You are on page 1of 38

HỆ THỐNG KIẾN THỨC CƠ BẢN PHẦN VĂN BẢN KÌ I NGỮ VĂN 9

(Tài liệu nội bộ)

A. CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG (Nguyễn Dữ)


I. LÝ THUYẾT
1. Tác giả:
- Nguyễn Dữ sống vào khoảng TK 16, quê Hải Dương. Tương truyền ông là học trò của Nguyễn Bỉnh
Khiêm và bạn học của Phùng Khắc Khoan.
- Là con của một gia đình có truyền thống Nho học. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều,
từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Lớn lên, ông làm quan một năm rồi trở về ở ẩn viết
sách nuôi mẹ già.
- Ông là một trong những tác giả văn xuôi kì tài của nền VHTĐ Việt Nam. Là một người có bút lực già
dặn, sự thông minh, tài hoa đặc biệt ông có một tầm tư tưởng lớn... điều đó khiến cho các tác phẩm của ông
có giá trị cho đến tận bây giờ.
2. Tác phẩm
a. “Truyền kì mạn lục”
- Đại thần Vũ Khâm Lân nhà Lê Trung Hưng ở thế kỷ XVII đã xem Truyền kỳ mạn lục như một
“thiên cổ kỳ bút”.
- Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, thuộc thể loại tản văn, xen lẫn biền ngẫu và thơ ca. “Truyền kỳ mạn
lục” gồm hai mươi truyện, tất cả đều thể hiện một thái độ chính trị và triết lý nhân sinh.
- “Truyền kỳ mạn lục” có nghĩa là ghi chép tản mạn những chuyện lạ lưu truyền trong dân gian, Nguyễn
Dữ đã xây dựng thành công nhiều nhân vật kết hợp với nhiều bối cảnh khác nhau. Tuy nhiên, tất cả đều có
chung tiếng nói và phản ánh một phần bản chất của xã hội phong kiến lúc bấy giờ.
- “Truyền kỳ mạn lục” được lấy cốt truyện từ truyện dân gian và thần tích nhưng kết cấu của tác phẩm
không hề trùng lặp mà có phần phức tạp và phong phú hơn.
- Trong “Truyền kỳ mạn lục”, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả kích hôn quân bạo
chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu
trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn
dật…
b. “Chuyện người con gái Nam Xương”
- Là truyện thứ 16 trong tổng số 20 truyện của “Truyền kì mạn lục”, có nguồn gốc từ tích truyện “Vợ chàng
Trương”
- Tác phẩm thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ
phong kiến đồng thời ca ngợi vẻ đẹp truyền thống của họ.
3. Tóm tắt
Chuyện kể về Vũ Thị Thiết - người con gái quê ở Nam Xương, tính tình nết na thuỳ mị, tư dung tốt đẹp.
- Lấy chồng là Trương Sinh chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính, nàng ở nhà phụng dưỡng mẹ chồng
và nuôi con nhỏ.
- Khi mẹ chồng mất, nàng lo ma chay chu đáo như với cha mẹ đẻ.
- Để dỗ con, nàng thường chỉ bóng mình trên tường và bảo đó là cha.
- Khi Trương Sinh về thì con đã biết nói. Đứa bé ngây thơ kể với Trương Sinh về người đêm đêm vẫn đến
nhà.
- Trương Sinh sẵn có tính ghen, mắng nhiếc và đuổi vợ đi.
- Không tự mình giải được oan, phẫn uất, Vũ Thị Thiết đã ra bến Hoàng Giang tự vẫn.
1
- Một đêm, bé Đản chỉ lên bóng và nói với Trương Sinh đó là người đêm đêm thường đến.
- Giờ đây chàng mới hiểu ra nỗi oan của vợ thì đã muộn.
- Vũ Nương được Linh Phi cứu đưa về động rùa. Ở đây nàng gặp Phan Lang, người cùng làng
- Khi Phan Lang được trở về nhân gian, nàng đã gửi chiếc hoa vàng cùng lời nhắn Trương Sinh lập đàn giải
oan cho mình.
- Trương Sinh lập đàn giải oan cho Vũ Nương.
- Vũ Nương hiện lên giữa dòng cảm ơn Trương Sinh rồi biến mất.
4. Nhân vật Vũ Nương
a. Vẻ đẹp phẩm chất
 Phẩm hạnh tốt đẹp: Ngay từ đầu, Vũ Nương đã được giới thiệu là người con gái “tính đã thùy mị
nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Tác giả đã nhấn mạnh ở phẩm chất đức hạnh của nàng.
=> Vũ Nương mang đầy đủ vẻ đẹp về nhân cách, phẩm hạnh của người phụ nữ phong kiến.
=> Chàng Trương mến vì dung hạnh xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ.
 Người vợ thủy chung
- Trong cuộc sống vợ chồng bình thường, nàng luôn giữ gìn khuôn phép nên dù chồng có tính đa nghi, “đối
với vợ hay phòng ngừa quá sức” nhưng gia đình “chưa từng phải đến thất hòa”.
=> Qua đó thấy được Vũ Nương là người vợ tốt, có cách cư xử khéo léo, biết giữ đạo làm vợ.
- Khi tiễn chồng đi lính, nàng rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa đằm thắm, nàng chẳng
dám mong vinh hiển mà chỉ cầu cho chồng “khi về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Vũ
Nương cảm thông cho những nỗi gian nan, vất vả mà chồng phải chịu đựng nơi sa trường: “Chỉ e việc quân
khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà
mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn
áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình thương người đất thú! Dù có thư tín
nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.” Xúc động nhất chính là những lời tâm tình về nỗi nhớ
nhung trông chờ khắc khoải của Vũ Nương khi xa chồng. Từng nhịp, từng nhịp văn biền ngẫu như nhịp
điệu của trái tim người vợ trẻ khao khát yêu thương, luôn thổn thức lo âu hướng về nơi người chồng. Tấm
lòng của Vũ Nương khiến ai ai cũng phải xúc động.
- Khi xa chồng, Vũ Nương càng chứng tỏ những phẩm chất đáng quý. Nàng một lòng một dạ thủy chung
chờ chồng, nỗi buồn tủi, nhớ thương chồng vò võ, kéo dài qua năm tháng, “mỗi khi thấy bướm lượn đầy
vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.”
- Khi bị nghi oan, Vũ Nương tìm mọi cách để xóa bỏ ngờ vực trong lòng Trương Sinh, mọi lời nói của của
nàng đều một lòng muốn khẳng định tấm lòng và phẩm hạnh chân chính của mình.
 Người mẹ thương con: Vũ Nương là người mẹ hiền, hết lòng nuôi dạy, chăm sóc và bù đắp cho
đứa con nhỏ bị thiếu vắng tình cha. Bằng chứng cho điều này chính là hình ảnh chiếc bóng mà
nàng đã chỉ trên vách và khéo léo gọi đó là cha của Đản.
 Người con dâu hiếu thảo:
- Trong vai trò một người con dâu, nàng tận tình chăm sóc mẹ chồng lúc ốm đau già yếu, nàng lo lắng chạy
chữa thuốc thang, thành tâm lễ bái thần phật, dịu dàng lấy lời ngọt ngào khuyên lơn.
- Lời trăn trối cuối cùng của bà mẹ đã đánh giá cao công lao của Vũ Nương đối với gia đình: “sau này trời
xét lòng lành”, “sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh
kia quyết chẳng phụ con cũng giống như con đã chẳng phụ mẹ”. Mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu trong xã
hội phong kiến vốn phức tạp nhưng với một người con dâu thảo hiền như Vũ Nương, người mẹ Trương
Sinh không thể không yêu mến.
- Khi mẹ chồng mất, nàng đã lo ma chay lễ tế như đối với cha mẹ mình.
2
 Sống trọng tình nghĩa, dịu dàng, nhân hậu, trọng danh dự: Vũ Nương khi được các nàng tiên
cứu giúp, được sống đủ đầy trong cung nước, luôn trân trọng và biết ơn ân đức ấy, nhưng nàng
cũng còn nặng tình nặng nghĩa với quê hương, khao khát được trở về để phục hồi danh dự.
Tiểu kết: Vũ Nương là người phụ nữ nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, thờ kính mẹ chồng, rất mực
hiếu thảo, một dạ thủy chung với chồng, hết lòng vun đắp cho hạnh phúc gia đình. Nàng là người phụ nữ
hoàn hảo, lí tưởng của mọi gia đình, là khuôn vàng, thước ngọc của người phụ nữ. Nàng xứng đáng được
hưởng hạnh phúc trọn vẹn.
b. Bi kịch cuộc đời
 Bi kịch bị chồng hiểu lầm phải tìm đến cái chết oan nghiệt
- Nguyên nhân dẫn đến nỗi oan khuất của Vũ Nương:
+ Trực tiếp: do lời nói ngây thơ của bé Đản
+ Gián tiếp: do bản tính hay ghen, độc đoán, bảo thủ, hồ đồ của Trương Sinh, do lễ giáo phong kiến hà
khắc, nam quyền, người phụ nữ không có quyền tự bảo vệ mình; do cuộc hôn nhân bất bình đẳng; do chiến
tranh phong kiến đã gây nên cảnh sinh lí tử biệt.
- Vũ Nương thanh minh trong bất lực:
+ Ở lời nói thứ nhất: Vũ Nương nói đến thân phận của mình, khẳng định sự chung thủy, nàng cố gắng cứu
vãn, hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.
+ Ở lời nói thứ 2: Vũ Nương bày tỏ nỗi thất vọng khi bị đối xử tàn nhẫn, tình cảm thủy chung, những ngày
tháng đằng đẵng chờ chồng đều bị phủ nhận một cách phũ phàng.
+ Ở lời nói thứ ba, khi đã ở bước đường cùng: Vũ Nương thất vọng đến tột cùng, đau đớn ê chề, cuộc hôn
nhân không còn cách nào hàn gắn nổi. Nàng chỉ còn cách than vãn với trời đất, mượn dòng nước Hoàng
Giang để rửa sạch oan uổng.
- Cuối cùng, nàng đã gieo mình xuống sông như một lựa chọn duy nhất để thanh minh cho mình. Hành
động ấy, lựa chọn ấy là hoàn toàn phù hợp với tính cách của nàng và hoàn cảnh xã hội gò ép người phụ nữ
lúc bấy giờ. Vũ Nương không còn lối thoát, hành động trẫm mình là hành động quyết liệt, chất chứa nỗi
đắng cay nhưng có sự chỉ đạo của lí trí. Tác giả bày tỏ niềm cảm thương đối với tình cảnh ấy của Vũ Nương,
xót thương cho thân phận không thể tự cứu mình khỏi vòng oan nghiệt.
 Được Linh Phi cứu giúp nhưng chỉ có thể trở về trong giây lát rồi vĩnh viễn ra đi.
- Khi mọi chuyện vỡ lẽ, Vũ Nương không còn bị chồng ngờ vực, ghét bỏ, nàng đã được giải oan.
- Yếu tố kì ảo không đủ để khỏa lấp những mất mát mà còn khiến cảnh ngộ bi đát của nhân vật được tô
đậm, ám ảnh hơn. Kết thúc có hậu chỉ có trong thế giới ảo và cuộc trở về của Vũ Nương cũng chỉ là ảo ảnh,
lúc ẩn lúc hiện. Nàng trở về để biết mình đã bị chia cắt vĩnh viễn với gia đình, với hạnh phúc nhân sinh.
Lời tạ từ đau xót của Vũ Nương: “đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa” cho thấy ý
thức của nhân vật về bi kịch của mình, cũng càng làm cho nỗi ân hận của Trương Sinh càng thêm day dứt.
Tiểu kết: Bi kịch của Vũ Nương là lời tố cáo sâu sắc xã hội phong kiến, đồng thời bày tỏ nỗi thương cảm
của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ.
5. Nhân vật Trương Sinh
a. Hoàn cảnh
● Trương Sinh được giới thiệu là con nhà khá giả (hào phú) nhưng thất học:
- Điều kiện sống vốn sung túc nhưng Trương lại là người lười biếng học tập, không có khát vọng công
danh, sớm đã không màn đến việc đèn sách.
- Chính vì không học hành đến nơi nên chàng đã bị gọi đi lính vào hạng đầu.
b. Tính cách
 Gia trưởng, độc đoán, đa nghi hay ghen tuông vô cớ:

