You are on page 1of 78

PHẦN HAI: VĂN HỌC THIẾU NHI

Chương 1

KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM VĂN HỌC THIẾU NHI


Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, văn học thiếu nhi theo nghĩa hẹp gồm
những tác phẩm văn học hoặc phổ cập khoa học dành riêng cho thiếu nhi. Tuy vậy, khái niệm văn
học thiếu nhi cũng thường bao gồm một phạm vi rộng rãi những tác phẩm văn học thông thường
(cho người lớn) đã đi vào phạm vi đọc của thiếu nhi…
Bách khoa thư Văn học thiếu nhi Việt Nam quan niệm về văn học thiếu nhi tường tận hơn,
chi tiết hơn. Khái niệm văn học thiếu nhi được nhận diện ở nhiều góc độ: chủ thể sáng tác, nhân
vật trung tâm, mục đích sáng tác, đối tượng tiếp nhận… Cụ thể:
- Mọi tác phẩm được mọi nhà sáng tạo ra với mục đích giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, tính
cách cho thiếu nhi. Nhân vật trung tâm của nó là thiếu nhi, và đôi khi cũng là người lớn, hoặc là
một cơn gió, một loài vật, một đồ vật, một cái cây… Tác giả của văn học thiếu nhi không chỉ là
chính các em mà cũng là các nhà văn thuộc mọi lứa tuổi.
- Những tác phẩm mà thiếu nhi thích thú tìm đọc. Bởi vì các em đã tìm thấy trong đó cách
nghĩ cách cảm cùng những hành động gần gũi với cách nghĩ cách cảm và cách hành động của
chính các em, hơn thế, các em còn tìm được ở trong đó một lời nhắc nhở, một sự răn dạy, với
những nguồn động viên khích lệ, những sự dẫn dắt ý nhị, bổ ích… trong quá trình hoàn thiện tính
cách của mình. (Bách khoa thư Văn học thiếu nhi Việt Nam)
Như vậy, văn học thiếu nhi là những tác phẩm văn học mà nhân vật trung tâm hoặc là thiếu
nhi, hoặc là người lớn, hoặc là con người, hoặc là thế giới tự nhiên… nhưng được nhìn bằng đôi
mắt trẻ thơ, có nội dung gần gũi, quen thuộc với vốn trải nghiệm của trẻ, được các em thích thú,
say mê và có tác dụng hoàn thiện đạo đức, tâm hồn cho trẻ.

1.2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT
NAM
Văn học thiếu nhi là một bộ phận không thể tách rời của văn học dân tộc. Bất kì nền văn
học nào cũng chứa đựng trong nó một bộ phận không thể thiếu là "văn học thiếu nhi". Cùng với
thời gian, mảng văn học này dần hoàn thiện cả về nội dung lẫn hình thức và góp phần vào sự
trưởng thành của văn học nước nhà.
Cũng như hầu hết các quốc gia trên thế giới, văn học thiếu nhi Việt Nam có một bộ phận
đáng kể là văn học dân gian. Những sáng tác truyền miệng này không phải chủ yếu dành cho trẻ

118
em nhưng vẫn được người đọc nhỏ tuổi mọi thời đại yêu thích và có ảnh hưởng lớn đến việc hình
thành nhân cách của trẻ, đặc biệt là các thể loại truyện thần thoại, cổ tích, ngụ ngôn,… Còn văn
học hiện đại viết cho thiếu nhi Việt Nam bắt đầu được manh nha từ những năm 20 của thế kỉ XX
nhưng thực sự phát triển và trở thành một bộ phận của văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945. Có thể phân chia tiến trình văn học viết thiếu nhi Việt Nam thành các giai đoạn
chính sau đây:
1.2.1. Trước cách mạng tháng Tám
“Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, ở Việt Nam đã có sách viết cho thiếu nhi nhưng
hiện tượng đó chưa đủ để khẳng định có một nền văn học cho thiếu nhi” (Vân Thanh). Dưới chế
độ phong kiến, những sáng tác văn học cho trẻ em chưa xuất hiện. Sang những năm đầu của thế
kỉ XX, văn học cho thiếu nhi chủ yếu có được từ 3 nguồn: truyện dịch của các nhà văn Pháp như
La Fontaine, Perault…; các sáng tác lãng mạn của nhóm Tự lực văn đoàn và sáng tác của các nhà
văn hiện thực phê phán. Trong đó, các loại sách như Hoa hồng, Hoa mai, Hoa xuân… của nhóm
Tự lực văn đoàn chỉ quan tâm phản ánh sinh hoạt của trẻ em thành thị. Các tác phẩm như Từ
ngày mẹ chết, Bài học quét nhà, Một đám cưới, Bảy bông lúa lép của Nam Cao, Bữa no đòn của
Nguyễn Công Hoan, Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng… lại hướng đến nỗi bất hạnh của trẻ
em nghèo. Chú ý khai thác số phận trẻ thơ với những bi kịch nhân sinh sâu sắc, các nhà văn hiện
thực đã để lại trên trang viết những cuộc đời thiếu thốn vật chất, trống vắng tinh thần và rất nặng
gánh về tâm hồn. Trong thời kì này đã xuất hiện một số truyện đồng thoại của Tô Hoài. Trong
các tác phẩm như: Đám cưới chuột, Võ sĩ Bọ Ngựa, Dế Mèn phiêu lưu kí, tác giả đã mượn hình
thức đồng thoại, mượn hình tượng con vật để chuyển tải những vấn đề mang tính xã hội. Nhìn
chung, trước cách mạng tháng Tám chưa thực sự có phong trào sáng tác cho trẻ em nhưng những
tác phẩm của giai đoạn này đã đặt những nền móng đầu tiên cho văn học thiếu nhi nước nhà.
1.2.2. Giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954)
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Đảng và Nhà nước đã quan tâm để phát triển văn
học thiếu nhi. Dưới chế độ mới, những thành tựu đầu tiên của văn học thiếu nhi đã được tạo lập.
Thiếu sinh - tiền thân của báo Thiếu niên tiền phong, ra số đầu tiên vào 1946. Từ đây, các em đã có
tờ báo dành riêng cho mình. Tiếp đó là sự ra đời của tờ Thiếu niên, Tuổi trẻ, Xung phong, Măng
non… và đặc biệt là sách Kim Đồng, một loại sách mà nhà xuất bản Văn nghệ đã in riêng cho thiếu
nhi. Đó là những vốn quý ban đầu của nền văn học thiếu nhi non trẻ. Nhìn chung, số lượng tác
phẩm văn học thời này còn ít ỏi, nội dung đơn giản, chủ yếu là nêu những tấm gương thiếu nhi
dũng cảm trong kháng chiến và tố cáo tội ác kẻ thù còn hình thức thì thô sơ. Có thể kể tên một số
tác phẩm tiêu biểu như: Chiến sĩ canô của Nguyễn Huy Tưởng, Hoa Sơn của Tô Hoài, Dưới chân
cầu Mây của Nguyên Hồng…
1.2.3. Giai đoạn miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội (1955 – 1964)
Những năm tháng hòa bình trên miền Bắc đã tạo điều kiện cho văn học thiếu nhi phát triển.
Ngày 17 tháng 6 năm 1957, nhà xuất bản Kim Đồng được thành lập. Đây là bước ngoặt lớn của

119
văn học thiếu nhi nước nhà. Sự ra đời của nhà xuất bản Kim Đồng là chỗ dựa tinh thần cho đội
ngũ sáng tác. Từ đây, đã xuất hiện những tác phẩm văn học có giá trị như: Đất rừng phương Nam
của Đoàn Giỏi, Hai làng Tà Pình và Động Hía của Bắc Thôn, Em bé bên bờ sông Lai Vu của Vũ
Cao, Cái Thăng của Võ Quảng, Vừ A Dính của Tô Hoài… Đội ngũ sáng tác lẫn số lượng tác
phẩm viết cho các em cũng đông đảo hơn, phong phú hơn. Bên cạnh đề tài kháng chiến, đề tài
lịch sử (Lá cờ thêu sáu chữ vàng – Nguyễn Huy Tưởng, Sóng gió Bạch Đằng – An Cương, Quận
He khởi nghĩa – Hà Ân,…) các tác giả còn khai thác đề tài sinh hoạt, lao động, học tập (Ngày
công đầu tiên của cu Tí – Bùi Hiển, Những mẩu chuyện về bé Ly – Bùi Minh Quốc, Đàn chim
gáy – Tô Hoài…). Trong thời kì này, đội ngũ nhà thơ viết cho các em rất hùng hậu, đặc biệt là Võ
Quảng và Phạm Hổ. Nhìn chung, trong thời kì này, văn học thiếu nhi Việt Nam đã phát triển khá
toàn diện và phong phú. Vào năm 1961, tuyển tập thơ văn cho thiếu nhi lần đầu xuất bản. Đó là
tín hiệu mừng, báo hiệu sự khởi sắc của văn học thiếu nhi nước nhà.
1.2.4. Giai đoạn thời kì kháng chiến chống Mỹ (1965 – 1975)
Văn học thiếu nhi Việt Nam giai đoạn này phát triển mạnh với nhiều cây bút tài năng và
nhiều tác phẩm giá trị. Đề tài kháng chiến chống Pháp tiếp tục được khai thác với Đội du kích
thiếu niên Đình Bảng của Xuân Sách, Quê nội của Võ Quảng, Kim Đồng của Tô Hoài. Đề tài
kháng chiến chống Mỹ được quan tâm phản ánh trong nhiều tác phẩm như: Những đứa con trong
gia đình (Nguyễn Thi), Chú bé Cả Xên (Minh Khoa), Em bé sông Yên (Vũ Cận)… Những nhà
văn như Hà Ân, Lê Vân, Nguyễn Hiền tiếp tục theo đuổi đề tài lịch sử. Một số nhân vật và sự
kiện lịch sử đã xuất hiện trong Bên bờ Thiên Mạc, Trăng nước Chương Dương, Sát thát… Trở
thành cảm hứng cho rất nhiều sáng tác chính là cuộc sống sinh hoạt của trẻ em trên miền Bắc xã
hội chủ nghĩa. Chú bé sợ toán của Hải Hồ, Mái trường thân yêu của Lê Khắc Hoan, Những tia
nắng đầu tiên của Lê Phương Liên, Tập đoàn san hô của Phan Thị Thanh Tú… là những tác
phẩm đáng chú ý về mảng đề tài này. Ngoài ra, còn có những tác phẩm tiêu biểu về mảng đề tài
về nông thôn như: Cơn bão số bốn (Nguyễn Quỳnh), Những cô tiên áo nâu (Hoàng Anh Đường),
Kể chuyện nông thôn (Nguyễn Kiên)… Nhận định về thành tựu của mảng đề tài nông thôn trong
10 năm kháng chiến chống Mỹ, Lã Thị Bắc Lý viết:
“Có lẽ đây là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của mảng đề tài này vì ở giai đoạn sau, khi
nông thôn chuyển sang thời kì phát triển mới thì mảng đề tài này cũng không phát triển”.
Một đặc điểm đáng chú ý của văn học thiếu nhi thời này đó là sự phát triển mạnh mẽ của loại
truyện về người thật việc thật của con người mới, thời đại mới. Đó là hồi ký Lớn lên nhờ cách
mạng của Phùng Thế Tài, tự truyện Những năm tháng không quên của Nguyễn Ngọc Ký, truyện
Hoa Xuân Tứ của Quang Huy… Ngoài ra, thể đồng thoại và thơ cho thiếu nhi cũng tiếp tục phát
triển. Đây là thời kì phát triển rực rỡ nhất của mảng sách khoa học và đặc biệt là “những tiếng chim
hoạ mi vút bay từ trong lửa đạn” qua hiện tượng trẻ em làm thơ như Cẩm Thơ, Hoàng Hiếu Nhân,
Trần Đăng Khoa…
1.2.5. Giai đoạn sau 1975
Sau 1975 có tình trạng văn học thiếu nhi chưa được đánh giá đúng mức. Dư luận còn hờ
hững với bộ phận văn học này. Nhiều người cho rằng viết cho thiếu nhi là viết tay trái, lấy ngắn

120
nuôi dài, lấy ngoài nuôi trong, lấy nhi đồng nuôi người lớn. “Tình hình trên khiến cho những
người viết cho thiếu nhi cảm thấy cô đơn như đi trong ngõ vắng”(1). Mười năm đầu sau chiến
tranh, văn học thiếu nhi đang trong giai đoạn “trăn trở, tìm tòi”. Nhưng kể từ đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI, văn học thiếu nhi đã có nhiều khởi sắc. Đội ngũ sáng tác ngày càng đông đảo.
Bên cạnh những cây bút cũ như Tô Hoài, Phạm Hổ… đã xuất hiện nhiều cây bút trẻ, thậm chí rất
trẻ về tuổi đời và tuổi nghề. Đó là Nguyễn Nhật Ánh, Trần Thiên Hương, Lê Cảnh Nhạc, Dương
Thuấn, Nguyễn Hoàng Sơn, Nguyễn Ngọc Thuần, Nguyễn Thị Châu Giang, Hoàng Dạ Thi với
những tác phẩm tiêu biểu như: Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Tôi là Bêtô, Đảo mộng mơ (Nguyễn
Nhật Ánh), Bây giờ bạn ở đâu (Trần Thiên Hương), Hương sữa đầu mùa (Lê Cảnh Nhạc), Dắt
mùa thu vào phố (Nguyễn Hoàng Sơn), Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ, Một thiên nằm mộng,
Giăng giăng tơ nhện (Nguyễn Ngọc Thuần), Con chuồn chuồn đẹp nhất (Cao Xuân Sơn)… Thời
kì này, thể loại tự truyện rất phát triển với những tác phẩm giá trị như: Tuổi thơ im lặng (Duy
Khán), Tuổi thơ dữ dội (Phùng Quán), Dòng sông thơ ấu (Nguyễn Quang Sáng), Miền xanh thẳm
(Trần Hoài Dương)… Chính sách “cởi trói” của đại hội Đảng tạo điều kiện cho các tác giả mở rộng
hệ thống đề tài. Các sáng tác thời này không chỉ quan tâm đến những đề tài truyền thống mà còn
hướng đến đề tài miền núi (Chú bé thổi kèn – Quách Liêu, Đường về với Mẹ Chữ - Vi Hồng, Đồi
sói hú – Nguyễn Quỳnh…), đề tài về sinh hoạt, tâm lí thường nhật của trẻ (Kính vạn hoa – Nguyễn
Nhật Ánh). Văn học thiếu nhi sau 75 cũng có nhiều đổi mới về cách khám phá hiện thực cũng như
quan niệm nghệ thuật về con người. Các tác giả tiếp cận cuộc sống với cái nhìn đa chiều và nhìn
nhận con người với tư cách là một chỉnh thể phức tạp về tâm lí và tính cách. Đây là một đặc điểm
mới của văn học thiếu nhi sau đổi mới.
1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM
Văn học thiếu nhi Việt Nam có sự đóng góp tâm lực của rất nhiều thế hệ nhà văn, trong đó
có cả những cây bút nhí. Từ sự đa dạng của chủ thể sáng tác, văn học thiếu nhi Việt Nam phát
triển với sự phong phú về đề tài, thể loại và phong cách nghệ thuật. Sự đa dạng và phong phú đó
đồng hành cùng văn học thiếu nhi từ văn học dân gian đến văn học viết. Nói đến văn học dân
gian là nói đến sự phong phú của hệ thống thể loại tự sự và hệ thống thể loại trữ tình với những
câu chuyện cổ tích, ngụ ngôn, truyền thuyết, thần thoại, truyện cười; với những bài đồng dao,
những câu hát ru, những bài vè, câu đố… Văn học viết chứng kiến sự góp mặt của thơ trữ tình,
truyện thơ, truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, tự truyện... Trong số đó, truyện thơ với tư cách là
những tác phẩm tự sự bằng thơ trở thành thể loại mang tính trung gian, lưỡng hợp. Sự kết hợp
giữa tự sự và trữ tình là một lợi thế của truyện thơ trong vệc phản ánh hiện thực và biểu đạt xúc
cảm. “Bằng hình thức kể có cốt truyện, nhà thơ có điều kiện đi sâu vào những tình tiết, những sự
kiện, những khía cạnh khác nhau của một xung đột xã hội, do đó truyện thơ có khả năng phản
ánh những mặt phong phú của đời sống xã hội” (Hà Minh Đức). Phù Đổng Thiên Vương của Huy
Cận, Chuyện em bé cười ra đồng tiền của Tế Hanh, Ông Trạng thả diều của Nguyễn Bùi Vợi,
Chuyện chú Rùa biết bay của Nguyễn Hoàng Sơn… là những tác phẩm đã phát huy tốt khả năng
“cố kết” thể loại.
1
Vân Thanh, Nguyên An (Biên soạn), Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội,
2002, tr.23

121
Cùng với thời gian, phạm vi hiện thực phản ánh trong văn học thiếu nhi càng được mở
rộng. Bên cạnh những đề tài truyền thống như đề tài lịch sử, kháng chiến, đề tài về những năm
tháng xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc… văn học thiếu nhi tìm đến với những đề tài mới
gắn liền với cuộc sống mới, con người mới. Các nhà văn chú ý khai thác trẻ em trong nhiều mối
quan hệ: gia đình, nhà trường, đất nước... Những xúc cảm đầu đời của trẻ, những mặt trái của
cuộc sống mới cũng đi vào văn học thiếu nhi. Điều đó thể hiện rất rõ trong những sáng tác của
nhà văn Nguyễn Nhật Ánh như: Kính vạn hoa, Chuyện xứ Langbiang, Cho tôi xin một vé đi tuổi
thơ, Đảo mộng mơ… Ngay cả thơ – một thể loại trữ tình vốn dĩ chỉ chuyên chở những xúc cảm
thi vị, bay bổng cũng trở thành nơi chất chứa những nỗi buồn của trẻ thơ trước bi kịch gia đình.
Tuổi thơ – cánh diều của Trần Hồng là một ví dụ:
Cho em bay với… diều ơi!
Bố em bỏ mẹ em rồi… còn đâu!
Lớp chín, càng chín nỗi đau
Bữa cơm nhai đắng ngọn rau mẹ trồng
Nỗi thương, nỗi nhớ bềnh bồng
Diều như con mắt mẹ trông, mẹ chờ…
Gió đừng làm đứt dây tơ
Cho em sống trọn tuổi thơ - cánh diều
Đứng trước hệ thống đề tài trên, các tác giả bằng tài năng của mình đã tạo ra sự mới mẻ cho
tác phẩm. Phong cách nghệ thuật của người sáng tác góp phần làm nên sự phong phú về sắc thái
biểu đạt. Chúng ta dễ dàng nhận diện ra đâu là thơ của Võ Quảng, Phạm Hổ, Trần Đăng Khoa,
Nguyễn Hoàng Sơn, Cao Xuân Sơn; đâu là truyện của Tô Hoài, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc
Thuần, Quế Hương… Vì vậy, dù văn học thiếu nhi có khai thác những vùng thẩm mĩ quen thuộc
thì mỗi một tác phẩm vẫn có sức hút, có khả năng “mời gọi” riêng của mình..
Dù vận động với tính chất phong phú, đa sắc màu như vậy nhưng văn học thiếu nhi Việt Nam
cũng rất thống nhất về tư tưởng, phương pháp sáng tác. Chức năng giáo dục của văn học thiếu nhi
luôn được các tác giả đặt lên hàng đầu. Tô Hoài khẳng định: “Nội dung một tác phẩm văn học viết
cho thiếu nhi bao giờ cũng quán triệt vấn đề xây dựng đức tính con người. Nói thì thừa, cần nhắc lại
và thật giản dị, một tác phẩm chân chính có giá trị đối với tuổi thơ là một tác phẩm tham dự mạnh
mẽ vào sự nghiệp nên người của bạn đọc ấy”. Tuy nhiên, các nhà văn không muốn mình là người
thuyết giáo, đưa ra những bài học giáo huấn khô khan, cứng nhắc cho các em. Nghệ thuật giáo dục
là điều được các tác giả quan tâm thực hiện thường xuyên. Các tác giả, dù là trẻ em hay nhà văn lớn
tuổi, họ đều "nhìn con người, nhìn cuộc đời bụi bặm của chúng ta bằng con mắt trong veo và ngơ
ngác của con trẻ...". Vì thế, các tác phẩm của họ đã trở thành những thế giới nghệ thuật non trẻ, tinh
khôi, ngộ nghĩnh, đáng yêu. Điều đó đúng với tinh thần mà tác giả Quang Huy đã phát biểu: “Thơ
cho thiếu nhi bao giờ cũng phải vui tươi, ngộ nghĩnh. Đằng sau những câu phải giấu những nụ
cười. Các em không phải là những ông cụ non, không chấp nhận những bài thơ khô khan, nghiêm

122
nghị quá mức. Mỗi bài thơ không thể là lời giáo huấn sống sượng và lột bỏ hết mọi say đắm, hồn
nhiên dí dỏm của đời sống tuổi nhỏ”.
Với tâm huyết dành cho thiếu nhi, các tác giả đã tạo ra những sáng tác phù hợp với đặc điểm
tâm sinh lí của trẻ. Dung lượng tác phẩm ngắn gọn, sự giản dị trong sáng và giàu tính nhạc của
ngôn từ, sự có mặt của yếu tố hài hước… đó là biểu hiện của sự thấu hiểu đối tượng tiếp nhận của
các nhà văn.
HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 1
I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
Sinh viên cần nắm được khái niệm, các chặng đường phát triển của văn học thiếu nhi Việt
Nam. Nội dung trọng tâm của chương 1 mà người học cần nắm là những đặc điểm cơ bản của
văn học thiếu nhi Việt Nam. Đây là phần kiến thức nền, hỗ trợ đắc lực cho người học trong quá
trình tìm hiểu, phân tích, đánh giá các tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi trong và ngoài trường
tiểu học.
II. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP THỰC HÀNH
1. Trình bày cách hiểu của anh (chị) về khái niệm Văn học thiếu nhi. Lấy ví dụ minh họa cụ thể.
2. “Khác với văn học người lớn, văn học thiếu nhi kế thừa rất ít cái gọi là văn học thiếu nhi trước
cách mạng, trừ một số không nhiều lắm tác phẩm tiến bộ của các nhà văn: Nam Cao, Nguyên Hồng,
Tô Hoài…” (Vũ Ngọc Bình).
Trình bày quan điểm của anh (chị) về ý kiến trên.
3. Vì sao nói, tính giáo dục là đặc trưng quan trọng nhất, có tính sống còn của văn học thiếu nhi?
4. “Thơ cho thiếu nhi bao giờ cũng phải vui tươi, ngộ nghĩnh. Đằng sau những câu phải giấu
những nụ cười. Các em không phải là những ông cụ non, không chấp nhận những bài thơ khô
khan, nghiêm nghị quá mức. Mỗi bài thơ không thể là lời giáo huấn sống sượng và lột bỏ hết mọi
say đắm, hồn nhiên dí dỏm của đời sống tuổi nhỏ” (Quang Huy).
Bằng những sáng tác thơ sau 1975, hãy làm sáng rõ nhận định trên.
5. Phân tích bài thơ Con yêu mẹ của Xuân Quỳnh để làm sáng rõ những đặc trưng của văn học
thiếu nhi.
Con yêu mẹ
Con yêu mẹ bằng ông trời
Rộng lắm không bao giờ hết
Thế thì làm sao con biết
Là trời ở những đâu đâu
Trời rất rộng lại rất cao
Mẹ mong bao giờ con tới!

123
Con yêu mẹ bằng Hà Nội
Để nhớ mẹ con tìm đi
Từ phố này đến phố kia
Là con gặp ngay được mẹ.
Hà Nội còn là rộng quá
Nào những phố gần phố xa
Các đường như nhện giăng tơ
Gặp mẹ làm sao con gặp hết!
Con yêu mẹ bằng trường học
Suốt ngày con ở đấy thôi
Lúc con học, lúc con chơi
Là con cũng đều có mẹ
Nhưng tối con về nhà ngủ
Thế là con lại xa trường
Còn mẹ ở lại một mình
Thì mẹ nhớ con lắm đấy
Tính mẹ cứ là hay nhớ
Lúc nào cũng muốn bên con
Nếu có cái gì gần hơn
Con yêu mẹ bằng cái đó
À mẹ ơi có con dế
Luôn trong bao diêm con đây
Mở ra là con thấy ngay
Con yêu mẹ bằng con dế.
III. GỢI Ý GIẢI BÀI TẬP
1. Sinh viên trình bày sự chọn lựa của mình trước những quan niệm khác nhau về văn học thiếu
nhi và lấy ví dụ tương thích với sự hiểu biết đó.
2. Tư duy so sánh (đặc điểm là so sánh văn học thiếu nhi trước và sau cách mạng tháng Tám năm
1945) là điểm mấu chốt trong nhận định của Vũ Ngọc Bình. Tác giả cho rằng văn học thiếu nhi
trước cách mạng có ít thành tựu và do đó, văn học sau 1945 ít có khả năng kế thừa thành tựu của
giai đoạn trước. Đây là điều rất khác biệt với văn học người lớn, một bộ phận văn học gắn với sự
bùng nổ của văn học trước cách mạng với rất nhiều trào lưu, trường phái và nhiều tác giả tác
phẩm tiêu biểu. Dựa trên đặc điểm, thành tựu của văn học thiếu nhi ở những giai đoạn này, sinh
viên sẽ đưa ra ý kiến của mình đối với nhận định.

124
3. Văn học thiếu nhi có rất nhiều đặc trưng, trong đó tính giáo dục là đặc trưng quan trọng nhất,
sống còn nhất. Quan điểm sáng tác của người viết và đặc điểm nhận thức, tâm lí của đối tượng
tiếp nhận là những căn cứ giúp sinh viên lí giải tầm quan trọng của đặc trưng này. Lưu ý, văn
học thiếu nhi thực hiện chức năng giáo dục bằng con đường chính thống của văn chương, đó là
giáo dục bằng tình cảm thông qua hệ thống hình tượng. Do đó, tính giáo dục được thể hiện một
cách mềm mại, không khô khan, cứng nhắc.
4. “Thơ cho thiếu nhi bao giờ cũng phải vui tươi, ngộ nghĩnh. Đằng sau những câu phải giấu
những nụ cười. Các em không phải là những ông cụ non, không chấp nhận những bài thơ khô
khan, nghiêm nghị quá mức. Mỗi bài thơ không thể là lời giáo huấn sống sượng và lột bỏ hết
mọi say đắm, hồn nhiên dí dỏm của đời sống tuổi nhỏ”. Nhận định của Quang Huy khắng định
tính chất vui tươi, hồn nhiên, trong sáng trong thế giới nghệ thuật thơ thiếu nhi. Thơ thiếu nhi
dù đặt nặng chức năng giáo huấn nhưng không vì thế mà các tác giả sẽ gột bỏ những xúc cảm
hồn nhiên của tuổi nhỏ. Điều này thể hiện rất rõ trong các bài thơ sáng tác sau năm 1975 như:
Bé nhìn biển (Trần Mạnh Hảo), Rùa con đi chợ (Mai Văn Hai), Đôi bạn (Hoàng Tá), Cây xấu
hổ (Thái Thăng Long), Vườn cây của ba (Nguyễn Duy), Chơi ú tim (Phạm Hổ), Tờ lịch đỏ (Cao
Xuân Sơn), Mèo hư (Nguyễn Lãm Thắng), …
5. Xuân Quỳnh (1942 – 1988) là người đã thành công ở cả hai mảng sáng tác: thơ tình cho
người lớn và thơ thiếu nhi. Bài thơ Con yêu mẹ là một bài thơ hay dành cho các em và cũng là
bài thơ thể hiện rõ những đặc trưng của văn học thiếu nhi. Sinh viên nghiên cứu kĩ lí thuyết về
đặc điểm văn học thiếu nhi Việt Nam để có cơ sở lí luận cho việc phân tích tác phẩm. Ngoài ra,
có thể tham khảo thêm một số nhận định sau về thơ thiếu nhi Xuân Quỳnh để giải quyết câu hỏi
này:
- “Ngộ nghĩnh, hồn nhiên, thơ Xuân Quỳnh nói chính lời trẻ thơ, nghĩ cách trẻ thơ. Rồi lại
có thể tách ra khỏi trẻ thơ, để ngụ vào đấy một triết lí hồn nhiên của sự sống, thứ triết lí mà ở mỗi
lứa tuổi có thể hấp thụ một cách riêng. Ở đây, không có sự cao đạo lên giọng, truyền giảng đã
đành, mà cũng không phải là lối nhại mượn, bắt chước… Đọc Xuân Quỳnh, thấy chị làm thơ thật
dễ dàng. Cứ như là nước ngọt tuôn ra từ một mạch nguồn trong trẻo…” (Vân Thanh).
- “Thơ Xuân Quỳnh là tiếng nói tâm tình về những ngọt bùi, đắng cay ở đời, là tiếng nói
của tình yêu và tình mẫu tử” (Vân Long).
- “Những đứa con là nguồn thi hứng không bao giờ cạn của Quỳnh… Và vì vậy, ta cũng
hiểu vì sao thơ văn Quỳnh viết cho thiếu nhi lại dí dỏm, nồng ấm tình thương như vậy…” (Đông
Mai).
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Văn Cẩn (2005), Dạy học tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi, Nxb Giáo dục, Hà Nội
(Chương một).
2. Lã Thị Bắc Lý (2003), Giáo trình Văn học trẻ em, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội (Phần một,
Chương một).

125
3. Vân Thanh, Nguyên An (Biên soạn) (2002), Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb
Từ điển bách khoa, Hà Nội.
4. Vân Thanh (Biên soạn) (2006), Tác giả văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa,
Hà Nội. (Chú ý các mục về Hà Ân, Vũ Ngọc Bình, Nguyễn Văn Chương, Đoàn Giỏi, Định Hải,
Tô Hoài, Phạm Hổ, Quang Huy, Ma Văn Kháng, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Ngọc Ký, Phùng
Quán, Võ Quảng, Xuân Quỳnh, Nguyễn Hoàng Sơn, Trần Quốc Toàn v.v...)

