tạo
Hóa. Như thế, lao động của con người mới thoát khỏi
nỗi cám dỗ phung phá tài nguyên và làm biến dạng vẻ
đẹp của hành tinh trái đất, trái lại sẽ làm cho nó trở
nên, theo ước mong của Thiên Chúa, khu vườn chung
sống và là nơi hòa hợp gia đình nhân loại, được Cha
trên trời chúc phúc.

4. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn.


Nguy cơ lao động trở thành ngẫu tượng cũng đáng
cho gia đình phải lưu tâm. Điều đó xảy ra khi công
việc chiếm vị trí tuyệt đối trổi vượt hơn các mối quan
hệ gia đình, khi cả hai vợ chồng bị choán bởi lợi
nhuận kinh tế và đặt hạnh phúc của mình chỉ ở nơi
sung túc vật chất. Mối nguy của người lao động ở mọi
thời là quên Thiên Chúa, để mình bị hút hoàn toàn bởi
MỤC LỤC

những bận tâm trần thế, với xác tín là nơi đó người ta
có thể thỏa mãn mọi ước muốn. Để tránh khỏi những
lạc hướng này, cần có sự cân bằng đúng mực trong
làm việc, điều đó đòi hỏi gia đình biết phân định
những chọn lựa giữa việc nhà và việc nghề nghiệp.
Về mặt này, nguyên tắc vốn chỉ giao phó việc nội trợ
và trông nom nhà cửa cho người phụ nữ có vẻ bất
công. Cả gia đình phải dấn thân vào nhiệm vụ này
theo một sự phân chia nhiệm vụ công bằng. Trái lại,
về hoạt động nghề nghiệp, dĩ nhiên làm sao vợ chồng
cần thống nhất với nhau tránh việc vắng nhà quá lâu.
Tiếc thay, trong thực tế nhu cầu chu cấp nuôi sống gia
đình rất thường không để cho đôi vợ chồng có thể
chọn lựa một cách khôn ngoan và hài hòa.

Bỏ bê đời sống đạo đức và gia đình là đi ngược lại


giới răn yêu thương đối với Thiên Chúa và tha nhân,
là giới răn mà Đức Giêsu đã chỉ ra như giới răn đầu
liên và lớn nhất (x. Mc 12,28-31). Nhận ra tình yêu
của Chúa Cha với mọi ơn Ngài ban, sống trong chân
trời như thế là điều Thiên Chúa mong ước đối với
mỗi gia đình. Nhận ra tình yêu của Cha trên trời và
sống tình yêu đó dưới thế là ơn gọi riêng của mỗi gia
đình.
MỤC LỤC

Sự mệt nhọc là thành phần làm nên lao động. Trong


thời đại hiện nay sống theo kiểu muốn “mọi sự và
ngay lập tức”, việc giáo dục lao động “đổ mồ hôi”
xem ra được Chúa quan phòng. Điều kiện cuộc sống
trên trái đất, vốn chỉ tạm thời và luôn mong manh, cả
đối với với gia đình, gắn liền với sự mệt nhọc và đau
khổ, nhất là liên quan đến công việc phải làm để mưu
sinh. Sự khó nhọc trong lao động trở nên có ý nghĩa
và được xoa dịu khi nó được đảm nhận không phải vì
lý do để làm giàu ích kỷ cho bản thân, nhưng để chia
sẻ nguồn tài nguyên cuộc sống, bên trong và ngoài
gia đình, nhất là với những người nghèo hơn, phù hợp
với hướng chảy phổ quát của phúc lợi.

Đôi khi cha mẹ thái quá muốn tránh cho con cái mọi
thứ nhọc nhằn. Họ không nên quên rằng gia đình là
trường dạy lao động đầu tiên, nơi đó người ta học
chịu trách nhiệm về mình và về những người khác
trong môi trường sống chung. Đời sống gia đình,
cùng với những việc nhà, dạy cho người ta biết quý
trọng sự mệt nhọc và củng cố ý chí hướng đến phúc
lợi cộng đồng và lợi ích chung.

E. Lắng nghe giáo huấn của Giáo hội


MỤC LỤC

Người Kitô hữu nhìn nhận giá trị của lao động, nhưng
cũng biết nhìn thấy trong đó cả những sự biến dạng
do tội lỗi gây ra. Bởi thế gia đình Kitô hữu đón nhận
lao động như một sự quan phòng đối với cuộc sống
của mình và của những người thân trong gia đình.
Nhưng gia đình phải tránh biến lao động thành một
giá trị tuyệt đối và xem khuynh hướng này, một
khuynh hướng khá phổ biến ngày nay, như là một
trong những cám dỗ thờ ngẫu tượng của thời đại. Đó
không chỉ là một xác tín khác. Cám dỗ đó áp đặt cuộc
sống gia đình bộc lộ một chọn lựa ưu tiên. Gia đình
phải bận tâm, như Thông điệp Laborem Exercens số 9
diễn tả, làm sao để trong “lao động, nhờ đó mà giá trị
vật chất được thăng hoa, phẩm giá của chính con
người không bị giảm thiểu”.

Lao động: một thiện hảo cho con người và cho phẩm
giá của con người

Tuy nhiên, với tất cả sự khó nhọc này – và có lẽ, theo


một nghĩa nào đó, nhờ đó – lao động trở thành một
điều thiện hảo cho con người. Nếu điều thiện hảo này
bao gồm dấu chỉ của một “thiện hảo khó nhọc”
(bonum arduum), theo kiểu nói của thánh Tôma, điều
này không làm mất tính chất thiện hảo của nó đối với
con người. Và nó không chỉ là một điều thiện hảo
MỤC LỤC

“hữu ích” hay “sinh ích”, mà còn một thiện hảo


“xứng đáng”, nghĩa là tương xứng với phẩm giá của
con người, một thiện hảo diễn tả phẩm giá và làm gia
tăng phẩm giá đó. Muốn xác định rõ hơn ý nghĩa đạo
đức của lao động, trước hết người ta cần phải ý thức
chân lý này. […]

Không xem xét điều này người ta không thể hiểu


được ý nghĩa của đức siêng năng, nhất là người ta
không thể hiểu tại sao sự siêng năng lại là một đức
tính. Thật vậy, nhân đức, như một thái độ luân lý, là
điều mà nhờ đó con người trở nên tốt xét như là con
người. Sự kiện này hoàn toàn không thay đổi bận tâm
chính đáng của chúng ta, là làm sao để trong lao
động, nhờ đó mà giá trị vật chất được thăng hoa,
phẩm giá của chính con người không bị giảm thiểu.
Hơn nữa, ai cũng biết người ta có thể sử dụng lao
động chống lại con người theo nhiều cách khác nhau,
người ta có thể hành phạt con người với hệ thống lao
động khổ sai trong trại tập trung, người ta có thể biến
lao động thành một phương tiện áp bức con người, và
sau cùng người ta có thể theo nhiều cách bóc lột lao
động, nghĩa là bóc lột người lao động. Tất cả những
điều này được đặt ra vì nghĩa vụ luân lý là làm sao
nối kết đức tính siêng năng với trật tự xã hội của lao
động, vốn là điều giúp con người “trở nên người hơn”
MỤC LỤC

trong lao động, chứ không thoái hóa vì lao động, làm
tổn hao không chỉ sức khỏe thể lý (điều nay ít ra theo
một mức nào đó, là không thể tránh khỏi), mà nhất là
khắc ghi phẩm giá và chủ thể tính, cái thuộc về riêng
con người. [Laborem Exercens, 9]

F. Câu hỏi để thảo luận dành cho các đôi vợ chồng và


theo nhóm

Những câu hỏi dành cho các đôi vợ chồng:

1. Chúng ta có biết nâng đỡ nhau trong những nhọc


nhằn nghề nghiệp liên hệ không?

2. Chúng ta có quan tâm tìm kiếm những cơ hội để


cùng làm những việc lao động chân tay không?

3. Con cái chúng ta có hiểu sự nhọc nhằn của lao


động và giá trị của tiền bạc kiếm được nhờ công việc
và mồ hôi nhọc nhằn không?

4. Chúng ta có biết chia sẻ các thu nhập từ công việc


chúng ta cả đối với những người nghèo không?

Những câu hỏi dành cho nhóm gia đình và cộng đoàn:
MỤC LỤC

1. Khủng hoảng kinh tế tác động đến đời sống của các
gia đình chúng ta như thế nào?

2. Trong các cộng đoàn Kitô hữu chúng ta có bận tâm


đến bao nhiêu người thất nghiệp, hay chỉ làm một
công việc tạm bợ, ít tiền hay mất vệ sinh không?

3. Gia đình có thể thực hiện được những chọn lựa cụ


thể nào để giáo dục những trẻ nhỏ biết “bảo vệ công
trình thiên nhiên”?

4. Những hình thức nô lệ trong thế giới lao động còn


tồn tại không? Làm sao để chiến thắng nó, đương đầu
với nó và vượt qua nó?

G. Một quyết tâm cho đời sống gia đình và xã hội

H. Cầu nguyện tự phát. Kinh Lạy Cha.

I. Bài hát kết thúc.

(Dịch từ bản tiếng Ý)

Gioakim Trương Đình Giai


MỤC LỤC

Bài 8: Ngày lễ: thời gian dành cho gia


đình

A. Bài hát và lời chào mở đầu


B. Kinh Chúa Thánh Thần
C. Bài đọc Lời Chúa

1 Thế là trời đất cùng với mọi thành phần đã hoàn tất.
2 Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc
Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người,
ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi.
3 Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và
thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ, ngưng
làm mọi công việc sáng tạo của Người.
4 Đó là gốc tích trời đất khi được sáng tạo (St 2,1-4a).
8 Ngươi hãy nhớ ngày sabat, mà coi đó là ngày thánh.
9 Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công
việc của ngươi. 10 Còn ngày thứ bảy là ngày sabat
kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó,
ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng
như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại
kiều ở trong thành của ngươi. 11 Vì trong sáu ngày,
Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn
loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi
vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày sabat và coi đó
là ngày thánh (Xh 20,8-11).
MỤC LỤC

D. Giáo lý Thánh Kinh

1. Ngày thứ bảy của tạo dựng. Con người tân thời tạo
nên thời giờ rảnh rỗi và đánh mất ý nghĩa của ngày
nghỉ lễ. Cần phải khôi phục ý nghĩa của ngày lễ, và
đặc biệt của ngày Chúa nhật, như là “một thời gian
cho con người”, đúng hơn là một “thời gian dành cho
gia đình”. Tìm lại được trọng tâm của ngày nghỉ lễ là
điều quyết định ngay cả để làm cho lao động mang
tính nhân văn, để mang lại cho nó một ý nghĩa mà
không giảm thiểu nó thành chỉ như một đáp ứng cho
nhu cầu, nhưng là mở ra cho quan hệ và cho chia sẻ:
với cộng đoàn, với tha nhân và với Thiên Chúa.

Ngày thứ bảy đối với người Kitô hữu là “ngày của
Chúa”, vì đó là ngày mừng kính Đấng Phục sinh hiện
diện sống động trong cộng đoàn Kitô hữu, trong gia
đình và trong đời sống cá nhân. Đó là lễ vượt qua
trong tuần. Ngày Chúa nhật không phá vỡ sự tiếp nối
với ngày sabat Do thái, nhưng đúng hơn, hoàn tất nó.
Như thế, để hiểu tính độc đáo của ngày Chúa nhật
Kitô giáo, ta cần quy chiếu về ý nghĩa của giới răn
ngày sabat. Để thánh hóa ngày nghỉ lễ, theo giới răn
đó, dân Chúa cần phải dành một thời gian cho Thiên
Chúa và cho con người. Trong Cựu ước có một mối
MỤC LỤC

liên hệ chặt chẽ giữa ngày thứ bảy của tạo dựng và
luật thánh hóa ngày sabat. Giới răn ngày sabat, dành
riêng một thời gian cho Thiên Chúa, cũng gìn giữ ý
hướng của Ngài muốn tạo nên một thời gian dành cho
con người.

Sau sáu ngày làm việc, ngày nghỉ lễ là sự hoàn tất


công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Trong ngày thứ
nhất Thiên Chúa thiết lập thước đo thời gian với sự
đan xen ngày và đêm; vào ngày thứ tư Thiên Chúa tạo
nên các vầng sáng, mặt trời, và mặt trăng, để chúng
“làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm” (St
1,14), trong ngày thứ bảy Thiên Chúa “đã hoàn thành
công việc Người làm” (St 2,2). Khởi đầu, trung tâm
và kết thúc của tuần lễ tạo dựng được đánh dấu bởi
thời gian, có đích đến trong ngày của Chúa. Ngày thứ
bảy là thời gian nghỉ ngơi và thông truyền phúc lành
cho toàn thể tạo thành. Nó không chỉ cắt ngang dòng
sinh hoạt của con người, mà còn mang lại sự phong
nhiêu vốn gắn liền với việc nghỉ ngơi của Thiên
Chúa. Phụng tự và lễ mừng mang lại ý nghĩa cho thời
gian của nhân loại. Nhờ phụng tự thời gian đưa con
người vào hiệp thông với Thiên Chúa và Thiên Chúa
bước vào lịch sử con người. Ngày thứ bảy gìn giữ
thời gian cho con người, bảo vệ không gian của sự vô
cầu và tương quan giữa người với người.
MỤC LỤC

Ngày nghỉ lễ như là “thời gian rảnh rỗi” ngày nay


được sống trong khung cảnh của “ngày cuối tuần” có
khuynh hướng luôn nới rộng ra hơn nữa và mang tính
tản mạn và lảng tránh. Thời gian cuối tuần, nhất là
trong bầu khí kích động, làm cho ngày Chúa nhật
thành ngột ngạt. Thay vì nghỉ ngơi, người ta chuộng
giải trí, thoát khỏi thành phố, và điều đó ảnh hưởng
đến gia đình, nhất là nếu có con cái độ tuổi thanh
thiếu niên. Thật khó khăn gia đình mới có thể tìm
được một thời gian sum vầy trong thanh bình và gần
gũi. Ngày Chúa nhật mất đi chiều kích gia đình. Nó
được người ta sống như là một thời gian riêng tư “cá
nhân” hơn là “cộng đồng”. Thời gian rảnh rỗi thường
trở nên một ngày “di động” và có nguy cơ không còn
là một ngày nghỉ “tại chỗ”, để thích nghi với các đòi
hỏi của công việc và tổ chức công việc.

Người ta không chỉ nghỉ ngơi để trở lại với công việc,
mà để mừng lễ. Thật thích hợp lúc này hơn bao giờ
hết gia đình cần khám phá lại ngày nghỉ lễ như là nơi
để gặp gỡ Chúa và gần gũi nhau, bằng cách tạo ra bầu
khí gia đình, nhất là, khi con cái còn nhỏ. Bẩu khí
sống những năm đầu đời tại nhà cha mẹ vẫn được
khắc ghi mãi trong ký ức của con người. Cũng như
những hành vi đức tin vào ngày Chúa nhật và các
MỤC LỤC

ngày lễ hàng năm phải đánh dấu đời sống gia đình,
trong nhà và trong việc tham gia vào đời sống cộng
đoàn. Người ta nói rằng “không phải dân Do Thái giữ
ngày sabat cho bằng ngày sabat giữ gìn dân Do thái”.
Như thế, ngay cả ngày Chúa nhật Kitô giáo cũng gìn
giữ gia đình và cộng đoàn Kitô hữu mừng lễ, bởi vì
nó mở ra cho ta gặp gỡ mầu nhiệm thánh về Thiên
Chúa và canh tân các tương quan gia đình.

2. Giới răn thánh hóa ngày sabat. Giới răn thứ ba của
Thập giới nhắc lại cuộc giải phóng khỏi Ai Cập, là ơn
tự do tạo thành dân Israel. Đây là một “dấu chỉ trường
tồn” của giao ước giữa Thiên Chúa và con người, mà
mọi sự sống kể cả sự sống loài vật đều tham dự vào.
Trái đất (được nghỉ ngơi vào năm thứ bảy) và toàn thể
tạo thành (nghỉ trong năm thánh toàn xá, năm sabat)
cũng tham dự vào giao ước đó (Lv 25, 1-7.8-55). Vì
thế, ngày sabat của Thập giới có một ý nghĩa xã hội
và giải phóng. Giới răn này không chỉ liên hệ tới công
trình tạo dựng mà còn với hành động cứu độ: “Ngươi
hãy nhớ ngươi đã làm nô lệ tại đất Ai Cập, và Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã dang cánh tay mạnh
mẽ uy quyền đưa ngươi ra khỏi đó... Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi đã truyền cho ngươi cử hành ngày
sabat” (Đnl 5, 15). Công trình tạo dựng và tưởng
niệm việc giải phóng nối kết với nhau. “Giữ ngày
MỤC LỤC

sabat” có nghĩa là thực hiện một cuộc “xuất hành” vì


tự do của con người, vượt qua từ “kiếp nô lệ” đến
“phục vụ”. Sáu ngày con người sẽ làm việc nhọc
nhằn, nhưng ngày thứ bảy sẽ không còn việc lao dịch
nữa để con người có thể phục vụ trong hân hoan tạ ơn
và chúc tụng. Vì vậy ngày sabat giúp con người thoát
ra khỏi tình trạng lao dịch/nô lệ để đưa vào tình trạng
phục vụ/tự do.

