You are on page 1of 59

Toi, l’enfant que je n’aurai pas, je me demande quels traits auraient été les tiens si je t’avais donné le jour

: anguleux comme
ceux de mon père ou flous comme ceux de cet homme, S., que j’ai aimé cinq ans durant, avec une étonnante constance, et qui
me disait avoir la fibre paternelle ?

Con, đứa trẻ mà ta sẽ không bao giờ sinh ra, ta tự hỏi rằng con sẽ như thế nào nếu ta sinh ra con vào một ngày nào đó: gương
mặt cuar con sẽ góc cạnh như của cha hay mềm mại như của người đàn ông đó, ông S, người mà ta đã yêu 5 năm với một sự
kiên định đáng kinh ngạc và người đã nói với ta rằng ông ấy có tố chất của người cha?

Mon épanouissement, à l’en croire, passait par l’enfantement, être mère m’aurait apporté la sérénité qui me faisait défaut.
J’aurais franchi un cap, bazardé. J’aurais franchi un cap, bazardé l’attirail du scepticisme, renquillé mes postulats péremptoires,
prisé les demi-teintes, diapré mes matins blêmes.

Ông ấy tin rằng sự trọn vẹn của ta là quá trình sinh nở, rằng được làm mẹ sẽ cho ta một sự trọn vẹn thanh thản mà ta không
có. Ta đã có thể bước thêm một bước, vứt bỏ những vật dụng của chủ nghĩa hoài nghi, dập tắt những định đề độc đoán của
bản thân, đánh giá cao các bán sắc, tô điểm cho những buổi sáng nhợt nhạt của mình.

J’avais avec S. de longues conversations et de brèves disputes d’où il ressortait toujours que j’avais tort de persister à ne pas
me perpétuer. À ses syllogismes sur la maternité, condition première de la complétude d’une femme, j’opposais des arguments
tirés des précis aphoristiques lus, relus, cochés et annotés :

Dans un monde qui court au désastre, la procréation est un crime, occulter le nonsens de l’aventure terrestre en attribuant à sa
postérité la vertu de pallier ses propres ratages, c’est faire preuve d’aveuglement.

Ta đã có những cuộc trò chuyện dài và cả những cuộc tranh luận ngắn ngủi với ông S mà từ đó thể hiện rằng ta đã sai khi cố
chấp không tiếp tục duy trì nòi giống của mình. Theo cách lập luận có tình chất hình thức của ông ấy về tình mẫu tử, việc sinh
con là điều kiện đầu tiên về sự trọn vẹn của một người phụ nữ, ta đã phản đối những lập luận được rút ra từ những câu cách
ngôn được đọc đi, đọc lại, kiểm tra và chú thích kỹ lưỡng:

“Trong một thế giới hướng đến những thảm họa, thì sinh nở là một tội ác, để che dấu sự vô nghĩa của cuộc phiêu lưu trần thế
bằng cách gán cho hậu thế của họ đức tính bù đắp cho những thất bại của chính mình là thể hiện sự mù quáng”.

Me répondrais-tu que ce sont là des paradoxes de négateurs systématiques ? Je me flattais d’être lucide et de nager à contre-
courant, je taxais S. de conformisme : étionsnous donc un de ces couples pour qui, une fois l’exaltation des commencements
assoupie, la seule perspective délicieuse est de pouponner et de s’émerveiller devant la précocité de sa progéniture ?

Bạn có thể trả lời ta rằng đó là những nghịch lý của những người từ chối có hệ thống? Ta tự hào rằng bản thân mình minh
mẫn và không đi theo số dông, ta cho rằng ông S theo chủ nghĩa tuân thủ: Liệu chúng ta có phải là một trong những cặp vợ
chồng mà một khi sự tôn vinh của sự khởi đầu ngủ quên, điều triển vọng thú vị nhất là nuông chiều và ngạc nhiên trước sự
phát triển sớm của con mình?

Le moindre balbutiement du petit bonhomme, et nous l’aurions déclaré surdoué, le moindre barbouillage de sa main, et nous
aurions parié qu’il serait un génie : il aurait le talent sans les épreuves qui ont brisé plus d’un artiste.

Chỉ cần một chút nói lắp bắp của nó, chúng ta đã có thể tuyên bố nó có năng khiếu, chỉ cần một vết bẩn nhỏ nhất trên bàn tay
của nó, chúng ta sẽ cá rằng đó là một thiên tài.

Nous, ses parents, nous nous serions saignés aux quatre veines pour qu’il soit vêtu comme un prince, qu’il ait à profusion de
dispendieux jouets, qu’il aille aux sports d’hiver, qu’il passe le mois d’août dans des stations balnéaires à la mode, qu’il
fréquente les meilleures écoles, où il n’aurait pas manqué de progresser, devançant tous ses camarades.
Chúng ta, những bậc cha mẹ, ta sẽ đổ máu đến chết để nó được ăn mặc quần như một hoàng tử, để nó có những món đồ chơi
đắt tiền, để nó chơi các môn thể thao mùa đông, được theo học những ngôi trường tốt nhất, nơi nó không thể không tiến bộ,
vượt lên trên tất cả các đồng đội của mình.

Et même quand nous aurions été déçus dans nos attentes, quand il se serait révélé un gosse tout à fait ordinaire, sans aptitude
particulière, un copieur collectionnant les zéros pointés et bon client des boîtes à bachot, nous lui aurions trouvé des qualités,
telles que la serviabilité et la modestie.

Và ngay khi những kỳ vọng của ta không như ta mong đợi, nó trở thành một đứa hoàn toàn bình thường, không có nỗi năng
khiếu đặc biệt, chỉ là một máy photocopy thu thập những con số không và khách hàng tốt của những chiếc hộp cử nhân, chúng
ta sẽ tìm thấy ở phẩm chất của nó, chẳng hạn như sự hữu ích và khiêm tốn.

Ou même quand il se serait avéré un poseur insolent, un morveux qu’il aurait fallu moucher, nous aurions considéré ses
impertinences comme l’expression d’une saine rébellion : il ne se laissait pas marcher sur les pieds, bien malin qui lui ferait
sentir son pouvoir

Hoặc ngay cả khi nó trở thành một kẻ xấc xược, một thằng nhóc cần phải xì mũi, chúng ta sẽ coi sự xấc xược của nó chỉ là
biểu hiện của một cuộc nổi loạn lành mạnh: nó không cho phép bản thân bị giẫm đạp, một người thông minh sẽ khiến anh ấy
cảm thấy quyền lực của mình.

S. s’insurgeait contre ma caricature de la scène familiale. Il m’accusait

de noircir le tableau pour justifier ma dérobade. Ce n’est pas être moutonnier que de vouloir engendrer.

Ông S phản đối bức tranh biếm họa của ta về gia cảnh. Ông ấy buộc tội ta làm tối bức tranh để biện minh cho sự tránh né của
mình. Không phải vì không muốn sinh con nên ta mới ngượng ngùng. Sự non nớt là gốc rễ của quyết tâm vô trùng của bản
thân:

Mon immaturité est à l’origine de ma résolution de rester stérile : j’ai peur d’endosser les conséquences d’une sublimation de
mes instincts mortifères, de ne plus être gouvernée par Thanatos qui m’entraîne vers un confortable néant, où je ne serai
comptable de rien :

Ta sợ phải gánh chịu hậu quả của một sự thăng hoa bản năng đầy chết hóc của mình: là gốc rễ của việc không còn bị chi phối
bởi Thanatos, kẻ đã kéo ta đến một cõi hư vô dễ chịu, nơi mà ta sẽ không phải chịu trách nhiệm về bất cứ điều gì:

Je serai toujours la fille, libre d’entraves, et non la mère aux multiples obligations, je n’aurai pas pris le risque de lézarder mon
image en ayant un fils qui, avec le temps, en serait peut-être venu à désavouer chacune de mes actions.

Ta sẽ mãi là cô gái, thoát khỏi xiềng xích và không phải là là người mẹ với nhiều nghĩa vụ, ta sẽ không mạo hiểm làm tổn hại
hình ảnh của mình khi có một đứa con trai mà nó có thể sẽ từ chối từng hành động của ta theo thời gian.

Avoir un enfant m’aurait contrainte à m’assouplir, moi qui étais toute d’un bloc, rejetais quiconque heurtait mes certitudes,
faisais montre d’un schématisme outrancier quand nous abordions le chapitre de la filiation. Je prétendais ne pas me leurrer sur
les liens du sang, je tenais les antiennes natalistes pour des attrape-nigauds :

Việc có con sẽ buộc ta phải thư giãn, bản thân ta là một người cứng rắn, sẽ phản chối bất cứ ai xúc phạm lòng kiên định của
mình, đã cho thấy một sơ đồ kỳ quặc khi chúng ta tiếp cận phần huyết thống. Ta giả vờ không tự lừa dối mình về quan hệ
huyết thống, tôi xem những câu ca dao của người theo chủ nghĩa tự nhiên là những cái bẫy:

un individu qui se respecte ne se glorifie ni de son ascendance ni de sa descendance. S. objectait que mon vœu était d’être une
autarcique, se suffisant à elle-même, cherchant dans des traités nocifs des thèses en faveur de ma déviance, car je répugnais à
être coulée dans le même moule que la plupart, à suivre l’itinéraire tout tracé, non par un salutaire esprit de révolte, mais parce
que je n’étais pas sortie de l’adolescence.

một các nhân tự trọng không khoe khoang về tổ tiên cũng như dòng dõi của mình. Ông S phản đối rằng ước muốn của ta là trở
thành một kẻ tự cung tự cấp, tự lấp đầy bản thân mình , tìm trong các luận thuyết độc hại cho các luận điểm có lợi cho sự lệch
lạc của ta, bởi vì ta miễn cưỡng bị đúc theo một khuôn mẫu như số đông, để đi theo lộ trình đã được vạch sẵn, chứ không phải
vì tinh thần chào đón cuộc nổi dậy, mà là vì tôi chưa hết tuổi thanh xuân.

En ce temps-là, j’étais ballottée entre un inextinguible besoin de me distinguer et une ravageuse tendance à l’autodérision, je
souhaitais être tranchante, mais je doutais tellement de moi que je faisais chaque nuit des cauchemars où j’échouais aux
examens. Je balayais tout ce qui semblait définitif, comme si seul l’éphémère me préservait des déconvenues.

Ngay lúc đó, tôi bị giằng xé giữa nhu cầu không thể dập tắt là phải phân biệt bản thân và xu hướng tàn phá là tự chế giễu bản
thân, tôi muốn trở nên sắc sảo, nhưng lại nghi ngờ bản thân đến nỗi đêm nào tôi cũng gặp ác mộng việc mình thi trượt. Tôi
gạt đi mọi thứ dường như là cuối cùng, như thể chỉ có sự phù du mới bảo vệ tôi khỏi những thất vọng.

Tout devait demeurer à l’état rudimentaire, ce qui prenait corps m’effrayait, ce qui aboutissait me rapprochait de l’âge adulte,
que je me représentais grevé de dépendances nombreuses : c’est vieillir que de s’assurer des affections en contrepartie de
misérables ménagements.

Mọi thứ phải ở trong trạng thái thô sơ, những thứ hình thành khiến ta sợ hãi, những thứ thành công đưa ta đến gần tuổi
trưởng thành hơn, điều mà ta tưởng tượng là phải gánh chịu nhiều phụ thuộc: là già đi để đảm bảo với chính mình về tình cảm
bằng cách đổi lại những sự xem xét khốn khổ.

Je chérissais ma solitude, ma chaloupe de sauvetage, mais je ne désespérais pas de rompre mon esseulement, je faisais deux
pas en avant et trois en arrière, mon introversion m’inclinait à la froideur, toute effusion me paraissait grotesque, les caresses,
les hypocoristiques, les débordements

de tendresse étaient à proscrire.

Ta trân trọng sự cô đơn của mình, chiếc phao cứu sinh của mình, nhưng ta không phá vỡ sự cô đơn ấy một cách tuyệt vọng, ta
tiến hai bước và lùi ba bước, bản tính hướng nội của ta khiến ta trở nên lạnh lùng, bất kỳ sự biểu lộ nào đối với ta sẽ đều kỳ
cục, những cái vuốt ve, những lời đạo đức giả và những cái vuốt ve, sự biểu lộ dịu dàng cần phải tránh.

Mes parents de toute façon en étaient avares. Ma mère n’avait jamais un geste affectueux, mon père s’exemptait de
démonstrations d’amour, comédies indignes de lui, si peu communicatif. Hormis les moments où ma mère, s’oubliant,
explosait en vitupérations parce que tout lui paraissait aller de travers, la retenue était de règle à la maison. Mon père, s’étant
toqué d’une femme qui le tenait en piètre estime, noyait dans l’alcool ses froissements.

Dù sao thì cha mẹ ta cũng keo kiệt với những điều đó. Mẹ ta không bao giờ có một cử chỉ âu yếm, cha ta thì miễn cưỡng thể
hiện tình yêu, những vở hài kịch không xứng đáng với ông, nó rất ít giao tiếp. Ngoại trừ có những lúc mẹ ta, bà bùng nổ cơn
giận dữ vì mọi thứ đi sai hướng mà quên cả bản thân mình, thì trong nhà sự kiềm chế là quy tắc. Cha ta, cũng vì đã thích một
người phụ nữ coi thường ông, nên đã chìm đắm trong men rượu.

Ma mère, lançant feu et flammes, se contenait pour ne pas grognonner. Les repas se déroulaient dans une atmosphère guindée,
ma mère rappelait mes trois sœurs et moi à la bienséance, quand elle observait un laisser-aller chez nous, quand, à peine à
table, nous nous ruions sur les plats comme une nuée de sauterelles.

Mẹ ta, như lửa và cháy, kiềm chế bản thân dế không gầm thét. Bữa cơm diễn ra trong không khí ngột ngạt, mẹ nhắc nhở ba chị
em và tôi phải lễ phép, khi bà nhận ra trong nhà luộm thuộm, khi chưa kịp ngồi vào bàn bọn ta đã lao vào ăn như bầy châu
chấu.

Entre nous, nous la surnommions « Big Mother », et chaque fois que l’une de nous quatre faisait une bêtise, les autres
s’écriaient à l’unisson : « Attention, Big Mother te regarde ! »

Trong số bọn ta đã đặt biệt danh cho bà ấy là “Big Mother”, và bất cứ khi nào một trong bốn người bọn ta gặp rắc rối, những
đứa còn lại sẽ đồng thanh hét lên “ Coi chừng, “Big Mother” đang nhìn mày đấy!”

Et Big Mother nous inculquait des maximes puritaines, nous prémunissait contre les dévergondages et les lectures corruptrices,
contre l’onanisme, cette pratique de futures traînées, contre les beaux discours des tentateurs qui se feraient une joie de
suborner de calamiteuses gourdes dans notre genre, contre l’influence des camarades émancipées, au parler cru.
Và Big Mother đã dạy chúng tôi những châm ngôn của đạo Thanh giáo, bằng lời nói thô thiển bà cảnh cáo chúng tôi chống
lại sự phóng đãng và tiểu thuyết đồi trụy, chống lại sự cuồng dâm, rằng những tập tục này của những con đĩ tương lai, chống
lại những bài phát biểu hay của những kẻ cám dỗ, những kẻ sẵn sàng mua chuộc những quả bầu tai hại như của chúng ta,
chống lại sức ảnh hưởng của những người đồng chí được giải phóng.

Alors qu’elle s’habillait avec une coquetterie voyante, elle nous défendait les toilettes trop osées, il nous fallait porter des
corsages aux manches longues, boutonnés jusqu’au cou, et d’amples jupes qui cachaient nos formes. Malgré nos efforts pour
être à la page, pour ne pas ressembler à des nonnes ou à des grands-mères coincées, nous étions, avec nos robes grisâtres, aussi
irrésistibles que des guenons. Big Mother surveillait de près nos allées et venues, nous n’avions pas le droit de nous inviter à
des surprises-parties, d’apprendre à danser (les gigotements au son de l’infernale musique rock sont des indécences), d’écouter
des disques de crooners (ils induisent à la langueur et au relâchement, premier pas vers la perdition), de consigner nos
impressions dans un journal intime (c’est une coupable complaisance, et nous en aurions profité pour dire pis que pendre
d’elle).

Trong khi bản thân ăn mặc sặc sỡ, bà ấy lại cấm chúng tôi ăn mặc quá hở hang, phải mặc áo dài tay, cài khuy đến tận cổ, váy
che kín cả người. Dù cho bọn ta nỗ lực bao nhiêu để trở nên hợp thời, để không trông giống như những nữ tu hay những bà cô
cổ hủ, thì ta không thể cưỡng lại được như những con khỉ. Big Mother theo dõi sát sao việc đi lại của bọn ta và ta không được
phép rủ nhau vào những bữa tiệc bất ngờ, vào học khiêu vũ( rung rinh theo âm thanh của nhạc rock địa ngục là không thanh
nhã hay nghe các bản ghi âm của kẻ hát rong( chúng tạo ra sự yếu đuối và buông lỏng, (bước đầu tiên hướng tới sự diệt
vong), để ghi lại những ấn tượng của chúng tôi trong một cuốn nhật ký( đó là một sự tự mãn đáng trách, và bọn ta sẽ tận dụng
cơ hội để nói điều tồi tệ hơn là bám lấy bà ta)

Nous n’avions pas le droit de nous occuper de poésie (les belles lettres ne sont faites que pour des losers, opprobres de la
société). Nous n’avions guère plus le droit de nous adonner à la peinture : c’est un ornement de luxe, une perte de temps pour
qui est un partisan du matérialisme. Il nous était aussi interdit de dévoiler notre anatomie à la plage (pas de pose provocante !),
de courir pieds nus sur le sable (un peu de tenue !), de nous exposer au soleil (seules les filles de rien ont la peau tannée), de
nous ébattre dans l’eau (seules de vulgaires galopines s’exhibent ainsi). Coiffées de larges chapeaux, assises sous un parasol,
nous scrutions l’horizon, il n’y avait rien d’autre de convenable à faire. Nous avions encore moins le droit de traîner dans les
rues, d’aller dans les cafés, de feuilleter des magazines, car s’y étalent les débauches des modern girls.

