You are on page 1of 28

BỘ TƯ PHÁP BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HỌ VÀ TÊN: NGUYỄN THỊ THU


MỴ
MSSV: 452938

BÁO CÁO THỰC TẬP CHUYÊN MÔN


TÊN CHUYÊN ĐỀ BÁO CÁO THỰC TẬP
CHUYÊN MÔN: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT
CÁC TRƯỜNG HỢP LY HÔN TẠI TÒA ÁN

(CHUYÊN ĐỀ THUỘC BỘ MÔN: LUẬT HÔN


NHÂN GIA ĐÌNH )

CƠ SỞ THỰC TẬP:
TAND HUYỆN THƯỜNG TÍN

Hà Nội - 2023
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là báo cáo thực


tập do tôi thực hiện trong thời gian
thực tập tại cơ quan tiếp nhận thực tập.
Các nội dung trong báo cáo là trung
thực, đảm bảo độ tin cậy ./.

Xác nhận của Tác giả báo cáo thực tập


Cán bộ hướng dẫn thực tập
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TAND : Toà án nhân dân

TANDTC : Toà án nhân dân tối cao

BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự

BLDS : Bộ luật dân sự

HN&GĐ : Hôn nhân và gia đình

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

HĐXX : Hội đồng xét xử

CHXHCN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

CNTTLH : Công nhận thuận tình ly hôn


1

MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu về cơ sở thực tập
1.1. Cơ cấu tổ chức
Huyện Thường Tín là một huyện ngoại thành thuộc sự quản lý của thành phố Hà
Nội, nằm dọc quốc lộ 1A, phía Bắc giáp huyện Thanh Trì; phía Nam giáp huyện Phú
Xuyên; phía Đông giáp huyện Văn Giang và huyện Khoái Châu của tỉnh Hưng Yên qua
sông Hồng; phía Tây giáp huyện Thanh Oai. Với tổng diện tích tự nhiên 13.012,94 ha
và dân số khoảng 230.000 người (số liệu năm 2020) huyện có 29 đơn vị hành chính cấp
xã trực thuộc bao gồm: thị trấn Thường Tín (huyện lỵ) và các xã khác là: Vân Tảo, Văn
Tự, Văn Phú, Văn Bình, Vạn Điểm, Tự Nhiên, Tô Hiệu, Tiền Phong, Thư Phú, Thống
Nhất, Thắng Lợi, Tân Minh, Quất Động, Ninh Sở, Nhị Khê, Nguyễn Trãi, Nghiêm
Xuyên, Minh Cường, Liên Phương, Lê Lợi, Hồng Vân, Khánh Hà, Hòa Bình, Hiền
Giang, Hà Hồi, Duyên Thái, Dũng Tiến, Chương Dương.
TAND huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội được thành lập năm 2005 có địa chỉ
tại Tiểu khu Nguyễn Du, thị trấn Thường Tín, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.
TAND huyện Thường Tín hiện có 13 công chức, trong đó có 5 thẩm phán, 6 thư ký; 1
thẩm tra viên; 1 kế toán và 3 nhân viên hợp đồng (trong đó bao gồm 1 lái xe, 1 bảo vệ,
1 tạp vụ) . Các đồng chí lãnh đạo của tòa bao gồm:
Chánh án: ông Nguyễn Anh Đoàn
Phó chánh án: ông Phạm Trung Hòa
Phó chánh án: ông Nguyễn Anh Tuấn
Đội ngũ cán bộ của cơ quan đều là những cán bộ ưu tú và có nhiều năm kinh
nghiệm trong lĩnh vực pháp luật, luôn thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong
việc xét xử và việc thực hiện quyền tư pháp, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các đương sự; thực thi công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa của Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Tất cả nhân sự đều được phân
công nhiệm vụ cụ thể theo chức danh và trình độ chuyên môn của từng cán bộ trong cơ
quan.
Chánh án TAND huyện Thường Tín (ông Nguyễn Anh Đoàn) do Chánh án
TANDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức với nhiệm kỳ bổ nhiệm là 05 năm, kể từ
ngày được bổ nhiệm. Chánh án TAND huyện Thường Tín, Hà Nội có các nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây: Thứ nhất, tổ chức công tác xét xử của TAND huyện Thường Tín, Hà
Nội; chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật. Thứ hai, báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân có
thẩm quyền theo luật định và TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Thứ ba, thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của luật tố tụng; giải quyết việc khác theo quy
định của pháp luật.
Phó Chánh án TAND huyện Thường Tín, gồm ông Phạm Trung Hòa và ông
Nguyễn Anh Tuấn, do Chánh án TANDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức với nhiệm
kỳ bổ nhiệm là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm. Phó Chánh án TAND huyện Thường
2

Tín thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án. Khi Chánh án vắng mặt, một
Phó Chánh án được Chánh án ủy nhiệm lãnh đạo công tác của Tòa án. Phó Chánh án
chịu trách nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó Phó chánh án
cũng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của luật tố tụng.
Thẩm phán TAND huyện Thường Tín, gồm ông Nguyễn Anh Đoàn, ông Phạm
Trung Hòa, ông Nguyễn Anh Tuấn, bà Đoàn Lan Hương, và bà Trần Thị Thu Hiền là
những người đủ điều kiện, tiêu chuẩn được Chủ tịch nước bổ nhiệm với nhiệm kỳ 05
năm để thực hiện nhiệm vụ xét xử các vụ án, vụ việc.
Thư ký TAND huyện Thường Tín gồm bà Hứa Thị Hà, bà Đặng Thị Thanh Huyền,
bà Vũ Hà Anh đều là những cán bộ có trình độ cử nhân luật trở lên được Chánh án
TAND tỉnh tuyển dụng, đào tạo nghiệp vụ Thư ký Tòa án và bổ nhiệm vào ngạch Thư
ký Tòa án để làm Thư ký phiên tòa, tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của
luật tố tụng, thực hiện nhiệm vụ hành chính, tư pháp và nhiệm vụ khác theo sự phân
công của Chánh án Tòa án.
Thẩm tra viên TAND huyện Thường Tín – bà Nguyễn Thị Thúy Hảo là công chức
chuyên môn của Tòa án huyện Thường Tín đã làm Thư ký Tòa án từ 05 năm trở lên,
được đào tạo nghiệp vụ Thẩm tra viên và bổ nhiệm vào ngạch Thẩm tra viên. Thẩm tra
viên Tòa án huyện Thường Tín có nhiệm vụ thẩm tra hồ sơ các vụ việc mà bản án, quyết
định của Tòa án án nhân dân huyện Thường Tín, Hà Nội đã có hiệu lực pháp luật theo
sự phân công của Chánh án Tòa án; kết luận việc thẩm tra và báo cáo kết quả thẩm tra
với Chánh án Tòa án. Thẩm tra viên về thi hành án giúp Chánh án Tòa án thực hiện các
nhiệm vụ về công tác thi hành án thuộc thẩm quyền của Tòa án; thực hiện các nhiệm vụ
khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án, công chức và người lao động khác.
Về cơ sở vật chất, được sự quan tâm của ngành Tòa án và các cấp chính quyền địa
phương, TAND huyện Thường Tín có trụ sở chính được xây dựng trên diện tích hơn
300m2 . Trong đó, có 01 phòng họp; 02 hội trường xét xử được đầy đủ trang thiết bị âm
ly, loa đài; 01 phòng nghị án; 01 phòng tiếp dân; 01 phòng hòa giải; 01 phòng kế toán;
01 phòng bảo vệ và 8 phòng làm việc, đảm bảo cho cán bộ đơn vị có không gian làm
việc phù hợp và được trang bị cơ sở vật chất đầy đủ phục vụ công tác chuyên môn.
1.2. Thẩm quyền
Theo quy định tại Điều 35 BLTTDS 2015, TAND huyện Thường Tín cũng như tất
cả các TAND cấp quận, huyện khác có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những
tranh chấp sau đây:
i. Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều
28 BLTTDS 2015, trừ các tranh chấp về bồi thường thiệt hại do áp dụng biện
pháp ngăn chặn hành chính không đúng theo quy định của pháp luật về cạnh
tranh, hoặc trường hợp yêu cầu bồi thường thiệt hại được giải quyết trong vụ
án hành chính.
ii. Tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 BLTTDS
2015: Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
iii. Tranh chấp về lao động quy định tại Điều 32 BLTTDS 2015.
3

Ngoài ra, TAND cấp huyện còn có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các
tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng; cha mẹ và con cái; và việc nhận cha, mẹ,
con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân
của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam.
Riêng đối với TAND huyện Thường Tín, hàng năm, Tòa thụ lý, giải quyết gần 700
vụ việc thuộc khắp các lĩnh vực hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương
mại. Dưới sự lãnh đạo của TAND Thành phố Hà Nội và sự phối hợp tạo điều kiện của
các cơ quan tiến hành tố tụng khác như Công an huyện Thường Tín, VKSND huyện
Thường Tín, các cán bộ, công chức của TAND huyện Thường Tín luôn phấn đấu hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân.
2. Lý do lựa chọn đề tài thực tập
Lịch sử xã hội loài người đã chứng kiến nhiều hình thái gia đình khác nhau. Dù ở
bất kỳ chế độ xã hội nào, gia đình vẫn luôn thực hiện những chức năng cơ bản của nó
với vai trò là tế bào của xã hội; gắn liền với quá trình phát triển của xã hội. Sinh thời
Bác Hồ của chúng ta đã chỉ rõ: “Quan tâm đến gia đình là đúng vì nhiều gia đình cộng
lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt.”
Ở Việt Nam, từ lâu gia đình đã gắn liền với những truyền thống tốt đẹp và những
giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, trong những năm gần đây; sự phát triển của
nền kinh tế thị trường, sự bùng nổ của công nghệ thông tin và cùng với sự du nhập của
nhiều luồng văn hóa, tư tưởng, lối sống của nhiều quốc gia trên thế giới đã làm thay đổi
quan điểm, lối sống và lý tưởng của nhiều người; gây tác động lớn đến nhiều quan hệ
xã hội, trong đó có quan hệ hôn nhân và gia đình. Những toan tính về vật chất đời
thường, những nhu cầu không chính đáng của cá nhân đã làm suy giảm giá trị đạo đức
truyền thống của mỗi con người, làm cho biết bao gia đình tan vỡ, trẻ em không được
hưởng trọn vẹn tình yêu thương của cả cha và mẹ, suy nghĩ ích kỷ của những người làm
cha, làm mẹ, sự thiếu trách nhiệm trong quan hệ vợ chồng,… đã dẫn đến tình trạng ly
hôn ngày càng tăng.
Cần phải nhìn nhận rõ ràng rằng, ly hôn không phải là điều xấu, tuy nhiên hậu quả
do ly hôn nếu như không được giải quyết thoả đáng sẽ gây ra nhiều tác động tiêu cực
tới không chỉ người trong cuộc là vợ/chồng mà còn tới con cái của họ và trật tự của toàn
xã hội. Tại Toà án nhân dân huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội; các yêu cầu giải
quyết vụ việc ly hôn trên địa bàn huyện là loại tranh chấp phổ biến nhất. Thông qua việc
vận dụng các nguyên tắc và quy định của pháp luật, nhìn chung những vụ việc được đưa
ra giải quyết tại đây đều đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, quá trình giải quyết trên thực tế
vẫn còn gặp một số khó khăn do bất cập, vướng mắc từ phía quy định pháp luật hay một
số vấn đề trong công tác thực hiện tại địa phương.
Trước tình hình thực tiễn và xuất phát từ những lý do nêu trên, nhằm tìm hiểu,
phân tích và đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao hơn nữa công tác giải quyết các
vụ việc dân sự liên quan đến hôn nhân và gia đình; em đã lựa chọn đề tài: “Thực tiễn
giải quyết các trường hợp ly hôn tại Toà án” làm nội dung chuyên đề báo cáo thực tập
của mình.
3. Các kế hoạch triển khai để thực hiện báo cáo thực tập
4

