You are on page 1of 24

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN


---------------------------

BÀI TẬP MÔN KINH TẾ QUỐC TẾ

Đề bài: Phân tích những xu thế vận động lớn của nền KTTG và tác động của chúng đến việc
hoạch định chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam? Thuận lợi và khó khăn trong phát triển
kinh tế đối ngoại của Việt Nam, giải pháp? Cần phải có những giải pháp gì để nâng cao sức
cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trong điều kiện là thành viên của WTO, TPP và cho ví dụ
minh hoạ? Ảnh hưởng của Covid – 19.

Lớp học phần: Kinh tế quốc tế 1

Dư Đức Tú 11210000 Lương Lê Thuỷ Tiên 11216913

Trịnh Thị Linh 11210000 Trịnh Trí Đức 11210000

Trần Thị Diễm Quỳnh 11210000 Nguyễn Bảo Nga 11210000

Hoàng Trọng Mạnh 11210000 Bùi Hải Anh 11210000

Trần Thành An 11210000

Năm 2022
MỤC LỤC

1. NHỮNG XU THẾ VẬN ĐỘNG LỚN CỦA NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI ..……….…….
….1

1.1. Xu thế phát triển mang tính bùng nổ của khoa học công nghệ ….….…………..
……..1

1.2. Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa, quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới ....
…………..2

1.3. Xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại ……………………..………………………


2

1.4. Sự phát triển của vòng cung châu Á – Thái Bình Dương
…………………………...3

2. TÁC ĐỘNG CỦA NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI ĐẾN VIỆC HOẠCH ĐỊNH CHÍNH
SÁCH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ………………………………..………….3

2.1. Tác động của xu thế bùng nổ khoa học công nghệ…………...............………….
…..4

2.2. Tác động của xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới………………......……………
6

2.3. Tác động của xu thế phát triển của vòng cung Châu Á – Thái Bình Dương ……..
….8

2.4. Tác động của xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại ………………………...
…….9

3. THUẬN LỢI KHÓ KHĂN TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT
NAM VÀ GIẢI PHÁP
………………………………………………………………………...10
3.1.Thuận lợi ………………………………………………………………...…….
…….10

3.2. Khó khăn …………………………………...…………………………………...


…..21

3.3. Giải pháp …………………………………………………………………...


……….21

4. GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HOÁ VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO, TPP
…………………………………………21

4.1. Giải pháp …………………………………………………………...


……………….21

4.2. Ví dụ ……………………………………………………………………...…………
21

4.3. Ảnh hưởng của Covid – 19 ……………………………………………………...


…..21
1. NHỮNG XU THẾ VẬN ĐỘNG LỚN CỦA NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI

Nền kinh tế thế giới là hệ thống các nền kinh tế của các quốc gia, các tổ chức, các liên kết Kinh
tế quốc tế, các công ty đa quốc gia có sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau thông qua quá trình
phân công lao động quốc tế. Nền kinh tế thế giới ngày nay đang chịu sự tác động của rất nhiều
nhân tố khác nhau. Sự vận động của nền kinh tế thế giới cũng diễn ra với nhiều xu thế khác
nhau, thậm chí trái ngược nhau, bởi thế giới là sự thống nhất của các mâu thuẫn. Sự phát triển
của nền kinh tế thế giới đã chịu sự tác động của một loại xu thế mới, trong đó nổi bật lên là 4
xu thế sau đây.

1.1. Xu thế phát triển bùng nổ của khoa học – công nghệ

Trong lịch sử phát triển thế giới, nhân loại đã trải qua ba cuộc cách mạng công nghiệp
với những thành tựu khoa học to lớn góp phần tạo nên thời đại công nghệ ngày nay. Cách mạng
công nghiệp 1.0 là sự xuất hiện của động cơ hơi nước tác động trực tiếp đến các ngành nghề
như dệt may, chế tạo cơ khí, giao thông vận tải. Cách mạng công nghiệp 2.0 là khi động cơ
điện ra đời, mang lại cuộc sống văn minh, năng suất tăng nhiều lần sơ với động cơ hơi nước.
Cách mạng công nghiệp 3.0 là khi bóng bán dẫn, điện từ, kết nối thế giới liên lạc được với nha;
từ đó cho ra đời vệ tinh, máy bay, máy tính, điện thoại, Internet,…

Ngày nay, phát triển từ nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, cách mạng
công nghiệp lần thứ tư đang bùng nổ mạnh mẽ. Cuộc cách mạng 4.0 có đặc điểm nổi bật là tập
tring vào dây chuyền công nghệ, quy trình sản xuất, thời gian đưa ra một phát minh, sáng chế
nhanh, phạm vi áp dụng sáng chế nhanh rất rộng, lan toả vào khắo các lĩnh vực của đời sống
kinh tế, chính trị, văn hoá,… thế giới và từng quốc gia. Do đó tác động của cuộc cách mạng
này với một cường độ lớn hơn và trình độ cao hơn làm thay đổi cơ cấu các ngành sản xuất và
dịch vụ mạng mẽ và sâu sắc hơn. Cụ thể:
- Các ngành công nghiệp “cổ điển” giảm dần tỷ trọng và vai trò của nó, thay vào đấy các
ngành có hàm lượng khoa học- công nghệ cao tăng nhanh, đặc biệt là các ngành dịch vụ kỹ
thuật phục vụ sản xuất.
- Cơ cấu kinh tế trở nên “mềm hoá”, khu vực kinh tế phi hình thức được mở rộng, nền
“kinh tế tượng trưng” có quy mô lớn hơn nền “kinh tế thực” nhiều lần.

1
- Cơ cấu lao động theo ngành nghề có sự thay đổi sâu sắc, xuất hiện nhiều nghề mới liên
quan tới lĩnh vực khoa học – công nghệ.

1.2. Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa, quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới

Có 3 quan điểm khác nhau cho rằng:


- Toàn cầu hóa là 1 quá trình phát triển mạnh các quan hệ kinh tế quốc tế trên quy mô
toàn cầu, là sự mở rộng và gia tăng mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền KT của các quốc
gia dẫn đến hình thành nên một nền kinh tế toàn cầu.
- Toàn cầu hóa là quá trình loại bỏ sự phân tách cách biệt về biên giới giữa các lãnh thổ
của các quốc gia.
- Toàn cầu hóa là một quá trình loại bỏ các phân đoạn thị trường toàn cầu để đi đến một
thị trường toàn cầu duy nhất.
Các yếu tố tác động đến toàn cầu hóa
- Sự phát triển của hệ thống thông tin liên lạc, viễn thông, vận tải => sự thay đổi trong
quan niệm không gian và thời gian.
- Sự gia tăng mạnh mẽ của mức độ cạnh tranh QT.
- Do sự xuất hiện của với mức độ gay gắt của những vấn đề mang tính toàn cầu đòi hỏi
phải có sự phối hợp của nhiều quốc gia cùng giải quyết vấn đề như: ô nhiễm môi trường, nợ
nần, dịch bệnh, an ninh,....
- Việc chấm dứt chiến tranh lạnh, giảm bớt thù địch, tăng cường sự hợp tác.
- Xuất hiện những vấn đề về chiến tranh và hòa bình, về xung đột khu vực.
- Thương mại toàn cầu đang có xu hướng ngày một gia tăng.