Bọn ta không có quyền quan tâm đến thơ( Văn hay chỉ dành cho những kẻ thất bại, những kẻ ô nhục của xã hội). Ta không có
quyền cống hiến hết mình cho hội họa: nó là một vật trang trí xa xỉ, là một sự lãng phí thời gian đối với bất kỳ ai là một người
theo chủ nghĩa duy vật

Bọn ta cũng bị cấm để lộ cơ thể trên bãi biển( vì không được tạo dáng khiêu gợi!), cấm chạy chân trần trên cát( vì cách ứng
xử!), không được phơi mình dưới nắng( vì chỉ những cô gái không ra gì mới có làn da rám nắng!), không được vui đùa trong
nước( vì chỉ những phi nước đại thô tục với thể hiện bản thân theo cách này!) . Nhưng chúng ta chẳng có việc gì tử tế hơn để
làm ngoài đội mũ rộng vành, ngồi dưới dù che nắng, nhìn về phía chân trời. Thậm chí ta còn ít có quyền lang thang trên phố,
đến quán cà phê, cấm lướt qua các tạp chí, bởi sự đồi trụy của các cô gái hiện đại được trưng bày ở đó.

Big Mother veillait à ce qu’aucun vice rédhibitoire n’entache notre moralité, et c’était, disait-elle, le tonneau des Danaïdes,
parce que nous étions foncièrement mauvaises. Si elle n’avait été la sévère gardienne de nos mœurs, nous aurions depuis
longtemps roulé dans la fange, si elle nenous avait empêchées d’imiter les affranchies, nous aurions été des voyoutes de la pire
espèce.

Big Mother đảm bảo rằng không có tật xấu nào làm hoen ố đạo đức của chúng tôi và theo bà, đó là nòng súng của nhà
Danaides, bởi vì về cơ bản bọn ta không tốt đẹp gì. Nếu và ấy không phải là người bảo thủ với đạo đức của ta, thì bọn ta đã
lăn lộn trong vũng bùn từ lâu rồi, nếu bà ấy không ngăn cản ta bắt chước phụ nữ tự do thì bọn ta đã là những tên lưu manh tồi
tệ nhất.

Elle dissimulait soigneusement qu’elle s’était trouvée enceinte de ma sœur aînée avant le mariage. Nous aurait-elle fait cette
confidence que nous aurions jugé ce mystère plutôt touchant, mais elle était comme tous les donneurs de leçons : elle tirait un
voile sur ses écarts passés en prenant des airs vertueux. Dès qu’elle s’était rangée, elle s’était muée en championne des valeurs
bourgeoises.
Là bọn giấu kỹ chuyện chuyện chị cả có bầu trước ngày cưới. Nếu chị ấy tâm sự với bọn ta, ta sẽ thấy bí mật này hơi cảm
động, nhưng chị ta giống như tất cả những người đưa ra những bài học: cô ấy đã kéo tấm màn che đi những sai lệch trong quá
khứ của mình bằng các ra vẻ đạo đức. Ngay sau khi ổn định cuộc sống, cô đã biến thành nhà vô địch của những giá trị tư sản.

Pas un préjugé qu’elle n’érigeait en loi, pas un sermon dont elle nous faisait grâce, pas un qu’endira-t-on qu’elle ne redoutait,
et puisque nous étions du sexe prétendument faible, puisque notre père était trop coulant, elle se devait de nous réformer. Big
Mother nous corrigeait à coups de badine lorsqu’elle découvrait dans nos cartables des billets écrits par des garçons.

Không một định kiến nào mà bà không dựng thành luật, không một bài giảng nào bà tha thứ cho chúng tôi, chẳng có điều gì
nói được rằng bà không sợ hãi và chính vì bọn ta thuộc phái yếu, chính vì cha của ta quá mít ướt, nên bà ấy đã phải chấn
chỉnh lại bọn ta. Big Mother đã sửa lỗi bọn ta dùng những cú đánh bằng gậy khi bà ấy phát hiện những tờ ghi chút được viết
bởi các cậu trai trong cặp của bọn ta.

Nos amourettes étaient le signe que nous ne tarderions pas à tomber dans la licence : on commence par faire des yeux doux aux
mâles, et on finit par avoir le diable au corps, on commence par griffonner des bafouilles sentimentales et on finit par se livrer
au premier venu. Elle se plaignait souvent de notre ingratitude

Những chuyện tình của ta là một dấu hiệu cho thấy bọn ta sẽ sớm trở nên phóng đãng(bừa bãi): bạn bắt đầu để mắt đến đàn
ông, và kết thúc với con quỷ trong người, ta bắt đầu bằng cách viết nguệch ngoạc lời lầm bầm tình cảm và cuối cùng bạn đã từ
bỏ chính mình trước tình cảm đầu đời. Sự phóng túng ấy thường phàn nàn về độ vô ơn của chúng ta.

Au lieu de lui être redevables de nous avoir épargné les déboires que nous auraient valu nos dévoiements, nous avions un
comportement de petites sournoises d’une docilité feinte, de sans-souci sur qui les réprimandes glissaient comme l’eau sur les
plumes d’un canard. Notre père n’était pas un modèle pour nous : depuis sa jeunesse dissipée, il avait pris le pli de se pinter et
de flamber au jeu, d’aller en douce faire la bombe. Si ce n’était pas elle qui tenait les cordons de la bourse, l’argent du ménage
se serait évanoui en fumée.

Thay vì mang ơn bà ấy vì đã giúp bọn ta tránh khỏi những thất vọng mà những sai lầm của bọn ta đã gây ra, nhưng ta lại có
cách cư xử của những cô bé lém lỉnh với vẻ giả vờ ngoan ngoãn, vô tư trước những lời khiển trách như nước đổ đầu vịt. Cha
của ta không phải là hình mẫu cho bọn ta: từ khi còn trẻ, ông đã tự dằn vặt bản thân và nổi lửa trong trò chơi, lén lút chế tạo
bom. Nếu không nhờ bà ấy không giữ dây ví, thì tiền trong nhà đã tan thành mây khói.

J’avais quatorze ans, des concepts plein la tête, une assez grande méconnaissance des choses de la vie, une sorte de flottement
qui me rendait perméable à toutes les suggestions. J’approuvais les aperçus des uns, plus avertis que moi, pour les répudier
quand d’autres énonçaient des opinions moins catégoriques, qui me laissaient le loisir de les réfuter, même si je n’avais pas la
langue déliée. En général, j’oscillais entre une extase immaîtrisable et un dégoût de tout, j’avais une sensibilité à fleur de peau,
une défiance bien ancrée, contrebalancée par une ingénuité sporadique qui, d’après Big Mother, était le paravent d’une
perversité sous-jacente, perceptible dans mes dissertations, où se lisait mon hostilité envers elle. Rien qu’en les parcourant, elle
pressentait que, de façon détournée, je tentais de ruiner son crédit

Khi ta mười bốn tuổi, trong đầy rẫy những khái niệm, một sự mù mờ về những điều của cuộc sống, một loại giao động kiến ta
thấm nhuần mọi ý tưởng. Ta tán thành những hiểu biết sâu sắc của một số người hiểu biết nhiều hơn mình, để bác bỏ chúng khi
những người khác bày tỏ ý kiến ít phân loại hơn, điều này đã cho phép ta tự do bác bỏ chúng, kể cả khi chúng ta không được tự
do lên tiếng. Nói chung, bọn ta bị giao động giữa trạng thái ngây ngất không thể kiểm soát và sự ghê tởm đối với mọi thứ, ta có
một sự nhạy cảm sâu sắc, một sự ngờ vực sâu xa, được đối trọng bởi một sự khéo léo rời rạc, mà theo Big Mother, là bức bình
phong của một sự đồi bại tiềm ẩn, có thể nhận thấy được nó trong các bài luận của mình, nơi có thể đọc được sự hận thù của ta
đối với bà ấy. Chỉ cần nhìn qua chúng, bà ấy đã cảm thấy rằng ta đang cố hủy hại sự tín dụng của bà ta.

Déjà, à l’époque, je me jurais de ne jamais être mère, pour ne pas donner à mes enfants l’éducation que j’avais reçue. Mes
sœurs pensaient pouvoir conjurer la fatalité de la répétition, moi, à l’inverse, je craignais de reproduire des mécanismes
d’autoritarisme. Je n’aurais vraisemblablement pas le pharisaïsme de Big Mother, ni sa vénération pour les convenances, mais
mon surmoi serait peut-être tel que, trop commandante, je ne tolérerais aucune négligence, j’imposerais des tabous. Ou alors
j’étais persuadée que je serais une mère exclusive, abusive. Si je devais avoir un enfant, me disais-je, ce serait un fils : ma
féminité me faisait horreur, je ne passais pas devant une maternité sans frémir, le spectacle des femmes enceintes me renvoyait
un miroir dans lequel je ne voulais pas voir se refléter mon avenir
Vào thời điểm đó, ta đã thề sẽ không bao giờ làm mẹ để không mang đến cho các con sự giáo dục mà ta đã nhận được. Những
người chị của ta nghĩ rằng họ có thể tránh được tai họa của sự lặp lại, còn ta thì ngược lại, ta sợ tái tạo những cơ chế của chủ
nghĩa độc đoán. Ta có lẽ sẽ không có sự tự cao tự đại của Big Mother, cũng như sự tôn kính của bà về những chuân mực,
nhưng cái siêu tôi của ta sẽ trở nên quá ra lệnh, ta sẽ không tha thứ, không cẩu thả, ta sẽ áp đặt những điều cấm. Nếu không ta
đã bị thuyết phục rằng ta sẽ là một người mẹ độc quyền, ngược đãi. Nếu như ta sinh ra một đứa con, ta sẽ tự nhủ đó sẽ là con
trai: Sự nữ tính của mình khiến ta kinh hoàng, ta không thể không rùng mình khi đi ngang qua một căn phòng hộ sinh, cảnh
tượng những người phụ nữ mang thai phản chiếu một một hình ảnh mà tôi không muốn nhìn thấy trong tương lai của mình.

Je n’étais pas du tout un garçon manqué, mais la puberté qui s’annonçait me mettait dans des états proches de la consternation,
je guettais les changements physiologiques : je n’étais plus un être asexué, mais une jeune fille formée. Le soir, quand je me
déshabillais avant d’enfiler la nuisette et de me coucher, je ne m’examinais pas dans la glace, comme si mes seins de plus en
plus ronds, mes hanches de plus en plus pleines, me faisaient honte. En cachette, je me bandais la poitrine, j’avais la fantaisie
de conserver une silhouette d’androgyne et une allure de bohémienne, peu importait si pour Big Mother j’étais un laideron.

Ta chẳng phải một cô nàng tomboy, nhưng tuổi dậy thì đến đã khiến bản thân suýt kinh hoàng, ta theo dõi những thay đổi sinh
lý: ta không còn là một sinh vật vô tính nữa, mà là một cô gái trẻ trưởng thành. Vào buổi tối, khi ta đang cởi quần áo trước khi
mặc đồ để đi ngủ, ta không tự soi mình trong gương, như thể nếu bộ ngực này ngày càng căng tròn, hông ngày càng đày đặn
của mình khiến ta cảm thấy thật xấu hổ. Nên ta đã bí mật bó ngực mình lại, ta thích giữ mình một hình dáng ái nam ái và vẻ
ngoài phóng và nó chẳng là vấn đề gì với Big Mother nếu như ta là một điều xấu xí.

De ses quatre filles, j’étais celle qui correspondait le moins à ses canons esthétiques. Planche à pain, j’avais les cheveux qui
n’ondulaient pas, un front trop bombé, des sourcils mal dessinés, des dents pas du tout éclatantes, des lèvres charnues, indices
d’une sensualité à refréner, une myopie m’obligeant à porter des lunettes aux verres aussi épais que des culs de bouteille, la
dégaine d’une iroquoise qui a avalé son parapluie, bref, selon Big Mother, je faisais bien d’être une bûcheuse, car je n’étais pas
mariable – qui s’intéresserait à moi, promise à un emploi d’institutrice ou de prof de français, insatisfaite et mal rétribuée ?

Trong số bốn người con gái , ta là người ít phù hợp với tiêu chuẩn thẩm mỹ của bà ấy nhất. Thớt bánh mì, ta có mái tóc không
gợn sóng, vầng trán quá tròn, lông mày vẽ xấu, răng không chẳng sáng bóng, đôi môi dày, dấu hiệu của sự nhục dục cần phải
kiềm chế, cận thị buộc ta phải đeo kính có tròng dày như đáy chai, dáng vẻ của một người Iroquois nuốt chửng chiếc ô của
mình, nói tóm lại, theo Big Mother bởi vì bọn ta không thể kết hôn nên tốt hết ta nên làm một người chăm chỉ, người sẽ quan
tâm đến ta, hứa hẹn một công việc gia sư hoặc giáo viên tiếng Pháp, bất mãn và trả kương bèo bọt?

Je m’offusquais de ce mépris pour mes enseignants, sans qui le dressage de Big Mother aurait occasionné un ébranlement.
Aller en classe, c’était lui échapper pour quelques heures, fouiner dans les bibliothèques, c’était amasser des trésors et y puiser,
pas seulement afin de me doter d’une teinture de culture : forte de ces richesses, je me fabriquais une personnalité, je me
blindais contre les méchancetés de celle qui, en tous lieux, se plaisait à nous diminuer, mes sœurs et moi. Elle était la reine,
l’héritière d’une famille de notabilités, qui s’était mésalliée. Nous étions les rejetons d’un déraciné, sans patrimoine, sans
situation, sans relations.

Ta cảm thấy bị xúc phạm bởi sự khinh miệt này đối với các giáo viên của mình, những người mà nếu không có họ thì quá trình
đào tạo của Big Mother gây ra một cú sốc. Khi đến lớp học là trốn tránh được bà ấy trong vài giờ, lục tung thư viện chính là
đang tích lũy những kho báu và rút ra từ chúng, không chỉ để ban cho mình một chút văn hóa: được củng cố bởi những sự giàu
có này, ta đã tạo cho mình một nhân cách, tự bảo vệ mình trước sự xấu xa của kẻ luôn thích hạ thấp bọn ta, các chị em mình và
ta. Bà ấy là nữ hoàng, người thừa kế một gia đình danh giá, đã xáo trộn mọi thứ. Chị em ta là con ghẻ của một kẻ đã mất gốc
gác, không tài sản, không hoàn cảnh, cũng chẳng còn mối quan hệ nào.

Vois-tu, je me perdais parfois en hypothèses sur ce qui serait advenu si j’avais eu un frère. Un fils, elle ne l’aurait peut-être pas
dominé, traité de haut. Mais mes sœurs et moi, nous n’aurions été que des demi-portions à côté de lui, son merle blanc qu’elle
aurait couvé, son diablotin auquel elle aurait passé toutes les coquineries, son Monsieur Je-sais-tout devant qui elle aurait été
une adoratrice, son apollon qu’elle aurait défendu contre les brus castratrices. Le milieu dans lequel elle avait évolué était d’un
machisme moyen âgeux et, alors même qu’elle en avait été la victime, réduite à mettre toutes ses espérances dans une union
valorisante – expectative trompée quand elle lia sa vie à celle de mon père, un déclassé –, elle était une tenante du sexisme,
d’autant plus contrariée que son mari n’était pas de sa condition et qu’elle ne s’élèverait pas socialement grâce à lui. Un fils
lui aurait permis de se revancher de tous ceux qui l’avaient bêchée.

Bạn thấy đấy, đôi khi ta bị lạc lối giữa những giả thuyết về điều gì sẽ xảy ra nếu ta có một người anh trai. Một người con trai,
được lo từ trên xuống dưới. Nhưng chị em bọn ta, chúng ta cũng sẽ chỉ là những người nhỏ bé bên cạnh anh ấy, con chim két
của bà ta mà sẽ sinh ra, con ác quỷ mà bà sẽ dành tất cả sự tính quái, người đàn ông biết tuốt của bà, người mà lẽ ra bà phải tôn
thờ, thần Apollo, người sẽ bảo vệ khỏi con dâu bị thiến. Môi trường mà bà ấy đã tiến hóa là của một người đàn ông trung niên
và mặc dù cô ấy là nạn nhân của ông ấy nhưng bà đã giảm tất cả hi vọng của mình trong một cuộc hôn nhân xứng đáng - là
một sự kỳ vọng bị lừa dối khi bà gắn cuộc đời mình với cuộc đời của cha ta- một tên hạ cấp, bà ấy ủng hộ việc phân biệt giới
tính, càng đáng buồn hơn khi chồng của bà không ở trong tình trạng của bà và bà ta cũng đã không thăng tiến nhờ vào ông ấy.
Một đứa con trai đã có thể giúp bà trả thù tất cả những người đã khinh thường bà.

Un tardillon sorti de son flanc aurait été aussi brillant, aussi introduit que mes oncles, ses dieux. Elle les citait pour leur
réussite, tout comme ses parents, fâchés qu’elle ne leur arrive pas à la cheville. Ils lui disaient d’être belle et de se taire, lui
lavaient la tête dès qu’elle babillait, lui coupaient ses effets lorsqu’elle se hasardait à émettre un avis. Parce qu’elle était une
fille, ils ne l’encourageaient pas à parfaire son instruction. Même ma grand-mère, qui avait pâti de la misogynie, avait une
conception arriérée de la destinée d’une femme : elle devait selon elle se plier aux usages, sauver les apparences, se préparer,
dès l’âge de douze ans, au mariage, en se préoccupant avant tout d’être, dans le futur, une ménagère idéale, parcimonieuse et
féconde. Il n’était pas primordial qu’elle se cultive, elle n’avait qu’à être humble, appétissante, nippée comme une top model,
au fait des recettes éculées pour hameçonner un bon parti, telles que l’ostentation de chasteté, un traditionalisme bien affiché,
un rigorisme mis en vedette.

Một đứa con út nổi lên từ bên bà ấy sẽ được rực rỡ giới thiệu như nhứng người chú của ta, như các vị thần của mình. Bà ấy
khen ngợi bởi sự thành công của các ông ấy như thể là cha mẹ của họ, cũng như tức giận vì không bằng họ. Họ bảo bà ấy phải
xinh đẹp và im lặng, phải gội đầu ngay khi cô ấy nói nhảm, dẹp tắt bỏ sự chú ý của bà khi mạo hiểm bày tỏ ý kiến. Bởi vì bà ấy
là một thiếu nữ, bọn họ không khuyến khích bà ấy làm hoàn hảo trình độ học vấn của mình. Ngay cả bà của ta, vốn mắc chứng
kỳ thị nữ giới, một quan niệm lạc hậu về số phận của người phụ nữ. theo bà, bà phải tuân thủ theo phong tục, giữ gìn vẻ bề
ngoài để chuẩn bị cho hôn nhân từ năm mười 12 tuổi bằng cách lo lắng về việc trong tương lai trở thành một bà nội trở lý
tưởng, tần tiện và đảm đang. Bà không nhất thiết phải trau dồi bản thân, chỉ cần khiêm tốn, trông ngon miệng, ăn mặc như siêu
mẫu, am hiểu các công thức bí mật để câu dẫn một người phù hợp, chẳng hạn như sự phô trương về sự trinh trắng, là thể hiện
tốt một chủ nghĩa truyền thống , một chủ nghĩa khắc khe được chú trọng.

