Professional Documents
Culture Documents
Thư G I Đ A Con Không Bao Gi Có - Linda Lê
Thư G I Đ A Con Không Bao Gi Có - Linda Lê
Thư G I Đ A Con Không Bao Gi Có - Linda Lê
: anguleux comme
ceux de mon père ou flous comme ceux de cet homme, S., que j’ai aimé cinq ans durant, avec une étonnante constance, et qui
me disait avoir la fibre paternelle ?
Con, đứa trẻ mà ta sẽ không bao giờ sinh ra, ta tự hỏi rằng con sẽ như thế nào nếu ta sinh ra con vào một ngày nào đó: gương
mặt cuar con sẽ góc cạnh như của cha hay mềm mại như của người đàn ông đó, ông S, người mà ta đã yêu 5 năm với một sự
kiên định đáng kinh ngạc và người đã nói với ta rằng ông ấy có tố chất của người cha?
Mon épanouissement, à l’en croire, passait par l’enfantement, être mère m’aurait apporté la sérénité qui me faisait défaut.
J’aurais franchi un cap, bazardé. J’aurais franchi un cap, bazardé l’attirail du scepticisme, renquillé mes postulats péremptoires,
prisé les demi-teintes, diapré mes matins blêmes.
Ông ấy tin rằng sự trọn vẹn của ta là quá trình sinh nở, rằng được làm mẹ sẽ cho ta một sự trọn vẹn thanh thản mà ta không
có. Ta đã có thể bước thêm một bước, vứt bỏ những vật dụng của chủ nghĩa hoài nghi, dập tắt những định đề độc đoán của
bản thân, đánh giá cao các bán sắc, tô điểm cho những buổi sáng nhợt nhạt của mình.
J’avais avec S. de longues conversations et de brèves disputes d’où il ressortait toujours que j’avais tort de persister à ne pas
me perpétuer. À ses syllogismes sur la maternité, condition première de la complétude d’une femme, j’opposais des arguments
tirés des précis aphoristiques lus, relus, cochés et annotés :
Dans un monde qui court au désastre, la procréation est un crime, occulter le nonsens de l’aventure terrestre en attribuant à sa
postérité la vertu de pallier ses propres ratages, c’est faire preuve d’aveuglement.
Ta đã có những cuộc trò chuyện dài và cả những cuộc tranh luận ngắn ngủi với ông S mà từ đó thể hiện rằng ta đã sai khi cố
chấp không tiếp tục duy trì nòi giống của mình. Theo cách lập luận có tình chất hình thức của ông ấy về tình mẫu tử, việc sinh
con là điều kiện đầu tiên về sự trọn vẹn của một người phụ nữ, ta đã phản đối những lập luận được rút ra từ những câu cách
ngôn được đọc đi, đọc lại, kiểm tra và chú thích kỹ lưỡng:
“Trong một thế giới hướng đến những thảm họa, thì sinh nở là một tội ác, để che dấu sự vô nghĩa của cuộc phiêu lưu trần thế
bằng cách gán cho hậu thế của họ đức tính bù đắp cho những thất bại của chính mình là thể hiện sự mù quáng”.
Me répondrais-tu que ce sont là des paradoxes de négateurs systématiques ? Je me flattais d’être lucide et de nager à contre-
courant, je taxais S. de conformisme : étionsnous donc un de ces couples pour qui, une fois l’exaltation des commencements
assoupie, la seule perspective délicieuse est de pouponner et de s’émerveiller devant la précocité de sa progéniture ?
Bạn có thể trả lời ta rằng đó là những nghịch lý của những người từ chối có hệ thống? Ta tự hào rằng bản thân mình minh
mẫn và không đi theo số dông, ta cho rằng ông S theo chủ nghĩa tuân thủ: Liệu chúng ta có phải là một trong những cặp vợ
chồng mà một khi sự tôn vinh của sự khởi đầu ngủ quên, điều triển vọng thú vị nhất là nuông chiều và ngạc nhiên trước sự
phát triển sớm của con mình?
Le moindre balbutiement du petit bonhomme, et nous l’aurions déclaré surdoué, le moindre barbouillage de sa main, et nous
aurions parié qu’il serait un génie : il aurait le talent sans les épreuves qui ont brisé plus d’un artiste.
Chỉ cần một chút nói lắp bắp của nó, chúng ta đã có thể tuyên bố nó có năng khiếu, chỉ cần một vết bẩn nhỏ nhất trên bàn tay
của nó, chúng ta sẽ cá rằng đó là một thiên tài.
Nous, ses parents, nous nous serions saignés aux quatre veines pour qu’il soit vêtu comme un prince, qu’il ait à profusion de
dispendieux jouets, qu’il aille aux sports d’hiver, qu’il passe le mois d’août dans des stations balnéaires à la mode, qu’il
fréquente les meilleures écoles, où il n’aurait pas manqué de progresser, devançant tous ses camarades.
Chúng ta, những bậc cha mẹ, ta sẽ đổ máu đến chết để nó được ăn mặc quần như một hoàng tử, để nó có những món đồ chơi
đắt tiền, để nó chơi các môn thể thao mùa đông, được theo học những ngôi trường tốt nhất, nơi nó không thể không tiến bộ,
vượt lên trên tất cả các đồng đội của mình.
Et même quand nous aurions été déçus dans nos attentes, quand il se serait révélé un gosse tout à fait ordinaire, sans aptitude
particulière, un copieur collectionnant les zéros pointés et bon client des boîtes à bachot, nous lui aurions trouvé des qualités,
telles que la serviabilité et la modestie.
Và ngay khi những kỳ vọng của ta không như ta mong đợi, nó trở thành một đứa hoàn toàn bình thường, không có nỗi năng
khiếu đặc biệt, chỉ là một máy photocopy thu thập những con số không và khách hàng tốt của những chiếc hộp cử nhân, chúng
ta sẽ tìm thấy ở phẩm chất của nó, chẳng hạn như sự hữu ích và khiêm tốn.
Ou même quand il se serait avéré un poseur insolent, un morveux qu’il aurait fallu moucher, nous aurions considéré ses
impertinences comme l’expression d’une saine rébellion : il ne se laissait pas marcher sur les pieds, bien malin qui lui ferait
sentir son pouvoir
Hoặc ngay cả khi nó trở thành một kẻ xấc xược, một thằng nhóc cần phải xì mũi, chúng ta sẽ coi sự xấc xược của nó chỉ là
biểu hiện của một cuộc nổi loạn lành mạnh: nó không cho phép bản thân bị giẫm đạp, một người thông minh sẽ khiến anh ấy
cảm thấy quyền lực của mình.
de noircir le tableau pour justifier ma dérobade. Ce n’est pas être moutonnier que de vouloir engendrer.
Ông S phản đối bức tranh biếm họa của ta về gia cảnh. Ông ấy buộc tội ta làm tối bức tranh để biện minh cho sự tránh né của
mình. Không phải vì không muốn sinh con nên ta mới ngượng ngùng. Sự non nớt là gốc rễ của quyết tâm vô trùng của bản
thân:
Mon immaturité est à l’origine de ma résolution de rester stérile : j’ai peur d’endosser les conséquences d’une sublimation de
mes instincts mortifères, de ne plus être gouvernée par Thanatos qui m’entraîne vers un confortable néant, où je ne serai
comptable de rien :
Ta sợ phải gánh chịu hậu quả của một sự thăng hoa bản năng đầy chết hóc của mình: là gốc rễ của việc không còn bị chi phối
bởi Thanatos, kẻ đã kéo ta đến một cõi hư vô dễ chịu, nơi mà ta sẽ không phải chịu trách nhiệm về bất cứ điều gì:
Je serai toujours la fille, libre d’entraves, et non la mère aux multiples obligations, je n’aurai pas pris le risque de lézarder mon
image en ayant un fils qui, avec le temps, en serait peut-être venu à désavouer chacune de mes actions.
Ta sẽ mãi là cô gái, thoát khỏi xiềng xích và không phải là là người mẹ với nhiều nghĩa vụ, ta sẽ không mạo hiểm làm tổn hại
hình ảnh của mình khi có một đứa con trai mà nó có thể sẽ từ chối từng hành động của ta theo thời gian.