126
Chương 2
VĂN HỌC DÂN GIAN CHO THIẾU NHI

2.1. TRUYỆN CỔ DÂN GIAN CHO THIẾU NHI


2.1.1. Thần thoại
2.1.1.1. Khái niệm
Có nhiều cách hiểu xung quanh thuật ngữ thần thoại. Mac cho rằng: "Với tư cách là hình
thức văn hóa đầu tiên của loài người, thần thoại tức là tự nhiên và bản thân các hình thái ý thức
xã hội đã được trí tưởng tượng chế biến đi một cách vô ý thức". Còn theo Đỗ Bình Trị, thần thoại
là những truyện kể về sự tích các thần, do người thời cổ tưởng tượng ra nhằm giải thích nguồn
gốc ý nghĩa của một số hiện tượng tự nhiên và xã hội được coi là có quan hệ mật thiết đến sự
sống còn của tập thể thị tộc bộ lạc. Như vậy, thần thoại là một thể loại tự sự dân gian ra đời và
phát triển trong xã hội công xã nguyên thủy. Nó là hệ thống truyện kể hoang đường, kì ảo về các
vị thần tạo lập vũ trụ, các nhân vật sáng tạo văn học, các anh hùng, dũng sĩ thời cổ đại... Thần
thoại nảy sinh do nhu cầu giải thích các hiện tượng tự nhiên và xã hội của con người thời tiền sử.
Thông qua sự thần thánh hóa và mĩ hóa các hiện tượng tự nhiên xã hội, con người đã gửi gắm
khát vọng giải thích tự nhiên, xã hội và ước mơ chinh phục thế giới đó. Đối với người nguyên
thủy, thần thoại vừa là khoa học, triết học và thơ ca, vừa là lịch sử của thị tộc, bộ lạc, đồng thời
lại hàm chứa ý nghĩa tín ngưỡng tôn giáo thiêng liêng.
2.1.1.2. Nội dung của thần thoại
a. Thần thoại giải thích nguồn gốc vũ trụ và các hiện tượng tự nhiên:
- Giải thích thế giới xung quanh mình là khát vọng lớn của nhân dân lao động. Nhóm thần
thoại suy nguyên thể hiện rõ nhận thức của người xưa về tự nhiên, về sự hình thành của vũ trụ.
Người Việt cổ do nhận thức còn hạn chế nên đã sùng bái tự nhiên, xem tự nhiên như một thế lực
siêu nhiên thần bí. Do đó, trong thần thoại, những nhân vật kiến tạo vũ trụ là những người khổng
lồ, từ thân hình đến hành trạng đều to lớn, kì vĩ mà chỉ có sự khổng lồ của vũ trụ mới có thể so
sánh. Thần trụ trời trong truyền thuyết cùng tên là một nhân vật như thế. Trí tưởng tưởng của
người dân đã nhào nặn ra một người khổng lồ, xuất hiện lúc trời đất chỉ là một cõi hỗn mang, tối
tăm. Thần đã đắp cột chống trời để phân đôi trời đất. Và cũng chính thần đã tạo ra “hiện trạng địa
lí” của chúng ta ngày nay với những núi, những gò đồi, sông suối, biển rộng…
- Thường thì trong thần thoại, việc kiến tạo vũ trụ, sắp đặt tự nhiên được phân công cho
một đôi thần nam nữ như ông Chu Cún – bà Chu Cún (thần thoại Thái), ông Chày – bà Chày
(thần thoại Hmông),…
- Không ít thần thoại giải thích các hiện tượng tự nhiên bằng những câu chuyện tình cảm
của con người. Truyện Nàng Bân giải thích hiện tượng rét muộn bằng tình cảm chăm sóc của

127
người vợ đối với chồng. Sở dĩ, vào tháng ba, khi hạ giới đang nóng bức nhưng tự nhiên lại rét
mấy hôm là do Ngọc Hoàng làm theo lời con gái, cho trời rét lại để nàng Bân cho chồng mặc thử
tấm áo ngự hàn mà nàng đã may cho chồng. Còn truyện Ông Ngâu bà Ngâu lại hướng đến giải
thích hiện tượng mưa dầm tháng bảy bằng câu chuyện tình chung thủy, đau khổ của đôi trai gái
người trần kẻ trời...
b. Thần thoại phản ánh ước mơ sống hòa hợp với tự nhiên và chiến thắng tự nhiên:
Cùng với khát vọng giải thích là ước mơ chinh phục tự nhiên. Người dân gửi vào các thiên
thần thoại ước mơ chinh phục mặt trời, nước, lửa, rét, lũ lụt,… Mơ ước ấy họ gửi gắm trong
những anh hùng thần thánh của cộng đồng như Sơn Tinh, Lạc Long Quân... Những người anh
hùng ấy là đại diện xuất sắc cho ước mơ vĩ đại của loài người trong cuộc chiến đấu không cân
sức với tự nhiên - những ước mơ không giới hạn, bay lên trên thực tế đầy trắc trở. Từ đặc điểm
của một nước sản xuất nông nghiệp lúa nước, những ước mơ chinh phục thiên nhiên của các
chàng dũng sĩ trong thần thoại chủ yếu là ước mơ chống hạn và chống lũ. Với trình độ hiểu biết
còn hạn chế, con người thường giải thích sai lầm các hiện tượng tự nhiên. Tuy nhiên những câu
chuyện thần thoại đã khẳng định sức mạnh và quyết tâm của con người. Những ước mơ đó không
ru ngủ con người, làm con người nhỏ bé, cằn cỗi đi mà thực sự "góp phần kích thích thái độ cách
mạng đối với hiện thực, một thái độ thực tiễn làm thay đổi thế giới...". Truyền thuyết Sơn Tinh
Thủy Tinh thể hiện rõ nội dung này. Chiến thắng của Sơn Tinh không chỉ là niềm vui riêng của
nhân vật này mà đã góp phần hiện thực hóa ước mơ muốn chinh phục các hiện tượng tự nhiên
của nhân dân.
c. Thần thoại giải thích nguồn gốc loài người:
Thần thoại giải thích nguồn gốc loài người rất hồn nhiên, thậm chí ấu trĩ. Từ một cái trứng
đặc biệt, từ một kiểu thụ thai lạ lùng của người mẹ, từ sự kết hợp của một đôi nam nữ thần linh...
con người đã ra đời. Cách giải thích đó dẫu có nhiều sai lệch nhưng đã thể hiện nhu cầu muốn tìm
về thủy tổ loài người và niềm tự hào của con người về tập thể, cộng đồng. Truyện Quả bầu mẹ là
sự hình dung thú vị của người xưa về sự hình thành các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Người
Khmer, người Kinh và các dân tộc khác đều từ quả bầu mẹ mà ra. Với truyện Con Rồng cháu
Tiên, cuộc hợp hôn của Lạc Long Quân và Âu Cơ là lời giải thích khác về nguồn cội của con
người Việt Nam. Bằng những chi tiết thần kì, hấp dẫn, truyện đã chuyển đến hậu thế thông điệp:
tất cả những dân tộc trên đất nước Việt Nam đều nằm trong một bọc trứng, đều là con của cha
Rồng, mẹ Tiên.
2.1.1.3. Nghệ thuật của thần thoại
- Thần là hình tượng trung tâm trong thần thoại. Hình tượng thần lớn lao, kì vĩ, phóng
khoáng, mạnh mẽ. Đó là kết quả của sự mô phỏng sự đồ sộ của tự nhiên. Hành trạng của các
vị thần cũng kì vĩ, to lớn để tương xứng với hình dáng. Hành trạng ấy bao gồm sức khỏe, tài
năng phi thường, hành động vĩ đại dưới ánh sáng của sự thần thánh hóa. Thần trụ trời là một
nhân vật như thế. Vị thần này khổng lồ, chân cao không tả xiết, một bước của thần có thể đi

128
từ vùng này đến vùng nọ, từ đỉnh núi này đến núi khác. Một mình thần đã đào đất, đập đá để
xây “kình thiên trụ”. Nhờ thần, trời đất mới phân đôi, trời thì tròn như cái bát úp và đất thì
phẳng như cái mâm vuông.
Tuy vậy, trong thần thoại, thần chỉ được xây dựng như những nhân vật chức năng. Họ chỉ
có thể làm được một hoặc một vài nhiệm vụ nào đó được định sẵn. Các thần chỉ xuất hiện khi cần
thiết để thực hiện một vai trò nào đó của mình rồi lại biến đi. Thần chỉ bộc lộ sự vô tư hay hữu ý
của mình qua hành động chứ không bao giờ bộc lộ những suy nghĩ nội tâm của mình. Nhưng
hình tượng này đã xuất phát từ niềm tin thơ ngây của con người vào sự tồn tại của các đấng siêu
nhiên thần thánh.
- Kết cấu cốt truyện thần thoại đơn giản, ít tình tiết, hầu như không có những nhánh rẽ vì ít
nhân vật và ít quan hệ. Nó chủ yếu tập trung mô tả diện mạo, đặc điểm, hành trạng các thần một
cách khái quát. Vì thế có rất nhiều truyện chưa có “chuyện” như: Thần Mưa, Thần Gió, Thần
Biển… Những câu chuyện này dung lượng rất ngắn gọn. Mỗi chuyện như một lời giới thiệu về
đặc điểm và chức năng của các vị thần.
- Thần thoại được sáng tác dưới ánh sáng của trí tưởng tượng và hư cấu. Nhưng người sáng
tạo không hề có ý thức về những điều đó, chỉ tưởng tượng và tô điểm bằng lòng tin ngây thơ của
mình. Thần thoại kết hợp nhuần nhuyễn hai yếu tố lãng mạn và hiện thực. Gorki cho rằng lãng
mạn là nguồn gốc của thần thoại, làm cho hình tượng trở nên trọn vẹn.
2.1.2. Truyền thuyết
2.1.2.1. Khái niệm
- Truyền thuyết là một thể tài truyện kể truyền miệng nằm trong loại hình tự sự dân gian.
Nội dung cốt truyện kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích các phong vật địa
phương theo quan điểm của nhân dân (Kiều Thu Hoạch).
- Truyền thuyết thường dùng để chỉ những câu chuyện cũ, những sự kiện lịch sử còn được
quần chúng nhân dân truyền lại nhưng không bảo đảm chính xác. Phần lớn chúng chưa thành
truyện (mà chỉ là những mẩu chuyện), nếu phát triển hoàn chỉnh thì tuỳ theo nội dung sẽ trở
thành thần thoại hay cổ tích (Nguyễn Đổng Chi).
- Truyền thuyết là thể loại tự sự dân gian ra đời sau và tiếp nối thần thoại có chức năng chủ
yếu là nhận thức, phản ánh các sự kiện, các nhân vật lịch sử có vai trò và ảnh hưởng quan trọng
đối với một thời kì, một cộng đồng bộ tộc, hoặc đối với một địa phương một quốc gia (Trần
Hoàng).
Có thể thấy rõ điểm gặp gỡ của các nhà nghiên cứu trong các khái niệm trên là đều
xem yếu tố lịch sử như là yếu tố cốt lõi để nhận diện truyền thuyết. Là một thể loại tự sự
dân gian, truyền thuyết được xem như là hồi ức của nhân dân về những biến cố, những sự
kiện, những con người lịch sử thuộc về quá khứ, đã lắng đọng cùng với thời gian.

129
2.1.2.2. Nội dung của truyền thuyết
Gorki đã nhận xét: "Từ thời viễn cổ, văn học dân gian luôn luôn là người bạn đồng hành
khăng khít và đặc thù của lịch sử". Và trong số các thể loại tự sự dân gian, truyền thuyết là thể
loại rất phù hợp với nhận định này. Bởi lẽ, truyền thuyết lấy dựng nước và giữ nước làm nội dung
chính. Thể loại này đã làm tốt việc gìn giữ, lưu truyền những sự kiện, những nhân vật lịch sử
trọng đại của dân tộc. Có thể khẳng định, lịch sử Việt Nam đã in dấu trong từng trang truyền
thuyết, đặc biệt là ở hai nhóm truyền thuyết xoay quanh vua Hùng và An Dương Vương. Truyền
thuyết hướng đến ca ngợi chiến công chinh phục thiên nhiên, xây dựng nền văn hiến buổi đầu của
dân tộc, chiến công giữ gìn bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Không ít anh hùng lao động, anh hùng văn
hóa, anh hùng chiến đấu được nhân dân suy tôn trong truyền thuyết như Mai An Tiêm, Lang
Liêu, Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Yếu Kiêu, Dã Tượng, An Dương Vương… Trong đó, truyền
thuyết quan tâm nhiều đến cuộc chiến tranh chống xâm lấn của cộng đồng Văn Lang - Âu Lạc.
Nhân vật Gióng trở thành một biểu trưng đẹp cho truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của
dân tộc Việt Nam. Cậu bé đã ba tuổi nhưng không biết nói biết cười, đặt đâu nằm đấy đã đột
nhiên cất lời khi nghe tiếng sứ giả đi tìm người hiền tài cứu nước. Âm thanh, tiếng nói đầu tiên
mà cậu bé cất lên là tiếng nói đòi ra trận phá giặc Ân. Và kể từ khi gặp sứ giả, người con làng Kẻ
Dổng đã lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc vào đã chật ních. Thì ra,
người anh hùng của vùng Bắc Ninh đã vụt lớn lên để gánh vác gánh nặng của lịch sử. Chiến
thắng của anh thể hiện ý chí, tinh thần đoàn kết và sức mạnh của liên minh bộ lạc.
2.1.2.3. Nghệ thuật của truyền thuyết
- Truyền thuyết hình tượng hóa, kì ảo hóa các nhân vật lịch sử theo quan điểm của nhân dân
để nhào nặn lại lịch sử. Cảm quan lịch sử đã chi phối nghệ thuật xây dựng hình tượng truyền
thuyết. Các nhân vật dù có là hư cấu hay là đích thực lịch sử thì cũng đều có tên tuổi, gốc gác, có
một lí lịch rõ ràng gắn với địa phương, thời đại nhất định. Ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, các
nhân vật lại được sáng tạo dưới sự chi phối khác nhau của quan niệm thẩm mĩ của nhân dân.
Truyền thuyết thời Văn Lang - Âu Lạc mang đậm màu sắc thần thoại. Nhân vật là những anh
hùng bộ tộc được nhào nặn, thần thánh hóa, vũ trụ hóa qua trí tưởng tượng bay bổng của nhân
dân mà trở thành thần thánh. Nhân dân đã dồn tụ vai trò đại diện cho tập thể, tầm vóc của vũ trụ,
lịch sử vào nhân vật, khiến họ trở nên khổng lồ, đậm màu sắc hư cấu hơn là hiện thực. Đây là kết
quả của thế giới quan thần thoại và niềm tự hào dân tộc.
Nhóm nhân vật của truyền thuyết thời Bắc thuộc đã gần với hiện thực hơn. Họ là những
nhân vật lịch sử được hình tượng hóa, mĩ hóa. Màu sắc của tưởng tượng và hư cấu còn đậm nét
nhưng nhằm để chuyển tải hiện thực sống động hơn, sinh động hơn.
- Để chuyển tải cái “lõi lịch sử” của thể loại, truyền thuyết có tính xác thực về không thời
gian hơn so với những thể loại khác. Truyền thuyết không làm mờ hóa ý niệm về không thời gian
như truyện cổ tích mà cụ thể hóa về thời điểm, vùng hoạt động của nhân vật. Tuy nhiên "sự kiện

130
lịch sử đi vào truyền thuyết theo con đường của phương pháp sáng tác dân gian" nên màu sắc của
huyền thoại vẫn còn chi phối rất nhiều đến không gian nghệ thuật.
- Cốt truyện truyền thuyết thường chia thành ba phần như sau:
+ Hoàn cảnh và đặc điểm nhân vật.
+ Hành trạng và chiến công của các nhân vật.
+ Kết thúc sự nghiệp của nhân vật và đánh giá của nhân dân.
Ở phần kết thúc, hầu hết các truyền thuyết đều đặt nhân vật lịch sử trong những chiến công
rạng danh cộng đồng, bộ lạc, đất nước. Các nhân vật hoặc được vinh phong hoặc được nhân dân
bất tử hóa bằng cách để nhân vật về trời, về với nước hoặc được nhân dân lập đền thờ để thờ
cúng. An Dương Vương thì được thần Kim Quy rẽ nước đón về biển. Thánh Gióng thì được
phong là Phù Đổng Thiên Vương và được lập đền thờ ngay tại quê nhà. Đó chính là sự tôn vinh,
biết ơn của nhân dân lao động đối với những anh hùng có ảnh hưởng lớn đến lịch sử của dân tộc.
2.1.3. Cổ tích
2.1.3.1. Khái niệm
- Giáo trình Văn học dân gian do Phạm Thu Yến chủ biên cho rằng: “Truyện cổ tích là những
truyện kể có yếu tố hoang đường, kì ảo. Nó ra đời từ sớm nhưng đặc biệt nở rộ trong xã hội có sự
phân hóa giàu - nghèo, xấu – tốt. Qua những số phận khác nhau của nhân vật, truyện trình bày kinh
nghiệm sống, quan niệm đạo đức, lí tưởng và mơ ước của nhân dân lao động”.
- Từ điển văn học quan niệm: "Truyện cổ tích nảy sinh từ xã hội nguyên thủy, song phát
triển chủ yếu trong xã hội có giai cấp, chủ đề chủ yếu của nó là chủ đề xã hội. Nó biểu hiện cách
nhìn của nhân dân đối với thực tại đồng thời nói lên những quan điểm đạo đức, những quan điểm
về công lí xã hội và ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn cuộc sống hiện tại. Truyện cổ tích là trí
tưởng tượng phong phú của nhân dân, yếu tố tưởng tượng thần kì tạo nên một đặc trưng nổi bật
trong phương thức phản ánh hiện thực và mơ ước".
- Theo Hoàng Tiến Tựu, truyện cổ tích là loại truyện dân gian có tính phổ biến hình thành
từ thời cổ đại, phát triển và tồn tại qua nhiều thời kỳ xã hội khác nhau. Nó hướng vào những vấn
đề xã hội cơ bản, những số phận, những quan hệ và xung đột có tính chất riêng tư và phổ biến
trong xã hội có giai cấp. Nó dùng một kiểu tưởng tượng và hư cấu riêng để phản ánh đời sống và
khát vọng của nhân dân, đáp ứng nhu cầu nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ và tiêu khiển của nhân
dân.
Những cách hiểu trên là một định hướng để chúng ta xác định khái niệm truyện cổ tích.
Thời gian ra đời, đối tượng phản ánh, tính chất hoang đường kì ảo là những tiêu chí cơ bản giúp
nhận diện thể loại.
Có nhiều cách phân loại truyện cổ tích. Có người chia làm hai loại: cổ tích thế sự, cổ tích
lịch sử. Có người lại chia thành ba loại: cổ tích hoang đường, cổ tích sinh hoạt, cổ tích lịch sử.
Gần đây, các nhà nghiên cứu thống nhất với cách phân loại dựa trên sự khác nhau về đề tài và

131
mức độ sử dụng yếu tố thần kì, chia truyện cổ tích thành ba loại: cổ tích thần kì, cổ tích loài vật,
cổ tích sinh hoạt.
2.1.3.2. Nội dung của truyện cổ tích
a. Truyện cổ tích phản ánh mâu thuẫn và đấu tranh xã hội:
Trong các dạng thức truyện cổ tích thì truyện cổ tích thần kì thường đưa mâu thuẫn xã hội
về không gian gia đình. Xuất hiện trong tác phẩm, gia đình đóng vai trò như một xã hội thu nhỏ
và người bình dân đã lí giải mâu thuẫn gia đình trong sự chi phối của quan hệ xã hội. Đặc điểm
của xã hội phụ quyền với sự coi trọng nam giới đã để lại dấu ấn trong sự bất bình đẳng giữa các
thành viên trong gia đình, đó là mâu thuẫn giữa con trai con gái, con cả con út, anh em, chị em...
(Tấm Cám, Cây khế, Hà rầm hà rạc, Người con út hiếu thảo…). Nhóm truyện về người em,
người mồ côi, người nghèo thể hiện rõ mâu thuẫn đó. Trong nhóm truyện về người mồ côi, mâu
thuẫn giữa người mồ côi với cha dượng hoặc mẹ ghẻ, với người chủ bóc lột trở thành mâu thuẫn
chính của tác phẩm. Những nhân vật như cha dượng, mẹ ghẻ, người chủ thường rất độc ác, luôn
tìm mọi cách bóc lột sức lao động của người mồ côi, muốn mồ côi hèn kém, xấu xí. Trái với
mong muốn đó, mồ côi rất thông minh, chăm chỉ, hiếu thảo, xinh đẹp, khéo léo, vị tha... Cứ thế,
cuộc đấu tranh giữa hai lực lượng không cân sức này diễn ra rất quyết liệt. Những nhân vật là con
riêng của cha dượng hoặc mẹ ghẻ chỉ là nhân vật hỗ trợ để mâu thuẫn kia bộc lộ rõ hơn.
Khác với truyện cổ tích thần kì, truyện cổ tích sinh hoạt phản ánh mâu thuẫn xã hội trực
diện hơn, cụ thể, gần hiện thực hơn. Đó là mâu thuẫn giữa kẻ giàu người nghèo, kẻ ở tầng lớp
trên ngu dốt, hống hếch, keo kiệt với người lao động thật thà, thông minh, mưu trí. Mâu thuẫn
này phản ánh cuộc sống ngột ngạt không thể chịu đựng được và khát vọng giải phóng của người
lao động. Các truyện như Gái ngoan dạy chồng, Bắt cô trói cột, Sự tích chim khảm khắc, Sự tích
chim hít cô, Sự tích ông đầu rau, Sự tích chim đa đa... đã thể hiện rõ mâu thuẫn này.
b. Truyện cổ tích thể hiện lí tưởng và mơ ước của nhân dân lao động:
Truyện cổ tích đã chiếu rọi ánh sáng kì ảo của niềm hạnh phúc vào cuộc đời đầy bất hạnh của con
người. Đằng sau mỗi trang truyện là trọn vẹn lí tưởng của nhân dân về một xã hội công bằng, dân chủ.
Người bình dân đã theo đuổi ước mơ đẹp đẽ, ở đó những người lương thiện, hiền lành sẽ được hưởng
hạnh phúc xứng đáng với đạo đức và tài năng của họ. “Người nghèo sẽ giàu có, người nhỏ bé bị áp bức
nhiều sẽ hưởng địa vị tối cao được làm vua hay hoàng hậu, người xấu xí dị dạng sẽ thay lốt để trở nên đẹp
đẽ, kẻ xấu sẽ bị trừng phạt... Người ta cũng mơ ước sẽ lao động nhẹ nhàng hơn, trong một đêm có thể xây
xong tòa lâu đài... mơ ước giao thông sẽ thuận tiện hơn, chỉ việc ngồi trên tấm thảm bay, xỏ chân vào đôi
giày vạn dặm là lập tức sẽ đến nơi cần đến. Mơ ước sống lâu, mơ ước khám phá thế giới bí mật của thiên
đình hay địa chủ, mơ ước có công cụ và vũ khí tốt để lao động và chiến đấu hiệu quả” (1).
Trong truyện cổ tích, để thực hiện những ước mơ và lí tưởng xã hội của người lao động,
các tác giả dân gian đã khai thác thường xuyên môtíp hóa thân. Nhân vật có thể hóa thân tạm thời
để thực hiện một mục đích nào đó, hoặc cũng có thể sẽ hóa thân vĩnh viễn thành cây, thành đá,

1
Đỗ Bình Trị, Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1990, tr.77

132
thành chim... để ước mơ của một người trở thành mẫu số chung cho mơ ước của muôn người,
muôn đời.
Đi theo nội dung này, truyện cổ tích thường kết thúc có hậu, kết thúc theo lôgic của mơ
ước, kết thúc thực hiện triệt để quan niệm triết lí của nhân dân lao động: ở hiền gặp lành, ác giả
ác báo. Vì thế truyện cổ tích đã để cho nhân vật chính diện có thể thực hiện ước mơ một cách
chóng vánh và hoàn hảo. Xây dựng những kết thúc có hậu với sự hỗ trợ đắc lực của yếu tố thần
kì, truyện cổ tích đã chắp cánh cho tinh thần lạc quan và tình cảm nhân đạo sâu sắc của nhân dân
lao động bay cao.
2.1.3.3. Nghệ thuật truyện cổ tích
- Cốt truyện cổ tích là sự đan dệt hàng loạt những môtip quen thuộc: môtip nhân vật ra đời
thần kì, dũng sĩ diệt rắn, dũng sĩ diệt đại bàng (Chàng Sính, Chau Sanh Chau Thông, Chàng Rít,
Tia Oong Tư và chim đại bàng, Chàng Rôk, Ông Đùng giết đại bàng), người câm (Lọ nước thần,
Người học trò và Ngọc Hoàng, Làm công chúa nói được, Làu Slam, Mồ côi và ba con tinh), nhân
vật chu du vào thế giới thủy cung, trận chiến giữa những kẻ cầu hôn, cây đàn thần kì, niêu cơm
thần kì... (Thạch Sanh…).
Cốt truyện cổ tích thường ngắn gọn, đơn giản. Điều này là do đặc trưng truyền miệng và
đặc trưng tập thể sáng tạo của văn học dân gian chi phối. Truyện không có nhiều tình tiết, nhiều
nhánh rẽ, không nhiều mối quan hệ và nhân vật không quá phức tạp về tính cách. Người kể
chuyện toàn tri trung thành với trục thời gian khi kể chuyện, chi tiết nào xuất hiện trước thì kể
trước, không có hiện tượng đảo lộn kết cấu không gian và thời gian như truyện hiện đại.
- Nhân vật chính là con người đời thường trong các mối quan hệ xã hội chứ không phải là
các thần trong tương quan giữa con người với đại tự nhiên thần thánh như trong thần thoại, không
phải là các thần và những anh hùng được thần thánh hóa trong truyền thuyết. Lần đầu tiên, các
nhân vật nhỏ bé, tầm thường trở thành nhân vật trung tâm của văn học dân gian. Truyện cổ tích
Việt Nam hầu như không có nhân vật trung tâm thuộc tầng lớp quý tộc. Các truyện kể về ông
hoàng, bà chúa hầu như vắng bóng trong truyện cổ Việt Nam. Điều này rất khác với truyện cổ
nước ngoài và thể hiện rõ nguồn gốc bình dân của truyện cổ Vịêt Nam.
Nhân vật truyện cổ tích thường là nhân vật chức năng và mang tính phiếm chỉ. “Họ không cần
có tên riêng, chỉ cần gọi là người mồ côi, anh trai cày, lão đánh cá... Họ không cần bộc lộ tính cách,
nội tâm, chỉ hành động, hành động liên tiếp và qua đó ta phần nào hiểu được nội tâm của họ. Chức
năng đại diện khiến cho truyện cổ tích dễ lưu truyền, mang tính chất chung, phổ biến, người ta không
có ấn tượng đó là truyện của một địa phương cụ thể nào” (2).
- Không gian hiện thực là không gian nền, trở đi trở lại trong tất cả các truyện cổ tích. Đó là
không gian làng quê thanh bình, yên ả và có tính phiếm chỉ. Ý niệm về không gian bị nhòe mờ bởi
những cách diễn đạt như: một làng nọ, một nhà nọ, một vùng xa xôi nọ... Tính phiếm chỉ của truyện
cổ tích khác với tính chất rõ ràng, xác thực của truyền thuyết. Nhưng bên cạnh đó, truyện cổ tích còn

2
Phạm Thu Yến (chủ biên), Giáo trình Văn học dân gian, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2004, tr.84

133
khai thác không gian kì ảo. Đó là những không gian không có thực trong cuộc đời, nó xuất hiện từ sự
tưởng tượng phong phú của người dân như: không gian thiên đình, thủy cung, âm phủ... Các không
gian này có thể thông tỏ với nhau và không hề cản trở hoạt động của các nhân vật cổ tích.
- Truyện cổ tích hướng điểm nhìn đến thời gian quá khứ. Truyện thường bắt đầu bằng cụm
từ: ngày xửa ngày xưa, một cụm từ gợi kiểu thời gian xa xôi, mơ hồ, phiếm chỉ... Ngoài kiểu thời
gian mang tính hiện thực đó, có lúc truyện cổ tích đẩy thời gian trôi rất nhanh hoặc trôi rất chậm,
dường như ngưng đọng, không biến đổi. Kiểu thời gian kì ảo đó đóng vai trò lớn đối với cuộc đời
của nhân vật.
- Truyện cổ tích thường gắn với yếu tố thần kì. Yếu tố thần kì là kết quả của những hư cấu
dưới ánh sáng của trí tưởng tượng kì ảo, bay bổng của nhân dân. Lực lượng thần kì có thể là
những nhân vật thần kì: ông Bụt, bà Tiên, Thiên lôi, Ngọc Hoàng, yêu tinh...
Đó cũng có thể là các đồ vật hoặc các vật thể thần kì như: gậy thần, đèn thần, khăn thần,
mâm thần, áo tàng hình, thảm bay, đàn thần, giày vạn dặm... Đó còn là những con vật kì ảo: chim
phượng hoàng, mèo đi hia, cá biết nói, rắn thần, ngỗng hiểu tiếng người, gà thần...
Tham gia vào truyện cổ tích, yếu tố thần kì có nhiều tác dụng khác nhau. Nhờ nó mà cốt
truyện có thể được rút ngắn hoặc kéo dài ra theo mong muốn của người kể chuyện chứ không
theo lôgic thực tế… Nó cũng làm cho truyện hấp dẫn, li kì với người nghe, làm cho truyện cổ tích
có được tính chất mơ mộng, lãng mạn, trong sáng. Yếu tố thần kì cũng thể hiện sinh động, cụ thể
ước mơ nguyện vọng của nhân dân lao động.
2.1.4. Truyện ngụ ngôn
2.1.4.1. Khái niệm
Truyện ngụ ngôn là một loại truyện ngụ ý, thường mượn nhân vật loài vật, đồ vật để ám chỉ
con người, nhằm nêu lên một bài học luân lí, triết lí hay một kinh nghiệm sống. Một số nhà
nghiên cứu cho rằng truyện ngụ ngôn hoàn toàn thuộc lĩnh vực văn chương bác học. Một số lại
khẳng định nguồn gốc ngoại lai của truyện ngụ ngôn Việt Nam. Bởi thực ra có khá nhiều truyện
ngụ ngôn Ấn Độ vào nước ta từ đầu công nguyên cùng với đạo Phật như: Mèo lại hoàn mèo, Bốn
anh xẩm sờ voi, Con quạ với đàn tép... Lại có một số truyện đi vào nước ta theo con đường văn
học Hán, văn học Chăm và văn học Khơme: Ôm cây đợi thỏ của Hàn Tử Phi, Kéo cây lúa lên cho
chóng lớn của Mạnh Tử... Tuy nhiên, ngoài ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai thì chúng ta cũng đã
tự mình hình thành nên thể loại này từ chính các thể loại của văn học dân gian: cổ tích loài vật, ca
dao...
2.1.4.2. Nội dung của truyện ngụ ngôn
a. Truyện ngụ ngôn phản ánh cuộc đấu tranh xã hội:
Truyện ngụ ngôn thường đi vào thế giới loài vật. Nhưng hình ảnh của thế giới thực tại mà
truyện muốn thể hiện một cách bóng gió là các quy luật đang ngự trị con người. Cuộc đấu tranh
giữa tầng lớp thống trị và bị trị trong xã hội phong kiến thể hiện rất rõ ở truyện ngụ ngôn. Con

134
cọp bị thương, Chèo Bẻo và Ác Là, Con Hổ ăn chay... là những tác phẩm đã thể hiện rõ xung đột
mang tính xã hội ấy. Trong truyện Con cọp bị thương, con hổ là hình ảnh ẩn dụ cho bọn thống trị.
Nó bị thương, vết thương lở loét, bốc mùi khắp hang. Khi Cò đến thăm, vì không giấu được cảm
giác khó chịu thật sự của mình trước mùi thối đó nên nó bị đánh vì xúc phạm đến quân vương.
Chuột vào thăm, rút kinh nghiệm đã cố mà khen thơm nhưng vẫn bị đánh vì tội nịnh hót. Con
Cáo vào sau cùng, lém lỉnh cho là mình bị ngạt mũi không ngửi thấy gì cả. Nhưng nó cũng bị đánh
vì tội giả dối. Kết cục khác nhau của các con vật cho thấy một sự thật của xã hội: chân lí luôn thuộc
về kẻ mạnh.
b. Truyện ngụ ngôn nêu những bài học triết lí ứng xử, kinh nghiệm sống sâu sắc:
Đây là nội dung chính của truyện ngụ ngôn. Đằng sau mỗi một câu chuyện là một bài học
mang tính triết lí sâu sắc. Truyện đã dẫn con người đi đến nhận thức đúng đắn bằng cách nêu lên
những tai hại do nhận thức sai lầm gây ra. Cách chứng minh bằng phản chứng độc đáo ấy đã giúp
bài học đến với người nghe thật tự nhiên. Tác phẩm Mèo lại hoàn mèo kể lại thật tự nhiên câu
chuyện đổi tên của con mèo. Sau câu chuyện thay tên luẩn quẩn ấy là những nhận thức đúng đắn
về mối quan hệ giữa hình thức và nội dung, hiện tượng và bản chất. Qua câu chuyện, người bình
dân muốn gá gửi đến một triết lí: đừng lầm tưởng rằng chỉ cần thay đổi tên gọi mà đánh tráo được
bản chất của sự vật hiện tượng
2.1.4.3. Nghệ thuật truyện ngụ ngôn
- Nhân vật chính trong truyện ngụ ngôn thường là loài vật nhưng nó không nhằm kể chuyện
về loài vật mà chỉ mượn loài vật để nói về con người và xã hội loài người. “Dù thế nào, ngụ ngôn
cũng chuyên riêng về những loài cầm thú, côn trùng, lấy các loài ấy làm chủ động cho đóng các
vai mà ra trò” (Nguyễn Văn Ngọc, Đông Tây ngụ ngôn).
- Trong truyện cổ tích, xung đột tiêu biểu là xung đột giữa cái tốt với cái xấu, thiện với ác
thể hiện ở hành động của nhân vật. Xung đột tiêu biểu của truyện ngụ ngôn là xung đột giữa đúng
và sai, giữa chân lí và nguỵ lí. Xung đột này biểu hiện ở lí lẽ hành động, ở triết lí ứng xử của
nhân vật (tức là xung đột nằm phía sau hành động của nhân vật). Vì vậy những xung đột ở truyện
ngụ ngôn chỉ có ở một nhân vật và nhân vật này chẳng gặp trở lực nào của hoàn cảnh. Ngay ở
những truyện nhân vật có quan hệ thù nghịch với nhau thì xung đột chủ yếu vẫn là ở lí lẽ hành
động. Có lúc xung đột trong truyện ngụ ngôn được biểu hiện ở xung đột giữa tác giả với nhân vật
trong truyện.
- Kết cấu ngụ ngôn ngắn gọn như một màn kịch. Truyện có nhân vật, có tình huống, hành
động và lời thoại… Theo La Phôngten, truyện ngụ ngôn gồm hai phần: phần xác và phần hồn.
Phần xác là câu chuyện kể, phần hồn là điều răn dạy. Thường thì điều răn dạy chỉ ngụ vào câu
chuyện kể như hồn ngụ vào xác nhưng cũng có khi nó được biểu hiện ra bằng lời. Với truyện
Thầy bói xem voi, điều răn dạy được giấu đi chứ không hiển hiện tường minh. Nhưng thông qua
hành động của những ông thầy bói, người đọc vẫn nhận ra được một bài học liên quan đến con

135
đường nhận thức, đó là không nên xem xét sự vật một chiều mà nên xem nó trong tính chỉnh thể,
trong mối tương quan giữa các yếu tố làm nên sự vật hiện tượng.
2.1.5. Truyện cười
2.1.5.1. Khái niệm
Truyện cười là một thể loại tự sự dân gian dùng tiếng cười làm phương tiện chủ yếu để thực
hiện chức năng phê phán, châm biếm, đả kích và mua vui giải trí. Với thể loại này, yếu tố gây
cười là phương tiện thiết thân, góp phần phản ánh hiện thực và thái độ của nhân dân lao động với
hiện thực đời sống. Nếu căn cứ vào nội dung, có thể chia truyện cười thành hai loại: truyện khôi
hài và truyện trào phúng. Với truyện khôi hài, tiếng cười chỉ dừng lại ở mục đích giải trí, mua vui
và giáo dục nhẹ nhàng. Còn truyện trào phúng thì sử dụng yếu tố hài hước để châm biếm, phê
phán những thói xấu trong xã hội. Nếu phân loại truyện cười dựa trên tiêu chí hình thức, chúng ta
lại có hai hình thức: truyện cười kết chuỗi (những truyện tập hợp các mẩu chuyện xoay quanh
một nhân vật) và truyện cười không kết chuỗi (những câu chuyện độc lập về cốt truyện, nhân vật,
xung đột…). Nếu như nhân vật trong truyện cười không kết chuỗi có tính phiếm chỉ về tên gọi thì
ngược lại, trong truyện cười kết chuỗi nhân vật được định danh rõ ràng.
2.1.5.2. Nội dung, ý nghĩa của truyện cười
a. Truyện cười là vũ khí đấu tranh của quần chúng nhân dân:
Ra đời và phát triển khi xã hội phong kiến Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm
trọng, truyện cười – một hình thức đặc biệt của sự phủ nhận, phê phán đã có tiền đề thuận lợi để
tồn tại. Khi giai cấp thống trị phơi bày đầy rẫy những mặt xấu, truyện cười đã chĩa mũi nhọn vào
chúng, phê phán những cái lố bịch mà chúng tạo nên. Đối tượng mà truyện cười dân gian hướng
đến đả kích khá rộng rãi, từ vua chúa đến những tên nhà giàu, quan lại, hào lí, thầy cúng, thầy
bói, nhà sư… Ghécxen, nhà dân chủ cách mạng Nga khẳng định: “Cái cười là một trong những
vũ khí mạnh nhất chống lại tất cả những gì lỗi thời mà còn bám lấy như một tàn dư to lớn ngăn
cản cuộc sống tươi mới phát triển và đe dọa những người yếu ớt”. Đúng với tinh thần đó, truyện
cười Việt Nam đã làm rất tốt nhiệm vụ phản phong, vạch trần cái mục ruỗng của chế độ. Các tác
phẩm thuộc hình thức truyện cười kết chuỗi như truyện Trạng Lợn, Trạng Quỳnh, Xiển Bột… đã
thực hiện triệt để điều này. Đằng sau mỗi câu chuyện, chúng ta thấy rõ sức mạnh, thái độ đấu
tranh dứt khoát và bền bĩ của quần chúng nhân dân. Với nội dung này, “truyện cười không phải là
loại truyện được đặt ra để giải trí đơn thuần, càng không phải những viên thuốc an thần khiến con
người có khổ, có thù quên hết thù, hết khổ”. Đằng sau tiếng cười là những suy nghĩ hết sức
nghiêm túc, có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Không cần dùng lí luận đao to búa lớn, chỉ bằng những
tiếng cười đủ cung bậc, truyện cười chứng minh rằng chế độ phong kiến đang trên đà tan rã
không thể cứu vãn, chế độ đó đáng bị lịch sử lên án” (3).
b. Truyện cười phê phán thói hư tật xấu của con người:

3
Phạm Thu Yến (chủ biên), Sđd, tr.107

136
Hướng đến những nhược điểm thông thường và rất phổ biến của con người cũng là một lối
đi của truyện cười. Với mục đích giáo dục nhẹ nhàng, truyện đã dùng tiếng cười để chỉ những
khiếm khuyết của con người về nhận thức, về tính cách, phẩm chất… Khoe khoang, khoác lác,
tham ăn tục uống, hà tiện, lười nhác, sợ vợ… những thói tật đó không xấu quá mức nhưng sẽ là
vật cản của con người trong quá trình sống và sinh hoạt. Với cái nhìn vừa độ lượng vừa nghiêm
khắc, các tác giả dân gian đã đề cập đến những nhược điểm ấy trong rất nhiều tác phẩm như: Lợn
cưới áo mới, Con rắn vuông, May không đi giày, Há miệng chờ sung, Nếu phải tay tao… Khi
tiếng cười giòn giã vang lên cũng là lúc một thói tật lộ diện. Trong trường hợp này, tiếng cười có
tác dụng uốn nắn con người, hướng con người dần đến sự hoàn thiện. Tác giả dân gian đứng trên
quan điểm đạo đức và lý tưởng thẩm mĩ tốt đẹp của dân tộc để phủ định cái xấu. Tiếng cười sảng
khoái, không ác ý vang lên trong mỗi câu chuyện sẽ là sự nhắc nhở đầy thiện chí giúp con người
tự nhận thức và điều chỉnh hành vi của mình một cách kịp thời.