3
- Vì mến dung hạnh của Vũ Nương, Trương Sinh đã xin mẹ đem trăm lượng vàng cưới nàng về làm vợ.
Nhưng đối với vợ, Trương Sinh lại “phòng ngừa quá mức”. Dù Vũ Nương hết sức giữ gìn khuôn phép, vợ
chồng chưa bao giờ thất hòa nhưng lại luôn thấy tù túng trong một gia đình thiếu lòng tin tưởng. Có ngờ
đâu chính sự đa nghi của Trương Sinh lại gây ra mối tai họa lớn.
- Chỉ vì nghe một câu nói của đứa trẻ thơ mà lòng nghi ngờ, ghen tuông của chàng trỗi dậy lấn át cả tình
thương khiến chàng mù quáng. Trương Sinh đã dùng những lời nói thô bạo thậm chí đánh đập vợ mình để
thỏa nỗi hoài nghi bấy lâu mặc cho vợ có biện minh bộc bạch.
 Trương Sinh là người hết sức cố chấp, bảo thủ:
- Khi Vũ Nương van nài muốn hiểu rõ nguồn cơn sự việc, chàng đã không nói. Bởi Trương Sinh tin tưởng
chắc chắn vào điều mình nghĩ là sự thật và sợ nói ra Vũ Nương sẽ thoái thác, phủ lấp sự việc.
 Trương Sinh là người vô tình, bạc nghĩa:
- Khi Vũ Nương chết, Trương Sinh tuy giận nhưng cũng động lòng thương, tìm vớt thây nàng nhưng không
thấy. Sau đó cũng không cất công tìm thêm nữa mặc thân xác nàng nổi trôi phương trời, linh hồn làm ma
làm quỷ chốn nhân gian, đời đời kiếp kiếp không được siêu thoát. Dẫu Vũ Nương cớ bội tình thì đó cũng
là vợ chàng, người có công phụng dưỡng mẹ chàng lúc chàng đi lính. Thế nhưng Trương Sinh đã không
mảy may tưởng đến. Chàng ân đoạn nghĩa tuyệt với nàng, xem nàng là một nỗi ô nhục lớn, một thất bại
trong cuộc đời mình.
- Cho đến hôm khi ôm con trong nỗi cô đơn quạnh quẽ, cũng từ câu nói ngây thơ của con trẻ, Trương Sinh
hiểu ra mối oan tình của vợ, nhưng việc đã trót qua rồi, Trương Sinh cũng lẳng lặng quên đi. Tuy có chút
ân hận nhưng sĩ diện quá khiến chàng mặc nhiên để chuyện đó qua đi.
=> Với Trương Sinh, chàng đang tự cho mình quyền lăng mạ, sỉ nhục và định đoạt quyền sống của người
khác. Điều đó cho thấy chàng là người gia trưởng, hèn hạ và vô tình bạc nghĩa.
=> Sự vô tình bạc nghĩa của Trương Sinh phản ánh bộ mặt của xã hội phong kiến nam giới chuyên quyền,
trọng nam khinh nữ. Ở đó người phụ nữ hoàn toàn không có tiếng nói trong gia đình, bị tước đoạt quyền
sống,....
6. Chi tiết kì ảo
- Vũ Nương tự tử không chết
- Phan Lang nằm mộng thả rùa
- Cuộc gặp gỡ giữa Phan Lang và Vũ Nương dưới thủy cung
- Vũ Nương hiện về khi Trương Sinh lập đàn giải oan
Ý nghĩa:
- Làm nên nét đặc trưng của thể loại truyền kì
- Tạo nên kết thúc có hậu
- Hoàn chỉnh thêm nét đẹp cho Vũ Nương
- Tính bi kịch vẫn tiềm ẩn ngay trong sự lung linh, kì ảo
7. Chi tiết cái bóng
- Xuất hiện 2 lần, là điểm thắt – mở nút cho tấn bi kịch
Ý nghĩa:
- Với Vũ Nương: dùng để dỗ dành con, là biểu hiện của nỗi nhỡ và lòng chung thủy
- Với bé Đản: là hình ảnh người cha
- Với Trương Sinh:
+ Lần 1: Là bằng chứng cho sự hư hỏng, thất tiết của vợ
+ Lần 2: Tháo gỡ nghi ngờ, hóa giải nỗi oan cho Vũ Nương
8. Giá trị nội dung
4
a. Giá trị hiện thực
- Phản ánh hiện thực xã hội phong kiến bất công, nam quyền, chà đạp lên số phận người phụ nữ
- Phản ánh số phận con người chủ yếu qua số phận người phụ nữ chịu nhiều oan khuất và bế tắc
- Phản ánh xã hội phong kiến với những cuộc chiến tranh phi nghĩa làm cho cuộc sống của người dân càng
rơi vào bế tắc
b. Giá trị nhân đạo
- Ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam thông qua nhân vật Vũ Nương.
- Thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến.
9. Giá trị nghệ thuật
- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo.
- Nghệ thuật dựng truyện hợp lí theo cách thắt nút, mở nút.
- Xây dựng nhân vật qua lời nói, hành động với nhiều hình ảnh ước lệ nhưng vẫn mang đậm nét nội tâm.
- Sử dụng sáng tạo yếu tố kì ảo, câu chuyện vừa thực, vừa hư, kết truyện vừa có hậu, vừa bi kịch.
- Kết hợp khéo léo giữa tự sự và trữ tình
10. Nhận định về tác giả và tác phẩm:
1. “Chuyện người con gái Nam Xương là một truyện ngắn đặc sắc cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật
trong tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Truyện thể hiện được sự phối hợp hài hòa giữa chất
hiện thực (câu chuyện được lưu truyền trong dân gian) với những nét nghệ thuật đặc trưng của thể loại
truyền kì (yếu tố kì lạ hoang đường).”
2. “Cái bóng đã quyết định số phận con người.” (Giáo sư Phan Trọng Luận)
3. “Chiếc lá trên tường đã cứu sống Giôn- xi nhưng chiếc bóng trên tường đã giết chết Vũ Nương” (Giảng
Văn THCS)
4. “Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ
Cung nước chi cho lụy đến nàng.”
(Lê Thánh Tông)
II. BÀI TẬP
1. Tóm tắt tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”.
2. Phân tích vẻ đẹp phẩm chất của Vũ Nương (hoặc từng nét phẩm chất (chú ý nhất là phẩm chất thủy
chung)).
3. Phân tích bi kịch của Vũ Nương (hoặc Nguyên nhân cái chết Vũ Nương)
4. Phân tích nhân vật Trương Sinh
5. Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật
6. Phân tích vai trò, ý nghĩa của các chi tiết kì ảo
7. Phân tích ý nghĩa của chi tiết cái bóng
B. CHỊ EM THÚY KIỀU (Trích “Truyện Kiều” – Nguyễn Du)
I. LÝ THUYẾT
1. Vị trí đoạn trích:
Vị trí đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”: nằm ở phần mở đầu của phần thứ nhất: Gặp gỡ và đính ước. Khi
giới thiệu gia đình Thuý Kiều, tác giả tập trung miêu tả tài sắc hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều.
2. Kết cấu đoạn trích: 4 phần
+ Bốn câu đầu: giới thiệu khái quát hai chị em Thuý Kiều.
+ Bốn câu tiếp: gợi tả vẻ đẹp Thuý Vân.
+ Mười hai câu còn lại: gợi tả vẻ đẹp thuý Kiều.
+ Bốn câu cuối: nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em.
5
3. Giá trị nội dung và nghệ thuật:
- Giá trị nội dung “Chị em Thuý Kiều” là khắc hoạ rõ nét chân dung tuyệt mĩ của chị em Thuý Kiều, ca
ngợi vẻ đẹp, tài năng và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của Thuý Kiều là biểu hiện của cảm hứng
nhân văn ở Nguyễn Du.
- Giá trị nghệ thuật: Để khắc hoạ vẻ đẹp của nhân vật lý tưởng, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ -
lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm nổi bật vẻ đẹp của con người. Nhà văn không miêu tả chi tiết cụ thể mà chủ
yếu là tả để gợi. Sử dụng biện pháp đòn bẩy làm nổi bật hình ảnh Thuý Kiều.
4. Giới thiệu khái quát nhân vật (4 câu đầu)
- Trước hết, Nguyễn Du giới thiệu chung về hai chị em trong gia đình, lời giời thiệu cổ điển, trang trọng
rằng họ là “tố nga”, đẹp và trong sáng:
Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
- Tiếp đến, tác giả miêu tả chung vẻ đẹp của hai chị em trong một nhận xét mang tính chất lí tưởng hóa,
tuyệt đối hóa (đẹp một cách hoàn thiện):
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
+ Với bút pháp ước lệ tượng trưng, tác giả đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, thanh tao, trong trắng của người
thiếu nữ ở hai chị em Thúy Kiều: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”. Vóc dáng mảnh mai, tao nhã như mai;
tâm hồn trắng trong như tuyết. => Đó là vẻ đẹp hài hòa đến độ hoàn mĩ cả hình thức lẫn tâm hồn, cả dung
nhan và đức hạnh.
+ Hai chị em đều tuyệt đẹp, không tì vết “mười phân vẹn mười”, song mỗi người lại mang nét đẹp riêng
khác nhau “mỗi người một vẻ”.
-> Bốn câu thơ đầu là bức tranh nền để từ đó tác giả dẫn người đọc lần lượt chiêm ngưỡng sắc đẹp
của từng người.
5. Bốn câu tiếp theo: miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân.
- Câu thơ mở đầu vừa giới thiệu Thuý Vân vừa khái quát vẻ đẹp của nhân vật. Hai chữ “trang trọng” gợi
vẻ cao sang, quý phái.
- Với bút pháp nghệ thuật ước lệ, vẻ đẹp của Vân được so sánh với những thứ cao đẹp nhất trên đời, trăng,
hoa, mây, tuyết, ngọc. Bằng thủ pháp liệt kê chân dung Thúy Vân được miêu tả toàn vẹn từ khuôn mặt, nét
mày, làn da, mái tóc đến nụ cười, giọng nói, phong thái ứng xử nghiêm trang, đứng đắn. Mỗi chi tiết được
miêu tả cụ thể hơn nhờ bổ ngữ, định ngữ, hình ảnh so sánh ẩn dụ.
- Tác giả đã vẽ nên bức chân dung Thuý Vân bằng nghệ thuật so sánh ẩn dụ và ngôn ngữ thơ chọn lọc, trau
chuốt: khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, tươi sáng như mặt trăng; lông mày sắc nét như con ngài; miệng cười
tươi thắm như hoa; giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc; mái tóc đen óng ả hơn mây, làn da
trắng mịn màng hơn tuyết:
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
- Chân dung Thuý Vân là chân dung mang tính cách, số phận. Vân đẹp hơn những gì mĩ lệ nhất của thiên
nhiên nhưng tạo sự hoà hợp êm đềm với xung quanh: mây thua, tuyết nhường. Thuý Vân hẳn có một tính
cách ung dung, điềm đạm, một cuộc đời bình yên không sóng gió.
6. 12 câu tiếp theo: tả vẻ đẹp và tài hoa của Kiều.
- Câu thơ đầu đã khái quát đặc điểm của nhân vật: “Kiều càng sắc sảo mặn mà”. Nàng sắc sảo về trí tuệ và
mặn mà về tâm hồn.
6
- Gợi tả vẻ đẹp của Kiều tác giả vẫn dùng những hình tượng ước lệ: thu thuỷ, xuân sơn, hoa, liễu. Đặc biệt
khi hoạ bức chân dung Kiều, tác giả tập trung gợi tả vẻ đẹp đôi mắt. Hình ảnh “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn”
là hình ảnh mang tính ước lệ, đồng thời cũng là hình ảnh ẩn dụ, gợi lên một đôi mắt đẹp trong sáng, long
lanh, linh hoạt như làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Đôi mắt đó là cửa sổ
tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn, trí tuệ. Tả Kiều, tác giả không cụ thể như khi tả Vân mà chỉ
đặc tả đôi mắt theo lối điểm nhãn - vẽ hồn cho nhân vật, gợi lên vẻ đẹp chung của một trang giai nhân tuyệt
sắc. Vẻ đẹp ấy làm cho hoa ghen, liễu hờn, nước nghiêng thành đổ. Nguyễn Du không miêu tả trực tiếp
nhân vật mà miêu tả sự ghen ghét, đố kị hay ngưỡng mộ, say mê trước vẻ đẹp đó, cho thấy đây là vẻ đẹp
có chiều sâu, có sức quyến rũ, cuốn hút lạ lùng.
- Vẻ đẹp tiềm ẩn phẩm chất bên trong cao quý, cái tài, cái tình đặc biệt của Kiều. Tả Thuý Vân chỉ tả nhan
sắc, còn tả Thuý Kiều, tác giả tả sắc một phần thì dành hai phần để tả tài.
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Kiều rất mực thông minh và đa tài "Thông minh vốn sẵn tính trời". Tài của Kiều đạt đến mức lý tưởng theo
quan niệm thẩm mĩ phong kiến, hội đủ cầm, kỳ, thi, hoạ “Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm”.
Tác giả đặc tả tài đàn - là sở trường, năng khiếu, nghề riêng của nàng “Cung thương lầu bậc ngũ âm, Nghề
riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Không chỉ vậy, nàng còn giỏi sáng tác nhạc. Cung đàn Bạc mệnh của
Kiều là tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm “Khúc nhà tay lựa nên chương, Một thiên bạc mệnh lại
càng não nhân”.
Tả tài, Nguyễn Du thể hiện được cả cái tình của Kiều.
- Chân dung Thuý Kiều là bức chân dung mang tính cách và số phận. Vẻ đẹp khi cho tạo hoá phải ghen
ghét, các vẻ đẹp khác phải đố kị, tài hoa trí tuệ thiên bẩm "lai bậc" đủ mùi, cả cái tâm hồn đa sầu đa cảm
khiến Kiều không thể tránh khỏi định mệnh nghiệt ngã, số phận éo le, gian khổ bởi "Chữ tài chữ mệnh khéo
là ghét nhau". "Trời xanh quen thói mà hồng đánh ghen". Cuộc đời Kiều hẳn là cuộc đời hồng nhan bạc
mệnh.
* Có thể nói tác giả đã rất tinh tế khi miêu tả nhân vật Thuý Kiều: Tác giả miêu tả chân dung Thuý Vân
trước để làm nổi bật chân dung Thuý Kiều, ca ngợi cả hai nhưng đậm nhạt khác nhau ở mỗi người: chỉ dành
bốn câu thơ để tả Vân, trong đó dành tới 12 câu thơ để tả Kiều, Vân chỉ tả nhan sắc, Kiều cả tài, sắc, tình
đều đặc đặc tả. Đó chính là thủ pháp đòn bẩy.
7. Bốn câu cuối: nhận xét chung về cuộc sống hai chị em Thuý Kiều.
- Họ sống phong lưu, khuôn phép, đức hạnh, theo đúng khuôn khổ của lễ giáo phong kiến. Tuy cả hai đều
đã đến tuổi búi tóc cài trâm nhưng vẫn "trướng rũ màn che, tường đông ong bướm đi về mặc ai".
- Hai câu cuối trong sáng, đằm thắm như chở che, bao bọc cho hai chị em hai bồn hoa vẫn còn phong nhuỵ
trong cảnh "Êm đềm trướng rủ màn che".
Tóm lại, đoạn trích đã thể hiện bút pháp miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn Du khắc hoạ nét riêng về
nhan sắc, tài năng, tính cách, số phận nhân vật bằng bút pháp nghệ thuật cổ điển.
II. Bài tập
1. Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của “Truyện Kiều”
2. Phân tích 4 câu đầu (giời thiệu chung về 2 chị em)
3. Phân tích 4 câu tiếp (vẻ đẹp Thúy Vân)
4. Phân tích 12 câu tiếp (sắc và tài của Thúy Kiều)
5. Phân tích 4 câu cuối (cuộc sống của 2 chị em)
7
C. KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH (Trích “Truyện Kiều” – Nguyễn Du)
I. LÝ THUYẾT
1. Vị trí đoạn trích:
Đoạn trích nằm ở phần thứ hai Gia biến và lưu lạc. Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục, bị Tú bà
mắng nhiếc, Kiều nhất quyết không chịu tiếp khách làng chơi, không chịu chấp nhận cuộc sống lầu xanh.
Đau đớn, phẫn uất, tủi nhục nàng định tự vẫn. Tú bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ
vờ chăm sóc thuốc thang, hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả nàng cho người tử tế. Tú bà đưa Kiều ra sống
riêng ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu mới đê tiện hơn, tàn bạo hơn.
2. Kết cấu đoạn trích: 3 phần
+ Sáu câu đầu: hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều.
+ Tám câu tiếp: nỗi thương nhớ Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ của nàng.
+ Tám câu cuối: tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều thể hiện qua cách nhìn cảnh vật.
3. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích:
- Giá trị nội dung "Kiều ở lầu Ngưng Bích": miêu tả chân thực cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi đáng thương, nỗi
nhớ người thân da diết và tấm lòng thuỷ chung, hiếu thảo vị tha của Thuý Kiều khi bị giam lỏng ở lầu
Ngưng Bích.
- Giá trị nghệ thuật: nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, bút pháp tả cảnh ngụ tình hay nhất trong "Truyện
Kiều".
4. Hoàn cảnh và tâm trạng của Kiều thể hiện qua 6 câu thơ đầu:
- Kiều ở lầu Ngưng Bích thực chất là bị giam lỏng (khoá xuân).
- Nàng trơ trợi giữa một không gian mênh mông, hoang vắng: “bốn bề bát ngát xa trông”. Cảnh “non xa”,
“trăng gần” gợi hình ảnh lầu Ngưng Bích đơn độc, chơi vơi giữa mênh mông trời nước. Từ trên lầu cao
nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Cái lầu trơ trọi ấy giam một thân
phận trơ trọi, không một bóng hình thân thuộc bầu bạn, không cả bóng người.
Hình ảnh “non xa” “trăng gần”, “cát vàng”, “bụi hồng” có thể là cảnh thực mà cũng có thể là hình ảnh mang
tính ước lệ để gợi sự mênh mông, rợn ngợp của không gian, qua đó diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều.
- Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Tất cả như giam hãm con người, như
khắc sâu thêm nỗi cô đơn khiến Kiều càng bẽ bàng, chán ngán, buồn tủi “bẽ bàng mây sớm đèn khuya”
sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều “thui thủi quê người một thân” và dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua
xót đau thương khiến tấm lòng Kiều như bị chia xẻ: “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Vì vậy, dù
cảnh có đẹp đến mấy, tâm trạng Kiều cũng không thể vui được.
5. Tâm trạng nhớ thương Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ của Kiều qua ngôn ngữ độc thoại nội
tâm:
* Kiều nhớ Kim Trọng trước nhớ cha mẹ sau. Theo nhiều nhà hủ nho thì như vậy là không đúng với truyền
thống dân tộc, nhưng thật ra lại là rất hợp lý. Kiều bán mình cứu cha và em là đã đền đáp được một phần
công lao cha mẹ, nên nàng cắn rứt khôn nguôi.
* Cùng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ khác nhau với những lý do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau:
+ Nhớ Kim Trọng: Kiều “tưởng” như thấy lại kỷ niệm thiêng liêng đêm thề nguyện, đính ước “Tưởng
người dưới nguyệt chén đồng”. Cái đêm ấy hình như mới ngày hôm qua. Một lần khác nàng nhớ về Kim
Trọng cũng là “Nhớ lời nguyện ước ba sinh”. Kiều xót xa hình dung người yêu vẫn chưa biết tin nàng bán
mình, vẫn ngày đêm mòn mỏi chờ trông chốn Liêu Dương xa xôi. Nàng nhớ người yêu với tâm trạng đau
đớn: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Có lẽ “tấm son” ấy là tấm lòng Kiều son sắt, thuỷ chung, không
nguôi nhớ thương Kim Trọng. Cũng có thể là Kiều đang tủi nhục khi tấm lòng son sắt đã bị dập vùi, hoen
ố, không biết bao giờ mới gột rửa cho được. Trong nỗi nhớ chàng Kim có cả nỗi đau đớn vò xé tâm can.
+ Nhớ cha mẹ: nàng thấy “xót” khi tưởng tượng, ở chốn quê nhà, cha mẹ nàng vẫn tựa cửa ngóng chờ tin
tức người con gái yêu. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể “quạt nồng ấp lạnh”,
phụng dưỡng song thân, băn khoăn không biết hai em có chăm sóc cha mẹ chu đáo hay không. Nàng tưởng
tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay, gốc tử đã vừa người ôm, cha mẹ ngày thêm già yếu. Cụm từ “cách
mấy nắng mưa” vừa cho thấy sự xa cách bao mùa mưa nắng, vừa gợi được sự tàn phá của thời gian, của
thiên nhiên lên con người và cảnh vật. Lần nào nhớ về cha mẹ, Kiều cũng “nhớ ơn chín chữ cao sâu” và
luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy của cha mẹ.