1.3. Xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại


Từ nửa sau những năm 80, trong quan hệ quốc tế diễn ra một xu thế phát triển mới - xu
thế từ đối đầu chuyển sang đối thoại và hợp tác trên nguyên tắc hai bên đều có lợi và cùng tồn
tại hòa bình. Xu thế này được bắt đầu từ mối quan hệ Xô-Mỹ.
- Ưu tiên phát triển những nguồn lực cho phát triển kinh tế.
- Xác định đối tác, đối tượng trong quan hệ quốc tế luôn là vấn đề nhạy cảm, quan trọng
đối với các quốc gia- dân tộc.

2
- Đối tác trong quan hệ quốc tế là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ cộng tác, hợp tác ở
mức độ cao hơn và cụ thể hơn thể hiện sự gần gũi bình đẳng có đi có lại.
- Đối tượng là thuật ngữ chỉ mối quan hệ đối kháng, chống đối, thù địch nhau… gây bất
lợi cho lợi ích các bên tham gia vào hoạt động đó. Đối tượng cũng có những quy mô, phạm vi,
cấp độ khác nhau.

1.4. Sự phát triển của vòng cung châu Á – Thái Bình Dương
- Đây là khu vực có những quốc gia với trình độ phát triển cao, dẫn đầu về những phát
minh, sáng chế, cũng như áp dụng hiệu quả mang lại của các phát minh sáng chế,...
- Xuất hiện 4 “con rồng Châu Á” là 4 quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao cùng
những thành công và nhiều kinh nghiệm trong phát triển.
=> Sự phát triển kinh tế của khu vực châu Á – Thái Bình Dương ngày một lớn mạnh, tác động
tới xu hướng dịch chuyển của kinh tế thế giới, trung tâm kinh tế thế giới ngày càng dịch chuyển
dần về khu vực này.
- Vòng cung Châu Á TBD có khoảng trên 2 tỷ dân chiếm 40% GNP trên toàn thế giới
với những tài nguyên thiên nhiên phong phú, đã từng có những nền văn minh rực rỡ trong quá
khứ và ngày nay đang chứng tỏ một sự phát triển hết sức mau lẹ chưa từng diễn ra trong tiền lệ.

2. TÁC ĐỘNG CỦA NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI ĐẾN HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH
KINH TẾ ĐỐI NGOẠI CỦA VIẾT NAM

Thực hiện đường lối đội ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương
hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, Việt Nam ngày càng tích cực và chủ động hội nhập quốc tế.
với vị thế và vai trò ngày càng gia tăng ở khu vực và thế giới. Chính sách đối ngoại của Việt
nam được triển khai thời gian qua đã góp phần quan trọng trong việc giữ vững môi trường hoà
bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước, đóng góp tích cực vào công cuộc
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, nâng cao vị thế và uy tín của Việt nam trên trường
quốc tế. Quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại là một quy trình phức tạp, theo
đó cần xem xét tổng hợp các yếu tố tác động cả từ bên trong lẫn bên ngoài, nhất là trong bối
cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào khu vực và thế giới để đưa ra chính sách Kinh
tế đối ngoại phù hợp nhất với tình hình quốc gia và quốc tế, cụ thể sau đây.

3
2.1. Tác động của xu thế bùng nổ khoa học – công nghệ

Sau gần 35 năm đổi mới, khoa học – công nghệ nước ta đã có sự chuyển biến tích cực
với nhiều thành tựu trong nghiên cứu điều tra, góp phần tạo luận cứ khoa học cho việc xây
dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường. Khoa học – công
nghệ gắn bó với sản xuất và đời sống, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của
tất cả các ngành, lĩnh vực.

Khoa học – công nghệ đã thể hiện rõ vai trò là nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh
tế của đất nước. Giai đoạn 2015 - 2020, năng suất lao động được nâng lên thể hiện qua chỉ số
năng suất các yếu tố tổng hợp TFP (tăng từ 33,6% giai đoạn 2011 - 2015 lên 44,46% giai đoạn
2016 - 2019), tỉ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị hàng hóa xuất
khẩu đạt 50% năm 2020.
Trước sức mạnh của khoa học – công nghệ, những tác động đến việc hoạch định chính sách
kinh tế đối ngoại của Việt Nam là:

 Phải có chính sách thu hút công nghệ đặc biệt là công nghệ nguồn

Tận dụng tối đa những lợi thế mà cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại cho
tăng trưởng kinh tế. Vì đổi mới công nghệ sẽ là động lực tăng trưởng kinh tế, mà biểu hiện rõ
nét nhất ở sự gia tăng các hoạt động và ứng dụng chuyển đổi số, các loại hình kinh tế số, phát
triển kinh tế nền tảng và các dịch vụ phi tiếp xúc truyền thống; đẩy mạnh xử lý trực tuyến dịch
vụ công; phát triển các ứng dụng thương mại điện tử, ngân hàng số (digital banking)…
Tiếp tục hoàn thiện và thúc đẩy thị trường KH&CN phát triển. Phát triển các yếu tố thể
chế thị trường khoa học và công nghệ: hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật liên quan đến
hoạt động của thị trường KH&CN; nâng cao hiệu quả hoạt động thực thi sở hữu trí tuệ, phát
triển các dịch vụ KH&CN, thúc đẩy cung và tăng cầu các sản phẩm KH&CN…
Đẩy mạnh huy động vốn đầu tư cho phát triển KH&CN. Xã hội hóa và đa dạng hóa các
nguồn vốn cho hoạt động KH&CN, đặc biệt tăng cường nguồn vốn từ doanh nghiệp.
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý khoa học công nghệ; đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế về
khoa học công nghệ.

4
 Chú trọng phát triển nguồn nhân lực KH&CN. Cần phải chú trọng đào tạo đội ngũ cán
bộ KH -CN, đội ngũ những nhà quản lý có chất lượng cao và đội ngũ công nhân

Dự thảo Báo cáo Tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 -
2020, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2020 trình Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nêu định hướng, giai đoạn 2021 - 2030: “Phát triển mạnh mẽ
khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bứt phá về năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Có thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, thúc đẩy
ứng dụng, chuyển giao công nghệ; nâng cao năng lực nghiên cứu, làm chủ một số công nghệ
mới, hình thành năng lực sản xuất mới có tính tự chủ và khả năng thích ứng, chống chịu của
nền kinh tế; lấy doanh nghiệp làm trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao
công nghệ, ứng dụng công nghệ số. Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái
khởi nghiệp sáng tạo”.

Phát triển nguồn nhân lực KH&CN. Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ
KH&CN, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài. Đẩy nhanh và đào tạo lại đội ngũ cán bộ KH&CN,
nhất là cho các ngành kinh tế trọng yếu và các ngành khoa học cơ bản, các ngành công nghệ
cao.