Si, à dix-huit ans, elle n’avait pas la bague au doigt, c’est qu’elle n’était plus bonne à rien. La hantise du célibat forcé avait très
tôt taraudé ma mère. Pour son malheur, disait-elle, elle s’était précipitée dans les bras de mon père. Même si elle avait renversé
la vapeur en portant la culotte, moins par féminisme que par nécessité – car si elle avait épousé quelqu’un qui avait plus de
surface, elle n’aurait pas été une Omphale –, il n’en demeurait pas moins qu’une fissure avait été faite à sa respectabilité. Pour
couronner le tout, elle n’avait que des filles, c’est-à-dire des inutiles à caser à tout prix, des décérébrées qu’il fallait sans cesse
redresser afin qu’elles ne soient pas des proies faciles pour les lovelaces. Elle avait l’expérience et la science infuse, nous
n’étions que des dindes, et sans le corset qu’elle nous avait mis, nous n’aurions pas résisté au chant des sirènes, nous aurions
frayé avec n’importe qui, et alors il n’y aurait plus qu’à faire son deuil de l’alliance avec une famille honorable

Nếu ở tuổi 18, bà ấy không đeo nhẫn trên ngón tay, đó là bởi vì cô ấy không còn tốt cho bất cứ điều gì. Nỗi sợ hãi về cuộc
sống độc thân bó buộc đã dày vò mẹ tôi từ rất sớm. Thật không may, mẹ tôi nói rằng bà đã ném mình vào vòng tay của cha tôi.
Ngay cả khi bà đã đảo ngược tình thế bằng cách mặc quần ống suông, nhiều ít gì cũng vì nữ quyền hơn là vì sự cần thiết - bởi
vì bà kết hôn với người mà có vẻ bề ngoài hơn, bà ấy sẽ không phải là một góa phụ Omphale và sự thật vẫn là một vết nứt đã
được tạo ra trong lòng kính trọng của bà. Sau tất cả, bà chỉ sinh được những đứa con gái, đồng nghĩa với việc những đứa vô
dụng bằng mọi giá phải nhồi nhét, còn bọn không có não phải thường xuyên uốn nắn để chúng không dễ trở thành mồi ngon
cho những gã si tình. Bà ấy có kinh nghiệm và khoa học được truyền đạt, còn mấy chị em ta chỉ là những con gà Tây, và nếu
không có chiếc áo nịt ngực mà bà đã mặc cho, bọn ta sẽ không chống lại tiếng còi báo động, cả bọn sẽ kề vai sát cánh với bất
kỳ ai và rồi sẽ chẳng còn gì ngoài khóc thương của sự giao ước với một gia đình danh giá nào đó.

Toi, l’enfant que je n’ai pas eu, t’aurais-je raconté tout cela si tu étais
né ? Une fois que tu aurais été en âge de comprendre, t’aurais-je parlé
de ces soirées où, la tête sous l’oreiller pour ne pas entendre les fulminations de Big Mother, je déplorais
de n’avoir pas été étouffée dans mon berceau ? Une fois que tu aurais mûri, t’aurais-je fait part des
douloureux souvenirs liés à mes quinze ans, quand Big Mother m’injuriait, me pinçait jusqu’au sang, me
gratifiait de gifles, parce que j’échangeais des lettres avec un lycéen de deux ans mon aîné ? Il jouait de la
guitare et composait des ballades, autant dire qu’aux yeux de Big Mother, il appartenait à une sous-
humanité. Nous avions rendez-vous entre deux cours, nous ne nous embrassions même pas. Mais je me
confiais à lui, et cela suffisait à me faire passer pour une mythomane et une traîtresse qui ne savait pas ce
qu’est laver son linge sale en famille. De plus, il était d’origine modeste : sa mère, veuve, n’était qu’une
retoucheuse en confection, une gagne-petit. T’aurais- je dit qu’il voulait m’enlever ? Qu’il se voyait déjà
vivant avec moi dans une fermette peuplée de nourrissons ? Je n’avais aucun projet de la sorte, cette
correspondance était juste une diversion qui m’arrachait aux serres de Big Mother.
Con, đứa trẻ ta chưa bao giờ có, liệu ta có nói với con tất cả những điều này nếu con được sinh ra ?
Và một khi con đã đủ lớn để hiểu, ta có nói chuyện với con về những buổi tối khi ta vùi đầu dưới gối để
không nghe thấy những tiếng rên rỉ của Mẹ Lớn, ta hối hận vì đã không bị ngạt thở trong nôi?
Khi con đã trưởng thành, liệu mẹ có chia sẻ với con những ký ức đau thương gắn liền với mười lăm năm
thanh xuân của mẹ, khi Mẹ Lớn sỉ nhục ta, véo ta đến chảy máu, tát ta mấy cái tát chỉ vì ta trao đổi thư từ với
một học sinh cấp ba hơn con hai tuổi. ? Anh ấy chơi ghi-ta và sáng tác những bản ballad, nói cách khác, trong
mắt Big Mother, anh ấy là một tiểu nhân. Chúng ta đã có một cuộc hẹn giữa các lớp học, chúng ta thậm chí
còn không hôn nhau. Nhưng ta đã tâm sự với anh ấy, và điều đó đủ để khiến ta giống như một kẻ hoang
đường và một kẻ phản bội không biết giặt quần áo bẩn của cô ấy với gia đình là như thế nào. Ngoài ra, anh ta
có xuất thân khiêm tốn: mẹ anh ta, một góa phụ, chỉ là thợ sửa quần áo, một người có thu nhập thấp. Ta đã
nói với bạn rằng anh ấy muốn bắt cóc ta chưa? Rằng anh ấy thấy mình đã sống với ta trong một trang trại có
trẻ sơ sinh sinh sống? Ta không có kế hoạch như vậy, thư từ này chỉ là một trò đánh lạc hướng để kéo ta ra
khỏi nanh vuốt của Mẹ Lớn.
J’avais soin de ne pas le désillusionner en le prévenant que je n’aspirais pas à être mère, quand bien même
je ne serais jamais comme la mienne, exaspérée par sa marmaille, à bout de nerfs lorsque, quelques années
auparavant, elle avait dû se réveiller la nuit pour langer mes sœurs et leur donner la tétée. Elle ronchonnait
et se repentait à haute voix de ne pas s’être fait avorter. S. soutenait que j’évoquais ces scènes pour excuser
mon attitude, comme si j’avais à me disculper, comme si c’était une faute de n’avoir pas donné la vie.

Ta cẩn thận để không làm anh ấy vỡ mộng bằng cách cảnh báo với anh ấy rằng ta không có nhu cầu làm
mẹ, mặc dù ta sẽ không bao giờ để con giống như ta, tức giận với những đứa con của chính mình, khi kết
thúc sự ràng buộc của ta khi, vài năm trước, cô ấy đã có con. thức đêm thay quần áo cho các chị em của
ta. Cô ấy càu nhàu thành tiếng rằng cô ấy đã không phá thai.
S. khẳng định rằng ta gợi ra những cảnh này để biện hộ cho thái độ của mình, như thể ta phải bào chữa
cho mình, như thể có lỗi vì đã không cho đi sự sống.

Et toi, m’aurais-tu condamnée parce que j’aurais atermoyé, ne cédant que de guerre lasse, sous la
pression exercée par S. ? Aurais-tu tendu l’oreille lorsque je t’aurais dépeint mon affolement à l’idée d’être
en couches ? T’aurais-je infligé ces rabâchages ou aurais-je gardé le silence sur mes valses-hésitations ?
Aurais-je su travestir en enthousiasmes désordonnés mes contradictions ? Aurais-tu perçu, sous ma gaieté
factice, mes obsessions impulsives qui m’auraient poussée à être tantôt trop maternante, tantôt
trop stricte ? Aurais-tu été indulgent quand, tout à la fois, j’aurais tâché de ne pas être possessive et aurais
été, bien involontairement, envahissante ? Moi qui ai la cervelle si peu équilibrée, qui suis souvent
submergée par des angoisses infondées, peut-être t’aurais-je infecté, tu aurais été un instable, sans
communauté d’intérêts avec les gens sensés. Qu’ai-je à transmettre, si ce n’est mon impuissance à être
dans la norme, mes perplexités devant ce qui ravit mes pareils, car pour peu que l’on ne se monte pas la
tête, tout est risible?
Và con, liệu con có trách mẹ vì mẹ trì hoãn, không chịu thua với những cuộc chiến trông mệt mỏi dưới áp
lực của S? Con có lắng nghe khi ta mô tả với con nổi sợ của ta khi nghĩ đến việc sinh con không? Liệu ta
có bắt con chịu những tiếng lải nhải này hay giữ im lặng về những do dự của bản thân? Liệu ta có thể
ngụy trang lời dối lòng của mình bằng sự phấn khởi hỗn loạn không? Liệu con có nhận ra, dưới sự vui vẻ
giả tạo này, những ám ảnh bốc xung đột làm ta đôi khi quá mẫu mực, đôi khi quá nghiêm túc? Liệu con có
khoan dung khi cùng một lúc, ta vừa cố gắng để không bị chiếm hữu, vừa không tự nguyện xâm phạm?
Mẹ, một người bị rối loạn thần kinh bởi những lo âu vô căn cứ, liệu ta có truyền nó cho con và biến con
thành một đứa bất thường bởi sẽ không có ai hứng hú với những người nhạy cảm. Ta đã truyền cho con
điều gì, nếu không phải là sự bất lực của ta trong sự chuẩn mực, sự bối rối của ta trước những điều thích
thú, bởi miễn là tụi ta còn không hiểu nhau, thì mọi thứ đều trở nên nực cười?

Big Mother a détruit le peu d’assurance que j’avais. En tous points je me suis efforcée d’agir à l’encontre de
ses codes de conduite, et je me suis écartée de la voie commune, me confinant dans les marges. Je suis pour
elle l’exemple même de l’insuccès : désargentée, livresque, dépourvue de tout sens pratique, infichue de me
dégoter un mari, nouant des liaisons peu durables, ayant des compagnons qui s’installent dans le provisoire,
des amis insolvables, poursuivant des rêves irréalisables, ne possédant rien que je pourrais assigner à chacun
de mes enfants (heureusement, j’ai quand même eu l’intelligence de ne pas en avoir), je suis une pauvrette
aux prises avec les cruautés du sort, une perdante dans la course aux places, un bouche-trou voué à la
figuration.

Nếu ta có con trai, nó sẽ tốt nhất là một trong những beatnik( thông niên ăn chơi) táo tợn, ngô nghê làm ô
nhiễm cảnh quan, tệ nhất là một kẻ triết học shit và vô gia cư hút cỏ. Nếu ta có con gái, thì tốt nhất nó đã là
một nghiên cứu sinh/ mọt sách vĩnh viễn không có hôn phu, tệ nhất là một nhà nghiên cứu khó tính, không
ngừng thảo luận về giới tính của các thiên thần. Và làm sao ta có thể chu cấp cho sự hoang phí của chúng, ta
là một con ve sầu, phung phí tài sản của mình trong các hiệu sách, ta luôn yêu những kẻ vô trách nhiệm
không có tiền, ta không có một bàng việc ổn định, mà chỉ là một nhà văn viết tiểu thuyết không được chú ý.

Aurais-je eu un fils qu’il aurait été au mieux un de ces beatniks croquignols et ringards qui polluent le
paysage, au pire un fumeur de shit philosophant et se clochardisant. Aurais-je eu une fille qu’elle aurait été
au mieux une éternelle thésarde sans fiancé, au pire une chercheuse insortable, discutant sempiternellement
du sexe des anges. Et comment aurais-je subvenu à leurs prodigalités, moi qui suis une cigale, gaspillant
mon avoir dans les librairies, moi qui tombe toujours amoureuse d’irresponsables sans fortune, moi qui n’ai
pas un métier solide, mais ne suis qu’un écrivain dont les romans ne font pas un tabac ?
Mẹ Lớn đã phá hủy chút ít tự tin mà ta có. Trong tất cả các khía cạnh, ta đã cố gắng hành động chống lại
các quy tắc này, và ta đã đi chệch khỏi con đường chung, tự giam mình bên lề. Đối với bà ấy, ta chính là
tấm gương của sự thất bại: không một xu dính túi, mọt sách, không có chút ý thức thực tế nào, không tìm
được cho mình một tấm chồng, hình thành những mối quan hệ không mấy bền chặt, có con đồng hành tạm
bợ, vỡ nợ, theo đuổi những điều viển vông. những giấc mơ, không sở hữu bất cứ thứ gì mà ta có thể gán
cho mỗi đứa con của mình (may mắn thay, ta vẫn còn trí thông minh để không có bất kỳ thứ gì), ta là một
bà gái nghèo phải vật lộn với sự nghiệt ngã của số phận, một kẻ thua cuộc trong cuộc đua giành vị trí, một
điểm dừng dành riêng để hình. .

Big Mother bénit le Ciel qui ne m’a pas faite mère, car elle aurait eu des
petits-enfants dont elle aurait rougi. Si tu avais des lumières, tu ne serais pour elle qu’un singe savant. Si
tu t’illustrais dans quelque domaine, elle te
collerait aussitôt une étiquette de bluffeur. Si tu ramassais une veste(thất bại),
elle dirait que tu ne l’avais pas volé : tu te haussais du col (khoe khoang) parce
que tu étais frais émoulu de l’université. Si tu l’entourais d’égards, c’est que tu
étais un hypocrite qui lorgnait l’héritage. Si tu n’étais pas cérémonieux, c’est que
tu étais un pedzouille comme mon père. Moi, espèce de romancière tirant le
diable par la queue, j’aurai beau me dépenser, je serai toujours en bas de l’échelle
et mes enfants, emplâtres au seul savoir théorique, rameront pour gagner leur
pain.
Vì sợ mất mặt, MẸ Lớn cầu trời những đứa trẻ không được sinh ra. Đối với bà
ấy,nếu con có ánh sáng, con chỉ là một con khỉ có học. Nếu con nổi bật trong bất
kỳ lĩnh vực nào, bà ấy sẽ sẽ ngay lập tức dán nhãn vô tội vạ. Nếu con bị thất bại,
bà ấy sẽ nói rằng con đã không thổi bay nó: con nghiêm chỉnh vì con mới tốt
nghiệp đại học. Nếu con chú ý tới nó, đó là bởi vì con là một kẻ đạo đức giả đang
để mắt đến tài sản thừa kế. Nếu con không lễ phép, đó là bởi vì con là một người
bán rong giống như cha ta. Ta, một kiểu tiểu thuyết gia bị ma quỷ bám đuôi, dù
ta có nỗ lực bao nhiêu, ta sẽ luôn ở dưới ở dưới đáy xã hội và các con, chỉ biết
bám lấy kiến thức lý thuyết, phải chèo thuyền kiếm cơm.
Elle qui n’avait jamais lu une seule de mes publications, me laissant ainsi toutes
facilités de la portraiturer à son insu, me prédisait de sombres lendemains,
puisque j’avais pris le chemin de la précarité. Un fils aurait pu être mon bâton de
vieillesse, mais le fruit de mes entrailles n’aurait été que de la maudite race des
poètes. Tricard de partout, il ne serait pas un habile brasseur d’affaires, plutôt un
glandeur mangeant de la vache enragée(cuộc sống khổ cực), refaisant le monde
au comptoir des bistrots, certain qu’en jetant un pavé dans la mare, il
provoquerait demain des barricades. Brrr ! Il s’en est fallu d’un cheveu qu’elle ait
pour lignée des trotskistes ! Elle ne me remercierait jamais assez de m’être
abstenue de procréer.

Bà ấy, người chưa bao giờ đọc một ấn phẩm nào của ta, do đó cho ta tất thảy điều
kiện khắc họa bà ấy mà bà ấy không biết, đã dự đoán một tương lai đen tối cho ta, vì
ta đã chọn con đường bấp bênh. Một đứa con trai có thể là chỗ dựa của ta khi về già,
nhưng kết quả từ tử cung của ta sẽ chỉ là dòng dõi thi sĩ đáng nguyền rủa. Vô gia cư
khắp nơi, ông ta sẽ không phải là một nhà sản xuất bia kinh doông thông minh, mà là
một kẻ lười biếng sống khổ cực, làm lại thế giới ở quầy bar, ông ta sẽ làm xáo trộn
mọi thứ, gây ra chướng gại vào ngày mai. ừm! Việc có một dòng dõi những người
theo chủ nghĩa Trotskyist (chống phá đảng)chỉ trong gang tấc! Bà ấy luôn cảm ơn ta
vì đã không sinh con.

Tu me diras que, en dépit des distances mises entre Big Mother et moi,
je ne suis jamais parvenue à couper le cordon ombilical. Je suis toujours cette
collégienne complexée, raide comme un manche à balai devant elle, tremblant de
l’irriter, d’être sa tête de Turc ( nhạo báng, ) : aucun de mes faits d’armes (bà ấy
không hề nhìn nhận bất kỳ một năng lực nào của ta) ne trouvait grâce à ses yeux,
elle s’acharnait à me gâcher mes victoires sur mes paralysies en minorant mes
traits de courage. C’est seulement aux alentours de la trentaine que j’ai pu
vaincre quelque peu ma terreur d’elle. Mes alternatives de surexcitation et
d’asthénie avaient leur source dans mes questionnements sur l’emprise de
Big Mother, combattue en vain.
Con sẽ khuyên rằng dù cho khoảng cách giữa Mẹ Lớn và ta ngày càng lớn, ta
vẫn là con gái ruột của bà. Ta vẫn là bà nữ sinh phức tạp, cứng đờ, ngu ngốc như
cán chổi trước mặt bà ấy, run rẩy chọc tức bà ấy và rồi bị bà ấy nhạo báng: không
một năng lực nào của ta dc bàng nhận trong mắt bà, bà ấy cố phá hỏng chiến
thắng của ta đối với tình trạng tê liệt của ta bằng cách hạ thấp lòng dũng cảm của
ta. Mãi đến tuổi ba mươi, ta mới phần nào vượt qua được nỗi khiếp sợ về bà ấy.
Những lựa chọn phấn khích quá độ và sự suy nhược bắt nguồn từ những câu hỏi
mà Mẹ Lớn tác động, đã chiến đấu vô ích.
S. affirmait que j’étais d’un infantilisme inguérissable et donc pas mûre pour la
maternité. J’en suis encore à quêter l’approbation de Big Mother. J’escompte
toujours qu’elle révisera son jugement, condescendra à me féliciter, reconnaîtra
s’être méprise sur mon compte. Mais elle ne s’est
jamais dédite, même à présent qu’elle est une vieille femme délaissée, faisant
pitié, elle me décoche des sarcasmes : je stagne dans ce qui est pour elle la
médiocrité, avec un vague statut de faiseuse de bouquins, je n’ai pas su retenir
mes amants de passage, même pas S., manchot cachetonnant dans des pièces
expérimentales et qui n’aurait pas eu les moyens d’entretenir les enfants qu’il
voulait de moi.