Avoir un enfant m’aurait contrainte à m’assouplir, moi qui étais toute d’un bloc, rejetais quiconque heurtait mes certitudes,
faisais montre d’un schématisme outrancier quand nous abordions le chapitre de la filiation. Je prétendais ne pas me leurrer sur
les liens du sang, je tenais les antiennes natalistes pour des attrape-nigauds :
Việc có con sẽ buộc ta phải thư giãn, bản thân ta là một người cứng rắn, sẽ phản chối bất cứ ai xúc phạm lòng kiên định của
mình, đã cho thấy một sơ đồ kỳ quặc khi chúng ta tiếp cận phần huyết thống. Ta giả vờ không tự lừa dối mình về quan hệ
huyết thống, tôi xem những câu ca dao của người theo chủ nghĩa tự nhiên là những cái bẫy:
un individu qui se respecte ne se glorifie ni de son ascendance ni de sa descendance. S. objectait que mon vœu était d’être une
autarcique, se suffisant à elle-même, cherchant dans des traités nocifs des thèses en faveur de ma déviance, car je répugnais à
être coulée dans le même moule que la plupart, à suivre l’itinéraire tout tracé, non par un salutaire esprit de révolte, mais parce
que je n’étais pas sortie de l’adolescence.
một các nhân tự trọng không khoe khoang về tổ tiên cũng như dòng dõi của mình. Ông S phản đối rằng ước muốn của ta là trở
thành một kẻ tự cung tự cấp, tự lấp đầy bản thân mình , tìm trong các luận thuyết độc hại cho các luận điểm có lợi cho sự lệch
lạc của ta, bởi vì ta miễn cưỡng bị đúc theo một khuôn mẫu như số đông, để đi theo lộ trình đã được vạch sẵn, chứ không phải
vì tinh thần chào đón cuộc nổi dậy, mà là vì tôi chưa hết tuổi thanh xuân.
En ce temps-là, j’étais ballottée entre un inextinguible besoin de me distinguer et une ravageuse tendance à l’autodérision, je
souhaitais être tranchante, mais je doutais tellement de moi que je faisais chaque nuit des cauchemars où j’échouais aux
examens. Je balayais tout ce qui semblait définitif, comme si seul l’éphémère me préservait des déconvenues.
Ngay lúc đó, tôi bị giằng xé giữa nhu cầu không thể dập tắt là phải phân biệt bản thân và xu hướng tàn phá là tự chế giễu bản
thân, tôi muốn trở nên sắc sảo, nhưng lại nghi ngờ bản thân đến nỗi đêm nào tôi cũng gặp ác mộng việc mình thi trượt. Tôi
gạt đi mọi thứ dường như là cuối cùng, như thể chỉ có sự phù du mới bảo vệ tôi khỏi những thất vọng.
Tout devait demeurer à l’état rudimentaire, ce qui prenait corps m’effrayait, ce qui aboutissait me rapprochait de l’âge adulte,
que je me représentais grevé de dépendances nombreuses : c’est vieillir que de s’assurer des affections en contrepartie de
misérables ménagements.
Mọi thứ phải ở trong trạng thái thô sơ, những thứ hình thành khiến ta sợ hãi, những thứ thành công đưa ta đến gần tuổi
trưởng thành hơn, điều mà ta tưởng tượng là phải gánh chịu nhiều phụ thuộc: là già đi để đảm bảo với chính mình về tình cảm
bằng cách đổi lại những sự xem xét khốn khổ.
Je chérissais ma solitude, ma chaloupe de sauvetage, mais je ne désespérais pas de rompre mon esseulement, je faisais deux
pas en avant et trois en arrière, mon introversion m’inclinait à la froideur, toute effusion me paraissait grotesque, les caresses,
les hypocoristiques, les débordements
Ta trân trọng sự cô đơn của mình, chiếc phao cứu sinh của mình, nhưng ta không phá vỡ sự cô đơn ấy một cách tuyệt vọng, ta
tiến hai bước và lùi ba bước, bản tính hướng nội của ta khiến ta trở nên lạnh lùng, bất kỳ sự biểu lộ nào đối với ta sẽ đều kỳ
cục, những cái vuốt ve, những lời đạo đức giả và những cái vuốt ve, sự biểu lộ dịu dàng cần phải tránh.
Mes parents de toute façon en étaient avares. Ma mère n’avait jamais un geste affectueux, mon père s’exemptait de
démonstrations d’amour, comédies indignes de lui, si peu communicatif. Hormis les moments où ma mère, s’oubliant,
explosait en vitupérations parce que tout lui paraissait aller de travers, la retenue était de règle à la maison. Mon père, s’étant
toqué d’une femme qui le tenait en piètre estime, noyait dans l’alcool ses froissements.
Dù sao thì cha mẹ ta cũng keo kiệt với những điều đó. Mẹ ta không bao giờ có một cử chỉ âu yếm, cha ta thì miễn cưỡng thể
hiện tình yêu, những vở hài kịch không xứng đáng với ông, nó rất ít giao tiếp. Ngoại trừ có những lúc mẹ ta, bà bùng nổ cơn
giận dữ vì mọi thứ đi sai hướng mà quên cả bản thân mình, thì trong nhà sự kiềm chế là quy tắc. Cha ta, cũng vì đã thích một
người phụ nữ coi thường ông, nên đã chìm đắm trong men rượu.
Ma mère, lançant feu et flammes, se contenait pour ne pas grognonner. Les repas se déroulaient dans une atmosphère guindée,
ma mère rappelait mes trois sœurs et moi à la bienséance, quand elle observait un laisser-aller chez nous, quand, à peine à
table, nous nous ruions sur les plats comme une nuée de sauterelles.
Mẹ ta, như lửa và cháy, kiềm chế bản thân dế không gầm thét. Bữa cơm diễn ra trong không khí ngột ngạt, mẹ nhắc nhở ba chị
em và tôi phải lễ phép, khi bà nhận ra trong nhà luộm thuộm, khi chưa kịp ngồi vào bàn bọn ta đã lao vào ăn như bầy châu
chấu.
Entre nous, nous la surnommions « Big Mother », et chaque fois que l’une de nous quatre faisait une bêtise, les autres
s’écriaient à l’unisson : « Attention, Big Mother te regarde ! »
Trong số bọn ta đã đặt biệt danh cho bà ấy là “Big Mother”, và bất cứ khi nào một trong bốn người bọn ta gặp rắc rối, những
đứa còn lại sẽ đồng thanh hét lên “ Coi chừng, “Big Mother” đang nhìn mày đấy!”
Et Big Mother nous inculquait des maximes puritaines, nous prémunissait contre les dévergondages et les lectures corruptrices,
contre l’onanisme, cette pratique de futures traînées, contre les beaux discours des tentateurs qui se feraient une joie de
suborner de calamiteuses gourdes dans notre genre, contre l’influence des camarades émancipées, au parler cru.
Và Big Mother đã dạy chúng tôi những châm ngôn của đạo Thanh giáo, bằng lời nói thô thiển bà cảnh cáo chúng tôi chống
lại sự phóng đãng và tiểu thuyết đồi trụy, chống lại sự cuồng dâm, rằng những tập tục này của những con đĩ tương lai, chống
lại những bài phát biểu hay của những kẻ cám dỗ, những kẻ sẵn sàng mua chuộc những quả bầu tai hại như của chúng ta,
chống lại sức ảnh hưởng của những người đồng chí được giải phóng.
Alors qu’elle s’habillait avec une coquetterie voyante, elle nous défendait les toilettes trop osées, il nous fallait porter des
corsages aux manches longues, boutonnés jusqu’au cou, et d’amples jupes qui cachaient nos formes. Malgré nos efforts pour
être à la page, pour ne pas ressembler à des nonnes ou à des grands-mères coincées, nous étions, avec nos robes grisâtres, aussi
irrésistibles que des guenons. Big Mother surveillait de près nos allées et venues, nous n’avions pas le droit de nous inviter à
des surprises-parties, d’apprendre à danser (les gigotements au son de l’infernale musique rock sont des indécences), d’écouter
des disques de crooners (ils induisent à la langueur et au relâchement, premier pas vers la perdition), de consigner nos
impressions dans un journal intime (c’est une coupable complaisance, et nous en aurions profité pour dire pis que pendre
d’elle).
Trong khi bản thân ăn mặc sặc sỡ, bà ấy lại cấm chúng tôi ăn mặc quá hở hang, phải mặc áo dài tay, cài khuy đến tận cổ, váy
che kín cả người. Dù cho bọn ta nỗ lực bao nhiêu để trở nên hợp thời, để không trông giống như những nữ tu hay những bà cô
cổ hủ, thì ta không thể cưỡng lại được như những con khỉ. Big Mother theo dõi sát sao việc đi lại của bọn ta và ta không được
phép rủ nhau vào những bữa tiệc bất ngờ, vào học khiêu vũ( rung rinh theo âm thanh của nhạc rock địa ngục là không thanh
nhã hay nghe các bản ghi âm của kẻ hát rong( chúng tạo ra sự yếu đuối và buông lỏng, (bước đầu tiên hướng tới sự diệt
vong), để ghi lại những ấn tượng của chúng tôi trong một cuốn nhật ký( đó là một sự tự mãn đáng trách, và bọn ta sẽ tận dụng
cơ hội để nói điều tồi tệ hơn là bám lấy bà ta)
Nous n’avions pas le droit de nous occuper de poésie (les belles lettres ne sont faites que pour des losers, opprobres de la
société). Nous n’avions guère plus le droit de nous adonner à la peinture : c’est un ornement de luxe, une perte de temps pour
qui est un partisan du matérialisme. Il nous était aussi interdit de dévoiler notre anatomie à la plage (pas de pose provocante !),
de courir pieds nus sur le sable (un peu de tenue !), de nous exposer au soleil (seules les filles de rien ont la peau tannée), de
nous ébattre dans l’eau (seules de vulgaires galopines s’exhibent ainsi). Coiffées de larges chapeaux, assises sous un parasol,
nous scrutions l’horizon, il n’y avait rien d’autre de convenable à faire. Nous avions encore moins le droit de traîner dans les
rues, d’aller dans les cafés, de feuilleter des magazines, car s’y étalent les débauches des modern girls.