 Phải có sự điều chỉnh cơ cấu mặt hàng XNK( đặc biệt chú trọng những mặt hàng có
chất lượng cao và các dịch vụ để đáp ứng được nhu cầu TG). Đồng thời phải phát huy
tính sáng tạo của các doanh nghiệp, cá nhân

Phát triển xuất khẩu theo mô hình tăng trưởng bền vững và hợp lý của Việt Nam thời
gian qua là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng và Chính phủ, luôn gắn liền với chủ
trương về hội nhập quốc tế về kinh tế của đất nước và quá trình tự do hóa thương mại. Đại hội
Đảng XII của Đảng khẳng định : "Đổi mới mô hình tăng trưởng chuyển mạnh từ chủ yếu dựa
vào xuất khẩu và vốn đầu tư sang phát triển đồng thời dựa vào cả vốn đầu tư, xuất khẩu và thị
trường trong nước”. Tại Quyết định số 2471/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm 2011 của Thủ
tướng Chính phủ Phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 – 2020, định
hướng đến năm 2030 đã nêu rõ Quan điểm chiến lược:

5
a) Phát triển sản xuất để tăng nhanh xuất khẩu, đồng thời đáp ứng nhu cầu trong nước; khai
thác tốt lợi thế so sánh của nền kinh tế, nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh xuất nhập khẩu
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giải quyết việc làm và
tiến tới cân bằng cán cân thương mại.

b) Xây dựng, củng cố các đối tác hợp tác chiến lược để phát triển thị trường bền vững; kết hợp
hài hòa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của quốc gia, lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị - đối
ngoại, chủ động và độc lập tự chủ trong hội nhập kinh tế quốc tế.

c) Đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu. Tích cực và chủ động tham gia vào mạng lưới sản
xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; chú trọng xây dựng và phát triển hàng hóa có giá trị gia tăng cao,
có thương hiệu trên thị trường trong và ngoài nước.

2.2. Tác động của xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới

Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam ngày càng tích cực và chủ động hội nhập quốc tế
với vị thế và vai trò ngày càng gia tăng ở khu vực và trên thế giới. Quá trình hoạch định và
triển khai chính sách đối ngoại là một quy trình phức tạp, theo đó cần xem xét tổng hợp các yếu
tố tác động cả từ bên trong lẫn bên ngoài, nhất là trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng
sâu rộng vào khu vực và thế giới.
 Việt nam cần chủ động hội nhập vào các nền KTTG với các chiến lược thích hợp.
Cần nhận thức đúng về “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế” để làm cơ sở cho việc
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại. Đặc biệt, cần thấy rõ bước phát triển mới của toàn cầu hóa trong những năm
tới khi cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ; từ đó, tính toán sách lược, chiến lược trong
tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Về kinh tế, cần phấn đấu giành chỗ đứng trong các chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu;
ưu tiên thúc đẩy phát triển nhanh các ngành kinh tế số và công nghiệp 4.0. Cơ hội đang mở ra
cho Việt Nam ở thời hậu dịch bệnh COVID-19, không được bỏ lỡ. Muốn thế, cần ưu tiên phát
triển các mạng kết nối Việt Nam với thế giới, cả “kết nối cứng” và “kết nối mềm”.

6
Về chính trị, tiếp tục nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ với các nước lớn, nhất
là các nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, trong ASEAN. Chủ động
tham gia xử lý các vấn đề quốc tế và khu vực. Thể hiện vai trò của Việt Nam “là bạn, đối tác
tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Về văn hóa - xã hội, cần đẩy mạnh quảng bá lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ Việt Nam với thế
giới; bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản thiên nhiên, công viên địa chất, công viên sinh
thái, di sản văn hóa thế giới, cả vật thể lẫn phi vật thể; khẳng định các giá trị xã hội và truyền
thống tốt đẹp của Việt Nam, bản sắc Việt Nam. Cần đặc biệt quan tâm việc nhân thêm và phát
huy “sức mạnh mềm” của đất nước, cạnh tranh về “sức mạnh mềm” trên trường quốc tế. Trong
bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, phương tiện truyền thông xã hội trở thành một hiện
tượng văn hóa, một kênh thông tin, một công cụ quản trị. Bên cạnh việc tăng cường quản lý
nhà nước đối với các phương tiện truyền thông xã hội, một số nước chủ động sử dụng và phát
huy vai trò kênh thông tin, công cụ quản trị của các phương tiện truyền thông này. Việt Nam
cần có cách tiếp cận mới đối với các phương tiện truyền thông xã hội, không chỉ dừng ở chỗ
coi chúng là đối tượng quản lý,

 VN cần phải điều chỉnh cơ cấu và cơ chế của nền kinh tế sao cho phù hợp với mô hình
toàn cầu hóa. Đó là cơ chế của nền kinh tế thế giới theo cơ chế thị trường, đẩy mạnh
công nghiệp và dịch vụ, tạo ra sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo
các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất
nước.
Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập
trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia. Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường
thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế

7
số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh
mới.

2.3. Xu thế phát triển của vòng cung châu Á –Thái Bình Dương.

Trung tâm thịnh vượng toàn cầu chuyển dịch từ Tây sang Đông, với vai trò dẫn dắt ngày
càng lớn của Trung Quốc dẫn tới sự chuyển dịch trật tự kinh tế và quyền lực trên phạm vi toàn
cầu. Tỷ trọng của các nền kinh tế phương Tây, kể cả Mỹ, các nước Tây Âu và Nhật Bản có xu
hướng giảm dần; tỷ trọng của các nền kinh tế Trung Quốc, Ấn Độ ngày một tăng trong nền
kinh tế thế giới hơn một thập niên qua. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tập trung 3/5 nền
kinh tế lớn nhất thế giới với các quốc gia đông dân nhất thế giới, như Trung Quốc và Ấn Độ có
tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới với đà ổn định. Những thị trường lớn và tăng
trưởng nhanh nhất này là động lực cơ bản cho các xu hướng phát triển lớn nhất trong công
nghệ, thương mại và tài chính của nền kinh tế thế giới. Thời gian tới, châu Á - Thái Bình
Dương sẽ tiếp tục là khu vực phát triển hàng đầu với sự hiện diện của nhiều nước lớn và các
nền kinh tế năng động, nằm trên tuyến hàng hải, hàng không sôi động bậc nhất thế giới, nơi
hiện diện các liên minh, tổ chức, thể chế đa phương quan trọng và tiếp tục ra đời những cơ
chế/sáng kiến trên tất cả các lĩnh vực, nhất là về kinh tế, an ninh - quốc phòng ở mọi cấp độ.

Để phát triển bền vững, Việt Nam thực hiện chủ trương cấu trúc lại nền kinh tế, đổi mới
mô hình tăng trưởng, kiềm chế, kiểm soát lạm phát, đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong bối cảnh
xu hướng bảo hộ thương mại gia tăng ngay tại các thị trường xuất khẩu chính và có lợi, nhất là
Mỹ và Liên minh châu Âu (EU). Việc Mỹ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP), cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc diễn ra quyết liệt,... đã, đang và sẽ tiếp
tục tạo ra những khó khăn, thách thức mới đối với phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an
ninh của Việt Nam.
Những xu hướng tập hợp lực lượng mới cùng sự gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các
nước lớn tại châu Á - Thái Bình Dương tác động mạnh mẽ tới môi trường hòa bình, an ninh,
phát triển của Việt Nam. Chưa bao giờ Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội to lớn như hiện nay
và cũng chưa bao giờ môi trường an ninh của Việt Nam lại chịu sự tác động, thách thức từ
8
nhiều vấn đề phức tạp, đa chiều, đa hướng như bây giờ. Cơ hội và thách thức đan xen với nhau,
nếu không kịp thời tranh thủ, cơ hội sẽ biến thành thách thức; nếu “hóa giải” thành công, thách
thức sẽ chuyển thành cơ hội cho đất nước phát triển. Đồng thời, chúng ta phải xây dựng được
các mối quan hệ song phương, đa phương, gắn kết, tin cậy và cùng có lợi với các quốc gia
khác, tranh thủ sự ủng hộ của các nước lớn và cộng đồng quốc tế, phải biết dựa vào các tổ chức
đa phương khu vực, quốc tế, dựa vào luật pháp quốc tế và những nguyên tắc phổ quát của mối
quan hệ giữa các quốc gia được quốc tế thừa nhận để đối phó với những khó khăn, thách thức.