S. cho rằng ta quá trẻ con và chưa chín muồi để làm mẹ. Ta vẫn đang cầu xin sự
chấp thuận của Mẹ Lớn. Ta vẫn mong bà ấy xem xét lại nhận định của mình, hạ
mình chúc mừng ta, thừa nhận đã hiểu lầm ta. Nhưng bà ấy đã không bao giờ bỏ
cuộc, dù hiện tại bà là một bà già bị bỏ rơi, khiến ta thương hại, nàng vẫn quay
sang mỉa mai ta: Ta trì trệ trong cái mà đối với bà là tầm thường, với cuộc sống
lơ mơ của một nhà xuất bản sác, ta không biết giữ những người tình đã qua của
mình. , thậm chí không phải S., một con chim cánh cụt trốn trong phòng thí
nghiệm và người sẽ không có đủ khả năng nuôi dưỡng những đứa trẻ của chúng
ta.

Aurais-tu été d’accord avec elle quand, au fil des ans, tu aurais constaté que
je n’ai pas la présomption d’une carriériste se hissant au pinacle, l’adresse d’une
accapareuse répandue ? Je courbe le dos quand les vents me sont contraires, je
n’ai rien d’une extravertie ferrée dans l’art de se vendre et de tirer la couverture
à soi. Je t’aurais accoutumé à l’austérité. Sans ressources, je t’aurais privé de
menus divertissements. Lorsque j’aurais été en fonds, je ne t’aurais pas incité à
t’offrir des futilités, mais à te gaver de poésie et de cinéma. Avant d’être mère
j’aurais été une tisseuse d’histoires, affabulant envers et contre tout des intrigues
pour me surprendre moi-même et tenter éperdument de rivaliser avec des
créateurs.
Liệu con có đồng ý với bà ấy khi, trong nhiều năm, con nhận thấy rằng
takhông có tính tự phụ của một kẻ kiếm chác đang vươn lên đến đỉnh cao, sự
khéo léo của một kẻ mua vét phổ biến? Tacong lưng khi gió ngược chiều,
tachẳng có gì là một người hướng ngoại được đào tạo về nghệ thuật để bán mình
cho tư bản và giành nhiều lợi ích. Tasẽ quen sự khắc khổ với con. Nếu không có
điều kiện, tasẽ tước đi những trò tiêu khiển của con. Khi tacòn điều kiện, tasẽ
không khuyến khích con cống hiến những thứ phù phiếm, mà hãy tự nhồi nhét
thơ ca và điện ảnh vào bản thân. Trước khi làm mẹ, tasẽ là người thêu dệt nên
những câu chuyện, bịa đặt những mặt trái và chống lại tất cả những mánh khóe
khiến ta ngạc nhiên và cố gắng hết sức để cạnh trông với những người sáng tạo.
Lui aurais-tu donné raison quand, en grandissant, tu aurais vu en moi une
droguée souffrant d’addiction aux archaïsmes, une hyperémotive qu’un rien
déchire, une tératologue réclamant chaque jour sa dose de bizarrerie, une égotiste
au byzantinisme agaçant, une tourne-pouces se surmenant par à-coups, un auteur
obscur, une abonnée aux flops qui s’en remet grâce à son inconscience ?
Con có cho ông ấy lý do không khi lớn lên, con sẽ nhìn thấy ở tamột con
nghiện ma túy mắc chứng nghiện cổ vật, một người phụ nữ đa cảm không bị
giằng xé gì cả, một bác sĩ quái thai đòi hỏi liều thuốc kỳ lạ mỗi ngày, một người
tự cao tự đại với chủ nghĩa Byzantin khó chịu, một kẻ vặn vẹo ngón tay cái cố
gắng quá mức trong cơn bộc phát, một tác giả ít người biết đến, một người đăng
ký thất bại đang hoãn nó nhờ sự bất tỉnh của bà ấy?
S. disait que j’étais invivable : je le sommais de ne jamais descendre des
hauteurs. Je me contrefichais des contingences du courant ; il était un intermittent
payé avec un lance-pierre, moi à mes heures une chroniqueuse aux maigres piges,
mais même lorsque nous n’avions pas un sou vaillant, je n’admettais pas qu’il
éclate en geignardises, qu’il s’en veuille de s’être fait acteur, d’avoir un goût
immodéré pour les planches, cause de son croupissement dans la gêne. Je
n’admettais pas davantage qu’il entrevoie un mieux dès lors que nous serions
parents : nous ne disperserions plus nos
énergies, mais les concentrerions afin de discipliner nos enfants sans les freiner,
les choyer sans les pourrir, avoir un vrai salaire et leur donner un cadre agréable
en quittant les combles où nous perchions pour un appartement au décor moins
glauque. L’engendrement, lui répliquais-je, n’était pas la solution à nos impasses.
Il regardait par le petit bout de la lorgnette, en présumant trop de sa faculté
d’adaptation. Lui qui avait conquis péniblement son indépendance, détestait être
l’esclave même de sa tribu, il était prêt à tirer sa révérence à la liberté pour se
mettre la corde au cou. Je n’en croyais pas mes oreilles. Nous n’étions pas encore
en guerre ouverte, mais nous avions des duels verbaux, je le poussais à bout, le
prenais à la blague : il voulait un enfant comme un gamin veut un jouet.

S. nói rằng takhó sống cùng: Tađã yêu cầu ông ta không bao giờ đi xuống từ trên
cao. Takhông quan tâm (takhông quan tâm đến những cơn trào lưu ngẫu nhiên)
về những tình huống bất ngờ của hiện tại; ông ấy một người được trả lương
không liên tục ngắt quãng với một cây súng cao su, ta, trong thời gian rảnh rỗi
của talà một người phụ trách chuyên mục ít ỏi, khi rảnh rỗi talà một nhà báo thời
vụ trả tiền bắng số mục ít ỏi. Takhông cho phép ông ấy tỏ ra than vãng, rằng ông
ấy hối hận vì đã trở thành một diễn viên, để có một sở thích quá mức đối với ván
trượt, nguyên nhân khiến ông phải cúi xuống vì xấu hổ. Tacũng không thừa nhận
rằng ông ấy đã nhìn đoán thấy điều tốt hơn khi chúng talàm cha mẹ: chúng tasẽ
không còn phân tán năng lượng của mình nữa mà tập trung chúng để kỷ luật con
cái mà không giữ chúng lại, nuông chiều chúng mà không làm chúng hư hỏng, để
có một đồng lương thực sự và của chúng. và cho chúng một chỗ dựa vững chắc
bằng cách rời khỏi gác mái nơi chúng tađang ngồi để đến một căn hộ với lối
trang trí ít ảm đạm hơn. Tađã đáp sinh sản không phải là giải pháp cho những bế
tắc của chúng ta. Ông ta đang nhìn qua đầu nhỏ của kính viễn vọng, cho rằng khả
năng thích ứng của mình quá cao. Ông ấy đã chinh phục sự tự do, căm ghét thân
phận nô lệ của bộ tộc mình, sẵn sàng cúi đầu trước tự do để treo cổ tự tử.
Takhông thể tin vào tai mình. Chúng tachưa bàng khai chiến trông, nhưng chúng
tađã có những cuộc đấu khẩu, tađã đẩy ông ấy đến giới hạn, coi ông ấy như một
trò đùa: ông ấy muốn một đứa trẻ như một đứa trẻ muốn một món đồ chơi.

Excédé, il disparaissait pendant plusieurs jours. Quand il revenait, il avait


sous le bras une masse de bréviaires censés me convertir. Il me fit ainsi lire La
Femme sans ombre de Hofmannsthal, où une divinité, désincarnée, mariée à un
simple mortel, se mêle aux humains et consent à devenir l’un d’eux en ayant une
ombre et en enfantant. Il y avait beaucoup d’ironie dans l’intention de S. quand il
me mit le conte entre les mains, mais si son propos était, par ce biais, d’éclairer
ma religion, il en était pour sa peine, car même si j’étais captivée par la prose de
Hofmannsthal, mon cœur ne palpitait pas à cette lecture. Ma fascination allait
plutôt à Electre, la fille vengeresse, et à Médée, la mère infanticide. Je ne devrais
pas te faire cette confession : tu prononcerais un verdict sans appel contre la
morbidité de mes penchants, tu t’affligerais de deviner que mes préférences
littéraires dénotent une attirance maladive pour les figures excessives. Tu aurais
partagé le point de vue de S., d’après qui j’avais l’esprit tordu, des tendances à
l’agressivité, refoulées tant bien que mal chaque fois qu’il entamait un dialogue
pour me convaincre de porter un fils dans mon sein.

Quá bực tức, ông ta biến mất mấy ngày liền. Khi ông ấy trở lại, ông ấy đã
mang theo một đống sách kinh nhật tụng được cho là để cải đạo ta. Do đó, ông ấy
đã bắt tađọc Người phụ nữ không có bóng của Hofmannsthal, trong đó một vị
thần quái gở, kết hôn với một người phàm trần, hòa nhập với con người và đồng
ý trở thành một trong số họ bằng cách có bóng và sinh con. Có rất nhiều điều trớ
trêu trong ý định của S. khi ông ấy đặt câu chuyện vào tay ta, nhưng nếu ý định
của ông ấy là để khai sáng tôn giáo của ta, thì ông ấy đã gặp rắc rối, bởi vì ngay
cả khi tabị quyến rũ bởi văn xuôi của Hofmannsthal, tim takhông đập khi đọc bài
này. Sự mê hoặc của tadành cho Electra, bà con gái đầy thù hận, và Medea,
người mẹ giết trẻ sơ sinh. Takhông nên thú nhận điều này với con: con sẽ tuyên
bố một bản án không thể kháng cáo cho khuynh hướng bệnh hoạn của ta, con sẽ
đau khổ khi đoán rằng sở thích văn học của tabiểu thị sự hấp dẫn bệnh hoạn đối
với những nhân vật cực đoan. Con sẽ chia sẻ quan điểm của S., người mà ngay
sau đó khiến tacó đầu óc vặn vẹo, khuynh hướng hung hăng, cố gắng kìm nén hết
mức có thể mỗi khi ông ấy bắt đầu đối thoại để thuyết phục tasinh con trai đầu
lòng.

Je masquais sous une mensongère tranquillité mes tiraillements : mon


insoumission à la loi de la reproduction se doublait parfois d’une envie de réparer
les avaries faites par les ans en trouvant à la génération le charme d’un
renouveau, sans pour autant se laisser aller à être une machine pondeuse. S.
mettait le doigt sur la carence affective qui avait marqué mon enfance, suscitant
des réflexes de défense. Si, disait-il, je m’étais allongée sur le divan d’un
thérapeute, je me serais purgée de mes névroses, j’aurais triomphé de mes
infirmités. Une cure analytique y aurait remédié, j’en serais ressortie transfigurée,
réconciliée avec moi-même et disposée à te chouchouter. Il n’avait pas un kopeck
de bàté, autrement il m’aurait envoyée chez un de ces modernes docteurs de
l’âme. Mais, disait-il encore, j’avais de tels blocages qu’aucun psy n’aurait pu
faire sauter les verrous. Dans ces années-là déjà, j’étais pour lui un cas
pathologique, bien que je ne sois pas encore sujette aux troubles psychiques
survenus plus tard et qui devaient me conduire plusieurs fois à l’hôpital.

Giấu sự giằng xé của mình dưới một sự yên tĩnh giả tạo: sự không muốn có con
của tađôi khi đi đôi với mong muốn sửa chữa những thiệt hại do năm tháng gây ra
bằng cách tìm thấy trong thế hệ một sự đổi mới quyến rủ, tuy nhiên,không từ bỏ
việc trở thành một cổ máy đẻ. S. tìm thấy những tình cảm mà tathiếu thốn thời thơ
ấu của ta, khơi dậy phản xạ phòng thủ. Ông ấy nói, nếu tanằm xuống chiếc ghế dài
của một nhà trị liệu, tasẽ tự thông lọc bản thân khỏi chứng rối loạn thần kinh, tasẽ
chiến thắng bệnh tật. Một phương pháp điều trị phân tích sẽ cứu chữa được ta, tasẽ
trở lại, hòa giải với bản thân và sẵn sàng chiều chuộng con. Nhưng Ông ấy lại
không có 1 xu dính túi, nếu không ông ấy đã gửi tađến một trong những bác sĩ tâm
lý ấy. Nhưng, ông ấy nói lại, tabị tắc nghẽn đến mức không một ống co ngót nào
có thể phá được ổ khóa. Trong những năm đó, đối với ông ấy, talà một trường hợp
bệnh lý, mặc dù tachưa phải đối mặt với chứng rối loạn tâm thần xảy ra sau đó và
khiến taphải nhập viện nhiều lần.

Délirante, me sentant le gibier d’une organisation tentaculaire, de policiers


chargés de me boucler pour racolage et parasitisme, d’une armée de fantômes me
demandant pourquoi je n’acceptais pas d’être fécondée, de procureurs qui
requéraient contre moi, la falsificatrice, j’avais d’atroces hallucinations,
j’entendais des voix qui m’ordonnaient de me supprimer, je déboulais chez des
amis et je leur disais de prendre garde car les morts allaient s’extraire des
caveaux et les vampiriser. Verdâtre, les lèvres gercées, le corps secoué de
contractions spasmodiques, j’errais dans les rues et je croisais partout des loups.
D’affreux mouflets me tournaient en ridicule. La Seine charriait des fœtus
expulsés avant terme. Les péniches transportaient des accoucheurs d’acéphales.
Des femmes en gestation faisaient des hémorragies, perdaient tout leur sang. Je
marchais jusqu’à épuisement, radotant comme une vioque siphonnée, tressaillant
à chaque apostrophe, distribuant des pièces à des romanichels, en fait des espions
déguisés. Quand je rentrais dans mon cinquième étage, je brûlais tout ce qui
pouvait constituer des preuves démentant mes dénégations : mes manuscrits, les
lettres de mes amants, mes carnets intimes attestaient ma culpabilité.

Mê sảng, ta cảm thấy mình là con mồi của một chuỗi thức ăn, của cảnh sát
bắt và khóa tavì tội gạ gẫm và ký sinh, của một đội quân ma hỏi tatại sao takhông
đồng ý mang thai, của các bàng tố viên yêu cầu chống lại ta, kẻ giả mạo. Tabị ảo
giác khủng khiếp, tanghe thấy những giọng nói ra lệnh cho tatự sát, tachạy vào
nhà con bè và bảo họ hãy cẩn thận vì những người chết sẽ chui ra khỏi hầm và
biến họ thành ma cà rồng. Da xông tái, môi nứt nẻ, người run lên từng hồi, talang
thang ngoài đường, đâu đâu cũng gặp chó sói. Những đốt ngón tay đáng sợ đã
chế giễu ta. Dòng sông Seine chở những bào thai đã chết. Chiếc sà lan chở các bà
đỡ đẻ. Sản phụ bị băng huyết, mất hết máu. Tađi bộ cho đến khi kiệt sức, lảo đảo
như một bà già bị hút nước, nao núng trước từng dấu nháy đơn, phân phát tiền xu
cho những người gypsies, biến họ thành gián điệp cải trang. Khi trở lại tầng năm,
tađốt tất cả những gì có thể làm bằng chứng bác bỏ những lời phủ nhận của
mình: bản thảo, thư từ người tình, sổ ghi chép cá nhân chứng minh tội lỗi của ta.