Bọn ta không có quyền quan tâm đến thơ( Văn hay chỉ dành cho những kẻ thất bại, những kẻ ô nhục của xã hội). Ta không có
quyền cống hiến hết mình cho hội họa: nó là một vật trang trí xa xỉ, là một sự lãng phí thời gian đối với bất kỳ ai là một người
theo chủ nghĩa duy vật
Bọn ta cũng bị cấm để lộ cơ thể trên bãi biển( vì không được tạo dáng khiêu gợi!), cấm chạy chân trần trên cát( vì cách ứng
xử!), không được phơi mình dưới nắng( vì chỉ những cô gái không ra gì mới có làn da rám nắng!), không được vui đùa trong
nước( vì chỉ những phi nước đại thô tục với thể hiện bản thân theo cách này!) . Nhưng chúng ta chẳng có việc gì tử tế hơn để
làm ngoài đội mũ rộng vành, ngồi dưới dù che nắng, nhìn về phía chân trời. Thậm chí ta còn ít có quyền lang thang trên phố,
đến quán cà phê, cấm lướt qua các tạp chí, bởi sự đồi trụy của các cô gái hiện đại được trưng bày ở đó.
Big Mother veillait à ce qu’aucun vice rédhibitoire n’entache notre moralité, et c’était, disait-elle, le tonneau des Danaïdes,
parce que nous étions foncièrement mauvaises. Si elle n’avait été la sévère gardienne de nos mœurs, nous aurions depuis
longtemps roulé dans la fange, si elle nenous avait empêchées d’imiter les affranchies, nous aurions été des voyoutes de la pire
espèce.
Big Mother đảm bảo rằng không có tật xấu nào làm hoen ố đạo đức của chúng tôi và theo bà, đó là nòng súng của nhà
Danaides, bởi vì về cơ bản bọn ta không tốt đẹp gì. Nếu và ấy không phải là người bảo thủ với đạo đức của ta, thì bọn ta đã
lăn lộn trong vũng bùn từ lâu rồi, nếu bà ấy không ngăn cản ta bắt chước phụ nữ tự do thì bọn ta đã là những tên lưu manh tồi
tệ nhất.
Elle dissimulait soigneusement qu’elle s’était trouvée enceinte de ma sœur aînée avant le mariage. Nous aurait-elle fait cette
confidence que nous aurions jugé ce mystère plutôt touchant, mais elle était comme tous les donneurs de leçons : elle tirait un
voile sur ses écarts passés en prenant des airs vertueux. Dès qu’elle s’était rangée, elle s’était muée en championne des valeurs
bourgeoises.
Là bọn giấu kỹ chuyện chuyện chị cả có bầu trước ngày cưới. Nếu chị ấy tâm sự với bọn ta, ta sẽ thấy bí mật này hơi cảm
động, nhưng chị ta giống như tất cả những người đưa ra những bài học: cô ấy đã kéo tấm màn che đi những sai lệch trong quá
khứ của mình bằng các ra vẻ đạo đức. Ngay sau khi ổn định cuộc sống, cô đã biến thành nhà vô địch của những giá trị tư sản.
Pas un préjugé qu’elle n’érigeait en loi, pas un sermon dont elle nous faisait grâce, pas un qu’endira-t-on qu’elle ne redoutait,
et puisque nous étions du sexe prétendument faible, puisque notre père était trop coulant, elle se devait de nous réformer. Big
Mother nous corrigeait à coups de badine lorsqu’elle découvrait dans nos cartables des billets écrits par des garçons.
Không một định kiến nào mà bà không dựng thành luật, không một bài giảng nào bà tha thứ cho chúng tôi, chẳng có điều gì
nói được rằng bà không sợ hãi và chính vì bọn ta thuộc phái yếu, chính vì cha của ta quá mít ướt, nên bà ấy đã phải chấn
chỉnh lại bọn ta. Big Mother đã sửa lỗi bọn ta dùng những cú đánh bằng gậy khi bà ấy phát hiện những tờ ghi chút được viết
bởi các cậu trai trong cặp của bọn ta.
Nos amourettes étaient le signe que nous ne tarderions pas à tomber dans la licence : on commence par faire des yeux doux aux
mâles, et on finit par avoir le diable au corps, on commence par griffonner des bafouilles sentimentales et on finit par se livrer
au premier venu. Elle se plaignait souvent de notre ingratitude
Những chuyện tình của ta là một dấu hiệu cho thấy bọn ta sẽ sớm trở nên phóng đãng(bừa bãi): bạn bắt đầu để mắt đến đàn
ông, và kết thúc với con quỷ trong người, ta bắt đầu bằng cách viết nguệch ngoạc lời lầm bầm tình cảm và cuối cùng bạn đã từ
bỏ chính mình trước tình cảm đầu đời. Sự phóng túng ấy thường phàn nàn về độ vô ơn của chúng ta.
Au lieu de lui être redevables de nous avoir épargné les déboires que nous auraient valu nos dévoiements, nous avions un
comportement de petites sournoises d’une docilité feinte, de sans-souci sur qui les réprimandes glissaient comme l’eau sur les
plumes d’un canard. Notre père n’était pas un modèle pour nous : depuis sa jeunesse dissipée, il avait pris le pli de se pinter et
de flamber au jeu, d’aller en douce faire la bombe. Si ce n’était pas elle qui tenait les cordons de la bourse, l’argent du ménage
se serait évanoui en fumée.
Thay vì mang ơn bà ấy vì đã giúp bọn ta tránh khỏi những thất vọng mà những sai lầm của bọn ta đã gây ra, nhưng ta lại có
cách cư xử của những cô bé lém lỉnh với vẻ giả vờ ngoan ngoãn, vô tư trước những lời khiển trách như nước đổ đầu vịt. Cha
của ta không phải là hình mẫu cho bọn ta: từ khi còn trẻ, ông đã tự dằn vặt bản thân và nổi lửa trong trò chơi, lén lút chế tạo
bom. Nếu không nhờ bà ấy không giữ dây ví, thì tiền trong nhà đã tan thành mây khói.
J’avais quatorze ans, des concepts plein la tête, une assez grande méconnaissance des choses de la vie, une sorte de flottement
qui me rendait perméable à toutes les suggestions. J’approuvais les aperçus des uns, plus avertis que moi, pour les répudier
quand d’autres énonçaient des opinions moins catégoriques, qui me laissaient le loisir de les réfuter, même si je n’avais pas la
langue déliée. En général, j’oscillais entre une extase immaîtrisable et un dégoût de tout, j’avais une sensibilité à fleur de peau,
une défiance bien ancrée, contrebalancée par une ingénuité sporadique qui, d’après Big Mother, était le paravent d’une
perversité sous-jacente, perceptible dans mes dissertations, où se lisait mon hostilité envers elle. Rien qu’en les parcourant, elle
pressentait que, de façon détournée, je tentais de ruiner son crédit
Khi ta mười bốn tuổi, trong đầy rẫy những khái niệm, một sự mù mờ về những điều của cuộc sống, một loại giao động kiến ta
thấm nhuần mọi ý tưởng. Ta tán thành những hiểu biết sâu sắc của một số người hiểu biết nhiều hơn mình, để bác bỏ chúng khi
những người khác bày tỏ ý kiến ít phân loại hơn, điều này đã cho phép ta tự do bác bỏ chúng, kể cả khi chúng ta không được tự
do lên tiếng. Nói chung, bọn ta bị giao động giữa trạng thái ngây ngất không thể kiểm soát và sự ghê tởm đối với mọi thứ, ta có
một sự nhạy cảm sâu sắc, một sự ngờ vực sâu xa, được đối trọng bởi một sự khéo léo rời rạc, mà theo Big Mother, là bức bình
phong của một sự đồi bại tiềm ẩn, có thể nhận thấy được nó trong các bài luận của mình, nơi có thể đọc được sự hận thù của ta
đối với bà ấy. Chỉ cần nhìn qua chúng, bà ấy đã cảm thấy rằng ta đang cố hủy hại sự tín dụng của bà ta.