8
* Nỗi nhớ thương của Kiều đã nói lên nhân cách đáng trân trọng của nàng. Hoàn cảnh của nàng lúc này
thật xót xa, đau đớn. Nhưng quên đi cảnh ngộ bản thân, nàng đã hướng yêu thương vào những người thân
yêu nhất. Trái tim nàng thật giàu yêu thương giàu đức hi sinh. Nàng thật sự là một người tình thuỷ chung,
một người con hiếu thảo, một người có tấm lòng vị tha cao cả đáng quý.
6. Bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong 8 câu cuối “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
- Đoạn thơ này được xem là kiểu mẫu của lối thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển. Để diễn tả
tâm trạng Kiều - Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”
để khắc hoạ tâm trọng của Kiều lúc bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
- Đây là 8 câu thơ thực cảnh mà cũng là tâm cảnh. Mỗi biểu hiện của cảnh đồng thời là một ẩn dụ về tâm
trạng của người - mỗi một cảnh lại khơi gợi ở Kiều những nỗi buồn khác nhau, với những lý do buồn khác
nhau trong khi nỗi buồn đã đầy ắp tâm trạng để rồi tình buồn lại tác động vào cảnh, khiến cảnh mỗi lúc lại
buồn hơn, nỗi buồn mỗi lúc một ghê gớm, mãnh liệt hơn.
- Cách sử dụng ngôn ngữ độc thoại, điệp ngữ. Bốn bức tranh, bốn nỗi buồn đều được tác giả khắc hoạ qua
điệp từ “buồn trông” đứng đầu mỗi câu có nghĩa là buồn mà trông ra bốn phía, trông ngáng một cái gì mơ
hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại, nhưng trông mà vô vọng. “Buồn trông” có cái thảng thốt lo âu, có cái xa lạ
bút tầm nhìn, có cả dự cảm hãi hùng của người con gái ngây thơ lần đầu lại bước giữa cuộc đời ngang
ngược. Điệp ngữ “buồn trông” kết hợp với các hình ảnh đứng sau đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác
nhau. Điệp ngữ lại được kết hợp với các từ láy chủ yếu là những từ láy tượng hình, dồn dập, chỉ có một từ
láy tượng thanh ở câu cuối tạo nên nhịp điệu, diễn tả nỗi buồn ngày một tăng, dâng lên lớp lớp, nỗi buồn
vô vọng, vô tận. Điệp ngữ tạo âm hưởng trầm buồn, trở thành điệp khúc của đoạn thơ cũng là điệp khúc
của tâm trạng.
Cảnh 1:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Một cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển là một hình ảnh rất đắt để thể hiện nội tâm nàng Kiều. Một cánh
buồm nhỏ nhoi, đơn độc giữa biển nước mênh mông trong ánh sáng le lói cuối cùng của mặt trời sắp tắt;
cũng như Kiều trong không gian vắng lặng của hiện tại nhìn về phương xa với nỗi buồn nhớ da diết về gia
đình, quê hương. Con thuyền gần như mất hút, vẫn còn lênh đênh giữa dòng đời, biết bao giờ mới được trở
về sum họp, đoàn tụ với những người thân yêu.
Cảnh 2:
Buồn trông ngọn nước mới ra,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Những cánh hoa tàn lụi trôi man mác trên ngọn nước mới xa khi Kiều càng buồn hơn bởi nàng như nhìn
thấy trong đó thân phận mình lênh đênh, vô định, ba chìm bảy nổi giữa sóng nước cuộc đời, không biết rồi
sẽ trôi dạt đi đâu, sẽ bị dập vùi ra sao.
Cảnh 3:
Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Nội cỏ "rầu rầu", "xanh xanh" - sắc xanh héo úa, mù mịt, nhạt nhoà trải dài từ chân mây đến mặt đất, còn
đâu cái "xanh tận chân trời" như sác cỏ trong tiết Thanh minh khi Kiều còn trong cảnh đầm ấm. Màu xanh
này gợi cho Kiều một nỗi chán ngán, vô vọng vì cuộc sống cô quạnh và những chuỗi ngày vô vị, tẻ nhạt
không biết kéo dài đến bao giờ.
Cảnh 4:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Dường như nỗi buồn càng lúc càng tăng, càng dồn dập. Một cơn "gió cuốn mặt duềnh" làm cho tiếng sóng
bỗng nổi lên ầm ầm như vây quanh ghế Kiều ngồi. Cái âm thanh "ầm ầm tiếng sóng" ấy chính là âm thanh
dữ dội của cuộc đời phong ba bão táp đã, đang ập đổ xuống đời nàng và còn tiếp tục đè nặng lên kiếp người
nhỏ bé ấy trong xã hội phong kiến cổ hủ, bất công. Tất cả là đợt sóng đang gầm thét, rì rào trong lòng nàng.
Lúc này Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như rơi dần vào vực thẳm một cách bất lực. Nỗi buồn
ấy đã dâng đến tột đỉnh, khiến Kiều thực sự tuyệt vọng. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng cũng rất
ảo. Đó là cảnh được nhìn qua tâm trạng theo quy luật "Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu - Người buồn cảnh có
vui đâu bao giờ".
9
- Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để diễn đạt nỗi
buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến bão táp nội tâm cực điểm của cảm xúc trong lòng
Kiều. Tờt cả là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi bế tắc, sự chao đảo, nghiêng đổ dữ dội. Lúc
này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất. Cũng vì thế mà nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào
cuộc đời "thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần".
=> Bằng nghệ thuật ẩn dụ, hệ thống câu hỏi tu từ, các từ láy “thấp thoáng”, “xa xa”, “man mác”, “rầu rầu”,
“xanh xanh”, “ầm ầm”… góp phần làm nổi bật nỗi buồn nhiều bề trong tâm trạng Kiều. Tác giả lấy ngoại
cảnh để bộc lộ tâm cảnh. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần; màu sắc từ nhạt đến đậm; âm thanh từ tĩnh đến
động; nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm của
cảm xúc trong lòng Kiều. Toàn là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi, bế tắc, sự chao đảo
nghiêng đổ dữ dội. Lúc này, Kiều trở nên tuyệt vọng,yếu đuối nhất, vì thế nàng đã mắc lừa Sở Khanh để
rồi dấn thân vào cuộc đời ô nhục.
II. BÀI TẬP
1. Phân tích 6 câu đầu đoạn trích
2. Phân tích 8 câu giữa (nỗi nhớ chàng Kim và cha mẹ của Kiều)
3. Phân tích 8 câu cuối (hay còn gọi là bức tranh tứ bình)
D. LỤC VÂN TIÊN CỨU KIỀU NGUYỆT NGA (Nguyễn Đình Chiểu)
1. Tác giả: Nguyễn Đình Chiểu
– Tên thật: Nguyễn Đình Chiểu tên tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ
– Sinh năm 1822, mất năm 1888
– Quê quán: làng Tân Thới, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí
Minh).
– Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc. Ông là cây bút mở
đầu cho dòng văn thơ yêu nước cuối thế kỉ XIX.
– Các tác phẩm của ông là sự kết hợp giữa văn học dân gian và văn chương bác học, ngôn từ giàu sức
truyền cảm và nghệ thuật sáng tạo nhân vật.
2. Vị trí đoạn trích:
- “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm “Truyện Lục Vân
Tiên”.
- Thể loại: Truyện thơ Nôm
3. Bố cục:
Bố cục tác phẩm Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga được chia thành 2 phần:
– Phần một (14 câu thơ đầu): Lục Vân Tiên đánh cướp Phong Lai để giải cứu Kiều Nguyệt Nga.
– Phần hai (Còn lại): Cuộc chuyện trò giữa Kiều Nguyệt Nga và Lục Vân Tiên.
4. Nhân vật Lục Vân Tiên:
– Nhân vật Lục Vân Tiên được tác giả khắc họa theo mô típ của truyện Nôm truyền thống: Một chàng trai
khôi ngô, tài giỏi và nghĩa hiệp, sẵn sàng ra tay giải cứu một cô gái xinh đẹp thoát khỏi nguy hiểm, rồi từ
ân nghĩa nảy sinh tình yêu.
▶ Cách xây dựng hình ảnh nhân vật này đã góp phần thể hiện khát vọng, ước mơ của nhân dân và tác giả
về một xã hội của những người tốt. Nơi có những con người vừa có tài, vừa có đức, luôn sẵn sàng ra tay
giúp người, giúp đời mà chẳng quan hề tâm thiệt hơn.
a. Khi đánh cướp Phong Lai (14 câu đầu)
- Tính cách anh hùng, tài năng và tấm lòng vị nghĩa:
“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ!
10
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”
– Chỉ với 4 từ “ghé lại bên đàng” tác giả đã khắc họa được hình ảnh chàng trai trẻ Lục Vân Tiên gan dạ.
Chàng lao tới tiêu diệt đám cướp Phong Lai mà chẳng hề do dự hay tính toán được mất hay mong cầu được
đền đáp. Tất cả chỉ xuất phát từ tinh thần hiệp nghĩa, bảo vệ cái thiện, diệt trừ cái ác.
– Tác giả đã nhấn mạnh vào hành động gan góc của chàng “bẻ cây làm gậy”. Vũ khí chống lại đám cướp
của chàng không phải là đao, là kiếm mà chỉ là một cành cây bẻ ở ven đường.tính cách hào hiệp, không
màng an nguy của bản thân để diệt trừ cái ác, cái xấu xa.
– Trong lời nói, chàng được xây dựng với tính cách cương trực, thẳng thắn của một đấng nam nhi: “Bớ
đảng hung đồ! Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”. Câu nói không chỉ là chỉ trích, phê phán lũ giặc cướp mà
còn là tuyên ngôn sống đầy cao đẹp của Lục Vân Tiên. Đó là sống trên đời phải hướng đến bảo vệ cuộc
sống, đem lại những điều tốt đẹp đến những người dân lành, chứ không phải mang đến cho họ những đau
khổ.
▶ Từ những chi tiết trên, tác giả muốn khắc họa hình ảnh Lục Vân Tiên mang trong mình tinh thần hào
hiệp, bất bình trước những điều xấu xa. Cùng với đó là tính cách cương trực, luôn sẵn sàng đứng lên bênh
vực cho những kẻ yếu đuối và bảo vệ cho lẽ phải. Sự kiện gặp bọn cướp Phong Lai vừa là thử thách vừa là
cơ hội giúp nhân vật bộc lộ được tính cách mà tác giả xây dựng riêng cho Lục Vân Tiên.