Cần đẩy mạnh duy trì đoàn kết, gắn kết trong nội khối ASEAN thông qua chủ động phát
huy vai trò tích cực trong “Cộng đồng chung ASEAN”; thúc đẩy đồng thuận trong ASEAN,
tránh để các nước lớn lợi dụng gây chia rẽ ASEAN; có nhiều sáng kiến trong việc tăng cường
đoàn kết, hợp tác nội khối; sẵn sàng phát huy vai trò lớn hơn trong những vấn đề liên quan đến
lợi ích sát sườn của đất nước; ủng hộ và sẵn sàng tạo điều kiện để các nước lớn tăng cường
quan hệ với ASEAN.

2.4. Xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại, từ biệt lập sang hợp tác để tạo nên sự ổn định
cho phát triển . Ưu tiên phát triển những nguồn lực cho phát triển kinh tế.

Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội X của Đảng, công tác đối ngoại trong thời gian
tới bám sát những định hướng lớn như sau:
- Tiếp tục mở rộng và phát triển các mối quan hệ đối ngoại của ta đi vào chiều sâu,
ngày càng ổn định và bền vững. Đặc biệt coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác
toàn diện với các nước láng giềng có chung biên giới, các nước Đông - Nam Á và Hiệp hội
các quốc gia Đông - Nam Á (ASEAN). Thúc đẩy quan hệ hợp tác ổn định lâu dài với các
nước lớn, các trung tâm kinh tế, chính trị của thế giới. Mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác
hữu nghị với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát
triển ở châu Á, châu Phi, Trung Đông và Mỹ La-tinh, các nước trong phong trào Không liên
kết... Tích cực hoạt động tại các tổ chức quốc tế và khu vực.
- Tiếp tục thúc đẩy giải quyết bằng thương lượng hòa bình những vấn đề còn tồn tại về
biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan; phấn đấu xây dựng đường biên giới trên

9
đất liền và trên biển với các nước láng giềng thành đường biên giới hòa bình, ổn định, hợp tác
cùng phát triển.
- Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người; sẵn sàng đối thoại với
các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm
thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền",
"dân tộc", "tôn giáo" hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam.
- Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu; ủng hộ và cùng nhân dân thế giới
đấu tranh bảo vệ hòa bình, chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ trang; góp phần xây
dựng trật tự chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ, công bằng.
- Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại vững
vàng về chính trị, có năng lực nghiệp vụ cao, có đạo đức và phẩm chất tốt.

3. THUẬN LỢI KHÓ KHĂN TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT
NAM VÀ GIẢI PHÁP

3.1.Thuận lợi:

* Vị trí địa lý và tự nhiên:

Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa của khu vực Đông Nam Á, là nơi gặp gỡ
của những luồng gió xuất phát từ các trung tâm lớn bao quanh tạo nên tự nhiên Việt Nam rất
phong phú và đa dạng. Điều này có tác động sâu sắc đến quy mô kinh tế xã hội ở Việt Nam.

Với lợi thế nằm ở rìa Đông của bán đảo Đông Dương, Việt Nam trở thành một đầu mối
giao thông quan trọng từ Ấn Độ Dương đến Thái Bình Dương với đường bờ biển dài 3260km
trải dài từ bắc tới nam với rất nhiều cảng và đặc biệt là vùng bờ biển rộng khoảng 1.2 triệu km2
đã tạo điều kiện vô cùng thuận lợi để nước ta trở thành cửa ngõ giao thông quan trọng, phát
triển vận tải đường biển, kinh tế thương mại, KH-KT với các nước trong khu vực và trên thế
giới.

Bên cạnh đó, Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương, dần trở thành
trung tâm của nền kinh tế thế giới, nơi hội tụ đủ “4 con rồng” Châu Á đang phát triển hết sức

10
mạnh mẽ. Điều này tạo điều kiện cho Việt Nam giao lưu học hỏi được những kinh nghiệm quý
báu, chủ động phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh.

 Về tài nguyên thiên nhiên:

Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, trong đó nhiều loại
có giá trị kinh tế cao ( than, sắt, dầu mỏ,…) thu hút sự chú ý của nhiều nước trên thế giới và
trong khu vực. Tài nguyên thiên nhiên kết hợp với nguồn nhân lực, kinh tế, kỹ thuật ở trong
và ở ngoài nước là nguồn lực quan trọng để thực hiện chiến lược kinh tế đối ngoại.

 Những ổn định về chính trị:

Nước ta bắt đầu tiến hành hội nhập kinh tế trong điều kiện đất nước hòa bình, chính trị xã
hội ổn định. Đây là 1 nhân tố quan trọng trong giao lưu, hội nhập đảm bảo chúng ta chỉ hòa
nhập nhưng không hòa tan. Việt Nam không cho phép tồn tại đa nguyên, đa đảng thay vào đó
tồn tại một Đảng lãnh đạo duy nhất đó chính là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Vì vậy tình hình
chính trị rất ổn định, hiếm khi xảy ra tranh chấp, xung đột. Môi trường hòa bình, sự hợp tác,
liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tiếp tục tạo điều kiện để Việt Nam phát
huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực, nguồn vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm
quản lý, mở rộng thị trường phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là cơ hội lớn
để chúng ta tạo ra bước phát triển mới.
Bên cạnh đó, công tác phát triển kinh tế đối ngoại luôn được Đảng và Nhà nước tạo mọi
điều kiện thuận lợi. Đảng xác định đường lối ở tầm vĩ mô “xu thế không thể tránh khỏi đối với
sự phát triển” của việc tham gia kinh tế đối ngoại. Từ nhận thức này, VN đã có những bước
chuyển lớn trong chính sách kinh tế nói chung, kinh tế đối ngoại nói riêng. Các chính sách này
đều theo hướng tự do hóa, tất nhiên là ở các tầng lớp khác nhau, phụ thuộc vào lực lượng cụ thể
của từng lĩnh vực. Trong khi triển khai chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa, VN
luôn coi trọng củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác của VN với các nước bạn bè
truyền thống, các nước ở c.Á, Đông Âu, Trung Đông, Châu Phi,... hợp tác phát triển mạnh trên
nhiều lĩnh vực, nhất là kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch, lao động,...Hiện nay quan hệ đối
ngoại của VN đã được mở rộng. Vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường

11
quốc tế, đây là nền tảng, thuận lợi cho việc đặt nền móng cho đường lối đối ngoại của VN
trong những năm đầu thế kỉ XXI.
 Yếu tố thuận lợi về mặt kinh tế:

Một yếu tố thuận lợi là nền kinh tế có trình độ và chất lượng phát triển cao hơn. Từ năm
1986, thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp đã được thay thế bằng thể chế
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN; tính chất tự cung tự cấp khép kín trong nền kinh tế
được thay thế bằng xu hướng mở cửa, hội nhập quốc tế. Cơ chế thị trường là hạt nhân của quỹ
đạo phát triển kinh tế mới theo nghĩa nó định hình một phương thức mới gắn kết nền kinh tế
nước ta với nền kinh tế thế giới. Nó cũng tạo ra một lớp chủ thể kinh tế mới về chất. Đó là các
chủ thể kinh doanh độc lập, có trình độ, bản lĩnh cạnh tranh trên thị trường ngày càng được
nâng cao. Sự hiện diện của cơ chế thị trường thực sự tạo ra trạng thái xuất phát mới của nền
kinh tế nước ta. Điều mấu chốt là cơ chế phân bổ nguồn lực xuất hiện động lực kinh tế trên cơ
sở hệ thước đo mới - thước đo giá trị.
3.2: Khó khăn:
Một vấn đề bao giờ cũng tồn tại tính hai mặt. Nước ta đã có một số thuận lợi nhất định
làm nền tảng cơ bản để phát triển nhanh kinh tế đối ngoại, song bên cạnh đó Việt Nam chúng ta
cũng gặp không ít những khó khăn, thách thức trong quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế đối
ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế. Nếu chúng ta không có biện pháp ứng phó, khắc phục tốt
những khó khăn này thì sự thua thiệt về kinh tế, xã hội có thể là rất lớn. Ngược lại nếu chúng ta
có những chiến lược thông minh, chính sách khôn khéo thì sẽ hạn chế được thua thiệt và dành
được nhiều lợi ích cho đất nước. Những khó khăn mà Việt Nam đã và đang phải đối mặt đến từ
cả hai phía khách quan và chủ quan:
 Thứ nhất, về phía khách quan:
Nước ta đã trở thành một trong những quốc gia hàng đầu về xuất khẩu gạo và cà phê,
song đồng thời cũng phải chịu những tổn thất do giá của hàng nông sản chung và gạo, cà phê
nói riêng trên thế giới giảm. Thực tế của thế giới cho thấy, trong vài thập kỉ gần đây, giá cả các
hàng nông phẩm và nguyên liệu bị hạ thấp liên tục không ổn định, do những thay đổi trong cơ
cấu tiêu dùng. Trong những năm tới đây chưa có những dự báo đảm bảo chắc chắn là giá các
hàng nông sản và nguyên liệu không giảm nữa. Vấn đề là thị trường thế giới cho đến nay gần
12
như đã bão hòa, và sản phẩm nào cũng đều đã có các ông chủ chiếm giữ thị phần. Nước ta là
một thị trường mới nổi, nên ta sản xuất thêm nhiều gạo, cà phê thì người khác phải giảm sx
những mặt hàng này, nếu không sẽ dẫn tới tình trạng dư thừa, cung vượt cầu, giá cả sẽ hạ, hoặc
dẫn tới những giải pháp bảo hộ thương mại. Cung về gạo và cà phê đã vượt cầu, do đó giá liên
tục giảm.

Đứng trước tình trạng giá gạo và cà phê giảm, những người sx gạo và cà phê không có
cách gì chống đỡ, ngoài việc phải thu hẹp sản xuất. Từ 2 trường hợp trên đây ta có thể thấy
rằng việc nghiên cứu tìm hiểu thị trường, xác định dung lượng các thị trường, các giới hạn của
thị trường và khả năng thâm nhập tối đa của hàng Việt Nam vào các thị trường đó là một vấn
đề rất quan trọng.
Phát triển kinh tế đối ngoại trong điều kiện các quốc gia trên thế giới áp dụng một số
biện pháp tinh vi hơn như hàng rào tiêu chuẩn kĩ thuật, thuế chống bán phá giá… đã gây khó
khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam.
Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng: Tham gia
vào các tổ chức, liên kết kinh tế thế giới và khu vực, nước ta phải tuân thủ các lộ trình cắt giảm
thuế quan và gỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, đồng thời với đó là hàng hóa nước ngoài sẽ ồ ạt
đổ vào nước ta, chèn ép nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh trong nước, kéo theo hệ quả xấu về
việc làm, thu nhập và đời sống con người lao động. Bởi hàng hóa của nước ta do kĩ thuật, công
nghệ và quản lý còn yếu kém nên chất lượng thấp mà giá thành vẫn cao hơn so với hàng nhập.
Trong đó nước ngoài với dây chuyền công nghệ hiện đại, tay nghề lao động vững vàng, vốn
lớn, trình độ quản lý cao nên sản phẩm làm ra mẫu đẹp, chất lượng tốt lại không bị đánh thuế
nên giá cả rất hợp lý. Sức cạnh tranh bấp bênh của các doanh nghiệp trong nước được thể hiện
rõ.
Phát triển kinh tế đối ngoại ảnh hưởng tới độc lập, chủ quyền, tự chủ của quốc gia. Bởi
nước ta xuất phát điểm kinh tế quá thấp, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, thị trường
phát triển chưa đồng bộ, sức cạnh tranh kém. Trong khi đó, các nước đi trước nhất là các nước
tư bản phát triển có lợi thế hơn hẳn về nhiều mặt. Do đó nếu chúng ta mở rộng phát triển kinh
tế đối ngoại với các nước đó thì sẽ khó tránh khỏi bị lệ thuộc vào mặt kinh tế và từ chỗ lệ thuộc
vào mặt kinh tế sẽ dẫn đến không giữ vững được quyền tự chủ. Trong quan hệ kinh tế đối
13
ngoại, chủ yếu là với các quốc gia có tiềm lực mạnh, có thể chứa đựng những yếu tố tiêu cực
như muốn kìm hãm, thậm chí gây ép buộc Việt Nam phải thay đổi những vấn đề có tính
nguyên tắc như định hướng, mục tiêu, định hướng phát triển,...