2.1.5.3. Nghệ thuật của truyện cười


- Nhân vật trung tâm của truyện cười là con người với những khiếm khuyết rất đời, bất kể
là vua chúa hay là những người dân lao động bình thường. Không làm rõ diễn trình số phận của
nhân vật, truyện cười chỉ đặt nhân vật trong những lát cắt rất mỏng, rất ngắn của không gian và
thời gian. Bằng nghệ thuật phóng đại, các tác giả đã khắc sâu ấn tượng về cái xấu của nhân vật
khi nhân vật hành động trái tự nhiên, trái lẽ thường.
- “Cái cười là người trung gian lớn trong việc phân biệt sự thật và điều dối trá” (Biêlinxki).
Vai trò trung gian đó phụ thuộc rất lớn vào cách xây dựng tình huống của truyện cười. Mâu thuẫn
gây cười là một điều đáng chú ý của thể loại. Tiếng cười thường bật ra từ xung đột giữa danh và
thực, hình thức và nội dung, giữa ý thức và vô thức. Khi nhân vật không xử lí tốt những cặp quan
hệ đó, tạo nên sự tương phản hoặc vênh lệch thì tiếng cười sẽ xuất hiện ngay lập tức.
- Truyện cười thường có kết thúc bất ngờ. Kết thúc bất ngờ được xem là ranh giới
cuối cùng để cái xấu bộc lộ bản chất và đưa đến những hiệu ứng thẩm mĩ tích cực cho
người đọc. “Với lối kết thúc đột ngột, nhân vật bị cười trở thành “nhân vật bị triển lãm” hết
sức trơ trẽn và ngây ngô” (Trần Hoàng).
- Bên cạnh đó, một số truyện cười còn sử dụng nghệ thuật chơi chữ: nói lái, dùng từ đồng
âm… và yếu tố tục như một thủ pháp gây cười.
2.2. VĂN VẦN DÂN GIAN CHO THIẾU NHI
2.2.1. Câu đố
2.2.1.1. Khái niệm
Một số cách hiểu về câu đố:

137
- “Câu đố mang hình thức câu nói vần vè mô tả một sự vật hoặc hiện tượng nào đó (=
vật đố) một cách bóng gió nhằm đòi hỏi người ta đoán ra nó” (4).
- “Câu đố là một loại sáng tác nghệ thuật dân gian ngắn gọn, phản ánh các sự vật, hiện
tượng khách quan bằng một lối nói đặc biệt: lối nói chệch, lối nói gần với ẩn dụ; giấu tên chuyển
vật nọ thành vật kia” (5).
- “Câu đố là một thể loại văn học dân gian tồn tại dưới hình thức lời hát hoặc lời nói có vần
điệu, dùng hình ảnh ẩn dụ để thử tài liên tưởng và suy đoán của người nghe” (6).
Qua những nhận định đó, câu đố được nhận diện với tư cách là một thể loại văn học dân
gian ngắn gọn, giàu nhạc tính, sử dụng nghệ thuật ẩn dụ đặc biệt để gợi tài phán đoán của người
nghe.
2.2.1.2. Nội dung của câu đố
Là một thể loại rất ngắn gọn về dung lượng nhưng câu đố có khả năng phản ánh mọi
phương diện của đời sống. Các nhà nghiên cứu đã hệ thống hóa nội dung phản ánh của câu đố
thành bốn nhóm sau:
- Câu đố về các hiện tượng tự nhiên, vũ trụ.
- Câu đố về động vật, thực vật.
- Câu đố về đồ vật và các sản phẩm văn hóa, tinh thần do con người sáng tạo ra.
- Câu đố về con người và hoạt động của con người.
Cách phân chia trên cho thấy sự phong phú về dung lượng phản ánh của câu đố. Người
bình dân đã phổ vào thể loại rất nhiều kiến thức phổ thông có liên quan mật thiết đến cuộc sống
của người dân quê. “Thế giới vật đố trong câu đố dân gian gợi nghĩ đến một phòng triển lãm đơn
sơ về sự vật, hiện tượng và sinh hoạt nông thôn xưa trong đời sống tự nhiên của nó”. Qua những
câu nói ngắn nhưng rất trữ tình, người bình dân sẽ gặp lại những hình ảnh mộc mạc gắn liền môi
trường sinh hoạt thân cận nhất của họ, từ cái cày, cái bừa, chiếc gàu sòng, khung cửi, cơi trầu,
chiếc võng, đến con chó, con mèo, con muỗi, con tằm, cây ngô, cây lúa… Cách nhìn đời thông
minh, hài hước, hồn nhiên của nhân dân lao động thể hiện rất rõ qua câu đố. Đây là một ví dụ:
Vừa bằng thằng bé lên ba
Thắt lưng con cón chạy ra ngoài đồng
Cuộc sống lao động vất vả không làm mất đi bản tính yêu đời, khả năng liên tưởng hồn
nhiên nhưng tinh tế của người dân quê. Qua câu đố này, hình ảnh của bó mạ hiện lên thật sống
động, dễ thương như một trẻ nhỏ.
Ngoài những nội dung trên, một bộ phận câu đố còn có xu hướng đi đến biểu đạt hiện thực
về đời sống xã hội, con người. Những câu đố như:
Anh đỏ liếm đít anh đen

4
Trần Đình Sử, Đỗ Bình Trị, Văn học 1, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ Giáo viên, Hà Nội, 1993, tr.142

5
Trần Hoàng, Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học Huế, 2004, tr.68
6
Châu Minh Hùng, Lê Nhật Ký, Hệ thống thể loại trong văn học thiếu nhi, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2009, tr.55

138
Anh đen không nói, ăn quen liếm hoài
Hay:
Hình vuông mà miệng lại tròn
Khi vét cơm chúa, khi bòn cơm dân
Thể hiện rõ sự di chuyển của điểm nhìn nghệ thuật. Chuyện của cái nồi, cái cối hóa ra lại gợi
được những liên hệ sâu xa đến chuyện của con người.
Với khả năng biểu đạt hiện thực rộng rãi đó, câu đố là một loại hình nghệ thuật dân gian có
ý nghĩa với đời sống tâm hồn trẻ. Không dừng ở chức năng giải trí, câu đố còn là phương tiện để
trẻ rèn luyện năng lực tư duy, phán đoán và chiếm lĩnh thêm những tri thức rất phổ thông về vạn
vật.
2.2.1.3. Nghệ thuật của câu đố
- Một trong những chức năng cơ bản của câu đố là giúp con người nhận diện sự vật, từ đó
có thêm tri thức về đối tượng. Để thực hiện chức năng đó, nghệ thuật miêu tả là phương tiện thiết
thân của thể loại. Trong quá trình miêu tả, so sánh và nhân hóa là những nghệ thuật được các tác
giả sử dụng thường xuyên:
Vừa bằng lá tre, ngo ngoe dưới nước
(Con đỉa)
- Với nhu cầu đánh lạc hướng suy nghĩ của người giải đố, phần lớn câu đố dùng nghệ thuật
ẩn dụ. Vì thế, “cấu trúc của câu đố bao giờ cũng tồn tại hai phần: phần hiển hiện A (được miêu tả
ở bề mặt ngôn từ) và phần ngầm ẩn B (thường được hiển thị bằng dạng câu hỏi: là con gì, cái gì,
việc gì)” (7). Người giải đố phải phát huy năng lực liên tưởng, lựa chọn của mình để đoán ra sự
vật ngầm ẩn B dựa trên những đặc điểm của A. Nhưng khác với nghệ thuật ẩn dụ thông thường,
sự tương đồng giữa A và B là do người đố cố tình tạo ra để tạo cách nói lắt léo nên rất mong
manh, mơ hồ, thậm chí không có trong thực tế. Đây chính là một nét hấp dẫn của thể loại này.
- Ngoài ra, câu đố còn sử dụng một số biện pháp tu từ ngôn ngữ khác như: nói lái, từ đồng
âm, đố tục giảng thanh… Những câu đố sau ghi nhận sự hỗ trợ của những biện pháp này:
Khi đi cưa ngọn, khi về cũng cưa ngọn
(Con ngựa)
Ngả lưng cho thế gian ngồi
Rồi ra mang tiếng con người bất trung
(Tấm phản)
Xưa kia em trắng như ngà
Vì chàng quân tử em đà nên thâm
Trách ai mang tính vô tâm
Chàng đánh, chàng đập, chàng còn nằm với em
(Chiếc chiếu)

7
Trần Đình Sử, Đỗ Bình Trị, Sđd, tr.145

139
Nhờ sự hỗ trợ của những biện pháp tu từ đó mà câu đố vừa thể hiện được chất trí tuệ, vừa
thể hiện được chất trữ tình của thể loại.
2.2.2. Đồng dao
2.2.2.1. Khái niệm
Một số nhà Nho cũ cho rằng đồng dao là những câu sấm nhằm ám chỉ một sự kiện lịch sử nhất
định. Họ chịu ảnh hưởng của một số nhà nghiên cứu Trung Quốc, những người nói rằng trên trời có
ông sao Huỳnh Hoặc (sao hoả), mỗi khi xã hội loài người có biến cố gì thì hoá thành thần Phong Bá
mặc áo đỏ xuống trần gian dạy cho trẻ những lời ca liên quan đến biến cố đó. Thực ra đó là quan
niệm không có tính khoa học. Đồng dao với là những câu hát dân gian có nội dung và hình thức phù
hợp với trẻ em, thường được trẻ em hát lúc vui chơi, đây mới là quan niệm nhận được sự đồng thuận
của nhiều nhà nghiên cứu. Qua cách hiểu này, tính nguyên hợp của thể loại thể hiện rất rõ. Nhắc đến
đồng dao là nhắc đến sự gắn bó hô ứng giữa trò chơi và lời hát. Xét về phương diện diễn xướng, đồng
dao chỉ gắn với trẻ em. Đồng dao gắn với hoạt động vui chơi của các em, có tác dụng chủ yếu là thoả
mãn nhu cầu vui chơi và tập cho trẻ những tri thức để bước vào đời.
2.2.2.2. Đặc điểm
- Cũng như các thể loại văn học dân gian khác, đồng dao được lưu hành bằng miệng, thể
hiện rõ tính tập thể và tính dị bản nhưng tính dị bản của đồng dao có phần phóng túng, tự do hơn
ca dao, tục ngữ. Ngôn ngữ, nội dung của các bài đồng dao đôi khi được cải biên cho phù hợp với
sinh vật, cảnh quan, ngôn ngữ của từng địa phương. Mặt khác, trong quá trình hát với nhau trẻ đã
tự thay đổi một số từ và một số chi tiết của đồng dao. Ví dụ:
Kéo cưa lừa xẻ
Ông thợ nào khỏe
Về ăn cơm vua
Ông thợ nào thua
Về bú tí mẹ
(Kéo cưa lừa xẻ
Thợ khỏe cơm vua
Thợ thua cơm làng
Thợ nào dẻo dang
Về nhà bú tí)
- Đồng dao có một số câu khó hiểu, đặc biệt là câu mở đầu. Nhiều nhà Nho cho đó là những
sấm ngữ. “Thực ra, đi tìm ý nghĩa của những câu này, e cũng giống việc đi tìm chính ngọ lúc 14
giờ mà thôi” (Vũ Ngọc Khánh). Tuy vậy những lời không có nghĩa ấy không phải là không có tác
dụng. Đây là những lời dẫn cảm để gây hứng thú cho trẻ. Vẫn có một quy tắc đặt lời dẫn cảm chứ
không phải là sáng tác vô ý thức. Đây là cách nói, cách phát âm rất gần với đặc điểm phát âm bập
bẹ hoặc bỏ rơi âm tiết lúc trẻ ở giai đoạn tiền ngôn ngữ. Cũng có lúc người ta dựa ngay vào động

140
tác của trò chơi được nói đến trong bài đồng dao, lấy đó làm từ chính và dùng phương pháp cấu
tạo từ láy, cấu tạo tiếng đệm để phát triển thành một ngữ. (Trò Dung dăng dung dẻ: chữ dăng
trong hành động dăng tay; trò Vu vi vút vút: chữ vút ứng với hành động vung roi).
- Không có đề tài tập trung trong đồng dao trừ những bài người ta có dụng ý tập hợp riêng
để giới thiệu như: vè trái cây, vè chim chóc… Các bài hát trẻ em phần lớn chỉ là những đoạn chắp
vá, tản mạn, gặp đâu nói đó, cốt cho vần vè. Điều này phù hợp với đặc điểm tư duy ngoại vật
thiên về ấn tượng chứ không bằng tư duy lí luận của trẻ.
- Không gian nghệ thuật trong đồng dao luôn là không gian gần gũi, quen thuộc với trẻ.
Đồng dao có đời sống diễn xướng gắn bó với hoạt động vui chơi của trẻ thơ. Để đáp ứng tâm lí
các em, đồng dao đã tạo ra một thế giới đầy màu sắc, ngập tràn những hình ảnh vui tươi, ngộ
nghĩnh về những con vật, đồ vật và cây cỏ thân thương. Một thiên nhiên và cuộc sống xã hội đã
mở ra mênh mông trước mắt trẻ từ chính thể loại dân gian còn được gọi là "ca dao thiếu nhi" này.
- Đồng dao thường có kết cấu ngắn gọn, giàu nhạc tính. Nhạc điệu là đặc điểm quan trọng nhất
của đồng dao, của những bài hát “vô nghĩa có duyên” này. Chủ yếu tổ chức theo nhịp chẵn, đồng dao
đã tạo nên sự đều đặn, nhịp nhàng về tiết tấu. Mặt khác, “về cấu trúc thanh nhạc, đồng dao thuộc gam
trưởng, âm giai thánh thót, dễ chắp cánh tâm hồn trẻ thơ bay cao” (8).
- Trong các bài đồng dao hay xuất hiện phép trùng lặp. Ví dụ:
Con vỏi, con voi
Cái vòi đi trước
Hai chân trước đi trước
Hai chân sau đi sau
Còn cái đuôi đi sau rốt
Tôi xin kể nốt
Cái chuyện con voi
Con vỏi, con voi…
Đây là kiểu kết cấu vòng tròn, một kiểu kết cấu có tác dụng tạo ra sự nối vòng cho các bài
đồng dao, kéo dài nội dung tác phẩm cho đến khi kết thúc trò chơi, kết thúc lời trêu ghẹo của trẻ
nhỏ.
2.2.3. Tục ngữ
2.2.3.1. Khái niệm
Có thể hiểu tục ngữ dựa vào một số cách định nghĩa sau:

8
Châu Minh Hùng, Lê Nhật Ký, Sđd, tr.72

141
- “Tục ngữ là một câu nói hoàn chỉnh, gọn chắc, xuôi tai, diễn đạt trọn vẹn một ý mà nội
dung thuộc về kinh nghiệm đời sống, những kinh nghiệm xã hội – lịch sử của nhân dân” (9).
- “Tục ngữ là một sáng tác dân gian – một loại câu nói ngắn gọn, có ý nghĩa hàm súc, có cấu
tạo tương đối bền vững và thường có vần, nhịp, có hình ảnh được dùng trong lời nói, trong sinh hoạt
hàng ngày của nhân dân”(10).
- “Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian gồm những câu nói ngắn gọn, có vần điệu, có
hình ảnh dễ nhớ, dễ truyền có chức năng đúc kết kinh nghiệm, tri thức lâu đời của nhân dân về
thiên nhiên và lao động sản xuất, về con người và xã hội”(11).
2.2.3.2. Nội dung của tục ngữ
Với một kho tàng quý giá gồm hàng chục ngàn câu, tục ngữ là thể loại văn học dân gian có
khả năng biểu đạt hiện thực rộng rãi nhất, phong phú nhất. Đối tượng phản ánh của tục ngữ rất đa
dạng, từ con người, xã hội đến cả thế giới tự nhiên. Những kinh nghiệm đã được đúc kết qua thời
gian đi vào tục ngữ, làm cho tục ngữ trở thành cuốn cẩm năng đa năng về tất cả những tri thức
của muôn mặt cuộc sống. Về cơ bản, có thể hệ thống hóa phạm vi phản ánh của thể loại này vào
ba nhóm vấn đề sau:
- Tục ngữ về thiên nhiên, thời tiết và lao động sản xuất.
- Tục ngữ về lịch sử - xã hội.
- Tục ngữ về con người.
Qua những nhóm đề tài trên, vai trò của người dân lao động rất đa dạng. Có lúc, họ trở
thành những nhà dự báo thời tiết: Mau sao thì nắng vắng sao thì mưa; Tháng ba bà già chết
cóng; Chớp đông nhay nháy gà gáy thì mưa... Có lúc, họ trở thành những chuyên gia chăn nuôi,
trồng trọt: Nuôi lợn ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng; Khoai ruộng lạ, mạ ruộng quen; Nhất
cày ải, nhì rải phân…. Không chỉ thế, tục ngữ còn là nơi lưu giữ ký ức về lịch sử xa xôi của dân
tộc. Những câu tục ngữ như: Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi; ngồi mát ăn bát vàng; cá lớn nuốt
cá bé; phép vua thua lệ làng; miếng trầu là đầu câu chuyện… đã ghi lại những sự kiện lịch sử
của dân tộc, đã phản ánh chân thực bộ mặt của giai cấp thống trị phong kiến và cả những phong
tục tập quán của người Việt. Tục ngữ về con người là một bộ phận quan trọng, chiếm dung lượng
lớn trong kho tàng tục ngữ dân tộc. Chúng ta dễ dàng nhận thấy thái độ đề cao giá trị của con
người, giá trị của những truyền thống đạo đức tốt đẹp của người Việt mà người bình dân đã thể
hiện qua bộ phận tục ngữ này. Người ta là hoa đất, câu tục ngữ này là một góc nhìn nhân văn về
con người, về chủ thể đã làm nên những phẩm tính tốt đẹp trong văn hóa ứng xử của dân tộc như:
Lá lành đùm lá rách; chị ngã em nâng; sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì; giấy rách phải giữ lấy lề;
một sự nhịn chín sự lành; chết trong còn hơn sống đục; có công mài sắt có ngày nên kim…
2.2.3.3. Nghệ thuật của tục ngữ

9
Trần Đình Sử, Đỗ Bình Trị, Sđd, tr.131
10
Trần Hoàng, Sđd, tr.55
11
Phạm Thu Yến (chủ biên), Sđd, tr.141

142
Tục ngữ cùng với thành ngữ là hai thể loại có quy mô nhỏ nhất trong các thể loại văn học
dân gian. Tuy nhiên, trong khi thành ngữ chỉ là một cụm từ cố định thì tục ngữ lại có cấu trúc một
câu. Mỗi câu tục ngữ là một phán đoán, chuyển tải một thông báo có nội dung tương đối trọn vẹn,
còn thành ngữ chỉ thực hiện chức năng của từ, chỉ gọi tên một sự vật hiện tượng hoặc diễn đạt
một khái niệm nào đó.
Với tục ngữ, sự giản lược tối đa về mặt từ ngữ đã tạo nên những tác phẩm văn chương cực
ngắn, cực nhỏ (Tác phẩm dài nhất cũng chỉ là một cặp lục bát). Nỗ lực kiệm lời của tác giả dân
gian đã tạo sự dồn nén về khả năng biểu đạt của tục ngữ, làm cho tục ngữ có tính hàm súc và đa
nghĩa. Đại đa số tục ngữ đều là những cấu trúc đa nghĩa. Người bình dân thể hiện sự tài hoa của
mình trong việc mượn lối nói hình tượng, ẩn dụ để biểu đạt kinh nghiệm sống. Câu tục ngữ Gió
chiều nào che chiều ấy có thể được khai thác ở cả hai nét nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng. Thậm
chí nghĩa bóng của nó không phải là duy nhất, tĩnh tại mà có những thay đổi tùy thuộc hoàn cảnh
giao tiếp cụ thể.
Kết cấu của tục ngữ rất đa dạng. Phổ biến trong tục ngữ là những cấu trúc sau:
- Cấu trúc tương đồng: Đất lề, quê thói; ăn cơm lừa thóc, ăn cóc bỏ gan.
- Cấu trúc đẳng lập: Người tốt vì lụa, lúa tốt vì phân; ăn trông nồi, ngồi trông hướng.
- Cấu trúc tương phản: Được làm vua, thua làm giặc; khôn ba năm, dại một giờ.
- Cấu trúc nhân quả: Rút dây, động rừng; Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.
- Cấu trúc khẳng định: Người sống, đống vàng; Tấc đất, tấc vàng
- Cấu trúc so sánh: Lễ Phật quanh năm không bằng ngày rằm tháng giêng; Lòng vả như
lòng sung.
Để biểu đạt thông điệp thẩm mĩ, ngoài nghệ thuật ẩn dụ, tục ngữ sử dụng nhiều các biện
pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, hoán dụ…:
- Một mặt người bằng mười mặt của.
- Cái nết đánh chết cái đẹp.
Nhờ đó, tục ngữ đã làm “mềm hóa”, thi vị hóa, trữ tình hóa những phán đoán thiên về lí trí,
nặng về những nhận xét kết luận mang tính khách quan.
2.2.4. Ca dao
2.2.4.1. Khái niệm
Ca dao và dân ca là hai khái niệm có sự nhòe mờ về ranh giới thể loại trong quan niệm của
nhiều nhà nghiên cứu. Theo Đỗ Bình Trị thì dân ca - ca dao là tên gọi chung các thể loại trữ tình
dân gian. Nhưng bên cạnh đó, cũng có luồng ý kiến khu biệt hai khái niệm này. Theo Dương
Quảng Hàm, ca dao là những bài hát ngắn lưu hành trong dân gian, thường tả tính tình, phong tục
của người bình dân. Hoàng Tiến Tựu thì cho rằng ca dao là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất
của thơ dân gian, là loại thơ dân gian truyền thống có phong cách riêng, được hình thành và phát
triển trên cơ sở của thành phần nghệ thuật ngôn từ trong các loại dân ca trữ tình ngắn và tương

143
đối ngắn của người Việt. Chúng tôi cho rằng, hình thức thơ dân gian là đặc điểm gốc của ca dao.
Ca dao sẽ bước sang ranh giới của dân ca khi các bài thơ trữ tình dân gian này được diễn xướng
trong sự luyến láy của nhạc điệu dân gian.
2.2.4.2. Nội dung của ca dao
Có thể tìm thấy được tất cả những cung bậc tình cảm, tâm lí của người Việt Nam trong ca
dao. Ca dao đã chạm đến những ngóc ngách của trái tim và đưa gương mặt tâm hồn người bình
dân lên trên những bài thơ trữ tình ngắn gọn này. Trong đó, những xúc cảm về lịch sử, đất nước,
con người Việt Nam là một nội dung lớn của ca dao. Cảm hứng tự hào về phong cảnh hữu tình,
tươi đẹp, về những tên đất tên làng thân thuộc, về những phong tục tập quán, những sản vật quê
hương chảy tràn trong ca dao Việt Nam. Lời mời gọi của người dân trên dải đất miền Trung nắng
gió:
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Ai vô xứ Nghệ thì vô…
- Lời nhắn nhủ ân tình của người dân đất tổ Phong Châu:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba
- Hay niềm tự hào đang ngập tràn khóe mắt người dân vùng sông nước miền Tây :
Muốn ăn bông súng cá kho
Thì về Đồng Tháp ăn cho đã thèm
Tất cả đều là khúc biến tấu ngọt ngào, thi vị của tình yêu quê hương, làng mạc. Hơn thế, đó
còn là tình cảm thiêng liêng của mỗi người với tổ tiên, giống nòi, lịch sử dân tộc.
Đến với ca dao là đến với tiếng hát nghĩa tình sâu nặng. Từ trong những vất vả, đắng cay,
những câu hát đầy tình đời tình người vẫn vang lên, làm lắng đọng không gian:
Mẹ già như chuối chín cây
Gió lay mẹ rụng con thời mồ côi
Chiều chiều mây phủ Sơn Trà
Lòng ta thương bạn nước mắt và trộn cơm
Chữ tình là cái lõi của ca dao, làm nên sức truyền cảm của thể loại. Ca dao không gói gọn
chữ tình trong quan hệ gia đình mà còn vươn đến những phạm vi khác mang tính xã hội. Trong
mênh mang chữ tình ấy, những câu ca dao viết về đề tài tình yêu đôi lứa đã làm nên một không
gian trữ tình duyên dáng, thi vị. Người bình dân đã phổ vào đấy tất cả khúc nhôi gan ruột của
mình trong tình yêu. Những nhớ nhung, thẹn thùng, giận hờn, sầu muộn; những ước mơ bình dị
nhưng vĩnh hằng… tất cả đều theo ca dao đến với bạn đọc muôn thế hệ:
Mồ cha con bướm khôn ngoan
Hoa thơm bướm lượn hoa tàn bướm bay

144
Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này
Đọc ca dao, còn thấy vang lên một tiếng nói bền bỉ, rắn rỏi, đó là tiếng nói chống áp bức
cương quyền, đòi quyền sống cho con người. Bên cạnh chùm ca dao than thân – nơi dồn chứa
những buồn tủi, hẩm hiu của số phận người bình dân, lại tồn tại một mạch cảm hứng lớn mang
nội dung phản phong. Xuất hiện trong mảng đề tài này, bộ mặt của vua chúa quan lại được miêu
tả thật sinh động:
Vua chi mà vua, quan chi mà quan
Lọng vàng thì có, lòng vàng thì không
Bộ Binh, bộ Hộ, bộ Hình
Ba bộ đồng tình bóp vú con tôi
Đó là tiếng nói hiện thực, tiếng nói tố khổ, tiếng nói vạch trần, tiếng nói của những người
đã và đang sống cuộc đời nhiều oan trái, bất công. Những con người nhỏ bé trong xã hội đã
mượn ca dao như một không gian lí tưởng để nói thật trọn vẹn những trạng huống tâm lí, xúc cảm
về cuộc đời.
2.2.4.3. Nghệ thuật của ca dao
Nhắc đến ca dao là nhắc đến sự hiện diện của nhân vật trữ tình. Thông thường nhân vật trữ
tình trong ca dao gắn với những đại từ nhân xưng như anh, em, mình, ta, chàng, thiếp, tôi, người,
qua, bậu... Dựa trên đại từ xưng hô, người đọc sẽ nhận ra được dấu ấn của từng vùng miền khác
nhau. Đây là câu ca dao của người dân xứ Huế:
Hồ Tĩnh Tâm giàu sen Bạch Diệp
Đất Hương Cần ngọt quýt thơm cam
Ai về cầu ngói Thanh Toàn
Đợi đây về với một đoàn cho vui!
Một hướng thể hiện khác rất phổ biến trong ca dao, đó chính là cách giấu nhân vật trữ tình
sau những hình ảnh xưng hô ẩn dụ như mận, đào, trúc, mai, rồng, mây, trăng, gió... Thường thì
lối thể hiện này hay xuất hiện trong ca dao tỏ tình, ca dao giao duyên:
Tằm ơi say đắm nơi đâu
Mà tằm bỏ nghĩa cành dâu không nhìn?
Để khắc họa tâm trạng của nhân vật trữ tình, ca dao đã đặt nhân vật vào rất nhiều không
gian, thời gian. Nhưng về cơ bản, thời gian hiện tại được chọn là điểm nhìn của ca dao. Rất ít khi
ca dao đề cập đến thời gian quá khứ, nếu có thì đó cũng chỉ là đòn bẩy để làm nổi bật tâm cảnh
hiện tại, nếu có thì đó cũng là quá khứ rất gần như: hôm qua, đêm qua… Vì thế, thời gian nghệ
thuật trong ca dao có sự trùng khít với thời gian diễn xướng:
Đến đây mận mới hỏi đào

145
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Cùng với thời gian thực tại khách quan, trong ca dao còn có thời gian ước lệ, thời gian tâm
lí giàu sức biểu đạt xúc cảm của nhân vật trử tình. Ví như trường hợp câu ca dao sau:
Tìm em đã tám hôm nay
Hôm qua là tám, hôm nay là mười
Về không gian nghệ thuật, có thể thấy rõ ca dao thường xuyên khai thác không gian thực,
không gian sinh hoạt quen thuộc của người bình dân. Ca dao đặt nhân vật trữ tình phần lớn vào
không gian bình dị của nông thôn Việt Nam, một không gian mang vẻ bình dị , thân thuộc với
hình ảnh của dòng sông, cây đa, bến nước, mái đình, cánh đồng, ngõ quê… Đó là những địa điểm
mang đậm dấu ấn của nền văn minh nông nghiệp lúa nước:
Tháp Mười nước mặn đồng chua
Nửa mùa nắng cháy nửa mùa nước dâng
Ngoài ra, không gian trong ca dao còn mang tính không gian phiếm chỉ. Bên những câu ca
dao có sự định vị rõ ràng về địa danh lại có những câu mơ hồ hóa không gian. Tính phiếm chỉ đó
tạo nên sự đồng cảm về tâm trạng của con người. Bất cứ một cô gái, chàng trai nào đang yêu đều
có thể tìm thấy ước mơ của mình trong câu hát:
Một đàn cò trắng kia ơi,
Có nghe ta hát những lời này không?
Hát câu đẹp cốm, tươi hồng,
Hát câu nên vợ nên chồng cò ơi.
Vừa đậm đà bản sắc dân tộc vừa mang sắc thái địa phương, đó là đặc trưng ngôn ngữ của
ca dao. Đứng ở góc độ ngôn ngữ, các nhà nghiên cứu có thể nhận diện vùng, miền với độ chính
xác khá cao thông qua hệ thống ngôn ngữ mang sắc thái địa phương toát ra từ bài ca dao ấy.
Ngoài ra, ca dao còn tăng tính hấp dẫn của thể loại bằng thứ ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm,
tính chất biểu tượng, ước lệ, tượng trưng, ẩn dụ... Ví dụ:
Núi cao chi lắm núi ơi
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương.
Chính vì thế, ca dao là một thể loại rất duyên dáng, ý nhị và cũng rất gần gũi, thân thuộc.
Mỗi bài ca dao là hơi thở của người dân quê, tự nhiên và mộc mạc nhưng không hề thiếu sự tinh
tế.
HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 2
I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
Sinh viên cần nắm những đặc trưng về nội dung và thi pháp của các thể loại thuộc hệ thống
văn học dân gian. Trên cơ sở đó, học viên phải có kĩ năng phân tích các tác phẩm văn học dân

146
gian và kỹ năng tổ chức cho học sinh tiểu học tiếp nhận các tác phẩm văn học dân gian theo đặc
trưng thi pháp từng thể loại.
II. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP THỰC HÀNH
1. Phân biệt Thần thoại và Truyền thuyết. Lấy ví dụ minh họa cụ thể.
2. “Truyện cổ tích luôn chiếu rọi ánh sáng vào một thế giới khác” (Macxim Gorki).
Bằng ví dụ cụ thể, hãy làm sáng rõ nhận định trên.
3. Truyện ngụ ngôn là gì? Phân tích truyện Rùa và Thỏ để làm sáng rõ những đặc điểm của
truyện ngụ ngôn.