Trong Phụng vụ có một lời nguyện tuyệt vời (Lời


nguyện tiến lễ Chúa nhật XX) có thể giúp chúng ta
tìm lại ngày nghỉ lễ như là sự hoàn tất công việc của
con người: “Lạy Chúa, xin chấp nhận lễ vật của
chúng con và thực hiện cuộc trao đổi mầu nhiệm này
giữa phận nghèo hèn của chúng con và sự cao cả của
Chúa: là cho chúng con đón nhận chính Chúa khi
chúng con dâng tiến của lễ do Chúa tặng ban”. Bản
văn gợi lên cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa sự nghèo nàn
của chúng ta và sự cao cả của Thiên Chúa. Cuộc trao
đổi này được thực hiện trong cuộc gặp gỡ giữa công
việc và ngày nghỉ lễ, giữa chiều kích “hiệu năng” và
chiều kích “vô cầu” của cuộc sống. Trong nhà và
trong cộng đoàn Kitô hữu, gia đình sống niềm vui
biến cuộc sống mọi ngày thành phụng vụ sống động.
Trong kinh nguyện gia đình, đôi vợ chồng chuẩn bị
và tỏa sáng phụng vụ sẽ được cử hành vào ngày lễ.
MỤC LỤC

Nếu con cái thấy cha mẹ mình cầu nguyện trước


chúng và với chúng, chúng sẽ học cầu nguyện trong
cộng đoàn Hội thánh.

3. Lời nguyện tiến lễ nhắc trên đây kết thúc như thế
này: cho chúng con đón nhận chính Chúa để đổi lại
(khi chúng con dâng tiến của lễ do Chúa tặng ban).
Cầu xin Chúa không chỉ được sức khỏe, thanh bình,
bình an trong gia đình, nhưng không gì hơn ngoài
chính Người. Ý nghĩa của những nhọc nhằn vất vả
ngày thường là biến công việc của chúng ta thành lễ
vật tạ ơn, nhận biết những ơn lành Chúa đã tặng ban
cho chúng ta: sự sống, người bạn đời, con cái, sức
khỏe, việc làm, những vấp ngã và đứng dậy tiếp tục
sống. Sự tự do Kitô hữu hệ tại ở việc giải phóng con
người khỏi lao dịch và trong lao động, để con người
trở nên tự do đối với Thiên Chúa và với người khác.
Người ta, nam cũng như nữ, nhất là gia đình, phải đưa
vào lối sống của mình ý nghĩa của ngày nghỉ lễ, làm
sao để sống mà không chỉ như là chạy theo mưu sinh,
nhưng còn là như cộng đoàn gặp gỡ.

Gặp gỡ Thiên Chúa và tha nhân là trọng tâm của ngày


nghỉ lễ. Bàn tiệc của ngày Chúa nhật, ở tại nhà và với
cộng đoàn, khác với bàn ăn ngày thường. Bàn ăn mỗi
ngày phục vụ cho nhu cầu sinh tồn, bàn tiệc của ngày
MỤC LỤC

Chúa nhật để sống niềm vui gặp gỡ. Bàn tiệc ngày lễ
là thời gian cho Thiên Chúa, là không gian để lắng
nghe và hiệp thông, sẵn sàng thực hành thờ phượng
và bác ái. Việc mừng lễ và phục vụ là hai hình thức
căn bản của lề luật, qua đó người ta tôn vinh Thiên
Chúa và đón nhận ơn lành yêu thương của Ngài. Khi
chúng ta thờ phượng Thiên Chúa, Ngài thông truyền
cho chúng ta tình yêu thương của Ngài cách vô điều
kiện. Khi phục vụ, ơn chúng ta nhận được trở thành
tình yêu được chia sẻ và được sống với người khác.
Ngày của Chúa còn phải trở thành một ngày của con
người! Nếu tiếp cận ngày nghỉ lễ theo cách đó, thì gia
đình có thể sống ngày nghỉ lễ như là ngày “của
Chúa”.

E. Lắng nghe Giáo huấn [của Giáo hội]

Gia đình mà biết tạm ngưng dòng thời gian liên tục và
dừng chân để cảm mến tưởng niệm những ơn lành
Chúa đã ban cho, là tập bước vào sự nghỉ ngơi của
Chúa. Gia đình được mời gọi nghỉ ngơi trong Chúa
biết định hướng lại những ngày sống tản mạn hướng
đến ngày của tạ ơn. Gia đình biết biến những chờ đợi
của mỗi ngày thành sự mong đợi duy nhất Ngày của
Chúa. Gia đình trở về như người phong được chữa
lành để tạ ơn Chúa vì Ngài đã cứu độ mọi người. Cầu
MỤC LỤC

khẩn liên lỉ gia đình làm ngắn lại thời gian chờ đợi
ngày thứ tám, ngày mà Đấng Phu quân đã hứa với
Hiền thê: “Vâng, anh đến ngay đây!” Amen. Xin hãy
đến, lạy Chúa Giêsu (Kh 22, 20).

Ngươi hãy nhớ ngày sabat

Giới luật Thập giới qua đó Thiên Chúa buộc giữ ngày
sabat, trong Sách Xuất hành, có một công thức đặc
trưng: “Ngươi hãy nhớ ngày sabat mà coi đó là ngày
thánh” (20,8). Và hơn thế nữa, bản văn linh hứng còn
cho nó một lý do khi nhắc lại công trình của Thiên
Chúa: “Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời
đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người
đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc
phúc cho ngày sabat và coi đó là ngày thánh” (c.11).
Trước khi buộc một điều gì đó, giới luật ra một dấu gì
đó để ghi nhớ. Luật mời gọi hãy tỉnh thức tưởng nhớ
đến những công trình lớn lao và nền tảng của Thiên
Chúa, đó là tạo thành. Sự tưởng niệm ấy làm sống
động toàn thể đời sống đạo của con người, để rồi qui
về ngày mà con người được kêu gọi nghỉ ngơi. Như
thế, sự nghỉ ngơi mang một giá trị thánh thiêng tiêu
biểu: người tín hữu được mời gọi nghỉ ngơi không chỉ
như Thiên Chúa nghỉ ngơi, mà còn nghỉ ngơi trong
Chúa, qui về Người mọi công trình tạo dựng, với tâm
MỤC LỤC

tình ca ngợi, tạ ơn, trong tình thân mật con thảo và


trong tình bạn phu thê.

Đề tài “nhắc nhớ” về những kỳ công Chúa đã thực


hiện, liên quan đến ngày nghỉ lễ sabat, cũng xuất hiện
trong sách Đệ Nhị Luật (5,12-15), trong đó nền tảng
của điều luật không được lấy từ trong công trình tạo
dựng cho bằng trong công trình giải phóng của Thiên
Chúa trong cuộc Xuất hành: “Ngươi hãy nhớ ngươi
đã làm nô lệ tại đất Ai Cập, và Đức Chúa, Thiên Chúa
Chúa của ngươi, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền
đưa ngươi ra khỏi đó. Bởi vậy, Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi đã truyền cho ngươi cử hành ngày
sabat” (Đnl 5,15). Công thức này xem ra như bổ túc
cho công thức trước đây: nếu được cùng xem xét,
chúng cho thấy ý nghĩa của “ngày của Chúa” bên
trong một nhãn giới thống nhất của thần học tạo dựng
và cứu độ. Như vậy, nội dung của điều luật trước hết
không phải là ngưng làm việc, mà là mừng những kỳ
công Thiên Chúa đã thực hiện.

Trong phạm vi sống sự “tưởng niệm” này, đầy tâm


tình tạ ơn và ca ngợi Thiên Chúa, sự nghỉ ngơi của
con người, trong ngày của Chúa, mới mang ý nghĩa
đầy đủ. Với tinh thần đó, con người bước vào sự
“nghỉ ngơi” của Thiên Chúa và tham dự vào đó một
MỤC LỤC

cách sâu xa, đồng thời có thể cảm thấy một sự rung
động vui sướng mà chính Đấng Tạo hóa đã cảm thấy
sau khi tạo dựng, Ngài thấy mọi sự Ngài làm ra “đều
rất tốt đẹp” (St 1,31). [Tông Thư Dies Domini (Ngày
của Chúa), 16t.]

F. Những câu hỏi để thảo luận dành cho các đôi vợ


chồng và theo nhóm

Những câu hỏi dành cho các đôi vợ chồng:

1. Chúng ta sống phong cách ngày Chúa nhật như thế


nào ở trong gia đình chúng ta?

2. Ngày Chúa nhật của chúng ta có đúng là một ngày


“nghỉ ngơi trong Chúa” không?

3. Đối với Kinh Thánh ngày nghỉ lễ là thời gian của


sự tự do nội tâm, lắng nghe nhau và sống tình thân gia
đình: bầu khí trong nhà chúng ta trong ngày Chúa
nhật như thế nào?

4. Gặp gỡ Chúa và tha nhân là trọng tâm của ngày


nghỉ lễ: ngày Chúa nhật của chúng ta có thực sự qui
tâm về việc mừng Chúa và dành thời gian dành cho
những người khác không?
MỤC LỤC

Những câu hỏi dành cho nhóm gia đình và cộng đoàn:

1. Những lối sống ngày nghỉ lễ và thời gian rảnh rỗi


trong xã hội hiện nay như thế nào?

2. Các cộng đoàn Kitô hữu đề nghị những kinh


nghiệm nào để sống ngày Chúa nhật như là thời gian
dành cho Chúa và cho những người khác?

3. Giáo xứ và các cộng đoàn Hội thánh có giúp người


ta “giữ ngày Chúa nhật” không? Có thể đưa ra những
sáng kiến nào để thực hiện ?

4. Việc cử hành ngày Chúa nhật có thể trở thành “bụi


gai bốc cháy” giúp tìm lại ý nghĩa về Thiên Chúa như
thế nào?

G. Một quyết tâm cho đời sống gia đình và xã hội

H. Cầu nguyện tự phát. Kinh Lạy Cha.

I. Bài hát kết thúc.

Gioakim Trương Đình Giai


MỤC LỤC

Bài 9: Ngày lễ: thời gian dành cho


Chúa

A. Bài hát và lời chào mở đầu


B. Kinh Chúa Thánh Thần
C. Bài đọc Lời Chúa

23Vào ngày sabat, Đức Giêsu đi băng qua một cánh


đồng lúa. Dọc đường, các môn đệ bắt đầu bứt lúa. 24
Người Pharisêu liền nói với Đức Giêsu: “Ông coi,
ngày sabat mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được
phép!” 25Người đáp: “Các ông chưa bao giờ đọc
trong Sách sao? Ông Đavít đã làm gì, khi ông và
thuộc hạ bị thiếu thốn và đói bụng? 26Dưới thời
thượng tế Abiatha, ông vào nhà Thiên Chúa, ăn bánh
tiến, rồi còn cho cả thuộc hạ ăn nữa. Thứ bánh này
không ai được phép ăn ngoại trừ tư tế.” 27Người nói
tiếp: “Ngày sabat được tạo nên cho con người, chứ
không phải con người cho ngày sabat. 28Bởi đó, Con
Người làm chủ luôn cả ngày sabat” (Mc 2,23-28).

1Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở


Biển Hồ Tibêria. Người tỏ mình ra như thế này. 2Ông
Simôn Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông
Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con
ông Zêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với
MỤC LỤC

nhau. 3Ông Simôn Phêrô nói với các ông: “Tôi đi


đánh cá đây.” Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với
anh.” Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy
họ không bắt được gì cả. 4Khi trời đã sáng, Đức
Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không
nhận ra đó chính là Đức Giêsu. 5Người nói với các
ông: “Này các chú, không có gì ăn ư?” Các ông trả
lời: “Thưa không.” 6Người bảo các ông: “Cứ thả lưới
xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.”
Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi,
vì lưới đầy những cá. 7Người môn đệ được Đức
Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: “Chúa đó!”
Vừa nghe nói “Chúa đó!”, ông Simôn Phêrô vội
khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.
8Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới
đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào
khoảng gần một trăm thước. 9Bước lên bờ, các ông
nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả
bánh nữa. 10Đức Giêsu bảo các ông: “Đem ít cá mới
bắt được tới đây!” 11Ông Simôn Phêrô lên thuyền,
rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm
được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy
mà lưới không bị rách. 12Đức Giêsu nói: “Anh em
đến mà ăn!” Không ai trong các môn đệ dám hỏi
“Ông là ai?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. 13Đức
Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá,
MỤC LỤC

Người cũng làm như vậy. 14Đó là lần thứ ba Đức


Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ
cõi chết (Ga 21,1-14).

D. Giáo lý Kinh Thánh

1. Đức Giêsu là “Chúa” của ngày sabat. Ngày Chúa


nhật được lập ra như “sự tưởng niệm” hằng tuần việc
Chúa Giêsu sống lại, cử hành “sự hiện diện” hiện
thực của Chúa Phục Sinh, mong đợi “lời hứa” trở lại
của Chúa trong vinh quang. Trong những thời kỳ đầu
của Kitô giáo, Chúa nhật (dies dominicus) không thay
thế ngay lập tức, nhưng cộng sinh với ngày sabat của
người Do Thái. Để hiểu điều này, chúng ta phải dừng
lại ở ba điểm: mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và ngày
sabat; việc hình thành ngày thứ nhất trong tuần; ngày
Chúa nhật trong những thế kỷ đầu. Ba điểm này cho
chúng ta thấy ý nghĩa thiêng liêng và ý nghĩa thần học
của ngày Chúa nhật Kitô giáo như là sự tưởng nhớ, sự
hiện diện và lời hứa.

Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã bộc lộ một sự tự do


đặc biệt đối với ngày sabat đến mức dường như các
phép lạ thường tập trung vào ngày này: người ta nghĩ
đến đoạn Tin mừng về câu chuyện bứt bông lúa trong
ngày sabat (Mc 2,23-28; Mt 12,1-8; Lc 6,1-5); việc
MỤC LỤC

chữa lành người bị bại tay (Mc 3,1-6; Mt 12,9-14; Lc


6,6-11), chữa lành người phụ nữ còng lưng (Lc 13,10-
17) và người mắc bệnh phù thũng (Lc 14,1-6). Thánh
sử Gioan xếp việc Chúa chữa người bị bại liệt ở hồ
nước tại Bếtdatha (Ga 5,1-18) với trình thuật người
mù từ khi mới sinh cũng trong ngày sabát (Ga 9,1-
41).

Về ngày sabat, Chúa Giêsu đưa ra ba viễn tượng.


Trước hết, Chúa Giêsu xác nhận phải tôn kính giới
luật ngày sabat: vượt trên cách thực thi luật pháp của
người Pharisêu, Chúa Giêsu nhìn nhận, thực hành
(sống) và khuyên dạy ý nghĩa ngày sabat. Trình thuật
các môn đệ bứt bông lúa trong ngày sabat giải thích
Lề luật dưới ánh sáng của thánh ý Thiên Chúa: “Ngày
sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải
con người cho ngày sabát”. Ngày sabat nhắm đến sự
sống viên mãn của con người (Mc 3,4; Mt 12,11-12).

Điểm thứ hai: Chúa Giêsu hoàn thành ý nghĩa ngày


sabat nhờ giải thoát con người khỏi sự dữ. Ngày sabat
là đỉnh cao công trình của Thiên Chúa và con người
được tạo dựng cho ngày sabat đích thực, nghĩa là cho
sự hiệp thông với Thiên Chúa. Sứ mạng của Chúa
Giêsu được hoàn tất trong việc trao ban cho nhân loại
ân sủng để thực hiện ơn gọi của mình, bởi ơn gọi đó
MỤC LỤC

mà Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy đã tạo dựng con


người. Ân sủng được ban trước hết cho những người
bị tổn thương nơi thân xác và linh hồn, đó là: những
người đau yếu bệnh hoạn, những người tàn tật, những
người đui mù, những người tội lỗi. Đối với Chúa
Giêsu, ngày sabat là ngày của hành động giải thoát.

Cuối cùng, Chúa Giêsu là “Chúa” của ngày sabat.


Qua việc canh tân công trình tạo dựng và giải thoát
con người khỏi sự dữ, Chúa Giêsu mạc khải chính
mình như là sự sống viên mãn, là cùng đích của giới
luật ngày sabat. Chúa Giêsu là Chúa của ngày sabat
bởi vì Người là Con Thiên Chúa và, như là Người
Con, Người đưa ngày sabat đến viên mãn.

Để có kinh nghiệm về “sự hiện diện” của Chúa Phục


Sinh, gia đình phải để Thánh lễ Chúa nhật soi sáng.
Cử hành thánh lễ trở thành trung tâm sống động và
tưng bừng của ngày của Chúa, như Đấng Phục Sinh
hiện diện ngày hôm nay, ở nơi đây. Thánh Thể giúp
ta đạt đến bến bờ mầu nhiệm thánh của Thiên Chúa.
Gia đình tìm thấy trọng tâm của tuần lễ trong ngày
Chúa nhật, ngày bảo vệ đời sống thường nhật của gia
đình. Điều ấy sẽ xảy ra khi gia đình tự hỏi: chúng ta
có thể cùng nhau gặp gỡ mầu nhiệm Thiên Chúa
không? Đơn giản là Thánh lễ để chúng ta được gặp
MỤC LỤC

gỡ “mầu nhiệm” Thiên Chúa. Nghi lễ làm cho gia


đình tiếp xúc với nguồn mạch sự sống, hiệp thông với
Thiên Chúa và với anh em. Thật ra, còn hơn thế nữa:
mầu nhiệm Kitô giáo là sự sống mới của Chúa Giêsu
Phục sinh hiện diện trong cộng đoàn thánh thể. Thánh
lễ Chúa nhật là trung tâm của ngày Chúa nhật và ngày
lễ hội. Trong đó gia đình đón nhận sự sống mới của
Đấng Phục Sinh, lãnh nhận hồng ân của Chúa Thánh
Thần, lắng nghe Lời Chúa, chia sẻ bánh thánh, thể
hiện trong tình huynh đệ. Vì thế Chúa nhật là chủ của
mọi ngày, là ngày gặp gỡ Đấng Phục Sinh!