Centrée sur moi-même, bibliolâtre, inexpérimentée, je n’avais pas la


moindre notion du struggle for life. Ni mère ni épouse, je m’échinais à être une
trouveuse de la littérature sans adhérer à aucune chapelle. Ermite, je déjantais à
force de faire le vide autour de moi. Indispensable à personne, j’avais contre les
miens une suspicion pathogène. Asociale, je payais chèrement mon individualité.
Anti-tout, je me momifiais. Monomane, j’étais d’une dinguerie pas piquée des
hannetons. Absolue, j’excluais tout ce qui me handicapait, et avoir une famille
aurait été une concession faite pour mettre aux oubliettes mes abdications. Même
dérangée, j’étais loin de déposer le bilan, je m’accrochais mordicus à mes
préventions, je ne pouvais m’imaginer en parturiente, une femme en gésine était
pour moi une créature répulsive. S., afin de venir à bout de mes réticences,
m’avait dit combien était émouvante une compagne au ventre rond, en travail, ou
berçant un nouveau-né dans ses bras. La grossesse m’aurait débarrassée de ma
cyclothymie, l’allaitement m’aurait familiarisée avec des rituels sans
complication, la mise en sommeil de mes épures pendant le maternage aurait
donné un coup de fouet à mon inspiration. Je me déferais de mon incuriosité à
l’égard de choses essentielles : la conception et la formation d’un fils. Ne pas
porter un embryon dans sa matrice, n’avoir pas éprouvé les douleurs de
l’enfantement, c’est passer à bàté d’événements marquants.
Nhìn vào bản thân, một đứa nghiện sách, non nớtm chưa từng trải, takhông
có chút ý chí nào trong cuộc đấu trông giành giật sự sống. Không mẹ không vợ,
tachật vật tìm tòi văn học mà không tán thành bất kỳ nhà nguyện nào. Hermit,
tađã phát điên khi không tạo ra khoảng trống xung quông mình. đối với bất kỳ
ai,họ nghĩ tabệnh hoạn. Ngoài xã hội, tađã phải trả giá đắt cho cá tính của mình.
Chống lại mọi thứ, tự giết chết bản thân. Monomaniac, tađã điên không đâm
thủng lớp võ bảo vệ. Dĩ nhiên, taloại trừ mọi thứ có thể cản trở ta, và có một gia
đình sẽ là một sự nhượng bộ để đưa việc ra đi của tavào quên lãng. Thậm chí còn
băn khoăn, tacòn lâu mới nộp đơn xin phá sản, tangoan cố bám lấy những định
kiến của mình, takhông thể tưởng tượng mình đang lâm bồn, một người phụ nữ
lâm bồn đối với tamà nói thật ghê tởm. Để cho qua sự ngập ngừng ấy, S. đã kể
cho tanghe cảm động của một người con đồng hành với cái bụng tròn trĩnh, khi
chuyển dạ, hay bồng một đứa trẻ sơ sinh trong tay. Mang thai sẽ giúp tathoát
khỏi chứng loạn nhịp tim, việc cho con bú sẽ giúp talàm quen với các nghi thức
không phức tạp, việc đưa các bản thiết kế của tavào giấc ngủ trong thời gian làm
mẹ sẽ giúp tacó thêm cảm hứng. Tasẽ loại bỏ sự tò mò của mình đối với những
điều thiết yếu: việc thụ thai và đào tạo một đứa con trai. Không mang phôi thai
trong bụng mẹ, không trải qua những cơn đau khi sinh nở đồng nghĩa với việc bỏ
lỡ những điều quan trọng của cuộc đời.
Je n’étais qu’une petite schizo encombrée de pseudo-doctrines qui
retardaient l’avènement d’une plénitude. Les faits devaient confirmer les
intuitions de S., sûr que, la mémoire surchargée d’autocensures, j’allais disjoncter
un jour ou l’autre. Sans jouer les psychanalystes au rabais, il m’avait
diagnostiqué un maboulisme qui irait en s’aggravant. Et toi, quel syndrome
aurais-tu détecté si je t’avais mis au monde et que tu avais assisté à mes accès de
folie ? Aurais-tu conclu qu’ils décelaient une ambivalence irrésolue, une
inaptitude à jouir du privilège d’être mère ? S. avançait que les joies du foyer
seraient mon médecin, te nourrir de mon lait m’éviterait d’avoir de la bile noire.
Mais il n’était pas optimiste ni primaire au point de penser que, d’un coup de
baguette magique, je serais soulagée de mes pulsions conflictuelles du moment
que j’attendrais un bébé. Néanmoins, sa méthode consistait à me turlupiner tant
que je restais sur mes positions ; même non-né, tu étais l’objet d’un débat entre
nous. Peu à peu, la question litigieuse de ta venue sur terre était devenue un
flambeau de discorde. A court de reparties, j’assenais à S. l’assertion de Tolstoï,
glanée dans son Journal : « La maternité n’est pas la plus haute vocation d’une
femme. » C’était ma manière à moi de clore la discussion.
Tachỉ là một kẻ tâm thần phân liệt nhỏ bị vướng vào những học
thuyết rởm làm trì hoãn những tiến bộ trọn vẹn . Sự thật đã khẳng
định trực giác của S., chắc chắn rằng, trí nhớ của taquá tải với sự
tự kiểm duyệt, ngày này hay ngày khác tasẽ phát điên. Không đóng
vai một nhà phân tích tâm lý rẻ tiền, ông ấy đã chẩn đoán tamắc
chứng maboulism và trở nên tồi tệ hơn. Còn con, con sẽ phát hiện
ra hội chứng nào nếu tasinh ra con và con chứng kiến những cơn
điên loạn của ta? Con có kết luận rằng họ đã phát hiện ra một sự
mâu thuẫn chưa được giải quyết, không thể tận hưởng đặc ân làm
mẹ? S. cho rằng niềm vui khi ở nhà sẽ là chữa lành ta, cho con bú
sữa sẽ cứu takhỏi bệnh mật đen. Nhưng ông ấy không đủ lạc quan
hay sơ đẳng để nghĩ rằng, chỉ với một cái vung đũa thần, tasẽ giải
tỏa được những xung động mâu thuẫn của mình chừng nào tacòn
đang mong có con. Tuy nhiên, phương pháp này của ông ta là làm
phiền tachừng nào , chừng đó tacòn tự kết liễu bản thân ; ngay cả
khi chưa được sinh ra, con đã là chủ đề trông luận giữa chúng ta.
Dần dần, vấn đề gây trông cãi về việc con đến trái đất đã trở thành
ngọn nguồn của sự bất hòa. Không cần đối đáp, tađưa ra cho S. lời
khẳng định của Tolstoy, lượm lặt được từ Nhật ký của ông: “Làm
mẹ không phải là thiên chức cao cả nhất của người phụ nữ. Đó là
cách takết thúc cuộc thảo luận. ”
Frustré dans sa paternité, S. continuait à m’être indéfectiblement fidèle. Et
pourtant, j’empoisonnais son bonheur d’être avec moi en ne me ralliant pas à ses
vues. Il disait que, issu de nous, bohèmes décalés et perfectionnistes, tu aurais été
un original, sans excentricité ostensible, un sacré numéro, pourvu de tous les
attributs d’une encyclopédie vivante, un minutieux fignoleur ne se contentant pas
de fournir des textes mal rapetassés, un grammairien trapu, traquant les
énormités, un inlassable liseur, un enfant de la balle allant sur les traces de son
père.
Tuy chán nản khi không được làm cha, S. tiếp tục chung thủy với ta. Chưa
hết, tagieo rắc ông ấy niềm hạnh phúc mỗi khi ở bên tabằng cách không đồng
tình với quan điểm của ông. Ông ấy nói rằng, đến tụi ta, những kẻ phóng túng kỳ
quặc và cầu toàn, con sẽ là một người điển hình, không có vẻ ngoài lập dị, những
hành động kỳ quặc ko giấu diếm, được trang bị tất cả các thuộc tính của một
cuốn bách khoa toàn thư sống, một người viết chi tiết tỉ mỉ không bằng lòng cung
cấp những văn bản tồi chấp vá, một nhà ngữ pháp chắc nịch, theo dõi những thứ
khổng lồ, một người đọc không biết mệt mỏi, một đứa con hoang theo bước chân
của cha mình.
C’étaient de bien hasardeuses conjectures, lui répondais-je : il se pourrait
que, faisant tout à rebours, tu ne sois qu’une bourrique guidée par ses seuls
caprices, un âne bâté s’abrutissant devant des jeux vidéo, un je- m’en-fichiste qui
en prend à son aise avec la politesse, un traînard au tempérament flasque, un
professionnel de l’amateurisme, ou bien un hérisson lanceur de piques, un
chamailleur pour qui ses dépréciateurs sont des gueules d’empeigne, un mêle-tout
au cerveau étroit, un laïusseur omniscient, un gribouilleur esthétisant, ou bien, au
contraire, un Monsieur Muscles, bodybuilder et hooligan rétamé, adepte des
ratonnades menées par des skins aimant la castagne… Le mioche craquant aux
jolies frisettes serait peut-être demain un pantouflard près de ses sous, un
boursicoteur à tous crins, un yuppie avide, ou pire, un poujadiste xénophobe.
Đây là những phỏng đoán rất nguy hiểm, tatrả lời ông ấy: có thể là, khi làm
mọi thứ ngược lại, con chỉ là một thằng ngốc bị điều khiển bởi tính thất thường
của chính mình, một con lừa bịp bị mê hoặc bởi trò chơi điện tử. Takhông quan
tâm ai lấy nó dễ dàng với sự lịch sự, một kẻ lang thang với tính khí dễ dãi, một
kẻ tụt lại có tính khí nhão nhét, hoặc một con nhím ném gai, một kẻ hay cãi vã
mà những người chê bai nó là ma cà rồng, một kẻ làm xáo trộn mọi thứ với một
bộ não hạn hẹp, một giáo dân thông thái, một kẻ vẽ nguệch ngoạc đầy tính thẩm
mỹ, hoặc ngược lại, một quý ngài cơ bắp, một vận động viên thể hình, hoặc tệ
hơn, một tên bàn đồ bải ngoại và là tín đồ của các cuộc tấn bàng bằng vũ khí
được thực hiện bởi những trận chiên yêu thích làn da. Cậu thông niên với những
lọn tóc xoăn xinh xắn giàu lên nhông chóng trong tương lai, một nhà môi giới
chứng khoán toàn diện, một yuppie tham lam, hoặc tệ hơn, một người theo chủ
nghĩa bài ngoại Poujadist.

Je brossais de toi une charge telle que S. me faisait « chut ! ». C’en était trop,
j’étais tout le temps dans l’exagération. Il était impossible de colloquer avec moi,
car je poussais les choses au noir, j’étais d’un catastrophisme crispant, je te
taillais un costume dès qu’il envisageait notre cohabitation sous l’angle de
la fertilité, je te déniais l’avantage d’apaiser nos fâcheries, je te contestais le titre
de purificateur des passions, je te reléguais dans les limbes d’où tu n’avais
aucune chance de sortir, et quand S. te parait de quelque excellence, je
minimisais le rôle que tu aurais eu dans notre trio.

Ta đã phớt lờ con đến mức S. đang khiến ta phải “suỵt! “. Điều đó là quá
nhiều, tađã luôn cường điệu hóa mọi thứ. Không thể nói chuyện với ta, vì tađã
đẩy mọi thứ vào đêm , tacăng thẳng thảm khốc, tacắt cho con một bộ đồ ngay khi
ông ấy xem xét việc chung sống của chúng tatừ góc độ sinh sản, tađã từ chối con
lợi thế để xoa dịu cơn giận của chúng ta, tađã thách thức con đối với dông hiệu
người thông lọc đam mê, ta đã xếp con vào tình trạng lấp lửng mà con không có
cơ hội thoát ra, và khi S. đối với con có vẻ là một người xuất sắc nào đó, tađã
giảm thiểu vai trò mà lẽ ra con phải đảm nhận trong bộ ba của chúng ta.

Phần 1: Nổi đau về tuổi thơ


Phần 2: Nổi đau về bệnh tật
Phần 3: Đối mặt với những mong muốn có con của
người tình( sự bất lực với cuộc sống

Acheter de la layette, dénicher un couffin et


un landau dans une brocante, décorer de
rubans le berceau rempli d’animaux en
peluche, t’inscrire à la crèche, consulter un
pédiatre sitôt que tu aurais le nez bourgeonné,
se faire une montagne de tes rhumes, ne pas
fermer l’œil de la nuit lorsque, perçant tes
dents, tu vagirais, soupirer de bien-être à
chacun de tes « areu areu »,
Mua layette, tìm nôi và xe đẩy trong chợ trời,
trang trí bằng ruy băng cái nôi chứa đầy thú
nhồi bông, đăng ký nhà trẻ, tham khảo ý kiến
bác sĩ nhi khoa ngay khi con thành hình trong
bụng ta, ta tưởng tượng hàng đống thứ, không
được chợp mắt vào ban đêm bởi vì con sẽ trở
mình, percant tes dents, rồi thở dài hạnh phúc
mỗi khi con "Areu Areu" (chắc là tiếng em bé
ngủ rồi thở nhẹ),

applaudir à chacun de tes gazouillis, te balader


dans ta poussette en te protégeant de la
froidure, te laisser jouer dans le bac à sable
des jardins, emporter une provision de cookies
pour ton goûter, fêter tes anniversaires, gâter
les bambins qui te couvriraient de cadeaux, se
réjouir de tes bonnes notes quand tu irais à
l’école, te cuisiner tes plats favoris, t’emmener
en vacances…
vỗ tay hoan hô từng tiếng bập bẹ của con, đi
bộ xung quanh xe đẩy bảo vệ con khỏi cái
lạnh, để con chơi trong hộp cát trong vườn, lấy
bánh quy cho con ăn nhẹ, tổ chức sinh nhật
cho con, làm vui lòng/ chiều chuộng những
người bạn sẽ đến tặng quà sinh nhật cho con,
những bạn đó cũng mới biết đi như con, rồi vui
mừng khi con đạt điểm cao, nấu cho con
những món con thích, đưa con đi nghỉ mát..

tout cela, c’étaient des coutumes que je ne


pouvais pas instaurer, non tant par mauvaise
volonté que par incapacité fondamentale à me
construire un univers régi par d’autres rites que
ceux de l’écriture :
Tất cả những điều này là những điều bình
thường nhưng ta không thể làm, không phải ta
không muốn, mà bởi ta bất lực với chính bản
thân mình khi xây dựng cho ta một vũ trụ bị chi
phối bởi các nghi thức khác với các nghi thức
viết lách:

j’aurais été une mère peu empressée à t’élever


dans du coton, ayant toujours hâte de me
cadenasser dans ma chambre pour arrondir
mes phrases, les cadencer, tout en laissant
subsister des dissonances afin de ne pas
succomber à la tentation du léché.

Ta sẽ là một người mẹ không muốn nuôi con


bằng sợi bông ấm áp, vì ta luôn háo hức nhốt
mình trong phòng để làm đẹp các câu văn của
ta, để tăng tốc độ cho chúng, trong khi để lại
những bất hòa để không chịu khuất phục trước
sự cám dỗ của sự trau chuốt. Dịch xong không
hiểu luôn. Huhu.

J’aurais été une mère inattentive à tes besoins,


trop compulsive pour lâcher prise un seul jour
en ne perlant pas les détails de ses manuscrits,
trop susceptible d’onirisme pour avoir la tête
sur les épaules.
Ta sẽ là một người mẹ không chú ý đến nhu
cầu của con, một người mẹ miễn cưỡng bỏ 1
ngày không chú ý gì đến việc kết nối các chi
tiết mình đã viết trong bản thảo của mình, một
người mẹ mộng mơ khó có lúc nào để yên cái
đầu trên vai mình.

Il m’aurait été difficile de concilier le cocooning


et les corps à corps me mettant face au vortex
de mots. C’était, disait S., parce que j’avais une
case en moins : bien des femmes savourent la
diversité de la vie familiale et persévèrent à
combiner le canevas de leurs ouvrages sans
pour autant être des gâte-papiers, mais moi,
j’appréhendais que ma veine romanesque ne
se tarisse si je me dévouais à mes poupons.
Sẽ rất khó để ta dung hòa và chiến đấu tay đôi,
làm mẹ : đặt ta trước vòng xoáy ngôn từ. Đó là,
S. nói, bởi vì ta thuộc trường hợp đặc biệt:
trong khi nhiều phụ nữ thưởng thức sự đa dạng
của cuộc sống gia đình và kiên trì kết hợp bức
tranh của các tác phẩm của họ mà không bị
vấn đề gì, thìta lại sợ rằng mạch lãng mạn của
ta sẽ cạn kiệt nếu ta cống hiến hết mình cho
con cái.

S. n’avait aucun doute que j’allais dans le mur,


que mon manque de souplesse, à la longue,
nuirait à ma santé mentale, car je me punissais
en ne m’autorisant aucune douceur, en étant
toujours dans une dangereuse tension
nerveuse, sur le point de me liquéfier faute de
délabyrinther mes sentiments antithétiques,
mon intellectualisme et ma soif de simplicité,

S. luôn tin rằng ta đang dồn mình vào đường


cùng, rằng sự thiếu linh hoạt của ta, về lâu dài,
sẽ làm tổn hại đến sự tỉnh táo của ta, bởi vì ta
tự trừng phạt mình bằng cách không cho phép
mình ngọt ngào, ngày nào cũng trong tình
trạng căng thẳng thần kinh nguy hiểm, tới mức
ta gần như tan chảy vì thất bại trong việc giải
quyết những cảm xúc mâu thuẫn, giải quyết trí
tuệ và sự khao khát đơn giản hóa mọi thứ của
ta.

ma propension à être une intégriste en matière


de créativité et
mon pyrrhonisme qui se traduisait par des
renonciations, ma recherche de l’altérité et mon
refus de me prolonger dans autrui, fût-il mon
fils.
Xu hướng của ta là một người theo chủ nghĩa
chính thống về mặt sáng tạo và chủ nghĩa
pyrrhonism của ta đã chuyển thành sự từ bỏ,
tìm kiếm sự khác biệt và từ chối kéo dài bản
thân ở người khác, ngay cả ở con trai ta.

S. soulignait mes incohérences qui, selon lui,


auraient été moins criantes si je t’avais eu au
tout début de notre relation, car alors j’étais
plus accueillante à ses propositions,
S. chỉ ra những mâu thuẫn của ta mà theo S,
sẽ ít mâu thuẫn hơn nếu ta có con ngay từ đầu
mối quan hệ của chúng ta, bởi vì sau đó ta sẽ
cởi mở hơn với những đề xuất của S.

allant même jusqu’à rédiger pour les tout-petits


des nouvelles dont tu étais le protagoniste et
que je ne publiais pas, allant jusqu’à t’affubler
d’un sobriquet, Ariel, plaisantant avec S. sur tes
probables polissonneries, ne lui faisant pas
grise mine lorsqu’il parlait de nous agrandir
pour te réserver une chambre, ne l’envoyant
pas bouler lorsqu’il exposait ses plans qui
incluaient ta présence parmi nous.
thậm chí những lời đề xuất của ông ta còn đi xa
đến mức đề nghị ta viết cho những đứa trẻ
những truyện ngắn mà con là nhân vật chính,
và đương nhiên ta đã không viết, rồi đi xa đến
mức đặt cho con một biệt danh, Ariel, ta nói
đùa với S., cố không làm cho ông ta buồn khi
ông ta nói về việc để dành cho con một căn
phòng, không làm ông ta thất vọng khi ông ta
tiết lộ kế hoạch của mình bao gồm sự hiện diện
của con giữa chúng ta.

Mais ce ne fut qu’une parenthèse, très vite je


me déjugeai. Un roman difficultueux fut un
prétexte pour me soustraire à mon
engagement, qui n’en était pas un, puisqu’en
vérité j’étais évasive, ne souscrivais à rien, me
bornais à ne dire ni oui ni non, le laissant à sa
paternité fantasmée.
Nhưng đó chỉ là dấu ngoặc đơn, rất nhanh ta tự
đánh giá mình. Một cuốn tiểu thuyết khó khăn
là một cái cớ để trốn tránh cam kết của ta, mà
cũng không phải là một quyển tiểu thuyết nữa,
vì sự thật ta đã lảng tránh, không cam kết gì
cả, giới hạn bản thân không nói có cũng không
nói không, ta cứ để cho ông ta tự do trong mối
quan hệ cha con tưởng tượng của ông ấy.