Với đề tài thực tập nêu trên; kế hoạch của em để đạt được những mục đích và kết
quả trong báo cáo thực tập đó là:
 Nắm được cơ cấu tổ chức; chức năng nhiệm vụ và mối quan hệ của cơ quan
nơi thực tập.
 Nghiên cứu cơ sở lý luận của các trường hợp ly hôn;
 Nghiên cứu các hồ sơ liên quan đến lĩnh vực hôn nhân gia đình;
 Dự phiên tòa xét xử các vụ án ly hôn;
 Sắp xếp hồ sơ vụ án hôn nhân gia đình;
 Đánh giá các trường hợp ly hôn và phân tích thực trạng thực hiện giải quyết
các trường hợp ly hôn tại TAND huyện Thường Tín;
 Các phương pháp nghiên cứu sử dụng để hoàn thành báo cáo: So sánh, đối
chiếu, phân tích, thống kê và tổng hợp.
Để thực hiện báo cáo thực tập này; bản thân em đã thu thập thông tin, tìm hiểu về
thực tiễn giải quyết các trường hợp ly hôn tại TAND huyện Thường Tín, qua đó đưa ra
những giải pháp phù hợp góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc ly hôn tại
địa phương. Các số liệu em trình bày trong đề tài này đều mang tính sát thực kết hợp sử
dụng đa dạng phương pháp nghiên cứu để đánh giá được thực tiễn và đưa ra các giải
pháp phù hợp với tình hình của địa phương mình. Được sự giúp đỡ tận tình của các lãnh
đạo, công chức của cơ quan trong quá trình thực tập, đặc biệt là sự trợ giúp, hướng dẫn
nhiệt tình, trực tiếp của chị Đặng Thị Thanh Huyền - thư ký Toà án huyện Thường Tín
và cô Trần Thị Thu Hiền - thẩm phán Toà án huyện Thường Tín đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi giúp cho em có thể hoàn thành kỳ thực tập một cách tốt nhất. Đồng thời em
xin chân thành gửi lời cảm ơn tới toàn thể các cô chú, các anh chị trong cơ quan đã giúp
đỡ em hoàn thành báo cáo thực tập chuyên môn này.
5

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ LY
HÔN; HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA LY HÔN
1.1. Khái quát chung về ly hôn
Hôn nhân là nền tảng, là cơ sở đầu tiên để hình thành nên gia đình – nhân tố cơ
bản của xã hội, vì vậy văn hóa các quốc gia đều coi trọng hôn nhân và đưa ra nhiều quy
định pháp luật điều chỉnh việc xác lập và chấm dứt quan hệ hôn nhân. Tại Việt Nam,
Theo Luật HN&GĐ 2014 – Hôn nhân là quan hệ giữa vợ chồng sau khi kết hôn, dựa
trên nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng và tự nguyên theo pháp luật nhằm chung sống với
nhau suốt đời và xây dựng gia đình hạnh phúc.1 Dù được xác lập trên cơ sở tình cảm và
sự tự nguyện của các bên, tuy nhiên tình trạng ly hôn trong xã hội hiện nay đang ngày
càng trở nên phổ biến bởi nhiều nguyên nhân, có thể kể đến như: trình độ dân trí chưa
cao, người dân chưa có nhận thức đúng đắn về hôn nhân và gia đình, dẫn đến một thực
trạng là các cặp vợ chồng kết hôn với nhau khi còn rất trẻ, chưa tìm hiểu kỹ và chưa có
nhiều vốn sống xã hội nên cuộc sống hôn nhân xảy ra nhiều mâu thuẫn và ly hôn ngay
sau khi kết hôn một thời gian ngắn. Ngoài ra, trong đời sống hôn nhân còn có thể phát
sinh các bất đồng khiến cho hai bên vợ chồng không thể tiếp tục duy trì mối quan hệ
hôn nhân như một trong hai người vợ/ chồng dính vào tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc,
vợ chồng chung sống nhưng không có con; hay nguyên nhân do bạo hành gia đình, bị
ngược đãi, bị đánh đập… Khi đó ly hôn là giải pháp cuối cùng mà các bên lựa chọn để
chấm dứt quan hệ hôn nhân.
Tại nhiều quốc gia theo đạo thiên chúa, việc ly hôn giữa các cặp vợ chồng bị cấm,
ngay cả khi cả hai bên đều thực sự mong muốn được chấm dứt hôn nhân. Nhiều quan
điểm cho rằng quy định này đã vi phạm quyền con người cơ bản nhất của công dân, tuy
nhiên lại có những quan điểm trái ngược cho rằng việc đưa ra quy định cấm ly hôn, hoặc
đưa ra các điều kiện ngặt nghèo để hạn chế việc ly hôn sẽ khiến các bên suy nghĩ chín
chắn và kỹ càng trước khi đưa ra quyết định kết hôn.
Đối với Việt Nam, pháp luật về HNGĐ của nước ta tôn trọng quyền quyết định của
các bên trong quan hệ hôn nhân, cho phép các cặp vợ chồng được quyền ly hôn, tuy
nhiên có đưa ra ràng buộc về căn cứ và thủ tục để các bên suy nghĩ thấu đáo trước khi
chính thức ly hôn.
Theo pháp luật về HNGĐ của Việt Nam, tại khoản 4 điều 3 Luật HNGĐ 2014 quy
định: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tòa án”. Định nghĩa này khẳng định rằng ly hôn là sự kiện chấm dứt quan
hệ hôn nhân và thủ tục ly hôn cần diễn ra theo trình tự thủ tục pháp luật quy định với
thẩm quyền giải quyết ly hôn thuộc về tòa án.
Từ những phân tích trên, có thể kết luận rằng ly hôn là sự kiện pháp lý làm chấm
dứt quan hệ hôn nhân, được giải quyết thông qua tòa án theo những căn cứ pháp lý được
pháp luật quy định.
1.2. Hậu quả pháp lý của ly hôn
Ly hôn mang lại nhiều hậu quả cả về mặt pháp lý và xã hội, bởi lẽ ly hôn không
chỉ tác động lên mối quan hệ ràng buộc giữa hai vợ chồng, làm tan vỡ gia đình mà còn
ảnh hưởng đến những đối tượng có liên quan, ảnh hưởng một phần đến xã hội. Những

1
Khoản 1 Điều 3 Luật HN&GĐ 2014
6

quy định cụ thể về các hậu quả pháp lý của ly hôn nằm chủ yếu ở Mục 1 Chương IV của
Luật HNGĐ 2014.
Khi quyết định, bản án của Tòa án giải quyết ly hôn có hiệu lực thì quan hệ nhân
thân giữa vợ và chồng chấm dứt. Khi ly hôn, có hai vấn đề luôn được đặt ra, đó là phân
chia tài sản chung vợ chồng và nuôi dưỡng, chăm sóc con cái.
Sau khi ly hôn thì quan hệ giữa cha mẹ và con cái vẫn tồn tại. Cha mẹ vẫn có
quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con
đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không
có tài sản để tự nuôi mình. Việc nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn
đối với con do hai vợ chồng thỏa thuận. Trong trường hợp không thỏa thuận được thì
Tòa án quyết định giao con cho bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của
con, nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người
mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc
cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Người cha hoặc người mẹ không
trực tiếp nuôi con phải cấp dưỡng nuôi con (theo quy định cấp dưỡng).
Khi ly hôn việc chia tài sản do các bên tự thỏa thuận; nếu bên không thỏa thuận
được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo nguyên tắc sau:
(i) Tài sản riêng của bên nào thuộc sở hữu bên đó.
(ii) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc chia đôi nhưng có xem xét hoàn cảnh
của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc xác lập,
duy trì, phát triển tài sản này.
1.3. Quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết vụ án ly hôn
Pháp luật về HNGĐ của Việt Nam được xây dựng theo hướng quy định chi tiết và
cụ thể các căn cứ ly hôn cũng như yêu cầu TAND có thẩm quyền xem xét kỹ càng
nguyên do khiến các bên ly hôn. Luật HNGĐ 2014 phân chia ly hôn thành hai trường
hợp là thuận tình ly hôn và đơn phương ly hôn. Đối với mỗi trường hợp, pháp luật đưa
ra những quy định riêng để tòa án có căn cứ xác định và thụ lý yêu cầu ly hôn.
1.3.1. Thuận tình ly hôn
1.3.1.1. Khái niệm thuận tình ly hôn
Thuận tình ly hôn là trường hợp cả hai bên vợ và chồng đều đồng thuận với việc
ly hôn, đồng thời đã thỏa thuận được với nhau về cả hai vấn đề trên theo hướng đảm bảo
quyền lợi của vợ và con. Điều 55 Luật HNGĐ 2014 quy định về thuận tình ly hôn như
sau: “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự
nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án
công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng
không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.”
Quy định này nhằm bảo đảm và công nhận quyền tự do ly hôn khi vợ chồng không muốn
tiếp tục mối quan hệ hôn nhân. Việc thuận tình ly hôn được giải quyết trên cơ sở tự
nguyện giữa vợ và chồng khi muốn chấm dứt quan hệ hôn nhân đang tồn tại. Ngoài ra,
việc thuận tình ly hôn chỉ được chấp nhận khi các bên thỏa thuận được các mối quan hệ
7