Rùa và Thỏ
Trời mùa thu mát mẻ. Trên bờ sông, một con Rùa đang cố sức tập chạy. Một con Thỏ trông
thấy, mỉa mai Rùa:
- Đồ chậm như sên. Mày mà cũng đòi tập chạy à?
Rùa đáp:
- Anh đừng giễu tôi. Anh với tôi thử chạy thi coi ai hơn?
Thỏ vểnh tai lên tự đắc:
- Được, được! Mày dám chạy thi với ta sao? Ta chấp mày một nửa đường đó!
Rùa không nói gì. Nó biết mình chậm chạp, nên cố sức tập chạy thật nhanh. Thỏ nhìn theo,
mỉm cười.
Nó nghĩ: Ta chưa cần chạy vội, đợi Rùa gần tới đích, ta phóng cũng vừa.
Nó nhởn nhơ trên đường, nhìn trời, nhìn mây. Thỉnh thoảng, nó lại nhấm nháp vài ngọn cỏ
non, có vẻ khoan khoái lắm.
Bỗng nó nghĩ đến cuộc thi, ngẩng đầu lên thì đã thấy Rùa chạy gần tới đích. Nó cắm cổ
chạy miết nhưng không kịp nữa. Rùa đã tới đích trước nó.
Phỏng theo Thơ ngụ ngôn La Phôngten (Trúc Mai kể)
4. Phân biệt tục ngữ và thành ngữ. Lấy ví dụ minh họa cụ thể.
5. Phân tích những đặc trưng cơ bản của đồng dao. Nêu những vấn đề cần lưu ý khi dạy đồng dao
cho học sinh tiểu học.
6. Vai trò của câu đố đối với học sinh tiểu học?
III. GỢI Ý GIẢI BÀI TẬP
1. Thần thoại và truyền thuyết là hai thể loại tự sự dân gian có một số điểm tương đồng. Tuy
nhiên có thể xác định được ranh giới của hai thể loại này dựa trên một số tiêu chí như: thời điểm
sáng tác, chức năng thể loại, hệ thống nhân vật…

147
2. Truyện cổ tích thiên về phản ánh thực tế đời sống xã hội. Tư duy của cổ tích là tư duy giàu
thực tiễn. Thế nhưng bên cạnh đó, “truyện cổ tích luôn chiếu rọi ánh sáng vào một thế giới khác”.
Nhận định này đã đề cập chủ yếu đến vai trò của yếu tố thần kì trong truyện cổ tích với tư cách là
một phương tiện tạo nên thế giới đậm sắc màu huyền thoại, nơi những con người bất hạnh có thể
thực hiện được ước mơ lí tưởng của mình. Sinh viên nắm tinh thần đó để lấy ví dụ phù hợp.
3. Sinh viên vận dụng lí thuyết về truyện ngụ ngôn để trả lời câu hỏi. Chú ý đến kết cấu, tính ẩn
dụ của thể loại, hệ thống nhân vật trong tác phẩm.
4. Tục ngữ và thành ngữ chủ yếu phân biệt ở hai bình diện:
- Về cấu tạo: Tục ngữ có cấu trúc của câu còn thành ngữ chỉ là cụm từ cố định.
- Về chức năng: Tục ngữ có chức năng thông báo còn thành ngữ chỉ làm nhiệm vụ định
danh.
Sinh viên căn cứ vào hai điểm khác biệt đó để lấy ví dụ minh họa.
5. Chú ý đến một số đặc trưng cơ bản sau của đồng dao:
- Sự vô nghĩa có duyên.
- Phép trùng lặp.
- Tính nguyên hợp.
6. Câu đố có vai trò không nhỏ đối với học sinh tiểu học. Căn cứ vào lí thuyết đã cung cấp trong
giáo trình và kết hợp với những quan sát mang tính thực tiễn, sinh viên chỉ rõ những vai trò đó.
Cần kết hợp với dẫn chứng minh họa cụ thể cho một số vai trò của câu đố.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Hoàng (2004), Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học Huế.
2. Châu Minh Hùng, Lê Nhật Ký (2009), Hệ thống thể loại trong văn học thiếu nhi, Nxb Giáo dục
Việt Nam.
3. Đinh Gia Khánh (1998), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Lê Chí Quế (1998), Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia,
Hà Nội..
5. Trần Đình Sử, Đỗ Bình Trị (1993), Văn học 1, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ Giáo viên, Hà Nội.
6. Đỗ Bình Trị (1990), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Hoàng Tiến Tựu (1998), Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Phạm Thu Yến (chủ biên), (2004), Giáo trình Văn học dân gian, Nxb Đại học Sư phạm, Hà
Nội.

148
Chương 3
VĂN HỌC VIẾTVIỆT NAM DÀNH CHO THIẾU NHI

3.1. NGUYỄN HUY TƯỞNG VỚI LÁ CỜ THÊU SÁU CHỮ VÀNG


3.1.1. Tác giả
Nguyễn Huy Tưởng sinh năm 1912 ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (thôn Dục Tú, xã Dục
Tú, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội ngày nay). Thưở nhỏ, ông đã học sâu Hán văn và Pháp
văn. Năm 17 tuổi, Nguyễn Huy Tưởng bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1941, sau
khi thành lập Mặt trận Việt Minh, ông là một trong những người sáng lập Hội Văn hoá Cứu
quốc. Năm 1946, nhà văn được bầu làm Đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
khoá I, đồng thời đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo trong tổ chức Hội Văn hoá Việt Nam và Hội
Văn nghệ Việt Nam, v.v… Sau khi hoà bình lập lại ở Việt Nam, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng làm
Uỷ viên Ban chấp hành của Hội Hữu nghị Việt - Xô và Hội Nhà văn Việt Nam. Vào ngày 25
tháng 7 năm 1960, Nguyễn Huy Tưởng mất tại Hà Nội.
Nguyễn Huy Tưởng vừa là một nhà văn vừa là một nhà viết kịch tài hoa. Trong sự nghiệp
sáng tác của mình, ông đặc biệt thành công với đề tài về lịch sử và Hà Nội. Vũ Như Tô, Cột đồng
Mã Viện, Đêm hội Long Trì, An Tư công chúa, Sống mãi với Thủ đô, An Dương Vương xây thành
ốc, Bắc Sơn, Những người ở lại, Ký sự Cao Lạng là những tác phẩm hay của ông. Bên cạnh đó,
Nguyễn Huy Tưởng còn rất nhiệt tâm với văn học thiếu nhi. Ông đã từng tham gia công tác sáng
lập nhà xuất bản Kim Đồng, đồng thời cũng viết không ít tác phẩm văn học thiếu nhi. Có thể kể
đến: Con Cóc là cậu ông Giời, Tìm mẹ, An Dương Vương xây thành Ốc, Kể chuyện Quang Trung
và Lá cờ thêu sáu chữ vàng. Trong những tác phẩm đó, Nguyễn Huy Tưởng chủ yếu khai thác đề
tài truyền thống, nghĩa là ông chuyên tâm với việc ca ngợi sự anh hùng của con người Việt Nam
trong hiện tại và quá khứ.
3.1.2. Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng
Lá cờ thêu sáu chữ vàng là tác phẩm nổi tiếng gắn bó với nhiều thế hệ bạn đọc Việt Nam.
Đây là một trong hai tác phẩm mà ông viết vào năm 1960, năm cuối đời của ông. Sinh thời, ông
từng mơ ước muốn viết lại cuộc trường kì kháng chiến chống ngoại xâm như kiểu một pho truyện
trường thiên cực kì hấp dẫn, một lần đã đọc qua thì suốt đời không thể quên. Xét về dung lượng,
Lá cờ thêu sáu chữ vàng chưa thể hiện được mong muốn đó nhưng nó thực sự là một ấn tượng
không quên với những ai đã một lần đọc. Tác phẩm tràn ngập cảm hứng ngợi ca về nhân vật Trần
Quốc Toản, vị anh hùng nhỏ tuổi đời Trần.
Trần Quốc Toản qua hình dung của Nguyễn Huy Tưởng là một thiếu niên mười sáu tuổi,
thân hình dong dỏng cao, tấm thân mảnh khảnh. “Khuôn mặt trái xoan với đôi má phinh phính
còn bụ sữa. Nước da trắng mịn óng ánh những lông tơ. Môi dày đỏ chót. Đôi mắt to đen, lòng
trắng xanh biếc, vừa trong sáng vừa mơ màng. Đôi lông mày chưa rậm viền cong cong trên mắt

149
làm cho chàng thêm vẻ thanh tú”. Vẻ đẹp “ẻo lả”, mang chất thục nữ ấy trái ngược hoàn toàn với
tính cách và hoài bão của Hoài Văn. Chính Hoài Văn cũng mong ước được có cái uy phong quắc
thước của Hưng Đạo Vương, cái tài trí của Chiêu Minh vương và sức khỏe của Bảo Nghĩa
Vương. Mặc dù còn nhỏ tuổi nhưng khẩu khí của Hoài Văn rất anh hùng, rất đúng với khí phách
của dòng dõi Đông A. Lòng yêu nước chảy rần rần trong huyết quản khiến cậu thiếu niên này đã
bất chấp mạng sống, bất chấp phép nước đòi bệ kiến quan gia để được trình bày chủ kiến của
mình. “Thôi thì đành liều chết một phen vậy. Ta cứ xuống, chỉ nói hai tiếng xin đánh, rồi mặc
cho triều đình luận tội”. Hoài Văn nghĩ vậy và tiếng nói của “đứa con mảnh dẻ như nữ nhi, yếu
như cành hoa chưa chịu được sương gió” đã hùng hồn vang lên trên bến Bình Than:
“- Cháu biết là mang tội lớn. Nhưng cháu trộm nghĩ rằng khi quốc biến thì đến đứa trẻ cũng
phải lo, huống hồ cháu đã lớn. Cháu chưa đến tuổi dự bàn việc nước nhưng cháu có phải là giống
cỏ cây đâu mà ngồi yên được? Vua lo thì kẻ thần tử cũng phải lo…”.
“- Xin quan gia cho đánh! Cho giặc mượn đường là mất nước”.
Lòng trung của kẻ bề tôi thấm sâu trong những phát ngôn sâu sắc, già dặn ấy. Hình ảnh
Trần Quốc Toản bóp nát quả cam một lần nữa khắc sâu cốt cách nghĩa khí của nhân vật. Về sau,
Trần Quốc Toản đã quyết chiêu binh mãi mã, lập nên những chiến công oanh liệt, góp phần vào
chiến thắng vẻ vang của vua tôi nhà Trần. Hình ảnh lá cờ thêu sáu chữ vàng “Phá cường địch,
báo hoàng ân” căng lên trong gió là một hình ảnh đẹp của tác phẩm. Trong buổi sáng tháng Chạp
rét như cắt, mây xám phủ đầy trời, lá cờ đã tung bay ngạo nghễ xua tan khí trời ảm đạm.
Nguyễn Huy Tưởng đã đưa cảm hứng sử thi vào tác phẩm, làm cho nhân vật Trần Quốc Toản
vốn đã đẹp lại càng lung linh. Con người ấy không chỉ hiện thân cho lòng yêu nước của thế hệ trẻ
Việt Nam trong kháng chiến mà còn là một người con có hiếu. Trong buổi xuất quân, lòng Hoài Văn
bỗng thấy nao nao thương mẹ. Hoài Văn đã dậy thật sớm, từ biệt mẹ già cùng với lời hứa bao giờ
đất nước thanh bình, bốn phương bể lặng trời yên mới trở về.
Đồng thời với nhân vật Trần Quốc Toản, Nguyễn Huy Tưởng đã tái hiện một giai đoạn lịch
sử đặc biệt của đất nước là cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai (1285). Với
văn phong trầm tĩnh, chín chắn, tác giả đã tái hiện lại những nét sinh hoạt truyền thống của quân
dân Đại Việt lúc bấy giờ như đánh vật, bắn tên... Bên cạnh đó, những sự kiện lịch sử nổi tiếng
còn lưu trong sử sách như hội nghị Bình Than, trận Hàm Tử Quan… cũng được ghi lại trong tác
phẩm. Nhà văn đã cho ta thấy lòng căm thù giặc sâu sắc của cả dân tộc, từ những trẻ nhỏ cho đến
các vị bô lão. Trăm miệng một lời, những bô lão quê mùa chất phác đã nắm tay, khẳng khái tâu
“Xin đánh” làm rung chuyển cả điện Diên Hồng. Những chàng trai trẻ thì khắc chữ “Sát thát” vào
cánh tay, uống máu ăn thề ghi nhớ câu “Ai bất nghĩa, bất trung, xin trời tru đất diệt!”. Chính họ
đã góp phần làm nên khúc ca khải hoàn, làm nên chất anh hùng ca cho tác phẩm lịch sử này.
“Chết không phải là hết, là quên khuất, Nguyễn Huy Tưởng vẫn còn mãi mãi gương mặt và
tiếng nói trong cuộc đời và càng ngày càng được quý mến thêm, quý mến vô cùng, gần gũi vô
cùng”. Cảm nhận của nhà văn Nguyên Hồng đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Giữa dòng chảy văn

150
học về đề tài cách mạng, Lá cờ thêu sáu chữ vàng vẫn phấp phới tung bay đầy kiêu hãnh với
những giá trị nội dung và nghệ thuật của nó.
3.2. VÕ QUẢNG VỚI THƠ, TRUYỆN CHO THIẾU NHI
3.2.1. Tác giả
Võ Quảng sinh ngày 1 tháng 3 năm 1920 trong một gia đình nhà Nho trung lưu bên dòng
sông Thu Bồn, Quảng Nam. Cha ông là một nhà nho có lòng đam mê văn học và chính ông đã có
những ảnh hưởng lớn đến Võ Quảng. Trong cuộc đời của mình, Võ Quảng đã có những ngày
tháng dài học, tham gia phong trào học sinh yêu nước ở Huế. Thời gian hoạt động trong các tổ
chức như đoàn thanh niên dân chủ, đoàn thanh niên phản đế; những ngày bị giam trong nhà lao
Thừa Phủ, bị quản chế ở quê… đã cung cấp vốn sống và sự trải nghiệm cho nhà văn. Sau cách
mạng tháng Tám năm 1945, ông được giao giữ nhiều chức vụ quan trọng như: phó chủ tịch Ủy
ban kháng chiến hành chính Đà Nẵng, phó chánh án tòa án quân sự miền Nam Việt Nam, hội
thẩm nhân dân tòa án nhân dân liên khu V. Tuy nhiên, ông đã không tiếp tục theo đuổi con đường
chính trị mà đã chuyển sang theo đuổi nghề viết văn. Võ Quảng trở thành một trong những người
có công lớn trong việc đặt nền móng cho nền văn học thiếu nhi Việt Nam dưới chế độ mới. Năm
1957, nhà xuất bản Kim Đồng thành lập và Võ Quảng trở thành Tổng biên tập đầu tiên của nhà
xuất bản Kim Đồng. Một thời gian sau đó, ông được cử làm Giám đốc Xưởng phim hoạt hình
Việt Nam. Năm 1965, ông được kết nạp làm hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1968, ông về
công tác tại Bộ Văn hóa. Năm 1971, ông về Hội Nhà văn Việt Nam, được phân công làm chủ tịch
Hội đồng Văn học thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam và giữ chức vụ này đến khi về hưu.
Năm 2007, ông được trao tặng Giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Ngày 15-6-
2007, ông trút hơi thở cuối cùng tại Hà Nội. Mộ phần của ông hiện đang đặt tại nghĩa trang tỉnh
Vĩnh Phúc.
Điều nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của Võ Quảng chính là hệ thống những quan điểm
sáng tác của nhà văn. Ông tâm niệm: “Hãy dành cho con trẻ những gì đẹp đẽ và tinh khiết nhất
ngay từ khi trẻ bước vào đời” và các tác phẩm của Võ Quảng đã là món quà tinh thần đẹp đẽ như
thế dành cho thiếu nhi. Võ Quảng vừa làm thơ vừa viết truyện đồng thoại, tiểu thuyết cho các em.
Nhưng bất luận ở thể loại nào, nhà văn cũng luôn coi trọng chức năng giáo dục của văn học thiếu
nhi. “Văn học cho thiếu nhi còn đặt ra vấn đề chính yếu thứ hai, đó là vấn đề giáo dục: Giáo dục
cái hay cái đẹp cho thiếu nhi. Người viết cho thiếu nhi là một nhà văn nhưng đồng thời cũng là
nhà giáo muốn các em trở nên tốt đẹp. Quan điểm sư phạm và văn học thiếu nhi là hai anh em
sinh đôi”. Quan niệm đó đã đồng hành cùng Võ Quảng suốt đời văn, đời thơ của ông. Mỗi một
tác phẩm của Võ Quảng là một thông điệp giáo dục ý nghĩa nhưng không hề khô khan, cứng
nhắc. Tự nhiên và cũng rất giàu tính thẩm mĩ, những thông điệp ấy đã bước ra từ tác phẩm, đi vào
tâm hồn và nhận thức của thiếu nhi. Đó chính là một vẻ đẹp của các tập thơ, truyện và tiểu thuyết
của Võ Quảng.
3.2.2. Thơ, truyện thiếu nhi của Võ Quảng

151
3.2.2.1. Thơ
Võ Quảng là tác giả có rất nhiều tập thơ hay viết cho thiếu nhi. Có thể kể đến Gà mái
hoa (1957), Thấy cái hoa nở (1962), Nắng sớm (1965), Anh Đom Đóm (1970), Măng tre
(1971), Én hát và đu quay (in chung – 1972). Trong những tập thơ này, Võ Quảng đặc biệt
quan tâm đến kiểu nhân vật loài vật và cây cỏ. Từ sự đông đúc của vạn vật trong thơ Võ
Quảng, Ngô Quân Miện đã nhận xét: “Trong thơ anh có một mảng vườn bách thú và bách thảo
mà những em bé nào có cái may mắn được vào đều say mê và yêu thích”. Quả thực, thế giới nghệ
thuật trong thơ Võ Quảng bao giờ cũng thế, đông vui, nhộn nhịp, đáng yêu và tràn đầy cảm hứng
sinh sôi. Với cái nhìn trẻ thơ, Võ Quảng đã thổi hồn vào cây cỏ, muông thú. Bài thơ Mầm non đã
ghi lại sự biến đổi kì diệu của vạn vật khi mùa xuân đến:
Chợt một tiếng chim kêu:
Chiếp, chiu, chiu! Xuân tới!
Tức thì trăm ngọn suối
Nổi róc rách reo mừng
Tức thì ngàn chim muông
Nổi hát ca vang dậy…
Nghe tiếng chim báo hiệu mùa xuân, ngay lập tức trăm ngọn suối, ngàn chim muông reo mừng
cất tiếng ca vang. Bắt được tín hiệu hồi sinh đó, mầm non nhỏ ngày nào còn nép im lìm dưới vỏ cây
bàng cũng vội vã bật chiếc vỏ, kiêu hãnh khoác chiếc áo màu xanh biếc và đứng dậy giữa trời đón
xuân sang. Cả đất trời cứ thế mà xôn xao trong khí sắc vui tươi, đầy sức sống.
Vẻ đẹp của thiên nhiên được Võ Quảng thể hiện tập trung và thành công trong bài thơ Ai
dậy sớm. Thiên nhiên trong thời khắc đầu tiên của ngày mới hiện lên thật rạng rỡ, tinh khôi. Hoa
cau, vừng đông, đất trời là ba đối tượng hội tụ nét đẹp của ba không gian khác nhau: khu vườn,
cánh đồng, đồi núi. Mùi hương ngọt ngào của hoa cau, ánh sáng lấp lánh của vừng đông và sự
trải rộng bao la hứa hẹn nhiều bí mật kì diệu của đất trời chính là phần thưởng ý nghĩa cho những
ai dậy sớm. Không cần thuyết giáo, Võ Quảng chỉ nói thật tự nhiên về sự tinh túy của đất trời
trong buổi bình minh – một vẻ đẹp có sức mời gọi con người đón nhận và chiêm ngưỡng.
Thiên nhiên hay con vật qua tài thơ Võ Quảng đều hiện lên rất sống động. Có lúc ông tìm
đến hướng miêu tả cụ thể, chi tiết:
Con bê lông vàng
Cổ loang màu trắng
Bước đi liến thoắng
Miệng cứ: bê…ê!
(Con bê lông vàng)
Nhưng cũng có lúc, Võ Quảng không cần tả nhiều, chỉ cần chọn lọc một vài chi tiết thôi
nhưng vẫn khắc họa ấn tượng chân dung lẫn tâm lý, tính cách của nhân vật:
Một chị Niềng niễng

152
Hì hục dưới bùn
Một anh Chuồn chuồn
Là là mặt nước
Một chú Nòng nọc
Ngọ ngoậy cái đuôi
Một bác cá Trôi
Xòe vây quạt quạt
(Chú chẫu chàng)
Đọc thơ thiếu nhi Võ Quảng, chúng ta sẽ thấy được nghệ thuật giáo dục đặc sắc của tác
giả. Nhà nghiên cứu Phong Lê nhận diện nghệ thuật ấy thông qua nhận định: “Thơ Võ Quảng
ít nói điều gì cao xa, to tát, trừu tượng. Ông chỉ nói những chuyện nhỏ nhẹ, bình thường, với
giọng khiêm nhường, nhiều khi vui hóm, ngộ nghĩnh. Nhưng mặc dù vậy, hay chính vì vậy,
thơ ông lại rất giàu ý vị giáo dục. Đó là chỗ, theo tôi thật sự là thành đạt trong thơ cho lứa
tuổi thơ của Võ Quảng”. Vốn là người rất quan tâm đến chức năng giáo dục của văn học thiếu
nhi, Võ Quảng càng có ý thức thực hiện chức năng đó một cách thường xuyên và nghệ thuật
trong tác phẩm của mình. Bài thơ sau là một minh chứng cho cách thức giáo dục tinh tế đó:
Sau cơn mưa giông
Nước hồ tràn ngập
Xóm thôn dồn dập
Tiếng nhái, ễnh ương
Vang động chiều sương
Ôn bài, học tập
Nhái học:
- Ọc, học, ọc, học!
Ếch đọc:
- Học tốt, học tốt!
Nhặt khoan ngoài rộc
Tiếng chú ễnh ương:
- Trò ngoan, trò ngoan!
Tiếng chú chẫu chàng:
- Ọc, uộc, học thuộc!
Thi nhau học tập
Học tốt, học chăm
Dưới ánh trăng trong

153
Khắp hồ thắp sáng
(Chăm học)
Không duy trì sự đều đặn về tiết tấu thơ nhưng tính nhạc của bài không vì thế mà mất hút.
Bài thơ xôn xao hẳn lên nhờ sự có mặt đông đúc của những từ tượng thanh. Các con vật đồng loạt
lên tiếng trong thơ. Kết nối những lời nói ngắn gọn của ếch nhái, ễnh ương, chẫu chàng sẽ thấy sự
hiện diện những phát ngôn quen thuộc của không gian trường học, những phát ngôn luôn gắn bó
với những người học trò ngoan như: học, học tốt, học thuộc, trò ngoan. Mượn lời các con vật dễ
thương để trẻ hứng thú thực hiện khẩu hiệu “học tốt, học chăm” là lối đi thông minh, khôn ngoan
của Võ Quảng.
Võ Quảng từng phát biểu: “... Với những mảnh vải thông thường nhà thơ có nhiệm vụ phải
may thành những bức thảm đầy ðủ màu sắc sinh ðộng và tươi vui. Keo vật có mệt là vì những
hạn chế ðó. Và trong keo vật đó, ngừời làm thơ có cảm giác không phải cố dốc hết sức ra, mà có
lúc phải cố sức giảm sức đi, làm nhỏ lại, cố cho thơ trẻ ra và rũ hết những hiểu biết cồng kềnh”.
Bài thơ Chị ru em ngủ thực hiện đầy đủ tinh thần của lời phát biểu ấy:
Chị ru em ngủ...
Cái màn vừa rủ
Cũng đã ngủ rồi!
Chiếc chiếu, tao nôi
Cũng đều ngủ cả!
Cái giàn, cái giá
Cái bát, cái mâm
Thúng mủng, quang, giành
Ngáy theo nhịp thở
Gió về bỡ ngỡ
Dừng lại ngoài hiên
Gió cũng lặng im
Ngủ ngon một giấc
Những lời thơ giản dị, không hề làm dáng. Con người và tạo vật đang chìm vào giấc ngủ
bình yên, mộc mạc. Để tạo khắc ấn tượng về một giấc ngủ đầy hương đồng cỏ nội đó, Võ Quảng
đã rũ hết những hiểu biết cồng kềnh phức tạp, chỉ để trái tim thuở ngày thơ lên tiếng. Ngay lập
tức thế giới sự vật trẻ lại. Từ cái màn, chiếc chiếu, tao nôi đến cái mâm, cái bát, thúng, mủng,
quanh, giành và ngọn gió đều lây lan thuộc tính con người, cùng đưa mình vào giấc ngủ tuổi thơ.
3.2.2.1. Truyện
Cái Thăng (1961), Chỗ cây đa làng (1964), Quê nội (1973), Tảng sáng (1976) và rất nhiều
truyện đồng thoại khác là sự khẳng định tài năng của Võ Quảng ở mảng sáng tác văn xuôi. Trong

154
số đó, Quê nội là tác phẩm, tiêu biểu nhất của ông về đề tài cách mạng tháng Tám. “Tôi thường
chọn viết cho các em những gì tôi yêu thương, quen biết. Tôi hay viết về sự việc ở chốn quê, nơi
tôi từng yêu thương từ nhỏ cho đến khi khôn lớn”. Võ Quảng đã từng tâm sự như thế và với tác
phẩm này ông đã trao nhiệm vụ dẫn đường cho độc giả muôn nơi về mảnh đất Hòa Phước, Quảng
Nam vào một nhân vật trẻ con, đó là thằng Cục. Từ điểm nhìn của người kể chuyện trẻ thơ này,
những mảnh đời, những tấm lòng lần lượt hiện lên chân thực và sống động. Những mảnh ghép
quá khứ và hiện tại cứ đan lồng vào nhau qua cách kể chuyện tự nhiên của nhân vật tôi càng làm
rõ hành trình nghệ thuật của tiểu thuyết này, đó chính là cảm hứng về sự đổi thay – một cảm
hứng chảy tràn từ người đến cảnh, từ những số phận riêng lẻ đến cả một vùng đất. Với cái nhìn
đầy niềm tin về cách mạng tháng Tám, Võ Quảng đã phổ cảm hứng thay da đổi thịt vào từng
trang văn, vào từng vuông đất hẹp của làng Hòa Phước. Bà Kiến – người nghèo nhất thôn, người
từng sống vật vờ không ai để ý nay được Ủy ban xã và làng quan tâm góp tranh tre làm nhà, được
dạy chữ quốc ngữ. Tổng khởi nghĩa đã xóa đi những nỗi sợ hãi truyền kiếp của người dân nơi
đây, trong đó có cả những nỗi sợ rất duy tâm, đó là sợ ma quỷ, thần thánh. Chòm đa Lí âm u –
đại bản doanh của quỷ Năm Nanh có đầu tóc xõa đến đất, miếu Bà Tằm nằm im lìm dưới góc
sung – nơi làm ăn của quỷ Bạch Thố, đó là hai trong số những không gian mà nhân vật Cục sợ
hãi trong những năm tháng tuổi thơ. Thế nhưng, sau cách mạng, quỷ Bạch Thố và quỷ Năm Nanh
đã cuốn gói đi nơi khác để dành chỗ cho dân quân làm bãi tập.
Gần 400 trang truyện đều thấm đẫm tình yêu của nhà văn với quê hương, xứ sở. Phương
ngữ xứ Quảng di cư ồ ạt vào tiểu thuyết làm nên một không gian ấm áp vị quê nhà. Những sinh
hoạt đặc trưng của vùng đất này cũng được nhà văn quan tâm phản ánh. Rất nhiều trang viết được
dành để nói về nghề nuôi tằm, một nghề mà theo lời của ông Trùm Khéo thì: “…đã là dân xứ này
thì không thể không làm tằm. Nghề nông và nghề tằm là căn bổn, “nông tang vi bổn” như thánh
đã dạy. Một người dân không biết làm tằm là ngoại quốc đâu đâu, chớ không phải là người Việt
Nam ta”. Bên cạnh đó, Võ Quảng còn gửi gắm tấm lòng ân tình của mình vào những nhân vật
trong truyện. Có rất nhiều nhân vật được xem là nơi lưu giữ văn hóa dân gian của vùng miền.
Chú Hai được nhắc đến như là người chuyên kể những tuồng tích hát bội. Chú mê hát bội đến
mức quên ăn quên ngủ, “con mắt của chú trũng xuống, sâu bằng cái chén tống, râu ria chú mọc
ra, tóc dài phải búi thành một đùm sau gáy”. Chưa hết, chú còn hô hát bài chòi rất hay. Cùng với
tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng đàn nhị ò e, tiếng mõ lốc cốc và rợp trời cờ ngũ sắc, giọng chú
Hai vang lên trầm bổng, ngân nga. Chú hát từ con bài bát bồng đến con bài ông ầm, con nhứt
nọc, con nhì nghèo, con bạch huê, con tam quăng, con tứ gióng… Không chỉ người dân làng Hòa
Phước, những ai đọc tiểu thuyết này cũng ước ao một lần được trải nghiệm những sinh hoạt văn
hóa ấy.
Cũng bằng tình yêu quê hương, Võ Quảng đã làm đẹp quê hương bằng những dòng văn đầy
chất thơ về xứ Quảng, về dòng Thu Bồn:
“Đất trời năm 1946 trong veo cho đến tháng Chín. Núi Trường Định, hòn Cà Tang vẫn
xanh. Đến thu, vài hạt mưa bay. Đến tháng Mười có gió heo may, có mây mù. Mưa lại đổ. Con

155
sông Thu Bồn lại phềnh ra, đổi màu xanh sang màu vàng. Nhưng chỉ hơn một tháng sau nước lại
xanh leo lẻo. Vạn Hòa Phước trong veo, thấy được từng hòn sỏi dưới đáy nước…”
Nắm bắt tinh tế cái trở mình của thiên nhiên qua nhịp chuyển thời gian, Võ Quảng gợi được
nỗi nhớ thương quê hương vời vợi trong từng trang viết. Hai nhân vật nhí của truyện: Cục và Cù
Lao có thể xem là sự trở về tuổi thơ của chính nhà văn. “Ở Cục và Cù Lao, quả Võ Quảng đã
“phát hiện được một cái gì thật nghiêm trang và hệ trọng, và cũng thật là điển hình cho cả một thế
hệ trẻ thơ, trong cái vẻ riêng ngộ nghĩnh, không lặp lại của nó” (Phong Lê). Từ những đứa trẻ
nghịch trổ trời với trò giật lá trong những chiều chăn trâu, hồn nhiên vụng dại với suy nghĩ: “bọn
Pháp quay lại ở Nam Bộ có nghĩa là chúng đã đi rồi, nhưng vì chúng còn quên cái gì nên quay lại
để lấy’, chúng đã lớn dần lên cùng quê hương, cùng hòa vào dòng chảy cách mạng tự nhiên lúc
nào không hay. Chính chúng đã góp một phần tâm lực vào sự đổi thay của xứ sở, làm nên cái kết
đầy chất trữ tình của tiểu thuyết:
“Tôi nhìn ra xa. Mưa tạnh! Quê nội thương yêu dần dần hiện ra rực rỡ! Sông Thu Bồn vẫn
long lanh. Núi Phước Tường, dãy Cu Ðê, núi Cà Tang, Hòn Ðền hiện lên thành một dãy dài như
những anh em bá vai nhau đi về một phía. Sông với núi với bãi dâu cồn cát càng thấy rõ nét, như
xích gần nhau lại”.
Một lần nữa, những tên đất tên làng lại rạng rỡ trên trang văn trong cái ấm nồng của tình
người xứ Quảng.
3.3. TÔ HOÀI VỚI DẾ MÈN PHIÊU LƯU KÍ
3.3.1. Tác giả
Tô Hoài sinh năm 1920 trong một gia đình làm nghề dệt lụa ở làng Nghĩa Đô, phủ Hoài
Đức, tỉnh Hà Đông. Địa danh này về sau đã trở thành vùng thẩm mĩ ám ảnh những sáng tác của
nhà văn. Tô Hoài chỉ học hết bậc tiểu học, còn sau đó là thời gian lăn lộn với trường đời. Ông
tham gia cách mạng từ thời Mặt trận dân chủ 1938, gia nhập tổ văn hóa cứu quốc đầu tiên ở Hà
Nội (1943) và đã giữ nhiều chức vụ quan trọng ở các cơ quan báo chí văn nghệ như: Tổng thư ký
hội nhà văn Việt Nam, Chủ tịch hội văn nghệ Hà Nội, Giám đốc nhà xuất bản Hội nhà văn…
Trên hành trình nghệ thuật của mình, Tô Hoài đã cho ra đời một số lượng tác phẩm đồ sộ.
Ông thử sức ở rất nhiều thể loại như: tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, tiểu luận… và thể loại nào ông
cũng có thành tựu. Chính nhà văn đã bộc bạch: “Tôi vào nghề văn có trong ngoài ba năm trước
cách mạng tháng Tám 1945 mà tôi viết như chạy thi được năm truyện dài, truyện vừa, ba tập
truyện ngắn, còn truyện thiếu nhi như Dế Mèn thì mấy chục truyện, cái in, cái chưa in, vương vãi
lung tung tôi không nhớ hết”. Trước cách mạng tháng Tám, Tô Hoài chủ yếu khai thác đề tài về
loài vật và đề tài về nông thôn nghèo. Dế Mèn phiêu lưu kí, Võ sĩ Bọ Ngựa, Đám cưới chuột, Ông
cúm bà co, Xóm giếng ngày xưa… là những tác phẩm đã thể hiện tốt hai phạm vi hiện thực ấy.
Sau cách mạng, ngòi bút của ông vươn đến nhiều vùng đất, nhiều cảnh đời, đặc biệt là những số
phận nơi miền núi Tây Bắc xa xôi. “Người miền Tây đã để thương, để nhớ cho tôi nhiều quá” và
đã khơi nguồn sáng tạo lâu dài cho nhà văn. Giải nhất giải thưởng Văn nghệ năm 1954 – 1955
với tập truyện Tây Bắc, giải A giải thưởng Hội văn nghệ Hà Nội năm 1970 với tiểu thuyết Quê