2. “Ngày thứ nhất trong tuần”. Chúa nhật là việc


“tưởng niệm” mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Giêsu.
Theo chứng từ phù hợp của Tin mừng, Đức Kitô đã
sống lại vào “ngày thứ nhất trong tuần” (Mc 16,2-9;
Mt 28,1; Lc 24,1; Ga 20,1). Trong ngày đó tất cả mọi
biến cố nền tảng cho đức tin Kitô giáo được hoàn tất:
Phục sinh của Chúa Giêsu, những cuộc hiện ra của
Người sau khi phục sinh, việc tuôn tràn Thần Khí.
Các Kitô hữu thời sơ khai đã lấy lại nhịp điệu một
tuần lễ của người Do Thái, nhưng từ khi Chúa sống
lại, họ đã dành cho “ngày thứ nhất trong tuần sau
ngày sabat” (Lc 24,1) một tầm quan trọng cơ bản.
Trong cấu trúc của ngày này, Gioan và Luca đã đặt
việc tưởng niệm những bữa ăn cùng với Đấng Phục
MỤC LỤC

Sinh (Lc 24,13-35 và Ga 21,1-14) với những nét đặc


trưng của một cử hành Thánh thể. Bản văn của Tin
mừng Gioan 21 diễn tả rất hay bầu khí của những
buổi gặp gỡ Thánh Thể của các cộng đoàn Kitô hữu
tiên khởi. Chúa Giêsu “cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn
và bẻ ra trao cho họ” (Ga 21,12.9-14), và “họ đã nhận
ra Người khi Người bẻ bánh” (Lc 24,30.35). Tiếp nối
những bữa ăn của Chúa Giêsu là những “buổi hội
họp” ngày thứ nhất trong tuần mà Cv 20,7 nhắc đến
như thời điểm của cộng đoàn hội họp để “bẻ bánh” và
lắng nghe Tông đồ giảng dạy, như 1 Cr 16,2 đề cập,
đó như là ngày lạc quyên cho người nghèo ở
Giêrusalem. Vì thế, Chúa nhật được đặc trưng bởi ba
yếu tố: lắng nghe Lời Chúa, bẻ bánh chia sẻ huynh
đệ, việc bác ái. Về sau Kh 1,10 gọi ngày này là “Ngày
của Chúa”. Giáo hội thời sơ khai xác định sự nối kết
giữa tính liên tục và sự khác biệt với ngày sabat như
thế. “Ngày của Chúa” là ngày tưởng niệm phục sinh.

Khi tham dự Thánh lễ, gia đình dành ra một khoảng


thời gian và không gian để, dâng hiến sức lực và
nguồn lực, học biết cuộc sống không chỉ được làm
nên bởi những nhu cầu phải thỏa mãn, mà là để xây
dựng những tương quan. Tính chất vô cầu của Thánh
lễ Chúa nhật đòi hỏi gia đình phải tham dự vào việc
tưởng niệm cuộc vượt qua của Chúa Giêsu. Trong
MỤC LỤC

thánh lễ, gia đình được nuôi dưỡng bởi bàn tiệc Lời
Chúa và Bánh Thánh Thể, bàn tiệc này sẽ cho gia
đình hưởng nếm hương vị và ý nghĩa của lời và lương
thực chia sẻ nơi bàn ăn gia đình. Ngay từ thuở nhỏ,
con cái cần được dạy để lắng nghe lời Chúa, nhờ việc
đưa vào trong gia đình điều mà các em đã được nghe
nơi cộng đoàn. Điều đó sẽ giúp chúng khám phá ra
ngày Chúa nhật như là “ngày của Chúa”. Việc gặp gỡ
Chúa Giêsu Phục sinh, vốn là tâm điểm của ngày
Chúa nhật, phải được nuôi dưỡng nhờ tưởng niệm
Chúa Giêsu, nhờ trình thuật của Tin Mừng, nhờ thực
tại bánh được bẻ ra và thân mình được trao ban. Việc
tưởng niệm Đấng Chịu Đóng Đinh đã phục sinh ghi
dấu sự khác biệt giữa ngày Chúa nhật với thời gian
rảnh rỗi. Nếu như chúng ta không gặp gỡ Người, thì
ngày lễ không có ý nghĩa gì, sự hiệp thông chỉ là một
cảm tính và việc bác ái chỉ còn là một hành vi tương
trợ chứ không mang ý nghĩa xây dựng cộng đoàn Kitô
hữu cũng như không mang tính giáo dục sứ mạng.
Trong khi dẫn chúng ta vào cung lòng Thiên Chúa,
thánh lễ Chúa nhật làm nên gia đình, và gia đình,
trong cộng đoàn Kitô hữu, một cách nào đó, làm nên
Thánh lễ.

3. Ngày Chúa Nhật trong những thế kỷ đầu tiên. Vào


những thế kỷ đầu của đời sống Giáo Hội, ngày Chúa
MỤC LỤC

nhật và thánh lễ trong ngày của Chúa cũng nhấn


mạnh đến sự mong đợi ngày Chúa trở lại.

Thánh Giustinô, là triết gia và tử đạo, đã để lại cho


chúng ta một hình ảnh cộng đoàn Kitô hữu họp nhau
trong “ngày của Chúa” rất gợi ý, hợp với ngày kế tiếp
ngày sabat.

“Trong ngày gọi là ngày Mặt Trời, người ta tụ họp


nhau lại. Tất cả những người cư ngụ trong thành phố
hay ở thôn quê họp nhau tại một địa điểm, và người ta
đọc những bài giảng được ghi nhớ lại của các thánh
tông đồ hoặc những tác phẩm của các ngôn sứ trong
hạn thời gian cho phép. Rồi khi người đọc sách dứt
lời, vị chủ tọa có đôi lời nhắn nhủ hoặc khuyên răn
nhằm kêu gọi người ta bắt chước làm những việc tốt
đẹp như thế. Sau đó mọi người cùng đứng và dâng lời
khẩn nguyện, khi kết thúc cầu nguyện, người ta bày
bánh, rượu và nước ra. Bấy giờ vị chủ tọa dâng lời
nguyện chúc tụng, tạ ơn với tất cả nhiệt tâm và dân
chúng đồng thanh tuyên xưng: Amen! Cuối cùng,
người ta phân phát bánh, rượu và nước đã dâng tiến
cho mỗi người có mặt ở đó, đồng thời các vị phó tế
cũng trao những của lễ này cho người vắng mặt để họ
được dự phần. Cuối cùng, những người dư dật chia sẻ
tùy theo lòng hảo tâm và đức tin của họ. Người ta trao
MỤC LỤC

những bổng lộc thu được cho vị chủ tọa để vị này trợ
giúp những trẻ mồ côi, những người góa bụa và
những người đau yếu hoặc những người có những
nhu cầu khác, kể cả những người bị cầm tù và những
người tha phương. Tóm lại là chăm sóc đến tất cả
những người thiếu thốn” (x. I Apologia (Hộ giáo I),
LXVII, 36).

Chúa nhật là ngày của cộng đoàn Kitô hữu tụ họp,


ngày này làm cho chúng ta cảm nhận một bầu khí mà
những cộng đoàn tiên khởi đã sống, như “sự tiên báo”
đời sống mới và “lời hứa” biến đổi thế giới của Đấng
phục sinh. Ngày nay, để không làm mất tính độc đáo
của ngày Chúa nhật Kitô giáo, Giáo hội và gia đình
lại được triệu tập đến nguồn mạch tràn đầy này. Đặc
biệt vào một vài thời điểm trong năm, như Mùa Vọng
và Giáng Sinh, Giáo hội làm mới lại niềm mong chờ
Chúa trở lại, nhờ có những cử hành nhằm nuôi dưỡng
ý nghĩa niềm hy vọng trong gia đình cũng như trong
cộng đoàn.

E. Lắng nghe Giáo Huấn [của Giáo Hội]

Gia đình được dành riêng cho ngày Chúa nhật, “ngày
của niềm vui và sự nghỉ ngơi”: Công đồng đã định
nghĩa như thế trong Hiến chế Phụng vụ Sacrosanctum
MỤC LỤC

Concilium. Được dành riêng không chỉ vì Chúa nhật


như là một ngày rảnh rỗi, ngày nghỉ ngơi của toàn thể
xã hội, ngày lễ của công chúng, nhưng trước hết ngày
Chúa nhật như là “ngày của Chúa”, nghĩa là như ngày
của cộng đoàn tụ họp cử hành Thánh Thể, là điểm
xuất phát và quy hướng (nguồn mạch và đỉnh cao)
của toàn bộ đời sống Kitô hữu, hiệp nhất trong thời
gian và không gian. Còn những phương diện khác về
ngày Chúa nhật là thứ yếu, mặc dù quan trọng nhưng
không phải thiết yếu. Sự qui tụ của cộng đoàn Thánh
Thể là thiết yếu đối với gia đình. Gia đình Kitô hữu tổ
chức cuộc sống của mình, giáo dục chính mình và
con cái sao cho thánh lễ Chúa nhật là một trách nhiệm
ưu tiên hơn hết mọi trách nhiệm khác.

Chúa nhật, ngày của Chúa

Theo truyền thống tông đồ, bắt nguồn từ chính ngày


Chúa Kitô sống lại, Giáo hội cử hành mầu nhiệm
vượt qua vào mỗi ngày thứ tám, ngày thật đáng gọi là
“ngày của Chúa” hay “Chúa nhật”. Trong ngày đó,
các Kitô hữu phải họp nhau lại để cùng với việc lắng
nghe Lời Chúa và tham dự Hiến lễ Tạ Ơn, họ kính
nhớ cuộc Thương khó, sự Sống lại và vinh quang của
Chúa Giêsu, đồng thời cảm tạ Thiên Chúa, Đấng đã
“tái sinh họ trong niềm hy vọng sống động nhờ sự
MỤC LỤC

phục sinh từ trong cõi chết của Chúa Giêsu Kitô” (1


Pr 1,3). Vì thế, Chúa nhật là ngày lễ nguyên thủy phải
được đề cao và in sâu vào lòng đạo đức của các tín
hữu đến độ cũng trở thành ngày dành cho niềm vui và
sự nghỉ ngơi. Các cuộc lễ long trọng khác, nếu không
thật sự rất quan trọng thì không được đặt ưu tiên hơn
lễ Chúa nhật, vì đây là nền tảng và trung tâm của cả
năm phụng vụ [Hc. Phụng vụ Sacrosanctum
Concilium, 106].

F. Những câu hỏi để thảo luận dành cho các đôi vợ


chồng và theo nhóm

Những câu hỏi dành cho các đôi vợ chồng:

1. Trong gia đình mình, chúng ta cảm nhận thế nào về


ngày Chúa nhật và cuộc gặp gỡ Chúa Phục sinh?

2. Những cử chỉ và nghi thức trong gia đình và trong


cộng đoàn có làm cho chúng ta cảm nhận được sức
sống mới của Đấng Phục sinh, niềm vui về sự hiện
diện của Ngài không?

3. Kinh nghiệm về tính chất vô cầu của những sự việc


và thời gian, việc lắng nghe Lời Chúa trong gia đình
và trong nhà thờ, bàn tiệc Thánh Thể chia sẻ chung
MỤC LỤC

với cộng đoàn có giúp chúng ta sống ngày Chúa nhật


như là lễ Vượt qua hằng tuần không?

4. Những thời điểm đặc biệt nào trong năm phụng vụ


và với những cử chỉ nào mà chúng ta sống thánh lễ
Chúa nhật như là thời gian của sự mong đợi và hy
vọng?

Những câu hỏi dành cho nhóm gia đình và cộng đoàn:

1. Trong xã hội hiện nay, điều gì ngăn cản người ta


sống ngày Chúa nhật như là ngày của Chúa?

2. Việc hướng dẫn nghi thức và bầu khí của cộng


đoàn Kitô hữu có thực sự dẫn đưa người ta đến gặp
gỡ Đấng Chịu Đóng Đinh đã phục sinh không?

3. Làm thế nào để ngày Chúa nhật có thể trở thành


ngày của Tin Mừng và của việc tưởng niệm Chúa
Giêsu sống lại?

4. Làm cách nào để hành trình của năm phụng vụ, với
những mùa và những ngày lễ kính, diễn tả được niềm
mong đợi Chúa?

G. Một quyết tâm cho đời sống gia đình và xã hội


MỤC LỤC

H. Cầu nguyện tự phát. Kinh Lạy Cha.

I. Bài hát kết thúc.

(Dịch từ bản tiếng Ý)

Maddalena Phạm Thị Thúy


MỤC LỤC

Bài 10: Ngày lễ: thời gian dành cho


cộng đoàn

A. Bài hát và lời chào mở đầu


B. Kinh Chúa Thánh Thần
C. Bài đọc Lời Chúa

46Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến
Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa
với lòng đơn sơ vui vẻ. 47Họ ca tụng Thiên Chúa, và
được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn
mỗi ngày có thêm những người được cứu độ (Cv
2,46-47).

33Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các


Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Và
Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng
(Cv 4,33).

42Mỗi ngày, trong Đền Thờ và tại tư gia, các ông


không ngừng giảng dạy và loan báo Tin Mừng về
Đức Kitô Giêsu (Cv 5,42).

43“Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai


muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục
vụ anh em; 44ai muốn làm đầu anh em thì phải làm
MỤC LỤC

đầy tớ mọi người. 45Vì Con Người đến không phải


để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và
hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc
10,43-45).

1Trong Hội Thánh tại Antiôkia, có những ngôn sứ và


thầy dạy, đó là các ông Barnaba, Simêôn biệt hiệu là
Đen, Lukiô người Kyrênê, Manaen, bạn thời thơ ấu
của tiểu vương Hêrôđê, và Saolô. 2Một hôm, đang
khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì
Thánh Thần phán bảo: “Hãy dành riêng Barnaba và
Saolô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người
ấy làm.” 3Bấy giờ họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay
trên hai ông và tiễn đi. 4Vậy, được Thánh Thần sai đi,
hai ông xuống Sêlêukia, rồi từ đó đáp tàu đi đảo
Cyprô. 5Đến Salamin, hai ông loan báo lời Thiên
Chúa trong các hội đường người Do Thái. Có ông
Gioan giúp hai ông (Cv 13,1-5).

D. Giáo lý Kinh Thánh

1. Ngày của sự hiệp thông. Ngày của Chúa làm cho


ngày lễ trở thành thời gian sống cho nhau, ngày của
hiệp thông và sứ vụ. Thánh Thể là việc tưởng niệm
việc làm của Chúa Giêsu: này là mình Ta, này là máu
Ta đã được ban cho anh em và cho tất cả mọi người”.
MỤC LỤC

“Cho anh em và cho tất cả mọi người” liên kết chặt


chẽ với đời sống huynh đệ (cho anh em) và mở ra cho
mọi người (cho nhiều người). Từ nối “và” ám chỉ
toàn bộ nỗ lực của sứ mạng loan báo Tin Mừng của
gia đình và cộng đoàn: được trao ban cho chúng ta để
chúng ta trao ban cho mọi người.

Hội thánh vốn được sinh ra từ thánh lễ Chúa nhật mở


ra với mọi người. Hình thức đầu tiên của việc truyền
giáo là xây dựng sự hiệp thông giữa những người tin,
là làm cho cộng đoàn trở thành một gia đình của các
gia đình. Đây cũng là luật cơ bản của việc truyền
giáo: Hội thánh duy nhất và hòa hợp là chứng từ có
sức thuyết phục hơn hết cho thế giới. Hội thánh có thể
trở thành trường truyền giáo chỉ khi nào Hội thánh là
ngôi nhà của sự hiệp thông. Những đoạn Công vụ
tông đồ trích dẫn ở trên cống hiến cho chúng ta dung
mạo của những cộng đoàn tiên khởi, họ sống kinh
nghiệm Kitô giáo giữa ngôi nhà của họ và đền thờ.
Ngày lễ và ngày Chúa nhật là khoảnh khắc làm mới
lại đời sống Hội thánh, cũng vậy, cộng đoàn Kitô hữu
đảm nhận bầu khí của đời sống gia đình và gia đình
mở rộng ra tới chân trời hiệp thông của Hội thánh.

Hội thánh địa phương và giáo xứ là sự hiện diện cụ


thể của Tin Mừng giữa lòng đời sống nhân loại. Đây
MỤC LỤC

là những dung mạo của Hội thánh được biết đến rất
nhiều bởi đặc tính thân tình tiếp đón mọi người.
Trong rất nhiều nước, các giáo xứ đã bộc lộ một “đời
sống tốt lành” theo Tin Mừng của Chúa Giêsu và đã
minh chứng cảm thức thuộc về Hội thánh. Như Công
đồng Vatican II khẳng định, nơi các Hội thánh địa
phương “Hội thánh đồng hành với toàn thể nhân loại
và cùng chia sẻ số phận trần thế với thế giới” (Hc.
Gaudium et Spes/Vui mừng và Hy vọng, 40). Trong
giáo xứ, các gia đình là “hội thánh tại gia”, vừa làm
thành cộng đoàn giáo xứ vừa là một hội thánh giữa
các gia đình nhân loại. Trong cuộc sống hằng ngày,
với nhịp điệu của công việc và ngày lễ, gia đình chấp
nhận để thế giới bước vào ngôi nhà của mình đồng
thời gia đình cũng mở ra với thế giới. Mặt khác, cộng
đoàn Kitô hữu phải lưu tâm đến các gia đình, giúp gia
đình thoát khỏi cám dỗ khép kín trong “căn hộ” của
mình và mở ra với cuộc lữ hành đức tin. Trong gia
đình, sự sống được thông truyền như hồng ân và lời
hứa; trong giáo xứ lời hứa hồng ân sự sống được đón
nhận và nuôi dưỡng. Ngày của Chúa trở thành ngày
của Hội thánh khi Hội thánh trợ giúp người ta cảm
nghiệm vẻ đẹp của một ngày Chúa nhật chung sống
với nhau, nhờ tránh đi tính vô vị tầm thường của một
ngày cuối tuần chỉ biết hưởng thụ, và thỉnh thoảng
MỤC LỤC

cũng nên sống kinh nghiệm hiệp thông huynh đệ giữa


các gia đình.