 Thứ hai, về mặt chủ quan:


Xuất phát điểm nền kinh tế Việt Nam thấp, có nguy cơ tụt hậu về kinh tế. Nền kinh tế chủ
yếu là nông nghiệp, công nghiệp phân bố không đều. Mặc dù chúng ta đã có ý thức rõ rệt và
những hành động tích cực nhằm thu hẹp khoảng cách song trên thực tế nguy cơ này không
những chậm cải thiện mà còn diễn ra theo hướng tiêu cực. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng nước ta
còn kém phát triển; tình trangj bảo hộ mậu dịch ngày càng cao; chi phí sản xuất của ta nói
chung còn cao hơn một số nước trong khu vực, do đó sức cạnh tranh bị giảm nhiều. Không
những thế, chính sách tiền tệ và tín dụng hỗ trợ hoạt động kinh tế đối ngoại còn yếu, các ngành
dịch vụ còn chưa phát triển tối ưu.
Cơ cấu nhập khẩu chưa mang lại hiệu quả cho sự phát triển của nền kinh tế thêm vào đó,
trình độ chuyên môn của lao động còn thấp và đang mất dần lợi thế lao động giá rẻ; các doanh
nghiệp VN chưa ý thức bảo vệ môi trường và chưa có nhiều kinh nghiệm trong giao thương
quốc tế.
3.3: Giải pháp
Như chúng ta đều biết, sự bùng phát của đại dịch COVID-19 đang trở thành thách thức
lớn nhất hiện nay của toàn cầu, khiến một số vấn đề kinh tế trở nên trầm trọng, đặc biệt là sự
suy giảm trong xu hướng toàn cầu hóa và thương mại tự do, làm xuất hiện thái độ bảo hộ với
thương mại quốc tế và sự gián đoạn của chuỗi cung ứng. Điển hình là trong đại dịch COVID-
19, việc dựa vào hàng công nghiệp của Trung Quốc có thể gây tổn hại khả năng phục hồi kinh
tế của Mỹ, nên nước này đã khuyến khích các DN Mỹ rút khỏi Trung Quốc hoặc chuyển sang
các quốc gia khác. Nhật Bản đã dành một quỹ trị giá 2,2 tỷ USD để hỗ trợ các công ty của nước
này chuyển cơ sở sản xuất từ Trung Quốc sang Đông Nam Á. EU đóng vai trò quan trọng trong
ngoại giao kinh tế đối với 28 quốc gia thành viên, nhưng mỗi quốc gia đều có chiến lược ngoại
giao kinh tế độc lập riêng, vì lợi ích cụ thể của một quốc gia có thể không phù hợp với lợi ích
14
của EU. Dưới tác động của toàn cầu hoá, các quốc gia phải điều chỉnh lại chính sách và chiến
lược kinh tế đối ngoại của mình đối với các quốc gia khác nhằm thúc đẩy lợi ích của quốc gia.
Để thúc đẩy phát triển nền kinh tế đối ngoại trong bối cảnh mới, Việt Nam cần chú trọng đến
những giải pháp sau:
 Một là, nâng cao nhận thức cho các cơ quan, đội ngũ cán bộ liên quan đến kinh tế đối
ngoại và cộng động DN về chiến lược kinh tế đối ngoại và các cách thức ứng phó với
những diễn biến, thách thức mới như: bảo hộ với thương mại quốc tế, đứt gãy chuỗi
cung ứng, các biện pháp phòng vệ thương mại, chống bán phá giá...
 Hai là, tiếp tục sửa đổi và ban hành các quy định pháp luật phục vụ cho hoạt động kinh
tế đối ngoại sao cho hệ thống luật pháp của quốc gia đối với các hoạt động kinh tế phải
minh bạch, rõ ràng, tuân theo các nguyên tắc của thị trường và hội nhập quốc tế.
 Ba là, củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu, tận dụng tối đa lợi thế từ các hiệp định
thương mại tự do đã có hiệu lực; đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, nhập khẩu; đa dạng
hóa cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu…
 Bốn là, xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng để mở rộng kinh tế đối ngoại: các cảng
biển, các cảng trung chuyển quốc tế, sân bay quốc tế, các đường cao tốc nối từ các trung
tâm kinh tế đến sân bay và cảng biển, hệ thống liên lạc, viễn thông, các trung tâm
logistics... Tiến hành xây dựng, hoàn thiện kết cấu hạ tầng thương mại tại các khu vực
cửa khẩu biên giới; cung cấp, cập nhật thông tin về thị trường, cơ chế, chính sách mậu
dịch của nước láng giềng; hướng các DN xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu quốc tế, cửa
khẩu chính để đảm bảo ổn định và phòng tránh được những rủi ro hoạt động thương mại
biên giới.
 Năm là, đổi mới cơ cấu nhập khẩu theo hướng gia tăng nhập khẩu bằng phát minh sáng
chế, các công nghệ mới...; chú trọng nhập khẩu các dịch vụ cần cho phát triển kinh tế
đối ngoại như các dịch vụ tư vấn, các dịch vụ cung ứng vốn, các dịch vụ bảo hiểm, các
dịch vụ viễn thông; tăng tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng, giảm bớt hàng rào bảo hộ.
 Sáu là, nghiên cứu rà soát các chính sách hỗ trợ cho DN tham gia vào hoạt động kinh tế
đối ngoại. Về mặt vĩ mô, chủ động điều hành chính sách tiền tệ, quản lý ngoại hối linh
hoạt nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, cân đối hài hòa giữa yêu cầu xuất khẩu và nhu cầu
nhập khẩu.
15
 Bảy là, tăng cường hoạt động ngoại giao kinh tế để mở rộng thị trường xuất khẩu; phát
triển hệ thống cơ quan xúc tiến thương mại tại các khu vực thị trường lớn và tiềm năng;
phát huy vai trò của các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài trong việc hỗ trợ tìm
kiếm thị trường, chính sách của quốc gia sở tại, cũng như tăng cường bảo vệ hàng hóa
và doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới.
 Tám là, tập trung đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho kinh tế đối ngoại. Trong thời gian
tới, tiếp tục cử các cán bộ đi học các lớp ngắn hạn ở nước ngoài chuyên về các quan hệ
kinh tế quốc tế, kỹ thuật đàm phán quốc tế và luật pháp quốc tế. Tăng cường đầu tư cho
các trường đại học đào tạo các chuyên ngành quốc tế, cho các viện nghiên cứu quốc tế,
cho các bộ phận nghiên cứu tìm hiểu thị trường, cho các trường dạy những nghề phục vụ
cho hoạt động kinh tế đối ngoại...
4. GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HÓA VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO, CPTPP VÀ VÍ DỤ MINH HOẠ
Cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực trong nền kinh tế thị trường. Trong văn
kiện đại hội Đảng VIII của Đảng cũng đã ghi rõ “Cơ chế thị trường đòi hỏi phải hình thành một
môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, văn minh. Cạnh tranh vì lợi ích của đất nước chứ
không phải làm phá sản hàng loạt, lãng phí các nguồn lực, thôn tính lẫn nhau.”
4.1: Giải pháp
a, Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh hàng hóa trong điều kiện thành viên của WTO.
Gia nhập WTO là đưa Việt Nam vào quá trình cạnh tranh không mệt mỏi, cạnh tranh liên
tục trên một sân chơi bình đẳng, không còn chính sách bảo hộ hàng hóa như trước. Quá trình
hội nhập, toàn cầu kinh tế sẽ mở ra những cơ hội và tạo điều kiện thuận lợi cho chúng ta tăng
trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Cần phải thừa nhận một điều rằng, cạnh tranh ở nước ta khi
ra ngoài quốc tế vẫn còn những điều bất cập khó khăn bất lợi và những thách thức riêng nếu
chúng ta không giải quyết được, chắc chắn nền kinh tế sẽ tụt hậu nhanh chóng vì vậy chúng ta
cần phải có những giải pháp:
 Một là: Xây dựng chiến lược phát triển và chiến lược cạnh tranh tích cực. Quan điểm cơ
bản của chiến lược trong thời kì này là phải bảo đảm phát triển nhanh hiệu quả và bền
vững, phải đặt trọng tâm vào chất lượng tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và sức cạnh