Je ne serai pas des fileurs de métaphores qui


comparent l’acte d’écrire à une parturition, le
mûrissement d’une ébauche à la maturation
d’un fœtus, l’incubation d’un thème au
développement d’un œuf, la genèse d’une
œuvre à la période prénatale, la laborieuse
élaboration d’une intrigue à un accouchement
au forceps, l’achèvement d’un manuscrit à une
délivrance, le spleen de l’inassouvi, une fois le
point final mis, au blues du post-partum, les
livres à une nichée (même s’il y a dans le lot
des spécimens claudicants, il ne faut pas les
renier).
Ta sẽ không phải là những người quay cuồng
với những phép ẩn dụ, so sánh hành động viết
với sự sinh nở, so sánh sự trưởng thành của
một bản nháp với sự trưởng thành của thai nhi,
so sánh việc ấp một chủ đề với sự phát triển
của trứng, so sánh nguồn gốc của một tác
phẩm với thời kỳ tiền sản, so sánh sự trau
chuốt tốn nhiều công sức với việc sanh 1 đứa
trẻ / gắp ra 1 đứa trẻ, so sánh việc hoàn thành
một bản thảo với việc hạ sinh, lá lách của
những người chưa hoàn thành – suy nghĩ hoài
vẫn chưa hiểu nha, Một khi điểm cuối cùng
được thiết lập (ý nói đã rặn ra được đứa trẻ
^.^), thì sẽ trầm cảm sau sinh, so sánh những
cuốn sách với 1 đàn con (ngay cả khi có mẫu
vật khập khiễng trong lô, chúng không nên bị từ
chối : từ chối hiểu).

Tout au plus maïeuticien de soi-même, celui qui


couve le projet d’être le sondeur du chaos
intérieur n’est pas un géniteur qui aurait reporté
ses vanités sur ses productions, substituts de
ses chères têtes blondes. La mise au jour d’une
fiction n’équivaut pas à l’éclosion en soi d’un
germe de vie.
Nhiều nhất là một ngài thị trưởng của chính
mình, người ấp ủ dự án trở thành người gieo
rắc sự hỗn loạn bên trong không phải là một tổ
tiên sẽ chuyển sự phù phiếm của mình sang
sản xuất của mình, thay thế cho những cái đầu
tóc vàng thân yêu của anh ta. Việc phát hiện ra
một tiểu thuyết không tương đương với sự xuất
hiện trong chính nó của một mầm mống của sự
sống.

Toujours était-il que j’éludais le problème de ta


naissance en me vouant entièrement à la
rédaction de mon récit.
Tuy nhiên, ta đã tránh được vấn đề sinh ra của
con bằng cách cống hiến hết mình cho việc viết
câu chuyện của ta.
S. revenait à la charge, mais mollement,
comme si, fichtre ! ma rétractation avait été
une douche écossaise.
S. Quay trở lại cáo buộc, nhưng khập khiễng,
như thể,! Sự rút lại của ta là một cơn mưa rào
Scotland.

Tu restais entre nous un sujet embarrassant, tu


avivais notre mésentente, chaque jour plus
manifeste.
Con vẫn là một chủ đề đáng xấu hổ giữa chúng
ta, con làm sống lại sự bất đồng của chúng ta,
mỗi ngày càng rõ ràng hơn.
S. était d’humeur contentieuse, il me reprenait
sur tout, il ne cessait d’agiter le spectre de la
rupture, puisque je ne lui concédais pas le droit
d’être père et de te léguer ses dispositions pour
le théâtre.
S. đang trong tâm trạng tranh cãi, anh ấy đưa
ta trở lại mọi thứ, anh ấy không bao giờ ngừng
nêu lên bóng ma của sự tan vỡ, vì ta đã không
cấp cho anh ấy quyền làm cha và để lại cho
con những định hướng của anh ấy cho nhà
hát

Tu serais une tête d’affiche, une célébrité, au


faîte de la gloire avant l’âge de trente ans…
Pour nous qui galérions, ton apparition serait la
promesse d’un mieux-être, me répétait-il, car
elle mettrait fin à un attiédissement des
ardeurs, elle attiserait la flamme près de
s’éteindre.
Con sẽ là một tiêu đề, một người nổi tiếng, ở
đỉnh cao của vinh quang trước tuổi ba mươi...
Đối với chúng ta, những người đấu tranh, sự
xuất hiện của con sẽ là lời hứa về một sinh vật
tốt hơn, anh lặp lại với ta, bởi vì nó sẽ chấm dứt
sự suy giảm nhiệt tình, nó sẽ thổi bùng ngọn
lửa sắp bị dập tắt.

Grâce à toi, notre love affair qui s’essoufflait


prendrait une nouvelle configuration, nous ne
serions plus deux asymptotes qui tendent l’une
vers l’autre sans s’atteindre, nous consacrer à
toi serait pour nous un bain lustral, nous ne
nous éparpillerions plus en courant plusieurs
lièvres à la fois avec l’espoir de ne pas tomber
à chaque reprise sur un bec : il en bavait des
ronds de chapeau sans toujours signer de
contrat, je ne rechignais pas au labeur sans voir
le bout du tunnel.
Nhờ có con, mối tình của chúng ta sắp hết hơi
sẽ có một cấu hình mới, chúng ta sẽ không còn
là hai triệu chứng có xu hướng hướng về nhau
mà không đến được với nhau, cống hiến hết
mình cho con sẽ là cho chúng ta một bồn tắm
ham muốn, chúng ta sẽ không còn phân tán
chạy nhiều thỏ rừng cùng một lúc với hy vọng
không rơi mỗi lần trên mỏ: Anh ta chảy nước
dãi với những chiếc nhẫn mũ mà không phải
lúc nào cũng ký hợp đồng, ta không chùn bước
trong công việc mà không nhìn thấy cuối đường
hầm.

Si nous t’avions à notre charge, nous serions


plus sérieux, nous ne jetterions plus l’argent par
les fenêtres quand nous aurions des rentrées,
nous économiserions pour payer tes frais de
scolarité, nous te bâtirions un nid protecteur,
Nếu chúng ta có con chăm sóc, chúng ta sẽ
nghiêm túc hơn, chúng ta sẽ không còn ném
tiền ra ngoài cửa sổ khi chúng ta có thu nhập,
chúng ta sẽ tiết kiệm để trả học phí cho con,
chúng ta sẽ xây cho con một tổ ấm bảo vệ,

nous ne te demanderions que de ne pas trop te


prendre pour le nombril du monde, quand bien
même tu serais pour nous le centre d’attraction,
de ne pas languir dans l’inaction,
Chúng ta chỉ yêu cầu con đừng quá coi mình là
rốn của thế giới, ngay cả khi con sẽ là trung
tâm của sự hấp dẫn đối với chúng ta, không
mòn mỏi trong việc không hành động,

quand bien même nous te bouchonnerions, de


ne pas t’embourgeoiser, quand bien même ce
serait la dolce vita lorsque nous aurions percé,
d’avoir la bosse de la musique,
Ngay cả khi chúng ta sẽ nút chai = tiết chế con,
không phải để làm dịu con, ngay cả khi đó sẽ là
dolce vita khi chúng ta sẽ xuyên qua, để có
bướu của âm nhạc

une familiarité avec les classiques, un attrait


pour les mathématiques, de ne pas t’orienter
vers une voie de garage alors que nous aurions
tout fait pour que tu t’accomplisses, de ne pas
réprouver notre mode de vie, en rupture avec
toute normalité,
một sự quen thuộc với các tác phẩm kinh điển,
một sự hấp dẫn đối với toán học, không tiến tới
một bên khi chúng ta sẽ làm mọi thứ để con
hoàn thành bản thân, không chấp nhận cách
sống của chúng ta, phá vỡ mọi bình thường,

d’être assez éveillé pour avoir un esprit


d’émulation, assez ficelle pour ne pas donner
dans la fatuité, assez louftingue pour ne pas
être un conservatiste, assez stoïque pour
encaisser les coups bas, sans être inconsistant
au point de tout plaquer dès que tu prendrais
une gamelle, en deux mots, de ne pas te
monter le job mais d’être une exception…
Để đủ tỉnh táo để có một tinh thần thi đua, đủ
dây để không nhượng bộ sự mệt mỏi, đủ
luolish để không phải là một người bảo thủ, đủ
khắc kỷ để chịu những cú đánh thấp, mà không
nhất quán đến mức bỏ tất cả mọi thứ ngay khi
con lấy một cái bát, trong hai từ, không phải để
cho con công việc mà là một ngoại lệ

S. n’en finissait pas de rêver au moment où tu


serais son orgueil, où il t’aiderait à devenir
quelqu’un (bon chien chasse de race !).
S. không bao giờ ngừng mơ ước khi con sẽ là
niềm tự hào của anh ấy, khi anh ấy sẽ giúp con
trở thành một người nào đó (chó săn thuần
chủng tốt!).

Nous allions t’éduquer selon nos principes,


incompatibles avec le béotisme régnant, nous
allions nous investir dans ton édification, de
telle sorte que tu sois doté d’une vaste érudition
sans t’en vanter ni l’étaler, nous n’allions pas te
transformer en clone de nous-mêmes,
Chúng ta sẽ giáo dục con theo nguyên tắc của
chúng ta, không tương thích với chủ nghĩa
beotism trị vì, chúng ta sẽ đầu tư bản thân vào
sự gây dựng của con, để con sẽ được ban cho
một sự uyên bác rộng lớn mà không khoe
khoang hay truyền bá nó, chúng ta sẽ không
biến con thành một bản sao của chính chúng
ta.

mais t’exercer à modeler ton être jusqu’à ce


que tu te singularises, nous tenir en retrait pour
ne pas te gêner dans ton évolution, te mettre en
valeur tout en t’apprenant à ne pas te
surestimer, te donner confiance en toi en te
rendant réceptif aux fourvoiements d’autrui.
Nhưng hãy thực hành định hình bản thể của
con cho đến khi con nổi bật, giữ chúng ta lại để
không cản trở con trong quá trình tiến hóa của
con, làm nổi bật con trong khi dạy con không
đánh giá quá cao bản thân, cho con sự tự tin
vào bản thân bằng cách khiến bản thân dễ tiếp
thu sai lầm của người khác.

Nous n’allions pas t’incendier à la première


équipée, t’ôter toute spontanéité en étant des
pisse-vinaigre, te tyranniser en t’accablant de
pensums et en te sevrant de plaisirs, être après
toi comme si tu étais un oiselet qui, sans nous,
ne prendrait pas son essor, pomper toute ta
sève en nous arrogeant tes mérites, absorber
ta substance en te contraignant à te
subordonner à nous,
Chúng ta sẽ không đốt cháy con ngay từ lần
đầu tiên được trang bị, để lấy đi tất cả sự tự
phát bằng cách đi tiểu giấm / tiểu xón ?,
chuyên chế con bằng cách đè nặng con bằng
những con lắc và cai sữa cho con khỏi những
thú vui, để theo đuổi con như thể con là một
birdie mà, không có chúng ta, sẽ không cất
cánh, để bơm tất cả nhựa cây của con bằng
cách kiêu ngạo công đức của con với chúng ta,
để hấp thụ chất của con bằng cách buộc con
phải phụ thuộc vào chúng ta,

te coloniser de la même façon qu’une


puissance s’annexe un pays satellite, te
soumettre à de continuels schibboleths où tu
serais le néophyte et nous les initiés, utiliser un
jargon sorbonnard pour t’éblouir, prendre un ton
magistral pour t’enfoncer chaque fois que tu
mettrais en doute la pertinence de nos
remarques, poser aux observateurs objectifs,
aux médiateurs de tes bisbilles, fourrer notre
nez dans tes affaires,
thuộc địa hóa bản thân giống như cách mà một
cường quốc thôn tính một quốc gia vệ tinh,
phục tùng những kẻ lừa đảo liên tục nơi con sẽ
là người mới và chúng ta khởi xướng, sử dụng
một thuật ngữ đau buồn để làm con lóa mắt,
lấy một giọng điệu bậc thầy để nhấn chìm con
bất cứ khi nào con đặt câu hỏi về sự liên quan
của nhận xét của chúng ta, hỏi những người
quan sát khách quan, người hòa giải về cuộc
cãi vã của con, Chọc mũi của chúng ta vào
doanh nghiệp của con

t’attraper dès que tu aurais des flirts te


distrayant de tes études, te passer un savon
dès que tes résultats seraient piteux, peser sur
tes choix, te chicaner des sommes modiques,
t’empêcher d’être un globe-trotter (les voyages
sont ruineux), un habitué des night-clubs (on s’y
abêtit), un teufeur (il te faudrait être bosseur),
d’avoir un cœur d’artichaut (cela trahit un
appétit d’intempérance),
Bắt con ngay khi con có những lời tán tỉnh làm
con mất tập trung vào việc học, đưa cho con xà
phòng ngay khi kết quả của con đáng thương,
cân nhắc về lựa chọn của con, ngụy biện về
những khoản tiền nhỏ, ngăn con trở thành một
người đi khắp thế giới (du lịch là hủy hoại), một
người thường xuyên ở các câu lạc bộ đêm
(chúng ta bị câm), một teufeur (con sẽ phải là
một người làm việc chăm chỉ), để có một trái
tim atisô (nó phản bội sự thèm ăn cho sự
không tiết chế),
de t’affilier à un parti (la politique n’est qu’une
guignolade), d’avoir la nostalgie de Mai 68, de
Woodstock et de l’ère Peaceand Love (ce n’est
pas demain qu’on raserait gratis), d’être un
fondu de high-tech (nous serions des profanes),
nous n’allions pas non plus faire de toi un
requin qui avalerait l’océan et les poissons,
aurait la manie du colossal et se prendrait pour
la huitième merveille de la terre…
để liên kết bản thân với một bữa tiệc (chính trị
chỉ là một con rối), để hoài niệm về tháng Năm
68, Woodstock và kỷ nguyên Hòa bình và Tình
yêu (không phải ngày mai chúng ta sẽ cạo râu
miễn phí), trở thành một kẻ mờ nhạt công nghệ
cao (chúng ta sẽ là giáo dân), chúng ta sẽ
không biến con thành một con cá mập nuốt
chửng đại dương và cá, có sự cuồng nhiệt của
người khổng lồ và sẽ tự mình cho kỳ quan thứ
tám của trái đất ... ?

S. se délectait à fixer les bornes de notre


pédagogie. Rien n’interrompait le flot de ses
paroles, même lorsque je ne l’écoutais que
d’une oreille. Il était d’une inexhaustible
loquacité.
S. vui mừng trong việc thiết lập các giới hạn
của phương pháp sư phạm của chúng ta.
Không có gì làm gián đoạn dòng chảy trong lời
nói của anh ấy, ngay cả khi ta lắng nghe anh
ấy chỉ bằng một tai. Anh ấy vô cùng cao hứng.

Comme j’étais impénétrable aux vigueurs de sa


persuasion, il mythifiait la mission que tu aurais
eue au sein de notre couple : nous aurions
raison de nos langueurs, nous ne ronronnerions
plus, nous remiserions notre défroque de
borderline sans tomber dans le prosaïsme,
nous exorciserions le démon de la jalousie,
Khi ta không thể hiểu được sức mạnh của sự
thuyết phục của anh ấy, anh ấy đã huyền thoại
hóa sứ mệnh mà con sẽ có trong cặp vợ chồng
của chúng ta: chúng ta sẽ trở nên uể oải hơn,
chúng ta sẽ không còn rên rỉ, chúng ta sẽ bỏ đi
ranh giới phỉ báng của mình mà không rơi vào
chủ nghĩa tục tĩu, chúng ta sẽ trừ tà con quỷ
ghen tuông

nous graviterions dans ton orbite puisque tout


tournerait autour de toi, nous ferions peau
neuve, nous nous dégagerions des
engluements par les circonstances extérieures,
nous accéderions à une dimension féerique…
Chúng ta sẽ bị hút vào quỹ đạo của con vì mọi
thứ sẽ xoay quanh con, chúng ta sẽ có một
diện mạo mới, chúng ta sẽ giải phóng bản thân
khỏi chất keo bởi hoàn cảnh bên ngoài, chúng
ta sẽ truy cập vào một chiều không gian kỳ diệu

Je n’aurais plus cette claustrophobie qui me


gagnait quand je me figurais entre quatre murs,
face à un fils dont j’aurais la responsabilité. Je
démêlerais les embrouillements où nous nous
ensablions. Je ne me réfugierais plus dans
l’abstraction mais serais réaliste, sans verser
dans la platitude.
Ta sẽ không còn nỗi sợ hãi ngột ngạt đã chiến
thắng ta khi ta tưởng tượng mình giữa bốn bức
tường, đối mặt với một đứa con trai mà ta sẽ
chịu trách nhiệm. Ta sẽ gỡ rối những mớ hỗn
độn nơi chúng ta đang chà nhám. Ta sẽ không
còn nương tựa vào sự trừu tượng nữa mà sẽ
thực tế, không rơi vào tình trạng bằng phẳng.

Astucieuse quand je devrais résoudre les


tracas pécuniaires, aimante quand tu aurais
faim de câlineries, fiable quand tu te trouverais
en fâcheuse posture, j’aurais du bon sens
lorsque je te conseillerais, le nez creux lorsque
je t’indiquerais la direction à suivre.
Thông minh khi ta nên giải quyết những lo lắng
về tiền bạc, yêu thương khi con đói để âu yếm,
đáng tin cậy khi con thấy mình ở một vị trí
không may, ta sẽ có ý thức chung khi ta khuyên
con, mũi rỗng khi ta nói cho con hướng đi để
làm theo.

Mon caractère se bonifierait dès lors que je


serais mère, je n’aurais plus le cafard, toutes
mes imperfections se dissoudraient : j’aurais à
cœur d’être irréprochable, arrangeante,
toujours affairée à te combler.
Tính cách của ta sẽ cải thiện ngay khi ta làm
mẹ, ta sẽ không còn là con gián, tất cả những
khiếm khuyết của ta sẽ tan biến: Ta sẽ có trong
trái tim không thể chê trách, có sức chứa, luôn
bận rộn để lấp đầy con.

D’entêtée à fixations, je me changerais en une


éclectique ouverte à toutes les nouveautés,
j’élargirais mon horizon, je te communiquerais
mes ivresses.
Từ bướng bỉnh đến cố định, ta sẽ thay đổi
thành một người chiết trung mở ra cho tất cả
những điều mới lạ, ta sẽ mở rộng tầm nhìn của
mình, ta sẽ truyền đạt cho con những cơn say
của ta

Quand je rencontrerais un obstacle, je ne


détellerais pas, mais cravacherais sans
débander. Quand nous n’aurions pas un
centime, tu ne serais pas au pain sec.
Khi ta gặp chướng ngại vật, ta sẽ không làm
sáng tỏ, nhưng sẽ quất mà không làm sáng tỏ.
Khi chúng ta không có một xu, con sẽ không ăn
bánh mì khô.