liên quan, đó là quan hệ về tài sản, quan hệ về con cái, việc trông nom, nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục các con trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ chồng và
con cái.
Từ những phân tích trên, một vụ việc ly hôn được xác định là thuận tình ly hôn khi
có các căn cứ sau:
Một là, hai bên vợ chồng đều yêu cầu ly hôn. Ở đây có sự thống nhất về ý chí của
các bên, đảm bảo các bên tự nguyện khi yêu cầu chấm dứt hôn nhân. Nếu không có sự
tự nguyện của một trong hai bên vợ hoặc chồng thì Tòa án không thể ra quyết định công
nhận thuận tình ly hôn .
Hai là, hai bên vợ chồng đã thỏa thuận về việc chia tài sản theo hướng đảm bảo
quyền lợi của vợ và con. Nằm trong pháp luật dân sự, luật HNGĐ tuân theo những
nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, mà tiêu biểu là tôn trọng sự thỏa thuận các bên.
Tòa án tôn trọng quyền được thỏa thuận của các bên đương sự, tuy nhiên vẫn đảm bảo
rằng các đối tượng dễ bị tổn thương sẽ được bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, trong
trường hợp này là quyền và lợi ích của vợ và con. Bởi lẽ, đây là các đối tượng dễ bị tác
động và ảnh hưởng sau sự kiện ly hôn.
Ba là, hai vợ chồng đã thỏa thuận về việc nuôi dưỡng, chăm sóc con cái trên cơ sở
đảm bảo quyền lợi của hai mẹ con. Căn cứ này nhằm đảm bảo việc nuôi dưỡng, chăm
sóc trẻ không bị gián đoạn, trẻ được quan tâm và giáo dục đầy đủ. Ngoài ra, trẻ em rất
dễ tổn thương sau khi bố mẹ ly hôn, do vậy bố mẹ cần thảo luận và có sự thống nhất về
cách chăm sóc, nuôi dạy trẻ, tránh những tổn hại về mặt tâm lý của trẻ.
Trong trường hợp các bên mặc dù đều đồng thuận với việc ly hôn nhưng không
thỏa thuận hoặc không thỏa thuận hoặc thỏa thuận nhưng không hợp lý về vấn đề tài sản
và con cái thì tòa án sẽ không công nhận thuận tình ly hôn, mà sẽ thực hiện theo thủ tục
giải quyết việc ly hôn.
1.3.1.2. Đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục giải quyết thuận tình ly hôn.
Từ khái niệm trên, dễ thấy thủ tục giải quyết thuận tình ly hôn có các đặc điểm
sau:
Thứ nhất, yêu cầu thuận tình ly hôn là một loại việc dân sự có những đặc điểm cơ
bản của việc dân sự, thời hạn tố tụng của việc giải quyết thuận tình ly hôn được quy định
trong BLTTDS 2015, cụ thể thời hạn xét đơn là 01 tháng.
Thứ hai, do hai bên đồng thuận, không có tranh chấp nên yêu cầu công nhận thuận
tình ly hôn sẽ không có nguyên đơn và bị đơn như những vụ án ly hôn.
Thứ ba, do hai bên có sự đồng thuận nên thủ tục của việc giải quyết thuận tình ly
hôn sẽ đơn giản và nhanh gọn hơn một vụ án ly hôn không có sự thoả thuận.
Thứ tư, quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận của các đương sự
sẽ có hiệu lực pháp luật ngay khi ban hành và sẽ không bị kháng cáo hay kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm.
8

Như vậy có thể thấy thủ tục giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn được
tiến hành trên nguyên tắc tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Các
đương sự có quyền yêu cầu ly hôn, có quyền thoả thuận với nhau về các vấn đề trong
vụ án và Toà án sẽ thụ lý yêu cầu đó nếu đủ điều kiện thụ lý theo quy định của pháp
luật. Hơn nữa, thủ tục này được tiến hành rất nhanh gọn; giảm thiểu cho thẩm phán, thư
ký một khối lượng công việc không hề nhỏ đồng thời giúp các đương sự giảm thiểu
được các thủ tục, thời gian, công sức.
1.3.2. Đơn phương ly hôn
Thứ hai, đối với trường hợp đơn phương ly hôn. Đơn phương ly hôn là trường hợp
chỉ một bên vợ hoặc chồng hoặc người thân thích khác (trong một số trường hợp đặc
biệt) yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn.
Các căn cứ để xác định đơn phương ly hôn được quy định tại Điều 56 Luật HNGĐ
2014 cụ thể như sau:
Một là, chủ thể yêu cầu ly hôn. Bên cạnh việc cho phép vợ hoặc chồng được quyền
yêu cầu ly hôn, Luật HNGĐ 2014 còn cho phép người thân thích như cha, mẹ, người
thân thích khác của vợ hoặc chồng thực hiện quyền này. Mặc dù ly hôn là quyền nhân
thân, nhưng pháp luật đã quy định mở để trong một số trường hợp đặc biệt mà người vợ
hoặc người chồng không có khả năng tự mình thực hiện yêu cầu ly hôn thì người thân
có thể thay mặt họ thực hiện quyền này. Đó là khi “khi một bên vợ, chồng do bị bệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình,
đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.” (khoản 2 Điều 51)
Hai là, “vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền,
nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung
không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.” (khoản 2 Điều 56) Như vậy
có hai căn cứ để tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, đó là có hành vi bạo lực gia đình và vợ
chồng vi phạm nghĩa vụ của mình. Việc bổ sung hành vi bạo lực gia đình làm căn cứ
đơn phương ly hôn cho thấy pháp luật đã tiếp cận và sửa đổi bổ sung theo hướng gần
gũi với đời sống nhân dân. Thực tế cho thấy bạo lực gia đình tương đối phổ biến trong
xã hội và đây cũng là nguyên nhân chính dẫn tới ly hôn của nhiều cặp vợ chồng, trong
đó đa phần nạn nhân của bạo lực gia đình là người phụ nữ. Một căn cứ khác là vợ chồng
vi phạm nghĩa vụ trong hôn nhân. Trong hôn nhân, các bên cần tôn trọng và được hưởng
các quyền cũng như thực hiện các nghĩa vụ tương đương nhau. Dù vậy nhưng không
phải đôi vợ chồng nào cũng thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy
nhiên không phải mọi trường hợp vi phạm nghĩa vụ đều có thể là căn cứ ly hôn, mà chỉ
khi việc vi phạm nghĩa vụ dẫn đến “hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.” Hiện tại pháp luật
không có hướng dẫn cụ thể về “hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung
không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”, do đó hướng dẫn tại Nghị
quyết số 02/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn một số nội dung Luật hôn nhân và gia đình
2000 vẫn được sử dụng để có cách hiểu thống nhất. Tóm lại, có thể hiểu một cách chung
nhất, rằng “hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng” là trường hợp vợ và chồng không
còn tình cảm, yêu thương lẫn nhau, có hành vi ngoại tình hoặc bạo lực cả về thể xác và
tinh thần đối với đối phương; “đời sống chung không thể kéo dài” là các hành vi kể trên
9

của vợ hoặc chồng kéo dài liên tục dù đã có hòa giải, nhắc nhở nhiều lần; và cuối cùng,
“mục đích của hôn nhân không đạt được” được hiểu là khi vợ chồng không còn tình
nghĩa, không tôn trọng lẫn nhau hay nói cách khác là gia đình và cuộc sống hôn nhân
không còn trọn vẹn.
Ba là, một bên vợ hoặc chồng bị tuyên bố mất tích và bên còn lại có yêu cầu ly
hôn. Tuyên bố mất tích là sự kiện pháp lý khi một người biệt tích trong khoảng thời gian
được pháp luật quy định và đáp ứng các quy định cụ thể tại Điều 68 Bộ luật Dân sự
2015. Việc Luật HNGĐ 2014 coi đây là căn cứ để giải quyết ly hôn là hợp lý, nhằm cho
phép người còn lại có cơ hội được bắt đầu cuộc sống hôn nhân mới sau khoảng thời gian
dài chờ đợi, cũng như thể hiện tính nhân văn của pháp luật.
Đặc biệt, Luật HNGĐ 2014 còn đưa ra các trường hợp đặc biệt hạn chế quyền ly
hôn của người chồng tại khoản 3, điều 51 như sau: “Chồng không có quyền yêu cầu ly
hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”
Có thể thấy, dù cho phép các bên vợ chồng được quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn,
nhưng để đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ trong giai đoạn mang thai và nuôi con,
pháp luật đã hạn chế quyền được ly hôn của người chồng trong giai đoạn này.
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC LY HÔN TẠI
TAND HUYỆN THƯỜNG TÍN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2. Thực tiễn giải quyết các vụ việc ly hôn tại TAND huyện Thường Tín, thành phố
Hà Nội
2.1. Khái niệm và đặc điểm giải quyết các trường hợp ly hôn tại TAND cấp huyện
Giải quyết các trường hợp ly hôn của TAND cấp huyện là việc Tòa án áp dụng các
quy định của pháp luật để ban hành bản án hoặc quyết định làm chấm dứt hoặc phát sinh
mới các quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng và những người khác có liên quan đến các
trường hợp ly hôn là ly hôn do một bên yêu cầu, thuận tình ly hôn, ly hôn do yêu cầu
của chủ thể khác theo quy định của pháp luật.
Do đặc điểm riêng biệt của các tranh chấp HN&GĐ, cùng với các quy định riêng
của pháp luật chuyên ngành về lĩnh vực HN&GĐ nên việc áp dụng pháp luật trong giải
quyết các trường hợp ly hôn trong các vụ án HN&GĐ của TAND cấp huyện có những
đặc điểm riêng như sau:
Thứ nhất, TAND là cơ quan tiến hành tố tụng duy nhất có thẩm quyền áp dụng
pháp luật để giải quyết các trường hợp ly hôn. Thẩm quyền giải quyết các vụ án HN&GĐ
của TAND được quy định rõ trong BLTTDS 2015 và Luật tổ chức TAND 2014. Theo
đó, “TAND là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp,
Tòa án nhân danh nước CHXHCN Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, HN&GĐ,
kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định
của pháp luật” (điều…).
Thứ hai, áp dụng pháp luật trong giải quyết các trường hợp ly hôn của TAND cấp
huyện vừa phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do BLTTDS quy định, có
thể theo thủ tục án, có thể theo thủ tục việc HN&GĐ vừa đồng thời phải tuân thủ theo
các quy định của Luật HN&GĐ như quy định về việc chồng không có quyền yêu cầu ly
hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi;
quy định về trường hợp ly hôn do một bên yêu cầu, trường hợp thuận tình ly hôn, trường
10