“Phong Lai mặt đỏ phừng phừng:


Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây
Trước gây việc dữ tại mầy
Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng
Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.”
– Nguyễn Đình Chiểu đã đặt Lục Vân Tiên vào một trận đánh không hề cân sức. Một bên là đám cướp hùng
tàn, hùng hổ, đông đúc và được trang bị đầy đủ vũ khí. Còn một bên là hình ảnh Lục Vân Tiên thân cô, thế
cô trong tay không được trang bị vũ khí.
– Tác giả đã sử dụng cụm từ giàu giá trị tạo hình “tả đột hữu xông” giúp miêu tả chân thực hình ảnh Lục
Vân Tiên như một mãnh tướng đang làm chủ tình thế và tung hoành giữa đám cướp.
– Sử dụng nghệ thuật so sánh giữa những hành động anh hùng của Lục Vân Tiên với hình ảnh khi phá vòng
Đương Dang của người anh hùng Triệu Tử, tác giả đã tạo nên một khí thế hào hùng, sôi động cho trận đánh.
▶ Trong đoạn thơ trên, tác giả đã sử dụng kết hợp hai thủ pháp nghệ thuật là tương phản và so sánh. Sự kết
hợp này đã góp phần tô đậm tinh thần quả cảm, võ nghệ cao cường cùng với khí thế áp đảo của Lục Vân
Tiên. Đồng thời khắc họa hình ảnh nhân vật Lục Vân Tiên với tầm vóc của một người anh hùng mạnh mẽ,
phi thường.
 Sức mạnh của Lục Vân Tiên là sức mạnh kết tinh của chính nghĩa, của nhân dân nên đó chiến thắng
tuyệt đối không thể phủ nhận. Thông qua những hành động mạnh mẽ của Lục Vân Tiên, tác giả đã phần
nào thể hiện khát vọng của nhân dân về một người anh hùng võ nghệ cao cường, có sức mạnh phi thường
luôn bênh vực kẻ yếu, chiến thắng mọi thế lực tàn bạo
b. Khi trò chuyện với nàng Kiều Nguyệt Nga
Lục Vân Tiên thể hiện là một người giàu lòng nhân hậu:
“Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,
Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe nầy?”
– Lục Vân Tiên là một đấng trượng phu, không chỉ giúp đỡ người hoạn nạn mà còn hết lòng quan tâm đến
họ. Chàng tìm cách giúp người bị nạn trấn an, lấy lại tinh thần sau cơn hoảng loạn:
11
+ Trước hết, chàng thông báo cho họ biết tình hình ở bên ngoài, rằng lũ “kiến chòm ong” đã bị tiêu diệt và
không còn bất cứ mối nguy hiểm nào có thể đe dọa họ nữa.
+ Sau đó, chàng lại ân cần hỏi han khi thấy người gặp nạn đang than khóc bên trong xe để giúp họ vơi đi
nỗi kinh sợ.
Lục Vân Tiên là một người biết trọng lễ nghĩa thông qua cách ứng xử và xưng hô:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái, ta là phận trai.”
– Nét chững chạc, đàng hoàng một mực giữ gìn khuôn phép, lễ nghĩa của Lục Vân Tiên được thể hiện khi
chàng khuyên Kiều Nguyệt Nga không bước xuống xe.
– Sử dụng cách xưng hô “nàng” – “ta”, tác giả đã cho thấy, Lục Vân Tiên luôn dành cho Kiều Nguyệt Nga
một tấm lòng trân trọng, cũng như thái độ lịch sự. Đó là hành động của một con người có học thức, có đọc
sách thánh hiền.
▶ Chỉ với một câu thơ, ta có thể thấy được Lục Vân Tiên là một người có học thức. Bởi trong quan niệm
xưa, “nam nữ thụ thụ bất thân”, nghĩa là giữa con trai và con gái cần giữ khoảng cách nhất định, không
được tùy tiện gặp mặt. Chính vì hiểu rõ quan niệm này, chàng không muốn Kiều Nguyệt Nga bước ra ngoài
cúi lạy mình, không muốn phẩm tiết của nàng bị ảnh hưởng.
Lục Vân Tiên là một người hào hiệp, nghĩa khí và chính trực:
“Vân Tiên nghe nói liền cười:
“Làm ơn há để trông người trả ơn
Nay đã rõ đặng nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”
– Chi tiết Lục Vân Tiên cười sảng khoái khi nghe Kiều Nguyệt Nga nói đến ơn huệ, đền đáp đã thể hiện
chàng là một người chính trực, làm ơn không màng đến sự đáp nghĩa.
– Tác giả cũng đã thể hiện rõ quan niệm của Lục Vân Tiên về người anh hùng. Đó là làm việc nhân nghĩa
là tất yếu. Nếu làm ơn mà trông ngóng, mong cầu việc đáp nghĩa thì không phải người anh hùng.
▶ Từ những phân tích trên, ta nhận ra rằng hình ảnh của Lục Vân Tiên là một hình ảnh đẹp, lí tưởng. Lục
Vân Tiên là một con người văn võ song tài, hào hiệp và nhân hậu. Chàng chính là hình mẫu toàn vẹn, hoàn
hảo cho người quân tử trong xã hội phong kiến. Qua hình ảnh nhân vật, Nguyễn Đình Chiểu gửi gắm niềm
tin và mong ước về lẽ công bằng ở đời của chính mình.
5. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga
a. Một tiểu thư khuê các, gia giáo và có học thức
Thể hiện qua những lời giới thiệu của nàng về bản thân:
“Thưa rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga
Con nầy tì tất tên là Kim Liên.
Quê nhà ở quận Tây Xuyên
Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê.”
– Nhân vật Kiều Nguyệt Nga xuất thân trong một gia đình quyền quý, là một tiểu thư khuê các, kim chi
ngọc diệp, trâm anh thế phiệt – con quan tri phủ Hà Khê.
– Với lời giới thiệu rất đầy đủ, chân thành, không có chút khoa trương hay kênh kiệu, đáp lại đầy đủ những
lời thăm hỏi ân cần của Lục Vân Tiên. Kiều Nguyệt Nga không chỉ bộc lộ được tính cách trọng nghĩa của
mình, mà còn thể hiện được sự chân thành, niềm cảm kích, xúc động.

12
▶ Lời giới thiệu đã phản ánh hình ảnh nàng Kiều Nguyệt Nga không chỉ là một cô tiểu thư quyền quý mà
còn là một cô gái nhã nhặn, có học thức.
Thể hiện qua cách xưng hô của nàng với Lục Vân Tiên:
“Trước xe quân tử tạm ngôi
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa”
– Tác giả đã để nàng xưng “tiện thiếp”, gọi “quân tử’’ để làm nổi bật sự thông minh, hành xử có thước mực
của nàng trong lời ăn tiếng nói.
– Hành động “Lạy rồi sẽ thưa” cũng thể hiện một thái độ kính phục trong quan hệ giữa con người với con
người. Kiều Nguyệt Nga vốn là một cô tiểu thư quen được yêu chiều, chở che, bảo vệ mà lại hành xử như
vậy với một người xa lạ, đâu phải một chuyện dễ dàng.
▶ Qua lời nói kết hợp với hành động của nàng Kiều Nguyệt Nga, tác giả đã giúp người đọc thấy được sự
khiêm nhường, nết na, thùy mị của một tiểu thư sinh ra trong một gia đình gia giáo.
Thể hiện qua lời chia sẻ về hành động hiếu nghĩa của nàng:
“Sai quân đem bức thơ về
Rước tôi qua đó định bề nghi gia
Làm con đâu dám cãi cha
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành.”
– Kiều Nguyệt Nga từ Tây Xuyên đến Hà Khê để định bề nghi gia, nghi thất. Vì để vâng theo lời cha, thân
gái yếu đuối không quản ngại đường xa, vượt qua dặm trường với bao nguy hiểm bất trắc đến Hà Khê để
định bề nghi gia, nghi thất.
▶ Từ khổ thơ trên, tác giả đã khắc họa nàng Kiều Nguyệt Nga là một người con hiếu thảo, sống đúng với
khuôn phép của gia đình cũng như với những lễ giáo trong xã hội phong kiến xưa. Đây cũng chính là điểm
gặp gỡ giữa Kiều Nguyệt Nga và Lục Vân Tiên mà tác giả xây dựng.
b. Con người có tấm lòng ân nghĩa, thủy chung
Qua lời nói, cử chỉ với ân nhân cứu mạng:
“Trong xe chật hẹp khôn phô,
Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng.”
– Kiều Nguyệt Nga là tiểu thư có học thức. Hơn ai hết, nàng ý thức rất rõ về những lễ tiết phong kiến và
hoàn cảnh của mình đang gặp phải. Mặc dù vậy, nàng vẫn định xuống xe để trực tiếp “cúi đầu trăm lạy”
để tạ ơn ân nhân cứu mạng Lục Vân Tiên.
– Lời nói tha thiết, không hề pha chút gượng ép, giáo điều, nàng là thật tâm, thật dạ muốn được cảm tạ ân
công.
▶ Chỉ bằng một hành động, tác giả đã lột tả thành công tấm lòng ân nghĩa, sâu sắc của Kiều Nguyệt Nga
dành cho Lục Vân Tiên..
Trong lời cảm kích công lao của Lục Vân Tiên:
“Lâm nguy chẳng gặp giải nguy
Tiết trăm năm cùng bỏ đi một hồi”
– Trước hết là ơn cứu mạng. Khi thấy nàng gặp nguy hiểm, Lục Vân Tiên đã không “mắt nhắm mắt mở”
làm ngơ mà tiến lên đánh tan đám cướp hung tàn để giải vây cứu lấy mạng sống của nàng.
– Đối với người con gái, sự trong trắng, danh dự là điều còn quan trọng hơn cả mạng sống. Và Lục Vân
Tiên đã bảo vệ được danh dự và sự trong trắng của nàng.
▶ Tác giả đã đặt trong lòng Kiều Nguyệt Nga những ân nghĩa quá đỗi to lớn. Điều này khiến nàng cảm
thấy day dứt và một lòng muốn báo đáp cho Lục Vân Tiên.
Băn khoăn tìm cách để đáp nghĩa ân tình Lục Vân Tiên:
13
“Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng
Gặp đây đương lúc giữa đàng
Của tiền chẳng có, bạc vàng thì không
Gẫm câu báo đức thù công
Lấy chi cho phí tấm lòng cùng ngươi.”
– Kiều Nguyệt Nga ngỏ ý mời Lục Vân Tiên về Hà Khê để cha mình tạ ơn. Nàng nói tới “của tiền”, “bạc
vàng” để giãi bày sự thiếu thốn về vật chất. Rồi lại than thở “Lấy chi cho phỉ tấm lòng…” để giãi bày sự
lúng túng về tinh thần.
– Tác giả đã truyền đạt thành công suy nghĩ của nàng Nguyệt Nga. Chính là không gì có thể sánh bằng
công ơn của Lục Vân Tiên. Bởi đối với nàng, tình nghĩa là là điều quan trọng nhất và là một thứ vô giá.
▶ Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng thành công nhân vật Kiều Nguyệt Nga. Nàng là cô gái kết tinh cho vẻ
đẹp tâm hồn của người phụ nữ truyền thống Việt Nam. Nàng không chỉ là người nết na, gia giáo, có học
thức mà còn rất coi trọng nghĩa tình, cư xử có trước có sau. Bởi vậy, nàng đã nguyện gắn bó cuộc đời với
Lục Vân Tiên – chàng trai đã cứu nàng khỏi hiểm nguy để giữ trọn tấm lòng ân nghĩa thủy chung.
II. Bài tập
1. Phân tích 14 câu đầu (vẻ đẹp của LVT khi đánh cướp)
2. Phân tích 6 câu cuối (vẻ đẹp trọng nghĩa khinh tài của LVT và quan niệm về người anh hùng của
NĐC)
3. Phân tích vẻ đẹp của LVT
4. Phân tích vẻ đẹp của KNN
E. ĐỒNG CHÍ (CHÍNH HỮU)
1. Tác giả
- Chính Hữu (1926 -2007), tên thật là Trần Đình Đắc, bút danh: Chính Hữu.
- Là nhà thơ - chiến sĩ trong suốt thời gian chống Pháp -Mĩ.
- Sáng tác chủ yếu tập trung vào hình ảnh người lính trong hai cuộc kháng chiến. Đặc biệt là tình cảm đồng
chí, đồng đội, sự gắn bó của tiền tuyến với hậu phương.
- Phong cách thơ: Bình dị, cảm xúc dồn nén, vừa thiết tha trầm hùng vừa sâu lắng, hàm súc.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ sáng tác mùa xuân năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp. Bài thơ được đánh giá là tiêu biểu của thơ ca kháng chiến giai đoạn 1946-1954, nó đã làm sáng
lên cho một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.
b. Nội dung chính:
Bài thơ nói về tình đồng đội, đồng chí thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách mạng. Đồng thời
còn làm hiện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ thời kì đầu kháng chiến
chống Pháp.
c. Nghệ thuật:
Bài thơ sử dụng những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô động và giàu sức biểu cảm.
d. Nhan đề:
Đồng chí là chung ý hướng, chung lý tưởng. Người cùng trong một đoàn thể chính trị hay một tổ chức cách
mạng thường gọi nhau là "đồng chí". Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 "đồng chí" là cách xưng hô quen
thuộc trong cơ quan, đoàn thể cách mạng, đơn vị bộ đội. Vì vậy, tình đồng chí là bản chất cách mạng của
tình đồng đội và thể hiện sâu sắc tình đồng đội.
e. Bố cục: 3 phần.
14
+ Bảy câu thơ đầu: Cơ sở hình thành tình đồng chí.
+ Mười câu thơ tiếp: Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.
+ Ba câu thơ cuối: Bức tranh đẹp về tình đồng chí, biểu tượng cao cả của cuộc đời người chiến sĩ.
3. Phân tích 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng Chí: Cơ sở hình thành tình đồng chí, đồng đội giữa những
người lính
a. Tình đồng chí bắt nguồn từ chung hoàn cảnh xuất thân
Vẻ đẹp mộc mạc của tình đồng chí, đồng đội được thể hiện rõ nét qua lời tâm sự, giới thiệu về quê hương
trong hai câu thơ đầu:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày nên sỏi đá’’
– Hai câu thơ cho thấy, những người lính tuy cầm súng ra trận nhưng thực chất họ chỉ là những người nông
dân lao động nơi quê hương. Một nơi thì “nước mặn đồng chua”, một nơi thì “đất cày lên sỏi đá”. Từ những
miền quê khác nhau, họ đã tìm thấy điểm chung để đến với nhau trong một mối quan hệ thật mới mẻ.
– Sử dụng đại từ nhân xưng “anh” và “tôi” tác giả đã gợi lên không khí trò chuyện gần gũi, như lời tâm
tình, thủ thỉ của hai người bạn thân thiết.
Sử dụng thủ pháp đối được trong hai câu thơ đầu, tác giả đã gợi lên sự tương đồng trong xuất thân hay quê
hương của hai người lính.
– Tác giả mượn thành ngữ “nước mặn đồng chua” để nhắc đến những vùng đồng chiêm, nước trũng, vùng
ngập mặn ven biển, khó sống và làm ăn. Ở nơi đó, cái đói, cái nghèo như manh nha từ trong nước, người
nông dân có cố gắng đến mấy cũng không thoát nổi sự cơ cực, thiên tai.
– Sử dụng hình ảnh “đất cày lên sỏi đá” để miêu tả những vùng trung du, miền núi, nơi đất đá bị ong hóa,
bạc màu, khó làm ăn canh tác. Ở nơi đây, cái đói, cái nghèo như rễ mọc từ trong lòng đất, người nông dân
đối diện với những khó khăn như một lẽ đương nhiên.
=> “Quê hương anh” và “làng tôi”, người miền xuôi và kẻ miền ngược, tuy có khác nhau về địa giới nhưng
đều có điểm chung là cái nghèo, cái khổ. Chiến tranh đã đưa hai người nông dân này thành chiến sĩ cùng
chiến tuyến, sự đồng cảm giai cấp đã kết nối họ trở thành đôi bạn thân thiết, trở thành những người đồng
chí, đồng đội với nhau.
b. Tình đồng chí hình thành từ nhiệm vụ chung, lý tưởng chung và lòng yêu nước nồng nàn
Trước khi nhập ngũ, những người lính đều là những người xa lạ, thuộc nhiều vùng miền khác nhau:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
– Những con người chưa từng quen biết, đến từ mọi phương trời xa lạ, nhờ chiến tranh đã đưa họ thành
chiến sĩ, gặp nhau ở một điểm chung. Điểm chung về xuất thân, chung một lòng yêu nước và cùng chung
lý tưởng Cách mạng.
Hình ảnh thơ “súng bên súng, đầu sát bên đầu” diễn tả sự gắn bó, kề vai sát cánh của những người
lính trên khắp những ngả đường hành quân và chiến đấu:
– “Súng bên súng” là cách nói giàu hình tượng để diễn tả sự kề vai sát cánh của những người lính cùng
chung lý tưởng và nhiệm vụ chiến đấu. Họ ra đi không chỉ với mục tiêu giải phóng cho quê hương, đất
nước, mà còn là cơ hội giải phóng cho chính cuộc sống khó khăn của họ nơi quê nhà
– Cách nói hoán dụ “Đầu sát bên đầu” được sử dụng với ý nghĩa tượng trưng cho ý chí, quyết tâm chiến
đấu của những người lính trong cuộc kháng chiến lâu dài của dân tộc.