Quand nous ne pourrions pas aller à la mer, tu


ne t’embêterais pas : je recouvrirais tes cahiers
de décalcomanies, je te lirais des histoires de
détective, je te réciterais les fables de La
Fontaine.
Khi chúng ta không thể ra biển, con sẽ không
bận tâm: Ta sẽ che sổ tay của con bằng đề
can, ta đã đọc cho con những câu chuyện trinh
thám, ta sẽ đọc truyện ngụ ngôn của La
Fontaine cho con.

Quand la fièvre me clouerait au lit, je ne me


désintéresserais pas de tes occupations, je te
ferais des cakes, j’éluciderais pour toi les règles
des échecs, je t’amuserais avec des grimaces.
Khi cơn sốt đóng đinh ta lên giường, ta sẽ
không mất hứng thú với nghề nghiệp của con,
ta sẽ làm bánh cho con, ta sẽ làm sáng tỏ cho
con các quy tắc của cờ vua, ta sẽ làm con vui
bằng những cái nhăn mặt.

Quand je serais éreintée par mes interminables


journées de travail, je ne me négligerais pas, je
ne me promènerais pas devant toi en peignoir
sale en bâillant comme une carpe et en te
querellant.
Khi ta kiệt sức vì những ngày làm việc bất tận,
ta sẽ không bỏ bê bản thân, ta sẽ không đi
trước mặt con trong chiếc áo choàng tắm bẩn
thỉu ngáp như một con cá chép và cãi nhau.

Les matins où je ne serais pas inspirée, où les


fragments de mon roman ne seraient pas
verveux, malgré les polissages, je ne passerais
pas ma colère sur toi, dont le potin m’aurait
déconcentrée.
Vào những buổi sáng khi ta không được truyền
cảm hứng, khi những mảnh vỡ trong cuốn tiểu
thuyết của ta sẽ không được đánh bóng, mặc
dù được đánh bóng, ta sẽ không dành sự tức
giận của mình cho con, những tin đồn của họ
sẽ làm ta phân tâm.

Avec les années, lorsque, après avoir fait


paraître un livre, je buterais contre l’indifférence
de la critique, je ne t’assommerais pas en
rouspétant contre les papes du journalisme, en
jouant les méconnus.
Trong những năm qua, khi, sau khi xuất bản
một cuốn sách, ta vấp ngã trước sự thờ ơ của
các nhà phê bình, ta sẽ không hạ gục con bằng
cách càu nhàu với các giáo hoàng báo chí,
bằng cách đóng vai những người vô danh.

Moi, si glaçante d’ordinaire, je dispenserais la


chaleur autour de moi, je serais une mater
gâteau, et non plus une maniaque de l’ordre
aux habitudes célibataires, une architecte des
enchantements journaliers, et non plus
seulement une forgeuse d’esquisses
complexes, une Mélusine et non plus
seulement une Lorelei à la séduction
maléfique : il était indubitable, disait S., qu’il y
aurait une amélioration de mon sort dès
l’instant où je ne me rebifferais plus contre
l’idée de fonder un foyer.
Ta, rất lạnh lùng bình thường, sẽ phân phối
nhiệt xung quanh ta, ta sẽ là một chiếc bánh
mater, và không còn là một kẻ điên của trật tự
với thói quen độc thân, một kiến trúc sư của
bùa mê hàng ngày, và không còn chỉ là một kẻ
giả mạo các bản phác thảo phức tạp, một
Melusine và không còn chỉ là một Lorelei với sự
quyến rũ xấu xa: nó không thể nhầm lẫn, S.
nói, rằng sẽ có một sự cải thiện trong lô đất
của ta ngay khi ta không còn chùn bước trước ý
tưởng bắt đầu một ngôi nhà.
Je m’étais déjà séparée de lui quand se
manifestèrent les premiers symptômes d’un
raptus au cours duquel je me tailladai les
veines. Mon suicide manqué, je jetai au feu
tous mes manuscrits, même les brouillons d’un
essai, parce qu’ils renfermaient des aveux dont
mes ennemis se serviraient contre moi. Tandis
que les flammes dévoraient les feuillets, des
larmes ruisselaient de mes yeux, je pleurais
sans pouvoir m’arrêter. Je ne savais pas sur
quoi je pleurais, peut-être sur le temps enfui,
sur mes amours altérées, mes amitiés
défuntes, mes ambitions embaumées, sur moi-
même, au timbre fêlé, aux visions
psychédéliques, en proie, ainsi qu’un médium
en transe, à la dépersonnalisation, ou sur toi,
que j’avais immolé à mon art. Je n’étais pas en
mal d’enfant, mais je me souvenais d’avoir été
à deux doigts de fléchir devant les prières de S.
Si j’avais faibli, tu aurais été à mes côtés, en
ces heures où je somatisais mes frayeurs
irrationnelles jusqu’à avoir des bourdonnements
d’oreilles, de violentes migraines,
d’insoutenables vertiges me faisant trébucher à
chaque pas. J’étais comme une vagabonde
déjetée au milieu de la cohue, tout le monde
voulait me nuire, me sauter dessus, j’étais
suspectée d’avoir le culte du moi, incriminée
pour délit de nonappartenance : je n’avais
aucun sens du devoir, j’étais un figuier qui ne
portait pas de fruits. Béante, stupide, je fendais
la foule, bousculant au passage une troupe
d’écoliers qui semblaient rire de moi. Tu aurais
pu être l’un d’eux si mes inclinations peu
hétérocentriques n’avaient contrarié les désirs
de S. Dans les squares de petits chérubins
cavalcadaient, grimpant sur les toboggans, se
passant de main en main un ballon, jouant à
cache-cache, je les contemplais de loin, et je
me disais qu’il était trop tard pour me reprocher
de ne pas t’avoir conçu. Ce n’était pas du
remords, mais une indéfinissable impression de
mutilation, comme si l’on m’avait amputée d’un
membre. Mais, toute brindezingue que j’étais, je
restais une tête de pioche, je ne convenais pas
de mes torts : il n’y avait pas de place pour toi
dans la drôle d’existence que je menais. Tu ne
m’aurais pas pardonné de t’embringuer dans
l’aléatoire, de te navrer en m’attelant à des
tâches de longue haleine qui me tiendraient
éloignée de toi, en abandonnant mon poste
alors même que tu compterais sur mon
secours, en trichant chaque fois que tu me
sonderais sur la profondeur de mon
attachement à toi, de n’avoir pas un atome de
sagesse, un grain de débrouillardise, d’être
moitié adolescente moitié sorcière, mais jamais
assez adulte ni assez maîtresse de moi pour
me désenvaser lorsque je serais sur un terrain
bourbeux. Tu ne m’aurais pas pardonné de te
verrouiller dans mon minuscule logis pour
t’obliger à lire d’arides pavés, de ne pas
t’accorder de permission de sortie avant que tu
connaisses par cœur les plus remarquables
pages de Nietzsche, de ne pas te lâcher
jusqu’à ce que tu aies assimilé au moins un
dialogue socratique, de te faire subir mes
brusques humeurs, mes plongeons dans la
tristesse, mes déraillements.
Tôi đã tách khỏi anh ấy khi những dấu hiệu
đầu tiên của một cơn cuồng nộ xuất hiện,
khi đó tôi rạch tĩnh mạch của mình. Tôi tự tử
nhưng không thành, tôi ném tất cả các bản
thảo của mình vào lửa, thậm chí cả bản thảo
của một bài luận, bởi vì chúng chứa đựng
những lời thú tội mà kẻ thù của tôi sẽ sử
dụng để chống lại tôi. Khi ngọn lửa nuốt
chửng tấm trải giường, nước mắt tôi trào ra,
tôi đã khóc không kiểm soát được. Tôi
không biết mình đang khóc vì điều gì, có thể
là về thời gian đã qua, về những tình yêu đã
thay đổi của tôi, về những tình bạn đã chết,
về những tham vọng đã được ngấm ngầm
trong tôi, về bản thân, với dấu vết của sự
rạn nứt, với những ảo ảnh ảo giác, con mồi,
giống như một phương tiện trong trạng thái
thôi miên, với sự phi cá nhân hóa, hoặc vào
bạn, người mà tôi đã hiến dâng cho nghệ
thuật của mình. Tôi không còn trẻ, nhưng
tôi nhớ mình sắp khuất phục trước những
lời cầu nguyện của S. Tôi không cần một
đứa con, nhưng tôi nhớ mình đã gần như
đầu hàng trước những lời cầu nguyện của
S. Nếu tôi yếu đi, bạn đã ở bên cạnh tôi,
trong những giờ phút khi tôi chìm đắm
trong nỗi sợ hãi phi lý của mình cho đến khi
tôi bị ù tai, đau nửa đầu dữ dội, chóng mặt
không chịu nổi khiến tôi loạng choạng trong
từng bước. Tôi như một kẻ lang thang giữa
đám đông, ai cũng muốn hại tôi, nhảy vào
tôi, tôi bị nghi ngờ là có sùng bái tôi, bị gán
cho tội không thuộc về tôi: tôi không có
nghĩa vụ, tôi là một cây vả không sinh trái.
Há hốc mồm, thật ngu ngốc, tôi lách qua
đám đông, đâm sầm vào một đám học sinh
dường như đang cười nhạo tôi. Bạn có thể
là một trong số họ nếu khuynh hướng hơi dị
thường của tôi không cản trở mong muốn
của S. ẩn, tôi đã chiêm ngưỡng chúng từ xa,
và tôi tự nhủ rằng đã quá muộn để trách
móc tôi vì đã không mang thai bạn. Đó
không phải là sự hối hận, mà là một cảm
giác bị cắt xẻo không thể xác định được,
như thể một chi đã bị cắt cụt. Nhưng, khôn
ngoan như tôi, tôi vẫn là một kẻ đầu sỏ, tôi
không thừa nhận những sai lầm của mình:
không có chỗ cho bạn trong sự tồn tại buồn
cười mà tôi đang lãnh đạo. Bạn sẽ không
tha thứ cho tôi vì đã kéo bạn vào tình trạng
không chắc chắn, vì đã khiến bạn khó chịu
bằng cách ép buộc bản thân vào những
nhiệm vụ dài hạn khiến tôi phải rời xa bạn,
bằng cách từ bỏ vị trí của tôi ngay cả khi
bạn đang trông cậy vào sự giúp đỡ của tôi,
bằng cách gian lận mỗi khi bạn thăm dò. Tôi
về chiều sâu của sự gắn bó với bạn, về việc
không có một chút trí tuệ, một chút tháo vát,
nửa thanh niên nửa phù thủy, nhưng không
bao giờ đủ trưởng thành hoặc đủ tình nhân
để ủ rũ khi tôi ở trên mặt đất lầy lội. Bạn sẽ
không tha thứ cho tôi vì đã nhốt bạn trong
ngôi nhà nhỏ bé của tôi để bắt bạn đọc
những viên đá cuội khô khan, vì đã không
cho phép bạn ra ngoài trước khi bạn thuộc
lòng những trang đặc sắc nhất của
Nietzsche, vì đã không buông tha bạn cho
đến khi bạn đã đồng hóa ít nhất một cuộc
đối thoại của Socrates, để đưa bạn vào tâm
trạng bất chợt của tôi, sự chìm đắm trong
nỗi buồn, sự trật bánh của tôi.
Sans détacher mes regards des bambins, je
m’asseyais sur un banc, à l’écart, fouillant dans
mon sac qui contenait une bible et un carnet où
j’avais noté ce qui me terrorisait depuis que
mes troubles avaient éclaté. C’était illisible, moi
seule en percevais la signification : s’y
superposaient les déductions d’états
interprétatifs et les conclusions d’un délire
systématisé. Des caméras filmaient chacun de
mes déplacements, sous les banales
badineries des mamans je discernais des
persiflages qui me visaient, les personnages
apparemment anodins surgis à tous les
croisements étaient des malveillants
rassemblant un dossier à charge en vue de me
frapper d’exclusive. Tu rejoignais les ricaneurs
dont j’étais la fable. Partout où j’allais, tu te
mettais sur ma route, tu te suspendais à mes
jupes, tu me chuchotais des phrases
inintelligibles, tu instruisais mon procès.
Assiégée de toutes parts, j’avais des frissons,
les jambes en flanelle, les yeux obscurcis. La
tenue en désordre, les cheveux en bataille, je
traversais les rues sans faire attention aux
voitures, je filais comme une flèche sans semer
mes poursuivants de plus en plus menaçants.
Tu les excitais contre moi, tu étais le plaideur le
plus inexorable, tu ne me laissais aucun moyen
de me blanchir : on me jugeait pour
accouplements inféconds, non-respect des
conventions, rage d’introspections, évasion par
la fabulation.
Không rời mắt khỏi những đứa trẻ chập
chững biết đi, tôi ngồi trên một chiếc ghế
dài, cách xa, lục lọi trong chiếc cặp của
mình, trong đó có một cuốn Kinh thánh và
một cuốn sổ ghi lại những gì đã khiến tôi
kinh hãi kể từ khi những rắc rối của tôi bùng
phát. Nó không thể đọc được, chỉ một mình
tôi hiểu được ý nghĩa của nó: chồng chất
lên nó là những suy diễn của những trạng
thái diễn giải và những kết luận của một
cơn mê sảng được hệ thống hóa. Máy quay
ghi lại từng cử động của tôi, dưới những
câu nói đùa tầm thường của những bà mẹ
mà tôi nhận ra là những lời chế nhạo nhắm
vào tôi, những nhân vật tưởng như vô hại
xuất hiện ở mọi ngã tư đều là những kẻ ác
tâm gom hồ sơ để đánh tôi một trận tơi bời.
Bạn đã tham gia vào những lời chế nhạo mà
tôi là câu chuyện ngụ ngôn. Anh đi đâu em
cũng ngáng đường anh, anh túm váy em,
anh thì thầm với em những câu khó hiểu,
anh hướng dẫn em thử thách. Bị bủa vây tứ
phía, tôi run cầm cập, chân run như cầy sấy,
mắt thâm quầng. Ăn mặc xộc xệch, đầu tóc
bù xù, tôi băng qua đường mà không để ý
đến xe cộ, tôi phóng như một mũi tên mà
không để lạc mất những kẻ truy đuổi ngày
càng đe dọa. Bạn đã kích động họ chống lại
tôi, bạn là kẻ kiện tụng khó tha thứ nhất,
bạn không để cho tôi có phương tiện thanh
minh nào: Tôi bị đánh giá vì những mối
quan hệ không có kết quả, không tôn trọng
các quy ước, nội tâm thịnh nộ, trốn tránh
bằng cách kể chuyện.