156
nhà, giải thưởng Hội nhà văn Á – Phi năm 1970 với tiểu thuyết Miền Tây, giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa nghệ thuật năm 1996… đó là sự vinh danh của bạn đọc đối với đời văn miệt mài
của Tô Hoài.
Bên cạnh những thành công ở mảng sáng tác cho người lớn, Tô Hoài cũng rất thành công ở
mảng văn học dành cho thiếu nhi, đặc biệt là thể đồng thoại. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng đi
vào nhiều trang truyện thiếu nhi của ông như: Vừ A Dính, Kim Đồng… Cái chết của nhân vật
chính ở kết thúc của những tác phẩm này đã thể hiện mạnh mẽ lòng yêu nước, căm thù giặc của
thiếu nhi Việt Nam ở các dân tộc miền núi Tây Bắc nói riêng và cả dân tộc Việt Nam nói chung.
Không chỉ khai thác cảm hứng từ những nhân vật lịch sử có thật, Tô Hoài còn có biệt tài “giả lịch
sử” để viết những câu chuyện mang không khí truyền thuyết và thần thoại như Đảo hoang, Nhà
Chử, Chuyện nỏ thần… Trường sức và đều tay, đó là điều dễ nhận thấy ở con đường nghệ thuật của
nhà văn. Đọng lại trong tâm trí nhiều thế hệ là một nhà văn có năng lực quan sát và miêu tả tinh tế,
có vốn hiểu biết sâu rộng về phong tục tập quán các dân tộc và rất có ý thức làm đẹp ngôn từ nghệ
thuật. “Mỗi chữ phải là một hạt ngọc buông xuống những trang bản thảo, hạt ngọc mới nhất của
mình tìm được, do phong cách văn chương của mình mà có”. Từ quan niệm ấy, Tô Hoài đã nỗ lực
làm đẹp trang văn của mình.
3.3.2. Tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí
Nhắc đến sáng tác của Tô Hoài là nhắc đến hai vùng thẩm mĩ ấn tượng: không gian Tây
Bắc và không gian của làng Nghĩa Đô. Tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí dẫu là viết về thế giới loài
vật nhưng cũng không ra khỏi từ trường của không gian quen thuộc đó. Không gian làng quê
trong tác phẩm chính là khúc xạ của cánh bãi Cơm Thi - mảnh đất quê ngoại thân thương. Cái "xã
hội tự nhiên mà ở đó con trẻ, cỏ cây, chim muông và những con vật nho nhỏ xiết bao thân thiết
và gần gũi về anh", nơi anh đã suốt ngày mê say trong êm đềm tuổi thơ với trò đúc dế, chơi chọi
dế... đã bước chân vào thế giới nghệ thuật của người con sinh ra bên dòng sông Tô Lịch một cách
thật tự nhiên và dung dị.
"Dế Mèn phiêu lưu kí là một thế giới đầy màu sắc, âm thanh và luôn luôn chuyển động".
Nhận định của Vân Thanh thật chính xác. Quả thực, tài năng quan sát và miêu tả tinh tế đã tạo
nên cho tác phẩm một vùng thẩm mĩ thật lung linh, sống động về màu sắc, thanh âm và đường
nét. Cùng với sự vận động của không gian, thế giới được mở ra thật sinh động. Chính Dế Mèn
cũng thừa nhận rằng: "Phong cảnh đổi thay đủ điều ngoạn mục". Là màu xanh của cỏ, màu nắng
vàng rải lên cây vàng tươi đến lạ lùng, màu bạc của nước trắng mênh mang, màu hoa ké vàng
rượi. Là sắc trắng bàng bạc, xam xám những ngù cỏ may khắp miền, là màu áo đỏ áo xanh mớ ba
mớ bảy của những chị Cào Cào... Là tiếng mưa rơi như đánh trống trên tàu chuối, là tiếng nước
óc ách chảy như tiếng đàn thảnh thơi ai gảy dưới gầm bè, là tiếng chim hót ơi ới trên cành, tiếng
ong rạo rực tìm hoa làm mật, lời ca trong trẻo ngân mãi vào rừng xanh để gọi mùa xuân của các
cô Bướm... Tất cả đã làm nên một xã hội loài vật sinh động, đông đảo.
Toàn bộ mười chương truyện đã được thuật lại từ điểm nhìn của chính người trong cuộc và
cũng là nhân vật chính trong xã hội loài vật đông đảo ấy, đó là Dế Mèn. Từ hành trình phiêu lưu

157
của Dế Mèn có thể thấy được mối quan hệ giữa thi pháp nhân vật với thi pháp không gian mà nhà
văn thể hiện trong tác phẩm. Không gian đã quy định rất rõ tính cách của nhân vật, là điểm nhìn
để người đọc nhìn sâu hơn những góc tâm hồn của Dế Mèn. Chương mở đầu của thiên đồng thoại
này có tên là: Tôi sống độc lập từ thủa bé – Một sự ngỗ nghịch đáng ân hận suốt đời. Cuộc sống
tự lập nhàn tản bên bờ ruộng đã cho Dế Mèn những giây phút khoan khoái, tự hào. Nhưng cũng
trong chính không gian này, Dế Mèn đã trở nên hống hách, hung hăng, ngông cuồng. Nó dám
cà khịa với tất cả những ai trong xóm. Nó quát mấy chị Cào Cào ngụ ngoài đầu bờ khiến các
chị phải giấu khuôn mặt trái xoan dưới nhánh cỏ, chỉ được đưa mắt lên nhìn trộm… Dế Mèn
không biết rằng, hung hăng hống hách chỉ tổ đem thân mà trả nợ những cử chỉ ngu dại của
mình thôi. Và cái chết thương tâm của Dế Choắt chính là câu chuyện buồn đầu tiên mà nhân
vật này đã ghi nhớ suốt đời. Khi đứng trước nấm mộ của người hàng xóm tội nghiệp ấy, Dế
Mèn đã lặng đi trong bài học đường đời đầu tiên.
Vào một buổi sáng mùa hè, một cuộc phiêu lưu bất ngờ xảy đến với Dế Mèn. Cuộc “đúc
dế” thành công của những bạn nhỏ đồng nghĩa với việc Dế Mèn buộc lòng phải rời xa nơi ăn
chốn ở thân thuộc, bị giam vào cái lồng tre vốn để đựng châu chấu, có cửa với then gài chắc
chắn. Trong cái "lồng tù" ấy, nhân vật chính của truyện đã quay trở lại tâm tính ngông nghênh
dạo trước. Chỉ đến khi bị bác Xiến Tóc trừng phạt, Dế Mèn mới thực sự tỉnh ngộ. Cuộc gặp gỡ
với bác Xiến tóc cùng với việc bị xén cụt hai sợi râu mượt óng trên đầu đã đưa đến cho Mèn "bài
học mới vừa đắt vừa đau". Nhờ đó mà Mèn tỉnh ngộ, mới nhận ra thân phận của một kẻ đi đánh
thuê để làm trò cười cho thiên hạ, mới thoát ra khỏi giấc mê cuộc đời. Nói cách khác, từ cuộc gặp
gỡ ấy, Mèn đã lột xác về thể chất lẫn tinh thần để trở thành một Dế Mèn mới. Phút thức tỉnh ấy
đã mở ra con đường trở về nhà. Trở về nhà giờ đây không phải là trở về với không gian tầm
thường, tù túng ngày trước mà cốt là để thăm lại những người thân, để chuẩn bị cho việc phá vỡ
không gian đời thường và bước chân vào con đường phiêu lưu. Đi bởi mặt đất này bao la lắm,
không chỉ là cái bờ ruộng, đầm nước quê mình. Mèn không thể cứ nhìn trời, nhìn đời qua khe cỏ
ấu như trước được. Mèn không muốn cho đến lúc nhắm mắt vẫn phải ân hận vì chẳng biết cuối
cánh đồng mênh mông kia còn những gì lạ và cuộc đời ở đấy ra sao. Hơn nữa, "đời trai mà không
biết bay nhảy, không biết đó đây thì cuộc sống sẽ nhạt nhẽo lắm". Con đường về nhà xa lơ xa lắc
chính kiến hành động Mèn ra tay bảo vệ cô Nhà Trò yếu ớt trước vòng vây của bọn Nhện ăn thịt.
Mèn đã rất hoan hỉ vì "đã làm được việc đầu tiên có ích trong đời ". Một lẽ sống mới đã hình
thành trong nhân vật, khi Mèn dõng dạc tuyên bố với bọn Nhện: "Ở đời, thù hằn, độc ác làm gì".
Kể từ sự kiện này trở đi thì Mèn đã rong ruổi trên bước đường phiêu lưu và hình thành những
nhân cách mới: khát khao khám phá, trọng nghĩa tình, khinh danh lợi… Giã từ không gian quê
nhà bình yên nhưng tù túng, Dế Mèn bước chân vào không gian tha hương. Mỗi bước chân là
mỗi đổi thay. Mỗi thời khắc lại gặp một cảnh mới. Bao vùng quê mới lạ với bao phong tục tốt
đẹp, bao con đường đầy thử thách và hiểm họa đã xuất hiện. Những cánh đồng lớn, những bãi
hoang, những dòng sông xinh đẹp với hai bờ cỏ xanh non tươi, những quãng nước mênh mông hun
hút chẳng thấy bờ chỉ thấy sóng nối nhau nổi lên như trái núi trước mặt, xóm bùn lầy nước đọng ở
trong cù lao, những cánh rừng cỏ may... Đôi bạn ấy đã trải qua những đêm trời trở gió, chơ vơ giữa

158
trời nước, đã từng đi mịt mờ dưới bóng hoa may với một màu trắng bàng bạc, xam xám... Không
gian liên tục thay đổi, càng lúc càng mở rộng tạo nên bức tranh liên hoàn của hành trình phiêu lưu.
Tô Hoài đã xây dựng không gian cản trở, rất đúng với tính chất của truyện phiêu lưu. Không gian
ấy đã tạo điều kiện cho Dế Mèn nảy nở và phát triển những tố chất mới. Trên mỗi chặng đường đời,
Dế Mèn đã phải thay đổi cách nghĩ, thay đổi tính cách để phù hợp với hoàn cảnh sống.
Sau hành trình phiêu bạt, đã từng lạc vào xứ sở của Đại vương ếch Cốm, vào thành lũy
hiểm hóc của họ nhà Kiến, Dế Mèn đã thực hiện được lí tưởng của mình. Một thế giới hòa bình,
đại đồng đã được thiết lập. Truyện khép lại với hành trình trở lại quê nhà của Dế Mèn. Tưởng
như không gian truyện sẽ quay trở lại điểm xuất phát. Nhưng không gian cũ mà con người thì đã
lột xác. Bây giờ chú đã có thể thư thái lòng, "nằm duỗi chân nhìn lên qua khe cỏ ấu, thấy mảnh
trời biếc như ước vọng đời mình đương bay xa".
Qua những cuộc phiêu lưu bất đắc dĩ hay tự nguyện thì Dế Mèn đã lần lượt bước chân vào
thế giới loài người và thế giới loài vật. Dần dần, Mèn đã lột xác, trưởng thành về nhận thức và
tính cách. Tinh thần thượng võ, khát vọng khám phá thế giới, ước mơ về thế giới đại đồng... đó là
những nét mới của nhân vật này. Mô tả hành trình phiêu lưu của Dế Mèn qua nhiều không gian
như vậy, nhà văn Tô Hoài muốn gửi đến thông điệp: Tuổi trẻ phải có những lí tưởng đẹp, không
được bằng lòng với cuộc sống tầm thường, chật hẹp mà phải biết khám phá cuộc sống rộng lớn
và phải hướng đến xây dựng một thế giới đại đồng.
Dế Mèn phiêu lưu kí là thiên đồng thoại xuất sắc nhất mà Tô Hoài đã ban tặng cho con trẻ.
Tác giả thành công trong việc sử dụng nghệ thuật nhân hóa, một phương tiện nghệ thuật đắc dụng
của truyện đồng thoại. Thế giới loài vật xôn xao lên, sống động lên từ nghệ thuật này: “Mấy hôm
nọ, trời mưa lớn, trên những hồ ao quanh bãi trước mặt, nước dâng trắng mênh mông… Thế là
bao nhiêu cò, sếu, vạc, cốc, le, sâm cầm, vịt trời, bồ nông, mòng, két ở các bãi sông xơ xác tận
đâu cũng bay về vùng nước mới để kiếm mồi. Suốt ngày, họ cãi cọ om sòm bốn góc đầm, có khi
chỉ tranh một mồi tép. Có những anh Cò gầy vêu vao ngày ngày bì bõm bùn tím cả chân mà vẫn
hếch mỏ, chẳng được miếng nào. Khổ quá, những kẻ yếu đuối, vật lộn cật lực thế mà cũng không
sống nổi. Tôi đứng trong bóng nắng chiều tỏa xuống ánh nước cửa hang mà suy nghĩ việc đời
như thế”. Những dòng văn như thế thể hiện năng lực tưởng tượng phong phú của nhà văn cũng
như khả năng thấu hiểu đặc điểm tâm lí trẻ. Không thấy đâu là ranh giới giữa thế giới người và
vật trong tác phẩm. Rất nhiều lần nhà văn để cho nhân vật chính độc thoai nội tâm: “Tôi thở dài,
thầm nghĩ: - Hôm trước ta đã vướng điều lầm lỗi, bây giờ lại mắc lỗi nữa… Ôi, ta hèn quá. Cũng
may bác Xiến Tóc không giết ngoén ngay ta đi. Mới biết đời này hồ dễ ai bắt nạt nổi ai. Ta đánh
kẻ yếu hơn ta thì kẻ khác mạnh hơn ta đánh ta. Thôi, thôi giấc mê kia đã tỉnh ra rồi”… Đúng như
nhận định của nhà nghiên cứu Hà Minh Đức, “Tô Hoài có khả năng làm hiện hình rõ nét những
bức tranh sinh động về cuộc sống con người và thiên nhiên”.
Bên cạnh đó, nghệ thuật miêu tả của truyện cho thấy rõ sự dụng công của người viết. Mỗi
một nhân vật là một vệt chân dung riêng có, không trùng lặp. Biệt tài của nhà văn là chỉ một vài

159
nét phác thảo đã nhanh chóng đóng đinh ngay hình hài và tính cách nhân vật. Hãy xem cách ông
miêu tả nhân vật Dế Choắt:
“Cái chàng Dế Choắt, người gày gò và dài lêu nghêu như một gã nghiện thuốc phiện. Đã
thanh niên rồi mà cánh chỉ ngắn củn đến giữa lưng, hở cả mạng sườn như người cởi trần mặc áo
ghi lê. Đôi càng bè bè, nặng nề, trông đến xấu. Râu ria gì mà cụt có một mẩu, và mặt mũi thì lúc
nào cũng ngẩn ngẩn ngơ ngơ. Đã vậy, tính nết lại ăn sổi ở thì…”.
Cứ thế, truyện hấp dẫn người đọc bằng lối kể thông minh, dí dỏm, hóm hỉnh nhưng cũng
rất giàu chất thơ. Tác giả đã mở ra trước mắt độc giả biết bao nhiêu lần những bức tranh phong
cảnh nên thơ. Kết thúc thiên ký sự, Tô Hoài cũng tìm về cảm hứng trữ tình ấy: “Giờ đương mùa
thu. Mùa thu, hoa cúc vàng nở lưng giậu. Lối mòn đầy lá đỏ rơi. Từ hôm vào mùa mới, đất trời u
ám mưa phùn. Cảnh buồn mà lòng vui”.
3.4. PHẠM HỔ VỚI NHỮNG SÁNG TÁC THƠ CHO THIẾU NHI
3.4.1. Tác giả
Phạm Hổ sinh ngày 28 tháng 11 năm 1926 ở xã Nhơn An, huyện An Nhơn, Bình Định.
Vùng đất này là nơi gặp gỡ nhiều tài năng thơ như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử…
Phạm Hổ còn được biết đến với bút danh Hồ Huy. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền
thống văn học nên ông sớm nuôi dưỡng tình yêu với nghiệp văn. Cách mạng tháng Tám thành
công, Phạm Hổ tham gia hoạt động tuyên truyền tại Quy Nhơn, sau đó làm thư ký thường trực ở
Chi hội văn hóa cứu quốc Bình Định. Nhà thơ Trần Mai Ninh, Chi hội trưởng của Chi hội văn
hóa cứu quốc đã có những ảnh hưởng tích cực với con đường nghệ thuật của Phạm Hổ về sau.
Trong cuộc đời của mình, Phạm Hổ đã từng làm biên tập viên báo tin tức Bình Định, làm ủy viên
Ban chấp hành Đoàn hội họa liên khu năm, làm công tác đối ngoại ở Hội văn nghệ Trung ương.
Ông là một thành viên tích cực góp phần sáng lập nhà xuất bản Kim Đồng vào năm 1957. Tâm
huyết và đóng góp của ông cho văn học thiếu nhi nước nhà là rất lớn. Năm 1983, ông đã tham gia
công tác tại Hội nhà văn, tiểu ban văn học thiếu nhi. Sau đó, vào năm 1994, ông là Chủ tịch Hội
đồng văn học thiếu nhi.
Tên tuổi Phạm Hổ gắn liền với văn học thiếu nhi. Ông phát biểu: “Đối với tôi, được viết
cho các em là cả một hạnh phúc”; "Nếu được sống thêm một lần nữa, tôi vẫn chọn nghề cũ: làm
thơ, viết văn cho các em đọc, còn vẽ tranh cho các em xem nữa". Và quả thực, trong quãng đời
cầm bút của mình, ông đã viết rất nhiều tác phẩm cho các em, những tác phẩm như “những hòn
bi xanh đỏ các em chơi/ Như những quả quýt, quả na/ Các em tay bóc vỏ, miệng cười”. Tình yêu
ấy, hạnh phúc ấy ông gửi cả vào thơ, vào truyện, vào kịch. Trọn một đời văn, ông đã viết 25 tập
thơ, 35 tập truyện, 10 kịch bản sân khấu và phim hoạt hình cho thiếu nhi. Những giải thưởng mà
ông nhận được trong sự nghiệp sáng tác của mình cũng đều liên quan đến những tác phẩm dành
riêng cho tuổi nhỏ. Đó là tập thơ Chú bò tìm bạn – Giải A cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi
(1957 – 1958), tập thơ Chú vịt bông - Giải A cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi (1967 – 1968),
tập thơ Những người bạn im lặng – Giải chính thức về thơ viết cho thiếu nhi của Hội đồng Văn

160
học thiếu nhi, Hội nhà văn Việt Nam (1985), vở kịch Nàng tiên nhỏ thành Ốc – Giải thưởng cuộc
thi sáng tác kịch bản cho thiếu nhi do Hội nghệ sĩ sân khấu tổ chức (1986). Năm 2001, ông đã
được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (đợt 1)… Từ những sáng tác trên, người
đọc nhận diện được một Phạm Hổ yêu trẻ, yêu đời một cách đôn hậu, một Phạm Hổ với trí
tưởng tượng dồi dào và cũng rất đỗi kì diệu. Trần Đăng Khoa gọi ông là người ở xứ thần tiên
cũng là vì điều kì diệu đó. Rạng sáng ngày 5 tháng 5 năm 2007, người viết nên huyền thoại về
chuyện hoa, chuyện quả cho thiếu nhi đã qua đời sau những cơn đau kéo dài suốt ba năm.
3.4.2. Thơ Phạm Hổ
Phạm Hổ là một người rất đa tài. Ông được mọi người biết đến với vai trò của một dịch giả,
một họa sĩ, một nhà thơ, một nhà viết kịch… Tuy nhiên, thơ là thể loại Phạm Hổ dành nhiều tâm
huyết hơn cả. Ông từng quan niệm, tôi học vẽ chỉ cốt để làm thơ hay hơn mà thôi. Với hơn mười
tập thơ viết cho các em, Phạm Hổ trở thành người bạn thân thiết với tuổi thơ Việt Nam nhiều thế
hệ. Trong thơ Phạm Hổ, gương mặt tâm hồn của thiếu nhi hiện lên thật đáng yêu qua đời sống
của những người bạn nhỏ (chó, mèo, gà, thỏ, dê, bò…), những người bạn trong vườn (chuối,
nhãn, dừa, cam, bưởi…), những người bạn im lặng (đinh, chổi, que đan, bảng chỉ đường…),
những người bạn hay kêu (tàu hỏa, xe chữa cháy, máy khâu, rađiô)… Phạm Hổ có một phẩm chất
của những người sáng tác cho thiếu nhi là biết cách làm bé mình lại để nhìn đời bằng cái nhìn
trong veo, tin cậy của trẻ thơ. Về với thơ Phạm Hổ là về với thời ấu thơ của cuộc đời, hồn nhiên
và vụng dại. Đọc bài thơ Chú bò tìm bạn, người đọc có những ngỡ ngàng thi vị trước sự ngờ
nghệch dễ thương của nhân vật:
Bóng bò chợt tan biến
Bò tưởng bạn đi đâu
Cứ ngoái trước nhìn sau
Ậm… ò tìm gọi mãi
Đây là một bài thơ hay mà Phạm Hổ đã ban tặng cho trẻ thơ. Ông nâng niu sự ngây thơ,
hồn nhiên của các em như một phẩm vật quý của đời và luôn thể hiện nó trong các tác phẩm của
mình. Ở một tác phẩm khác, trò chơi ú tim của đôi bạn mèo và chó được nhà thơ kết thúc với chi
tiết:
Bỗng kìa chỗ khe tủ
Chó để lộ cái đuôi
Rón rén mèo đến nơi
Òa chộp ngay lưng bạn

Chó vẫn thú vị lắm


Cứ nhe răng ra cười
Không, mình nấp giỏi thật

161
Lỗi chỉ tại cái đuôi
(Chơi ú tim)
Viết về thế giới tâm hồn trẻ, còn gì hay và thú vị hơn thế. Người đọc nghiêm khắc cũng khó
lòng ngăn tiếng cười bật ra.
Cảm nhận chung dễ nhận thấy trong thế giới thơ Phạm Hổ là bầu không khí thân thương
của tình bầu bạn. Dẫu viết về cây, về con vật hay đồ vật, Phạm Hổ cũng đều khai thác xúc cảm về
tình bạn trong đối tượng. Câu chuyện của Rế và Chảo là một sự khám phá mới mẻ nhưng rất đỗi
ấm áp, nhân văn:
Ôm lấy nồi, lấy chảo
Rế như cái đài hoa
Chảo, nồi đang bận nấu
Rế ngồi bên đợi chờ….
(Rế)
Hành động chờ đợi của Rế để được ôm lấy những người bạn của mình trong tình thân ngay
lập tức đã trả cho sự vật vô tri vô giác này thuộc tính tâm lí rất đặc trưng của con người. Những
đài hoa đẹp kiểu như Rế cứ thế không ngừng xuất hiện trong thơ Phạm Hổ, đặc biệt trong những
tập thơ mà chủ đề tình bạn được nhấn mạnh ngay từ nhan đề như: Chú bò tìm bạn, Bạn trong
vườn, Những người bạn im lặng, Những người bạn ồn ào…
Không phải đến Phạm Hổ, tình bạn mới trở thành một chủ đề của thơ. Thế nhưng, có thể
nói Phạm Hổ là người ý thức rõ nhất và thể hiện tập trung nhất cảm hứng này trong sáng tác của
mình. Bên cạnh đó, thơ Phạm Hổ còn mở ra những tri thức giản đơn về thế giới cho các em. Tác
giả đã lồng ghép kiến thức phổ thông về các sự vật hiện tượng vào thơ rất tự nhiên. Bắp cải xanh
là một bài thơ như thế:
Bắp cải xanh
Xanh mát mắt
Lá cải sắp
Sắp vòng tròn
Búp cải non
Nằm ngủ giữa.
Ở bài thơ này, Phạm Hổ đã làm rất tốt công việc của một nhà sinh học, đã giới thiệu cho
các em hình dáng, đặc điểm của bắp cải. Hình thức thơ đều đặn, vần vè mang phong vị đồng dao
càng làm cho trẻ thích thú trước những thông tin bổ ích đấy.
Dẫu viết truyện hay làm thơ, Phạm Hổ đều có khả năng tạo nên thế giới thần tiên trong thơ
mình. Thơ Phạm Hổ đã làm sống lại không khí của những câu chuyện kể dân gian bằng cách khai
thác những thi liệu đã từng xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích, truyền thuyết như quả thị, quả
khế, quả dưa hấu…:

162
… Bà kể thị này
Ngày xưa cô Tấm
Chui vào đây trốn
Đợi ngày gặp vua
(Thị)
Không chỉ thế, rất nhiều bài thơ của Phạm Hổ mang dáng dấp của truyện ngụ ngôn và
truyện cổ tích loài vật. Ở bài thơ Bồ câu và Ngan, tác giả mượn cuộc trò chuyện của những con
vật để gá gửi bài học giáo dục đến trẻ em:
Ngan giờ mới gạ chuyện:
-"Thóc đẻ đấy thật à?"
Bồ Câu cười rồi đáp:
- Chết! Tôi đùa đấy mà!
Thóc nào thóc lại đẻ!
Chỉ có công sức ta
Nhặt mỗi ngày một ít
Dồn lại hóa nhiều ra!"
Đưa yếu tố truyện vào thơ là một đặc trưng nữa của thơ Phạm Hổ. Tác giả đã tổ chức rất
nhiều bài thơ theo kết cấu của tác phẩm tự sự. Điều đó đồng nghĩa với việc để cho nhân vật vận
động trên mối quan hệ liên tục của chuỗi sự kiện và làm cho nhân vật đầy đặn hơn về xuất thân,
diện mạo, hành động, tính cách… Gấu đen là một ví dụ cho sự kết hợp thi pháp giữa thơ và
truyện:
Gấu đen chụp ảnh
Gửi tặng bạn thân
Gấu trắng, thợ giỏi
“Tách” cái, chụp xong
Lúc nhận ảnh xem
Gấu đen trợn mắt:
- Sao mình bé choắt
Lại cụt cả chân!
Chụp chẳng nên thân
Này đây, trả cậu!
(Gấu đen)
Tổ chức bài thơ theo kết cấu hỏi đáp cũng là lối đi thường tình của nhà thơ này. Hiện tượng
tương tác lượt lời thường xuyên diễn ra, làm cho thơ Phạm Hổ càng giàu âm thanh và nhạc điệu.

163
Trong những cuộc đối thoại ngắn này, trẻ con hiện lên với tất cả khát vọng muốn khám phá thế
giới tự nhiên, luôn nhìn cuộc sống với cái nhìn ngỡ ngàng, tò mò:
Sao kim phút chạy nhanh
Kim giờ lại chạy chậm ?
(Kim đồng hồ)
Chị ơi, vì sao
Hoa hồng lại khóc
(Bướm em hỏi chị)
Với những bài thơ được xây dựng theo cấu trúc tương tác lượt lời như thế, kết thúc bất ngờ
thường xuyên xuất hiện. Đây được xem là sự chuyển vị thành công một thủ pháp rất đặc trưng
của thể loại truyện ngắn. Cách nhìn đời tinh khôi, tươi non của Phạm Hổ đưa đến những lời giải
thích thú vị, nằm ngoài trường liên tưởng quen thuộc của người đọc. Cắt nghĩa cho hiện tượng
chênh lệch về tốc độ chạy của kim giờ và kim phút, tác giả viết:
Vì kim phút chân dài
Còn kim giờ chân ngắn.
Tiêu biểu cho những câu chuyện thơ có kết cấu bất ngờ chính là Ngủ rồi:
Gà mẹ hỏi con:
Ngủ chưa đấy hả?
Cả đàn nhao nhao:
Ngủ rồi đấy ạ!
Khi câu đối thoại cuối vang lên cũng chính là lúc sự hồn nhiên của nhân vật hiện ra trọn vẹn
nhất. Những chú gà con với lời nói dối tập thể dễ thương đã tạo nên vĩ thanh ấn tượng cho bài thơ rất
ngắn này. Những ai đã từng là trẻ con đều gặp lại chính mình trong câu trả lời nhanh nhảu đáng yêu
ấy.
Với những đặc sắc nghệ thuật trên, thơ Phạm Hổ đã làm rất tốt chức năng giáo dục, hoàn
thiện tâm hồn trẻ. Bài thơ Cô dạy là một trong những bài thơ như thế:
Mẹ, mẹ ơi ! Cô dạy:
Phải giữ gìn đôi tay
Bàn tay mà dây bẩn
Sách, áo cũng bẩn ngay

Mẹ, mẹ ơi ! Cô dạy:
Cãi nhau là không vui
Cái miệng nó xinh thế
Chỉ nói điều hay thôi.

164
Mượn phát ngôn của cô giáo để chuyển thông điệp giáo dục là thêm một lần nữa Phạm Hổ
thể hiện sự khôn ngoan của mình. Ông hiểu được vị trí của giáo viên đối với trẻ và mượn chính
giáo viên làm người phát ngôn cho mong muốn và ước vọng mà mình muốn gửi đến các em thơ.
Cứ thế, Phạm Hổ dẫn ta đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác trên hành trình về với thế giới thần
tiên của con trẻ.
3.5. TRẦN ĐĂNG KHOA VỚI GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI
3.5.1. Tác giả
Trần Đăng Khoa sinh ngày 26 tháng 4 năm 1958 ở làng Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện
Nam Sách, tỉnh Hải Hưng. Gia đình anh là một gia đình nông dân nhưng có tình yêu và có truyền
thống văn học. Tình yêu văn thơ của những người thân, đặc biệt là người mẹ và anh trai Trần
Nhuận Minh đã chảy vào tâm linh cậu bé Khoa. Nguồn cội ấy bắt gặp sự nhạy cảm, sáng tạo của
một người sớm có tư chất nghệ sĩ, cùng với sự giúp đỡ dìu dắt của những nhà thơ, nhà nghiên
cứu lớn như Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Đăng Mạnh… đã làm thăng hoa một hồn thơ tinh tế
và phảng phất hương vị ca dao. Ngay từ lúc còn nhỏ, anh đã nổi lên như một hiện tượng thơ đặc
biệt. Năm 8 tuổi, tài năng thơ của Khoa đã đến với mọi người. Tập Góc sân và khoảng trời ra đời
đã khẳng định vị trí của thi sĩ nhỏ tuổi này. Xuân Diệu đã nhận định rằng: "Hàng ngàn em nhỏ cất
tiếng gáy ò...ó...o ở khắp nơi, Khoa ở trung tâm của cuộc đồng ca vang tương lai ấy".
Ngày 26 tháng 2 năm 1975, Trần Đăng Khoa nhập ngũ. Sau một thời gian ngắn sống cuộc
đời quân ngũ, Trần Đăng Khoa theo học trường viết văn Nguyễn Du. Ông được cử sang học tại
Viện Văn học Thế giới M. Gorki thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Nga. Sau khi về nước,
ông làm biên tập viên Văn nghệ quân đội, làm trưởng Ban Văn học Nghệ thuật Đài Tiếng nói
Việt Nam… Hiện nay, ông là Phó Bí thư Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam VOV.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Trần Đăng Khoa đã có những tập thơ hay viết cho
thiếu nhi như:
- Từ góc sân nhà em (1968).
- Góc sân và khoảng trời (1968).
- Khúc hát người anh hùng (1974).
Và giải thưởng của Bộ thương binh và xã hội Việt Nam cho trường ca Khúc hát người anh
hùng vào năm 1975, giải A cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1982 với bài thơ Đợi mưa trên đảo
sinh tồn..., giải thưởng Nhà nước năm 2000 là sự tôn vinh của người đọc đối với tài năng thơ này.
3.5.2. Tập thơ Góc sân và khoảng trời
Góc sân và khoảng trời là hoa trái đầu mùa rất ngọt ngào của mười hai bến nước đời thơ
Trần Đăng Khoa. Thi nhân nhỏ tuổi ấy đã mang không khí, thần thái của làng quê, đem cả hương
đồng gió nội của vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ phì nhiêu vào cả trong thơ, lấy đó làm phông
nền cho mọi hình tượng và xúc cảm nghệ thuật tinh khôi, hồn nhiên mà cũng rất đằm sâu. Không
phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định rằng: "Làng quê đã tạo nên thơ Khoa từ
màu sắc đến linh hồn". Cậu bé nhỏ tuổi mà tuổi thơ chưa đi quá lũy tre làng này đã viết về làng

165
quê với niềm say mê bất tận. Từ đây, bạn yêu thơ đã gặp được những ám ảnh dịu ngọt về không
gian đời thường của nông thôn Việt Nam trong thơ Khoa. Mùa thu Bắc bộ trong thơ Khoa đủ sức
làm nên một khoảng trời riêng:
Mặt trời lặn xuống bờ ao
Ngọn khói xanh lên, lúng liếng
Vườn sau gió chẳng đuổi nhau
Lá vẫn bay vàng sân giếng

Xóm ngoài, nhà ai giã cốm


Làn sương lam mỏng, rung rinh
Bạn nhỏ cưỡi trâu về ngõ
Tự mình làm nên bức tranh
Một bức tranh quê đẹp như tranh thủy mặc! Mùa thu dù tĩnh nhưng vẫn lúng liếng gợi tình.
Hình ảnh lá rơi nhuộm vàng sân giếng cùng với hương cốm đã trả lại cho mùa thu miền Bắc những
ấn tượng đã thành nếp. Đi ra từ trong làn sương chiều mỏng mảnh, hình ảnh những trẻ mục đồng
cưỡi trâu về càng làm cho bức tranh mùa thu quyến rũ và xao xuyến lòng người.
Khó có thể nói hết ân tình của Khoa dành cho làng quê. Cậu bé Khoa nhỏ tuổi đã thu vào
tâm vào trí những cảnh tượng đơn sơ của quê hương và tìm cách làm cho nó thăng hoa trong thơ
mình. Cảm nhận thấu niềm vui của người dân quê khi được mùa, Khoa vẽ lên một khung cảnh
thật rạng rỡ:
Thóc nở bung như sao
Nhuộm vàng cả trời cao
(Vào mùa)
Trò chơi thả diều quen thuộc của trẻ em thôn quê qua lăng kính của Khoa lại mang một sắc
khí mới:
Diều hay chiếc thuyền
Trôi trên sông Ngân…
(Thả diều)
Sự liên tưởng bất ngờ của nhà thơ đã nâng gió cho cánh diều bồng bềnh giữa không gian thi
ca.
Trần Đăng Khoa từng bộc bạch rằng, mỗi khi sục bàn chân trần trụi xuống bùn, có cái gì rất
quê hương làm óc tim anh run rẩy. Và rất tự nhiên, trái tim của người thơ rất trẻ này đã cất lời ca
hát “những lời từ ngọn lúa sinh ra”. Không chỉ lắng nghe được “âm điệu của lúa”, Khoa còn có
một triết lí rất sâu sắc. Con người muốn được bất tử, với Khoa là phải biết sống sâu với không
gian này, phải nhập vào không gian này như là máu thịt. Từ suy nghĩ đó, Khoa đã trân trọng đặt