hợp ly hôn theo yêu cầu của chủ thể khác theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Luật
HN&GĐ năm 2014.
Thứ ba, áp dụng pháp luật trong việc giải quyết phân chia tài sản chung vợ chồng
khi ly hôn là một phần trong vụ án ly hôn nên nó đương nhiên thuộc thẩm quyền giải
quyết của TAND khi đương sự có yêu cầu và tiến hành đầy đủ các trình tự, thủ tục do
luật định.
Trong các giai đoạn từ thụ lý, xác minh thu thập chứng cứ, đối chất, hoà giải, định
giá tài sản ...đều có sự tham gia một cách chủ động, tích cực của Toà án. Nghĩa vụ chứng
minh thuộc đương sự nhưng khi họ có yêu cầu thì Toà án phải tiến hành xác minh thu
thập chứng cứ để làm sáng tỏ vụ án; Toà án có trách nhiệm đưa những người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng để giải quyết vụ án toàn diện, triệt để; tiến
hành trưng cầu giám định, định giá tài sản khi cần thiết.
Thủ tục sơ thẩm trong giải quyết phân chia tài sản chung vợ chồng trong các trường
hợp ly hôn của TAND không chỉ mang tính chất áp đặt, đơn phương của cơ quan có
thẩm quyền như nhiều các hình thức áp dụng pháp luật khác mà Toà án còn có nghĩa vụ
tôn trọng nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS đó là: nguyên tắc quyền quyết định và
tự định đoạt của đương sự nếu nó thể hiện sự tự nguyện, không vi phạm điều cấm của
pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Trong quá trình giải quyết vụ án Toà án phải tiến
hành thủ tục bắt buộc là hoà giải trước khi đưa vụ án ra xét xử. Nếu các đương sự thống
nhất thoả thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội thì
Toà án có trách nhiệm tôn trọng, ghi nhận công nhận sự thoả thuận đó.
Thứ tư, trong giải quyết các trường hợp ly hôn có yêu cầu phân chia tài sản chung
vợ chồng thì việc xác định, phân chia tài sản chung thường khó khăn hơn các vụ án về
dân sự khác. Thông thường quan hệ tài sản xuất phát từ yếu tố tình cảm con người từ
khi hình thành quan hệ vợ chồng (thời điểm kết hôn), đến xác định phần đóng góp của
mỗi người trong khối tài sản chung hợp nhất. Tuy nhiên, xuất phát từ truyền thống, thói
quen, tập tục lâu đời coi trọng yếu tố tình cảm mà coi nhẹ về tính minh bạch pháp lý về
tài sản, như không xác định tài sản chung, riêng ngay từ đầu, không lập thành văn bản
thoả thuận khi các bên còn đang trong quan hệ vợ chồng tốt đẹp nên khi có mâu thuẫn
yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn thì họ lại không chỉ rõ được phần quyền lợi của mình
đến đâu. Tài sản riêng của vợ, chồng đã nhập vào tài sản chung thì cho là chưa nhập, tài
sản đã cho nhưng nay lại không cho nữa...Nên ngoài việc áp dụng nhiều văn bản luật để
xác định, phân chia tài sản chung, Toà án còn phải vận dụng linh hoạt vào cả các yếu tố
truyền thống, văn hoá thực tiễn để xem xét đưa ra quyết định “thấu lý, đạt tình”.
2.2. Hoạt động giải quyết các vụ việc ly hôn tại TAND huyện Thường Tín
2.2.1. Thực trạng ly hôn trên địa bàn huyện Thường Tín
Từ năm 2021 đến năm 2023, TAND huyện Thường Tín đã thụ lý và giải quyết một
số lượng khá lớn các vụ việc ly hôn, ngày càng có chiều hướng gia tăng với các nguyên
nhân mà các đương sự đưa ra ngày càng đa dạng hơn. Việc giải quyết các trường hợp ly
hôn của TAND huyện Thường Tín được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.2.1a: Tỷ lệ giải quyết sơ thẩm các vụ việc ly hôn của TAND huyện Thường
Tín
Năm Số việc đã thụ lý Số việc đã giải quyết Tỷ lệ
11

2021 249 228 91%


2022 306 300 98%
10/2023 321 316 98.44%
Nguồn: Bộ phận thống kê TAND huyện Thường Tín
Qua bảng số liệu thống kê, có thể thấy rõ số vụ việc TAND huyện Thường Tín thụ
lý tăng theo từng năm. Công tác giải quyết của Tòa cũng ngày một đạt kết quả cao hơn
và luôn giữ ở mức trên 90%.
Về chủ thể nộp đơn, theo báo cáo của ngành tòa án, trung bình hằng năm tại Việt
Nam có đến 600.000 cặp đôi ly hôn, tỉ lệ nữ đệ đơn chiếm đến 70% các vụ việc. 2 Theo
báo cáo tổng kết của TAND thành phố Hà Nội nói chung và TAND huyện Thường Tín
nói riêng trong các năm gần đây, tỷ lệ phụ nữ là nguyên đơn trong các vụ việc ly hôn
chiếm tỷ lệ cao và ngày càng có xu hướng tăng. Điều này không chỉ xảy ra ở địa bàn
huyện Thường Tín nói riêng mà còn ở các địa phương khác trong địa bàn thành phố Hà
Nội, được thể hiện thông qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.1b: Tổng hợp nguyên đơn là vợ hoặc chồng trong các vụ việc ly hôn trên địa
bàn huyện Thường Tín từ năm 2019 đến năm 2022
Đơn vị tính: %
Năm 2019 2020 2021 2022
Nguyên Vợ 31,5 34 37,3 41,25
đơn
Chồng 25,6 22,5 27,8 16,01

Phân tích: ….
Theo số liệu thống kê ở bảng trên, ta có thể thấy tỷ lệ phụ nữ đứng đơn xin ly hôn
ngày càng chiếm tỷ lệ cao, điều này chứng tỏ phụ nữ huyện Thường Tín nói riêng và
phụ nữ thủ đô nói chung ngày càng có trình độ học vấn và hiểu biết sâu rộng hơn, họ
ngày càng hiểu được quyền bình đẳng. Phụ nữ ngày nay họ không chấp nhận cuộc sống
bạo lực trong gia đình, cách đối xử bất công của những người chồng có tính gia trưởng
trong gia đình bắt họ làm theo cách chồng, của gia đình áp đặt, cản trở họ tham gia các
hoạt động nghề nghiệp, hoạt động xã hội...Chính vì vậy họ đã đứng đơn xin ly hôn nhằm
chấn dứt những cuộc hôn nhân không đạt được mục đích. Có thể nói, trong xã hội ngày
nay dưới sự phát triển của nền kinh tế - xã hội của đất nước vai trò của phụ nữ chiếm
một vị trí quan trọng trong xã hội. Nếu như trước đây, người phụ nữ thường làm những
công việc đơn giản trong xã hội, những việc nội trợ trong gia đình thì ngày nay người
phụ nữ ngày càng có vai trò độc lập, họ độc lập về kinh tế do có nghề nghiệp công việc
ổn định, tự do kinh doanh và tham gia các hoạt động trong xã hội như chính trị, văn hoá,
xã hội... và có thu nhập ổn định. Chính vì vậy, khi họ quyết định ly hôn, họ không sợ
mình không đảm bảo về quyền lợi để nuôi con và tạo lập cuộc sống mới sau ly hôn.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực của phụ nữ hiện đại, trong nền cơ chế thị
trường ngày nay có không ít những phụ nữ chạy theo lối sống hưởng thụ hoặc có những
tư tưởng sống phóng khoáng, họ quên dần đi chức năng chính của người vợ, bỏ bê cuộc