2. Ngày của đức ái. Ngày của Chúa như là ngày của
Hội thánh (dies ecclesiae) trở thành ngày của đức ái.
Hội thánh được nuôi dưỡng bởi thánh lễ Chúa nhật
cũng là cộng đoàn phục vụ mọi người. Gia đình, mặc
dù không đơn độc, là mạng lưới thông truyền sứ vụ
này. Bản văn Tin Mừng của thánh Marcô rất đẹp ở
trên đây minh họa, như trong thánh lễ Chúa nhật,
Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta như một người
phục vụ. Sau đây là tiêu chuẩn của sự phục vụ trong
cộng đoàn: ai muốn làm lớn nhất thì phải làm người
nhỏ nhất (người phục vụ anh em), và ai muốn là
người trước hết, người ấy hãy dấn thân phục vụ người
nghèo và người bé mọn (tôi tớ của mọi người). Việc
bác ái là một đặc điểm của ngày Chúa nhật Kitô giáo.
Một vài mùa phụng vụ (Mùa Vọng và nhất là mùa
Chay), việc bác ái được đề nghị như một bổn phận
thiết yếu của các gia đình và cộng đoàn. Như thế
Chúa nhật trở thành “ngày của đức ái”.

Việc bác ái diễn tả ước muốn hiệp thông với Thiên


Chúa và với anh em. Gia đình, trong suốt tuần lễ, mỗi
ngày đều gặp những người túng thiếu, nhưng cuộc
sống gia đình không dừng lại ở việc bố thí và thực
MỤC LỤC

hiện việc bổn phận: nhưng phải làm cho mối liên kết
giữa người với người, giữa đời sống đức tin với đức
ái, ngày càng tăng thêm. Không có kinh nghiệm phục
vụ trong gia đình, không giúp đỡ lẫn nhau cũng như
không thông phần vào những khó nhọc chung trong
gia đình thì khó mà có một con tim có khả năng yêu
thương. Trong gia đình, con cái cảm nghiệm từng
ngày tấm gương dâng hiến không biết mệt mỏi cũng
như sự phục vụ khiêm hạ của cha mẹ, qua học hỏi
gương sáng âm thầm yêu thương của họ. Trong cộng
đoàn giáo xứ, các thiếu nhi và giới trẻ nên mở rộng
chân trời bác ái đến với những người khác, có thể
chia sẻ kinh nghiệm yêu thương và phục vụ mà các
em đã học được trong gia đình. Việc dạy thực hành
đức ái, nhất là trong các gia đình chỉ có một người
con duy nhất, nên mở ra ngay với những hình thức,
lớn hay nhỏ, phục vụ tha nhân.

3. Ngày của bài sai sứ vụ. Chiều kích truyền giáo của
Hội thánh là trung tâm của thánh lễ Chúa nhật và mở
ra những cánh cửa cuộc sống gia đình ra với thế giới.
Cộng đoàn Chúa nhật được định nghĩa là cộng đoàn
truyền giáo. Đoạn sách Công vụ Tông đồ trích trên
đây trình bày một hình ảnh đẹp về cộng đoàn
Antiôkia, có thể là ngày Chúa nhật, đang khi họ làm
việc thờ phượng Chúa, Thánh Thần thúc đẩy ra đi
MỤC LỤC

truyền giáo. Trong ngày thờ phượng, cộng đoàn trở


thành cộng đoàn truyền giáo. Truyền giáo không chỉ
liên quan đến những cá nhân riêng lẻ được sai đi,
nhưng sẽ bộc lộ hiệu quả của nó khi toàn thể Hội
thánh, với các đặc sủng, các thừa tác vụ và các ơn gọi
khác nhau, trở thành dấu chỉ hiện thực tình yêu của
Đức Kitô dành cho tất cả mọi người. Có những hình
thức truyền giáo của cộng đoàn khác nhau, nhưng tất
cả phải dẫn mọi người đến với Đức Kitô. Gia đình
được mời gọi để loan báo Tin Mừng theo cách riêng
của mình và không ai thay thế được: trong nội bộ gia
đình, trong môi trường của mình (hàng xóm, bạn bè,
họ hàng), trong cộng đoàn Hội thánh, trong xã hội.

Cộng đoàn Thánh Thể, khi cùng với thánh Phaolô


mang lấy nỗi bận tâm về toàn thể Hội thánh, sẽ nới
rộng tầm nhìn của mình đến một phạm vi hoàn vũ.
Nếu như đối với Hội thánh, việc được sai đến với
muôn dân (missio ad gentes) là viễn tượng của việc
truyền giáo, thì đối với các giáo hội địa phương cũng
thế, họ được sai đi để loan báo Tin Mừng trên chính
lãnh thổ của mình. Việc giáo dục để biết đón nhận
người khác, người bất đồng (quan điểm, tín
ngưỡng...), người nhập cư, nên khởi đi từ các gia đình
và được cộng đoàn thúc đẩy. Trước đây, trong một số
không ít gia đình, có phát sinh trực giác muốn sống
MỤC LỤC

một cuộc sống vì người khác, một cuộc sống hiến


dâng cho việc truyền giáo và dấn thân vào đời. Những
gia đình Kitô giáo nào có kinh nghiệm mạnh mẽ về
con người và về tình yêu, cũng như thường xuyên đến
với thánh lễ Chúa nhật, thì họ có nhiều câu chuyện
muôn màu muôn sắc về ơn gọi phục vụ trong xã hội,
về việc dấn thân thiện nguyện, về việc làm chứng
trong chính trị, về việc truyền giáo trong các xứ sở
khác trên thế giới. Mối liên hệ giữa ngày Chúa nhật
và Thánh Thể, giữa Giáo hội và truyền giáo, giữa gia
đình và việc phục vụ tha nhân, đòi hỏi phải canh tân
việc khai tâm vào đời sống Kitô hữu cốt yếu, thúc đẩy
một ý thức mới về truyền giáo. Sức mạnh phi thường
của Chúa nhật hướng tâm vào thánh lễ Chúa nhật đã
đưa các vị tử đạo thành Abitene đến phúc tử đạo.

“Ngươi đã tập họp tất cả những người này nhằm


chống lại chỉ thị của các hoàng đế và của Cêsar phải
không?”. Được đầy Thánh Thần, linh mục Saturnino
đáp lại: “Chúng tôi đã cử hành thánh lễ Chúa nhật mà
không quan tâm gì đến những điều ấy”. Viên thống
đốc hỏi “Tại sao?” Saturino đáp: “Bởi vì chúng tôi
không thể bỏ thánh lễ Chúa nhật được” (IX).

“Có phải ngươi đã tổ chức những cuộc hội họp trong


nhà chống lại sắc lệnh của các hoàng đế không?”
MỤC LỤC

Emerito, đầy tràn Thánh Thần nói rằng: “Chúng tôi


đã cử hành thánh lễ Chúa nhật trong nhà tôi”. Và họ
hỏi tiếp: “Tại sao ngươi cho phép họ vào nhà?”
Emerito đáp: “Bởi vì họ là anh em của tôi và tôi
không thể ngăn cản họ làm điều này”. Viên thống đốc
lại nói: “Nhưng mà ngươi có bổn phận phải ngăn cản
họ chứ”. Và Emerito nói: “Tôi không thể làm điều đó
bởi vì chúng tôi là Kitô hữu, chúng tôi không thể ở
nhà mà không có thánh lễ Chúa nhật” (Acta Saturnini,
Dativi, et aliorum plurimorum martyrum in Africa/Sử
liệu các thánh tử đạo châu Phi, XI).

Trong những thế kỷ đầu tiên, Hội thánh đã cho phép


phổ biến thánh lễ Chúa nhật đến tận cùng thế giới.
Ngày nay cũng thế, đời sống thường ngày của gia
đình và hội thánh vẫn được mời gọi khởi đi lại từ đó:
không có thánh lễ Chúa nhật người Kitô hữu không
thể sống được.

E. Lắng nghe Giáo Huấn [của Giáo Hội]

Chúa nhật là sự lặp lại mầu nhiệm Vượt Qua vĩ đại


trong một chu kỳ ngắn của tuần lễ. Nó cũng được gọi
là “cuộc Vượt qua nhỏ Chúa nhật”. “Sống theo tinh
thần Chúa nhật” có nghĩa là sống với ý thức về cuộc
giải thoát của Đức Kitô, để sự chiến thắng của Ngài
MỤC LỤC

thể hiện trọn vẹn nơi tất cả mọi người qua một thái độ
canh tân sâu xa. Không nên hiểu Chúa nhật như ngày
lễ cho mọi người khác chỉ theo nghĩa phụng vụ:
không chỉ là một hồng ân Kitô giáo, ngày lễ còn có
một giá trị nhân bản. Không sống mọi ngày như nhau
(và chỉ ngày Chúa nhật mới có bí nhiệm của sự khác
biệt), dành thời gian cho cộng đoàn và cho việc bác
ái, đó là một đường lối hữu hiệu cho sự giải thoát con
người khỏi nô lệ công việc.

Sống theo tinh thần ngày Chúa nhật

Sự mới mẻ hoàn toàn mà Thánh lễ đưa vào cuộc sống


con người được biểu lộ trong ý thức Kitô giáo ngay từ
thời sơ khai. Các tín hữu đã nhận thức ngay lập tức
ảnh hưởng thâm sâu của việc cử hành thánh lễ trên lối
sống của họ. Thánh Ignatiô thành Antiôkia diễn tả
chân lý này nhờ việc xác định các Kitô hữu như “là
những người đã đạt đến niềm hy vọng mới”, và giới
thiệu họ như là những người sống “theo ngày Chúa
nhật” (iuxta dominicam viventes). Công thức diễn tả
của vị tử đạo vĩ đại thành Antiôkia này minh chứng
sự liên hệ giữa thực tại thánh lễ với cuộc sống người
Kitô hữu trong đời sống hằng ngày của mình. Thói
quen đặc thù của người Kitô hữu tụ họp lại với nhau
trong ngày thứ nhất, sau ngày sabat, để cử hành việc
MỤC LỤC

Đức Kitô sống lại – theo trình thuật của thánh


Giustinô tử đạo – cũng là điều xác định hình thức của
cuộc sống được canh tân từ sự gặp gỡ Đức Kitô.
Công thức của thánh Ignatiô – “Sống theo tinh thần
ngày Chúa nhật” – cũng nhấn mạnh đến giá trị kiểu
mẫu của ngày thánh này so với mọi ngày khác của
tuần lễ. Thật vậy, ngày đó, về cơ bản, không chỉ là sự
tạm ngưng những hoạt động thường lệ, như một ngày
ngưng nghỉ xen vào giữa nhịp điệu bình thường của
mọi ngày. Người Kitô hữu luôn cảm thấy ngày này
như ngày đầu tiên trong tuần, bởi vì trong ngày đó
người ta tưởng niệm sự mới mẻ hoàn toàn mà Đức
Kitô mang lại. Như thế, Chúa nhật là ngày mà người
Kitô hữu tìm lại được cuộc sống mình theo hình thức
Thánh Thể, là điều họ được mời gọi sống một cách
thường xuyên. “Sống theo ngày Chúa nhật” nghĩa là
sống trong sự nhận thức về cuộc giải thoát của Đức
Kitô và đảm nhận chính cuộc sống mình như là của lễ
dâng tiến lên Thiên Chúa, để sự chiến thắng của
Người thể hiện trọn vẹn nơi tất cả mọi người qua một
thái độ đổi mới sâu xa [Tđ. Sacramentum Caritatis,
72].

F. Những câu hỏi để thảo luận dành cho các đôi vợ


chồng và theo nhóm
MỤC LỤC

Những câu hỏi dành cho các đôi vợ chồng:

1. Gia đình chúng ta có cảm thấy Chúa nhật như là


thời gian để sống với và cho người khác không?

2. Mối tương quan giữa gia đình chúng ta, với những
gia đình khác và cộng đoàn Kitô hữu ra sao?

3. Chúng ta thể hiện những cử chỉ phục vụ và bác ái


nào trong gia đình suốt tuần qua? Chúng ta đề xuất
những việc bác ái nào cho người khác, nhất là những
người nghèo túng?

4. Ngôi nhà chúng ta có cánh cửa nào mở ra cho thế


giới, cho những vấn đề và nhu cầu của thế giới
không?

Những câu hỏi dành cho nhóm gia đình và cộng đoàn:

1. Ngày nay dường như người ta ít có kinh nghiệm về


chiều kích cộng đoàn của ngày Chúa nhật. Chúng ta
có thể tìm những biện pháp và những gợi ý nào?

2. Các cộng đoàn Kitô hữu có thông truyền cho các


gia đình kinh nghiệm hiệp thông không? Các gia đình
MỤC LỤC

có thôi thúc các cộng đoàn Kitô hữu hướng đến một
lối sống huynh đệ hơn không?

3. Đời sống giáo xứ có lưu tâm thường xuyên tới đức


ái không? Các hiệp hội và tổ chức bác ái (Caristas) có
phải là một biểu hiện của toàn thể cộng đoàn không?

4. Làm thế nào để trợ giúp các gia đình trong việc
giáo dục về giá trị của một cuộc sống xả thân vì
người khác, và khơi dậy các ơn gọi truyền giáo?

G. Một quyết tâm cho đời sống gia đình và xã hội

H. Cầu nguyện tự phát. Kinh Lạy Cha.

I. Bài hát kết thúc.

(Dịch từ bản tiếng Ý)

Maddalena Phạm Thị Thúy


MỤC LỤC

Đại hội các gia đình thế giới 2012 tại


Milano “Gia Đình: công việc và ngày
lễ”:

CHƯƠNG TRÌNH

Những điểm chính của chương trình từ 30/05 đến


03/06 năm 2012

Thứ ba 29/05

– Đón tiếp (tại các giáo xứ, v.v...) những người tham
dự

Thứ tư 30, thứ năm 31/05, thứ sáu 01/06

– Hội nghị về thần học mục vụ với những hoạt động


và hội thảo theo từng đề tài được gợi hứng từ chủ đề
Đại Hội “Gia Đình: công việc và ngày lễ”

– Gặp gỡ những kinh nghiệm có ý nghĩa và đa dạng


của các miền trái đất

– Thánh lễ trong các giáo xứ và/hoặc cho các nhóm


ngôn ngữ
MỤC LỤC

– Chầu Thánh Thể trong Nhà thờ Chính tòa

– Lễ hội trong các thành phố và trong các giáo xứ liên


hệ

Tối thứ sáu 01/06

– 20g: Gặp gỡ tại Nhà Hát “Teatro alla Scala” cho các
đoàn đại biểu đến từ các nước khác nhau

– 21g30: Chầu Thánh Thể tại Nhà thở Chính tòa

Thứ bảy 02/06

– Lễ hội các chứng từ với sự hiện diện của Đức


Thánh Cha Bênêđictô XVI

Chúa nhật 03/06

– Thánh Lễ do Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI chủ


tọa

N.B. Trong suốt những ngày Đại hội diễn ra


MỤC LỤC

cũng có những sự kiện và các tiết mục trình diễn văn


hóa
trong phạm vi Giáo hội cũng như dân sự

UB Mục vụ Gia đình / HĐGMVN


Giáo dục giới tính trong gia đình
MỤC LỤC

Giáo dục giới tính trong gia đình

Lm. Luy Nguyễn Anh Tuấn

Tổng thư ký UBMV Gia đình

Ngày nay, dẫu khắp nơi thấy có nhiều người tuyên bố


rằng tình dục không còn là chuyện cấm kị nữa, dẫu
đâu đâu cũng đều có những kẻ chủ trương một cách
thẳng thắn thái độ tự do phóng túng trong “chuyện
ấy”, ta cũng phải công nhận một điều rằng là tình dục
không phải là một kinh nghiệm dễ dãi.

Tình dục hay tính dục (sexuality) mà càng bị hạ cấp,


càng bị làm trở nên dung tục, thì dường như càng
hiện lộ rõ hơn những mặt tối và nguy hiểm của nó
(như bạo lực và lạm dụng (tình dục), những biểu hiện
u ám nghiện ngập, những kiểu cách thực hành tính
dục đa dạng và đồi trụy, khát vọng sa đọa …) Những
lối ăn nói táo tợn, dạn dĩ, những hành vi khiêu khích
là biểu hiện của ý tưởng vụng về chối bỏ tính chất
huyền nhiệm không thể nắm bắt được của kinh
nghiệm dục tính.

Tính dục vẫn mãi là một thực tại hấp dẫn nhưng rất
hàm hồ và chất chứa nhiều nguy cơ. Nó không chỉ là
MỤC LỤC

sự hấp dẫn do khoái cảm nhưng còn có thể mang cả


đắng cay và sự xáo trộn.

Đừng dung tục hóa tính dục

Một thái độ sống hết sức quan trọng mà cha mẹ cần


thông truyền cho con cái là biết tôn trọng con người
như một nhân vị, kính trọng sự sống, khám phá tính
dục như một huyền nhiệm lớn lao, hấp dẫn nhưng với
thái độ kính trọng.

Quan tâm đến vấn đề này, chúng ta cần xem xét hai
khuynh hướng thái độ cũng như định hướng sống cho
những người trẻ ngày nay.

Trước hết, khuynh hướng thứ nhất muốn xem giá trị
biểu tượng của tính dục, ý nghĩa thông giao
(communicative) và trao đổi của nó cần phải được
làm sáng tỏ hơn bao giờ hết. Người ta không thể tách
biệt tính dục và tình cảm. Để thỏa mãn trọn vẹn và
mãnh liệt tính dục, người bạn tình (partner) chỉ tỏ tình
hay bộc lộ tình cảm mình cách chung chung là không
đủ, tình cảm người đó còn cần phải được trải nghiệm
để chứng tỏ sự chín chắn, có ý thức và thành thực.
MỤC LỤC

Ngày càng có nhiều thanh thiếu niên hiểu và chia sẻ


sự thật đó dẫu nó đòi hỏi nhiều nỗ lực dấn thân hơn.
Ở châu Âu chẳng hạn, trong những năm gần đây độ
tuổi trung bình lần đầu tiên có quan hệ tính dục đang
tăng lên. Đó là một điều rất có ý nghĩa.