15
– Sử dụng điệp từ “Súng, bên, đầu”, tác giả đã nhấn mạnh sự gắn kết, sự tương đồng trong lý tưởng, nhiệm
vụ của những người lính. Ngoài ra còn tăng thêm sức mạnh cho câu thơ, khiến câu thơ trở nên mạnh mẽ,
chắc khỏe, tràn đầy nhiệt huyết và quyết tâm.
– Nếu như ở hai câu thơ đầu, đại từ xưng hô “anh” – “tôi” nằm ở thủ pháp đối như một kiểu xưng danh khi
mới gặp gỡ, thì ở 4 câu thơ tiếp theo “anh” với “tôi” trong cùng một dòng thơ đã bộc lộ tình cảm gần gũi.
Có lẽ, từ những người xa lạ họ đã gặp được nhau và trở nên gắn kết, hướng tới cùng một mục tiêu.
=> Chính lý tưởng và mục đích chiến đấu là cầu nối cũng như cơ sở để họ kết nối với nhau, trở thành đồng
chí, đồng đội của nhau trên chiến trường khốc liệt.
c. Tình đồng chí hình thành từ việc trải qua khó khăn, thiếu thốn cùng nhau
Tác giả đã miêu tả rõ nét tình cảm của những người lính bằng một hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà
giàu sức gợi qua câu thơ:
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ’’
– Hình ảnh thơ “Đêm rét chung chăn” có thể hiểu là cùng nhau vượt qua cái khắc nghiệt, gian khổ của cuộc
đời người lính. Họ cùng chung hơi ấm để vượt qua giá lạnh nơi núi rừng Việt Bắc. Một hình ảnh thơ vừa
mang nét hiện thực, miêu tả sự khắc nghiệt của điều kiện sống, vừa tôn vinh vẻ đẹp người lính, luôn sẵn
sàng sẻ chia mọi thứ với đồng đội của mình trong hoàn cảnh khó khăn
– “Đắp chung chăn” là hoạt động chia sẻ, gắn kết, khiến những con người từ “xa lạ” trở nên sát gần bên
nhau hơn. Từ việc truyền cho nhau hơi ấm họ đã biến mối quan hệ từ người lại trở thành “tri kỉ”, thành tình
đồng chí.
Cách tác giả sử dụng từ “đôi” thay vì từ “hai” ở câu thơ trên có ý nghĩa:
– Nếu từ “hai” chỉ hai cá thể riêng biệt thì từ “đôi” thể hiện sự gắn kết không thể tách rời, luôn song hành
cùng nhau trên mọi mặt trận
– Từ “đôi người xa lạ” họ đã trở thành “đôi tri kỉ”. Cũng là từ “đôi” nhưng biểu đạt hai trạng thái khác nhau
của mối quan hệ. Hai người lính từ không quen biết, sau khi cùng nhau vượt qua khó khăn nơi chiến trường
đã trở thành đôi bạn tâm tình thân thiết, hiểu bạn như hiểu mình.
– Chỉ với một chữ “chung” duy nhất trong bài thơ nhưng Chính Hữu đã bao hàm toàn bộ những thứ đã tạo
nên tình cảm keo sơn giữa những người linh. Đó là chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung ý chí và chung
khát vọng giải phóng dân tộc.
Kết thúc đoạn thơ, tác giả đã sử dụng một câu thơ có vị trí rất đặc biệt, được cấu tạo bởi 2 từ “Đồng
chí!”:
– “Đồng chí” vang lên như một lời khẳng định, một lời định nghĩa về một thứ tình cảm mới mà tác giả đã
phát hiện ra sau những gì đã trải qua cùng những người đồng đội của mình
– “Đồng chí” còn thể hiện cảm xúc dồn nén bấy lâu, được thốt ra như khi cảm xúc đạt đến cao trào, trở
thành tiếng gọi của tình cảm mới mang tên “tình đồng chí”
– Cách sử dụng vỏn vẹn 2 từ “đồng chí” giúp gợi sự thiêng liêng, sâu lắng của tình cảm khăng khít này
– Dòng thơ cuối đặc biệt ấy có vai trò như một bản lề gắn kết. Vừa có tác dụng nâng cao ý thơ đoạn trước
và vừa mở ra ý thơ đoạn sau.
– Dấu chấm than đi kèm hai tiếng “Đồng chí” ấy cũng mang ý nghĩa rất riêng. Nó thể hiện một tiếng gọi
chất chứa bao trìu mến, yêu thương mà tác giả dành cho những người đồng đội của mình.
=> Sáu câu thơ đầu của bài thơ đã đi sâu khám phá, lí giải cơ sở và sự hình thành của tình đồng chí. Đồng
thời, tác giả đã cho thấy những điểm chung, những trải nghiệm khó khăn từng trải qua khiến những người
nông dân xa lạ trở thành những người đồng chí, đồng đội sống chết có nhau.
4. Phân tích 10 câu thơ giữa bài thơ Đồng Chí: Những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí, đồng đội
a. Tình đồng chí biểu hiện qua sự thấu hiểu tâm tư của nhau
16
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”
Họ thấu hiểu cảnh ngộ, mối bận tâm của nhau nơi chốn quê nhà:
– Xuất thân trong vùng địa giới khắc nghiệt, cùng với đó là hoàn cảnh gia đình khó khăn. Nay các anh ra
trận, căn nhà vốn neo người, thiếu sức lao động trở nên bộn bề bởi công việc đồng áng, phải nhờ đến “bạn
thân” giúp đỡ
Cuộc sống gia đình các thiếu thốn chồng chất khó khăn, được miêu tả rõ nét qua hình ảnh “gian nhà
không”:
– Thể hiện cái nghèo về mặt vật chất trong cuộc sống gia đình
– Diễn tả hình dáng căn nhà trống vắng khi thiếu các anh, những người trụ cột trong gia đình, tạo nguồn
thu nhập duy nhất của gia đình
Họ thấu hiểu lí tưởng cách mạng và cùng mang trong mình quyết tâm lên đường giải phóng dân tộc:
– “Ruộng nương” và “căn nhà” đều là những tài sản quý giá, gần gũi, gắn bó với người nông dân. Ấy vậy
mà họ sẵn sàng bỏ lại nơi hậu phương để lên đường ra trận. Điều này cho thấy, dù xuất thân nghèo khó
nhưng khi đất nước bị xâm lược, ngay cả người nông dân cũng sẵn sàng hy sinh hạnh phúc của mình vì lợi
ích chung của toàn dân tộc.
Sử dụng từ ngữ rất giản dị, mộc mạc, nhưng giàu sức gợi:
– Từ “mặc kệ” vốn để chỉ thái độ thờ ơ đối với 1 sự vật hay sự việc. Tuy nhiên, từ “mặc kệ” trong câu thơ
“gian nhà không mặc kệ gió lung lay” đã thể hiện thái độ dứt khoát, quyết tâm của người nông dân nghèo
trước quyết định nhập ngũ. Họ mặc kệ những gì điều quý giá, mặc kệ khó khăn phải đối diện khi nhập ngũ,
quyết tâm ra đi vì nghĩa lớn.
– Từ “mặc kệ” cũng thể hiện thái độ của những người lính, luôn sẵn sàng hy sinh thầm lặng vì độc lập tự
do của đất nước, không vì danh lợi hay mong cầu điều gì to lớn cho bản thân
Họ thấu hiểu nỗi nhớ quê nhà thường trực trong tâm hồn người lính:
– Họ lên đường nhập ngũ khi mang trong mình một trời thương nhớ: nhớ nhà, nhớ quê và trên hết là nỗi
nhớ người thân da diết. Nỗi nhớ nhiều đến nỗi, họ có thể hình dung thấy gian nhà không đang lung lay
trong cơn gió nơi quê nhà xa xôi.
– Mặc dù vậy, trên chiến trường khốc liệt, những người lính không thể để cảm xúc chi phối ý chí chiến đấu.
Chính vì vậy, để tiếp tục mục tiêu giành lại độc lập dân tộc, họ bắt buộc phải dùng lý trí để chế ngự tình
cảm. Tuy nhiên càng chế ngự thì nỗi nhớ nhung càng trở nên da diết.
Hình ảnh “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” vừa là hình ảnh ẩn dụ, vừa là phép nhân hóa diễn tả một
cách tự nhiên và tinh tế tâm hồn người lính:
– Nghĩa ẩn dụ: hình ảnh “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” diễn tả tấm lòng của người lính, ra đi trong
nỗi nhớ quê hương. Từ đó tạo cho “giếng nước gốc đa” một tâm hồn để nhớ về.
=> 3 câu thơ đã gợi lên hình tượng người lính tham gia kháng chiến chống Pháp, tràn đầy khí thế và ý chí
kiên cường, quyết tâm ra đi để bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Mặt khác, sâu xa trong lòng, họ vẫn da
diết nhớ về quê hương.
b. Tình đồng chí biểu hiện qua cuộc đời quân ngũ, từng đồng cam cộng khổ, kề vai sát cánh bên nhau.
Vì vậy, 7 dòng thơ tiếp, Chính Hữu đã dành để nói về những trải nghiệm gian khổ mà các anh bộ đội
đã phải trải qua trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
17
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giả
Chân không giày”
– Là một người lính từng trực tiếp tham gia chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947, Chính Hữu có thể thấu
hiểu những thiếu thốn và gian khổ của đời lính hơn bất kỳ ai khác.
Tác giả đã vẽ lên bức tranh hiện thực sống động về người lính với sự đồng cảm sâu sắc thông qua bút pháp
miêu tả chân thực kết hợp với hình ảnh thơ chọn lọc. Đầu tiên là những cơn sốt rét rừng:
– Sử dụng bút pháp tả thực, tác giả đã tái hiện rõ sự khắc nghiệt của những cơn sốt rét rừng đang tàn phá
cơ thể những người lính: “từng cơn ớn lạnh”, “sốt run người”, “trán ướt mồ hôi”
– Trong những cơn sốt rét “ớn lạnh” ấy, sự lo lắng, quan tâm giữa, tình đồng chí đã trở thành điểm tựa tinh
thần vững chắc, giúp họ vượt qua những gian khổ, khó khăn
Cuộc đời thiếu thốn và đầy gian khổ của người lính đầy thiếu thốn được khắc họa thông qua:
– Thủ pháp liệt kê: “áo rách vai”, “quần vài mảnh vá, “chân không giày” đã lột tả những chi tiết rất thật,
chắt lọc từ thực tế cuộc sống người lính để thể hiện những nỗi vất vả mà họ phải trải qua trên chiến trường
– Những khó khăn gian khổ như được nhân đôi khi tác giả đặt sự thiếu thốn bên cạnh sự khắc nghiệt của
thiên nhiên núi rừng, sự buốt giá của những đêm “rừng hoang sương muối”.
– Trái ngược với hoàn cảnh khó khăn, những người lính vẫn giữ cho mình một tinh thần lạc quan về cuộc
cách mạng. Điều này được thấy rõ nhất qua hình ảnh “miệng cười buốt giá”, coi nhẹ thử thách và luôn sẵn
sàng vượt lên khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao
– Sử dụng những hình ảnh sóng đôi, đối xứng nhau trong câu thơ, tác giả đã diễn tả được sự gắn kết, đồng
cảm giữa những người lính trong tình đồng chí dạt dào và thiêng liêng
=> Qua 7 câu thơ, với cương vị là một người lính, tác giả đã nói lên một cách cụ thể và chân thực cảnh ngộ
thiếu thốn của người lính, đồng thời thấy được tấm lòng yêu thương giữa họ. Tình thương đó không phô
trương mà được thể hiện lặng lẽ qua những hành động ân cần, sự giúp đỡ lẫn nhau trong những hoàn cảnh
khó khăn
c. Tình đồng chí biểu hiện qua việc yêu thương gắn bó, sẵn sàng sẻ chia
Những cảm xúc thiêng liêng được tác giả dồn nén trong hình ảnh thơ đầy cảm động, ý nghĩa:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
– Những gian lao, mệt nhọc trong cuộc sống của người lính những năm kháng chiến dường như được an ủi
bởi hơi ấm và niềm vui của tình đồng đội “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
– Những cái bắt tay tuy giản đơn nhưng chất chứa biết bao yêu thương trìu mến. Qua câu thơ, tác giả đã
dùng sự thiếu thốn nhằm tô đậm sự giàu sang về tinh thần mà những người lính có được khi nhập ngũ
– Những cái bắt tay thay cho lời động viên chân thành, giúp những người lính cùng nhau vượt qua những
khó khăn, thiếu thốn, tiếp tục mỉm cười, tiếp tục cùng nhau bước trên con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc
– Những cái bắt tay còn biểu trưng cho sự cảm thông, là phương tiện để những người lính truyền cho nhau
hơi ấm, truyền cho nhau sức mạnh tinh thần để vượt lên số phận
– Những cái nắm tay còn là lời hứa, sự đoàn kết để cùng nhau chung sức chiến thắng quân thù
=> Có lẽ không ngôn từ nào có thể diễn tả được tình đồng chí mà chỉ có những hành động mới có thể làm
được điều đó. Chính những hành động tình cảm, sự đoàn kết gắn bó đã giúp sưởi ấm tâm hồn người lính
qua 75 ngày đêm chiến đấu, gián tiếp tạo nên chiến thắng của chiến dịch Việt Bắc năm 1947.