2
https://laodong.vn/gia-dinh-hon-nhan/su-doi-nghich-giua-dan-ong-va-phu-nu-khi-ly-hon-1266090.ldo
12

sống gia đình hiện tại hoặc do tác động của tính chất công việc đem lại như họ quá bận
với những công việc ở cơ quan với những chức vụ quan trọng được đề bạt thường xuyên
đi công tác xa nhà, tiếp cúc với khách hàng, hay mải mê với những thành tích nghiên
cứu khoa học...và trong môi trường phát triển mới đầy năng động đó học đã dần dần
lãng quên đi chức năng của mình. Đó là những nguyên nhân gián tiếp dẫn đến những
cuộc cãi vã, mâu thuẫn giữa vợ chồng vì bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung,
rồi đến một thời điểm nào đó sẽ dẫn đến vợ chồng xin ly hôn với nhau.
Ví dụ3
Về độ tuổi ly hôn: Pháp luật Việt Nam quy định cụ thể về độ tuổi kết hôn nam từ
20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên4 nhưng không quy định độ tuổi ly hôn mà chỉ quy
định các căn cứ ly hôn, khi có những căn cứ mà pháp luật quy định thì cơ quan có thẩm
quyền về giải quyết cho họ được quyền ly hôn. Bởi vậy nên việc ly hôn diễn ra ở nhiều
lứa tuổi khác nhau. Theo báo cáo tổng kết hàng năm của TAND huyện Thường Tín cho
thấy thực trạng ly hôn ở các độ tuổi như sau:
Bảng 2.1c: Thống kê độ tuổi ly hôn trên địa bàn huyện Thường Tín (2019 – 2022)
Đơn vị tính: %
Năm 2019 2020 2021 2022
Độ tuổi
18  30 tuổi 37,4 38,2 44,7 45,5
30  50 tuổi 52,9 50,1 46,7 42,9
50 tuổi trở 9,7 11,7 8,6 11,6
lên
(Nguồn: Bộ phận tổng hợp – TAND huyện Thường Tín)
Phân tích:….
Về quan hệ hôn nhân mà Tòa án giải quyết là vấn đề ly hôn với đặc trưng cơ bản
là quyền tự định đoạt và thỏa thuận của các đương sự; TAND huyện Thường Tín luôn
thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục hoà giải, đối thoại
quy định tại Điều 210 BLTTDS năm 2015 để các đương sự tự thoả thuận về các vấn đề
cần phải giải quyết trong vụ án đồng thời rút ngắn được thời gian giải quyết. Trên thực
tế, công tác hòa giải đã đạt được nhiều hiệu quả; tạo điều kiện cho các đương sự đàm
phán, tự thỏa thuận được với nhau về tất cả các quan hệ hôn nhân, con cái, tài sản, công
nợ… mà không phải mở phiên tòa xét xử; rút ngắn thời gian và tiết kiệm chi phí tố tụng.
Hơn nữa, công tác hòa giải còn tạo thuận lợi cho việc thi hành án, góp phần hàn gắn
những rạn nứt, ngăn ngừa các tranh chấp phát sinh trong tương lai, nâng cao ý thức pháp
luật của người dân, giữ gìn ổn định trật tự xã hội, tạo sự đồng thuận trong nhân dân.

3
Bản án 25/2022/HNGĐ-ST ngày 09/9/2022 của TAND huyện Thường Tín
4
Điều 8 Luật HN&GĐ, truy cập lần cuối ngày 10/08/2023, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-
su/Luat-Hon-nhan-va-gia-dinh-2014-238640.aspx.
13

2.2.2. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng ly hôn trên địa bàn huyện Thường
Tín
Thứ nhất, do mâu thuẫn trong tư tưởng và lối sống. Hôn nhân là hai người xa
lạ về chung sống với nhau nên không tránh khỏi có lúc bất đồng vì quan điểm sống, thói
quen sinh hoạt, công việc, tính cách,... Hiện nay, có nhiều cặp vợ chồng trẻ bước vào
cuộc sống hôn nhân khi chưa hiểu biết đầy đủ về cách xây dựng một gia đình mới, cách
quản lý chi tiêu, chăm sóc và nuôi dạy con cái; để đến khi về chung một nhà giữa họ bắt
đầu hình thành các mâu thuẫn, xung đột và nhiều cặp vợ chồng đã đi kết cục xin ly hôn
vì lý do “không hợp nhau”. Trong số các cặp đôi ly hôn, 70% số vụ thuộc về các gia
đình trẻ trong độ tuổi từ 18-30, 60% ly hôn sau từ 1-5 năm chung sống, nhiều trường
hợp chỉ kết hôn được vài tháng hoặc vài ngày.5 Thêm nữa, áp lực từ phía các thành viên
khác trong gia đình cũng có thể trở thành nguyên nhân ly hôn. Những mâu thuẫn trong
tư tưởng, lối sống giữa mẹ chồng - nàng dâu; chị dâu - em chồng đều có thể phá vỡ hạnh
phúc gia đình.
Ví dụ 1:6 Anh Đàm Viết Ch và chị Nguyễn Thị T tự nguyện kết hôn năm 2012.
Trong quá trình chung sống, vợ chồng anh chị hòa thuận một thời gian ngắn thì phát
sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm, tính tình không hợp
nên thường xuyên xảy ra cãi vã vì chị T cho rằng anh Ch và mẹ chồng hắt hủi, sỉ nhục,
cản trở việc buôn bán của chị. Năm 2014, khi con chung mới được 09 tháng tuổi, chị T
bỏ nhà đi 5 năm liền do mâu thuẫn vợ chồng và mâu thuẫn giữa mẹ chồng nàng dâu.
Đến năm 2019 vợ chồng chị quay về chung sống được một thời gian ngắn lại tiếp tục
mâu thuẫn, cãi vã. Mặc dù sống cùng nhà nhưng vợ chồng ly thân từ lâu, không còn
quan tâm chăm sóc nhau. Nay anh Ch xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích
hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị T.
Về phía chị T, mặc dù chị không còn tình cảm với anh Ch nhưng chị vẫn không đồng ý
ly hôn.
Tại Bản án số 13/2023/HNGÐ-ST ngày 25/4/2023 của TAND huyện Thường Tín
giải quyết vụ việc trên theo hướng chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Ch bởi Tòa nhận
thấy quan hệ vợ chồng giữa anh Ch và chị T đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ
của vợ chồng theo quy định tại Điều 19 Luật HNGĐ; vợ chồng không chung sống với
nhau, không yêu thương, quan tâm, chăm sóc nhau làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng
trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được.
Qua vụ việc ly hôn trên, có thể thấy mâu thuẫn vợ chồng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến việc ly hôn, tuy nhiên qua thực tiễn xét xử có thể thấy không có
căn cứ rõ ràng và rất khó để xác định mâu thuẫn vợ chồng như thế nào thì được cho là
mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên sẽ tồn tại nhiều tranh cãi có thế
dẫn đến việc kháng cáo.
Thứ hai, do một trong hai người vợ hoặc chồng ngoại tình. Ngoại tình là nguyên
nhân ly hôn đang có xu hướng tăng trong các năm qua. Để xây dựng tổ ấm gia đình thì
chung thủy và yêu thương nhau là yếu tố đặc biệt quan trọng. Vì vậy, khi đã bị lừa dối,
rất ít người có thể tha thứ cho lỗi lầm của người kia. Hầu hết những gia đình có chồng
hoặc vợ ngoại tình đều đi đến kết cục tan vỡ.

5
https://laodong.vn/gia-dinh-hon-nhan/ly-do-chinh-khien-ti-le-ly-hon-cua-nguoi-viet-ngay-cang-tang-chu-yeu-
do-phu-nu-de-don-1265044.ldo
6
Bản án số 13/2023/HNGĐ-ST ngày 25/4/2023 của TAND huyện Thường Tín
14

Ví dụ 27: Chị Ma Thị B sinh năm 1984 và anh Hà Sỹ H, sinh năm 1983 được tự
do, tự nguyện tìm hiểu và về chung sống vợ chồng có đăng ký kết hôn ngày 09/3/2005
tại UBND xã Hồng Vân, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Sau khi kết hôn vợ
chung sống cùng nhau được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn nguyên do anh H có
quan hệ ngoại tình. Dù chị B đã nhiều lần tha thứ nhưng anh H không thay đổi. Vợ
chồng sống ly thân từ cuối năm 2021. Nhận thấy vợ chồng không còn tình cảm, không
còn khả năng quay về đoàn tụ với nhau nên chị B đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn. Đối
với yêu cầu ly hôn của chị B, anh H thừa nhận đã có quan hệ ngoại tình trong thời gian
vợ chồng chung sống; tuy nhiên anh H còn tình cảm với chị B nên không đồng ý ly hôn
và đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng quay về đoàn tụ cùng nhau.
Ngày 10 tháng 7 năm 2023, TAND huyện Thường Tín đã đưa vụ việc ra xét xử tại
bản án số 26/2023/HNGÐ- ST, theo đó chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Ma Thị B đối
với anh Hà Sỹ H bởi TAND nhận thấy chị B và anh H đã không thực hiện nghĩa vụ vợ
chồng là chung sống cùng nhau; hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng,
đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt nên TAND huyện
Thường Tín đã cho phép anh chị ly hôn.
Thứ ba, do áp lực kinh tế trong cuộc sống vợ chồng. Cơm áo gạo tiền là một
trong những áp lực tiêu biểu của hôn nhân. Các cặp vợ chồng sau khi lập gia đình phải
tự lo cho mái ấm của mình, với những mối quan tâm và trách nhiệm mới. Điều kiện kinh
tế chưa ổn định, thu nhập bấp bênh cùng với việc sinh con sớm khiến kinh tế nhiều gia
đình trên địa bàn huyện Thường Tín vào tình cảnh khó khăn, dẫn đến mâu thuẫn không
thể tháo gỡ và kết cục là xin ly hôn. Biểu hiện cụ thể nhất xuất phát từ nguyên nhân tài
chính là một số người tỏ ra thất vọng vì nửa kia không kiếm được số tiền như mình kỳ
vọng hoặc kinh tế quá eo hẹp xuất phát từ cả 2 phía khiến cho 2 người đổ lỗi cho nhau.
Theo thời gian, áp lực về kinh tế đè nặng lên cuộc sống hôn nhân khiến cả hai cảm thấy
mệt mỏi, stress và không thể thỏa hiệp. Tình trạng căng thẳng kéo dài trở nên quá tải
dẫn tới rạn nứt trong hôn nhân.
Ví dụ 38: chị Lê Thị Ng và anh Hồ Văn Đ kết hôn năm 2014, trên cơ sở tự nguyện
và có đăng ký kết hôn, sau khi kết hôn vợ chồng anh chị sống tại xã Thống Nhất, huyện
Thường Tín. Vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng từ đầu năm 2021, nguyên nhân
chị Ng cho rằng do anh Đ thường xuyên uống rượu và không chịu làm ăn lo kinh tế gia
đình. Chị đã đưa con về nhà bố mẹ đẻ sinh sống được hơn hai năm, vợ chồng sống ly
thân không quan tâm đến nhau. Nay chị không còn tình cảm yêu thương anh Đ, vợ chồng
không có khả năng quay về đoàn tụ nên chị đề nghị TAND huyện Thường Tín giải quyết
cho chị được ly hôn. Về phía anh Đ, anh đồng ý ly hôn và có nguyện vọng xin nuôi con
chung nhưng anh cũng thừa nhận sức khỏe yếu nên không có công việc và không có thu
nhập.
TAND huyện Thường Tín đã chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Ng tại bản án số
33/2023/HNGĐ-ST ngày 28/7/2023, do Tòa nhận thấy mâu thuẫn giữa chị N và anh H
ngày càng trầm trọng, kéo dài, cuộc sống chung không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân
không đạt được, nên đã chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Ng đối với anh H.
Thứ tư, ly hôn do bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình là một trong những lý do
nhiều cặp vợ, chồng dễ ly hôn nhất mà thường là đơn phương ly hôn. Nguyên nhân này
thường xuất phát từ người chồng có tính gia trưởng, cây mình là phái mạnh, kiếm được
nhiều tiền hơn nên coi thường, đánh đập vợ. Tuy nhiên, cũng có trường hợp người chồng