Đàng khác, khuynh hướng thứ hai có vẻ nhiều hơn và


được ủng hộ đặc biệt bởi văn hóa môi trường sinh
thái. Những người này xem việc tìm khoái lạc tính
dục tự thân như là một mục đích. Tiêu chuẩn mà họ
chọn là sự thỏa mãn nhất thời ở mức tột đỉnh. Còn
dấn thân vào chuyện tình yêu được cho là nguy hiểm;
tự ràng buộc mình với một bạn tình chỉ sinh phiền
muộn, đau khổ và bị vỡ mộng. Họ cho rằng tốt hơn
chỉ nên phiêu lãng với những gặp gỡ qua đường dễ
dãi và tình cờ, họ cảm thấy như thể là mình không
cần đến tình yêu mà chỉ cần cảm giác khoái lạc. Kinh
nghiệm tình dục bị mất đi giá trị biểu tượng của nó và
giá trị của một sự dấn thân đích thực và vô điều kiện
của hai con người và bị biến chất thành ra như một sự
phô bày thân thể, thỏa mãn dễ dãi.

Người ta không quan tâm đến chính con người đối


tác, tức là người bạn tình, mà chỉ để ý đến vẻ đẹp cơ
thể người ấy và sự ban phát lạc thú do nó đem đến.
Não trạng đó mở đường cho bao nhiêu hình thức ít
MỤC LỤC

nhiều mang tính chất mua bán đổi chác liên hệ đến
tình dục, hoặc những hình thức phô bày mới và rất
phổ biến thứ tình dục chỉ biết tìm kiếm cảm giác mà
không có một gặp gỡ liên vị nào cả. Tình dục bị giản
lược chỉ còn là một chức năng đơn thuần tìm kiếm lạc
thú của riêng từng cá nhân: một thứ tình dục tột đỉnh
và xâm lấn mọi ngõ ngách nhưng lại vô trách nhiệm
và phi ngã vị. Cũng phổ biến thứ tình dục muốn
hưởng lạc đẩy cảm giác lên “mức cực mạnh nhưng lại
ít cảm xúc”. Những người làm cha làm mẹ bởi chính
kinh nghiệm của mình họ biết rằng một quan hệ thân
mật giả thiết đòi hỏi người ta phải dấn mình cùng với
một sự chín muồi nào đó về tình cảm, và, điều đó, đối
với đứa con niên thiếu của họ là chưa thể đạt được,
cần có thời gian chuẩn bị và vun trồng cho con bằng
một sự đầu tư giáo dục thật thích hợp và mạnh mẽ.

Thực vậy, nét đặc trưng của tuổi mới lớn thường biểu
lộ trong những mối quan hệ là tìm sự thỏa mãn tức
thời, bận tâm làm sao chinh phục được tình cảm của
đối tượng. Những đặc điểm này, hẳn là có liên hệ đến
quá trình tiến triển theo lứa tuổi, dẫn các bạn trẻ đến
chỗ bù đắp những chiều sâu mà mình chưa đạt tới
bằng những lối mở chiều rộng (như yêu vội sống
cuồng, chạy theo những đam mê ngây dại và nhất
thời, dấn mình vào những trải nghiệm mới lạ nhưng
MỤC LỤC

mong manh của đời đôi lứa) và bằng những vỏ bọc


bên ngoài ấn tượng (như lối ăn nói tục tĩu, thái độ gây
hấn, thụ hưởng và lan truyền các ấn phẩm khiêu
dâm).

Ngày nay, hơn bao giờ hết, thời kì chuẩn bị cho một
tình yêu đích thực thật là quan trọng. Sự tiết dục cũng
có giá trị của nó, nếu được hiểu không phải như một
sự đè nén và chối bỏ thân xác và các xung năng của
nó, nhưng như một triển vọng hấp dẫn nhưng không
dễ dãi hướng về một sự thỏa mãn tính dục với chất
lượng mới.

Những kiểu sống mới đời đôi bạn như hiện nay thực
ra rất là bận rộn. Kỳ vọng về một tình yêu “vĩnh cửu”,
một tình yêu “duy nhất và độc hữu”, tiêu biểu cho
một tình yêu lãng mạn không còn chắc chắn và được
bảo đảm nữa. Ngược lại, người ta giả định phải có
một cam kết, không bao giờ dứt điểm, nhằm xây dựng
và củng cố một tương quan đặt cơ sở trên sự bình
đẳng, trên những nhu cầu rõ ràng thẳng thắn của cả
hai người, trên một thỏa thuận trong đó sự thân mật
và nỗi đam mê được quí trọng và nuôi dưỡng theo
một cảm quan chung, còn tình yêu phải chịu tan biến.
Thiếu một khung giá trị đạo đức khả dĩ giúp ngăn
chặn những tình cảm tiêu cực tác hại, lại còn không
MỤC LỤC

có một kế hoạch đời sống lứa đôi để thường xuyên


tham khảo, sinh hoạt tính dục vẫn mãi bị thúc ép bởi
cảm giác “trống trải”, để đi tìm một cảm giác viên
mãn vốn luôn mong manh và càng trở nên bi đát hơn
khi nhu cầu tình yêu càng bộc lộ mạnh mẽ trong một
xã hội phức tạp, cạnh tranh và đầy bất trắc.

Trong những lúc sống thân mật và đam mê, những cử


chỉ, hành động và lời nói dành cho nhau luôn diễn tả
một hứa hẹn, tiên báo một cam kết. Nếu như điều ấy
không được thực hiện có thể người ta rất đau khổ vì
thất vọng hay vì cảm thấy mình bị lừa dối. Như thế
đó, thực tế không hoan lạc và vui thú như có vẻ đã
hứa hẹn, tính dục hóa thành một kinh nghiệm chỉ gây
thương tổn đau đớn và tồi tệ.

Chỉ sau một thời gian chuẩn bị dài vừa đủ để nhận


biết ý nghĩa và giá trị của sự tự chủ, quan hệ tính dục
mới diễn tả sự hiến thân chân thật và bền vững.Tính
dục như là một ngôn ngữ cần phải được học, được
tinh luyện, đào sâu, với một sự cam kết kéo dài suốt
cuộc đời. Người ta sẽ không tránh được việc biến
người bạn mình thành như một thứ phương tiện và
như thế có nghĩa là tình yêu chấm dứt, nếu như những
hành vi tính dục không phải là cao đỉnh của một sự
hòa hợp đã có trong những mặt khác của cuộc sống.
MỤC LỤC

Điều mà người ta không thể thực hiện trong đời sống


thường ngày không thể được bù đắp trong nỗi say
đắm của quan hệ tình dục. Bực dọc cáu kỉnh, thiếu
khoan dung hay chấp nhất, ích kỉ, tất cả những cái đó
không tự động biến thành dịu dàng, cảm thông, đối
thoại trong quan hệ tình dục. Hoan lạc tình dục là
biểu lộ của một gặp gỡ thật sự đôi bạn đã có rồi qua
những khía cạnh khác của con người.

Để có sự thỏa mãn và cảm giác an toàn quan hệ tình


dục cần trải nghiệm một hành trình khám phá, lắng
nghe, kiên nhẫn đối với nhau. Bởi lẽ trong những
kinh nghiệm đầu tiên nhất là khi chưa chín muồi,
quan hệ thường chỉ mới là một tình yêu trong mộng
tưởng, vẫn còn trong sự hướng vọng đến một tương
lai đẹp.

Tính dục thỏa đáng là một kinh nghiệm thực sự đã


chín chắn vì nó giả thiết người ta có những khả năng
chỉ có được khi trưởng thành. Ngược lại không đúng.
Thực hành tính dục, tự thân và tại thân, nó không làm
cho tình yêu chín muồi.

Là nam là nữ
MỤC LỤC

Tính dục không đơn tính nhưng lưỡng tính: là nam và


là nữ. Đàn ông hay là đàn bà không phải là những cái
nhãn được gắn vào con người của ta lúc sinh ra. Cha
mẹ cho con chất liệu di truyền định cấu trúc giới tính
nhưng không dừng lại ở đó. Như là một người đàn
ông và như là một người đàn bà, cha mẹ, trong toàn
thể lối sống của mình, trở thành mẫu cho con cái định
hình nhân cách trong cả quá trình dài xây dựng căn
cước giới tính của chúng. Trong sự kết hợp hòa điệu
giữa cha mẹ, gia đình trở thành một sân khấu nhỏ
trong đó mỗi người học sống vai của mình. Những
yếu tố của môi trường xã hội cũng ảnh hưởng lên sự
định hình căn cước giới tính và lên quá trình thích
ứng với cách sống của mẫu phái tính là nam hay nữ.
Thế nhưng, về mặt này, chúng ta không nên xem
thường bất cứ điều gì. Các vai trò thuộc phái tính đã
bị xáo trộn bởi biến chuyển xã hội. Không còn vai trò
chức năng nào là không thể linh động và được quyết
định trước: cả căn cước giới tính (là nam hay nữ)
người ta cũng có thể chọn lấy cho mình.

Trong tình hình bất định về phái tính như thế, các giai
đoạn phát triển lứa tuổi cũng như chính kinh nghiệm
về các độ tuổi càng ngày càng mù mờ hơn, con cái
chúng ta cũng gặp nhiều khó khăn nhọc nhằn để định
hình chính bản thân chúng.
MỤC LỤC

Khi cuộc sống đôi lứa bị qui hướng quá nhiều về cực
bổn phận làm cha và làm mẹ (càng hiệu quả khi các
vai trò càng hoán đổi được cho nhau) thì tương quan
và sự hòa điệu giữa người đàn ông và người đàn bà
(càng giúp ích cho sự định hình nhân cách con cái khi
căn cước giới tính của họ càng rõ và phân biệt) càng
bị nghèo nàn đi. Hơn nữa, ngoài những khó khăn của
đôi lứa, ngày nay người ta còn xét thấy có cả sự
khủng hoảng của căn tính nam giới. Người ta có thể
xác định trong số nhiều hiện tượng hai dấu hiệu đáng
quan ngại tạo nên khủng hoảng này, đó là: văn hóa
khiêu dâm càng ngày càng lan tràn và sự bùng nổ các
hình thái bạo lực và lạm dụng tình dục nghiêm trọng.
Đó là hai hiện tượng tiêu biểu thuộc khu vực nam
giới.

Có lẽ chúng ta nên xem việc thụ hưởng những văn


hóa vật thể khiêu dâm đó như một hành động tiềm
thức, bù trừ cho những khó khăn và thất bại trong
quan hệ riêng tư thân mật. Nam giới có lẽ ít được
chuẩn bị hơn người bạn đời nữ giới của mình để đối
phó với những khó khăn này. Đàn ông gặp khó khăn
trong việc này vì nó thuộc lãnh vực truyền thông cảm
xúc với chính mình và với người khác trong một bối
cảnh bình đẳng. Đó là một phản ứng đối với nỗi khó
MỤC LỤC

khăn phải thích nghi với cuộc cách mạng nhanh


chóng và dễ gây choáng váng về căn tính nữ giới.

Phụ nữ không còn chấp nhận để đàn ông chiếm ưu thế


trên bình diện tính dục. Cuộc sống lứa đôi đã trở
thành một cuộc hành trình mở ra cùng với những nhu
cầu mới và những tâm trạng lo âu mới.

Những giai đoạn phát triển tâm lí-tính dục

Cha mẹ có một ảnh hưởng sâu đậm trên quá trình xác
lập căn cước giới tính của con cái mình không như
bất cứ một tương quan xã hội nào có thể tác động. Từ
những phản ứng chủ quan khi biết được phái tính của
đứa con sắp hạ sinh cho đến những thái độ và chọn
lựa mà họ chấp nhận (như đặt tên cho con, chọn
những đồ chơi và áo quần, những cách biểu lộ tình
cảm đối với con trẻ) gia đình có một vai trò quyết
định và đóng góp rất lớn cho xã hội những con người
có khả năng sống căn cước giới tính của mình một
cách hoan hỉ và tích cực.

Những giai đoạn phát triển tâm lí-tính dục của con cái
đang lớn cũng đồng thời đặt ra cho cả cha và mẹ
những mục tiêu giáo dục phải xác định và chứng
thực.
MỤC LỤC

Trong giai đoạn ấu thơ sự phát triển tâm lí của em bé


được hướng dẫn bởi nguyên tắc thỏa mãn nhu cầu
ngay tức thì. Dần dần khi sự tin tưởng của bé vào mẹ
ngày càng lớn lên, tiêu chuẩn này không còn được ưu
thế nữa. Những bước khởi đầu, những lời lẽ đầu tiên,
những hình thái ban đầu bé hội nhập vào xã hội con
người bắt đầu tiến trình tách li dần khỏi mẹ. Khoảng
tám tháng tuổi bé có thể phân biệt bản thân mình khác
với thực tại xung quanh.

Đến khoảng bốn hay năm tuổi bé bắt đầu có những


tình cảm thù ghét hoặc trìu mến đối với mẹ cha (thời
kì Oedipus, theo S. Freud). Đó là một giai đoạn đặc
biệt tinh tế: thời của những ganh tị, của những hình
ảnh tưởng tượng bị cấm đoán, của sự khẳng định bản
thân và kình địch của bé trai đối với cha, bé gái đối
với mẹ.

Cuối thời kì thơ ấu, một số nét tự lập đầu tiên nơi em
bắt đầu chín dần và sự phụ thuộc mẹ cha cũng giảm
bớt dần. Khả năng yêu thương có nhiều hơn. Phát
triển những khả năng quan trọng như tư duy ẩn dụ,
hiểu biết bằng biểu tượng. Học biết thương lượng
bình yên với những xung lực bản năng của mình.
MỤC LỤC

Chuyển tiếp sang tuổi thiếu niên là thời tiền dậy thì,
bao hàm sự biến đổi rõ ràng các nội tiết tố đánh dấu
khởi đầu một sự thay đổi quan trọng trong cơ thể. Cơ
quan sinh dục phát triển cùng với các đặc trưng giới
tính thứ yếu. Cơ thể đang chuyển biến làm em lo lắng
và thắc mắc, điều đó tạo nên những tình cảm lẫn lộn
và bất ổn trước những xung năng trỗi dậy và đồng
thời phát sinh hướng chiều về những cảm xúc mạnh
mẽ.

Một sự kiện rất quan trọng đối với bé gái cần được
quan tâm chăm chút với sự trân trọng là sự xuất hiện
kinh nguyệt lần đầu tiên như dấu hiệu bắt đầu thành
một thiếu nữ. Giới tính chín dần khi em hòa hợp được
với thể xác mình. Hòa hợp với đấng sinh thành cùng
phái tính với mình sẽ giúp em rất nhiều nhìn nhận và
đón nhận chính mình.

Tính dục luôn là một thực tại biến chuyển, nó có thể


thoái hóa, dừng lại hoặc tiến triển, thế nhưng lao
động, vốn đã khởi sự từ tuổi thơ ấu và tiếp tục trong
thời niên thiếu, sẽ đặt những cơ sở chắc chắn cho một
cuộc sống thăng bằng luôn luôn mới mẻ.

Cùng nhau làm cha làm mẹ


MỤC LỤC

Để trưởng thành tình cảm và tính dục cần có thời gian


dài cho những biến đổi và để đảm nhận trọn vẹn
những thay đổi đó. Thổ lộ những tâm tư thầm kín với
cha hay với mẹ cũng như chính khuôn mẫu của cha
mẹ là sự trợ giúp và tham vấn an toàn nhất. Gặp một
người đàn bà và một người đàn ông như đôi bạn là
cha và là mẹ mình có thể giúp con hiểu về vẻ đẹp và
sự khó nhọc của tuổi tăng trưởng, về sức mạnh
(nhưng cũng là điểm yếu) của giao tiếp tình cảm, về
sự phong nhiêu của tình yêu con người. Không nơi
nào hơn tình yêu thương gia đình góp phần vào việc
tái thiết lại sự liên kết vốn thâm sâu giữa tính dục và
sự sinh sản, là những chiều kích ngày nay người ta
sống như những mặt tách biệt, độc lập với nhau. Sinh
sản là một hành động có cả người đàn bà lẫn đàn ông
tham dự vào. Điều kiện lí tưởng cho một giáo dục
giới tính bình lặng là sự hiện diện của cả cha và mẹ
và cùng hợp tác trong các vai trò khác nhau và bổ túc
cho nhau. Những người đang làm cha mẹ cần quan
tâm đến điều này, đó là: các bạn trẻ mà đã có một
hình ảnh tiêu cực về người cha hoặc không đẹp về
người mẹ của mình, họ sẽ gặp khó khăn lớn khi tạo
lập tương quan với thực tại, khi xây dựng căn tính của
chính mình.

Kết luận
MỤC LỤC

Ngày nay các bậc cha mẹ cần quan tâm đến giáo dục
tình yêu cho con cái đang lớn không chủ yếu bằng
những cấm đoán hay mệnh lệnh, nhưng cần nhấn
mạnh đến sự thật này: là tính dục không thể tách rời
khỏi tương quan con người, hiểu theo nghĩa trọn vẹn
của nó, và hơn nữa, nên giới thiệu viễn ảnh rất đẹp
mà Kinh Thánh trình bày về tính dục con người như
là tặng phẩm dành cho nhau liên hệ đến toàn thể con
người cả hồn-xác. Cần lên án như là phi nhân lối thực
hành tính dục không tình yêu, vì điều đó hạ giá trị và
làm nghèo nàn đi ý nghĩa của tính dục, thậm chí trở
nên như một hành vi mua bán đổi chác. Trái lại cổ võ
sự cao cả của tính dục con người hiểu như một cuộc
sống hiến dâng. Chỉ trong tương quan hoàn toàn nhân
bản con người mới có thể thực hiện được chính bản
thân mình và do đó được hạnh phúc. Đức khiết tịnh
kitô giáo là một phẩm chất giúp hòa nhập và hòa hợp
tính dục với toàn thể con người, giúp ta sống tính dục
như một thứ năng lượng để thăng tiến. Khiết tịnh là
ẩn dụ đẹp nhất của ân sủng vì nó có khả năng giao
hòa được giữa tự do với kỉ luật, giữa tính bộc phát và
sự vượt trên những điều kiện ràng buộc của thân xác,
giữa tính sáng tạo và sự nhạy cảm, giữa trí thông
minh và niềm hoan hỉ, giữa tình cảm con người và
cảm thức về mầu nhiệm. ■
MỤC LỤC

GIÁO LÝ CHUẨN BỊ

Mục lục:

1. Huyền nhiệm Nadaret

2. Gia đình tạo nên sự sống

3. Gia đình sống thử thách

4. Gia đình linh hoạt xã hội

5. Công việc và ngày lễ trong gia đình

6. Công việc: nguồn sống đối với gia đình

7. Công việc: thách đố đối với gia đình

8. Ngày lễ: thời gian dành cho gia đình

9. Ngày lễ: thời gian dành cho Chúa

10. Ngày lễ: thời gian dành cho cộng đoàn.

Chủ đề:
MỤC LỤC

Gia đình, công việc, ngày lễ.