166
chân dung người con gái anh hùng Mạc Thị Bưởi vào trong mênh mang và thân thuộc của không
gian làng quê:
Dù cô dừng lại giữa đường
Cuộc đời như lúa thơm hương giữa đồng
Cô như con sóng giữa sông
Phù sa giữa đất, trăng trong giữa trời
(Về thăm cô Bưởi)
Đến với Góc sân và khoảng trời là thêm một cơ hội sống lại trọn vẹn tuổi thơ qua cách nhìn
cảnh, nhìn đời rất non tơ của Trần Đăng Khoa. Khoa phát hiện ra vầng trăng đêm và ai đó đang
chơi trò ú tim của tuổi thơ: Ai dắt ông trăng vàng/ Thả chơi trong lùm nhãn. Nhà thơ mục đồng
này đã phổ tư duy vật ngã đồng nhất vào bài thơ Mưa, làm nên một cơn mưa thật sống động, tươi
vui:
Hàng bưởi
Đu đưa
Bế lũ con
Đầu tròn
Trọc lóc
Chớp
Rạch ngang trời
Khô khốc
Sấm
Ghé xuống sân
Khanh khách
Cười
Cây dừa
Sải tay
Bơi
Ngọn mùng tơi
Nhảy múa
Trong những bài thơ như thế, nghệ thuật nhân hóa đóng vai trò rất lớn. Nhờ nó, tự nhiên và
con người hòa làm một, đồng điệu đến kì lạ. Khoa có thể trò chuyện với cây trầu mà không hề
gặp phải một trở ngại nào:
Đã ngủ rồi hả trầu?
Tao đã đi ngủ đâu

167
Mà trầu mày đã ngủ
(Đánh thức trầu)
Điều ngạc nhiên thú vị của tập thơ là cậu bé Khoa đã đưa được âm vang thời đại vào tác phẩm
của mình. Dấu ấn của những năm tháng chiến tranh in vào thơ Khoa với độ đậm nhạt khác nhau.
Khoa viết về tiếng bom rùng rùng nổ trong đêm trăng tràn đầy tiếng đàn bầu, về hình ảnh những hố
bom, những ngôi trường tốc mái... Chiến tranh còn hiện hình trong đôi nạng gỗ bên bàn thầy giáo,
bên mặt bảng đen lỗ chỗ vết bom bi, bên cả những bài học dang dở...
Nhưng đó chỉ là phông nền làm hiển hiện và thăng hoa một không gian khác - không gian
của sự sống và niềm tin. Hàng cau đã ngã xuống nhưng tiếng đàn bầu vẫn tuôn trào vô tận như
những suối nguồn mát trong để xóa đi những âm thanh dơ bẩn của cuộc chiến. Hình ảnh cánh
diều vươn cao ngạo nghễ bên bờ hố bom là một sự tương phản rất đẹp của không gian nghệ thuật,
thể hiện được sức sống vĩnh hằng của con người:
Tiếng diều vàng nắng
Trời xanh cao hơn
Dây diều em cắm
Bên bờ hố bom
(Thả diều)
Những tương phản đầy chất thơ đó xuất hiện nhiều lần trong tập thơ. Chiến tranh phút chốc
bị đẩy lùi, nhường chỗ cho những không gian yên ả, trong trẻo, đầy ánh sáng niềm tin từ những
đối lập kiểu như:
Em đi học về
Thấy ụ pháo giữa đồng quê
Bao nhiêu khẩu pháo đều rê rê nòng
Pháo vươn theo ngọn cờ hồng
Trong tay một chú vẫy trong nắng chiều
Cánh đồng vui reo
Gió đồng rộng rãi
Nòng pháo bỗng nhiên dừng lại
Bao nhiêu cái mũ lắng nghe
Xa xa từ một ngọn tre
Tiếng chim chích chòe đang hót...
(Tiếng chim chích chòe)
Không miêu tả cặn kẽ lịch sử, không nhìn lịch sử với cái nhìn ráo riết như những nhà văn
lớn tuổi nhưng Trần Đăng Khoa vẫn gợi được bằng thơ một góc nhìn về chiến tranh. Bài thơ Gửi
bạn Chi Lê là lời luận tội đanh thép tội ác của giặc Mỹ:

168
Thằng Mỹ nó đến nước tôi
Búp bê nó giết, bao người nó tra
Nó bắn cả cụ mù lòa
Nó thiêu cả bé chưa và được cơm
Nhìn thấy được sự thật ấy chính là Trần Đăng Khoa đã có sự già dặn và trưởng thành sớm
so với tuổi đời, tuổi nghề. Hơn thế, Khoa còn biết gắn kết tình yêu quê hương đất nước với tình
yêu lãnh tụ. Nhiều bài thơ hay về Bác đã ra đời từ sự gắn kết ấy như: Ảnh Bác, Đất trời sáng lắm
hôm nay, Cháu thề phấn đấu suốt đời, Em gặp Bác Hồ… Thơ Khoa vì thế mà có sự lắng đọng ở
chiều sâu và đến được với rất nhiều độc giả.

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 3


I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
Sinh viên cần nắm được những nét chính về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của các tác giả.
Kiến thức trọng tâm của chương mà sinh viên cần nắm chính là những thông tin liên quan đến
những tác phẩm tiêu biểu của các nhà văn, nhà thơ. Nắm bắt những thông tin này, người học sẽ
đủ cơ sở để giải mã những đơn vị nhỏ hơn của văn bản (một hình ảnh, một trích đoạn của tác
phẩm; một câu chuyện hoặc một bài thơ trong một tập truyện, một tập thơ…). Đồng thời qua đó,
người học sẽ có đủ cơ sở để chứng minh đặc điểm của từng giai đoạn phát triển của văn học thiếu
nhi.
II. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP THỰC HÀNH
1. Phân tích bài thơ Ai dậy sớm để làm rõ những đặc sắc trong nghệ thuật thơ Võ Quảng.
Ai dậy sớm
Ai dậy sớm
Bước ra nhà
Cau ra hoa
Đang chờ đón
Ai dạy sớm
Đi ra đồng
Có vầng đông
Đang chờ đón
Ai dậy sớm
Chạy lên đồi
Cả đất trời
Đang chờ đón
2. Vì sao nói Phạm Hổ là nhà thơ của tình bạn?

169
3. Dấu ấn dân gian trong thơ Phạm Hổ.
4. Phân tích hình tượng nhân vật Trần Quốc Toản qua đoạn trích Bóp nát quả cam (Tiếng Việt,
Tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2003).
5. Đánh giá về tập thơ Góc sân và khoảng trời của Trần Đăng Khoa, Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh
nhận định: "Làng quê đã tạo nên thơ Khoa từ màu sắc đến linh hồn".
Anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
6. Dấu ấn thời đại trong thơ thiếu nhi Trần Đăng Khoa.
7. Phân tích đặc điểm của truyện đồng thoại được thể hiện trong tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí
của Tô Hoài.
III. GỢI Ý GIẢI BÀI TẬP
1. Có thể nói bài thơ Ai dậy sớm là một bài thơ hay, hội tụ đầy đủ những phẩm chất thơ của Võ
Quảng. Bài thơ thể hiện rõ những đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ
và nhạc điệu của tác giả. Cấu trúc trùng điệp góp phần rất lớn trong việc tạo nhạc tính cho bài
thơ. Nghệ thuật nhân hóa đã vẽ nên những không gian nên thơ, thi vị, rạng rỡ. Không gian đó là
phần thưởng cho những ai dậy sớm, cho những ai có ý thức chiếm lĩnh không gian một cách tích
cực. Nghệ thuật tăng tiến đã làm cho phần thưởng đó càng lúc càng ý vị, kì diệu.
2. Phạm Hổ là người được các nhà nghiên cứu yêu thương và trân trọng gọi bằng nhiều cái tên:
người viết truyện cổ tích hiện đại, người kể chuyện cổ tích, nhà thơ của tình bạn… Để lí giải
được vì sao nói Phạm Hổ là nhà thơ của tình bạn, học viên cần chú ý đến cách đặt tên các tập thơ
của Phạm Hổ. Đây là gợi mở đầu tiên dẫn dắt chúng ta đến với những khám phá, phát hiện khác
có liên quan. Khảo sát một số tập thơ để thấy được vị trí của đề tài tình bạn trong thơ Phạm Hổ
trong tương quan với những đề tài khác và phân tích cách tiếp cận, xử lí đề tài này của tác giả. Có
thể tham khảo thêm lời tâm sự của chính nhà thơ: “Tôi đặc biệt chú ý đến tình bạn trong đời sống
con người. Trong hơn mười tập thơ viết cho các em, đã có sáu tập tôi viết về tình bạn”.
3. Đưa yếu tố dân gian vào thơ là một đặc trưng thi pháp thơ Phạm Hổ. Tiếp cận và phân tích một
số bài thơ để làm rõ dấu ấn của truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn và dấu ấn của đồng dao, câu đố
dân gian trong thơ Phạm Hổ. Ví dụ: Chú bò tìm bạn, Thị, Bắp cải xanh…
4. Bóp nát quả cam là một trích đoạn của tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng được đưa vào
chương trình Tiếng Việt Tiểu học. Nhân vật trung tâm của trích đoạn là Hoài Văn hầu Trần Quốc
Toản, một nhân vật lịch sử được Nguyễn Huy Tưởng “nhào nặn” lại trên cái nền của hiện thực.
Đoạn trích này tái hiện lại hành động cậu thiếu niên Trần Quốc Toản đến bến Bình Than với
mong muốn được nói lời gan ruột: “Cho giặc mượn đường là mất nước, xin quan gia cho đánh”.
Do tuổi còn nhỏ, Trần Quốc Toản không được mời dự họp, phải đứng chầu chực bên ngoài. Trần
Quốc Toản xô xát với binh lính để vào yết kiến vua. Vua tha tội cho cậu và ban cho một quả cam.
Nhưng Trần Quốc Toản đã bóp nát quả cam từ lúc nào. Chuỗi chi tiết, sự kiện đó thể hiện rõ tính
cách, tâm lí nhân vật. Sinh viên cần gọi tên và phân tích rõ những nét tính cách, phẩm chất và
tâm lí đó.

170
5. Nhận định của Nguyễn Đăng Mạnh đã nêu bật vai trò, vị trí của làng quê đối với thơ Trần
Đăng Khoa. Điều này thể hiện ở một số bình diện sau:
- Không gian làng quê là không gian nghệ thuật trung tâm của thơ Trần Đăng Khoa.
- Thơ Trần Đăng Khoa đã lột tả được thần thái, hồn quê Việt Nam. Cảnh vật thiên nhiên
trong thơ Trần Đăng Khoa rất quen thuộc với làng quê Việt Nam.
- Cuộc sống của người nông dân cũng được phản ánh đậm nét trong thơ Trần Đăng Khoa.
Lấy ví dụ cụ thể để làm rõ từng luận điểm đó.
6. Thơ Trần Đăng Khoa âm vang không khí thời đại. Khoa không miêu tả cặn kẽ các sự kiện lịch
sử nhưng lịch sử vẫn hiển hiện trên trang thơ. Đặc biệt, với cái nhìn non tơ đầy sức trẻ của mình,
Khoa luôn nhìn hiện thực khốc liệt của chiến tranh như một điểm tựa để sức sống, niềm tin, sự
lạc quan của con người Việt Nam được thăng hoa, lan tỏa. Điều đó thể hiện rõ qua một số bài
thơ: Thả diều, Gửi bạn Chi Lê, Tiếng chim chích chòe, Bàn chân thầy giáo…
7. Sinh viên nắm vững những đặc điểm sau của truyện đồng thoại:
- Hệ thống nhân vật là loài vật, đồ vật, thực vật được nhân hóa để mang tính cách người.
- Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hiện thực và tưởng tượng đã tạo ra một thế giới kì ảo với
những ước mơ bay bổng. Nhưng dù kì ảo đến đâu, đồng thoại vẫn mang hơi thở của cuộc sống.
- Ngôn ngữ giàu chất thơ, dễ thuộc, dễ nhớ làm cho đồng thoại trở nên gần gũi với các em.
Làm rõ những bình diện lí thuyết thể loại đó bằng tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí của Tô
Hoài.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vân Thanh, Nguyên An (Biên soạn) (2002), Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb
Từ điển bách khoa, Hà Nội.
2. Hoàng Văn Cẩn (2005), Dạy học tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Lã Thị Bắc Lý (2003), Giáo trình Văn học trẻ em, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
4. Trần Đức Ngôn (Chủ biên), Dương Thu Hương (1994), Văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Đại
học Sư phạm Hà Nội I, Hà Nội.
5. Vân Thanh (Biên soạn) (2006), Tác giả văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa,
Hà Nội.

171
Chương 4
VĂN HỌC THIẾU NHI NƯỚC NGOÀI
TRONG NHÀ TRƯỜNG TIỂU HỌC

4.1. KHÁI QUÁT CHUNG


Bằng con đường dịch thuật, văn học thiếu nhi nước ngoài đã vào Việt Nam và trở thành sản
phẩm văn hóa đọc được các em lựa chọn. Hiện tại trong chương trình Tiếng Việt tiểu học có 82
tác phẩm văn học thiếu nhi nước ngoài. Cụ thể:
- Lớp 1: Gồm 15 bài và các bài được đưa vào đa số ở phần Kể chuyện.
Ví dụ: Anh chàng Ngốc và con ngỗng vàng (truyện cổ Grim), Rùa và Thỏ (truyện ngụ ngôn
Laphôngten), Bông hoa cúc trắng (truyện cổ tích Nhật Bản), …
- Lớp 2: Gồm 16 bài và đa số các bài được đưa vào phần Tập đọc.
Ví dụ: Phần thưởng (Blaitơn), Mít làm thơ (Nôxốp), Bác sĩ Sói (La Phôngten), Những
quả đào (Lep Tonxtoi), …
- Lớp 3: Gồm 13 bài, đa số được đưa vào phần Tập đọc
Ví dụ: Người mẹ (Andersen), Lừa và Ngựa (Lép Tônxtôi), Trên con tàu vũ trụ (Gagarin),
Nhà ảo thuật (Blaitơn), …
- Lớp 4: Tương tự như các lớp 2, 3 thì ở chương trình Tiếng Việt 4 các bài cũng được phân
bố chủ yếu ở phần Tập đọc với số lượng 20 bài.
Ví dụ: Người ăn xin (Tuốcghênhép), Gà trống và Cáo (La Phôngten), Con vịt xấu xí (Anđécxen),

Bên cạnh đó, có một số tác phẩm hay được giới thiệu ở nội dung Kể chuyện như: Những
chú bé không chết (Quyraxkêvích), Khát vọng sống (Lơnđơn)…
- Lớp 5: Có 18 tác phẩm, chủ yếu các bài vẫn ở phân môn Tập đọc nhưng ngoài ra còn xuất
hiện ở các phân môn khác như Chính tả, Luyện từ và câu.
Ví dụ: Chuỗi ngọc lam (Phuntonoxlo), Một vụ đắm tàu (Aximi), Lớp học trên đường
(Hecto Malo), …
Về chủ thể sáng tác, đây đều là những tác phẩm của các tác giả tiêu biểu cho văn học
thiếu nhi các nước mà tên tuổi của họ đã được khẳng định và tồn tại bền vững theo thời gian, bất
chấp sự khác biệt về văn hóa giữa các nước. Đó là La Phôngten, Alếchxây Tônxtôi, Huygô,
Lamáctin, Mácxim Gorơki, Tuốcghênhép… Những tác giả có tác phẩm được chọn để đưa vào
chương trình tiểu học nhiều nhất là Lep Tonxtoi (6 tác phẩm: Nói dối hại thân, Những quả đào,
Lừa và ngựa, Người đi săn và con vượn, Cây sồi già, Con chuột tham lam), Xukhômlinxki (6 tác
phẩm: Quả sồi, Bàn tay dịu dàng, Bông hoa niềm vui, Các em nhỏ và cụ già, Nỗi dằn vặt của

172
Anđrâyca, Bầu trời mùa thu). Có những tác phẩm là những trích đoạn nhỏ của những tiểu thuyết
lớn, đã chinh phục rất nhiều độc giả trên thế giới như: Ai có lỗi?, Buổi học thể dục, Một vụ đắm tàu
(Trích từ Những tấm lòng cao cả - Amixi), Lớp học trên đường (Trích từ Không gia đình –
Hécto Malô), Gavrốt ngoài chiến lũy (Trích từ Những người khốn khổ - Huygô), Bím tóc đuôi
sam (Trích từ Tốttôchan, cô bé bên cửa sổ - Kurôyanagi). Những con số trên bước đầu cho thấy
giá trị của văn học thiếu nhi nước ngoài trong chương trình tiểu học, mà chủ yếu là ở hai phân môn
Tập đọc và Kể chuyện. Ngoài ra, còn phải kể đến sự hiện diện của một số lượng lớn những truyện
kể dân gian nước ngoài. Trong đó có những tác phẩm hay như Sự tích bông hoa cúc trắng (Nhật
Bản), Chuyện kể về những bông hồng (Thần thoại Hy Lạp), Truyền thuyết về xứ Baunlê (Truyện cổ
Châu Phi)…
Xét về cơ cấu thể loại, có thể thấy sự chiếm ưu thế của văn xuôi nước ngoài trong chương
trình tiểu học. Trong rất nhiều tác phẩm văn học viết thì chỉ có 03 bài thơ (Sư tử xuất quân, Gà Trống
và Cáo của La Phôngten, Mèo con đi học của P.Vôrôncô).
Lựa chọn những tác phẩm trên, các nhà biên soạn sách hướng cho thiếu nhi Việt Nam đến
nhiều ý nghĩa lớn. Mỗi một câu chuyện đã mở ra cho các em những bài học nhân văn, có giá trị
thiết thân đối với quá trình hoàn thiện bản thân. Chúng tôi hệ thống hóa giá trị nội dung của văn
học thiếu nhi nước ngoài trong chương trình Tiếng Việt tiểu học với những chủ đề sau:
- Lòng nhân ái:
Đây là chủ đề lớn, hầu như xuyên suốt cả chương trình văn học thiếu nhi nước ngoài. Các
tác giả chủ yếu khai thác lòng nhân ái như một sức mạnh tinh thần giúp con người vượt qua khó
khăn, bất hạnh của cuộc đời để tìm đến hạnh phúc. Sự cưu mang của bảy chú lùn đối với nàng
Bạch Tuyết (Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn – truyện cổ Grim), sự bối rối và cái nắm tay ấm áp
của nhân vật tôi khi không có gì để cho người ăn xin (Người ăn xin – Ivan Tuốcghênhép), hình
tượng giọt máu nghĩa tình của công chúa thiên nga nhỏ xuống đã biến thành những bông hồng
rực rỡ, đỏ thắm và đầy hương thơm dịu ngọt (Những bông hồng – Thần thoại Hi Lạp), tình yêu
thương những cảnh đời bất hạnh như nhân vật chú dế nhỏ trong Dế nhỏ và ngựa mù già (truyện
cổ Bungari) luôn coi việc giúp đỡ người khác là niềm hạnh phúc cho chính bản thân, … đó là
những minh chứng đẹp đẽ cho chủ đề này.
- Tình yêu quê hương đất nước:
Tình yêu quê hương đất nước luôn gắn liền với những tác phẩm văn học thiếu nhi nước
ngoài. Mỗi nhà văn đã để cho nhân vật của mình thể hiện tình yêu quê hương theo cách riêng. Đó
hoặc là sự tôn trọng từng hạt cát nhỏ trên mảnh đất quê hương như tình yêu của người dân
Êtiôpia trong truyện Đất quý, đất yêu; hoặc là sự hi sinh cao cả và lòng dũng cảm không ngại
hiểm nguy của nhân dân Nga trong truyện Những chú bé không chết; hoặc là những cử chỉ, hành
động bình thường của bác Phơlit trong Ông chủ cửa hàng bánh kẹo, … Hình tượng những du
kích nhỏ tuổi của đất nước Liên Xô, với áo sơ mi xanh có hàng cúc trắng, với lời nói dõng dạc:
“Tao là du kích” sẽ sống trong lòng thiếu nhi Việt Nam như một biểu tượng đẹp của tình yêu đất
nước dẫu phát xít Đức đã treo cổ các em, xử bắn các em. Ba du kích nhỏ tuổi, ba đứa con thơ dại

173
của người du kích đứng tuổi đã giúp độc giả nhỏ tuổi Việt Nam hiểu sâu hơn lịch sử anh hùng
của nhân dân Xô Viết và sự gắn bó máu thịt đến quên mình của họ đối với từng dải đất quê
hương.
- Đề cao trí tuệ con người:
“Người có thể bắt gà, làm tan băng, tắm trong mưa, cày đất, cưa cây đổ, dập tắt lửa, bắt gió
làm việc cho người, cắt cỏ và ăn thịt tôi nữa. Người mới là người mạnh nhất trên đời”. Chỉ là một
đoạn văn ngắn trong truyện Ai mạnh nhất trên đời – truyện cổ Kiếcghi nhưng những câu văn trên
đã khẳng định được một vấn đề mang tính chân lí: con người là người mạnh nhất trên đời, bởi vì
con người có sở hữu một tài sản lớn của nhân loại, đó là trí tuệ. Trí tuệ là khả năng nhận thức,
suy xét và giải quyết mọi việc một cách thông minh và hiệu quả nhất. Trí thông minh của con
người trong các truyện được đưa vào trong chương trình thường gắn liền với phẩm chất đạo đức
tốt đẹp của những con người lao động bình thường trong cuộc sống hoặc những hiệp sĩ ra tay
hiệp nghĩa giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn. Truyện Tính nợ (Trung Quốc) đề cao tính suy xét
kĩ càng, vạch trần bộ mặt tham quan ô lại để trả lại công bằng cho người dân, hay truyện Dùng
mưu lại mắc mẹo (ngụ ngôn La Phôngten) lại đem đến cho các em tiếng cười về sự ngốc nghếch
của con sói và mưu trí của chú ngựa,…
- Ngợi ca lòng dũng cảm:
Lòng dũng cảm cũng là một trong những phẩm chất tốt đẹp của con người, giúp con người
vượt qua gian khổ, thử thách của cuộc sống. Ga –vrốt ngoài chiến lũy, một đoạn trích trong tác
phẩm Những người khốn khổ của Victo Huygô đã dựng lại một hình tượng rất đẹp, đó là cậu bé
Gavrốt. Giữa làn mưa đạn của kẻ thù, cậu bé đã ra chiến lũy, lấy những chiếc bao đạn của bọn
lính đã chết để tiếp tế đạn cho nghĩa quân. “Đạn bắn theo em, em nhanh hơn đạn. Em chơi trò ú
tim với cái chết một cách thật ghê rợn”. Trong phút chốc, Gavrốt vụt trở thành một thiên thần.
Em là sự kết tinh rạng rỡ cho lòng dũng cảm của người dân đối với đất nước của họ…
Ngoài những nội dung trên thì những tác phẩm văn học thiếu nhi nước ngoài còn hướng tới
ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp khác của con người như lòng trung thực, sự thủy chung trong
tình bạn, tình yêu lao động và niềm hăng say hiểu biết (Chiếc rìu kim cương, Chú thỏ non Purinê,
Chú dế sau lò sưởi...).
Việc văn học thiếu nhi nước ngoài chiếm khoảng 30% số lượng tác phẩm văn học trong
chương trình Tiếng Việt tiểu học cho thấy sự tự giác của những người biên soạn sách về vai trò
của bộ phận văn học này đối với sự phát triển tâm hồn, trí tuệ thiếu nhi Việt Nam. Như một điều
tất yếu, những tác phẩm này sẽ là cầu nối thiết thực để các em vươn tầm hiểu biết của mình đến
những không gian văn hóa khác. Truyện Doremon, Harry Potter, Không gia đình, truyện cổ
Grim, truyện cổ Andesen, truyện ngụ ngôn Lép Tônxtôi… sẽ đưa đến cho các em những hiểu biết
bổ ích về văn hóa, địa lý, lịch sử, xã hội, con người… của đất nước Nhật Bản, Anh, Pháp,
Đức, Đan Mạch, Nga… Với sự phong phú về nội dung, những tác phẩm văn học thiếu nhi
nước ngoài sẽ thực hiện tốt vai trò bồi dưỡng, hoàn thiện đời sống tâm hồn trẻ thơ. Truyện

174
Cái bếp lò đưa ta vào không gian mùa đông nước Nga. Trời rét căm căm, cánh đồng phủ kín
tuyết trắng. Trong cái tiết trời buốt giá ấy, vẫn có một bé trai mười tuổi lặn lội đến trường.
“Thưa bác, vâng… Cháu yêu thầy giáo lắm… Thầy có cả một cái bếp lò…”, lời nói ấy cùng
đôi mắt xanh long lanh của em khi nói là khoảnh khắc đẹp nhất trong buổi sáng tháng Chạp
ấy. Một sự ngọt ngào, ấm áp, lắng đọng đã và sẽ ở lại cùng với người dân Nga nói riêng và
nhân loại hiếu học nói chung.
Đọc văn học thiếu nhi nước ngoài, thiếu nhi Việt Nam có cơ hội gặp lại một phần tuổi thơ,
một phần đời sống tâm hồn của mình trong đó. Các em rất dễ có sự đồng điệu với những câu
chuyện ngụ ngôn của La Phôngten, Lép Tônxtôi, với những tác phẩm kiểu như bài thơ Mèo con
đi học. Hình ảnh chú mèo không muốn đến trường nên đã kiếm cớ "Cái đuôi tôi ốm" phảng phất
hình ảnh những cậu học trò nhỏ lười học. Tuy nhiên khi đọc xong hai đoạn thơ sau, rất tự nhiên,
trẻ sẽ “dị ứng” với “căn bệnh trầm kha” của học trò:
Cừu mới be toáng
"Tôi sẽ chữa lành
Nhưng muốn cho nhanh
Cắt đuôi khỏi hết..."
"Cắt đuôi..., ấy chết
Tôi xin đi học thôi!
Cắt đuôi..., ấy chết
Tôi xin đi học ngay thôi!"
Những chi tiết hài hước và tiết tấu vui của bài thơ sẽ là phương tiện thiết thực đảm bảo sự
thành công của ý đồ chuyển tải thông điệp giáo dục đến trẻ.

4.2. MỘT SỐ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM TIÊU BIỂU


4.2.1. Anđécxen và truyện cổ cho các em
4.2.1.1. Tác giả
Anđécxen sinh ngày 2 tháng 4 năm 1805 trong một gia đình nghèo ở thành phố Odense cổ
kính của đất nước Đan Mạch. Cha ông – Han Andersen, là một thợ đóng giày, còn mẹ ông – Anne
Marie Andesdatter là người chuyên giặt thuê cho những gia đình giàu có. Năm Anđécxen 11 tuổi, cha
mất, mẹ tái giá và ông bắt đầu cuộc sống tự lập để kiếm sống. Anđécxen lớn lên trong khinh rẻ, tủi
nhục, trong cảnh sống bần hàn, trong những câu chuyện cổ mà người cha và các cụ già trong viện
dưỡng lão thường kể. Năm 1822, với sự giúp đỡ của Jonas - đạo diễn nhà hát hoàng gia,
Anđécxen học tiếp phổ thông và sau đó được nhận vào học đại học ở Copenhaghen. Sự nghiệp
sáng tác của ông bắt đầu từ đó. Thoạt đầu, ông được biết đến với vai trò một người viết kịch, một

175
nhà thơ, sau đó là người viết ký sự, tiểu thuyết gia. Và khi ông xuất bản tập truyện cổ tích đầu
tiên, trẻ em trên thế giới biết đến người kể chuyện tài ba Anđécxen.
Cuộc đời của người kể chuyện thiên tài Anđécxen gắn với những chuyến đi. Mùa xuân năm
1831, lần đầu tiên Anđécxen vượt khỏi biên giới Đan Mạch để đến Đức. Sau đó là những chuyến đi
đến Pháp, Ý, Thổ Nhĩ Kỳ. 29 lần đi nước ngoài là cơ hội để Anđécxen thu thập, tích lũy thêm
vốn liếng sáng tác. Đặc biệt, từ những chuyến đi, ông may mắn làm bạn với V. Hugo,
H.Balzac, C.Dicken, H.Heine – những nhà văn lớn của thế giới.
Mùa xuân năm 1872, Anđécxen ngã khỏi giường và bị thương. Ông không bao giờ bình
phục được nhưng đã sống tới ngày 4 tháng 8 năm 1875. Thi thể của ông được mai táng ở
Assistens Kirkegard, khu Norrebo thành phố Copenhagen.
4.2.1.2. Truyện cổ Anđécxen
Nhận định về tầm ảnh hưởng của Anđécxen, Đào Duy Hiệp cho rằng: “Cũng như hằng
ngày mặt trời chạy từ bờ biển phía Đông của lục địa châu Á sang bán đảo Tây Bắc mà chúng ta
gọi là Châu Âu, người ta đọc Hans Andersen trong khắp dải sáng Bắc Nam trên đường đi của mặt
trời”. Từ đất nước Đan Mạch, Anđécxen trở thành cái tên có sức hút rất lớn với độc giả trên thế
giới, đặc biệt là những bạn nhỏ. Nếu như vở nhạc kịch Tình yêu ở tháp nhà thờ thánh Nicolas là
sự mở đầu thành công cho con đường sáng tác nghệ thuật của Anđécxen thì truyện cổ tích lại tạo
sự bền vững vĩnh hằng cho văn nghiệp của ông. Anđécxen là người viết truyện cổ tích thiên tài
của đất nước Đan Mạch và của cả nhân loại.
Xuất thân từ tầng lớp lao động nghèo, thường xuyên bị chế giễu về “dòng máu dân đen”,
Anđécxen thể hiện sự thấu hiểu, cảm thông sâu sắc của mình với cuộc sống vất vả, bần hàn của
những người nghèo khổ, đặc biệt là những trẻ mồ côi. Những trải nghiệm của bản thân theo
Anđécxen vào từng trang viết, làm nên những số phận cảm thương trong Cô bé bán diêm, Mụ ấy
hư hỏng, Một chuyện đau lòng… Ông tự nguyện làm “nhà thơ của những người nghèo khổ”, luôn
nâng niu, trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của họ. Chú lính chì dũng cảm, Người mẹ, Nàng tiên cá, Bầy
chim thiên nga, Con trai người gác cổng… và rất nhiều câu chuyện khác đã ra đời từ cảm hứng
đẹp đẽ đó. Anđécxen líu ríu dẫn ta đi vào khu vườn cổ tích để gặp gỡ Một người mẹ có trái tim
giàu lòng yêu thương. Để cứu đứa con thơ khỏi tay thần Chết, bà đã kiên cường vượt qua mọi thử
thách. Bà đã hát cho thần Đêm Tối nghe trong nước mắt đầm đìa. Bà đã ôm ghì bụi gai vào ngực
để sưởi ấm cho nó mặc cho máu cứ nhỏ từng giọt đậm. Bà cũng hiến cho Hồ đôi mắt giống
những hạt ngọc trai trong suốt của mình… “Vì ta là mẹ”, câu trả lời dõng dạc của người mẹ trước
thần Chết là âm thanh kiêu hãnh tỏa ra từ lồng ngực rộn rã nhịp đập yêu thương.
Qua truyện cổ tích Anđécxen, hiện thực cuộc sống xã hội Đan Mạch nửa cuối thế kỉ XIX
mở ra phong phú và sinh động. Điều đó khẳng định lại một quan điểm sáng tác của nhà văn:
“Không có truyện kể nào hay hơn được những điều do chính cuộc sống tạo nên”. Anđécxen nhân
danh những người cùng khổ để lên tiếng phê phán những thói hư tật xấu của xã hội (Chim họa
mi, Bộ quần áo mới của thượng đế…). Chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm Mụ ấy hư hỏng

176
nhưng nhân vật bà chủ, mẹ của ông thị trưởng đã được nhắc đến với những ấn tượng nghịch. Với
con cái, bà cũng giống như Thượng đế trên trần gian, rất mực hiền hậu và yêu quý con. Nhưng
với chị thợ giặt đáng thương, bà chủ lại là người đã tạo nên bi kịch của đời chị. Bà là người đã
vạch trước mắt chị hàng rào giai cấp của xã hội tư bản Đan Mạch, là người buộc chị phải ý thức
rõ hơn cái hiện thực mà mình đang sống. “Dưới mắt thượng đế, trên thiên đàng, nhiều người
nghèo đã chiếm được ngôi cao hơn người giàu. Nhưng dưới trần gian này thì chớ có đi lầm
đường”. Những lời nói ấy của bà chủ như nhát dao nhọn hoắt xuyên vào trái tim người con gái
nghèo, làm cho chị bối rối và đau khổ suốt cuộc đời.
Bà hoàng hậu trong tác phẩm Bầy chim thiên nga cũng là nhân vật nằm trong cảm hứng phê
phán của nhà văn. Hoàng hậu thực chất là một bà phù thủy độc ác. Bà đã đưa những trò phù phép
xấu xa của mình đẩy cuộc sống của mười một anh em Elise vào khốn cùng. Elise bị đuổi ra khỏi
vương quốc, lang bạt vào rừng xanh sâu thẳm. Còn các anh của nàng thì phải sống kiếp thiên nga.
Với những tình cảm nhân văn của mình, Anđécxen đã nâng niu ước mơ, nguyện vọng của
những nhân vật chính diện, tạo nên cái kết có hậu cho tác phẩm. Bầy chim thiên nga đã kết lại
trong sự vỡ òa của niềm vui. Elise đã reo lên: “Giờ tôi nói được rồi, tôi vô tội” và mười một con
thiên nga đã trở lại kiếp người. Trong niềm vui lớn ấy, tất cả các chuông nhà thờ dù không ai giật
cũng đều rung lên. Chim chóc từ đâu cũng kéo đến hàng đàn mừng ngày hội lớn chưa từng có ở
cung vua.
Tuy nhiên, không phải câu chuyện nào cũng làm cho mọi người nở nụ cười mãn nguyện
như thế. Điều đáng nói là đến khi câu chuyện đã kết thúc, số phận những nhân vật chính diện
vẫn không có được sự viên mãn như trong truyện cổ dân gian. Truyện Anđécxen vì thế mà cứ
phảng phất những nỗi buồn ngay cả khi những phép màu bao phủ trang văn. Những niềm vui
không trọn vẹn, những giấc mơ không thành, những hạnh phúc không đi đến được tận cùng…
là điều đã theo chân nhân vật trong một số tác phẩm. Cô bé bán diêm đã chết ngay trong đêm
giao thừa. Nàng tiên cá trải qua nhiều lần lựa chọn. Nàng đã đánh đổi tiếng hát, giọng nói để
được gặp hoàng tử. Và khi buộc phải giết chết hoàng tử trước lúc mặt trời mọc để sống ba
trăm năm đời cá thay vì sống trong tích tắc của kiếp người, nàng đã chọn kiếp người để cuối
cùng đã tan thành bọt biển. Chú lính chì dũng cảm vẫn bị rơi vào lò sưởi và cháy thành tro…
Chuyện đã dừng lại mà nhân vật vẫn dang dở trong ước mơ rất chính đáng của mình. Nhưng
dù thế nào, Anđécxen vẫn xứng đáng được gọi là nhà văn của những người bình dân.
Mỗi một câu chuyện mà Anđécxen kể đều in dấu văn hóa dân gian của đất nước Đan Mạch,
đất nước của những rừng dẻ gai, nhiều hải đảo và biển cả, nhiều sương mù và băng tuyết.
Anđécxen đưa không khí của những câu chuyện cổ tích vào trong tác phẩm của mình và nỗ lực
làm mới những vấn đề cổ xưa đó. Truyện Anđécxen hư hư thực thực, vừa cổ xưa vừa hiện đại,
vừa trữ tình vừa trào lộng, triết lý. Người kể chuyện cổ tích thiên tài này đã đưa người đọc lạc
vào thế giới thần tiên của Chúa, của những thiên thần bé nhỏ, của những bà tiên… Đó là điểm
sáng, là nơi mà những con người bất hạnh luôn hướng về mỗi khi gặp nguy khó. Lúc bị đẩy vào