16
tranh của nền kinh tế trên cơ sở đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, chuyển dịch và
nâng cấp cơ cấu kinh tế.
 Hai là: Phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực
hiện thật tốt chủ trương của Đảng: "Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển".
 Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn nhau
giữa các nước sẽ tăng lên.
 Bốn là: Tăng cường mở rộng phát triển kinh tế: lựa chọn mặt hàng kinh doanh có nhiều
quốc tế, quan hệ thương mại với nước triển vọng mạnh Việt Nam. Đổi thể chế sách quản
lí hoạt động xuất nhập theo hướng minh bạch hóa.
b, Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh hàng hóa trong điều kiện là thành viên của CPTPP.
Hiện nay, các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã trở thành một trào lưu chung trên thế
giới trong xu thế toàn cầu hóa, đồng thời là xu hướng mở rộng hợp tác kinh tế được nhiều quốc
gia lựa chọn. Việt Nam hiện là thành viên của nhiều FTA. Trong số 13 FTA đã có hiệu lực và
đang triển khai, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là
FTA thế hệ mới đầu tiên mà Việt Nam tham gia. Trong 11 nước CPTPP, Việt Nam đã ký hiệp
định tự do thương mại
với 8 nước, chỉ còn lại 3 nước là Canada, Mexico và Peru. Có 9 nước thuộc nhóm nền kinh tế
phát triển và 2 nước đang phát triển là Việt Nam và Peru. Do đó, khi Việt Nam tham gia vào
CPTPP, nền kinh tế của Việt Nam sẽ ít cạnh tranh hơn với nền kinh tế của các nước thành viên,
trái lại có xu hướng bổ sung do hàng hóa của Việt Nam chủ yếu là hàng nông nghiệp, thủy sản
và hàng hóa sử dụng nhiều lao động. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích do CPTPP mang lại,
thì hàng hóa Việt cũng đứng trước nhiều thách thức cạnh tranh với các nước và chúng ta cần
phải có những giải pháp trước những thách thức này:
 Một là, đối với các các bộ, ngành, cơ quan chức năng, cần xây dựng, sửa đổi những văn
bản pháp luật liên quan; đặc biệt, cần thông tin, truyền thông về CPTPP một cách
chuyên sâu, theo ngành, lĩnh vực và thị trường trọng điểm. Bên cạnh đó, cần nâng cao
năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ, đẩy mạnh đầu tư sản xuất
nguyên, phụ liệu đáp ứng quy tắc xuất xứ. Chúng ta cũng cần có giải pháp tiết giảm chi
phí ngoài sản xuất, nhất là các chi phí logistics.
17
 Hai là, đối với các doanh nghiệp, cần chủ động tìm hiểu các cơ hội ưu đãi, cải thiện
năng lực cạnh tranh. Doanh nghiệp cần chú ý nghiên cứu kỹ thị trường, tìm hiểu kỹ thị
hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng. Và quan trọng hơn, doanh nghiệp cần thay đổi tư
duy kinh doanh trong bối cảnh mới, lấy sức ép về cạnh tranh là động lực để đổi mới và
phát triển. Hoạt động phổ biến tuyên truyền về CPTPP, các chương trình, hoạt động hỗ
trợ doanh nghiệp cần tập trung vào các hoạt động thực chất nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của sản phẩm, xúc tiến thương mại ở tầm quốc gia một cách hệ thống đặc
biệt là ở các thị trường mới, cập nhật thông tin thị trường và kết nối cung cầu.
 Ba là, nghiên cứu thị trường, tìm hiểu thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng và thay
đổi tư duy kinh doanh trong bối cảnh mới, lấy sức ép về cạnh tranh là động lực để đổi
mới và phát triển. Nâng cao tiêu chuẩn hàng hóa xuất khẩu và hình thành các chuỗi giá
trị.
 Bốn là, đẩy mạnh liên kết và hợp tác trong kinh doanh để cùng phát triển. Theo đó, thay
vì những nỗ lực đơn lẻ kém hiệu quả, doanh nghiệp cần hợp tác để vận động chính sách,
cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, qua đó giải phóng sức sáng tạo và hội nhập
thành công. Duy trì hoạt động thường xuyên, đảm bảo tận dụng tốt nhất các cơ hội từ
quá trình hội nhập CPTPP và các FTA.

=> Lợi ích chính đối với Việt Nam sẽ là những tác động dài hạn. CPTPP là hiệp định
thương mại thế hệ mới. Do vậy, ngoài tác động đến phúc lợi kinh tế trong ngắn hạn, hiệp
định này còn có những tác động đến các lĩnh vực dịch vụ, đầu tư, thương mại điện tử, sở
hữu trí tuệ, lao động… CPTPP sẽ góp phần thúc đẩy sự minh bạch và thúc đẩy việc hình
thành các thể chế hiện đại ở Việt Nam.

4.2. Ví dụ
- Đối với Nhà nước:

1. Thực hiện vận động, tuyên truyền ở các trường học: lực lượng học sinh, sinh viên chiếm số
lượng đông đảo tại các trường học, vì vậy nên tuyên truyền, vận động chiến dịch “Người Việt
dùng hàng Việt” tại trường học sẽ có hiệu quả cao. Thông thường các bạn trẻ thường có tư
tưởng “sính hàng ngoại” vì vậy cần có sự giải thích cho các học sinh, sinh viên ý nghĩa của việc
dùng hàng Việt Nam, chắc chắn các bạn sẽ vận động người thân cùng sử dụng hàng Việt. Tại

18
trường học, khi giảng dạy bài học có liên hệ thực tế về việc mua hàng thì giáo viên cần hướng
cho học sinh sử dụng hàng Việt, lời nói của thầy cô luôn luôn uy tín với học sinh vì vậy các em
sẽ thay đổi nhận thức và yêu thích dùng hàng Việt Nam.

2. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về hàng Việt Nam: thông qua các cuộc thi tìm hiểu hàng Việt
Nam trên báo chí, truyền hình hay đài phát thanh về chất lượng, giá cả của từng mặt hàng sẽ
giúp mọi người hiểu rõ hơn về hàng Việt Nam. Hình thức tổ chức các cuộc thi có thể là câu hỏi
hay trò chơi tương tự như là “Hãy chọn giá đúng” hay “Siêu thị may mắn” trên truyền hình.
Những trò chơi này này vừa mang tính giải trí vừa tạo sự hấp dẫn cho người chơi, người tiêu
dùng và khuyến khích mọi người dùng hàng Việt thì mới có kiến thức để tham gia cuộc thi.

3. Mở các diễn đàn để người tiêu dùng phản ánh chất lượng hàng Việt: trên báo chí hay đài
phát thanh cần thường xuyên có các diễn đàn cho người tiêu dùng để họ bày tỏ nhận xét của
mình dành cho hàng Việt Nam. Sự nhận xét của người tiêu dùng sẽ giúp các nhà sản xuất trong
nước có sự đánh giá chính xác về chất lượng của sản phẩm mình làm ra và có sự chấn chỉnh kịp
thời để duy trì lòng tin của người tiêu dùng.