Đó là ba từ của chủ đề của Đại hội các Gia đình
Thế giới.
Ba từ này tạo nên tam thức khởi đi từ gia đình để
mở ra với thế giới;
làm việc và nghỉ lễ là những cách thức mà gia đình
cư ngụ trong “không gian” xã hội và sống “thời
gian” nhân văn.
Chủ đề này thiết lập mối liên hệ của đôi vợ chồng
với các lối sống của họ:
cách thức sống các mối quan hệ (gia đình),
cư ngụ trong thế giới (công việc)
và nhân văn hóa thời gian (ngày lễ).

Các bài giáo lý được chia thành ba nhóm, liên hệ


nối tiếp tới gia đình, công việc và ngày lễ,
và được giới thiệu bởi giáo lý về lối sống gia đình.
Các bài giáo lý này muốn làm sáng tỏ mối liên hệ
giữa kinh nghiệm của gia đình
và cuộc sống thường ngày trong xã hội và trên thế
giới.

Hôn nhân: Tình yêu vừa nhân linh vừa thần linh
MỤC LỤC

Hôn nhân: Tình yêu vừa nhân linh vừa thần linh

Phỏng vấn cha Luy Nguyễn Anh Tuấn, Tổng Thư ký


Ủy ban Mục vụ Gia đình

WHĐ (15.07.2010) – Từ số báo ra ngày thứ Bảy 03-


07-2010, tại chuyên mục “Nhịp sống trẻ”, báo Tuổi
Trẻ liên tiếp đăng tải bài viết và ý kiến của độc giả về
vấn đề “Tình dục trước hôn nhân trong giới trẻ”.

Nhận thấy đề tài được thảo luận trên báo Tuổi Trẻ
cũng liên quan đến việc giáo dục lối sống cho các bạn
trẻ hiện nay trong các gia đình công giáo, WHĐ đã
thực hiện cuộc phỏng vấn cha Luy Nguyễn Anh
Tuấn, Tổng Thư ký Ủy ban Mục vụ Gia đình trực
thuộc HĐGMVN.

Cảm ơn cha Luy đã nhận trả lời phỏng vấn và xin trân
trọng giới thiệu cùng quý độc giả.

***

1. Thưa cha, hiện nay báo Tuổi Trẻ liên tiếp đăng tải
bài viết và ý kiến của độc giả về vấn đề “Tình dục
trước hôn nhân trong giới trẻ”.
MỤC LỤC

Ý kiến của cha như thế nào: nên hay không thảo luận
công khai đề tài “nhạy cảm” và “khó nói” này?

– Thời đại của thông tin với các phương tiện truyền
thông đa dạng khuyến khích và mời gọi mọi cá nhân
cũng như tập thể nói lên tiếng nói của mình qua đó
diễn tả ý kiến, quan điểm về cuộc sống và về con
người. Tình dục-tình yêu-hôn nhân-gia đình không
phải chỉ là một mảng của đời sống con người mà còn
là chính cuộc sống con người. Vì thế không chỉ
những người trẻ quan tâm đến đề tài này, mà cả người
lớn, người cao tuổi cũng quan tâm, bởi lẽ nó liên hệ
đến bản thân và cuộc sống trong đó mỗi người đang
sống. Diễn đàn “Tình dục trước hôn nhân trong giới
trẻ” trong mục Nhịp Sống trẻ của Báo Tuổi Trẻ trong
những ngày qua, tạo cơ hội cho nhiều người nhất là
các bạn trẻ bộc lộ ý kiến, bộc bạch tâm tư cùng những
nỗi niềm đã và đang trải nghiệm rất khác nhau về vấn
đề này, là đáng trân trọng, cần tiếp tục được mỗi
người suy nghĩ và phân tích, từ đó có thể tìm thấy cho
mình một hướng đi để có một cuộc sống hạnh phúc
thật sự theo nghĩa đầy đủ nhất. Thế nên thảo luận về
đề tài này công khai, trong phạm vi nào đó và với
mục đích cuối cùng là đi tìm hạnh phúc thật sự và
tròn đầy của đời người, tôi nghĩ là nên làm.
MỤC LỤC

Đối với nhiều người trẻ, tìm giải đáp cho vấn đề có
nên hay không nên “quan hệ tình dục trước hôn nhân”
có lẽ cũng bức xúc như vấn đề “quan hệ tình dục
ngoài hôn nhân” nghĩa là quan hệ với người đã có vợ
hay có chồng (có sự ngoại tình), hoặc với người mình
không có ý định kết hôn (“yêu” nhưng không muốn
kết hôn), hoặc với người mình không yêu (tình dục
không tình yêu). Hoàn cảnh thực tế xã hội của hai vấn
đề khác nhau, và đối với nhiều người trưởng thành
theo đạo đức truyền thống của Á Đông, dường như
đặt vấn đề trước (quan hệ tình dục trước hôn nhân) có
phần nghiêm túc hơn đặt vấn đề sau (quan hệ tình dục
ngoài hôn nhân). Nghĩa là nếu ai đó rơi vào trường
hợp trước thì dễ được xã hội thông cảm, tha thứ hơn
rơi vào trường hợp sau. Khi đặt vấn đề “quan hệ tình
dục trước hôn nhân” thì đã hàm ý “có ý định sẽ tiến
đến hôn nhân” (do “lỡ” hoặc có ý muốn sống thử
trước khi kết hôn). Ở đây, câu hỏi chỉ nhằm tới
trường hợp thứ nhất.

2. Ý kiến của độc giả về đề tài trên có thể tạm chia


làm 2 loại: tán thành, không tán thành. Nhóm tán
thành viện các lý do: chuyện “quan hệ” trước sau
cũng tới, nên không gì phải áy náy; thời buổi tân tiến
ngày nay không cần phải đặt nặng chuyện “trinh tiết”;
MỤC LỤC

chuyện “quan hệ” là một nhu cầu tự nhiên, không


thuộc lãnh vực đạo đức, vì thế đừng áp đặt những
ngăn cấm nhân danh đạo đức…

Cha nghĩ gì về những viện dẫn của nhóm “tán


thành”?

– Trước đây, Báo Tuổi Trẻ đã có bàn luận về chuyện


“sống thử trước hôn nhân”, và cũng từng nhận được
nhiều ý kiến trái chiều nhau. Một bên cho rằng nên có
để xem khả năng hòa hợp của hai người. Nhưng bên
ngược lại gay gắt cho rằng đó là điều cấm kỵ, rằng
đạo đức xã hội không thể chấp nhận, và đó là sự ngụy
biện cho lối sống học đòi, buông thả... Ở Diễn Đàn
Nhịp Sống trẻ trên Báo Tuổi Trẻ (từ ngày 3.7.2010)
lần này vấn đề đặt ra có hơi khác: “tình dục trước hôn
nhân”. Những ý kiến trên Diễn Đàn Nhịp Sống trẻ về
vấn đề “tình dục trước hôn nhân” rất đa dạng, khác
nhau. Kẻ tán thành người không tán thành, với những
kinh nghiệm thực tế được chia sẻ và quan niệm về đời
sống tình dục cũng khác nhau. Căn cứ trên con số
40% (không biết thực tế chính xác tới mức nào) sinh
viên đã từng quan hệ tình dục từ một cuộc khảo sát
nào đó, ý kiến của những bạn trẻ tán thành “tình dục
trước hôn nhân” dường như càng được nạp thêm
“năng lượng”! Đàng khác, trong giới Công giáo, một
MỤC LỤC

số rất đông các bạn trẻ Công giáo ở tổng giáo phận
Huế trong một Đại Hội giới trẻ nào đó cách đây
không lâu kiên quyết nói KHÔNG với “tình dục trước
trước hôn nhân” cũng là một tiếng nói ngược lại trong
bộ phận những người trẻ cũng cần phải quan tâm.

Những người tán thành “tình dục trước hôn nhân”


dường như có chung một lập luận này: ngày xưa các
cụ lấy vợ, lấy chồng sớm (lấy chồng từ thuở mười
ba), và như thế quan hệ tình dục (được phép) phát
sinh rất sớm và thoải mái; ngày nay con cháu toàn lập
gia đình trễ (30-35 tuổi) trong khi lại dậy thì sớm hơn,
tránh sao khỏi chuyện ăn cơm trước kẻng. Nhưng
những người này cũng có những “cái nhìn” khác biệt
nhau. Ngoài một số những bạn trẻ vô tư chỉ biết sống
theo bản năng kiểu “tình một đêm” hay “tình dục
không cần tình yêu”, nhiều người khác có suy nghĩ
chín chắn hơn, xem tình dục không tách khỏi tình
yêu: “quan hệ tình dục là một cách thể hiện tình yêu.
Nam nữ yêu nhau, tình cảm mặn nồng, việc gần gũi
và nảy sinh nhu cầu ấy là điều hết sức bình thường và
cũng không nên xem nặng vấn đề này” (Báo Tuổi Trẻ
3.7.2010). Cùng một dòng suy nghĩ ấy, người khác
cho rằng: “Nếu hai người yêu nhau thật lòng, chuẩn
bị cho mình đủ kiến thức tối thiểu về tình dục an toàn,
biết các biện pháp tránh thai và biết cách bảo vệ sức
MỤC LỤC

khỏe chính mình thì có gì là ghê gớm khi họ đồng ý


“quan hệ” cùng nhau. Chẳng có gì là mất đạo đức hay
thiếu tư cách ở đây cả. Pháp luật chỉ kết tội hành vi
hiếp dâm, không điều chỉnh tình yêu nam nữ và càng
không đề cập đến khái niệm thế nào là sớm hay muộn
trong quan hệ tình dục... họ chịu trách nhiệm về chính
những điều họ làm chứ không phải ai khác. Như thế,
chẳng có lý do gì để chúng ta cảm thấy thương hại
hay được quyền lên án những hành vi ấy... Bởi họ
sống cuộc đời của chính họ chứ không sống giùm,
sống thay, sống vì ai khác” (BTT 5.7.2010). Đối với
những người “tán thành” nói chung, tình dục là bản
năng không có gì xấu cả. Có một bạn gái quan niệm
thoáng hơn, cho rằng: “Chẳng thể nói chỉ những
người có gia đình mới được quan hệ tình dục và chỉ
được quan hệ tình dục với duy nhất người bạn đời của
mình” !?(BTT 7.7.2010). Chúng ta phải trả lời như
thế nào trước những ý kiến, quan điểm sống này?

3. Nhóm “không tán thành” nêu các lý do đạo đức


(trinh tiết đồng nhất với sự thủy chung, một lòng một
dạ, chân thực…), tâm lý (để tâm hồn giữ được sự
thanh thản, không phải ái ngại vì đã lỡ chung đụng
thể xác…, khi về chung sống với nhau), sinh lý
(không vướng vào những bệnh lý và hệ lụy sức khỏe
do “quan hệ”…)
MỤC LỤC

Cha nghĩ gì về những viện dẫn trên?

– Những người không tán thành “tình dục trước hôn


nhân” ở Việt Nam xem ra cũng còn rất đông. Lý do
về đạo đức luôn luôn là lý do hàng đầu. Trinh tiết là
cái ngàn vàng. Con gái biết giữ trinh tiết cho tới ngày
lấy chồng là con nhà gia giáo, và đồng thời phản ánh
sự thủy chung. Thế nhưng, không phải những người
“không tán thành” chỉ toàn là những người khăng
khăng với quan điểm truyền thống đạo đức, thuần túy
chỉ là “lý thuyết”. Ngay cả những bạn trẻ đã từng có
kinh nghiệm “sống thử” đã rút ra một kinh nghiệm
đau đớn cho mình như tác giả của bài “19 tuổi, tôi đốt
cháy đời mình” (BTT 8.7.2010) và tác giả của bài
“Giá như tôi biết điểm dừng” (BTT 9.7.2010). Cả
những bạn không “sống thử trước hôn nhân” nhưng
trải qua “chuyện ấy” ít là một lần với người bạn khác
giới của mình, sau những giây phút ngọt ngào nhất
thời là cảm giác lo âu, tự ghê tởm và mâu thuẫn với
chính mình, ray rứt khôn nguôi (x. N.N., “Khôn ba
năm dại một giờ”, BTT 7.7.2010). Cái giá họ thường
phải trả cho những “phút giây lỡ lầm” không chỉ là
những cảm giác tâm lý chủ quan tiêu cực đó (thường
có ở các bạn gái nhiều hơn), nhưng còn là đánh mất
dần tình cảm của mình, và cả tình cảm của người kia
MỤC LỤC

dành cho mình: dường như sau đó chỉ còn là những


oán trách, là gánh nặng của “trách nhiệm”; đam mê
cũng làm cho con người thành mụ mị, mê muội, ảnh
hưởng tới việc học, việc làm, ảnh hưởng tới tương lai
(một bạn nam, BTT 9.7.2010). Hơn nữa, xét về mặt
tâm lý xã hội, như ý kiến của một bạn gái, “ăn cơm
trước kẻng” luôn là một rủi ro, nhất là đối với các bạn
gái, cho dẫu bạn nghĩ đó là một tình yêu dẫn tới hôn
nhân, vì tới “phút 89” vẫn còn bị thua; hơn nữa, cũng
theo bạn ấy, nếu giữ được điều đó thì đến khi cưới
nhau, người chồng sẽ yêu thương bạn hơn bao giờ
hết. Tránh được tình dục trước hôn nhân là giải pháp
tốt nhất cho một tình yêu đẹp và lãng mạn! (T.H.,
Cơm không ăn gạo còn đấy, BTT 10.7.2010).

Lý do tâm lý và đạo đức được bổ sung thêm bởi lý do


về sức khỏe, do làm “tình dục thiếu an toàn” khiến
bệnh lây qua đường sinh dục, từ đó cũng ảnh hưởng
lên sinh lý không còn ham muốn hay ảnh hưởng lên
khả năng có con trong tương lai, tâm lý cũng thay đổi
(một bạn gái, BTT 7.7.2010). Lý giải cho quan niệm
của nhóm “không tán thành” như thế đủ chưa?

Trong hoàn cảnh này, người thì tán thành “tình dục
trước hôn nhân” kẻ thì không, như là một người công
MỤC LỤC

giáo tôi nghĩ mình cũng cần nói lên quan điểm và suy
nghĩ của mình.

Trước hết, tôi nghĩ cần phải trở lại câu hỏi căn bản
hơn: hành vi tính dục (ở đây tôi dùng chữ tính dục
thay cho tình dục trong nhiều trường hợp vì muốn chỉ
một thực tại tự nhiên và khách quan nơi thân xác con
người vốn luôn là một thân xác có giới tính) diễn tả
nơi thân xác giữa một người nam với một người nữ
có ý nghĩa gì? Vì có hiểu bản chất và ý nghĩa của
hành vi ta mới biết phải hành động thế nào. Vì hành
động đi theo bản chất.