177
rừng sâu, Elise đã thiếp đi trong lo sợ. Và “hình như nàng thấy những cành lá trên đầu nàng tách
ra. Chúa nhìn nàng bằng cặp mắt hiền từ và những thiên thần bé nhỏ đang nhô ra trên đầu và dưới
cánh tay nàng” (Bầy chim thiên nga). Nhà văn truyền phép màu vào chiếc bật lửa, để rồi nó có
thể thay đổi được số phận của con người. “Cứ bật một cái, con chó đã ngồi trên hòm tiền bằng
đồng đến trước mặt chú, bật hai cái là con chó với những đồng tiền bằng bạc, bật ba cái là con
chó với những đồng tiền bằng vàng” (Chiếc bật lửa). Trong thế giới hư ảo ấy, Anđécxen làm say
mê người đọc bởi những dòng văn trữ tình mượt mà: “Những ngọn nhũ thạch trong vắt rủ xuống
trên đầu họ, trong như những đám mây trắng dưới ánh trăng. Không khí ở đây êm dịu và thơm
nức, trong sạch như trên núi cao, ngát hương như những bông hồng dưới đáy thung lũng. Một
con suối chảy qua đấy, trong vắt như không khí và cá vàng cá bạc bơi theo dòng suối…” (Thiên
đường). Người đọc cũng thích thú bởi những triết lí mà ông hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp đề cập
đến trong mỗi câu chuyện. “Nếu nghĩ mình không ngã thì sẽ không bao giờ ngã” (Nữ thần băng
giá), “Có kiên tâm chờ đợi thì cuối cùng bao giờ vẫn được người ta đánh giá đúng với giá trị thực
tế của mình” (Đồng silinh bạc). Với những triết lí như thế, truyện của Anđécxen đã bước dần từ
không khí cổ tích sang không khí hiện đại.
Trên sự hài hòa giữa nguồn mạch dân gian và hiện đại đó, các nhân vật đã xuất hiện với sự
phong phú, đa dạng về số lượng, thân phận, tính cách. Bên cạnh dạng thức nhân vật con người,
ông rất hay viết về dạng thức nhân vật cây cối, con vật, đồ vật. Xuất hiện nhiều lần với tư cách là
nhân vật chính trong truyện, kiểu nhân vật này đã mang trong mình hơi thở, nhịp đập trái tim như
chính con người (Chàng quay và nàng bóng, Vịt con xấu xí, Gã cổ cồn, Chú lính chì dũng
cảm…). Con người đã nhường chỗ cho sự sống dậy của thế giới loài vật, trao quyền chuyển tải
thông điệp thẩm mĩ của tác phẩm cho chính những vật vốn vô tri vô giác này. Truyện Chú lính
chì dũng cảm dẫn dắt chúng ta đến thế giới đồ chơi với biết bao món đồ trông thật thích mắt mà
bất cứ cô cậu thiếu nhi nào cũng thích và muốn khám phá nó. Ở thế giới đó, các đồ chơi sống lại
và cùng nhau vui đùa nhảy múa, chúng thăm viếng trò chuyện với nhau, đám này thì chơi banh,
đám kia thì vật lộn… “Con rối máy lưng gù bụng phệ nhảy nhót một cách điên cuồng. Chú quay
tít vù, chừng như muốn phá phách tất cả. Các chú lính chì cũng vùng vẫy trong hộp, như muốn
nhảy ra tham dự cuộc vui”. Những chú chim thiên nga làm bằng sáp ong đang bơi và soi mình lên
mặt hồ…. Tất cả dường như đang hòa vào nhau trong không khí vui tươi nhộn nhịp như một thế
giới con người thu nhỏ. Nhưng dù viết về dạng thức nhân vật nào đi nữa, nhà văn cũng đưa đến
những nhân vật đầy đặn, tròn trịa chứ không mang tính phiếm chỉ như truyện cổ tích thường tình.
Đặc biệt, nhà văn còn để cho nhân vật trôi chảy trong những dòng độc thoại nội tâm, một thủ
pháp nghệ thuật phổ biến của văn học hiện đại. Đến thời điểm này có thể khẳng định, Anđécxen
không chỉ là niềm tự hào của đất nước Đan Mạch mà còn là một phần rất ý nghĩa của văn hóa
nhân loại.
4.2.2. Lép Tônxtôi với Kiến và chim bồ câu
4.2.2.1. Tác giả

178
Nhà văn Nga vĩ đại Lép Tônxtôi sinh ngày 9 tháng 9 năm 1828. Xuất thân trong một gia
đình quý tộc nhưng phần lớn cuộc đời của ông lại gắn với trại ấp Iaxnaia Pooliana (thuộc tỉnh
Tula, cách Matxcơva chừng 200 km về phía Nam). Tuổi thơ ông trôi qua khá êm đềm bên những
người nông dân và thiên nhiên tươi đẹp của nông thôn Nga. Lép Tônxtôi rất thông minh và rất
say mê văn học, âm nhạc. Ông biết đến hơn mười ngoại ngữ, thông thạo tiếng Latinh, tiếng Pháp,
Anh, Ý, Hy Lạp. Năm 16 tuổi, Tônxtôi được gia đình gửi tới Cadan học đại học. Lúc đầu, ông
học ngành ngôn ngữ phương Đông, sau đổi sang ngành Luật. Hai năm sau, ông bỏ trường đại học
và gia nhập quân đội. Sau khi xuất ngũ, Tônxtôi đi du lịch qua nhiều nước châu Âu như Pháp,
Anh, Thụy Sỹ, Đức... Những chuyến đi ấy đã tạo nên sự chuyển biến quan trọng trong thế giới
quan, nhân sinh quan và tư tưởng nghệ thuật của ông. Ông quyết định đến với những người cùng
khổ, hết lòng giúp đỡ những người nông dân nghèo.
Năm 35 tuổi, ông lập gia đình. Nhưng cuộc sống riêng tư của ông không hạnh phúc. Tháng
10 năm 1910, vào một đêm tuyết rơi đầy trời, Tônxtôi bỏ nhà ra đi. Mười một ngày sau
(7/11/1910), ông đã trút hơi thở cuối cùng tại một nhà ga xe lửa vì bệnh sưng phổi. Theo ước
nguyện của Tônxtôi, đám tang ông không có điếu văn và người ta chôn ông hết sức giản dị. Ngôi
mộ đại văn hào Nga và cả thế giới là nắm đất đơn sơ nằm bên bờ khe, nơi ngày thơ ấu ông đã
cùng các anh chôn cây gậy xanh thần kỳ nói về hạnh phúc của con người.
4.2.2.2. Tập truyện ngụ ngôn Kiến và chim bồ câu
Trong sự nghiệp sáng tác của Lép Tônxtôi, Chiến tranh và hòa bình là tác phẩm tiêu biểu
nhất, thể hiện trí tuệ và tài năng lớn của nhà văn. Bộ tiểu thuyết sử thi đồ sộ này gồm 4 tập, được
viết ròng rã trong vòng bảy năm (từ 1864-1869) đã tái hiện một cách sinh động cuộc chiến đấu
ngoan cường của quân dân Nga đầu thế kỷ XIX. Macxim Gorki xem đây là tác phẩm vĩ đại nhất
trong văn học thế giới thế kỷ XIX.
Mấy năm sau, Tônxtôi đưa ra một kiệt tác thứ hai, đó là Anna Karênina (1877).
Đôxtôiepxki ca ngợi Anna Karênina như “một tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo mà văn học châu
Âu đương thời không có gì có thể so sánh được”. Trong tác phẩm này, nhà văn đã thể hiện khả
năng phân tích tâm lý tuyệt vời. Với Anna Karênina, một lần nữa tên tuổi và vị trí của ông được
khẳng định trên văn đàn thế giới.
Bên cạnh đó, Lép Tônxtôi còn được thế giới biết đến với những tác phẩm hay viết cho thiếu
nhi. Những truyện ngắn và truyện đồng thoại dành cho trẻ thơ của ông được tập hợp in trong
những cuốn sách: Sách học vần, Những cuốn sách Nga để đọc. Thích thú với truyện ngụ ngôn
của Êdôp, Lép Tônxtôi đã tìm cách dịch nó sang văn xuôi bằng tiếng Nga. Ông “đưa các bản dịch
truyện ngụ ngôn của Êdôp xích lại gần với cách ngôn, tục ngữ (Đắm thuyền) hoặc với truyện cổ
dân gian (Cáo và Gà rừng), hay biến nó thành truyện sinh hoạt (Hai người bạn). Bên cạnh đó,
Lép Tônxtôi còn Nga hóa truyện ngụ ngôn Êdôp bằng cách chuyển những câu chuyện của Êdôp
về môi trường, không gian văn hóa nước Nga. Những truyện ngụ ngôn ấy qua trí tuệ và tài năng
của Lép Tônxtôi đã mang những phong vị mới.

179
Nhân vật trung tâm của truyện là con vật, từ con vật nhỏ bé, thân thuộc như kiến, mèo,
chuột, gà… đến những con vật to lớn như cọp, gấu, sư tử… Lật giở mỗi trang sách, các em sẽ bắt
gặp ngay những hình ảnh ngộ nghĩnh được khắc họa tinh tế, sống động. Nhà văn vừa vẽ nên một
không gian sống và sinh hoạt vui nhộn về thế giới các loài vật vừa tạo cho các em cảm giác gần
gũi và thú vị về các con vật vốn xa lạ với các em do chỉ có trong rừng xanh sâu thẳm: sư tử, đại
bàng, thỏ…
Bằng cách nhân hóa các con vật, tác giả đã để cho chúng hoàn toàn chủ động trong các
hành động, các tình huống. Xuất hiện trong truyện ngụ ngôn của Lép Tônxtôi, các nhân vật đủ
sức tạo nên sự khác biệt về tính cách. Ta sẽ gặp gỡ với con thỏ bi quan trong Thỏ và ếch, con lừa
thật thà chất phác không biết nịnh nọt và ton hót trong Sư tử, lừa và cáo nhưng đôi lúc cũng
muốn ra oai, đã khoác bộ da sư tử vào để rồi khi gió thổi tới, bộ da sư tử bị thổi tung và lừa phải
chịu một trận đòn nhừ tử trong Lừa đội lốt sư tử... Đôi lúc, ta bật cười vì bản tính của các con vật
được bộc lộ một cách hóm hỉnh, hài hước thông qua lăng kính thông minh, dí dỏm của tác giả.
Chó sói và bà cụ già là một câu chuyện như vậy. Trong truyện, Lép Tônxtôi đã sáng tạo ra một
chi tiết rất hài hước. Trên đường đi kiếm mồi, vô tình sói nghe một bà cụ nói với cháu của mình:
“Cháu mà không nín, bà sẽ đem cho sói ăn thịt đấy”. Thế là sói ta không đi kiếm mồi nữa mà
nằm đợi người ta mang đứa bé đến cho mình. Qua chi tiết này, bản tính ngây ngô của con chó sói
bật ra thật tự nhiên. Có thể nói, cái hài trong truyện của Lép Tônxtôi là cái cười thông tuệ, có khả
năng làm cho con người minh mẫn hơn, sáng rõ hơn trong nhận thức.
Mỗi truyện ngụ ngôn của Lép Tônxtôi có kết cấu như một vở kịch ngắn. Mỗi một tác phẩm
luôn vận động dựa trên một xung đột nào đó. Nhưng xung đột này không có tính quá trình. Chọn
một lát cắt của đời sống, nơi mà mọi kịch tính chỉ diễn ra trong một thời gian rất chóng vánh là
cách mà nhà văn đã thực hiện với những câu chuyện ngụ ngôn của mình. Xét đến cùng, xung đột
trong truyện đều phản ánh xung đột xã hội. Đó là xung đột giữa người bị áp bức và những kẻ áp
bức được thể hiện trong những tình huống, hoàn cảnh cụ thể. Những nhân vật như sói, sư tử, cáo
thường có ý nghĩa đại diện cho giai cấp thống trị. Trong khi đó, những con vật như kiến, ve, cừu,
thỏ lại gợi về hình ảnh những người nông dân hiền lành bé nhỏ trong xã hội. Trong truyện Sói và
sếu, Sếu đã làm ơn lấy xương cho sói, sói không những không biết ơn mà còn muốn ăn thịt sếu.
Hay như truyện Sư tử, cáo và lừa, chú lừa thật thà tốt bụng khi đi săn về chia làm ba phần bằng
nhau liền bị sư tử vồ lấy ăn thịt, cáo gian mãnh nịnh nọt liền được sư tử khen ngợi chia phần. Các
nhân vật gian mãnh đôi khi cũng ngốc nghếch, bất lực trước hoàn cảnh. Con cáo trong truyện
Con cáo và chùm nho phải rút lui trong sự tiếc rẻ: “nho hãy còn xanh lắm !”. Ở truyện Cáo và
sếu, cáo xảo trá khi mời sếu đến dùng bữa trưa nhưng lại bày canh ra đĩa. Sếu với chiếc mỏ dài
không thể ăn chút gì. Nhưng dù cáo có xảo quyệt đến đâu cũng bị sếu trả đũa. Sếu đã mời cáo
đến nhà và dọn bữa ăn bằng một cái bình cổ dài thế là cáo không thể ăn được. Những câu chuyện
hóm hỉnh đó đều làm ta cười vui vẻ vì những sự bất công đã phải trả một cái giá xứng đáng, đồng
thời cũng giúp các em tự điều chỉnh hành vi cho mình một cách hợp lý đối với bản thân và đối
với người khác.

180
Như vậy, có thể nói, mỗi một câu chuyện ngụ ngôn của Lép Tônxtôi là một ẩn dụ lớn, dù
ngắn gọn về dung lượng và ít tình tiết nhưng chứa đựng những ẩn ý sâu xa về cuộc sống. Các
nhân vật loài vật trong truyện là những nhân vật chức năng đại diện cho một kiểu người, một lớp
người trong xã hội. Với sự thông thái, nhà văn đã tạo nên phong vị triết lí cho tác phẩm. Lão tiều
phu và thần chết gợi về ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết. Sói và cừu non khẳng
định chân lí luôn thuộc về kẻ mạnh. Chú cừu non đáng thương, tội nghiệp dẫu có đưa ra những
lời giải thích rõ ràng, hợp lí thì cũng không bao giờ thoát khỏi kết thúc đau lòng là bị sói ăn thịt.
Rõ ràng, những điều sói đưa ra để luận tội cừu đều là ngụy lý. Nhưng điều đó không có nghĩa là
chú cừu sẽ tự giải thoát mình bằng những lí lẽ chân xác. “Không cần lý sự với mày nữa. Tao
đang đói bụng đây, vì thế mà tao sẽ ăn thịt mày”. Phát ngôn của sói càng khẳng định sức mạnh
không thể ngăn cản của bọn chủ nô, thống trị trong xã hội.
Bằng ngòi bút tài hoa và bằng tình yêu thương các em thiếu nhi sâu sắc, Lép Tônxtôi đã
góp một phần không nhỏ vào sự nghiệp giáo dục trên thế giới. Truyện viết cho thiếu nhi của ông
tràn đầy tư tưởng nhân văn và ý nghĩa giáo dục. Mỗi câu chuyện không chỉ giúp chúng ta nhận
biết được một khía cạnh khác nhau của cuộc sống mà còn ẩn chứa một bài học hay một thông
điệp ý nghĩa: đoàn kết yêu thương nhau thì không lo bị kẻ xấu hãm hại (Ếch, chuột và diều hâu,
Người cha và các con trai...) ; không nên kiêu ngạo tự phụ, phải tự lượng sức mình (Muỗi và sư
tử, Đại bàng và con chim sẻ, Đại bàng, quạ và người chăn cừu, Hai chú gà trống và đại bàng…);
không nên tham lam (Mụ đàn bà và con gà mái, Gà mái và những quả trứng vàng, Đôi bạn
đường, Chú chuột tham lam…); sống phải lạc quan yêu đời, nên tự dựa vào sức mình, chấp nhận
cuộc sống hiện tại, không nên trông chờ vào phép màu hay may mắn (Thỏ và ếch, Đắm thuyền,
Chuột đồng và chuột nhà...) ; sống trung thực, không nên dối trá nếu không sẽ phải trả một cái
giá đắt (Chú bé chăn cừu...) ; thông minh, tỉnh táo trước những âm mưu quỷ quyệt, không để lòng
tốt bị lợi dụng (Rắn nước và nhím...)… Điều đó cho thấy sự thông thái và tình cảm yêu mến của
nhà văn đối với thế giới loài vật và đối với trẻ thơ.
Nhận diện được giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện ngụ ngôn Lép Tônxtôi, các nhà
biên soạn sách giáo khoa đã đưa vào chương trình tiểu học một số tác phẩm của nhà văn như Nói
dối hại thân trong chương trình lớp 1; Lừa và ngựa, Người thợ săn và con vượn trong chương
trình Tiếng Việt lớp 3…
4.2.3. Hecto Malot với Không gia đình
4.2.3.1. Tác giả
Ngày 20 tháng 5 năm 1830, cậu bé Hecto Henri Malot chào đời tại Labuiơ miền Bắc nước
Pháp. Cha ông là một viên chưởng khế nghiêm khắc còn mẹ ông là một người phụ nữ dịu dàng.
Tốt nghiệp phổ thông, Hecto học luật theo yêu cầu của cha và cũng đã thực tập tại một văn phòng
chưởng khế. Thế nhưng văn học mới là đam mê thực thụ của Hecto. Năm 1853, vở kịch đầu tiên
của ông ra mắt người đọc nhưng không thành công. Con đường đến với văn chương của ông
không vì thế mà đóng lại. Năm 1868, Lucie – con gái đầu lòng của ông chào đời. Lucie trở thành

181
nguồn cảm hứng của nhà văn trong nhiều sáng tác, đặc biệt là Không gia đình. Ngày 17 tháng 7
năm 1907, Hecto Malot mất tại Fontenay Sous Bois.
Hecto Malot là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết. Trong cuộc đời 77 năm của mình, ông đã
viết trên 70 bộ tiểu thuyết. Đặc biệt, ông đã đóng góp cho văn học thiếu nhi nhiều tác phẩm nổi
tiếng như: Romain Kalbris, Trong gia đình, Không gia đình… Ông hai lần được Viện hàn lâm
Pháp trao giải thưởng Montyon cho hai tác phẩm: Không gia đình (1879), Trong gia đình (1894).
Những tiểu thuyết viết cho thiếu nhi của Hecto Malot thường có dấu ấn của truyện cổ tích. Triết
lí ở hiền gặp lành được hiện thực hóa thông qua những cái kết có hậu. Tuy xuất thân từ tầng lớp
tư sản nhưng các tiểu thuyết của ông nhìn chung đều có tư tưởng lành mạnh. Giá trị nhân văn
trong những tác phẩm này là một sức hút lớn đối với bạn đọc, đặc biệt là bạn đọc nhỏ tuổi trên
thế giới.
Không gia đình là tiểu thuyết xuất sắc nhất của Hecto Malot. Tác phẩm xuất bản vào năm
1878 và nhận được sự quan tâm đông đảo của các thế hệ độc giả. Cuốn sách nhanh chóng được
dịch ra hầu hết các thứ tiếng, được chuyển thể thành phim và được bình chọn là cuốn tiểu thuyết
hay nhất về đề tài giáo dục ở Pháp.
4.2.3.2. Tác phẩm Không gia đình
Nhân vật trung tâm của tiểu thuyết là cậu bé Rêmi. Rêmi bị bỏ rơi từ nhỏ và được bà Bácbơ
ranh, một nông dân ở làng Savanông đem về nuôi. Khi gia đình má Bácbơranh lâm vào cảnh túng
thiếu, người bố nuôi đã bán Rêmi cho một gánh xiếc. Mới 8 tuổi nhưng Rêmi đã cùng với cụ
Vitali (chủ gánh xiếc), con khỉ Giôlicơ đi biểu diễn khắp nơi để kiếm sống. Là một người từng
trải, đạo đức, cụ Vitali đã yêu thương và dạy cho Rêmi nhiều điều hay lẽ phải. Nhưng rồi, cụ
Vitali, hai con chó và đàn khỉ lần lượt bị bão tuyết, sói rừng, bệnh tật cướp đi, chỉ còn lại Rêmi và
chú chó Capi. Cả hai may mắn được gia đình bác Acanh cưu mang. Nhưng một trận mưa đá ập
đến làm vỡ tan những khung kính lồng hoa. Gia đình bác Acanh bị phá sản. Không có tiền trả nợ,
bác Acanh bị ngồi tù. Rêmi cùng với con chó Capi và cây đàn lại quay về với nghề hát rong. Trải
qua rất nhiều gian nan, nguy hiểm, Rêmi đã tìm được gia đình đích thực của mình, đó chính là bà
Miligơn – người phụ nữ nhân hậu mà em đã gặp trên thuyền Thiên Nga ngày trước. Đứa bé
không gia đình, nhiều đêm ngủ trong vựa cỏ, bên chuồng bò hay ở giữa trời tại một xó rừng nào
đó đã được về với ngôi nhà của ông cha, được sống những ngày êm đẹp giữa gia đình.
Theo bước chân phiêu lưu của cậu bé Rêmi, bức tranh hiện thực của xã hội tư bản Pháp nửa
cuối thế kỉ XIX hiện ra chân thực và sống động. Hecto Malot đã phản ánh nhiều cảnh đời vào
trong tiểu thuyết của mình. Cụ Vitali, Rêmi… đại diện cho số phận những người hát rong, những
nghệ sĩ đường phố. Họ phải đối diện với trời mưa lạnh dầm dề, có khi gặp bão tuyết phải ngủ lại
giữa rừng với cái lạnh thấu xương, với cái dạ dày rỗng tuyếch cứ réo lên ầm ĩ. Cuộc sống bấp
bênh của người nông dân làm nghề trồng hoa thể hiện rõ ở biến cố của gia đình bác Ácanh. Họ
phải vay tiền mua vườn và phải trả góp trong vòng mười năm. Nếu họ trả không đúng kỳ hạn thì
chủ nợ chỉ chờ có thế mà lấy luôn vườn, nhà, công cụ của họ. Thủ đoạn làm tiền của bọn chủ nợ
đẩy những người nông dân như bác Ácanh đến những nỗi lo sợ thường trực. Họ đã tốn bao công

182
sức, mồ hôi; họ đã cần mẫn chăm chút từng gốc cúc đại đóa, lục lạc, trúc đào… Họ thức dậy
trước khi mặt trời mọc và đi ngủ sau khi mặt trời lặn rất lâu. Họ làm việc không ngừng tay, không
để cho đất nghỉ. Nhưng chỉ một cơn mưa đá đường đột, chóng vánh là thảm họa đã đến. Cả vườn
hoa sắp đến ngày thu hoạch tan hoang. Đứng trước cảnh tượng ấy, bác Ácanh đã ôm con gái khóc
sướt mướt còn Lidơ cũng nước mắt lưng tròng.
Số phận những người thợ ở mỏ than Vácxa cũng không khá hơn. Những vụ sụt hầm, những
vụ nổ, những trận lụt và những tai nạn lao động luôn đe dọa họ. Rêmi đã nhìn thấy bàn tay phải
của Alơxi bị giập vì bị một tảng than to đè lên. Em đã đi vào những đường hầm âm u, buồn tẻ.
“Chiếc đèn tay le lói, tiếng ù ù xa xôi của xe goong lăn trên đường sắt, tiếng róc rách của dòng
nước, thỉnh thoảng tiếng mìn nổ lại xé toang sự lặng lẽ cõi âm này và làm cho nó càng nặng nề,
càng ảm đạm thêm”. Không chỉ thế, chính Rêmi cũng đã trải qua mười bốn ngày kinh hoàng bị
kẹt trong ngách ngược, bị cái lạnh, bóng tối và cái đói hành hạ. “Cái đói càng ngày càng hành hạ
da diết đến nỗi đã có lúc chúng tôi thử nhấm cả gỗ mục mủn ra trong nước. Thằng Carôry háu đói
nhất, đã cắt nhỏ chiếc ủng còn lại của nó và luôn miệng nhá những mẩu da ủng”.
Bên cạnh những kiếp người nhọc nhằn để mưu sinh như thế, Hecto Malot còn vẽ ra cảnh
sống giàu sang của những gia đình quý tộc. Gia đình bà Miligơn là một ví dụ. Tiện nghi của chiếc
thuyền Thiên Nga thể hiện sự sung túc của người phụ nữ người Anh này. “Tôi chưa bao giờ được
trông thấy cái gì vừa xinh đẹp vừa sạch sẽ như thế. Tất cả đều lát ván thông quét dầu. Trên nền
ván có một tấm vải sơn kẻ ô đen trắng. Nhưng không phải chỉ có con mắt là say mê mà thôi đâu.
Khi tôi cởi ảo ngả lưng trên giường, tôi có một cảm giác khoan khoái quả là mới lạ. Đây là lần
đầu tiên những tấm vải lót giường mơn trớn chứ không phải cào xát da thịt tôi”. Chiếc thuyền
chữa bệnh cho Actơ quả là chiếc tàu thủy mỹ lệ nhất, kỳ lạ nhất mà Rêmi thấy. Những tấm vải lót
giường mềm mại, thơm tho là một sự tương phản rất lớn với những tấm vải lót dệt bằng sợi gai
cồm cộm và xù xì ở nhà má Bácbơranh, với những đống rơm hay đống cỏ khô không có vải lót
mà Rêmi thường ngủ trên con đường phiêu lưu.
Trong tiểu thuyết Không gia đình, thủ pháp đối lập đã góp phần làm bật nổi những thân
phận, những tính cách không tương đồng. Có những nhân vật rất đẹp (má Bácbơranh, cụ Vitali,
bà Miligơn, gia đình bác Áccanh, anh Bốp…) và cũng có những nhân vật đáng bị lên án (ông
Bácbơranh, ông chú Giem Miligơn, Garôphôli, gã tuần phiên…). Bà má nông dân Bácbơranh có
một tấm lòng rất đỗi nhân hậu. Bà âu yếm, dịu dàng với Rêmi như là con đẻ. “Mỗi khi tôi khóc
thì luôn luôn có một người đàn bà dịu dàng ôm tôi vào lòng, âu yếm ru, khiến cho nước mắt tôi
ngừng chảy. Mỗi khi tôi lên giường ngủ, cũng có một người đàn bà đến hôn tôi. Và khi gió rét
tháng chạp trát những bông tuyết vào cửa kính trắng xóa, bà ấy vừa ấp ủ chân tôi trong đôi bàn
tay trìu mến của bà, vừa hát cho tôi nghe một bài hát mà giờ đây tôi vẫn còn nhớ điệu và lõm
bõm vài lời ca. Khi tôi chăn con bò sữa ở ven đường đầy cỏ, hoặc ở những đám cây hoang, lá dại
mà gặp một trận mưa dông bất ngờ đổ xuống, thì bà chạy đến đón tôi, bắt tôi núp trong chiếc váy
len của bà và túm váy lên che đầu, che vai cho tôi cẩn thận”.

183
Trong số những nhân vật chính diện thì Rêmi là một nhân vật mà nhà văn đặc biệt nâng
niu, trân trọng hơn cả. “Nó có tình, có nghĩa, đó là dấu hiệu tốt”, đó là cảm nhận ban đầu của cụ
Vitali về em. Và quả thực, Rêmi đã sống đúng với những cảm nhận của người thầy, người bạn,
người cha ngay thẳng, trung thực, tự trọng, nhân từ và rất giàu nghị lực ấy. Trên bước đường lưu
lạc, Rêmi luôn nhớ ơn những người đã cưu mang mình trong cảnh cơ hàn. Em đã dùng số tiền mà
mình nhọc nhằn kiếm được để mua một con bò sữa đưa về làng Savanông nghèo khó tặng má
nuôi.
4.2.4. EdmondodeAmixi với Những tấm lòng cao cả
4.2.4.1. Tác giả
Edmondo de Amixi sinh ngày 31 tháng 10 năm 1846 ở xứ Liguria, trên bờ biển tây bắc bán đảo
Ý. Ngày 24 tháng 6 năm 1866, Amici gia nhập quân đội Ý, chiến đấu dưới lá cờ ba màu. Nước nhà độc
lập, ông từ giã quân ngũ và đi du lịch nhiều nước trên thế giới. Năm 1891, Amixi tham gia Đảng xã hội
Ý, đấu tranh không ngừng cho công bằng xã hội, cho người dân lao động nghèo. Trong những
năm tháng cuối đời của mình, ông gặp những khó khăn trong đời sống tinh thần. Cái chết của
người mẹ gây nên cú sốc trong ông, tình trạng cãi vã liên miên với vợ, việc người con thứ 2 tự
tử... Vì vậy, thời kì này ông sống biệt lập với bên ngoài cho đến khi mất. De Amixi qua đời ở
Boocdighêra tỉnh Giênôva vào ngày 12 tháng 3 năm 1908.
Edmondo de Amixi không phải là người chuyên viết sách về trẻ em, cho trẻ em. Tác phẩm
đầu tay của nhà văn là Cuộc đời quân ngũ. Sau đó, cây bút của ông phiêu lưu cùng thể du kí để
cho ra đời các tác phẩm như: Tây Ban Nha, Hà Lan, Ma rốc... Ông quan tâm đến những vấn đề
lớn trong đời sống nước Ý sau khi thống nhất như vấn đề di dân. Trên đại dương, Truyện một
người chủ ra đời từ mối quan tâm ấy. Như vậy là trong hơn bốn mươi năm cầm bút, Edmondo de
Amixi dành một nửa thời gian cho thể du kí và phê bình văn học, một nửa thời gian viết về các
chủ đề chính trị xã hội. Nhưng ông chỉ thực sự nổi tiếng với hai tác phẩm dành cho trẻ em dẫu hai
tác phẩm này nhà văn không dành thật nhiều công phu. Đó là Những người bạn dí dỏm và Những
tấm lòng cao cả.
4.2.4.2. Tác phẩm Những tấm lòng cao cả
Những tấm lòng cao cả ra đời vào đầu những năm 80 của thế kỉ trước. Xuất bản ngày 17
tháng 10 năm 1886 - ngày tựu trường ở Italia, tác phẩm đã là một hiện tượng và chỉ sau vài tuần
đã có gần 40 phiên bản tiếng Ý. Cho đến nay, tác phẩm đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Có
thể nói, danh tiếng của Edmondo de Amixi trong sáng tác nghệ thuật gắn liền với tác phẩm này.
Với Những tấm lòng cao cả, tên tuổi của nhà văn bước ra khỏi phạm vi một đất nước và đi sâu
vào trí nhớ, tình yêu của rất nhiều độc giả trên thế giới.
Những tấm lòng cao cả là cuốn nhật ký của một cậu bé người Ý, Enricô Bôttini. Qua ghi
chép của cậu học trò nhỏ này, những sự kiện lớn nhỏ diễn ra trong mười tháng của năm học (từ
ngày khai trường tháng Mười đến ngày từ biệt trường vào tháng Bảy) đã hiện lên một cách chân
thực và cảm động. Hệ thống nhân vật đông đảo của truyện có thể được chia thành hai tuyến: nhân

184
vật trẻ con và nhân vật người lớn. Hai tuyến nhân vật ấy có mặt trong cả ba không gian truyện:
truyện kể về những sự việc hằng ngày, truyện đọc hằng tháng, những bức thư. Điểm hòa kết của
ba mảng truyện ấy chính là cái nhìn nhân văn, ấm áp về con người. Cậu học trò nhỏ đã nhìn đời
với cái nhìn tin cậy, yêu thương và luôn lưu giữ những gương mặt đẹp trên những dòng nhật kí
của mình.
Trong số những người bạn của mình, Enricô rất thích Garônê, con của một thợ máy xe lửa.
Người khác nhìn Garônê cũng có thể “chế” cậu một tí vì cậu này lớn và khỏe nhưng cái áo, cái
quần, ống tay, ống chân lại chật quá, ngắn quá; đôi giày thì lại to tướng và chiếc cà vạt quấn
quanh cổ thì như sợi dây thừng. Nhưng với Enricô, những điều ấy có sá gì. “Chỉ cần trông thấy
cậu là đã yêu cậu ngay rồi… Tôi yêu bạn Garônê lắm! Tôi rất vui thích được nắm chặt bàn tay to
tướng của cậu trong tay mình. Tôi tin chắc rằng cậu sẽ không ngại liều mình để cứu một người,
cậu sẽ đem hết sức mình để che chở cho bạn”. Ngay cả giọng nói hơi cộc của bạn, Enricô cũng
cho rằng đó là tiếng vọng của một tấm lòng cao thượng và hào hiệp. Và thực tế thì Garônê đã
sống đúng như cảm nhận của chủ nhân trang nhật kí. Em là một trong rất nhiều hình tượng đẹp
của thiên truyện này đủ sức “chinh phục tất cả mọi tấm lòng”.
Xây dựng nhân vật theo hướng lí tưởng hóa là lối đi của tác giả Những tấm lòng cao cả.
Không lưu giữ lâu những mâu thuẫn, xung đột, các trang nhật kí đẩy những mặt trái của cuộc
sống qua rất nhanh, chỉ để vẻ đẹp tâm hồn người lắng đọng lại. Thầy Pecbôni là một điểm lắng
như thế, rất đẹp, rất thơ của trang nhật kí. Người thầy giáo già này có lúc rất nghiêm khắc trước
trò nghịch dại của học trò, khi đã nói với các em những lời: “Các cậu đã lăng mạ một người bạn
không hề gây sự với mình, các cậu đã nhạo báng một người tàn tật, các cậu đã tấn công một em
bé yếu đuối không có sức chống cự. Các cậu đã làm một việc hèn hạ nhất và nhục nhã nhất, có
thể bôi nhọ lương tâm con người: các cậu là kẻ hèn nhát!”. Thế nhưng, để tạo niềm vui cho các
em, chính người thầy tóc hoa râm và không bao giờ cười ấy đã làm bộ trượt chân, phải bám vào
tường cho khỏi ngã. Thấu hiểu hành động đó, Enricô đã cẩn trọng ghi vào trí nhớ: “Phải chăng đó
là cái phút vui độc nhất của thầy? Một sự đền bù cho chín tháng trời yêu thương, kiên nhẫn và
phiền muộn nữa”.
Lí tưởng hóa nhân vật không đồng nghĩa với việc chỉ tạo ra bức tranh một màu cho tác
phẩm. Một số dư luận cho rằng điểm yếu của tác phẩm là tính cách nhân vật chỉ một chiều, tác
giả sa vào cách điệu hóa nên thành ra sơ lược. Kì thực, vẫn tìm thấy cái nhìn ngược sáng của nhà
văn trong tác phẩm. Ông vẫn tìm về với những cuộc cãi vã, những trò đùa con trẻ có khả năng
làm tổn thương tâm hồn người khác. Ông vẫn kể về tai nạn thương tâm trên đường phố của một
em bé lớp vỡ lòng. Trong truyện vẫn vang lên những câu nói nhức nhối: “Bố mày chỉ là quân khố
rách áo ôm”. Trong tác phẩm vẫn có những nhân vật khiến chúng ta không muốn đến gần.
Phranti là một ví dụ. “Có cái gì làm cho người ta ghê tởm ở cái trán thấp ấy, trong cái nhìn vẩn
đục ấy mà nó che giấu dưới cái mũ có lưỡi trai bằng vải dầu của nó”. Nó nói những lời tục tĩu,
hành hạ nhạo báng bạn và khi đánh nhau thì rất hăng máu với những miếng hiểm độc… Viết về
những điều đó, nghĩa là nhà văn vẫn muốn trả lại cho hiện thực tính khách quan vốn có của nó.