5. Phân tích 3 câu thơ cuối bài thơ Đồng Chí: Hình ảnh biểu tượng cho thấy sức mạnh và vẻ đẹp của
tình đồng chí, đồng đội
18
3 câu thơ cuối được xây dựng trên nền thời gian và không gian đặc biệt:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Nổi bật trên bức tranh khung cảnh rừng đêm hoang vắng là hình ảnh người lính “đứng cạnh bên nhau chờ
giặc tới”:
– Hình ảnh “đứng cạnh bên nhau” thể hiện tình đoàn kết, kề vai sát cánh bên nhau trong mọi hoàn cảnh
– Hình ảnh “chờ giặc tới” cho thấy người lính luôn trong tư thế chủ động, hiên ngang, sẵn sàng chiến đấu,
mặc cho sự khắc nghiệt của thiên nhiên, thời tiết
Khép lại bài thơ là tác giả sử dụng một hình ảnh độc đáo “đầu súng trăng treo” vừa mang tính hiện
thực, vừa đạm tính lãng mạn:
– Tính hiện thực: gợi cho tác giả nhớ về những đêm hành quân, phục kích chờ giặc. Lúc ấy, nhìn từ xa,
vầng trăng như hạ thấp ngang đầu súng, dẫn đến phát hiện thú vị: trăng lơ lửng như treo trước mũi súng.
– Chất lãng mạn: giữa không gian khắc nghiệt và nguy hiểm ấy, tâm hồn người lính lại có thể cảm nhận
được ánh trăng, “treo” một vầng trăng lung linh trước súng
– Động từ “treo” được sử dụng đã là tăng thêm tính thơ mộng, giúp nối liền khoảng cách giữa mặt đất với
bầu trời, hay chính là sự hòa hợp giữa tâm hồn người lính và tâm hồn của một nhà thơ
Ý nghĩa đằng sau hình ảnh “đầu súng trăng treo”:
– Súng là một trong số những loại vũ khí biểu tượng cho cuộc chiến đấu, hiện thực khốc liệt. Trong khi đó,
trăng biểu tượng cho non nước, vẻ đẹp thanh bình và lãng mạn
– Khi súng và trăng được đặt trên một bình diện đã gợi cho người đọc nhiều liên tưởng phong phú về sự
đối lập như: chiến tranh và hòa bình; hiện thực và lãng mạn; chất lính và tâm hồn thi sĩ
– Hình ảnh thể hiện vẻ đẹp của tình đồng chí, giúp thanh lọc tâm hồn người chiến sĩ trong những lúc cam
go khốc liệt
– Hình ảnh thơ tô đậm vẻ đẹp tâm hồn người lính: dù trong chiến tranh ác liệt, họ vẫn có cho mình sự lạc
quan, niềm yêu đời và hướng về một tương lai tươi sáng.
=> Đây là một bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính, là hình ảnh biểu tượng cho thơ ca
kháng chiến – một nền thơ ca hài hòa giữa chất liệu hiện thực và cảm hứng lãng mạn.
II. BÀI TẬP
1. Phân tích ý nghĩa nhan đề bài thơ
2. Phân tích 7 câu thơ đâu (cơ sở hình thành tình đồng chí)
3. Phân tích 10 câu giữa (Biểu hiện của tình đồng chí)
4. Phân tích 3 câu cuối (Biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí)

F. BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH (PHẠM TIẾN DUẬT)


I. LÝ THUYẾT
1. Tác giả:
- Phạm Tiến Duật (1941 - 2007), quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
- Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 1964, Phạm Tiến Duật gia nhập quân đội, hoạt
động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà
thơ trẻ thời chống Mỹ cứu nước.
- Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ qua các
hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
- Thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.
2. Tác phẩm:

19
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Bài thơ viết năm 1969, thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra rất ác liệt trên con đường chiến lược
Trường Sơn.
- Bài thơ được tặng giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969 và được đưa vào tập thơ “Vầng trăng
quầng lửa” của tác giả.
b. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:
* Nội dung: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật đã khắc hoạ một hình ảnh độc đáo:
những chiếc xe không kính. Qua đó, tác giả khắc hoạ nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường
Sơn trong thời chống Mỹ, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy
hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam.
* Nghệ thuật: Tác giả đã đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường, ngôn
ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khoẻ khoắn.
c. Nhan đề
- Dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng thu hút người đọc ở cái vẻ lạ độc đáo của nó.
- Làm nổi bật hình ảnh toàn bài: những chiếc xe không kính.
- Hai chữ bài thơ thêm vào cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả muốn nói về
chất thơ của hiện thực khốc liệt thời chiến tranh, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm vượt lên thiếu
thốn, gian khổ hiểm nguy của thời chiến.
3. Hình ảnh những chiếc xe không kính
– Hình ảnh những chiếc xe không kính được tác giả miêu tả trần trụi, chân thực:
Không có kính không phải vì xe không có kính,
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
+ Đó là những chiếc xe vận tải chở hàng hóa, đạn dược ra mặt trận, bị máy bay Mĩ bắn phá, kính xe vỡ hết.
+ Động từ “giật”, “rung” cùng với từ “bom” được nhấn mạnh hai lần càng làm tăng sự khốc liệt của chiến
tranh
=> Hai câu thơ đã giải thích nguyên nhân những chiếc xe lại không có kính, qua đó phản ánh mức độ khốc
liệt của chiếc tranh.
- Theo thời gian, những chiếc xe càng thêm biến dang:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
+ Không chỉ dừng lại ở việc “không có kính”, xe còn “không có đèn”, “không có múi”. Những tưởng giữa
muôn vàn cái “không” lại xuất hiện cái “có” nhưng “có xước” như lại góp thêm 1 nét vẽ cho chiếc xe càng
tội nghiệp hơn.
 Chiếc xe trở nên méo mó, biến dạng, ọp ẹp, làm nền để nổi bật hình ảnh người chiến sĩ lái xe.
4. Hình ảnh người chiến sĩ lái xe
a. Khổ 1,2: Tư thế ung dung, hiên ngang của người lính khi lái những chiếc xe không kính
- Tư thế hiên ngang, ngang tàng, sẵn sàng ra trận:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
– Biện pháp đảo ngữ, đưa tính từ “ung dung” lên đứng đầu câu giúp tạo nên sự bình thản, điềm tĩnh đến kỳ
lạ của người lính lái xe

20
– “Nhìn thẳng” là cái nhìn chủ động, đầy tự chủ, bất khuất, bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, đặc biệt là sự
dũng cảm, hiên ngang của người lính. Họ nhìn thẳng vào gian khổ, không mảy may run sợ trước khó khăn,
không thẹn với trời đất vì chính họ cũng đang chiến đấu vì một mục tiêu cao cả
– Điệp từ “nhìn” được lặp lại ba lần, kết hợp với nhịp thơ dồn dập, giọng điệu mạnh mẽ đã thể hiện tầm
nhìn rộng, khoáng đạt của người lính giữa chiến trường
– Biện pháp liệt kê và điệp ngữ trong câu thơ “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” đã thể hiện tư thế vững vàng,
hiên ngang của những người lính lái xe, sẵn sàng nhìn thẳng vào bom đạn, nhìn thẳng vào con đường đang
bị bắn phá để lái xe vượt qua.
- Tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan coi thường hiểm nguy của người lính lái xe ra trận được tô đậm
qua những hình ảnh thiên nhiên:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.”
– Thay vì gói gọn trong không gian của chiếc xe tải không kính, tác giả đã mở rộng tầm nhìn ra một không
gian rộng lớn hơn. Ở đó có những con đường dài, có gió thổi, có cánh chim và những ánh sao đêm. Phải
chăng thiên nhiên nơi núi rừng Trường Sơn đang ùa vào buồng lái, gợi lên chất thơ trong tâm hồn những
anh lính trẻ
Không gian rộng lớn của thiên nhiên được tác giả miêu tả thông qua:
– Điệp từ “thấy” và điệp ngữ: “nhìn thấy… nhìn thấy…” cùng giọng thơ hối hả đã gợi lên khung cảnh từng
đoàn xe không kính nối đuôi nhau, vận chuyển nhu yếu phẩm từ Bắc vào Nam
– Biện pháp nhân hóa chuyển đổi cảm giác “vào xoa mắt đắng” nhằm thể hiện những hiểm nguy do thời
tiết mà những người lính phải trải qua. Do xe không có kính nên không thể chặn gió. Gió thổi vào buồng
lái làm “mắt đắng”. Thế nhưng, những anh lính vẫn dũng cảm, bất chấp khó khăn tiến về phía trước
– Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim” thể hiện tốc độ phóng nhanh như bay của những chiếc xe.
Chiếc xe không kính cùng với tốc độ cực nhanh của xe tạo đã rút ngắn khoảng cách giữa các anh với con
đường, khiến người lính lái xe có cảm giác con đường đang chạy thẳng vào tim, hòa cùng dòng máu yêu
nước chảy trong lồng ngực.
– Hình ảnh “sao trời” và “cánh chim” vốn là biểu tượng phân biệt hai trạng thái ban đêm và ban ngày. Câu
thơ “thấy sao trời và đột ngột cánh chim” mang ý nghĩa từng đoàn xe nối đuôi nhau chạy không kể ngày
đêm, cứ khi nào máy bay Mỹ ngừng bay thì quân ta sẽ hành quân
– Hình ảnh so sánh “như sa, như ùa vào buồng lái” một lần nữa nhấn mạnh tốc độ nhanh phi thường của
tiểu đội xe không kính khi ra trận. Không những đường đi mà cả một bầu trời đêm cũng như ùa vào buồng
lái.
=> Qua 2 khổ thơ đầu, tác giả đã gợi tả sinh động hiện thực chiến trường chính xác đến từng chi tiết. Hơn
nữa, đằng sau đó còn là một khí chất, một bản lĩnh, thể hiện qua tư thế chiến đấu ung dung, hiên ngang của
người lính trước sự khốc liệt của chiến tranh.
b. Khổ 3,4: Tinh thần lạc quan, sôi nổi và bất chấp khó khăn hiểm nguy của người lính
“Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính, ừ thì ướt áo


21
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”
Với tinh thần lạc quan, những người lính lái xe đã coi gian khổ, hiểm nguy nơi chiến trường trở thành
một phần trong cuộc sống tại Trường Sơn. Điều này được thể hiện qua:
– Hình ảnh thơ “gió”, “bụi”, “mưa” là những hiện tượng thiên nhiên, thời tiết, đặc trưng cho những gian
khổ, thử thách mà người lính phải đối diện
– Cấu trúc lặp: “Không có…, ừ thì…” lặp lại hai lần ở đầu hai khổ thơ, cùng với đó là kết cấu phủ định
“Chưa cần…” đã thể hiện sự ngang tàn, thái độ coi thường hiểm nguy, bất chấp khó khăn, coi thường gian
khổ của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn
– Hình ảnh so sánh trong hai câu thơ “Bụi phun tóc trắng như người già” và “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài
trời” là cách nói phóng đại của tác giả nhằm nhấn mạnh sự khắc nghiệt của thiên nhiên nơi chiến trường,
đồng thời cho thấy tinh thần lạc quan, dũng cảm tiến về phía trước của người lính Trường Sơn. Mặc cho
bụi mưa phủ đầy trên tóc, trên áo, họ vẫn giữ một hướng đi, vẫn lái xe lao thẳng về phía trước.
– Trong sự khắc nghiệt của thiên nhiên, những người lính vẫn “phì phèo châm điếu thuốc”, cố gắng “lái
trăm cây số nữa”. Đây là hình ảnh cho thấy sự thản nhiên, phong thái thờ ơ của người lính lái xe trước
những thử thách phải trải qua trên tuyến đường Trường Sơn.
=> Với ngôn ngữ giản dị đời thường, kết hợp cùng giọng điệu thản nhiên, hóm hỉnh, tác giả đã làm nổi bật
niềm vui, tiếng cười của người lính giữa muôn vàn gian khổ, hiểm nguy của cuộc chiến đấu, cùng với đó
là bản lĩnh, nghị lực phi thường
=> Hình ảnh tiểu đội xe không kính qua 2 khổ thơ trên là minh chứng rõ nét cho chủ nghĩa anh hùng cách
mạng và thanh niên Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước
c. Khổ 5,6: Tình đồng chí cao đẹp và tinh thần đoàn kết của người lính lái xe dọc Trường Sơn
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời


Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Vượt qua hàng nghìn, hàng vạn cây số lái xe trong mưa bom, bão đạn, những người lính lại gặp nhau
để cùng tếu táo và ấm áp trong tình đồng đội, đồng chí. Chính tình cảm thiêng liêng này là sợi dây vô
hình kết nối mọi người trong tình cảnh cái chết luôn rình rập
– Hình ảnh “Những chiếc xe từ trong bom rơi”: vừa tả thực về những chiếc xe không kính, mưa bom đạn
chiến trường để trở về, vừa hàm ý nhấn mạnh sự bất khuất, ý chí chiến đấu kiên cường của những người
lính lái xe
Ý nghĩa hình ảnh giàu sức gợi “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” :
– Thể hiện sự đồng cảm sâu sắc giữa những người lính khi trải qua những khó khăn như nhau mặc dù trên
những cung đường khác nhau
– Hành động “bắt tay” có thể coi như những lời động viên ngắn ngủi mà họ dành cho nhau. Cái bắt tay ấy
vừa mang lại sự an ủi, vừa là động lực kết nối những trái tim lại với nhau, ủng hộ lẫn nhau trong hành trình
dài phía trước
22
Cuộc hội ngộ của tiểu đội xe không kính tuy ngắn ngủi mà thắm tình đồng đội:
Qua những bữa cơm vội vàng dã chiến “giữa trời”, dùng chung bát, chung đũa đã vô hình giúp các chiến
sĩ gần nhau hơn:
– Hình ảnh gia đình hiện lên mang đậm chất lính, vừa tếu táo mà vừa chân tình, sâu nặng. Vô tình nhờ
những khó khăn, thiếu thốn đó, những người lính đã gắn bó với nhau như một gia đình thực thụ, giúp đỡ
nhau trong cả chiến đấu lẫn đời thường
– Thời gian nghỉ ngơi tuy chỉ diễn ra thoáng chốc và bữa cơm “chung bát đũa” giữa đường xe chạy đã trở
thành khoảnh khắc hạnh phúc hiếm hoi trên hành trình vượt Trường Sơn của những người lính. Từ đó xóa
đi khoảng cách, giúp họ trở nên gần gũi, thân thiết, thậm chí là yêu thương nhau như ruột thịt.
– Từ láy “chông chênh” của chiếc võng chính là ẩn dụ cảm giác bấp bênh không bằng phẳng trên những
tuyến đường mà xe đi qua. Ngay cả lúc nghỉ ngơi thì những chiến sĩ vẫn phải chịu sự bấp bênh, thiếu an
toàn đó. Song, đối với họ, càng gian khổ thì ngày thắng lợi càng đến gần.
– Nghệ thuật ẩn dụ “trời xanh thêm” đã thể hiện tâm hồn sôi nổi và lạc quan của người chiến sĩ. Màu sắc
xanh là biểu tượng của niềm tin, sự tin tưởng, là hi vọng vào ngày dân tộc chiến thắng, đất nước hoàn toàn
giải phóng
– Điệp từ “lại đi, lại đi” và nhịp thơ 2/2/3 đã khẳng định đoàn xe sẽ khẩn trương tiếp tục đi về phía con
đường gian khổ phía trước
=> Khổ thơ cho thấy nhịp sống sôi nổi và tinh thần chiến đấu kiên cường của tiểu đội xe không kính. Dù
cho sức mạnh của giặc Mỹ có tàn bạo cỡ nào cũng không thể ngăn cản nổi ý chí chiến đấu của quân đội ta.
d. Khổ thơ cuối: Lòng yêu nước, ý chí chiến đấu và lý tưởng cách mạng của người lính
Bài thơ khép lại với bốn câu thơ thể hiện ý chí chiến đấu kiên cường của người lính lái xe Trường Sơn –
đại diện cho thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ với lý tưởng sống cao đẹp
“Không có kinh, rồi không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Trong khổ thơ cuối, tác giả đã một lần nữa nhắc lại hình ảnh những chiếc xe không kính một cách chân
thực và sinh động qua:
– Biện pháp liệt kê những điểm không hoàn thiện của chiếc xe như: không kính, không đèn, không mui,
thùng xe xước để nhấn mạnh sự thiếu thốn, không toàn vẹn của đoàn xe mang trong mình nhiệm vụ “xẻ
dọc Trường Sơn cứu nước”.
– Điệp từ “không có” góp phần diễn tả sự khốc liệt và dữ dội mà chiến trường đã mang lại cho những chiếc
xe: mưa bom đạn lạc khiến chiếc xe trở nên trơ trụi, thiếu những bộ phận cơ bản nhất của một chiếc xe bình
thường.
– Sự trơ trụi và tàn phá của bom đạn tưởng chừng như đã khiến xe ngừng hoạt động. Nhưng điều kỳ diệu
là những chiếc xe ấy vẫn bon bon trên đường ra trận, hoàn thành nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, góp sức vào
công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước
– Sử dụng phép đối lập “không có” với “vẫn chạy” đã làm nổi bật sức mạnh, sự ngoan cường của người
lính lái xe
– Câu thơ “Vì miền Nam phía trước” gợi nhắc đến niềm tin về ngày chiến thắng, ngày miền Nam giải
phóng, thống nhất đất nước
Hình ảnh “trái tim” là một hoán dụ nghệ thuật sáng tạo của tác giả, nói lên chân lý sâu xa về sức mạnh
của lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng cao đẹp:

23
– Hình ảnh trái tim đã khẳng định phẩm chất cao quý của các người lính lái xe trên đường Trường Sơn.
Các anh vừa giúp tiếp nối truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam, vừa trở thành hình tượng
thanh niên tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước của thế hệ chống Mỹ cứu nước
– Các bộ phận trên xe tuy thiếu và không còn nguyên vẹn nhưng “chỉ cần” một “trái tim” yêu nước nguyên
vẹn thì xe vẫn hoàn toàn có thể băng băng ra trận, hoàn thành nhiệm vụ cao cả của mình
– Hình ảnh “trái tim” còn tượng trưng cho lòng dũng cảm, lòng yêu nước và sức mạnh của lòng yêu nước.
Chính sức mạnh vô hình ấy đã lấp đầy những phần thiếu sót của chiếc xe, tạo động lực cho người lính vượt
qua khó khăn, thử thách
– “Trái tim” của người lính tuy vô hình mà hữu hình, có thể thay thế cho mọi thứ, biến chiếc xe không kính
như trở thành một cơ thể sống, hợp nhất với tâm hồn người chiến sĩ để tiếp tục hành trình dài phía trước.
=> Hình ảnh “trái tim” khép lại bài thơ đã làm bừng sáng lên ý nghĩa của toàn bộ tác phẩm. Đó là một trái
tim yêu thương, trái tim kiên trường, trái tim cầm lái, giúp người lính chiến thắng mọi đe dọa của kẻ thù.
Và “trái tim” ấy cũng đã trở thành nhãn tự của bài thơ, để lại ấn tượng và cảm xúc sâu lắng trong lòng
người đọc.
II. BÀI TẬP
1. Phân tích hình ảnh những chiếc xe không kính (2 câu đầu khổ 1 + 2 câu đầu khổ cuối)
2. Phân tích hình ảnh người chiến sĩ lái xe (cả bài)
3. Phân tích khổ 1,2 (Tư thế của người lính lái xe)
4. Phân tích khổ 3,4 (Tinh thần bất chấp khó khăn)
5. Phân tích khổ 5,6 (Tình đồng chí, đồng đội)
6. Phân tích khổ cuối

G. ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ (HUY CẬN)


1. Tác giả Huy Cận
– Huy Cận (1919 – 2005) tên thật là Cù Huy Cận, quê ở Hà Tĩnh.
- Là nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới
- Nội dung sáng tác:
+ Trước CMT8: Triết lí, mang nỗi sầu nhân thế;
+ Sau CMT8: Niềm vui của con người tự do trước cuộc sống mới.
2. Tác phẩm:
a) Hoàn cảnh sáng tác
– Năm 1958, Huy Cận có chuyến công tác đi thực tế dài ngày về cùng mỏ Quảng Ninh ( đây là thời kì cuộc
kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, Miền Bắc đang trong công cuộc dựng xây chủ nghĩa xã hội
và làm hậu phương cho tiền tuyến Miền Nam).
– Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên
đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới, mở một chặng đường mới trong thơ Huy Cận. Bài
thơ Đoàn thuyền đánh cá được ông Sáng tác trong chuyến đi này và đưa vào tập Trời mỗi ngày lại sáng
(1958).
b. Thể thơ: 8 chữ
c. Bố cục: Bài thơ được bố cục theo hành trình một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá.
– Hai khổ đầu: cảnh lên đường và tâm trạng náo nức của con người
– Bốn khổ tiếp: Cảnh hoạt động của đoàn thuyền đánh cá giữa khung cảnh biển trời ban đêm.
– Khổ cuối: cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh lên:

24
d. Nghệ thuật, nội dung:
Đặc sắc nghệ thuật
– Bài thơ là sự thống nhất hài hòa giữa hai nguồn cảm hứng: cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ với cảm hứng
về người dân lao động đã tạo ra những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài.
– Hình ảnh thơ giàu vẻ đẹp lãng mạn được xây dựng bằng bút pháp khoáng đạt, khoa trương, sự liên tưởng,
tưởng tượng phong phú và độc đáo.
– Cách gieo vần linh hoạt, nhịp điệu kết hợp cổ điển và phá cách tạo âm điệu sôi nổi, phơi phới khiến bài
thư như một khúc tráng ca khỏe khoắn, sau sưa.
Nội dung:
Bài thơ là một khúc tráng ca khỏe khoắn, hào hùng ngợi ca vẻ đẹp tráng lệ, kì vĩ thân thuộc của thiên nhiên
và vẻ đẹp của người lao động mới trong công cuộc dựn xây chủ nghĩa xã hội. Từ đó, nhà thơ bộc lộ niềm
vui, niềm tự hào, tin tưởng trước đất nước, con người và cuộc sống mới.
3. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi (hai khổ thơ đầu)
KHỔ 1:
a, Khung cảnh trời biển
Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trên phông nền của một buổi hoàng hôn tuyệt đẹp:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa”
– Tác giả đã đặt nhân vật trữ tình từ một điểm nhìn nghệ thuật rất đặc biệt: đó là một điểm nhìn di động
được đặt trên con thuyền đang tiến bước ra khơi
– Sử dụng một hình ảnh so sánh rất độc đáo: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa”:
+ Tả thực vầng mặt trời đỏ rực từ từ chìm xuống lòng biển khép lại vòng tuần hoàn của một ngày
+ Gợi quang cảnh kì vĩ, tráng lệ cảu bầu trời và mặt biển lúc hoàng hôn
+ Gợi bước đi của thời gian và đặc biệt thời gian này nó không chết lặng mà có sự vận động theo hành trình
của đoàn thuyền đánh cá
– Sử dụng hình ảnh nhân hóa: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”:
+ Tả những con sóng xô bờ như những chiếc then cửa của vũ trụ để chìm vào trạng thái nghỉ ngơi
+ Gợi cảm giác gần gũi, thân thương, bởi vũ trụ được hình dung như một ngôi nhà lớn của con người.
-> Qua hai câu thơ đầu có thể thấy, Huy Cận yêu thiên nhiên và yêu mến cuộc đời như thế nào.
b. Cảnh đoàn thuyền ra khơi:
Trên phông nề thiên nhiên tuyệt đẹp ấy, con người dần dần xuất hiện:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
– Phụ từ “lại” tạo được điểm nhấn ngữ điệu và sức nặng của câu thơ:
+ Gợi thế chủ động của con người và cho biết công việc ra khơi vẫn lặp đi lặp lại hàng ngày, trở thành
một hành động quen thuộc
+ Đồng thời, miêu tả một hành động đối lập: Đối lập giữa hoạt động của vũ trụ và hoạt động của con
người
– Hình ảnh “câu hát căng buồm cùng gió khơi”:
+ Cụ thể hóa niềm vui phơi phới, sự hào hứng, hăm hở của người lao động
+ Gợi cho chúng ta liên tưởng tới luồng sức mạnh đã đưa con thuyền vượt trùng ra khơi
+ Với nghệ thuật chuyển đổi cảm giác “câu hát căng buồm” gợi vẻ đẹp tâm hồn của người lao động gửi
gắm vào trong lời hát

25
-> Đoàn thuyền ra khơi trong trạng thái phấn chấn, náo nức đến lạ kì và dường như có một sức mạnh vật
chất đã cùng với gió làm thổi căng cánh buồm, đẩy con thuyền lướt sóng ra khơi
KHỔ 2:
Trong tâm trạng phấn chấn, náo nức ra khơi, những người dân chai đã cất cao tiếng hát:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
– Từ “hát rằng” gợi lên niềm vui của người dân chai, hứa hẹn một chuyến ra khơi bội thu
– Thủ pháp liệt kê (cá bạc, cá thu) và so sánh (như thoi đưa) mang đến âm hưởng ngợi ca, tự hào trong
câu hát về sự giàu có của biển cả
– Hình ảnh nhân hóa “đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”
+ Cho thấy không khí lao động hang say không kể ngày đêm của người lao động
+ Gợi hình ảnh những đoàn cá đang dệt những tấm lưới giữa biển đêm
+ Gợi những vệt nước lấp lánh được tạo ra khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng
=>Tác giả đã phác họa thành công một bức tranh thiên nhiên kì vĩ, thơ mộng và qua đó gợi được tâm hồn
phóng khoáng, tình yêu lao động và niềm hi vọng cảu người dân chài.
4. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển (khổ 3,4,5,6)
a, Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá được miêu tả cụ thể và rất sinh động (KHỔ 3)
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển lặng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
– Đoàn thuyền đánh cá được tái hiện trên nền thiên nhiên bao la, rộng mở: chiều cao của gió trăng, chiều
rộng của mặt biển và còn cả chiều sâu của lòng biển
– Với cảm hứng nhân sinh vũ trụ, Huy Cận đã xây dựng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá rất tương xứng với
không gian
+ Cách nói khoa trương phóng đại qua hình ảnh “lái gió với buồm trăng”, “lướt giữa mây cao với biển
bằng” cho thấy con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ, khổng
lồ, hòa nhập với không gian bao la, rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ.
+ Khi con thuyền buông lưới thì như dò thấu đáy đại dương. Rõ ràng, con thuyền cũng như con người
đang làm chủ không gian này.
+ Hệ thống động từ được rải đều trong mỗi câu thơ: “lái”, “lướt”, “dò”, “dàn”, cho thấy hoạt động của
đoàn thuyền và con thuyền đang làm chủ biển trời
=> Khổ thơ gợi lên một bức tranh lao động thật đặc sắc và tráng lệ. Bức tranh ấy như thâu tóm được cả
không gian vũ trụ vào trong một hình ảnh thơ, đồng thời nâng con người và con thuyền lên tầm vóc vũ trụ
b. Lần theo đoàn thuyền đánh cá, tác giả đã mở ra sự giàu có, phong phú và nâng tấm lòng hào
phóng, bao dung của biển cả (KHỔ 4)
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”