Déjà, à l’époque, je me jurais de ne jamais être mère, pour ne pas donner à mes enfants l’éducation que j’avais reçue. Mes
sœurs pensaient pouvoir conjurer la fatalité de la répétition, moi, à l’inverse, je craignais de reproduire des mécanismes
d’autoritarisme. Je n’aurais vraisemblablement pas le pharisaïsme de Big Mother, ni sa vénération pour les convenances, mais
mon surmoi serait peut-être tel que, trop commandante, je ne tolérerais aucune négligence, j’imposerais des tabous. Ou alors
j’étais persuadée que je serais une mère exclusive, abusive. Si je devais avoir un enfant, me disais-je, ce serait un fils : ma
féminité me faisait horreur, je ne passais pas devant une maternité sans frémir, le spectacle des femmes enceintes me renvoyait
un miroir dans lequel je ne voulais pas voir se refléter mon avenir
Vào thời điểm đó, ta đã thề sẽ không bao giờ làm mẹ để không mang đến cho các con sự giáo dục mà ta đã nhận được. Những
người chị của ta nghĩ rằng họ có thể tránh được tai họa của sự lặp lại, còn ta thì ngược lại, ta sợ tái tạo những cơ chế của chủ
nghĩa độc đoán. Ta có lẽ sẽ không có sự tự cao tự đại của Big Mother, cũng như sự tôn kính của bà về những chuân mực,
nhưng cái siêu tôi của ta sẽ trở nên quá ra lệnh, ta sẽ không tha thứ, không cẩu thả, ta sẽ áp đặt những điều cấm. Nếu không ta
đã bị thuyết phục rằng ta sẽ là một người mẹ độc quyền, ngược đãi. Nếu như ta sinh ra một đứa con, ta sẽ tự nhủ đó sẽ là con
trai: Sự nữ tính của mình khiến ta kinh hoàng, ta không thể không rùng mình khi đi ngang qua một căn phòng hộ sinh, cảnh
tượng những người phụ nữ mang thai phản chiếu một một hình ảnh mà tôi không muốn nhìn thấy trong tương lai của mình.
Je n’étais pas du tout un garçon manqué, mais la puberté qui s’annonçait me mettait dans des états proches de la consternation,
je guettais les changements physiologiques : je n’étais plus un être asexué, mais une jeune fille formée. Le soir, quand je me
déshabillais avant d’enfiler la nuisette et de me coucher, je ne m’examinais pas dans la glace, comme si mes seins de plus en
plus ronds, mes hanches de plus en plus pleines, me faisaient honte. En cachette, je me bandais la poitrine, j’avais la fantaisie
de conserver une silhouette d’androgyne et une allure de bohémienne, peu importait si pour Big Mother j’étais un laideron.
Ta chẳng phải một cô nàng tomboy, nhưng tuổi dậy thì đến đã khiến bản thân suýt kinh hoàng, ta theo dõi những thay đổi sinh
lý: ta không còn là một sinh vật vô tính nữa, mà là một cô gái trẻ trưởng thành. Vào buổi tối, khi ta đang cởi quần áo trước khi
mặc đồ để đi ngủ, ta không tự soi mình trong gương, như thể nếu bộ ngực này ngày càng căng tròn, hông ngày càng đày đặn
của mình khiến ta cảm thấy thật xấu hổ. Nên ta đã bí mật bó ngực mình lại, ta thích giữ mình một hình dáng ái nam ái và vẻ
ngoài phóng và nó chẳng là vấn đề gì với Big Mother nếu như ta là một điều xấu xí.
De ses quatre filles, j’étais celle qui correspondait le moins à ses canons esthétiques. Planche à pain, j’avais les cheveux qui
n’ondulaient pas, un front trop bombé, des sourcils mal dessinés, des dents pas du tout éclatantes, des lèvres charnues, indices
d’une sensualité à refréner, une myopie m’obligeant à porter des lunettes aux verres aussi épais que des culs de bouteille, la
dégaine d’une iroquoise qui a avalé son parapluie, bref, selon Big Mother, je faisais bien d’être une bûcheuse, car je n’étais pas
mariable – qui s’intéresserait à moi, promise à un emploi d’institutrice ou de prof de français, insatisfaite et mal rétribuée ?
Trong số bốn người con gái , ta là người ít phù hợp với tiêu chuẩn thẩm mỹ của bà ấy nhất. Thớt bánh mì, ta có mái tóc không
gợn sóng, vầng trán quá tròn, lông mày vẽ xấu, răng không chẳng sáng bóng, đôi môi dày, dấu hiệu của sự nhục dục cần phải
kiềm chế, cận thị buộc ta phải đeo kính có tròng dày như đáy chai, dáng vẻ của một người Iroquois nuốt chửng chiếc ô của
mình, nói tóm lại, theo Big Mother bởi vì bọn ta không thể kết hôn nên tốt hết ta nên làm một người chăm chỉ, người sẽ quan
tâm đến ta, hứa hẹn một công việc gia sư hoặc giáo viên tiếng Pháp, bất mãn và trả kương bèo bọt?
Je m’offusquais de ce mépris pour mes enseignants, sans qui le dressage de Big Mother aurait occasionné un ébranlement.
Aller en classe, c’était lui échapper pour quelques heures, fouiner dans les bibliothèques, c’était amasser des trésors et y puiser,
pas seulement afin de me doter d’une teinture de culture : forte de ces richesses, je me fabriquais une personnalité, je me
blindais contre les méchancetés de celle qui, en tous lieux, se plaisait à nous diminuer, mes sœurs et moi. Elle était la reine,
l’héritière d’une famille de notabilités, qui s’était mésalliée. Nous étions les rejetons d’un déraciné, sans patrimoine, sans
situation, sans relations.
Ta cảm thấy bị xúc phạm bởi sự khinh miệt này đối với các giáo viên của mình, những người mà nếu không có họ thì quá trình
đào tạo của Big Mother gây ra một cú sốc. Khi đến lớp học là trốn tránh được bà ấy trong vài giờ, lục tung thư viện chính là
đang tích lũy những kho báu và rút ra từ chúng, không chỉ để ban cho mình một chút văn hóa: được củng cố bởi những sự giàu
có này, ta đã tạo cho mình một nhân cách, tự bảo vệ mình trước sự xấu xa của kẻ luôn thích hạ thấp bọn ta, các chị em mình và
ta. Bà ấy là nữ hoàng, người thừa kế một gia đình danh giá, đã xáo trộn mọi thứ. Chị em ta là con ghẻ của một kẻ đã mất gốc
gác, không tài sản, không hoàn cảnh, cũng chẳng còn mối quan hệ nào.
Vois-tu, je me perdais parfois en hypothèses sur ce qui serait advenu si j’avais eu un frère. Un fils, elle ne l’aurait peut-être pas
dominé, traité de haut. Mais mes sœurs et moi, nous n’aurions été que des demi-portions à côté de lui, son merle blanc qu’elle
aurait couvé, son diablotin auquel elle aurait passé toutes les coquineries, son Monsieur Je-sais-tout devant qui elle aurait été
une adoratrice, son apollon qu’elle aurait défendu contre les brus castratrices. Le milieu dans lequel elle avait évolué était d’un
machisme moyen âgeux et, alors même qu’elle en avait été la victime, réduite à mettre toutes ses espérances dans une union
valorisante – expectative trompée quand elle lia sa vie à celle de mon père, un déclassé –, elle était une tenante du sexisme,
d’autant plus contrariée que son mari n’était pas de sa condition et qu’elle ne s’élèverait pas socialement grâce à lui. Un fils
lui aurait permis de se revancher de tous ceux qui l’avaient bêchée.
Bạn thấy đấy, đôi khi ta bị lạc lối giữa những giả thuyết về điều gì sẽ xảy ra nếu ta có một người anh trai. Một người con trai,
được lo từ trên xuống dưới. Nhưng chị em bọn ta, chúng ta cũng sẽ chỉ là những người nhỏ bé bên cạnh anh ấy, con chim két
của bà ta mà sẽ sinh ra, con ác quỷ mà bà sẽ dành tất cả sự tính quái, người đàn ông biết tuốt của bà, người mà lẽ ra bà phải tôn
thờ, thần Apollo, người sẽ bảo vệ khỏi con dâu bị thiến. Môi trường mà bà ấy đã tiến hóa là của một người đàn ông trung niên
và mặc dù cô ấy là nạn nhân của ông ấy nhưng bà đã giảm tất cả hi vọng của mình trong một cuộc hôn nhân xứng đáng - là
một sự kỳ vọng bị lừa dối khi bà gắn cuộc đời mình với cuộc đời của cha ta- một tên hạ cấp, bà ấy ủng hộ việc phân biệt giới
tính, càng đáng buồn hơn khi chồng của bà không ở trong tình trạng của bà và bà ta cũng đã không thăng tiến nhờ vào ông ấy.