Ý kiến của đa số thoạt tiên dường như đều coi tình


dục như là nhu cầu thuộc bản năng, mà đã là nhu cầu
bản năng thì cần được thỏa mãn, như đói cần ăn, khát
cần uống. Đôi chim sẻ, một “chú” và một “ả” kia
đang quấn quít và quần nhau “chuyện ấy” trên mái
nhà ta bên cửa sổ có lẽ cũng đang làm hành động thỏa
mãn nhu cầu bản năng mà đôi bên đều cần nhau. Thế
nhưng “chuyện ấy” nếu đang diễn ra giữa hai con
người một nam và một nữ trong tư cách như hai “con
người” là một hành vi hoàn toàn khác hẳn. Bạn sẽ hỏi
lại có gì khác đâu? Khác ở chỗ nào?
MỤC LỤC

Hành vi tính dục của con người diễn ra nơi thân xác
con người. Nhưng thân xác con người khác với thể
xác của các con vật ở chỗ nhờ nó và qua nó tôi thể
hiện chính mình. Cái “tôi” là cả một thế giới tinh thần
bên trong mà ở nơi sâu thẳm đó tôi đang sống với bao
ý nghĩ, tâm tư, tình cảm, ước muốn thầm kín, và cả
những quyết định riêng tư với một sự tự do bất khả
xâm phạm, cái “tôi” ấy thể hiện mình ra bên ngoài
nhờ thân xác và qua thân xác. Đó là cái tôi chủ thể, là
một nhân vị. Con người hay nhân vị là “một” thể
thống nhất của thân xác và tinh thần (xác-hồn). Thân
xác con người vì thế được gọi là “tinh thần nhập thể”
(spiritual body) [1] khác với thân xác của con vật và
mọi vật khác. Nhưng thân xác ấy là nam hay là nữ,
nghĩa là được phân giới tính (sexed body) ngay “từ
thuở ban đầu” [2]. Giới tính cùng với sức cuốn hút
mạnh mẽ của nó khi đứng trước tha nhân là dấu chỉ
cho thấy rằng tương giao là nhu cầu thiết yếu của
cuộc sống của một con người [3]. Tính dục hay giới
tính là ngôn ngữ của thân xác để nói một điều gì hơn
nữa không chỉ là thân xác. Tính dục hay giới tính là
một phương thế và là lực đẩy con người bước ra khỏi
cái tôi khép kín, buồn tủi, héo mòn để bước vào tương
giao với thế giới, với những con người khác, với
Thiên Chúa, để hiệp thông trong yêu thương. Hai
người, một nam một nữ, đúng nghĩa là con người,
MỤC LỤC

cũng là hai nhân vị, hai “chủ thể” khác biệt (khác giới
tính, và bao nhiêu dị biệt khác nữa), làm hành vi tính
dục là để thể hiện tình yêu muốn nên một “xương một
thịt” [4]. Trước khi kết hợp (qua hành vi tính dục thân
xác), Tôi là Tôi, và Em là Em. Giờ đây, “Tôi” là
“Em”, và “Em” là “Tôi”, bắt đầu hiện hữu cái “Chúng
ta”, và tôi cảm thấy là tôi sung mãn nhờ em, và em
cũng thấy mình đầy đủ hơn nhờ tôi. Điều đó là nhờ
phép mầu của thực tại Tình Yêu, tuôn chảy ra từ
Thiên Chúa Thượng nguồn Tình Yêu. Bởi thế, cái gọi
là “tình một đêm” hay “tình dục mà không có tình
yêu” không phải là thứ “tình” tương xứng với con
người, không phải là tình yêu, mà chỉ là thỏa mãn bản
năng của phần “con (vật)” mà chưa phải là của “(con)
người”, vì “nhân linh ư vạn vật” [5]. Cái cảm giác “lo
âu, tự ghê tởm, mâu thuẫn với chính mình” sau khi
trải qua “ân ái” (với bạn trai) của một bạn gái chia sẻ
trên Diễn đàn (N.N, Khôn ba năm dại một giờ, BTT
7.7.2010) là một dấu cho thấy hành động tính dục ấy
chưa diễn tả bản chất đích thực của nó, vốn là một
tình yêu dâng hiến hoàn toàn tự do sáng suốt của toàn
thể nhân vị. Tình yêu đích thực vốn còn đòi hỏi một
quyết định dấn thân vĩnh viễn của cả hai người cho
nhau và tình yêu ấy cần phải được xã hội, trong đó
hai người đang sống, biết đến qua một thể thức chính
thức nào đó, tức kết hôn. Vì thế, cả khi hai bạn thực
MỤC LỤC

sự yêu nhau và đã quyết định dấn thân trong hôn


nhân, chuyện bày tỏ tình yêu qua hành động kết hợp
thân xác (giao hợp) trước khi kết hôn vẫn là hành
động rất thiếu khôn ngoan và không chính đáng.

Hơn nữa, người Kitô hữu nhận biết tình yêu của đôi
bạn nam-nữ, tự nó hướng tới sự phối hôn nhờ thân
xác của người nam và người nữ, được mời gọi càng
ngày càng trở nên là hình ảnh của Tình yêu Hiệp
Thông của Ba Ngôi Thiên Chúa, khác biệt và bất khả
phân li. Tình yêu của đôi bạn Kitô hữu đã thành hôn
là bí tích, nghĩa là dấu chỉ hữu hình và hữu hiệu giữa
thế giới này của Tình yêu Chúa Kitô với Hội Thánh,
dấu chỉ trong không gian và thời gian của Tình yêu
Thiên Chúa trung thành qua Giao ước ký kết bằng
Máu châu báu của Chúa Kitô với Dân Người. Thế
nên, tình yêu của đôi bạn, tự nó vốn hướng tới vĩnh
cửu, cũng là một hành trình trong thời gian với đầy
những khó khăn, thử thách, cám dỗ do xu hướng
hướng về tội lỗi (mà dục vọng là một dấu hiệu) cần
đến ơn Chúa trợ lực. Bởi thế, “tình dục trước hôn
nhân” hay ngoài hôn nhân không diễn tả Tình yêu
vừa nhân linh vừa thần linh này, là quan hệ rất mong
manh.
MỤC LỤC

4. Lại có lời khuyên: không cần đặt vấn đề “nên” hay


“không nên”, chỉ cần học biết kiến thức về sức khỏe
sinh sản, sử dụng các phương tiện phòng tránh thai
hữu hiệu… là đủ.

Cha nghĩ gì về lời khuyên này?

– Hành vi tính dục diễn tả tình yêu cũng mở ngỏ với


sự sống như là hoa trái của tình yêu. Sự phong nhiêu
(khả năng tạo sinh ra sự sống dồi dào) vốn gắn liền
với tính dục - tình yêu, không thể tách rời. Nhưng nói
thế không có nghĩa từng hành vi kết hợp tính dục đều
phải nhằm tới việc sinh con; sự phong nhiêu và sinh
sản có trách nhiệm, nghĩa là chủ động trong kế hoạch
sinh sản và giáo dục con cái hợp lý, đi liền với nhau.
Tình yêu phong nhiêu của đôi bạn phản chiếu Tình
Yêu phong nhiêu của Thiên Chúa Đấng Hằng Sống,
Nguồn mạch của dòng sự sống luôn không ngừng
tuôn chảy. Bởi thế, mọi hành động có ý hướng ngăn
cản tiến trình hình thành tự nhiên sự sống mới phát
sinh từ sự kết hợp tính dục – tình yêu của đôi bạn là
tự mâu thuẫn với chính mình, do đó trái với ý định
của Thiên Chúa Tạo Hóa. Như thế ngừa thai, theo
nghĩa là can thiệp chủ ý khiến cho chu trình liên tục
“tính dục-tình yêu-phong nhiêu” bị cắt rời, là một lời
dối trá vì tình yêu đã nói KHÔNG với sự sống là tự
MỤC LỤC

mâu thuẫn, nghĩa là không phải yêu đích thực, và


nhân vị cũng bị xúc phạm. Do đó, giáo dục giới tính
trước hết là dạy dỗ các bạn trẻ biết tôn trọng và làm
chủ chính mình, quí trọng phẩm giá cao vời của tình
yêu, chứ không chỉ là dạy những kiến thức về tình
dục và sức khỏe sinh sản, càng không phải là dạy
những kĩ thuật của một thứ gọi là “tình dục an toàn”
nào đó.

5. Cha có lời khuyên nào đối với các gia đình có con
cái chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân?

– Các cha mẹ có con tới tuổi dậy thì, sắp tới tuổi
thành hôn, cần nói chuyện thẳng thắn với con, theo
nghĩa là đối thoại hơn là dạy dỗ áp đặt. Cha mẹ có
trách nhiệm giáo dục trước hết, và không ai thay thế
được, nếu tránh né hay lần lữa, các em sẽ tự động đi
học với những “người thầy” khác là bạn bè, sách báo,
internet... liệu có bảo đảm, an toàn không?

Lm Luy Nguyễn Anh Tuấn


MỤC LỤC

Hướng về Đại hội Thế giới Các gia


đình lần thứ VII – Milano 2012

Hướng về Đại hội Thế giới Các gia đình lần thứ VII
Milano 2012

WHĐ (22.10.2011) – Đại hội Thế giới các gia đình


được Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II khởi xướng
năm 1994 và ấn định tổ chức mỗi ba năm một lần.

Đại hội lần đầu tiên được tổ chức tại Roma, tiếp theo
là Rio de Janeiro, Brazil (1997); lần thứ ba cũng ở
Roma (2000); rồi đến Manila, Philippines (2003);
Valencia, Tây Ban Nha (2006, lần đầu tiên với Đức
giáo hoàng Bênêđictô XVI); Mexico, Mexico (2009).

Năm 2012 Đại hội Thế giới các gia đình lần thứ VII
tổ chức tại Milano, Italia từ ngày 30 tháng Năm đến
ngày 3 tháng Sáu. Tổng giáo phận Milano và Hội
đồng Tòa Thánh về Gia Đình cùng tổ chức Đại hội.

Theo truyền thống, Đại hội Thế giới các gia đình diễn
ra như sau:
MỤC LỤC

Trước tiên là Hội nghị thần học mục vụ kéo dài trong
vài ngày dành cho những người làm công tác mục vụ,
bao gồm các cuộc gặp gỡ, trao đổi và hội thảo về chủ
đề được Đức giáo hoàng chọn. Chủ đề Đại hội lần thứ
VII là “Gia Đình: Công việc và ngày lễ”.

Sau đó là Cuộc gặp gỡ dành cho các tín hữu, gồm các
gia đình của giáo phận chủ nhà và các gia đình khác
trên khắp thế giới. Cuộc gặp gỡ này bắt đầu vào ngày
thứ Bảy bằng một buổi canh thức cầu nguyện do Đức
giáo hoàng chủ sự. Trong buổi canh thức, các gia
đình đến từ nhiều quốc gia khác nhau sẽ nêu các
chứng từ cuộc sống và đức tin. Sáng Chúa nhật là cao
điểm của Đại hội với Thánh Lễ do Đức giáo hoàng
chủ tế cùng hàng trăm ngàn tín hữu.

Sau đây là Thư của Đức hồng y Ennio Antonelli, Chủ


tịch Hội đồng Tòa Thánh về Gia đình gửi Đức Tổng
giám mục Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam,
trân trọng nhắc lại lời mời tham dự Đại hội này và
thúc đẩy các sáng kiến Hiệp thông qua việc tổ chức
Tuần lễ Gia đình trong các Giáo hội địa phương.

***
MỤC LỤC

HỘI ĐỒNG TÒA THÁNH VỀ GIA ĐÌNH


Prot. N. 2011/649-II/18

Vatican ngày 6.9.2011

Đức Tổng giám mục đáng kính,

Trong vài tháng nữa sẽ diễn ra Đại hội Thế giới các
Gia đình lần thứ VII năm 2012, tôi thật lòng hy vọng
được gặp Đức Tổng tại Milano cùng với một phái
đoàn chính thức và nhiều gia đình của quý quốc cùng
muốn đến chia sẻ kinh nghiệm Hội thánh sâu đậm
này, với sự hiện diện của Đức Thánh Cha và của Giáo
Hội tại Milano, là nơi đón tiếp chúng ta và đại diện
của tất cả các gia đình trên thế giới. Đó là lý do khiến
tôi muốn lặp lại lời mời của Đức Tổng giám mục
Milano cách đây vài tháng và tôi cũng xin Đức Tổng
giám mục vui lòng khích lệ các hiền huynh trong Hội
đồng Giám mục mà ngài là Chủ tịch.

Trong lá thư kêu gọi tham gia sự kiện này viết ngày
23.8.2010, Đức Thánh Cha đã minh nhiên yêu cầu
một “lộ trình chuẩn bị thích đáng trên bình diện giáo
hội và văn hóa […] cùng với những sáng kiến ở cấp
giáo xứ, giáo phận và quốc gia, nhằm nêu lên các
kinh nghiệm lao động và mừng lễ trong những khía
MỤC LỤC

cạnh chân thực và tích cực nhất, chú trọng đặc biệt
đến ảnh hưởng của sự kiện này trên cuộc sống cụ thể
các gia đình”. Thật vậy, việc chuẩn bị, trong mỗi giáo
phận và giữa lòng mỗi giáo xứ, cũng quan trọng như
cuộc họp mừng ở Milano: chỉ bằng cách này mà sự
kiện trên sẽ thật sự tác động trên đời sống gia đình,
giáo hội, văn hóa, xã hội và chính trị; và chỉ như thế
Đại hội các Gia đình sẽ trở thành một sự hiệp thông
sâu sắc của Dân Chúa và của tất cả các gia đình Kitô
hữu chung quanh Đức Thánh Cha. Để khích lệ và tạo
điều kiện dễ dàng cho việc chuẩn bị ấy, 10 bài giáo lý
Kinh Thánh đã được soạn ra quanh chủ đề “Gia đình,
công việc và ngày lễ”. Các bài này được Libreria
Editrice Vaticana phổ biến trong 7 thứ tiếng và có thể
tải xuống từ trang web chính thức
www.family2012.com. (*)

Hơn nữa Hội đồng Tòa Thánh về Gia đình, dựa trên
kinh nghiệm được thực hiện trong nhiều giáo phận
trên thế giới, đã soạn thảo một đề nghị đơn sơ và uyển
chuyển mang tên “Tuần lễ Gia đình”. Tôi vui mừng
gửi đến Đức Cha. Những thông tin hữu ích khác hiện
đang có trên trang web mới của Hội đồng Tòa Thánh
này: www.familia.va.
MỤC LỤC

Thật là điều rất tốt khi thúc đẩy các sáng kiến mục vụ
chuẩn bị đang được hình thành cũng như khích lệ các
truyền thống các kinh nghiệm và các chứng từ cộng
đồng và gia đình liên quan đến chủ đề Đại hội.
Nguyên sự truyền thông cũng diễn tả và tạo lập sự
hiệp thông; việc đó cũng làm phong phú thêm chính
cuộc Họp mừng ở Milano. Tất cả các tin tức trên có
thể gửi về các địa chỉ thư điện tử của Hội Đồng Tòa
Thánh pcf@family.va và của Tổng giáo phận Milano
info@family2012.com.

Cũng vẫn từ trang web www.family2012.com, quý


Đức cha có thể ghi danh tham dự Đại hội và tải xuống
tất cả mọi thông tin để phổ biến (được dịch ra nhiều
thứ tiếng) để cổ võ tham gia Đại hội: tờ rơi, tờ bướm,
kinh chính thức, video quảng bá (định mức cao để có
thể phát trên truyền hình). Một địa chỉ điện thư được
Ban tổ chức Đại hội dành riêng cho giám mục. Đức
cha có thể sử dụng địa chỉ này để báo tin cho chúng
tôi biết Đức cha có tham dự Đại hội và nhờ vậy, sẽ
nhận được mọi thông tin cần thiết. Địa chỉ này là:
vescovi@family2012.com.
Cảm tạ Chúa về sứ mạng mục vụ của Đức cha và thân
ái chào Đức cha.
Hồng y Ennio Antonelli, Chủ tịch
(ký tên)
MỤC LỤC

NGỪA THAI VÀ HÔN NHÂN

Lm Luy Nguyễn Anh Tuấn chuyển ngữ

Những đòi hỏi của Giáo Luật cho Hôn nhân hoàn
hợp

Sau đây là một vấn đề về đạo đức sinh học mà một


độc giả của Zenit đã nêu lên và được các thành viên
của Viện nghiên cứu về Văn hóa Sự Sống (Culture of
Life Foundation) trả lời. Giải đáp sau đây chỉ là một ý
kiến thần học để giải thích cho khoản Giáo luật 1061.
Bài dịch được đăng tải không nhằm mục đích trước
tiên để tạo nên bàn tròn thảo luận về một vấn đề
chuyên môn cho bằng là vì thấy toát lên một tư tưởng
nhân học thích đáng và hữu ích trong quan niệm hôn
nhân kitô giáo. Tuy nhiên, còn nhiều điểm cần được
đào sâu hơn, và bàn thảo với những ý kiến dị biệt
khác nữa.

WASHINGTON, D.C., 28/07/2010

Câu hỏi: Một hành động giao hợp sinh lí có ý tránh


thai (a contraceptive act of sexual intercourse) có thỏa
những yêu cầu của hôn nhân hoàn hợp
MỤC LỤC

(consummation) hay không? (Độc giả SG. A. – Cape


Town, South Africa).

E. Christian Brugger trả lời như sau:

Trả lời: Cả Giáo Luật và giáo huấn luân lí của Giáo


hội Công Giáo không đưa ra câu trả lời chính thức
cho vấn đề này. Do đó, những ai quan tâm đến vấn đề
và muốn tìm câu trả lời cho lương tâm nên tham khảo
những luận cứ liên quan từ cả hai phía của vấn đề và
rút ra kết luận xem ra đối với họ là đúng đắn nhất
dưới ánh sáng của những chân lí đức tin rộng lớn hơn.
Suy tư của các nhà thần học công giáo về vấn đề này
rất là hữu ích. Thế nhưng, những người Công giáo
không nên “tin” những gì các nhà thần học này nói
xét như là những chân lí mạc khải của Thiên Chúa
hay như là giáo huấn dứt khoát của Giáo hội Công
giáo. Họ cũng không nên xem các ý kiến của các nhà
thần học với cùng thái độ như khi họ “phải kính cẩn
tuân phục bằng ý chí và lí trí” Giáo huấn Công giáo
thuộc Huấn Quyền chưa tuyên bố dứt khoát (x. Cđ.
Vatican II, Lumen gentium, số 25). Đúng hơn, họ nên
xem xét những gì các nhà thần học nói và tự phán
định cho mình những ý kiến ấy là có đúng đắn hay
không. Những gì tôi nói sau đây là lập luận riêng của
tôi về vấn đề hành vi giao hợp sinh lí có ý tránh thai
MỤC LỤC

có hoàn hợp (consummates) cuộc hôn nhân hay


không (nghĩa là, nó có phù hợp hay không để tạo nên
một sự hiệp thông thiết yếu để cả hai người nên một
xương một thịt hầu có được một cuộc hôn nhân bất
khả phân li). Tôi khởi đi từ việc giải thích bản tính
của một con người (nhân vị) vừa xác thể vừa tinh
thần (spiritual-bodily nature) làm cơ sở như thế nào
cho Giáo huấn của Hội thánh Công giáo về bản chất
của hôn nhân.

Con người là một hữu thể thống nhất của xác và hồn.
Là hữu thể tinh thần, nhưng con người không chỉ là
hữu thể tinh thần sử dụng một thân xác, giống như
một thuyền trưởng lái con tàu của mình. Con người
còn là hữu thể thân xác, nhưng không chỉ là thân xác
thiếu chiều kích phi-vật-thể (như những người theo
thuyết duy vật tin tưởng). Con người được gọi cách
chính xác là những “linh hồn nhập thể”. Quan hệ hôn
nhân là diễn tả duy nhất của sự hợp nhất hồn-xác này.