7
Bản án 26/2023/HNGĐ-ST ngày 10/7/2023 của TAND huyện Thường Tín
8
Bản án số 33/2023/HNGĐ-ST ngày 28/7/2-23 của TAND huyện Thường Tín
15

lại là nạn nhân của các hành vi bạo lực tinh thần, thường xuyên phải chịu sự trách móc,
sỉ nhục của người vợ ích kỷ.
Ví dụ 49: chị Đái Thị Q và anh Lê Văn T kết hôn trên cơ sở tự do tìm hiểu và tự
nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 13/12/2013 tại UBND xã Liên Phương, huyện Thường
Tín. Do cuộc sống vợ chồng không hòa hợp, anh T chơi bời, cờ bạc nợ nần nên từ tháng
3 năm 2021, chị Q đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại Phú Thọ sinh sống, vợ chồng ly thân. Ngày
10/9/2022 , anh T lẻn vào nhà bố mẹ đẻ chị Q dùng dao nhọn đâm, chém nhiều nhát vào
cơ thể chị khiến chị Q bị tổn hại 17% sức khỏe. Hành vi của anh T đã bị Cơ quan cảnh
sát điều tra - Công an tỉnh Phú Thọ ra Quyết định khởi tố bị can về tội “Giết người”. Chị
Q nhận thấy vợ chồng không còn tình cảm, không có khả năng quay về đoàn tụ nên chị
đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn.
Ngày 31/01/2023, tại bản án số 28/2023/HNGĐ-ST, TAND huyện Thường Tín xét
thấy hành vi bạo lực, vi phạm pháp luật của anh T đối với chị Q gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần chị Q; thể hiện hôn nhân của anh chị lâm vào
tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt
được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Q.
Thứ năm, vấn đề tệ nạn xã hội. Vợ chồng bất hòa, thường xuyên xảy ra mâu
thuẫn do nhận thức về xã hội, pháp luật chưa đầy đủ, thậm chí nhiều trường hợp người
chồng nghiện ngập ma túy, cờ bạc, rượu chè … dẫn đến người vợ không chịu được phải
ly hôn.
Ví dụ 510: Chị Trần Thị H và anh Nguyễn Văn M tự nguyện đến với nhau và đăng
ký kết hôn ngày 19/4/2014 tại UBND xã hà Hồi, huyện Thường Tín. Sau khi kết hôn,
vợ chồng chung sống chưa được bao lâu thì chị H phát hiện anh M nghiện ma túy, không
chịu làm ăn, ghen tuông đánh đập chị. Chị và gia đình đã đưa anh M đi cai nghiện nhiều
lần nhưng không thành công. Do áp lực về chồng nghiệm ma túy, không lo toan kinh tế
gia đình, bị đánh đập chửi mắng nên chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sống hơn tám năm nay.
Từ đó, vợ chồng sống ly thân, không liên lạc gặp gỡ, không quan tâm đến cuộc sống của
nhau. Chị và anh M không còn tình cảm, không có khả năng quay về đoàn tụ nên chị đề
nghị Tòa án giải quyết ly hôn.
Ngày 13/7/2023, TAND huyện Thường Tín đã đưa vụ việc ra xét xử và giải quyết
tại Bản án số 28/2023/HNGÐ-ST. Qua quá trình xác minh, Tòa nhận thấy mâu thuẫn vợ
chồng xuất phát từ việc anh M nghiện ma túy, thể hiện này 06/5/2020, anh M đã bị
TAND huyện Thường Tín xét xử 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Do đó, TAND huyện Thường Tín nhận thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh M ngày càng
trầm trọng, kéo dài, cuộc sống chung không có hạnh phúc, mục đich hôn nhân không
đạt được, nên chấp nhận đơn xin ly hôn của chị H đối với anh M.
2.2.3. Thủ tục giải quyết các vụ việc ly hôn tại TAND huyện Thường Tín
Đối với vấn đề áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các trường hợp ly hôn,
TAND huyện Thường Tín đã thực hiện tốt những quy định của BLTTDS và đạt được
những kết quả tốt trong áp dụng pháp luật vào giải quyết án hôn nhân và gia đình nói
chung và các trường hợp ly hôn nói riêng.
Trước hết, về thủ tục tiếp nhận đơn khởi kiện, TAND huyện Thường Tín luôn tôn
trọng quyền khởi kiện của các cá nhân theo quy định của BLTTDS năm 2015: “Cơ quan,
tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện

9
Bản án số 03/2023/HNGĐ-ST ngày 31/02/2023 của TAND huyện Thường Tín.
10
Bản án số 28/2023/HNGĐ-ST ngày 13/7/2023 của TAND huyện Thường Tín.
16

vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”11 Trong thực tiễn những năm gần đây (2021-
2023), TAND huyện Thường Tín đã tiến hành làm thủ tục nhận đơn khởi kiện về lĩnh
vực HN&GĐ với số lượng đơn khởi kiện tương đối lớn. Tuy nhiên có một phần không
nhỏ các đơn khởi kiện gửi đến Toà án chưa đáp ứng được hình thức, nội dung đơn khởi
kiện theo quy định tại Điều 189 BLTTDS và Nghị quyết 04/2018/NQ-HĐTP, nên Toà
án phải hướng dẫn nguyên đơn làm lại đơn khởi kiện hoặc yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn
khởi kiện theo quy định tại Điều 193 BLTTDS năm 2015.
Sau khi nhận đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, cán bộ TAND
huyện Thường Tín sẽ xem xét, phân loại đơn khởi kiện, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án thì Toà án thông báo cho người khởi kiện biết để họ đến
Toà án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí. Trong quá trình thụ lý đơn khởi kiện các
trường hợp ly hôn, TAND huyện Thường Tín luôn áp dụng đúng các quy định tại Điều
195; Điều 196, Điều 197 BLTTDS năm 2015 về thụ lý vụ án, phân công Thẩm phán giải
quyết và thông báo thụ lý vụ án để đảm bảo quyền, nghĩa vụ của đương sự.
Sau khi thụ lý vụ việc, TAND huyện Thường Tín sẽ tiến hành thu thập chứng cứ
để giải quyết vụ án theo quy định của BLTTDS. Cụ thể; sau khi nhận được hồ sơ vụ
việc, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án yêu cầu các đương sự giao nộp chứng
cứ, tài liệu chứng minh cho yêu cầu của mình và các chứng cứ, tài liệu khác liên quan
đến việc giải quyết vụ việc, hướng dẫn các đương sự viết bản tự khai trình bày những
nội dung liên quan đến tranh chấp. Trường hợp đương sự không tự viết được hoặc bản
khai chưa đầy đủ, rõ ràng thì Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của đương sự về những
nội dung còn thiếu theo quy định tại Điều 98 BLTTDS năm 2015. Việc lấy lời khai của
đương sự được thực hiện tại trụ sở Toà án, trong trường hợp đương sự không thể đến
Toà án được vì những lý do khách quan, chính đáng như đang bị tạm giam, đang chấp
hành hình phạt tù, bị ốm đau, bệnh tật phải nằm viện hoặc già yếu không đến Tòa án
làm việc được… thì Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở Toà án.
Người được lấy lời khai được tự đọc lại biên bản ghi lời khai và ký tên hoặc điểm chỉ
xác nhận. Tất cả các trường hợp ghi lời khai ở ngoài trụ sở Toà án thì Thẩm phán đều
mời người làm chứng và có xác nhận của Uỷ ban nhân dân, công an xã, phường, thị trấn
hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập biên bản. Ngoài việc lấy lời khai của đương sự, trong
trường hợp cần thiết hoặc theo yêu cầu của đương sự Thẩm phán cũng tiến hành lấy lời
khai của người làm chứng theo quy định tại Điều 99 BLTTDS năm 2015. Bên cạnh việc
thu thập chứng cứ thông qua lấy lời khai của đương sự, người làm chứng, tuỳ vào từng
vụ án cụ thể mà Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng
cứ khác như: đối chất trong trường hợp thấy có mâu thuẫn trong lời khai của đương sự,
người làm chứng; tiến hành trưng cầu giám định; xem xét thẩm định tại chỗ; định giá
tài sản; ban hành văn bản áp dụng pháp luật uỷ thác thu thập chứng cứ hay yêu cầu cá
nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ.
Sau khi thu thập đầy đủ các chứng cứ cần thiết liên quan đến vụ án, nếu thấy vụ
án không thuộc trường hợp không được hoà giải hoặc không tiến hành hoà giải được
quy định tại Điều 206, Điều 207 BLTTDS năm 2015 thì Thẩm phán ra thông báo về
phiên hoà giải theo Điều 208 BLTTDS năm 2015. Thẩm phán được giao giải quyết vụ
án luôn là người chủ trì phiên hoà giải và Thư ký Toà án là người ghi biên bản hoà giải.