Một đứa con trai đã có thể giúp bà trả thù tất cả những người đã khinh thường bà.
Un tardillon sorti de son flanc aurait été aussi brillant, aussi introduit que mes oncles, ses dieux. Elle les citait pour leur
réussite, tout comme ses parents, fâchés qu’elle ne leur arrive pas à la cheville. Ils lui disaient d’être belle et de se taire, lui
lavaient la tête dès qu’elle babillait, lui coupaient ses effets lorsqu’elle se hasardait à émettre un avis. Parce qu’elle était une
fille, ils ne l’encourageaient pas à parfaire son instruction. Même ma grand-mère, qui avait pâti de la misogynie, avait une
conception arriérée de la destinée d’une femme : elle devait selon elle se plier aux usages, sauver les apparences, se préparer,
dès l’âge de douze ans, au mariage, en se préoccupant avant tout d’être, dans le futur, une ménagère idéale, parcimonieuse et
féconde. Il n’était pas primordial qu’elle se cultive, elle n’avait qu’à être humble, appétissante, nippée comme une top model,
au fait des recettes éculées pour hameçonner un bon parti, telles que l’ostentation de chasteté, un traditionalisme bien affiché,
un rigorisme mis en vedette.
Một đứa con út nổi lên từ bên bà ấy sẽ được rực rỡ giới thiệu như nhứng người chú của ta, như các vị thần của mình. Bà ấy
khen ngợi bởi sự thành công của các ông ấy như thể là cha mẹ của họ, cũng như tức giận vì không bằng họ. Họ bảo bà ấy phải
xinh đẹp và im lặng, phải gội đầu ngay khi cô ấy nói nhảm, dẹp tắt bỏ sự chú ý của bà khi mạo hiểm bày tỏ ý kiến. Bởi vì bà ấy
là một thiếu nữ, bọn họ không khuyến khích bà ấy làm hoàn hảo trình độ học vấn của mình. Ngay cả bà của ta, vốn mắc chứng
kỳ thị nữ giới, một quan niệm lạc hậu về số phận của người phụ nữ. theo bà, bà phải tuân thủ theo phong tục, giữ gìn vẻ bề
ngoài để chuẩn bị cho hôn nhân từ năm mười 12 tuổi bằng cách lo lắng về việc trong tương lai trở thành một bà nội trở lý
tưởng, tần tiện và đảm đang. Bà không nhất thiết phải trau dồi bản thân, chỉ cần khiêm tốn, trông ngon miệng, ăn mặc như siêu
mẫu, am hiểu các công thức bí mật để câu dẫn một người phù hợp, chẳng hạn như sự phô trương về sự trinh trắng, là thể hiện
tốt một chủ nghĩa truyền thống , một chủ nghĩa khắc khe được chú trọng.
Si, à dix-huit ans, elle n’avait pas la bague au doigt, c’est qu’elle n’était plus bonne à rien. La hantise du célibat forcé avait très
tôt taraudé ma mère. Pour son malheur, disait-elle, elle s’était précipitée dans les bras de mon père. Même si elle avait renversé
la vapeur en portant la culotte, moins par féminisme que par nécessité – car si elle avait épousé quelqu’un qui avait plus de
surface, elle n’aurait pas été une Omphale –, il n’en demeurait pas moins qu’une fissure avait été faite à sa respectabilité. Pour
couronner le tout, elle n’avait que des filles, c’est-à-dire des inutiles à caser à tout prix, des décérébrées qu’il fallait sans cesse
redresser afin qu’elles ne soient pas des proies faciles pour les lovelaces. Elle avait l’expérience et la science infuse, nous
n’étions que des dindes, et sans le corset qu’elle nous avait mis, nous n’aurions pas résisté au chant des sirènes, nous aurions
frayé avec n’importe qui, et alors il n’y aurait plus qu’à faire son deuil de l’alliance avec une famille honorable
Nếu ở tuổi 18, bà ấy không đeo nhẫn trên ngón tay, đó là bởi vì cô ấy không còn tốt cho bất cứ điều gì. Nỗi sợ hãi về cuộc
sống độc thân bó buộc đã dày vò mẹ tôi từ rất sớm. Thật không may, mẹ tôi nói rằng bà đã ném mình vào vòng tay của cha tôi.
Ngay cả khi bà đã đảo ngược tình thế bằng cách mặc quần ống suông, nhiều ít gì cũng vì nữ quyền hơn là vì sự cần thiết - bởi
vì bà kết hôn với người mà có vẻ bề ngoài hơn, bà ấy sẽ không phải là một góa phụ Omphale và sự thật vẫn là một vết nứt đã
được tạo ra trong lòng kính trọng của bà. Sau tất cả, bà chỉ sinh được những đứa con gái, đồng nghĩa với việc những đứa vô
dụng bằng mọi giá phải nhồi nhét, còn bọn không có não phải thường xuyên uốn nắn để chúng không dễ trở thành mồi ngon
cho những gã si tình. Bà ấy có kinh nghiệm và khoa học được truyền đạt, còn mấy chị em ta chỉ là những con gà Tây, và nếu
không có chiếc áo nịt ngực mà bà đã mặc cho, bọn ta sẽ không chống lại tiếng còi báo động, cả bọn sẽ kề vai sát cánh với bất
kỳ ai và rồi sẽ chẳng còn gì ngoài khóc thương của sự giao ước với một gia đình danh giá nào đó.
Toi, l’enfant que je n’ai pas eu, t’aurais-je raconté tout cela si tu étais
né ? Une fois que tu aurais été en âge de comprendre, t’aurais-je parlé
de ces soirées où, la tête sous l’oreiller pour ne pas entendre les fulminations de Big Mother, je déplorais
de n’avoir pas été étouffée dans mon berceau ? Une fois que tu aurais mûri, t’aurais-je fait part des
douloureux souvenirs liés à mes quinze ans, quand Big Mother m’injuriait, me pinçait jusqu’au sang, me
gratifiait de gifles, parce que j’échangeais des lettres avec un lycéen de deux ans mon aîné ? Il jouait de la
guitare et composait des ballades, autant dire qu’aux yeux de Big Mother, il appartenait à une sous-
humanité. Nous avions rendez-vous entre deux cours, nous ne nous embrassions même pas. Mais je me
confiais à lui, et cela suffisait à me faire passer pour une mythomane et une traîtresse qui ne savait pas ce
qu’est laver son linge sale en famille. De plus, il était d’origine modeste : sa mère, veuve, n’était qu’une
retoucheuse en confection, une gagne-petit. T’aurais- je dit qu’il voulait m’enlever ? Qu’il se voyait déjà
vivant avec moi dans une fermette peuplée de nourrissons ? Je n’avais aucun projet de la sorte, cette
correspondance était juste une diversion qui m’arrachait aux serres de Big Mother.
Con, đứa trẻ ta chưa bao giờ có, liệu ta có nói với con tất cả những điều này nếu con được sinh ra ?
Và một khi con đã đủ lớn để hiểu, ta có nói chuyện với con về những buổi tối khi ta vùi đầu dưới gối để
không nghe thấy những tiếng rên rỉ của Mẹ Lớn, ta hối hận vì đã không bị ngạt thở trong nôi?
Khi con đã trưởng thành, liệu mẹ có chia sẻ với con những ký ức đau thương gắn liền với mười lăm năm
thanh xuân của mẹ, khi Mẹ Lớn sỉ nhục ta, véo ta đến chảy máu, tát ta mấy cái tát chỉ vì ta trao đổi thư từ với
một học sinh cấp ba hơn con hai tuổi. ? Anh ấy chơi ghi-ta và sáng tác những bản ballad, nói cách khác, trong
mắt Big Mother, anh ấy là một tiểu nhân. Chúng ta đã có một cuộc hẹn giữa các lớp học, chúng ta thậm chí
còn không hôn nhau. Nhưng ta đã tâm sự với anh ấy, và điều đó đủ để khiến ta giống như một kẻ hoang
đường và một kẻ phản bội không biết giặt quần áo bẩn của cô ấy với gia đình là như thế nào. Ngoài ra, anh ta
có xuất thân khiêm tốn: mẹ anh ta, một góa phụ, chỉ là thợ sửa quần áo, một người có thu nhập thấp. Ta đã
nói với bạn rằng anh ấy muốn bắt cóc ta chưa? Rằng anh ấy thấy mình đã sống với ta trong một trang trại có
trẻ sơ sinh sinh sống? Ta không có kế hoạch như vậy, thư từ này chỉ là một trò đánh lạc hướng để kéo ta ra
khỏi nanh vuốt của Mẹ Lớn.