Au bout de quelques semaines, durant


lesquelles, harcelée par des accusateurs, je ne
songeais qu’à me noyer dans la Seine, je fus
prise en main par les psychiatres de Sainte-
Anne, surtout par une femme médecin aux très
beaux yeux, douce et clairvoyante. Les
injections de neuroleptiques firent leur effet, je
pus sortir de ma chambre sans être saisie de
panique. Dans le jardin de l’asile, je me liai
avec une patiente de prime abord aussi
aimable qu’un chardon. Des lunettes noires sur
le nez, une écharpe mordorée autour du cou,
des tennis bicolores aux pieds, elle arborait
toujours un ceinturon à l’espèce de tunique
prêtée par les infirmières. Elle avait une mine
de déterrée, elle s’esquivait dès qu’on
l’approchait ou elle murmurait entre ses dents
en faisant le geste de chasser des mouches.
Pour l’engager à converser avec moi, à la
cantine de l’hôpital, je lui tendais son plateau et
ses couverts, je gardais pour elle mon dessert.
Peu à peu, la glace fut rompue. Nous fumions
ensemble des gitanes, nous croquions des
bonbons acidulés, je lui empruntais ses lunettes
noires, elle chaussait mes sandales, nous
flânions main dans la main, un casque de
walkman à nos oreilles, nous farfouillions dans
les rayonnages de la médiathèque, sans but
précis, juste pour tuer l’ennui, nous ne lisions
même pas les journaux, nous coincions la bulle,
nous planions dans notre sphère imaginaire
pour imposer silence à notre peur du dehors.
C’était l’été, ce farniente nous était bénéfique.
Nous ne faisions que prendre des
médicaments, dormir tout notre saoul, à l’abri
des réalités. Les thérapies de groupe étaient
contreproductives, nous n’étions pas moins peu
avenantes, nous ne disions rien aux blouses
blanches, mais nous nous susurrions des
secrets. Elle avait eu un fils mort-né. Ce deuil
l’avait plongée dans une dépression telle qu’elle
était restée trois mois couchée sans presque
s’alimenter. Elle était si faible quand on
l’hospitalisa qu’il fallut la mettre sous perfusion.
Elle ne mangeait que des légumes et des
sucreries, jamais de la viande, grillée ou
enrobée d’une sauce. Son fils devait se
nommer Emmanuel. Dans les moments où elle
était complètement à l’ouest, elle parlait de lui
comme s’il avait survécu : « A onze heures, je
dois donner le biberon à Emmanuel » ; «
Emmanuel a grossi, c’est un bébé joufflu
maintenant » ; « Emmanuel a des taches de
rousseur comme moi » ; « Cet après-midi
j’achèterai une barboteuse pour Emmanuel » ;
« Emmanuel frétille et agite son hochet quand
je le chatouille »… Puis, lorsqu’elle chutait des
cimes, le désespoir lui déformait la bouche, des
sanglots lui nouaient la gorge, elle se tordait les
bras, inconsolable, parfois même, en plein
dîner, elle renversait les verres et les assiettes,
hurlait comme une damnée, se roulait par terre.
Les aidessoignantes la bourraient de
tranquillisants, après quoi elle avait l’air d’une
Martienne, les yeux protubérants, la démarche
mal assurée, les mouvements mécaniques.
Son mari venait tous les jours s’enquérir d’elle,
mais elle le fuyait et se retirait dans sa chambre
dès qu’on lui annonçait sa visite. Elle voulait
obtenir le divorce pour effacer de sa mémoire
ses chagrins.
Sau một vài tuần, trong thời gian bị những
kẻ tố cáo quấy rối, tôi chỉ nghĩ đến việc chết
đuối ở sông Seine, tôi đã được các bác sĩ
tâm lý của Sainte-Anne, đặc biệt là một nữ
bác sĩ có đôi mắt rất đẹp, dịu dàng và có
khả năng thấu thị, cứu giúp. Việc tiêm thuốc
an thần đã có tác dụng, tôi có thể rời khỏi
phòng mà không bị hoảng sợ. Trong khu
vườn của trại tị nạn, tôi kết bạn với một
bệnh nhân thoạt nhìn dễ mến như một cây
kế. Kính đen trên mũi, khăn quàng cổ màu
đồng, chân đi giày quần vợt hai tông màu,
cô luôn đeo một chiếc thắt lưng giống như
chiếc áo dài do các y tá cho mượn. Cô ấy có
một vẻ ngoài kỳ lạ, cô ấy lảng đi ngay khi
chúng tôi đến gần cô ấy hoặc cô ấy thì thầm
giữa hai hàm răng, làm động tác đuổi ruồi.
Để khiến cô ấy nói chuyện với tôi, trong
căng tin của bệnh viện, tôi đưa cho cô ấy
khay và dao nĩa, tôi giữ lại món tráng miệng
của mình cho cô ấy. Dần dần, lớp băng bị
phá vỡ. Chúng tôi cùng nhau hút thuốc
gypsies, nhai kẹo chua, tôi mượn cô ấy cặp
kính đen, cô ấy đi đôi dép của tôi, chúng tôi
tay trong tay đi dạo, mũ bảo hiểm walkman
đến tai, chúng tôi lục lọi trong các kệ của
thư viện phương tiện, chính xác một cách
vu vơ, chỉ để tiêu diệt sự nhàm chán, chúng
tôi thậm chí không đọc báo, chúng tôi dán
bong bóng, chúng tôi lơ lửng trong quả cầu
tưởng tượng của mình để áp đặt sự im lặng
đối với nỗi sợ hãi bên ngoài. Đó là mùa hè,
sự nhàn rỗi này có lợi cho chúng tôi. Chúng
tôi chỉ uống thuốc, ngủ cho thỏa thích, trốn
tránh thực tại. Liệu pháp nhóm phản tác
dụng, chúng tôi cũng thô lỗ không kém,
chúng tôi không nói gì với những chiếc áo
choàng trắng, nhưng chúng tôi thì thầm
những bí mật với nhau. Cô đã có một đứa
con trai chết lưu. Nỗi đau buồn này đã khiến
cô ấy rơi vào tình trạng suy sụp đến mức cô
ấy phải nằm trên giường suốt ba tháng mà
hầu như không ăn uống gì. Khi nhập viện,
cô ấy yếu đến mức phải truyền dịch. Cô ấy
chỉ ăn rau và đồ ngọt, không bao giờ ăn thịt,
nướng hoặc phủ nước sốt. Con trai của ông
được gọi là Emmanuel. Trong những lúc
hoàn toàn bế tắc, cô ấy nói về anh ấy như
thể anh ấy còn sống: “Vào lúc mười một
giờ, tôi phải đưa cho Emmanuel chai rượu”;
"Emmanuel tăng cân rồi, bây giờ nó là một
đứa trẻ mũm mĩm"; “Emmanuel có tàn
nhang giống tôi”; “Chiều nay tôi sẽ mua áo
liền quần cho Emmanuel”; “Emmanuel vặn
vẹo và lắc lư khi tôi cù anh ấy”… Rồi, khi cô
ấy ngã từ trên đỉnh núi xuống, tuyệt vọng
méo miệng, nức nở nghẹn ngào, cô ấy vặn
vẹo cánh tay, không thể nguôi ngoai, thậm
chí đôi khi, vào giữa bữa tối, cô ấy đã gõ
cửa trên ly và đĩa, hú lên như chết tiệt, lăn
trên mặt đất. Những người hộ lý nhét thuốc
an thần vào người cô, sau đó cô trông
giống như người sao Hỏa, mắt lồi ra, dáng
đi lảo đảo, cử động máy móc. Chồng cô
ngày nào cũng đến hỏi thăm cô, nhưng cô
xa lánh anh và lui vào phòng ngay khi thông
báo về chuyến thăm của cô. Cô muốn ly hôn
để xóa đi nỗi buồn trong ký ức.

Tu te serais plu en sa compagnie ; quand elle


était calme, elle avait un halo séraphique, une
voix de velours, une tournure gracieuse. En
bavardant avec elle, j’oubliais que j’étais
atteinte jusqu’aux tréfonds, que beaucoup
d’eau coulerait sous les ponts avant que je ne
me rétablisse. Sous ma double cuirasse
d’obstination et de dédain de tout
transparaissaient des vacillements – était-il
encore temps de revenir sur ma décision, de
parer à l’inconvénient de me moinifier ? Je ne
verrais pas incarnées en toi mes
prédispositions artistiques, mes hauts faits
seraient sans profit, puisque je serais seule à
en tirer des bénéfices, mes textes ne
s’orneraient pas d’une dédicace où je te
louerais d’avoir été mon soutien lors de mes
fléchissements, je ne partagerais pas avec toi
les béatitudes paradisiaques ni les peines
dévastatrices, tu ne me stimulerais pas quand
je ferais chou blanc, tu ne m’enseignerais pas
la patience, pour que je me pique au jeu. Tu ne
serais pas là pour me faire fête quand je
rentrerais d’une de ces conférences où j’aurais
affronté un public d’une tiédeur désolante, pour
influer sur mes écrits en cours, éliminer tout
exotisme de pacotille de mes descriptions,
relever d’un soupçon d’humour mes digressions
cinglantes, pimenter mon verbe de ta verdeur
langagière, faire passer mes paragraphes par
ton gueuloir, insérer des réflexions d’une
grande universalité dans mes créations
subjectives, agrémenter mes essais de citations
appropriées, biffer les scories que par
inadvertance je n’aurais pas nettoyées, bondir
comme un cabri lorsqu’on m’adjugerait une
récompense, prendre mon parti lorsque la
presse m’égratignerait.
Bạn sẽ thích nó trong công ty của mình; khi
cô ấy bình tĩnh, cô ấy có vầng hào quang
thiên thần, giọng nói mượt mà, phong thái
duyên dáng. Trong lúc trò chuyện với cô ấy,
tôi quên mất rằng mình đã bị chạm đáy,
rằng rất nhiều nước sẽ chảy qua cầu trước
khi tôi hồi phục. Bên dưới tấm giáp ngực
đôi của tôi, sự bướng bỉnh và coi thường
mọi thứ lấp lánh - liệu có còn thời gian để
xem xét lại quyết định của tôi, để chống lại
sự bất tiện của việc tự nhận mình không?
Tôi sẽ không nhìn thấy khuynh hướng nghệ
thuật của mình thể hiện trong bạn, những
việc làm vĩ đại của tôi sẽ không mang lại lợi
nhuận, vì tôi sẽ là người duy nhất được
hưởng lợi từ chúng, các văn bản của tôi sẽ
không được tô điểm bằng sự cống hiến mà
tôi ca ngợi bạn vì đã sự hỗ trợ của tôi trong
thời gian tôi sẽ không chia sẻ với bạn
những phước lành trên trời cũng như
những nỗi buồn tàn khốc, bạn sẽ không
kích thích tôi khi tôi thất bại ở đó để làm cho
tôi hạnh phúc khi tôi trở về từ một trong
những hội nghị mà tôi sẽ phải đối mặt với
khán giả là một người hâm mộ buồn bã , để
tác động đến các bài viết của tôi đang được
viết, để loại bỏ bất kỳ chủ nghĩa kỳ lạ rác
rưởi nào khỏi các mô tả của tôi, để khơi dậy
sự nghi ngờ về tính hài hước đối với những
lạc đề gay gắt của tôi, thêm gia vị cho động
từ của tôi bằng sức mạnh ngôn ngữ của
bạn, chuyển các đoạn văn của tôi qua cơ
quan ngôn luận của bạn, đưa những phản
ánh có tính phổ quát lớn vào bài viết của tôi
những sáng tạo chủ quan, tô điểm cho bài
luận của tôi bằng những trích dẫn phù hợp,
gạch bỏ những thứ cặn bã mà tôi vô tình
không dọn dẹp, nhảy như một con dê khi họ
trao giải cho tôi, đứng về phía tôi khi báo
chí cào cấu tôi.

Je sécherais d’isolement : mon microcosme se


limitait à l’exécution d’œuvres pas trop
difformes, ma bibliographie s’étoffait, pendant
que tout me désertait. Fertile en subterfuges
quand il me fallait me garder des jongleries,
j’étais pauvre d’exutoires à mes alarmes. Tu
m’en aurais procuré, tu aurais fait office de
catalyseur de l’inventivité, d’appréciateur de ma
véridicité, de correctif de mes égarements, de
barrière contre le scribouillage. Près de toi,
j’aurais désappris d’exiger des autres plus que
de moi-même, j’aurais été moins désarmée,
moins exposée aux fréquentes crises. C’était te
revêtir d’une thaumaturgie lourde de
retentissements. Tu n’aurais pas été qu’un
appendice de ma personne, mais l’occultiste
sans qui je n’aurais aucun élan de foi, l’arc-
boutant de ces fragiles bâtisses que sont mes
ouvrages. Néanmoins, mes théories
philosophiques en désaccord avec l’injonction
biblique, « Croissez et multipliez-vous »,
l’emportaient sur mes vagues à l’âme : je
n’étais pas capable d’enfanter, j’essayais
vainement de trancher le nœud gordien, je
m’enferrais dans mon propre piège. Je
sacrifiais tout à la littérature, je la sacralisais,
j’avais la conviction que mon sacerdoce
impliquait du renoncement – je ne devais pas
contribuer à la pérennité de l’espèce, jusqu’au
bout je cheminerais en solitaire, les regrets me
feraient escorte, ou peut-être simplement le
déplaisir qu’il y aurait à se décatir sans voir
réunie autour de soi la maisonnée.
Tôi sẽ khô cạn trong sự cô lập: thế giới vi
mô của tôi bị giới hạn trong việc thực hiện
các tác phẩm không quá dị dạng, thư mục
của tôi ngày càng mở rộng, trong khi mọi
thứ đều bỏ rơi tôi. Màu mỡ trong mưu mẹo
khi tôi phải giữ cho mình không tung hứng,
tôi rất kém trong các phương án báo động
của mình. Bạn sẽ cung cấp nó cho tôi, bạn
sẽ đóng vai trò như một chất xúc tác cho sự
sáng tạo, một người đánh giá cao sự trung
thực của tôi, một người sửa chữa những
sai sót của tôi, một rào cản chống lại việc
viết nguệch ngoạc. Ở gần bạn, tôi sẽ quên
đòi hỏi ở người khác nhiều hơn ở bản thân
mình, tôi sẽ bớt bất lực hơn, ít gặp khủng
hoảng thường xuyên hơn. Đó là mặc cho
bạn một phép thuật nặng nề với những hậu
quả. Bạn sẽ không chỉ là một phần phụ của
con người tôi, mà là một nhà huyền bí mà
không có người mà tôi sẽ không có niềm tin
dâng trào, trụ cột của những tòa nhà mong
manh là tác phẩm của tôi. Tuy nhiên, những
lý thuyết triết học của tôi trái ngược với
mệnh lệnh trong Kinh thánh, "Hãy lớn lên và
nhân lên", lấn át những con sóng trong tâm
hồn tôi: Tôi không thể sinh con, tôi đã cố
gắng cắt nút thắt Gordian một cách vô ích,
tôi sẽ rơi vào bẫy của chính mình. Tôi hy
sinh tất cả cho văn chương, tôi biến nó
thành thiêng liêng, tôi tin rằng chức linh
mục của tôi đồng nghĩa với sự từ bỏ – tôi
không nên đóng góp cho sự tồn vong của
giống nòi, đến cuối cùng tôi sẽ bước đi một
mình, hối tiếc sẽ đeo bám tôi, hay có lẽ chỉ
đơn giản là sự không hài lòng ở đó thà
đánh mất mình mà không thấy cả nhà quây
quần bên mình.

Même maintenant que je suis plus paisible, que


les coups de folie sont du passé, j’ai souvent
une pensée pour toi, non parce que je souffre
de ton absence, ni parce que je fais amende
honorable, confessant mes erreurs d’aiguillage,
mais parce que, dans les plis de mon être, tu
fais partie de moi.
Ngay cả bây giờ khi tôi đã bình yên hơn,
rằng những trận đòn điên cuồng đã là dĩ
vãng, tôi vẫn thường nghĩ đến bạn, không
phải vì tôi đau khổ vì sự vắng mặt của bạn,
cũng không phải vì tôi đang sửa đổi, thú
nhận những lỗi lầm của mình, mà vì , trong
nếp gấp của con người tôi, bạn là một phần
của tôi.

Même immatériel, tu imprimes une inflexion qui


favorise un renouvellement de mes thèmes, je
m’avance par degrés vers le parachèvement de
textes que je voudrais d’une fluidité limpide, je
tends à incorporer dans la trame de mes récits,
en contrepoint de mes défausses, des
variations sur les génitrices, bourrelles ou
pacificatrices. Tu m’as aidée à me transcender,
j’ai des audaces qu’avant de me rendre compte
de mes déficiences, je ne me permettais pas.
Je te dois de m’être surmontée, de n’être plus
tout uniment cette imprécatrice tirant à boulets
rouges sur mes prochains, j’ai tenté d’enrichir
mes compositions de subtiles gradations. Au
quotidien, ce ne sont plus les montagnes
russes – les hauts et les bas qui me détraquent
les nerfs se succèdent à un rythme moins
rapide. Depuis que je ne me récuse plus en
évitant d’anticiper, de m’interroger sur les
modifications qui auraient résulté de ta venue
au monde, tu n’es plus pour moi un tourment.
Je ne suis pas totalement en paix avec moi-
même, la rémanence d’une certaine oppression
fait que je ne me chancis pas : je ne suis jamais
rassasiée, repue de ce qui m’est prodigué. Je
t’associe toujours à mon avancement spirituel,
je m’appuie sur toi pour creuser un fossé entre
moi et la moyenne des prosateurs, tu es le
symbole même de mon détachement, non que
je sois un bouddha au-dessus des petitesses,
ni que l’épine enfoncée dans mon cœur ne me
blesse plus, mais tu actives en moi le désir de
me métamorphoser, d’explorer des territoires
neufs, d’approfondir mes analyses
hétérodoxes. Tu m’éveilles à la pluralité des
sensations, tu me libères de mes inhibitions ; je
n’ai jamais eu la prudence de qui se ménage, et
plus j’agis de manière que, si tu avais vu le jour,
tu sois fier de moi, plus je déploie de
l’opiniâtreté dans mes entreprises. Tu participes
à ce que j’ai acquis par ma perfectibilité, si
transitoire soit-elle.
Ngay cả khi không quan trọng, bạn in một
sự thay đổi có lợi cho việc đổi mới các chủ
đề của tôi, tôi dần tiến tới việc hoàn thành
các văn bản mà tôi muốn với một sự trôi
chảy trong sáng, tôi có xu hướng kết hợp
vào khuôn khổ các câu chuyện của mình,
trái ngược với những gì tôi loại bỏ, các biến
thể về tổ tiên, kẻ bắt nạt hoặc người gìn giữ
hòa bình. Bạn đã giúp tôi vượt lên chính
mình, tôi có sự táo bạo mà trước khi nhận
ra những khiếm khuyết của mình, tôi đã
không cho phép mình. Tôi nợ bạn vì đã
vượt qua chính mình, vì không còn đơn
giản là lời nguyền này bắn những viên đạn
đỏ vào những người hàng xóm của tôi, tôi
đã cố gắng làm phong phú các sáng tác của
mình bằng sự chuyển màu tinh tế. Ngày này
qua ngày khác không còn là một chuyến tàu
lượn siêu tốc – những thăng trầm căng
thẳng nối tiếp nhau với tốc độ chậm hơn. Vì
tôi không còn thử thách bản thân bằng cách
tránh đoán trước, băn khoăn về những thay
đổi sẽ xảy ra khi bạn đến thế giới này, nên
bạn không còn là nỗi dày vò đối với tôi nữa.
Tôi không hoàn toàn bình yên với chính
mình, sự dai dẳng của một sự áp bức nào
đó có nghĩa là tôi không khá hơn chút nào:
tôi không bao giờ hài lòng, thỏa mãn với
những gì được ban phát cho tôi. Tôi luôn
liên kết bạn với sự thăng tiến tâm linh của
tôi, tôi dựa vào bạn để đào sâu khoảng cách
giữa tôi và nhà văn văn xuôi bình thường,
bạn chính là biểu tượng cho sự vô tư của
tôi, không phải tôi là Phật trên sự nhỏ mọn,
cũng không phải cái gai chôn vùi tôi trái tim
tôi không còn đau nữa, nhưng bạn kích hoạt
trong tôi mong muốn biến đổi bản thân,
khám phá những lãnh thổ mới, đào sâu
những phân tích không chính thống của tôi.
Bạn đánh thức tôi trước vô số cảm giác,
bạn giải phóng tôi khỏi những ức chế của
mình; Tôi chưa bao giờ có sự thận trọng
của một người tiết kiệm cho bản thân, và tôi
càng hành động theo cách mà nếu bạn
được sinh ra, bạn sẽ tự hào về tôi, thì tôi
càng tỏ ra bướng bỉnh trong các công việc
của mình. Bạn tham gia vào những gì tôi đã
có được thông qua sự hoàn hảo của tôi, tuy
nhiên nó có thể là nhất thời.

A mesure que je mène à terme cette lettre, dont


tu n’es pas l’unique destinataire, car je
m’adresse aussi à toutes celles qui se sont
dispensées de se conformer aux lois de la
nature, je me déleste d’un poids. Tu me
régénères, tu m’es plus proche que jamais, toi
l’enfant que je n’aurai pas. Ces lignes sont une
offrande, tu vogues sur un esquif en papier,
mais pour moi tu n’es pas une fantasmagorie,
tu existes, tu es doué de vie.
Khi tôi hoàn thành bức thư này, mà bạn
không phải là người duy nhất nhận được
thư này, bởi vì tôi cũng đang gửi thư cho tất
cả những người đã từ bỏ việc tuân theo các
quy luật tự nhiên, tôi đã trút bỏ được gánh
nặng . Bạn tái sinh tôi, bạn gần gũi với tôi
hơn bao giờ hết, bạn là đứa trẻ mà tôi sẽ
không có. Những dòng này là một lời đề
nghị, bạn chèo thuyền trên một chiếc
thuyền giấy, nhưng đối với tôi bạn không
phải là một điều viển vông, bạn tồn tại, bạn
được ban tặng cuộc sống.
Juin 2010

You might also like