185
Tác phẩm vì thế mà không đơn điệu, một màu. Chỉ có điều như đã nói, những mảng màu buồn ấy
chỉ thoáng qua rất nhanh để nhường chỗ cho sự tiếm vị của những màu sắc khác, tươi tắn và rạng
rỡ.
Miêu tả tâm lí nhân vật là một thành công của tác giả. Ông đã đưa người đọc đi cùng nhân
vật một đoạn đường, để nhìn thấu diễn trình tâm lí nhân vật. Khi bị những người bạn lấy thước,
ném vỏ hạt dẻ vào đầu, gọi mình là con quỷ què…, Crôtxi rất sợ hãi. Em nghe và nhìn với đôi mắt
van lan, cầu mong sự yên thân. Nhưng khi bọn chúng càng “làm già”, em đã run lên và mặt đỏ
bừng vì tức giận. Và khi Phranti nhại hành động mẹ Crôtxi khi bà đón em ở cổng trường thì Crôtxi
liền mất bình tĩnh, chộp lấy lọ mực và dùng hết sức ném vào Phranti. Cách phát triển tâm lí nhân
vật như thế là rất thật, rất hợp lí, thể hiện khả năng quan sát cùng sự am hiểu đặc điểm tâm lí người
của nhà văn. Với những điều đó, ở một số chương, De Amixi đã làm cho người đọc hồi hộp với
từng bước chuyển của thế giới nội tâm nhân vật.
Truyện kết cấu theo ba tuyến rất rõ ràng và đã có sự xê dịch của không gian nghệ thuật
trong các tuyến truyện. Tuy nhiên, không gian trung tâm vẫn là trường học. Tác phẩm mở đầu
bằng ngày khai trường và kết thúc với lời từ biệt không gian thân thuộc và nhiều kỉ niệm này.
Nhân vật đã sống, đã hình thành và phát triển nhân cách từ chính ngôi trường. Ở đấy, Enricô đã
có những cuộc hạnh ngộ với những tấm lòng cao cả của thầy cô, bè bạn, của những bậc phụ
huynh. Ở đó, người thầy giáo tóc hoa râm và không bao giờ cười đã làm bộ trượt chân để tạo nên
tiếng cười cho học sinh như một sự đền bù cho chín tháng trời yêu thương, kiên nhẫn và cả phiền
muộn nữa. Ngày khai trường, Enricô vì mải nhớ thôn quê nên đến trường với tâm lí miễn cưỡng.
Những ngày sống trong không gian này, Enricô đã có sự phát triển nhân cách theo chiều hướng
tốt. Đã có lúc em cay đắng và gần như cay cú, sinh lòng đố kị trước sức học của Đêrôtxi. Đã có
lúc em vô tâm trước cảnh ngộ của một con người và vô ý trong cách ứng xử. Nhưng khi thiên
truyện khép lại thì chúng ta đã được gặp gỡ một cậu bé chín chắn trong nhận thức và suy nghĩ.
Cậu cũng là một trong thế giới nhân vật cao cả ấy. Chính vì thế mà mẹ của Enricô đã tri ân với
ngôi trường rằng: "Trường học là một bà mẹ hiền, Enricô ạ! Trường học đã nhận con từ hai tay
mẹ lúc con vừa mới biết nói, nay trả con lại cho mẹ, khỏe mạnh, ngoan ngoãn, chăm chỉ! Mẹ cầu
chúc cho nhà trường, còn con, con không nên bao giờ quên nhà trường con ạ! Sau này con thành
người lớn con sẽ đi vòng quanh thế giới, sẽ thấy những đô thị mênh mông, và những lâu đài tráng
lệ, nhưng con sẽ nhớ mãi mãi cái ngôi nhà quét vôi trắng tầm thường ấy với những cửa chớp
đóng kín, khu vườn rợp bóng cây, là nơi đã nảy đóa hoa đầu tiên của trí tuệ con; con sẽ nhìn thấy
ngôi trường ấy cho đến ngày cuối cùng của đời con, cũng như mẹ đây, mẹ sẽ nhớ mãi ngôi nhà
mà ở đấy nghe tiế ng nói đầu tiên của con vậy".
Những tấm lòng cao cả không chỉ là câu chuyện của những đứa trẻ. Đằng sau những ghi
chép tưởng như tản mạn, vụn vặt của Enricô còn là bóng dáng của lịch sử, của thời đại. Người
đọc tinh ý sẽ nhận ra hàng rào giai cấp, sự tương phản về cảnh sống trong xã hội Ý đương thời
qua các chương truyện như Bác bán than với ông quý tộc, Những người bị thương tật vì tai nạn
lao động, Những người bố mẹ học sinh, Cậu bé chết… Số phận vất vả của những người làm nghề

186
giáo cũng in đậm trong từng trang viết. Nhiều lúc, tác giả còn đẩy cảm hứng hiện thực vào mảng
truyện đọc hàng tháng. Cậu bé đánh trống người Xácđênha đưa người đọc quay về với trận đánh
diễn ra ở Cutxtôtza, một ngôi làng ở xứ Vênêzia vào ngày 21 tháng bảy năm 1848. Cuộc chiến
tranh của nhân dân Ý chống lại Áo được tác giả nhắc đến chính là một phần của lịch sử đất nước
này.
Với tác phẩm này, nhà văn Edmondo de Amixi đã rất thành công trong việc trình bày
những bài học giáo dục mang tính nhân văn. Mỗi một nhân vật là một tấm gương để chúng ta soi
mình. Mỗi một tấm lòng cao cả ở một góc độ nào đó có thể là một hình mẫu để ta nương theo.
Tác giả không dành sứ mệnh giáo dục đó cho riêng một nhân vật nào. Những người thầy, người
cô yêu thương học trò, gắn bó với nghề; những nhân vật thiếu nhi rất đẹp trong những truyện đọc
hàng tháng… đó đều là những người có thể dạy trẻ phải yêu kính tất cả mọi sự trên đời, bởi trong
lồng ngực những con người ấy đang có những trái tim tuyệt vời. Và để triệt để hơn, rõ ràng hơn
trong ý đồ giáo dục, nhà văn còn mượn sức nặng của những bức thư. Bức thư có tựa đề Ngoài
đường phố của bố xuất phát từ sự kiện Enricô va phải một bà đi đường. Người bố đã tái hiện lại
hình ảnh con mình những lúc ở nhà, lúc con rất cân nhắc mọi cử chỉ, việc làm... để khiển trách sự
bất cẩn của Enricô khi đi lại trên đường. Bên cạnh đó, người bố còn phác họa những không gian
mới đi kèm với tình huống mới để hướng Enricô đến cách xử sự nhân văn. Bức thư khép lại với
những lời khuyên Enricô hãy giữ lấy tình yêu, sự gắn bó với không gian con đường thành phố -
nơi gặp gỡ những bàn chân và cả những tấm lòng. Bởi lẽ, "trong thành phố ấy, con đã đi những
bước đầu tiên do bàn tay thận trọng của mẹ con dìu dắt; con đã học ở đấy những năm tháng đầu
tiên, ở đấy con có được những người bạn đầu tiên của con. Hãy yêu thành phố của con, yêu các
phố phường và nhân dân trong thành phố..." Khi buồn lòng về cách trả lời với bố của Enricô,
người mẹ cũng đã viết thư, đã đưa em đến với một không gian tưởng tượng. "Con hãy nghĩ đến
cái ngày... cái ngày mà nằm trên giường bệnh sắp chết, bố cho gọi con lại mà nói: Enricô, bố vĩnh
biệt con... Bấy giờ con sẽ thấy bao nhiêu biến đổi xảy ra chung quanh con. Cái nhà này sẽ trống
trải như thế nào với mẹ tội nghiệp của con mặc toàn màu đen...".
Nhận định về giá trị của tác phẩm, Hoàng Thiếu Sơn cho rằng, trong văn học Ý, Những tấm
lòng cao cả không giữ địa vị một đại tác, nhưng trong sự nghiệp giáo dục của một thế giới thì đã
có tác dụng không nhỏ. Với những gì đã làm được trong hơn một trăm năm qua, Những tấm lòng
cao cả thực sự là một quyển sách gối đầu cho những nhà giáo dục.
4.2.5. Tetsuko Kuroyanagi với Totochan, cô bé bên cửa sổ
4.2.5.1. Tác giả
Tetsuko Kuroyanagi sinh ngày 09 tháng 08 năm 1933 tại Noghisaka, Tokyo, Nhật Bản. Cô
có người cha là nghệ sĩ Violon ấy vốn rất mơ mộng và giàu xúc cảm. Cái nôi của truyền thống
gia đình đã ảnh hưởng không nhỏ đến những bước đi trong cuộc đời Tetsuko. Từng là học sinh
trường tiểu học Tômôe, là sinh viên trường Cao đẳng Âm nhạc Tokyo, chuyên ngành Opera
nhưng sau khi tốt nghiệp, chị lại tham gia diễn xuất và tràn trề hứng thú bước vào ngành công

187
nghiệp giải trí. Tetsuko được huấn luyện thành nghệ sĩ sân khấu tại nhà hát Bungakuza, Tokyo và
Mary Tarcai Stuđio ở NewYok, Mỹ. Sau khi đóng vai Penelope trong loạt chương trình
Thunderbirds trên truyền hình, Kuroyanagi bắt đầu với chương trình Tetsuko’s Room chuyên bàn
luận các chủ đề xã hội, chính trị, thể thao. Chương trình được phát vào buổi chiều trên kênh
truyền hInh tư nhân Television Asahi và được coi là một “hiện tượng” ở Nhật Bản thời điểm đó.
Chân dung của người phụ nữ Nhật nhu mì được thay thế bởi một hình ảnh mới đầy năng động và
sáng tạo. Chính chất giọng truyền cảm, ấm áp, phong cách thân thiện cũng như nghệ thuật phỏng
vấn khéo léo đã khiến cho chương trình này sống được trong lòng khán giả. Cho đến đầu những
năm 1990, chị đã phỏng vấn trên 2000 người Nhật Bản và du khách nước ngoài, đem đến cho
Tetsuko’s Room một sự sinh động và kênh thông tin đa dạng. Giải thưởng văn hóa Đài Phát
thanh (Cultural Broadcasting Award) chính là sự tôn vinh cao nhất trong lĩnh vực truyền hình mà
Tetsuko’s Room và cả Kuroyanagi nhận được sau những nỗ lực lao động. Chị còn được bầu là
nghệ sĩ hạng nhất của truyền hình Nhật Bản tất cả 14 lần.
Khán giả Nhật Bản rất quen thuộc với hình ảnh Tetsuko trong trò chơi truyền hình World
Mysteries (Những bí ẩn của thế giới). Sau những vai diễn, sau những thành công ở những chương
trình truyền hình, chị còn là một nhà từ thiện tích cực, là người sáng lập quỹ Totto Foundation
chuyên huấn luyện các nghệ sĩ câm điếc. Và sau diễn viên Mỹ Đanni Kaye, diễn viên Anh Peter
Ustinôp, diễn viên Nauy Lip Ulmas, Tetsuko Kuroyanagi trở thành đại sứ thiện chí của UNICEF
năm 1984. Chị là người Châu Á đầu tiên nắm giữ cương vị này. Trong vai trò của một sứ giả
thiện chí, chị đã đến thăm nhiều nước đang phát triển ở Châu Á, Châu Phi, giúp đỡ trẻ em bệnh
tật và nạn nhân chiến tranh. Việt Nam là một trong những điểm dừng chân của chị. Dấu vết chiến
tranh còn hằn in trên từng cơ thể trẻ thơ, những nơi mà chị đến khiến trái tim Tetsuko thêm một
lần nhức nhối. Kuroyanagi đã đánh động nhận thức của thế giới về tình trạng trẻ em ở các nước
nghèo đói và gửi thông điệp yêu thương ấy qua chiếc dịch toàn cầu Say Yes For Children của
UNICEF. Với tất cả những cống hiến và tâm huyết của mình cho trẻ em, chị được UNICEF – lần
đầu tiên trong lịch sử - vinh danh các việc làm phi thường của nữ đại sứ thiện chí bằng giải
thưởng Leadership for children. Ngày 12 tháng 5 năm 2003, Nhật Bản cũng đã trao các huân
chương The Order of the Sacred Treasure, Gold Rays with Neck Ribbon cho con người đã “hết
lòng phụng sự cho trẻ em” ấy. Chị còn nhận được giải thưởng đặc biệt nhân ngày lễ vinh danh
Người khuyết tật toàn cầu ở Nhật Bản vì những đóng góp lớn lao của mình.
Tetsuko Kuroyanagi là người phụ nữ đa tài, mang “bản tính nghệ sĩ”. Trong cuốn sách
Japanese portraits: Pictures of different people (Nhật Bản, những khuôn mặt khác) xuất bản năm
2006, chị được tác giả Donald Richie giới thiệu như một “người phụ nữ Nhật Bản được ngưỡng
mộ và biết đến rộng rãi nhất”. Hành trình đến với văn học thiếu nhi của Kuroyanagi dẫu chỉ như
sự tìm về với hồi ức của ấu thơ nhưng nó thực sự đã mang lại những cảm nhận trong trẻo, đáng
yêu về một cô bé đầy cá tính trong một không gian của “những giá trị giáo dục xa lạ”: trường tiểu
học Tômôe Gakuer Kobayashi. Chỉ với một tác phẩm, Tetsuko đã được cả thế giới biết đến như
một nhà văn của thế kỷ XX và sức ngân hưởng của tác phẩm này, đến nay vẫn còn vang vọng
mãi.

188
Tetsuko Kuroyanagi đến với văn học thiếu nhi như một cái duyên thầm lặng. Những tác
phẩm của chị mang đậm tính chất của những “hồi ức”, những hoài niệm ngọt ngào. Trong số các
tác phẩm của Tetsuko có thể kể đến Từ NewYork trở về mang theo tình yêu (năm 1972), Gấu
Padan và tôi, Tottochan, cô bé bên cửa sổ… Từ New York trở về mang theo tình yêu là những kí
ức ngọt ngào ghi lại thời gian Kuroyanagi học ở NewYork trong khi Gấu Padan và tôi lại là
thông điệp thấm đẫm tình yêu đối với thiên nhiên. Tetsuko Kuroyanagi là người nhiều năm gắn
bó với các hoạt động bảo vệ gấu trúc – một loại gấu đẹp, hiếm. Chị là giám đốc Quỹ quốc tế bảo
vệ thiên nhiên sống của Nhật Bản. Mỗi tác phẩm của Tetsuko Kuroyanagi đều ghi dấu những
chặng đường đã qua, đều rất đỗi chân thật. Trong thế giới “bé nhỏ và đáng yêu” ấy, văn học thiếu
nhi là một nốt lặng nhưng sức ngân hưởng của nó lại là mãi mãi.
Tetsuko từng nói: “Trẻ thơ cho tôi sức mạnh”, “Tôi là Tetsuko Kuroyanagi và tôi tin rằng
tất cả trẻ em đều có quyền sống và được sống, được bảo vệ sức khỏe, hòa bình và nhân phẩm”.
Tại một điểm dừng chân trong chặng hành trình của UNICEF, chị nói: “Mang đến tình yêu mến
là quan trọng hơn chỉ xây dựng một căn nhà tiện nghi cho các em”. Sáng tác không nhiều và
những tác phẩm dành cho thiếu nhi cũng rất khiêm tốn song văn học thiếu nhi là mảng màu
không thể mờ phai trong hành trình văn học của Kuroyanagi. Giải thưởng của Thư viện hòn đá
bên lề đường hay sự tôn vinh của báo chí các nước, nơi mà Tottochan đặt chân đến sẽ không thể
nào sánh được những yêu thương mà thiếu nhi thế giới dành cho tác giả của một trong số các tác
phẩm tuyệt vời nhất viết cho trẻ em: Tottochan, cô bé bên cửa sổ. Đây là cuốn sách đưa Tetsuko
Kuroyanagi đến với công chúng văn học, đặc biệt là trẻ em. Chị đã rất hạnh phúc khi một bé trai
trường tiểu học ở Mỹ viết cho mình những dòng thân thương: “Tottochan, bạn có phải là một bạn
gái xinh đẹp không? Nếu xinh đẹp bạn có thể tới nhà tôi ăn cơm tối”. Một số chương trong
Tottochan, cô bé bên cửa sổ như Ông giáo nhà nông (Thầy giáo nông nghiệp) và Ngôi trường cũ
đổ nát đã được đưa vào giảng dạy trong sách giáo khoa lớp Ba và sách giáo khoa đạo đức luân lý
lớp 4 ở Nhật Bản.
Sau Tottochan, cô bé bên cửa sổ, gần đây nhất, chị đã hoàn thành tác phẩm Tottochan’s
children: A goodwill journey to the children of the world (Tottochan của trẻ thơ: một hành trình
thiện chí cho trẻ em trên thế giới). Cuốn sách là những kinh nghiệm được đúc kết qua các chuyến
đi của UNICEF.
4.2.5.2. Tác phẩm Tottochan, cô bé bên cửa sổ
Không thể trở thành cô giáo của Tômôe như lời hứa năm xưa, Tetsuko Kuroyanagi quay trở
lại không gian ấy bằng một cuốn tự truyện có tên: Tottochan, The Litter Girl at the window
(Tottochan, cô bé bên cửa sổ). Tác phẩm được khởi thảo từ tháng 2 năm 1979 và hoàn thành vào
tháng 12 năm 1980. Đây là một cuốn tự truyện về chuỗi kí ức thời thơ ấu của Tottochan Tetsuko
Kuroyanagi . Chị đã từng nói: “Tôi không hư cấu một tình tiết nào cả. Tất cả đều là những sự
kiện đã diễn ra”. Bằng những mẩu chuyện nhỏ có thật, tác giả đã làm sống lại hình ảnh một ngôi
trường tiểu học xưa – nơi có những người mà chị yêu quý với bao kỷ niệm ngọt ngào, đáng trân
trọng. Trong hồi ức đó còn có hình ảnh gia đình thân thuộc gắn bó với Tottochan, có hình ảnh

189
của những gương mặt em bất chợt gặp trên đường hay bất kỳ nơi nào. Tất cả ùa về trong những
trang truyện. Tetsuko Kuroyanagi luyến tiếc miền kí ức dịu ngọt ấy. Dẫu biết mảnh đất xưa
chẳng để lại dấu tích trường cũ, ở đó hiện là siêu thị Pêaxốc và bến đỗ xe, nhưng chị vẫn đi theo
sự thúc giục của trái tim để tìm lại tuổi thơ ngày nào.
Ở tác phẩm này, Tetsuko Kuroyanagi đã kể lại những ngày tháng êm đềm và hạnh phúc ở
mái trường cấp một – nơi tác giả “mãi mãi yêu thích nhất”. Cô bé đã khóc, đã cười, đã tỏ ra mình
là người lớn. Những câu chuyện thường ngày trong nhà, ngoài phố và ở trường của một cô bé sáu
tuổi sao mà vui nhộn đến thế. Các chi tiết hài hước lúc ăn cơm, khi vui đùa, trong giờ học, kể cả
lúc đi vệ sinh đều được Tetsuko khắc chạm một cách tài hoa. Tâm điểm của kỉ niệm, nơi lưu giữ
những kỉ niệm ngọt ngào, nơi chắp cánh cho những ước mơ của cô bé Tottochan ngày nào là
trường tiểu học Tômôe. Ở đó có người thầy hiệu trưởng Kobayashi – người có ảnh hưởng và để
lại nhiều ấn tượng sâu sắc nhất đối với cô học trò đầy cá tính. Ở đó Tottochan đã tự do phát triển
cá tính, tâm hồn. Nỗi buồn vì bị lạnh lùng, xa lánh, bị đẩy ra ngoài cửa sổ ngay năm học đầu tiên
của cuộc đời ở trường Tiểu học cũ đã bay đi, chỉ còn lại một không gian hồn nhiên, trong trẻo,
ấm áp tình thân. Xuất hiện trong hồi ức của nhà văn, tuổi thơ của cô bé Tottochan đến với người
đọc thật dễ thương, dễ nhớ. Độc giả thích thú với hình ảnh một cô bé hay tò mò, có thói quen
nhìn vào hầm chứa phân sau khi đi vệ sinh; một cô bé luôn rách quần áo với trò chơi “Xin lỗi,
cho phép tôi vào chứ”; một cô bé không ngần ngại vay thầy hiệu trưởng hai mươi xu để mua vỏ
cây đoán sức khỏe cho mọi người…
Tuy nhiên, tác phẩm Tottochan, cô bé bên cửa sổ không chỉ gợi lại kỉ niệm riêng Tetsuko
mà ta còn bắt gặp ở đó những gì hạnh phúc, đáng nhớ, đáng trân trọng của tất cả những cô, cậu
từng may mắn là học sinh Tômôe. Những người học trò năm xưa giờ đã xấp xỉ 40, 50 tuổi, nhưng
cứ đến ngày mồng 3 tháng 11, một ngày trong chương trình Những ngày thể thao tuyệt diệu lại
kéo nhau về, để gọi nhau bằng những cái tên cúng cơm thân mật thuở nào, để ôn lại những kỉ
niệm đã qua. Và mỗi học sinh xem đó là di sản lớn nhất, quý giá nhất mà người thầy kính yêu
Kobayashi đã gửi lại trong miền nhớ.
Tác giả viết cuốn sách để làm sống lại những kỉ niệm trong trái tim những ai từng là học
sinh Tômôe. Và để cho tất cả mọi người được lạc vào chuỗi hồi ức, được cảm nhận hạnh phúc, sự
tuyệt diệu của trường Tômôe – nơi mà họ có thể chưa một lần đặt chân đến. Hình ảnh về một
ngôi trường bé nhỏ thấp thoáng trong dòng kí ức, để rồi một lúc nào đó dường như đang hiện hữu
trước mắt Tottochan “khờ dại”, “ngốc nghếch” và “đáng yêu” của ngày xưa. Viết về Tômôe là
viết về một phần của kỉ niệm, nơi bóng dáng thân thương của thầy hiệu trưởng luôn mang lại
những nét khắc chạm đằm sâu trong nỗi nhớ. Người thầy ấy đã tin rằng “tất cả trẻ em bẩm sinh
vốn tốt đẹp”, người luôn mong muốn “khám phá bản chất” của các em và phát triển nó, để giúp
các em trở thành những con người với những phẩm chất riêng. Đó cũng là người “đánh giá cao
tính hồn nhiên và muốn để cho các đặc tính của trẻ em được phát triển càng tự nhiên càng tốt”. Người
đọc ngỡ ngàng khi đọc các chương truyện như: Thức ăn của biển và đất, Nhai cho kĩ, Dọn đi cho
sạch, Bể bơi, Kì nghỉ hè bắt đầu, Thử thách lòng dũng cảm, Em thật là một cô bé ngoan… Trí nhớ

190
tuyệt vời của Tetsuko Kuroyana gi đã giúp người đọc gặp gỡ được với một người thầy có phương
pháp giáo dục rất đặc biệt, một điểm sáng của nền giáo dục Nhật Bản đương thời. Quả thực, là
“bản cáo trạng thầm lặng về một nền giáo dục không có kết quả” (New York Times), Tottochan,
cô bé bên cửa sổ ra đời và được đón nhận mạnh mẽ không chỉ bởi “lối viết kể chuyện làm rung
động trái tim người đọc” mà còn bởi nó chứa đựng trong lòng những bài học về giáo dục. Một
cách tự nhiên, chị đến với bạn đọc nhỏ tuổi, thổi một làn gió mát mẻ, trong lành vào thế giới tuổi
thơ. Chị bỏ quên trên văn đàn một cái tên, để rồi nó lặng lẽ đi vào giấc ngủ của hàng triệu em bé
ở những “địa chỉ” khác nhau: Tottochan.
HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 4
I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
Sinh viên có cái nhìn tổng quan về văn học thiếu nhi nước ngoài trong chương trình Tiếng Việt
tiểu học. Những kiến thức liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, giá trị nội dung và nghệ thuật của
một số tác giả tác phẩm tiêu biểu như: Anđécxen và truyện cổ của Anđécxen, Hecto Malot và tiểu
thuyết Không gia đình, Edmondo de Amici và Những tấm lòng cao cả, Lép Tônxtôi với Kiến và chim
bồ câu, Tetsuko Kuroyanagi với tác phẩm Totochan, cô bé bên cửa sổ là kiến thức cơ bản của chương
mà sinh viên cần nắm.
II. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP THỰC HÀNH
1. Phân tích những giá trị nội dung cơ bản của văn học nước ngoài trong chương trình Tiếng Việt
tiểu học hiện hành.
2. Bằng ví dụ cụ thể, hãy làm sáng rõ vai trò của văn học thiếu nhi nước ngoài đối với thiếu nhi
Việt Nam.
3. Giá trị nhân văn của truyện Người mẹ (Anđecxen, Tiếng Việt 3, Tập 1, Nxb Giáo dục, 2004).
4. Nghệ thuật tương phản trong tiểu thuyết Không gia đình của Hecto Malot.
5. Phân tích truyện Chó sói và cừu non để làm sáng rõ những đặc trưng nghệ thuật truyện ngụ
ngôn của Lép Tônxtôi.

Chó sói và cừu non


Chó sói nhìn thấy một chú cừu non uống nước bên sông. Chó sói muốn ăn thịt cừu non, thế
là nó hoạnh họe cừu:
- Mày làm đục dòng nước, vì thế mà tao không uống được.
Chú cừu con cãi lại:
- Ông sói ơi, cháu làm sao có thể làm đục nước của ông? Bởi vì cháu đứng ở cuối dòng
nước, hơn nữa lại chỉ chúm miệng uống nước bằng đầu môi mà thôi.
Nhưng sói lại nói:
- Được, thế tại sao mùa hè năm ngoái mày chửi bố tao?
Cừu non đáp:

191
- Thưa ông sói, mùa hè năm ngoái cháu còn chưa ra đời.
Sói nổi cáu nói át:
- Không cần lí sự với mày nữa. Tao đang đói bụng đây, vì thế mà tao sẽ ăn thịt mày.
6. Nhân vật Totochan trong tác phẩm Totochan, cô bé bên cửa sổ của Tetsuko Kuroyanagi.
7. Phương pháp giáo dục đặc biệt của thầy Kôbayasi trong tác phẩm Toto chan, cô bé bên cửa sổ của
Tetsuko Kuroyanagi.
8. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Những tấm lòng cao cả của Edmondo de Amixi.
III. GỢI Ý GIẢI BÀI TẬP
1. Sinh viên nêu và lấy ví dụ phù hợp để làm rõ những nội dung lớn mà của văn học thiếu nhi
nước ngoài trong chương trình Tiếng Việt tiểu học: lòng nhân ái, tình yêu quê hương đất nước, đề
cao trí tuệ con người, ca ngợi lòng dũng cảm và những phạm trù đạo đức khác…
2. Trình bày khái quát vai trò của văn học thiếu nhi nước ngoài với học sinh tiểu học. Lựa chọn
tác phẩm tiêu biểu để phân tích, làm sáng rõ những vai trò ấy.
3. Gợi ý:
- Trình bày khái quát những biểu hiện của tính nhân văn trong truyện của Anđecxen. Tính
nhân văn thường được biểu hiện bằng những triết lí nhẹ nhàng pha lẫn chút buồn thương nhưng
thâm trầm có khi trở thành châm ngôn, phép đối nhân xử thế, gần gũi với người lao động. Đặc
biệt, truyện Andersen thường hướng đến ca ngợi vẻ đẹp của con người.
- Phân tích truyện Người mẹ để làm rõ những biểu hiện cơ bản đó.
4. Lưu ý đến những tương phản cơ bản sau trong tiểu thuyết Không gia đình của Hecto Malot:
- Tương phản giữa không gian sống của người thượng lưu và người bình dân
- Tương phản nội tại trong mỗi một nhân vật: tương phản giữa thân phận và phẩm chất,
tương phản giữa hành động và tâm lí…
- Tương phản về giọng điệu
5. Phân tích truyện Chó sói và cừu non để làm rõ lý thuyết về nghệ thuật truyện ngụ ngôn của Lép
Tônxtôi. Chú ý đến một số phương diện cơ bản: nhân vật trung tâm, nghệ thuật xây dựng nhân vật,
kết cấu của truyện ngụ ngôn…
6. Totochan, cô bé bên cửa sổ của Tetsuko Kuroyanagi là một tác phẩm có tính tự truyện. Mức
độ chân thực của chi tiết trong tác phẩm rất cao. Nhân vật Totochan là hình ảnh của nhà văn
trong quá khứ. Kết nối các chương truyện, lấy ví dụ tiêu biểu để làm rõ đặc điểm tâm lí, tính cách
của nhân vật này (sự ngây thơ, hồn nhiên; tâm hồn giàu xúc cảm, nhân hậu; cá tính; tò mò, thích
khám phá thế giới…).
7. Tác phẩm Totochan, cô bé bên cửa sổ của Tetsuko Kuroyanagi được xem là bản cáo trạng về
nền giáo dục Nhật Bản đương thời. Tác giả đặc biệt thể hiện sự tôn vinh, ngưỡng vọng với thầy
hiệu trưởng Kôbayasi. Đọc kĩ các chương Thức ăn của biển và đất, Nhai cho kĩ, Dọn đi cho sạch,

192
Bể bơi, Kì nghỉ hè bắt đầu, Thử thách lòng dũng cảm, Em thật là một cô bé ngoan… để làm rõ
phương pháp giáo dục đặc biệt mà thầy hiệu trưởng này đã áp dụng ở trường tiểu học Tômôe.
8. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Tấm lòng cao cả của Edmondo de A mici rất đông đúc nhưng có
thể hệ thống hóa theo hai tuyến: tuyến nhân vật người lớn và tuyến nhân vật trẻ con. Quan điểm
chung của nhà văn là luôn đi tìm những “hạt ngọc” đang ẩn giấu đằng sau mỗi một con người.
Chú ý đến nghệ thuật miêu tả của nhà văn, một thủ pháp có hiệu quả lớn trong việc tạo ra nét
điển hình cho từng nhân vật.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Thị Lanh (Chủ biên) (2002), SGK Tiếng Việt 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Lã Thị Bắc Lý (2003), Giáo trình Văn học trẻ em, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
3. Lê Thị Hoài Nam (2004), Bài giảng Văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
4. Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên), SGK Tiếng Việt 2, 3, 4, 5, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2003,
2004, 2005, 2006.
5. Cao Đức Tiến (1997), Văn học thiếu nhi, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

193
ChÞu tr¸ch nhiÖm néi dung:
Pgs.Ts. NguyÔn v¨n hßa
Biªn tËp:
Tæ c«ng nghÖ th«ng tin
Phßng kh¶o thÝ - ®¶m b¶o chÊt l−îng gi¸o dôc

194
195

You might also like