J’avais soin de ne pas le désillusionner en le prévenant que je n’aspirais pas à être mère, quand bien même
je ne serais jamais comme la mienne, exaspérée par sa marmaille, à bout de nerfs lorsque, quelques années
auparavant, elle avait dû se réveiller la nuit pour langer mes sœurs et leur donner la tétée. Elle ronchonnait
et se repentait à haute voix de ne pas s’être fait avorter. S. soutenait que j’évoquais ces scènes pour excuser
mon attitude, comme si j’avais à me disculper, comme si c’était une faute de n’avoir pas donné la vie.
Ta cẩn thận để không làm anh ấy vỡ mộng bằng cách cảnh báo với anh ấy rằng ta không có nhu cầu làm
mẹ, mặc dù ta sẽ không bao giờ để con giống như ta, tức giận với những đứa con của chính mình, khi kết
thúc sự ràng buộc của ta khi, vài năm trước, cô ấy đã có con. thức đêm thay quần áo cho các chị em của
ta. Cô ấy càu nhàu thành tiếng rằng cô ấy đã không phá thai.
S. khẳng định rằng ta gợi ra những cảnh này để biện hộ cho thái độ của mình, như thể ta phải bào chữa
cho mình, như thể có lỗi vì đã không cho đi sự sống.
Et toi, m’aurais-tu condamnée parce que j’aurais atermoyé, ne cédant que de guerre lasse, sous la
pression exercée par S. ? Aurais-tu tendu l’oreille lorsque je t’aurais dépeint mon affolement à l’idée d’être
en couches ? T’aurais-je infligé ces rabâchages ou aurais-je gardé le silence sur mes valses-hésitations ?
Aurais-je su travestir en enthousiasmes désordonnés mes contradictions ? Aurais-tu perçu, sous ma gaieté
factice, mes obsessions impulsives qui m’auraient poussée à être tantôt trop maternante, tantôt
trop stricte ? Aurais-tu été indulgent quand, tout à la fois, j’aurais tâché de ne pas être possessive et aurais
été, bien involontairement, envahissante ? Moi qui ai la cervelle si peu équilibrée, qui suis souvent
submergée par des angoisses infondées, peut-être t’aurais-je infecté, tu aurais été un instable, sans
communauté d’intérêts avec les gens sensés. Qu’ai-je à transmettre, si ce n’est mon impuissance à être
dans la norme, mes perplexités devant ce qui ravit mes pareils, car pour peu que l’on ne se monte pas la
tête, tout est risible?
Và con, liệu con có trách mẹ vì mẹ trì hoãn, không chịu thua với những cuộc chiến trông mệt mỏi dưới áp
lực của S? Con có lắng nghe khi ta mô tả với con nổi sợ của ta khi nghĩ đến việc sinh con không? Liệu ta
có bắt con chịu những tiếng lải nhải này hay giữ im lặng về những do dự của bản thân? Liệu ta có thể
ngụy trang lời dối lòng của mình bằng sự phấn khởi hỗn loạn không? Liệu con có nhận ra, dưới sự vui vẻ
giả tạo này, những ám ảnh bốc xung đột làm ta đôi khi quá mẫu mực, đôi khi quá nghiêm túc? Liệu con có
khoan dung khi cùng một lúc, ta vừa cố gắng để không bị chiếm hữu, vừa không tự nguyện xâm phạm?
Mẹ, một người bị rối loạn thần kinh bởi những lo âu vô căn cứ, liệu ta có truyền nó cho con và biến con
thành một đứa bất thường bởi sẽ không có ai hứng hú với những người nhạy cảm. Ta đã truyền cho con
điều gì, nếu không phải là sự bất lực của ta trong sự chuẩn mực, sự bối rối của ta trước những điều thích
thú, bởi miễn là tụi ta còn không hiểu nhau, thì mọi thứ đều trở nên nực cười?
Big Mother a détruit le peu d’assurance que j’avais. En tous points je me suis efforcée d’agir à l’encontre de
ses codes de conduite, et je me suis écartée de la voie commune, me confinant dans les marges. Je suis pour
elle l’exemple même de l’insuccès : désargentée, livresque, dépourvue de tout sens pratique, infichue de me
dégoter un mari, nouant des liaisons peu durables, ayant des compagnons qui s’installent dans le provisoire,
des amis insolvables, poursuivant des rêves irréalisables, ne possédant rien que je pourrais assigner à chacun
de mes enfants (heureusement, j’ai quand même eu l’intelligence de ne pas en avoir), je suis une pauvrette
aux prises avec les cruautés du sort, une perdante dans la course aux places, un bouche-trou voué à la
figuration.
Nếu ta có con trai, nó sẽ tốt nhất là một trong những beatnik( thông niên ăn chơi) táo tợn, ngô nghê làm ô
nhiễm cảnh quan, tệ nhất là một kẻ triết học shit và vô gia cư hút cỏ. Nếu ta có con gái, thì tốt nhất nó đã là
một nghiên cứu sinh/ mọt sách vĩnh viễn không có hôn phu, tệ nhất là một nhà nghiên cứu khó tính, không
ngừng thảo luận về giới tính của các thiên thần. Và làm sao ta có thể chu cấp cho sự hoang phí của chúng, ta
là một con ve sầu, phung phí tài sản của mình trong các hiệu sách, ta luôn yêu những kẻ vô trách nhiệm
không có tiền, ta không có một bàng việc ổn định, mà chỉ là một nhà văn viết tiểu thuyết không được chú ý.
Aurais-je eu un fils qu’il aurait été au mieux un de ces beatniks croquignols et ringards qui polluent le
paysage, au pire un fumeur de shit philosophant et se clochardisant. Aurais-je eu une fille qu’elle aurait été
au mieux une éternelle thésarde sans fiancé, au pire une chercheuse insortable, discutant sempiternellement
du sexe des anges. Et comment aurais-je subvenu à leurs prodigalités, moi qui suis une cigale, gaspillant
mon avoir dans les librairies, moi qui tombe toujours amoureuse d’irresponsables sans fortune, moi qui n’ai
pas un métier solide, mais ne suis qu’un écrivain dont les romans ne font pas un tabac ?
Mẹ Lớn đã phá hủy chút ít tự tin mà ta có. Trong tất cả các khía cạnh, ta đã cố gắng hành động chống lại
các quy tắc này, và ta đã đi chệch khỏi con đường chung, tự giam mình bên lề. Đối với bà ấy, ta chính là
tấm gương của sự thất bại: không một xu dính túi, mọt sách, không có chút ý thức thực tế nào, không tìm
được cho mình một tấm chồng, hình thành những mối quan hệ không mấy bền chặt, có con đồng hành tạm
bợ, vỡ nợ, theo đuổi những điều viển vông. những giấc mơ, không sở hữu bất cứ thứ gì mà ta có thể gán
cho mỗi đứa con của mình (may mắn thay, ta vẫn còn trí thông minh để không có bất kỳ thứ gì), ta là một
bà gái nghèo phải vật lộn với sự nghiệt ngã của số phận, một kẻ thua cuộc trong cuộc đua giành vị trí, một
điểm dừng dành riêng để hình. .
Big Mother bénit le Ciel qui ne m’a pas faite mère, car elle aurait eu des
petits-enfants dont elle aurait rougi. Si tu avais des lumières, tu ne serais pour elle qu’un singe savant. Si
tu t’illustrais dans quelque domaine, elle te
collerait aussitôt une étiquette de bluffeur. Si tu ramassais une veste(thất bại),
elle dirait que tu ne l’avais pas volé : tu te haussais du col (khoe khoang) parce
que tu étais frais émoulu de l’université. Si tu l’entourais d’égards, c’est que tu
étais un hypocrite qui lorgnait l’héritage. Si tu n’étais pas cérémonieux, c’est que
tu étais un pedzouille comme mon père. Moi, espèce de romancière tirant le
diable par la queue, j’aurai beau me dépenser, je serai toujours en bas de l’échelle
et mes enfants, emplâtres au seul savoir théorique, rameront pour gagner leur
pain.
Vì sợ mất mặt, MẸ Lớn cầu trời những đứa trẻ không được sinh ra. Đối với bà
ấy,nếu con có ánh sáng, con chỉ là một con khỉ có học. Nếu con nổi bật trong bất
kỳ lĩnh vực nào, bà ấy sẽ sẽ ngay lập tức dán nhãn vô tội vạ. Nếu con bị thất bại,
bà ấy sẽ nói rằng con đã không thổi bay nó: con nghiêm chỉnh vì con mới tốt
nghiệp đại học. Nếu con chú ý tới nó, đó là bởi vì con là một kẻ đạo đức giả đang
để mắt đến tài sản thừa kế. Nếu con không lễ phép, đó là bởi vì con là một người
bán rong giống như cha ta. Ta, một kiểu tiểu thuyết gia bị ma quỷ bám đuôi, dù
ta có nỗ lực bao nhiêu, ta sẽ luôn ở dưới ở dưới đáy xã hội và các con, chỉ biết
bám lấy kiến thức lý thuyết, phải chèo thuyền kiếm cơm.