Một số tương quan, chẳng hạn như quan hệ giữa hai


người là bạn, được thiết lập trên cơ sở chiều kích tinh
thần này mà thôi. Nói thế tôi không có ý muốn nói
tình bạn không hề được diễn tả qua thân xác. Dĩ nhiên
là có, nó giống như mọi sự gì thuộc nhân tính. Nhưng
tình bạn hiện hữu là nhờ một hành vi tinh thần, một
MỤC LỤC

hành vi của ý muốn, tức là trên cơ sở của sự ưng


thuận của hai người thông dự. Và nó chỉ tồn tại cho
tới khi nào những người bạn ấy vẫn còn muốn làm
bạn với nhau. Nếu có một người nào không ưng thuận
nữa, mối quan hệ ấy (dẫu còn hay không còn tình
cảm) coi như chấm dứt.

Hôn nhân cũng là một loại tình bạn đòi hỏi phải có sự
ưng thuận (“sự ưng thuận trong hôn nhân”). Thế
nhưng, nó là cái gì đó còn hơn là một tình bạn thông
thường được xây dựng và gìn giữ chỉ bằng sự ưng
thuận của hai người thông dự. Nó còn có một chiều
kích xác thân sâu thẳm – chiều kích “một xương một
thịt” được thực hiện qua hành vi giao hợp đầu tiên
(xem St 2,24; Mt 19,5; Ep 5,31). Tính chất “một
xương một thịt” này có hiện hữu hay không là do,
như thánh Phaolô giải thích, những người này có kết
hôn với nhau hay không (x. 1Cr 6,16). Nhưng bởi vì
hành động “ăn ở với nhau” (“giao hợp”) nối kết hai
người thành chỉ một thân xác một linh hồn, diễn tả
khả năng tình thâm giao sâu nặng (radical human
intimacy) và sinh sản thuộc nhân tính, cho nên hành
động ấy phải là duy chỉ thuộc về hôn nhân. Điều đó
có nghĩa là nó phải là một hành động thể hiện và tham
dự vào một mối quan hệ mang tính chất bền vững,
độc hữu và phong nhiêu (khả năng sinh sản).
MỤC LỤC

Nếu hai người phối ngẫu chưa ưng thuận cùng nhau
sống một đời đôi bạn kiểu hôn nhân kéo dài suốt cuộc
đời, hành động giao hợp của họ là vô luân
(disordered) bởi lẽ nó tạo nên một sự kết hợp nên một
thân xác nhưng trên cơ sở một quan hệ không trường
cửu. Đức Gioan Phaolô II nói rằng “ngôn ngữ thân
xác” mà được biểu lộ qua một quan hệ ngoài hôn
nhân là dối trá. “Bởi lẽ tôi nói qua thân xác tôi rằng
em thuộc về tôi và tôi thuộc về em mãi mãi; nhưng tôi
lại chưa ưng thuận một kết hợp kiểu như thế.”

Thế nên, hôn nhân là một quan hệ bằng hữu trường


tồn nhưng thuộc loại hai-trong-một-thân-xác được
thiết lập trên cơ sở vừa là sự ưng thuận của hai người
phối ngẫu vừa qua một hành động kết hợp hai thân
xác thành một thể thống nhất một-xương-một-thịt. Sự
ưng thuận được tỏ bày tại bàn thờ lúc hai người phối
ngẫu trao đổi lời thề hứa. Nếu hai người thực sự có ý
tham dự mối quan hệ bằng hữu được phối hôn nên
một-xương-một-thịt bất khả phân li, và không có
ngăn trở nào (ví dụ như họ đã kết hôn), thì sự ưng
thuận ấy tạo nên (điều mà Giáo luật nói) một hôn
nhân “thành nhận” (“ratified marriage”), là hôn nhân
đích thật, nhưng chưa là hôn nhân hoàn hợp. Hôn
nhân ấy trở nên hoàn hợp khi đôi bạn thực hiện một
hành vi vợ chồng nên một trên thân xác diễn tả sự
MỤC LỤC

ưng thuận mà họ tuyên bố tại bàn thờ – ưng thuận


trao hiến hoàn toàn bản thân cho nhau không thể hủy
bỏ. Nếu họ chưa hề hoàn hợp, hành động kết hôn
chưa hoàn tất cách trọn vẹn, và tính chất chưa trọn
vẹn của sự kết hôn biểu lộ qua việc dây hôn phối có
thể được Giáo hội tháo gỡ. Nếu hôn nhân đã thành
nhận và đã hoàn hợp, thì không gì có thể tháo gỡ sự
liên kết vợ chồng trừ cái chết.

Giáo Luật

Bây giờ chúng ta trở lại với câu hỏi liệu một hành vi
giao hợp có ý tránh mang thai có hoàn hợp cuộc hôn
nhân hay không. Chú giải 1985 về Bộ Giáo Luật của
Hiệp Hội Giáo Luật Hoa Kỳ nói rằng: “Những nhà cố
vấn khi bàn thảo các điều khoản Giáo luật này đã ngã
hướng về quan niệm cho rằng sự giao hợp tự nhiên đã
là hoàn hợp và việc sử dụng các phương thế ngừa thai
không ngăn trở tính hoàn hợp thật sự của hành động
ấy chừng nào chúng không cản trở hành động giao
hợp thể lí” [1].

Tôi hiểu đoạn văn này muốn nói rằng các nhà cố vấn
(tức là, các chuyên viên về Giáo luật mà Vatican đã
tham vấn trong khi chuẩn bị cho ra đời Bộ Giáo Luật
1983) cho rằng nếu một người vợ đang dùng thuốc
MỤC LỤC

tránh thai để kiểm soát sinh sản (vốn trái với giáo
huấn luân lí của Hội thánh Công giáo – ND.) trong
khi “ăn ở” với nhau lần đầu tiên, hành động ấy vẫn
“tự nó có khả năng dẫn tới sinh sản” (điều 1061)
(nghĩa là, một hành động thuộc “loại” phong nhiêu
(procreative) cho dẫu thực tế không thể sinh con (not
actually a fertile act)). Sỡ dĩ thế không phải là vì các
nhà cố vấn đã cho rằng viên thuốc ngừa thai là hợp
luân lí đạo đức (dù một số người có lẽ vẫn tin như
thế), nhưng vì một hành vi tránh thai bằng cách dùng
dược phẩm không ngăn trở người chồng phóng tinh
vào âm đạo người vợ, đây là điều mà hầu hết các nhà
Giáo luật cho là cốt yếu của sự hoàn hợp.

Cả Dr. May và tôi đều cho rằng phán quyết này là sai
lầm (và nhiều nhà thần học luân lí ngày nay cũng
thế). Tôi sẽ trình bày cách ngắn gọn nhất lập luận bảo
vệ cho quan điểm của mình. Để một hành động giao
hợp mang đặc tính “hôn ước” (hay “vợ
chồng”/“marital”) và hợp pháp, hành động ấy phải
hàm chứa hai điều thiện hảo chính yếu của hôn nhân,
đó là sinh sản con cái (procreation) và kết hợp vợ
chồng (unity). Nếu có ước muốn rõ ràng ngược lại
với một trong hai thiện hảo này của hôn nhân, thì dù
cho hành động thể lí xem ra có thể giống hành động
giao hợp vợ chồng (marital intercourse), hành động
MỤC LỤC

ấy vẫn không phải là hành động vợ chồng (non-


marital). Do đó, ví dụ như, trong đêm tân hôn, người
chồng cưỡng bức vợ mình phải thực hiện việc giao
hợp trái với ý muốn của cô ta, thì đó không phải là
hành động vợ chồng – không có tính hoàn hợp – bởi
lẽ hành động ấy đi ngược với tự do của người vợ nên
trái nghịch với thiện hảo kết hợp vợ chồng (marital
unity) (thậm chí đó không phải là một hành động
nhân linh, ít là từ phía người vợ; đó chỉ là một phần
của hành vi thể lí). Cũng thế, nếu một hoặc cả hai
người phối ngẫu sử dụng phương tiện ngừa thai với ý
định khiến cho hành động giao hợp ấy không thể thụ
thai được, thì bởi ý định rõ ràng chống lại thiện hảo
về sự sinh sản, hành động của họ cũng không có tính
vợ chồng, và như thế (dĩ nhiên) nó không hoàn hợp
cuộc hôn nhân ấy. Do vậy, một hành động giao hợp
mà có ý tránh thai không thỏa các yêu cầu của điều
khoản Giáo Luật 1061 về sự hoàn hợp hôn nhân. (Dr.
May và tôi trong bài nói chuyện gần đây nhất nói về
vấn đề liệu các cặp hữu ý không sinh con (hiếm muộn
hữu ý) có thể kết hôn trong Giáo hội hay không. Vấn
đề này nói cách khác liệu họ có thể hoàn hợp cuộc
hôn nhân của mình hay không).

Nếu luận cứ này là đúng (như tôi đã nói, đây không


phải là giáo huấn của Giáo hội nhưng chỉ là kết luận
MỤC LỤC

của các nhà thần học), nó sẽ có những hệ luận cho


việc chuẩn bị hôn nhân. Nếu một cặp có ý định thực
hành ngừa thai trong những năm đầu hôn nhân để
tránh có con cái như nhiều cặp đã làm, thì cho dù họ
đã kí kết một hôn ước hợp pháp thành nhận (ratified)
trên bàn thờ, họ còn chưa hoàn hợp cuộc hôn nhân
của mình cho đến khi họ chọn một hành động “ăn ở
vợ chồng” mà tôn trọng cả hai thiện hảo của hôn
nhân. Điều này có nghĩa là họ chưa kết hợp nên một
xương một thịt cho tới lúc ấy; họ chưa đón nhận ân
sủng xuống trên cuộc hôn nhân của đôi vợ chồng xét
như là một xương một thịt; hôn nhân của họ vẫn còn
có thể tháo gỡ được. Điều đó cũng có nghĩa là họ
bước vào cuộc hôn nhân của họ trong khi thường
xuyên chọn một hành vi xấu nghiêm trọng, không tốt
cho cuộc hôn nhân của mình. Sau 40 năm nuốt những
viên thuốc đắng đót này, giờ đây các đôi bạn cần
được các vị mục tử trong Giáo hội nói thẳng thắn rõ
ràng: ngừa thai cản trở thiện hảo của một cuộc hôn
nhân, nó chống lại hôn nhân, là một virus luân lí
trong mối quan hệ.

Tôi tin rằng một linh mục mà biết một cặp vợ chồng
có ý thực hành ngừa thai sau khi họ cưới nhau sẽ hết
sức thuyết phục họ làm cách khác. Ngài cố gắng
thuyết phục họ không đơn giản chỉ nói với họ rằng họ
MỤC LỤC

đang làm điều sai trái. Ngài nên giải thích rõ ràng hết
sức những lí do khiến sự giao hợp ngừa thai là sai
trái; và làm thế với lòng bác ái và kiên nhẫn, vì nhận
thấy nhiều người, kể cả nhiều người Công giáo, rất
khó thấy tính chất sai trái của sự ngừa thai. Sau cùng,
nếu như họ từ bỏ giáo huấn của Giáo huấn Công giáo,
các ngài nên từ khước việc kết hôn của họ. Cũng như,
phong chức linh mục cho một người bỏ Giáo huấn
của Hội thánh về đức khiết tịnh của giáo sĩ đối với tôi
là một sai lầm mục vụ nghiêm trọng, cũng thế, đối với
việc kết hôn những người từ bỏ giaó huấn của Giáo
hội Công giáo về đức khiết tịnh hôn nhân.

Mặc dù chọn theo hay không ý kiến của tôi ở đây, các
vị cũng cố gắng trao đổi với các cặp cách rõ ràng hết
sức rằng tội ngừa thai không phải là một chuyện nhỏ
không nguy hại gì cho cuộc hôn nhân của họ, dù việc
thực hành mục vụ trong Hội thánh công giáo đã tiến
hành điều đó với cách thức này từ nhiều thập niên rồi.

Lm Luy Nguyễn Anh Tuấn


MỤC LỤC

Thư của Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI gửi Đức


hồng y Chủ tịch Hội đồng Tòa thánh về Gia
đình về việc chuẩn bị cho Đại hội các gia
đình thế giới lần thứ VII

Kính gửi:

Hồng y Ennio Antonelli, Hiền đệ đáng kính, Chủ


tịch Hội đồng Tòa thánh về Gia Đình

Khi kết thúc Đại hội Thế giới các Gia đình lần thứ VI,
diễn ra tại thành phố Mexico vào tháng 1 năm 2009,
tôi đã loan báo cuộc Hội ngộ kế tiếp của các gia đình
Công giáo cả thế giới với Đấng kế vị thánh Phêrô sẽ
diễn ra tại Milano vào năm 2012, về đề tài “Gia đình:
công việc và ngày nghỉ”. Ước mong khởi đầu việc
chuẩn bị một biến cố quan trọng như thế, tôi vui
mừng xác định rằng nếu đẹp lòng Chúa, cuộc gặp gỡ
sắp tới sẽ diễn ra từ ngày 30 tháng 5 đến ngày 3 tháng
6 và đồng thời cung cấp một vài hướng dẫn chi tiết
hơn liên quan đến chủ đề và cách thức tiến hành.

Công việc và ngày nghỉ gắn liền chặt chẽ với đời
sống của các gia đình: chi phối các quyết định của các
gia đình, ảnh hưởng đến các mối tương quan giữa vợ
MỤC LỤC

chồng và giữa cha mẹ và con cái, và tác động đến mối


quan hệ của gia đình với xã hội và Giáo hội. Kinh
thánh (x. St 1-2) nói với chúng ta rằng gia đình, công
việc và ngày nghỉ là những ơn ban và phúc lành của
Chúa để giúp chúng ta sống một cuộc sống nhân bản
trọn vẹn.

Kinh nghiệm hằng ngày cho thấy sự phát triển thực


sự của con người bao gồm vừa chiều kích cá nhân,
gia đình và cộng đoàn, vừa các hoạt động và các mối
tương quan chức năng, cũng như việc mở ra với hy
vọng và sự Thiện vô hạn.

Rất tiếc, ngày nay, tổ chức công việc, được quan


niệm và tiến hành dựa vào sự cạnh tranh thị trường và
lợi nhuận tối đa, và quan niệm về ngày nghỉ như là
dịp thoát ly và hưởng thụ, góp phần dẫn đến sự tan rã
gia đình và cộng đoàn và truyền bá một lối sống cá
nhân chủ nghĩa.

Vì thế cần phải cổ võ một suy tư và một sự dấn thân


nhằm dung hòa các nhu cầu và lịch công việc với các
nhu cầu của gia đình và phục hồi ý nghĩa thực sự của
ngày nghỉ, đặc biệt của ngày Chúa nhật, là ngày Phục
sinh hằng tuần và là ngày của Chúa và ngày của con
MỤC LỤC

người, ngày của gia đình, của cộng đoàn và của tình
liên đới.

Cuộc Hội ngộ các gia đình thế giới sắp tới tạo nên
một cơ hội thuận lợi để suy nghĩ lại về công việc và
ngày lễ trong viễn tượng của một gia đình hiệp nhất
và mở ra với sự sống, hội nhập thực sự vào xã hội và
Giáo hội, lưu tâm đến phẩm chất của các mối tương
quan cũng như đến chính cấu trúc hạt nhân của gia
đình.

Để biến cố này có thể mang lại hoa trái thực sự, ta


không thể để nó ở trong tình trạng biệt lập, mà phải
gắn liền với một tiến trình chuẩn bị đàng hoàng về
mặt tôn giáo cũng như văn hóa.

Vì thế tôi ước mong sao từ ngay trong năm 2011, kỷ


niệm lần thứ XXX Tông huấn Familiaris Consortio,
“bản Hiến chương vĩ đại” của mục vụ gia đình, chúng
ta có thể thực hiện một lộ trình có giá trị cổ võ những
sáng kiến ở cấp độ giáo xứ, giáo phận và quốc gia,
nhằm làm sáng tỏ các kinh nghiệm thực chất và tích
cực nhất về công việc ngày nghỉ, với sự quan tâm đặc
biệt đến tác động của sự kiện này lên trên cuộc sống
thực tế của các gia đình.
MỤC LỤC

Ước mong sao các gia đình Kitô hữu và cộng đoàn
Hội thánh trên cả thế giới cảm thấy mình được thách
đố và liên lụy, và khẩn thiết lên đường tiến đến
“Milano 2012”. Cuộc Hội ngộ các gia đình lần thứ
VII này cũng như những lần trước sẽ kéo dài năm
ngày và đỉnh cao là vào tối thứ Bảy với “Lễ hội các
Chứng từ” và Thánh lễ trọng thể vào sáng Chúa nhật.

Hai cử hành này tôi đều chủ tọa và sẽ là cơ hội cho


mọi người chúng ta tập họp như “gia đình của các gia
đình”. Toàn thể sự kiện sẽ được sắp xếp đặc biệt làm
sao để bảo đảm được sự bổ túc hài giữa các chiều
kích khác nhau như: cầu nguyện cộng đoàn, suy tư
thần học và mục vụ, những giờ phút huynh đệ và trao
đổi giữa các gia đình khách mời với các gia đình tại
chỗ, cũng như công tác truyền thông.

Nguyện xin Chúa thương ban ngay từ bây giờ nhiều


ơn thiêng cho Tổng giáo phận của thánh Ambrosio để
quảng đại tiếp đón và dấn thân tổ chức hầu phục vụ
cho Giáo hội toàn cầu và cho các gia đình thuộc
nhiều quốc gia khác nhau.

Trong khi nài xin sự phù trì của Gia đình thánh
Nadaret, gia đình vừa tận tụy với công việc hằng ngày
vừa chuyên cần cử hành các ngày lễ với những người
MỤC LỤC

đồng hương của mình, tôi ưu ái ban Phép lành Tòa


Thánh cho Hiền đệ đáng kính, cho các Cộng tác viên
của Hiền đệ và cho mọi gia đình tham gia chuẩn bị
cuộc Hội Ngộ lớn tại Milano.

Castel Gandolfo, ngày 23 tháng 8 năm 2010

Bênêđictô XVI

UB Mục vụ Gia đình / HĐGMVN

You might also like