11
Điều 186 BLTTDS 2015
17

Khi thông báo phiên hoà giải, các Thẩm phán đều triệu tập đầy đủ các bên đương sự
hoặc đại diện hợp pháp của các bên đương sự tham gia phiên hòa giải. Toà án chỉ tiến
hành hòa giải khi tất cả các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ đến tham gia
phiên hoà giải. Khi tiến hành hoà giải, Toà án đã áp dụng các quy định về nguyên tắc
tiến hành hoà giải được quy định tại Điều 205 BLTTDS năm 2015. Khi tiến hành hòa
giải vụ án HN&GĐ, các Thẩm phán của TAND huyện Thường Tín luôn xác định nội
dung đầu tiên là hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ. Tiếp đó, theo yêu cầu của các đương
sự, Thẩm phán xác định các nội dung hoà giải khác tuỳ thuộc vào quan hệ pháp luật có
tranh chấp. Trước khi hòa giải, Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết về các quy
định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết các vụ án; phân tích cho các bên biết
hậu quả pháp lý và những mặt tích cực có thể đạt được trong trường hợp hoà giải thành
để các đương sự thực hiện quyền tự định đoạt, tự thỏa thuận giải quyết vụ án của mình.
Kết quả hòa giải công nhận sự thỏa thuận của các đương sự khá cao (tỷ lệ)
Trong quá trình hoà giải nếu vợ chồng nhất trí thuận tình ly hôn, các bên đương sự
thoả thuận được với nhau về tất cả các vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán
lập biên bản hoà giải thành. Biên bản hoà giải thành phải ghi cụ thể các nội dung mà các
bên đã thoả thuận và được gửi cho tất cả các đương sự trong vụ án. Hết thời hạn 7 ngày
kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự
thoả thuận đó thì Thẩm phán ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận
của các đương sự. Việc ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự đã được
TAND huyện Thường Tín thực hiện đúng các quy định tại Điều 212 BLTTDS năm 2015.
Nhìn chung, hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết các trường hợp ly hôn
của TAND huyện Thường Tín trong những năm qua cho thấy, hầu hết các vụ án được
giải quyết kịp thời, đúng pháp luật. Trong quá trình giải quyết, các Thẩm phán luôn kiên
trì hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ hoặc hoặc hòa giải để các đương sự tự thỏa thuận
với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nên số vụ án giải quyết bằng quyết định đình
chỉ giải quyết vụ án hoặc quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của
các đương sự luôn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số các vụ án hôn nhân và gia đình đã giải
quyết. Chỉ xét xử một số lượng nhỏ các vụ án do một bên vợ hoặc chồng không đồng ý
ly hôn với nhiều lý do như: mâu thuẫn vợ chồng chưa đến mức thật sự trầm trọng, muốn
đoàn tụ để cùng chăm sóc, nuôi dạy con cái hoặc cố tình cản trở, gây khó khăn cho bên
xin ly hôn vì lý do nào đó và các vụ án mà các đương sự trong vụ án không tự thỏa thuận
được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung các vấn đề tranh chấp.
3. Nhận xét và kiến nghị, giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc ly
hôn tại TAND huyện Thường Tín.
3.1. Nhận xét thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết các trường hợp ly hôn tại
TAND huyện Thường Tín
3.1.1. Những ưu điểm đã đạt được
Nhìn chung, công tác giải quyết các vụ việc HN&GĐ nói chung và các trường hợp
ly hôn nói riêng của TAND huyện Thường Tín đạt kết quả tốt, đáp ứng được yêu cầu
chính đáng của đương sự nhờ có đội ngũ cán bộ ưu tú, có trình độ tiêu chuẩn. Các thẩm
phán đều trải qua các lớp bồi dưỡng thẩm phán và luôn cố gắng phấn đấu trau dồi nâng
cao kĩ năng của mình, đáp ứng được các tiêu chuẩn mà ngành Toà án đề ra. Các thư ký
đều tốt nghiệp đại học chính quy, có bằng cử nhân luật và vượt qua kỳ thi tuyển thư ký
tòa. Trong quá trình làm việc, các thẩm phán, thư ký đều nêu cao tinh thần trách nhiệm,
18

phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ. Chất lượng xét xử ngày càng được nâng cao, luôn
bảo đảm quyền lợi cho các đương sự, tình trạng án bị huỷ, bị sửa do lỗi chủ quan của
hội đồng xét xử ngày càng giảm. Việc đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh luận tại các phiên
toàn trê cở sở pháp luật tố tụng và theo tinh thần cải cách tư pháp được triển khai sâu
rộng và thực hiện nghiêm túc.
Về đường lối giải quyết vụ án, 100% vụ án ly hôn trước khi đưa ra giải quyết đều
được thu thập chứng cứ và hoà giải theo đúng trình tự pháp luật. Công tác hoà giải luôn
được các cán bộ TAND huyện Thường Tín đặc biệt chú trọng để hướng các cặp cợ chồng
quay về đoàn tụ với nhau, giải quyết triệt để những mâu thuẫn và giữ được mái ấm gia
đình. Điều đó được thể hiện qua số vụ án đình chỉ do hòa giải thành chiếm tỷ lệ khá cao.
Bên cạnh đó, số quyết định CNTTLH cũng chiếm tỷ lệ cao.
Trong quá trình xét xử các vụ án HN&GĐ, hội đồng xét xử đã đảm bảo các nguyên
tắc độc lập khi xét xử, đánh giá đúng tình trạng hôn nhân, mức độ mâu thuẫn của đương
sự, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, trẻ em khi xem xét quyết định các
vấn đề về nuôi con chung, chia tài sản chung trong vụ án.
3.1.2. Những hạn chế còn tồn tại
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết
các trường hợp ly hôn của TAND huyện Thường Tín vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần
khắc phục. Một số bản án, quyết định của TAND huyện Thường Tín bị cấp phúc thẩm,
giám đốc thẩm tuyên sửa, huỷ một phần hoặc toàn bộ bản án với lý do việc áp dụng
pháp luật chưa đầy đủ, chưa chính xác như: xác định thiếu hoặc không đưa người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng.
Sau khi thụ lý vụ án, bên cạnh việc xác định quan hệ tranh chấp, Toà án phải xác
định rõ, đầy đủ những người tham gia tố tụng và tư cách của đương sự là nguyên đơn,
bị đơn hay người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Trong thực tế có một số vụ án hôn
nhân và gia đình, TAND huyện Thường Tín đã bỏ lọt người tham gia tố tụng, cụ thể là
không đưa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (điển hình là con chung của cặp vợ
chồng trong vụ việc ly hôn) vào tham gia tố tụng. Việc xác minh thu thập tài liệu chứng
cứ, đánh giá chứng cứ không đúng dẫn đến bản án bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm và bị Tòa án cấp trên sửa, huỷ.
Ví dụ 6:12 vụ án ly hôn giữa nguyên đơn chị Đào Thị Huyền Tr và anh Nguyễn
Trường G.
Nội dung vụ án: Chị Tr và anh G kết hôn năm 2013. Vợ chồng có hai con chung
là cháu Nguyễn Hồng A, sinh ngày 08/10/2014 và Nguyễn Trường A, sinh ngày
09/10/2016. Trong quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và
cãi vã nhau. Nhận thấy mâu thuẫn giữa hai vợ chồng là không thể hòa giải, khó có thể
đoàn tụ và tiếp tục chung sống lâu dài, nên chị Tr đã nộp đơn xin ly hôn với anh G vào
tháng 1/2023. TAND huyện Thường Tín chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Tr trong bản
án số 04/2023/HNGĐ-ST ngày 06/02/2023. Đối với hai con chung, giao cháu Hồng A
cho anh G và cháu Trường A cho chị Tr trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục đến khi trưởng
thành đủ 18 tuổi.

12
Bản án số 04/2023/HNGĐ-ST ngày 06/02/2023 của TAND huyện Thường Tín
19

Không đồng ý với Bản án sơ thẩm số 04/2023/ HNGĐ- ST ngày 06/03/2023 của
TAND huyện Thường Tín, ngày 17/02/2023 chị Tr có đơn kháng cáo về phần quyết định
người trực tiếp nuôi con chung. Chị Tr kháng cáo xin được trực tiếp nuôi con chung là
cháu Hồng A, và để anh G trực tiếp nuôi con chung Trường A đến khi trưởng thành,
không yêu cầu anh G phải đóng góp tiền nuôi con chung. Chị Tr cho rằng cháu Hồng A
có nguyện vọng được ở cùng với mẹ; hơn nữa cháu Hồng A còn nhỏ lại là con gái nên
cần có sự chăm sóc dạy dỗ trực tiếp của người mẹ sẽ thuận lợi rất nhiều trong quá trình
phát triển tâm sinh lý của con gái, để thuận lợi cho cháu Hồng A phát triển về tâm sinh
lý.Ngày 21/02/2023 anh Nguyễn Trường G có đơn kháng cáo xin được trực tiếp nuôi 02
con chung đến khi các con trưởng thành. Không yêu cầu chị Tr phải đóng góp tiền nuôi
con chung.
TAND thành phố Hà Nội đã thụ lý và chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, không
chấp nhận kháng cáo của bị đơn; sửa một phần Bản án sơ thẩm số 04/2023/HNGĐ- ST
ngày 06/03/2023 của TAND huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội liên quan đến vấn đề
con chung: Giao chị Tr trực tiếp chăm sóc con chung Nguyễn Hồng A, và giao cháu
Nguyễn Trường A cho anh G trực tiếp tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi các con chung
trưởng thành.13 Tòa phúc thẩm xét thấy nguyện vọng của chị Tr muốn được trực tiếp
chăm sóc nuôi dưỡng con gái Nguyễn Hồng A đến khi trưởng thành là phù hợp với
nguyện vọng mong muốn của cháu Hồng A nếu bố mẹ ly hôn xin được ở cùng với mẹ
chăm sóc, hơn nữa cháu Hồng A còn nhỏ lại là con gái, gần đến tuổi dậy thì, nên cần có
sự chăm sóc giáo dục tâm sinh lý từ người mẹ, sẽ thuận lợi trong quá trình phát triển
trưởng thành. Tòa nhận định cấp sơ thẩm chưa xem xét nguyện vọng của cháu Hồng A,
nếu bố mẹ ly hôn mong muốn được ở với mẹ để tạo mọi điều kiện thuận lợi chăm sóc,
giáo dục học tập phát triển về mọi mặt. Do vậy có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo
của chị Tr là thỏa đáng, phù hợp pháp luật. Cháu Nguyễn Trường A là con trai, xét thấy
giao cho anh G trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng sẽ thuận lợi và phù hợp.
Đối với vụ việc trên, lý do Tòa án cấp phúc thẩm tuyên sửa bản án sơ thẩm là do
cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng với nguyên nhân chủ quan là không
đưa đầy đủ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng. Đây là nguyên
nhân mang tính chuyên môn, nghiệp vụ trong việc áp dụng pháp luật của các Tòa án.
Bên cạnh các nguyên nhân chủ quan, có những nguyên nhân khách quan khác gây
nên sai sót trong quá trình giải quyết các vụ việc có thể kể đến như:
Thứ nhất, số lượng các các vụ án nói chung, các vụ việc hôn nhân và gia đình nói
riêng của TAND huyện Thường Tín trong những năm qua thụ lý, giải quyết ngày càng
tăng qua các năm với tính chất tranh chấp ngày càng phức tạp. Trong khi đó chỉ tiêu
biên chế cán bộ, thẩm phán TAND huyện Thường Tín chưa được đáp ứng; do đó, số
lượng án mà các thẩm phán phải giải quyết bình quân vượt cao so với qui định của
TANDTC. Áp lực khối lượng công việc lớn như vậy cũng là một nguyên nhân gây ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng giải quyết các loại án nói chung và án hôn nhân và gia
đình nói riêng. Một số vụ án tiến độ giải quyết còn chậm, phải gia hạn do các bên tham
gia tố tụng thiếu hợp tác, vắng mặt không có lý do dù đã được triệu tập nhiều lần.
Thứ hai, với cơ cấu tổ chức của các TAND cấp huyện hiện nay chưa có các tòa
chuyên trách để giải quyết, xét xử đối với từng loại án; do đó thẩm phán được giao xét