Elle qui n’avait jamais lu une seule de mes publications, me laissant ainsi toutes
facilités de la portraiturer à son insu, me prédisait de sombres lendemains,
puisque j’avais pris le chemin de la précarité. Un fils aurait pu être mon bâton de
vieillesse, mais le fruit de mes entrailles n’aurait été que de la maudite race des
poètes. Tricard de partout, il ne serait pas un habile brasseur d’affaires, plutôt un
glandeur mangeant de la vache enragée(cuộc sống khổ cực), refaisant le monde
au comptoir des bistrots, certain qu’en jetant un pavé dans la mare, il
provoquerait demain des barricades. Brrr ! Il s’en est fallu d’un cheveu qu’elle ait
pour lignée des trotskistes ! Elle ne me remercierait jamais assez de m’être
abstenue de procréer.
Bà ấy, người chưa bao giờ đọc một ấn phẩm nào của ta, do đó cho ta tất thảy điều
kiện khắc họa bà ấy mà bà ấy không biết, đã dự đoán một tương lai đen tối cho ta, vì
ta đã chọn con đường bấp bênh. Một đứa con trai có thể là chỗ dựa của ta khi về già,
nhưng kết quả từ tử cung của ta sẽ chỉ là dòng dõi thi sĩ đáng nguyền rủa. Vô gia cư
khắp nơi, ông ta sẽ không phải là một nhà sản xuất bia kinh doông thông minh, mà là
một kẻ lười biếng sống khổ cực, làm lại thế giới ở quầy bar, ông ta sẽ làm xáo trộn
mọi thứ, gây ra chướng gại vào ngày mai. ừm! Việc có một dòng dõi những người
theo chủ nghĩa Trotskyist (chống phá đảng)chỉ trong gang tấc! Bà ấy luôn cảm ơn ta
vì đã không sinh con.
Tu me diras que, en dépit des distances mises entre Big Mother et moi,
je ne suis jamais parvenue à couper le cordon ombilical. Je suis toujours cette
collégienne complexée, raide comme un manche à balai devant elle, tremblant de
l’irriter, d’être sa tête de Turc ( nhạo báng, ) : aucun de mes faits d’armes (bà ấy
không hề nhìn nhận bất kỳ một năng lực nào của ta) ne trouvait grâce à ses yeux,
elle s’acharnait à me gâcher mes victoires sur mes paralysies en minorant mes
traits de courage. C’est seulement aux alentours de la trentaine que j’ai pu
vaincre quelque peu ma terreur d’elle. Mes alternatives de surexcitation et
d’asthénie avaient leur source dans mes questionnements sur l’emprise de
Big Mother, combattue en vain.
Con sẽ khuyên rằng dù cho khoảng cách giữa Mẹ Lớn và ta ngày càng lớn, ta
vẫn là con gái ruột của bà. Ta vẫn là bà nữ sinh phức tạp, cứng đờ, ngu ngốc như
cán chổi trước mặt bà ấy, run rẩy chọc tức bà ấy và rồi bị bà ấy nhạo báng: không
một năng lực nào của ta dc bàng nhận trong mắt bà, bà ấy cố phá hỏng chiến
thắng của ta đối với tình trạng tê liệt của ta bằng cách hạ thấp lòng dũng cảm của
ta. Mãi đến tuổi ba mươi, ta mới phần nào vượt qua được nỗi khiếp sợ về bà ấy.
Những lựa chọn phấn khích quá độ và sự suy nhược bắt nguồn từ những câu hỏi
mà Mẹ Lớn tác động, đã chiến đấu vô ích.
S. affirmait que j’étais d’un infantilisme inguérissable et donc pas mûre pour la
maternité. J’en suis encore à quêter l’approbation de Big Mother. J’escompte
toujours qu’elle révisera son jugement, condescendra à me féliciter, reconnaîtra
s’être méprise sur mon compte. Mais elle ne s’est
jamais dédite, même à présent qu’elle est une vieille femme délaissée, faisant
pitié, elle me décoche des sarcasmes : je stagne dans ce qui est pour elle la
médiocrité, avec un vague statut de faiseuse de bouquins, je n’ai pas su retenir
mes amants de passage, même pas S., manchot cachetonnant dans des pièces
expérimentales et qui n’aurait pas eu les moyens d’entretenir les enfants qu’il
voulait de moi.
S. cho rằng ta quá trẻ con và chưa chín muồi để làm mẹ. Ta vẫn đang cầu xin sự
chấp thuận của Mẹ Lớn. Ta vẫn mong bà ấy xem xét lại nhận định của mình, hạ
mình chúc mừng ta, thừa nhận đã hiểu lầm ta. Nhưng bà ấy đã không bao giờ bỏ
cuộc, dù hiện tại bà là một bà già bị bỏ rơi, khiến ta thương hại, nàng vẫn quay
sang mỉa mai ta: Ta trì trệ trong cái mà đối với bà là tầm thường, với cuộc sống
lơ mơ của một nhà xuất bản sác, ta không biết giữ những người tình đã qua của
mình. , thậm chí không phải S., một con chim cánh cụt trốn trong phòng thí
nghiệm và người sẽ không có đủ khả năng nuôi dưỡng những đứa trẻ của chúng
ta.
Aurais-tu été d’accord avec elle quand, au fil des ans, tu aurais constaté que
je n’ai pas la présomption d’une carriériste se hissant au pinacle, l’adresse d’une
accapareuse répandue ? Je courbe le dos quand les vents me sont contraires, je
n’ai rien d’une extravertie ferrée dans l’art de se vendre et de tirer la couverture
à soi. Je t’aurais accoutumé à l’austérité. Sans ressources, je t’aurais privé de
menus divertissements. Lorsque j’aurais été en fonds, je ne t’aurais pas incité à
t’offrir des futilités, mais à te gaver de poésie et de cinéma. Avant d’être mère
j’aurais été une tisseuse d’histoires, affabulant envers et contre tout des intrigues
pour me surprendre moi-même et tenter éperdument de rivaliser avec des
créateurs.
Liệu con có đồng ý với bà ấy khi, trong nhiều năm, con nhận thấy rằng
takhông có tính tự phụ của một kẻ kiếm chác đang vươn lên đến đỉnh cao, sự
khéo léo của một kẻ mua vét phổ biến? Tacong lưng khi gió ngược chiều,
tachẳng có gì là một người hướng ngoại được đào tạo về nghệ thuật để bán mình
cho tư bản và giành nhiều lợi ích. Tasẽ quen sự khắc khổ với con. Nếu không có
điều kiện, tasẽ tước đi những trò tiêu khiển của con. Khi tacòn điều kiện, tasẽ
không khuyến khích con cống hiến những thứ phù phiếm, mà hãy tự nhồi nhét
thơ ca và điện ảnh vào bản thân. Trước khi làm mẹ, tasẽ là người thêu dệt nên
những câu chuyện, bịa đặt những mặt trái và chống lại tất cả những mánh khóe
khiến ta ngạc nhiên và cố gắng hết sức để cạnh trông với những người sáng tạo.
Lui aurais-tu donné raison quand, en grandissant, tu aurais vu en moi une
droguée souffrant d’addiction aux archaïsmes, une hyperémotive qu’un rien
déchire, une tératologue réclamant chaque jour sa dose de bizarrerie, une égotiste
au byzantinisme agaçant, une tourne-pouces se surmenant par à-coups, un auteur
obscur, une abonnée aux flops qui s’en remet grâce à son inconscience ?
Con có cho ông ấy lý do không khi lớn lên, con sẽ nhìn thấy ở tamột con
nghiện ma túy mắc chứng nghiện cổ vật, một người phụ nữ đa cảm không bị
giằng xé gì cả, một bác sĩ quái thai đòi hỏi liều thuốc kỳ lạ mỗi ngày, một người
tự cao tự đại với chủ nghĩa Byzantin khó chịu, một kẻ vặn vẹo ngón tay cái cố
gắng quá mức trong cơn bộc phát, một tác giả ít người biết đến, một người đăng
ký thất bại đang hoãn nó nhờ sự bất tỉnh của bà ấy?
S. disait que j’étais invivable : je le sommais de ne jamais descendre des
hauteurs. Je me contrefichais des contingences du courant ; il était un intermittent
payé avec un lance-pierre, moi à mes heures une chroniqueuse aux maigres piges,
mais même lorsque nous n’avions pas un sou vaillant, je n’admettais pas qu’il
éclate en geignardises, qu’il s’en veuille de s’être fait acteur, d’avoir un goût
immodéré pour les planches, cause de son croupissement dans la gêne. Je
n’admettais pas davantage qu’il entrevoie un mieux dès lors que nous serions
parents : nous ne disperserions plus nos
énergies, mais les concentrerions afin de discipliner nos enfants sans les freiner,
les choyer sans les pourrir, avoir un vrai salaire et leur donner un cadre agréable
en quittant les combles où nous perchions pour un appartement au décor moins
glauque. L’engendrement, lui répliquais-je, n’était pas la solution à nos impasses.