4. Cần xử phạt thật nghiêm hàng giả, nhái hàng Việt Nam: các ngành chức năng cần xử phạt
thật nặng những làm hàng giả, hàng nhái các mặt hàng trong nước. Nếu còn hàng giả hay hàng
nhái tồn tại thì mọi người sẽ rất lo sợ dùng hàng Việt Nam. Cần khen thưởng những cá nhân
phát hiện các cơ sở làm hàng nhái, hàng giả và tố cáo với các ngành chức năng.

5. Có những hoạt động nhằm nâng cao nhận thức và năng lực của doanh nghiệp về vấn đề xây
dựng thương hiệu. Đó là tổ chức các hội thảo, diễn đàn, các lớp tập huấn, đào tạo. Đồng thời
phát hành các ấn phẩm thông tin tuyên truyền kiến thức về xây dựng, phát triển và bảo vệ
thương hiệu cho các doanh nghiệp. Từ đó góp phần tích cực tăng cường nhận thức về thương
hiệu trong cộng đồng doanh nghiệp cả nước, phát động phong trào xây dựng thương hiệu theo
định hướng mà quốc gia hướng tới.
- Đối với các doanh nghiệp:
1. Sản phẩm thủy sản Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều rào cản thương mại, tuy nhiên đây
không phải là điều bất lợi cho cho nước ta. Muốn vượt qua những rào cản này, trước mắt, thủy sản
Việt Nam phải áp dụng công nghệ cao vào nuôi trồng, chế biến và làm tốt khâu thu mua, mở rộng
thị trường tiêu thụ. Cần phải thay đổi cách nuôi tôm, áp dụng công nghệ cao vào khâu chọn giống,
19
nhân giống, cải tạo môi trường nuôi để tạo ra những con tôm có chất lượng khác biệt. Khi sản
phẩm thủy sản Việt Nam đạt chất lượng cao với đủ tính chất ngon - bổ - rẻ và an toàn thực phẩm,
người tiêu dùng khắp nơi sẽ tự tìm đến, như vậy tất cả các rào cản mậu dịch sẽ được giải quyết nhẹ
nhàng.
2. Lĩnh vực công nghệ thông tin: đây là lĩnh vực Việt Nam đang có lợi thế so sánh so với các nước
trong khu vực, kết nối CNTT hiệu quả sẽ thúc đẩy thương mại điện tử và hội nhập quốc tế.
3. Giai đoạn 2007 – 2015, Việt Nam là 1 trong 3 quốc gia có tốc độ tăng trưởng mạnh và xuất
khẩu hàng dệt may vào thị trường Châu Âu cùng với Campuchia và Banglades, với tốc độ tăng
trưởng trên 25%/năm và khoảng 3 tỷ USD/năm. Việc hợp tác với với EU nói riêng và các nước
trên thế giới nói chung sẽ giúp các doanh nghiệp dệt may nâng cao khả năng thiết kế, kỹ năng
quản lý sản xuất, tăng năng suất lao động, từ đó thay đổi hình thái sản xuất, chuyển từ gia công
thuần túy sang sản xuất FOB (tự chủ nguyên liệu), ODM (tự thiết kế sản xuất), OBM (tự sản
xuất và phân phối) qua đó nâng cao tính chủ động và giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp
trong ngành.

4. Nước ta cần tận dụng tốt những yếu tố được coi là có lợi thế so sánh quan trọng như là hệ
thống lao động giá rẻ so với nhiều nước trong khu vực và nhất là với các nước thành viên phát
triển. Giá tiền công lao động của ta chỉ bằng một nửa so với họ, thậm chí có ngành còn thấp
hơn, trước mắt chúng ta có thể tận dụng cao nhất khả năng này trong cạnh tranh với doanh
nghiệp thành viên WTO khác.
5. Hiện nay nước ta có một số mặt hàng có sức cạnh tranh mạnh ở một số nước trên thế giới
như cà phê, giày dép, nông lâm thủy sản. Nhiều mặt hàng tuy có thế mạnh sản xuất nhưng chất
lượng còn kém và mẫu mã đơn điệu nên vẫn chưa cạnh tranh được trên trường quốc tế. Để
nâng cao sức cạnh tranh cho các hàng hóa này, các doanh nghiệp cần đổi mới công nghệ, tăng
cường các biện pháp quản lý để đạt được mục tiêu chất lượng cao, giá thành thấp mà ổn định,
thương hiệu hấp dẫn, dễ tạo ấn tượng.
6. Cuộc sống ngày càng phát triển kéo theo nhu cầu ngày càng cao về các sản phẩm đáp ứng,
con người có xu hướng dùng các sản phẩm có sự đa dạng và chất lượng tốt, mẫu mã mới. Do
đó, các doanh nghiệp nên tập trung chất xám để tạo ra các sản phẩm mới nhằm đa dạng hóa

20
nguồn sản phẩm công ty. Các sản phẩm này không chỉ nhằm mục tiêu thỏa mãn nhu cầu người
tiêu dùng mà còn tăng doanh thu và lợi nhuận cho công ty.
4.3. Ảnh hưởng của covid -19:

Dịch bệnh đã tác động nặng nề đến mọi mặt của đời sống kinh tế-xã hội, sức khỏe và tính
mạng trên toàn thế giới nói chung và VN nói riêng.

-Thách thức

Đại dịch covid-19 đã làm thiệt hại nghiêm trọng dến tốc độ pát triển của một quốc
gia,không chỉ thiệt haij về vật chất của cải mà còn ảnh hươngr ngiêm trọng đến tính mạng,
sức khoẻ , tinh thần của con người, cụ thể:
 Theo báo cáo Tổng cục Thống kê (2020), tăng trưởng GDP của Việt Nam chỉ đạt 3.82%
trong quý I/2020 thấp nhất 10 năm gần đây. Sang quý II/2020, Việt Nam đánh dấu sự
suy giảm tồi tệ trong tăng trưởng với con số chỉ 0.36%. Kéo theo đó là sự giảm xuống
trong lực lượng lao động và thất nghiệp tăng lên
 Do đại dịch, chuỗi cung ứng đã bị đứt gãy và đảo lộn, trong đó có các hoạt động
logistics – xương sống của chuỗi cung ứng. Các dịch vụ vận tải hàng không, vận tải
đường bộ và vận tải đường sắt bị tác động nặng nề nhất. Vận tải biển và hang không ít bị
ảnh hưởng hơn với cước phí vẫn giữ vững mặc dù gặp nhiều khó khăn về thủ tục
 Trung quốc – đối tác trao đổi 1 lượng lớn hàng hóa với vn đóng biên khoanh vùng dịch
trên diện rộng dẫn tới khan hiếm hàng hóa, nhiều DN đóng cửa, giá cả tăng cao. Các mặt
hàng xuất khẩu như hoa quả chững lại ở cửa khẩu thời gian dài trở nên hư hỏng thối rữa,
DN mất trắng
 Đời sống của người dân giảm sút,không có thu nhập trong thời gian giãn cách cùng với
lạm phát tăng cao do khan hiếm hàng hóa và khó vận chuyển cả trong và ngoài nước

VD : Năm 2020 có khoảng 32,1 triệu người từ 15 tuổi trở lên chịu ảnh hưởng tiêu cực từ đại dịch
với nhiều người trong số đó bị mất việc làm, giãn việc/nghỉ luân phiên

21

You might also like