13
Bản án số 58/2023/HNGĐ-PT ngày 12/04/2023 của TAND thành phố Hà Nội
20

xử tất cả các vụ án hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động. Nhưng thực tế pháp luật hình sự, pháp luật hành chính, pháp luật dân sự,
pháp luật lao động... là những loại pháp luật chuyên ngành rất khác nhau, nên các thẩm
phán khó có thể nắm sâu, cập nhật đầy đủ, thường xuyên, hiểu được thấu đáo các quy
định pháp luật ở tất cả các lĩnh vực đó, trong khi đó các vụ việc dân sự ngày càng tăng,
tính chất rất phức tạp. Vì vậy, đây cũng là một nguyên nhân quan trọng gây khó khăn
cho việc giải quyết các vụ án nói chung, các vụ án hôn nhân và gia đình nói riêng.
Thứ ba, khó khăn trong công tác điều tra, thu thập chứng cứ, tài liệu. Theo quy
định của BLTTDS về nguyên tắc chung, cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu
của mình là có căn cứ và hợp pháp vừa là quyền và nghĩa vụ của đương sự và Toà án
chỉ xác minh điều tra khi cần thiết. Song trên thực tế khi giải quyết các vụ án về ly hôn
tại địa bàn huyện Thường Tín, thì Toà án phải tự điều tra, thu nhập các tài liệu, chứng
cứ để xây dựng hồ sơ vụ án. Các đương sự trong nhiều trường hơp vì những lý do khác
nhau không những không tạo điều kiện thuận lợi cho Toà án trong việc xác minh, điều
tra mà còn có những hành vi như chửi với, xúc phạm cán bộ Toà án khi đến thu thập
chứng cứ, hay đo đạc định giá tài sản. Một số bị đơn vì không muốn ly hôn còn trốn
tránh, không hợp tác và không tham gia các phiên họp hoà giải cũng như những lần triệu
tập đến Toà án.

3.2. Những kiến nghị, đề xuất giải pháp giúp nâng cao chất lượng giải quyết các
vụ việc ly hôn tại TAND huyện Thường Tín
Qua việc nghiên cứu, phân tích những kết quả đã đạt được và những hạn chế, thiếu
sót còn tồn tại, em xin đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm khắc phục hạn chế, nâng cao
chất lượng hoạt động áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các trường hợp ly hôn của
TAND huyện Thường Tín trong thời gian tiếp theo.
Thứ nhất, quan tâm đến việc nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cũng như phẩm chất
đạo đức của Đội ngũ Thẩm phán, cán bộ Tòa án và Hội thẩm nhân dân. Nhân tố con
người luôn giữ vị trí quan trọng trong hoạt động giải quyết, xét xử các vụ án nói chung
và hoạt động giải quyết, xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình của TAND nói riêng; và
là nhân tố quyết định đến hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ
án hôn nhân và gia đình. Để nâng cao chất lượng của đội ngũ nhân sự; cần tăng cường
công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên sâu về nghiệp vụ công tác xét xử, giải
quyết các vụ án nói chung, chuyên đề xét xử, giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình
nói riêng cho đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký và Hội thẩm nhân dân. TAND
huyện Thường Tín cần xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng; tiếp tục khuyến khích,
tạo điều kiện cho cán bộ, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký được học tập để nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như trình độ lý luận chính trị; đồng thời trang bị
đầy đủ, kịp thời cho Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký và Hội thẩm nhân dân các văn
bản pháp luật, văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật về lĩnh vực HN&GĐ như: Luật
HN&GĐ 2014; Nghị định 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp
thi hành Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con
bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo; Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
Luật Hộ tịch; Nghị định 98/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
21

10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều
kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia
đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; Thông tư liên tịch
01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn thi hành một số điều quy định
của Luật Hôn nhân và gia đình; kèm theo đó là các loại sách báo, tạp chí của các cơ
quan pháp luật như Tạp chí Tòa án, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí pháp luật… để tham khảo
nâng cao trình độ, đảm bảo hiệu quả khi giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình.
Thứ hai, tăng cường cơ sở vật chất và hoàn thiện các chế độ, chính sách đãi ngộ
cho các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, cán bộ Toà án. Điều kiện cơ sở vật chất, chế độ
đãi ngộ, chính sách tiền lương cũng có tác động không nhỏ đến hoạt động áp dụng pháp
luật trong giải quyết các trường hợp ly hôn của TAND. Việc đầu tư xây dựng trụ sở làm
việc và trang bị đầy đủ các thiết bị phục vụ công tác sẽ giúp cho các cán bộ Tòa án có
nhiều thuận lợi khi giải quyết vụ án, đặc biệt là trong việc cập nhật các văn bản quy
phạm pháp luật mới. Chế độ đãi ngộ và chính sách tiền lương hợp lý sẽ giúp cho các
Thẩm phán nói riêng và các cán bộ nói chung có cuộc sống ổn định, là động lực thúc
đẩy họ làm việc công tâm, khách quan nhằm nâng cao chất lượng công tác giải quyết án
hôn nhân và gia đình.
Thứ ba, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan,
tổ chức có liên quan trong áp dụng pháp luật giải quyết các trường hợp ly hôn. Làm tốt
công tác phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan, tổ chức có liên quan
là một kinh nghiệm thành công trong quá trình giải quyết các loại vụ án nói chung và
các vụ án HN&GĐ nói riêng, nhằm đảm bảo sự thống nhất nhận thức về áp dụng pháp
luật, khẩn chương thu thập, bổ sung tài liệu chứng cứ, hoàn thiện hồ sơ để đưa vụ việc
ra giải quyết trong thời hạn luật định, phát hiện và kịp thời khắc phục những điểm chưa
rõ ràng, thậm chí là những sai sót trong các bản án, quyết định mà Tòa án đã ban hành.
Thực tế cho thấy, về cơ bản các cơ quan, tổ chức đã có sự phối hợp chặt chẽ với Tòa án
trong việc giải quyết các vụ án, giúp cho việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn
diện, đúng pháp luật. Song, đôi khi cũng còn gặp một số khó khăn, vướng mắc nhất là
trong việc cung cấp tài liệu chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án. Vì vậy, cần tăng cường
hơn nữa công tác phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ quan, tổ chức có
liên quan đến hoạt động giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình, nhất là trong việc áp
dụng pháp luật để giải quyết các vụ án.
C – KẾT LUẬN
Qua việc phân tích thực tiễn giải quyết các trường hợp ly hôn tại TAND huyện
Thường Tín, thành phố Hà Nội đã cho thấy trong những năm qua, hoạt động áp dụng
pháp luật trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình nói chung và các trường hợp
ly hôn của TAND huyện Thường Tín nói riêng ngày một nâng cao và đạt được những
thành tích đáng kể. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số hạn chế, thiếu sót dẫn đến một số
bản án, quyết định bị sửa, bị huỷ án do lỗi chủ quan của Thẩm phán và Hội đồng xét xử.
Để khắc phục tình trạng nêu trên và nâng cao chất lượng hoạt động áp dụng pháp luật
trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình của TAND huyện Thường Tín, em đã
đề xuất những giải pháp khắc phục và nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong giải
quyết các vụ án HN&GĐ của Tòa án.
22

Tuy thời gian thực tập chỉ kéo dài trong hơn 02 tháng nhưng đây thực sự là một
khoảng thời gian quý báu, bởi bản thân em đã học hỏi tích lũy được rất nhiều kinh
nghiệm, tiếp thu được nhiều kiến thức mới bổ ích. Thông qua việc quan sát và lắng nghe
sự chỉ bảo của lãnh đạo, công chức TAND huyện Thường Tín, em đã tự đúc kết được
nhiều kinh nghiệm quý báu và cũng nhận thấy được nhiều những thiếu sót, từ đó bản
thân có hướng khắc phục và hoàn thiện hơn, cải thiện mình tốt hơn để phát triển trong
ngành nghề mình đã chọn.
23

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Giáo trình Luật Hôn nhân & Gia đình Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb
Công an nhân dân;
2. Giáo lý hôn nhân và Gia đình - Ủy ban giáo lý Đức Tín, Hội đồng Giám mục Việt
Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội 2004;
3. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Nghị định số
126/2014/NĐ CP ngày 31 tháng 12 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết một
số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Cừ; Ngô Thị Hường, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật Hôn
nhân & Gia đình năm 2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002.
5. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014, NXB Hồng Đức, Hà Nội
7. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Dân sự, NXB
Tư pháp, Hà Nội;
8. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, NXB Tư pháp, Hà Nội.
9. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Tổ chức Toà án
nhân dân, NXB Lao Động, Hà Nội.
10. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự,
NXB Tư Pháp, Hà Nội.
11. Nguyễn Tiến Cương (2018), Thực tiễn giải quyết các trường hợp ly hôn tại TAND
thành phố Sơn La, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
24

You might also like