Il regardait par le petit bout de la lorgnette, en présumant trop de sa faculté
d’adaptation. Lui qui avait conquis péniblement son indépendance, détestait être
l’esclave même de sa tribu, il était prêt à tirer sa révérence à la liberté pour se
mettre la corde au cou. Je n’en croyais pas mes oreilles. Nous n’étions pas encore
en guerre ouverte, mais nous avions des duels verbaux, je le poussais à bout, le
prenais à la blague : il voulait un enfant comme un gamin veut un jouet.
S. nói rằng takhó sống cùng: Tađã yêu cầu ông ta không bao giờ đi xuống từ trên
cao. Takhông quan tâm (takhông quan tâm đến những cơn trào lưu ngẫu nhiên)
về những tình huống bất ngờ của hiện tại; ông ấy một người được trả lương
không liên tục ngắt quãng với một cây súng cao su, ta, trong thời gian rảnh rỗi
của talà một người phụ trách chuyên mục ít ỏi, khi rảnh rỗi talà một nhà báo thời
vụ trả tiền bắng số mục ít ỏi. Takhông cho phép ông ấy tỏ ra than vãng, rằng ông
ấy hối hận vì đã trở thành một diễn viên, để có một sở thích quá mức đối với ván
trượt, nguyên nhân khiến ông phải cúi xuống vì xấu hổ. Tacũng không thừa nhận
rằng ông ấy đã nhìn đoán thấy điều tốt hơn khi chúng talàm cha mẹ: chúng tasẽ
không còn phân tán năng lượng của mình nữa mà tập trung chúng để kỷ luật con
cái mà không giữ chúng lại, nuông chiều chúng mà không làm chúng hư hỏng, để
có một đồng lương thực sự và của chúng. và cho chúng một chỗ dựa vững chắc
bằng cách rời khỏi gác mái nơi chúng tađang ngồi để đến một căn hộ với lối
trang trí ít ảm đạm hơn. Tađã đáp sinh sản không phải là giải pháp cho những bế
tắc của chúng ta. Ông ta đang nhìn qua đầu nhỏ của kính viễn vọng, cho rằng khả
năng thích ứng của mình quá cao. Ông ấy đã chinh phục sự tự do, căm ghét thân
phận nô lệ của bộ tộc mình, sẵn sàng cúi đầu trước tự do để treo cổ tự tử.
Takhông thể tin vào tai mình. Chúng tachưa bàng khai chiến trông, nhưng chúng
tađã có những cuộc đấu khẩu, tađã đẩy ông ấy đến giới hạn, coi ông ấy như một
trò đùa: ông ấy muốn một đứa trẻ như một đứa trẻ muốn một món đồ chơi.
Quá bực tức, ông ta biến mất mấy ngày liền. Khi ông ấy trở lại, ông ấy đã
mang theo một đống sách kinh nhật tụng được cho là để cải đạo ta. Do đó, ông ấy
đã bắt tađọc Người phụ nữ không có bóng của Hofmannsthal, trong đó một vị
thần quái gở, kết hôn với một người phàm trần, hòa nhập với con người và đồng
ý trở thành một trong số họ bằng cách có bóng và sinh con. Có rất nhiều điều trớ
trêu trong ý định của S. khi ông ấy đặt câu chuyện vào tay ta, nhưng nếu ý định
của ông ấy là để khai sáng tôn giáo của ta, thì ông ấy đã gặp rắc rối, bởi vì ngay
cả khi tabị quyến rũ bởi văn xuôi của Hofmannsthal, tim takhông đập khi đọc bài
này. Sự mê hoặc của tadành cho Electra, bà con gái đầy thù hận, và Medea,
người mẹ giết trẻ sơ sinh. Takhông nên thú nhận điều này với con: con sẽ tuyên
bố một bản án không thể kháng cáo cho khuynh hướng bệnh hoạn của ta, con sẽ
đau khổ khi đoán rằng sở thích văn học của tabiểu thị sự hấp dẫn bệnh hoạn đối
với những nhân vật cực đoan. Con sẽ chia sẻ quan điểm của S., người mà ngay
sau đó khiến tacó đầu óc vặn vẹo, khuynh hướng hung hăng, cố gắng kìm nén hết
mức có thể mỗi khi ông ấy bắt đầu đối thoại để thuyết phục tasinh con trai đầu
lòng.
Giấu sự giằng xé của mình dưới một sự yên tĩnh giả tạo: sự không muốn có con
của tađôi khi đi đôi với mong muốn sửa chữa những thiệt hại do năm tháng gây ra
bằng cách tìm thấy trong thế hệ một sự đổi mới quyến rủ, tuy nhiên,không từ bỏ
việc trở thành một cổ máy đẻ. S. tìm thấy những tình cảm mà tathiếu thốn thời thơ
ấu của ta, khơi dậy phản xạ phòng thủ. Ông ấy nói, nếu tanằm xuống chiếc ghế dài
của một nhà trị liệu, tasẽ tự thông lọc bản thân khỏi chứng rối loạn thần kinh, tasẽ
chiến thắng bệnh tật. Một phương pháp điều trị phân tích sẽ cứu chữa được ta, tasẽ
trở lại, hòa giải với bản thân và sẵn sàng chiều chuộng con. Nhưng Ông ấy lại
không có 1 xu dính túi, nếu không ông ấy đã gửi tađến một trong những bác sĩ tâm
lý ấy. Nhưng, ông ấy nói lại, tabị tắc nghẽn đến mức không một ống co ngót nào
có thể phá được ổ khóa. Trong những năm đó, đối với ông ấy, talà một trường hợp
bệnh lý, mặc dù tachưa phải đối mặt với chứng rối loạn tâm thần xảy ra sau đó và
khiến taphải nhập viện nhiều lần.
Mê sảng, ta cảm thấy mình là con mồi của một chuỗi thức ăn, của cảnh sát
bắt và khóa tavì tội gạ gẫm và ký sinh, của một đội quân ma hỏi tatại sao takhông
đồng ý mang thai, của các bàng tố viên yêu cầu chống lại ta, kẻ giả mạo. Tabị ảo
giác khủng khiếp, tanghe thấy những giọng nói ra lệnh cho tatự sát, tachạy vào
nhà con bè và bảo họ hãy cẩn thận vì những người chết sẽ chui ra khỏi hầm và
biến họ thành ma cà rồng. Da xông tái, môi nứt nẻ, người run lên từng hồi, talang
thang ngoài đường, đâu đâu cũng gặp chó sói. Những đốt ngón tay đáng sợ đã
chế giễu ta. Dòng sông Seine chở những bào thai đã chết. Chiếc sà lan chở các bà
đỡ đẻ. Sản phụ bị băng huyết, mất hết máu. Tađi bộ cho đến khi kiệt sức, lảo đảo
như một bà già bị hút nước, nao núng trước từng dấu nháy đơn, phân phát tiền xu
cho những người gypsies, biến họ thành gián điệp cải trang. Khi trở lại tầng năm,
tađốt tất cả những gì có thể làm bằng chứng bác bỏ những lời phủ nhận của
mình: bản thảo, thư từ người tình, sổ ghi chép cá nhân chứng minh tội lỗi của ta.
Je brossais de toi une charge telle que S. me faisait « chut ! ». C’en était trop,
j’étais tout le temps dans l’exagération. Il était impossible de colloquer avec moi,
car je poussais les choses au noir, j’étais d’un catastrophisme crispant, je te
taillais un costume dès qu’il envisageait notre cohabitation sous l’angle de
la fertilité, je te déniais l’avantage d’apaiser nos fâcheries, je te contestais le titre
de purificateur des passions, je te reléguais dans les limbes d’où tu n’avais
aucune chance de sortir, et quand S. te parait de quelque excellence, je
minimisais le rôle que tu aurais eu dans notre trio.
Ta đã phớt lờ con đến mức S. đang khiến ta phải “suỵt! “. Điều đó là quá
nhiều, tađã luôn cường điệu hóa mọi thứ. Không thể nói chuyện với ta, vì tađã
đẩy mọi thứ vào đêm , tacăng thẳng thảm khốc, tacắt cho con một bộ đồ ngay khi
ông ấy xem xét việc chung sống của chúng tatừ góc độ sinh sản, tađã từ chối con
lợi thế để xoa dịu cơn giận của chúng ta, tađã thách thức con đối với dông hiệu
người thông lọc đam mê, ta đã xếp con vào tình trạng lấp lửng mà con không có
cơ hội thoát ra, và khi S. đối với con có vẻ là một người xuất sắc nào đó, tađã
giảm thiểu vai trò mà lẽ ra con phải đảm nhận trong bộ ba của chúng ta.