26
– Bằng thủ pháp liệt kê, tác giả đã miêu tả sự phong phú và giàu có của biển cả quê hương qua những loài
cá vừa quý hiếm lại vừa ngon của biển cả
– Hình ảnh ẩn dụ “cá song lấp lánh đuốc đen hồng”:
+ Tả thực loài cá song, thân dài, trên vảy có những chấm nhỏ màu đen hồng
+ Gợi hình ảnh về đoàn cá song như một cây đuốc lấp lánh dưới ánh trăng đêm, đã tạo nên một cảnh
tượng thật lộng lẫy và kì vĩ
– Hình ảnh nhân hóa “cái đuôi em vẫy trăng vàng chóe”:
+ Miêu tả động tác quẫy đuôi của một chú cá dưới ánh trăng vàng chiếu rọi
+ Gợi một đêm trăng đẹp, huyền ảo mà ánh trăng như thếp đầy mặt biển khiến cho đàn cá quẫy nước mà
như quẫy trăng
– Hình ảnh nhân hóa “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”:
+ Tả nhịp điệu của những cánh sóng
+ Gợi nhịp thở của biển, vũ trụ lúc đêm về. Biển như mang linh hồn của con người, như một sinh thể
cuộn trào sức sống
– Trước sự giàu có và phong phú của biển cả, đã mở ra tâm trạng háo hức vui tươi để người dân
chài lưới tiếp tục cất cao tiếng hát (KHỔ 5)
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển nuôi ta lớn như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
+ Hình ảnh so sánh biển “như lòng mẹ”:
. Biển tựa như nguồn sữa khổng lồ đã nuôi dưỡng con người tự bao đời
. Thể hiện sâu sắc niềm tự hào và lòng biết ơn của người dân chài với biển cả quê hương
=>Ẩn sau khổ thơ, ta thấy lòng biết ơn của con người trước ân tình của quê hương đất nước
c, Khung cảnh lao động hăng say trên biển (KHỔ 6)
Một đêm trôi nhanh trong nhịp điệu lao động khẩn trương, hào hứng, hăng say:
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
– Hệ thống từ ngữ tượng hình: “kéo xoăn tay”, “lưới xếp”, “buồm lên” đã đặc tả để làm hiện lên một cách
cụ thể, sinh động công việc kéo lưới của những ngư dân
– Hình ảnh ẩn dụ “ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”:
+ Những nét tạo hình gân guốc, chắc khỏe, cơ bắp cuồn cuộn gợi vẻ đẹp khỏe khoắn của người dân chài
lưới trong lao động
+ Đồng thời gợi lên một mẻ lưới bội thu
– Hình ảnh “vẩy bạc”, “đuôi vàng” đầy ắp những khoang thuyền:
+ Cho thấy sự giàu có của iển cả quê hương và niềm vui phơi phới của người lao động
+ Màu bạc của vảy cá, màu vàng của đuôi cá dưới ánh mặt trời như lóe cá rạng đông. Điều đó cho thấy
bút pháp sử dụng màu sắc đại tài của Huy Cận
=> Tác giả đã diễn tả được một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ với sự giàu có hào phóng của thiên nhiên.
Đồng thời khắc họa thành công hình tượng người lao động lớn lao, phi thường
5. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về (KHỔ CUỐI)
Đoàn thuyền đánh cá trở về trong câu hát:
27
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời dội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
- Câu hát ra khơi và câu hát trở về thoạt nghe thì ta tưởng nó cùng là một âm hưởng, cùng là một lối miêu
tả. Những nếu đọc kĩ, ta sẽ thấy: câu hát ra khơi là “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”, còn câu hát trở về
là “Câu hát căng buồm với gió khơi”+ Khi viết về câu hát ra khơi, tác giả sử dụng từ “cùng” để gợi cái sự
hài hòa giữa ngọn gió và câu hát, từ đó tái hiện một chuyến đi thuận lợi và bình yên
+ Khi viết về câu hát trở về, tác giả đã biến đổi từ “cùng” thành từ “với” để gợi niềm vui phơi phới khi họ
được trở về trên con thuyền đầy ắp cá
+ Với nghệ thuật đầu cuối trong câu hát, ta còn thấy được điệp khúc của khúc ca lao động
– Hình ảnh nhân hóa “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”
+ Đoàn thuyền như trở thành một sinh thể sống để chạy đua với thiên nhiên bằng tốc độ của vũ trụ
+ Nâng tầm vóc của đoàn thuyền, con người sánh ngang với tầm vóc của vũ trụ
+ Gợi tư thế hào hùng, khẩn trương để giành lấy thời gian để lao động. Và trong cuộc chạy đua này, con
người đã chiến thắng. Khi “mặt trời dội biển nhô màu mới” thì đoàn thuyền đã về đến biển: “Mắt cá huy
hoàng muôn dặm khơi”
– Hình ảnh hoán dụ “mắt cá huy hoàng”
+ Miêu tả muôn triệu mắt cá li ti được phản chiếu ánh rạng đông trở nên rực rỡ, huy hoàng
+ Đây không còn là ánh sáng của tự nhiên nữa, mà là ánh sáng của thành quả lao động lấp lánh ánh vui
=> Khổ thơ mang âm hưởng của bản anh hùng ca lao động, thể hiện niềm vui phơi phới của con người
khi làm chủ đất trời
II. BÀI TẬP
1. Phân tích cảnh đoàn thuyền ra khơi (Khổ 1,2)
2. Phân tích cảnh đoàn thuyền đánh bắt trên biển ban đêm (Khổ 3,4,5,6) (Lưu ý: có thể tách ra từng khổ
riêng biệt)
3. Phân tích cảnh đoàn thuyền trở về (Khổ 7)
H. BẾP LỬA (BẰNG VIỆT)
1. Tác giả
– Bằng Việt sinh năm 1941.
– Thuộc lớp nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.
– Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, tràn đầy cảm xúc, đề tài thơ thường đi vào khai thác những kỉ niệm,
những kí ức thời thơ ấu và gợi những ước mơ tuổi trẻ.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác
– Sáng tác năm 1963, khi nhà thơ đang là sinh viên theo học ngành Luật tại nước Nga.
– In trong tập “Hương cây – bếp lửa” – tập thơ đầu tay của Bằng Việt in chung với Lưu Quang Vũ.
b. Bố cục
– Phần 1 (khổ thơ đầu): Hình ảnh bếp lửa gợi nỗi nhớ về bà của người cháu.
– Phần 2 (bốn khổ thơ tiếp): Những kí ức tuổi thơ khi còn sống cùng bà, gắn liền với bếp lửa.
– Phần 3 (khổ thơ thứ 6): Suy ngẫm của người cháu về cuộc đời bà.
– Phần 4 (khổ cuối): Tình cảm của cháu dành cho bà, dù đã khôn lớn.
28
c. Ý nghĩa nhan đề
Bếp lửa là hình ảnh quen thuộc, gần gũi đối với con người Việt Nam. Nó là kỉ niệm ấu thơ giữa tác giả và
người bà. Bếp lửa cũng là hình ảnh biểu tượng cho sự chăm sóc, yêu thương mà người bà dành cho cháu.
Bếp lửa còn là biểu tượng của gia đình, quê hương, đất nước, cội nguồn… có ý nghĩa thiêng liêng nâng
bước người cháu trên suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.
d. Giá trị nội dung
Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu sắc: Những gì thân thiết nhất của tuổi
thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình
yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.
e. Giá trị nghệ thuật
– Kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận.
– Sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm, cảm xúc
và suy nghĩ về bà và tình bà cháu.
3. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng, cảm xúc về bà (khổ thơ đầu)
– Điệp ngữ: “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần → khẳng định hình ảnh “bếp lửa” như một dấu ấn không
bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ.
– Từ láy “chờn vờn” → Bếp lửa thực được cảm nhận bằng thị giác lúc vươn cao lúc lại xuống thấp.
– Từ “ấp iu”: ấp lửa, chắt chiu, nâng niu.
→ Gợi bàn tay khéo léo và sự nâng niu, kiên nhẫn của người nhóm lửa. Trong kí ức của cháu, hình ảnh bếp
lửa vừa gần gũi thân thuộc vừa sống động, lung linh.
– “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”:
+ Cách bộc lộc cảm xúc trực tiếp → tình thương bà mãnh liệt của người cháu.
+ Hình ảnh ấn dụ: “biết mấy nắng mưa” → những vất vả, hi sinh mà bà đã trải qua.
→ Ba câu thơ mở đầu đã diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với những kí ức, hồi tưởng của tác giả về bếp
lửa, về bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời lam lũ của người bà.
4. Những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà (4 khổ tiếp)
a. Tuổi thơ nhiều gian khổ, nhọc nhằn (Khổ 2)
– Hình ảnh “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” → tái hiện lại hình ảnh xóm làng xơ xác, tiêu điều cùng
những con người tiều tụy, vật lộn mưu sinh.
– Thành ngữ: “đói mòn đói mỏi” → gợi những nỗi ám ảnh, xót xa về nạn đói khủng khiếp năm 1945
– “quen mùi khói”, “khói hun nhèm mắt cháu” → Khói bếp trở thành ấn tượng sâu đậm nhất trong tâm
hồn cháu.
– Chi tiết “sống mũi còn cay”:
+ Tả thực cuộc sống tuổi thơ gian khổ.
+ Tượng trưng cho sự xúc động mãnh liệt khi nhớ về quá khứ.
→ Cái cay vì khói bếp của cậu bé bốn tuổi và cái cay bởi xúc động của người cháu đã trưởng thành khi nhớ
về bà. Những kỉ niệm xa xưa ấy giờ đây như vẫn còn tươi mới, vẹn nguyên trong lòng cháu. Quá khứ và
hiện tại đồng hiện trên những dòng thơ.
b. Tám năm sống bên bà (Khổ 3)
– Nhớ âm thanh của tiếng tu hú:
+ Âm thanh quen thuộc của chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ vang vọng, cuộn xoáy trong lòng người con xa
xứ.

29
+ 5 lần tiếng tu hú vang lên: khi thảng thốt, khắc khoải, có lúc lại mơ hồ vẳng lại từ những cánh đồng
xa: Tu hú kêu trên những cánh đồng xa; khi thì rộn về gần gũi thiết tha: Tiếng tu hú sao mà tha thiết
thế; rồi có lúc lại gióng giả, kêu hoài → gợi nhớ, gợi thương về tuổi thơ, về người bà.
+ Điệp ngữ và câu hỏi tu từ: Tu hú ơi… đồng xa → gợi không gian bao la, buồn vắng đến lạnh lùng; gợi
cung bậc khác nhau của âm thanh → diễn tả tâm trạng của người cháu mỗi lúc càng trở nên mạnh mẽ, da
diết và khắc khoải.
– Nhớ tuổi thơ được sống trong sự cưu mang, đùm bọc trọn vẹn của bà:
+ Bố đi công tác xa cháu ở với bà → hoàn cảnh điển hình của nhiều gia đình Việt Nam trong kháng chiến.
+ Các từ bà dạy, bà chăm, bà bảo → diễn tả sự chăm chút của bà đối với cháu
+ Từ bà và cháu được điệp lại 4 lần → tình bà cháu quấn quýt yêu thương.
→ Bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần, là cội nguồn yêu thương
của cháu. Bà không chỉ chăm lo cho cháu từng chút một mà còn là người thầy đầu tiên dạy cho cháu bao
điều về cuộc sống, những bài học của bà trở thành hành trang cháu mang theo trong suốt quãng đời còn lại.
c. Năm giặc đốt làng (Khổ 4 +5)
+ Thành ngữ “cháy tàn cháy rụi” → hình ảnh làng quê hoang tàn trong khói lửa của chiến tranh.
+ Sự cưu mang, đùm bọc của xóm làng đối với hai bà cháu.
+ Cụm từ “vẫn vững lòng” và những lời dặn dò của bà: Cứ bảo rằng nhà vẫn được bình yên → đức hi sinh,
sự nhẫn nại, mạnh mẽ, kiên cường của bà.
→ Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương
vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Tình cảm bà
cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc.
– Hình ảnh ngọn lửa → ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng cho ánh sáng và hơi ấm, sự sống.
– Điệp từ “một ngọn lửa” nhấn mạnh và làm nổi bật tình yêu thương ấm áp bà dành cho cháu → Bà là
người nhóm lửa, truyền lửa, giữ lửa: sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.
5. Những suy ngẫm về bà và hình ảnh bếp lửa (khổ 6)
– Cụm từ chỉ thời gian dài, đằng đẵng: đời bà, mấy chục năm rồi
– Từ láy: lận đận + đảo ngữ
– Hình ảnh ẩn dụ “biết mấy nắng mưa”
→ cuộc đời gian nan, vất vả và sự tần tảo, đức hi sinh, chịu thương, chịu khó của bà → Hình ảnh của người
phụ nữ Việt Nam giàu đức hi sinh.
– Điệp từ “nhóm”:
+ Từ “nhóm” (nhóm bếp lửa) → mang nghĩa gốc: chỉ hoạt động làm cho lửa bén và cháy lên.
+ Từ “nhóm” (nhóm nồi xôi, nhóm niềm yêu thương, nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ) → nghĩa chuyển
theo phương thức ẩn dụ → khơi dậy và sáng lên niềm yêu thương, những kí ức đẹp, có giá trị trong cuộc
đời con người.
– Điệp từ “nhóm” → nhấn mạnh và khẳng định giá trị lớn lao của những việc bà đã làm: nhóm bếp lửa →
khơi dậy tình yêu thương, sự sống, niềm tin và nghị lực.
→ Bà không chỉ nhóm bếp lửa – công việc khởi đầu của một ngày mà còn làm công việc khởi đầu cho một
đời, một tâm hồn – nhóm lên những yêu thương, suy nghĩ đầu tiên về cuộc đời, về con người trong tâm hồn
đứa cháu. Người bà cũng là người nhóm lửa, giữ lửa, và truyền lửa cho các thế hệ – ngọn lửa của sự sống,
niềm yêu thương, tin tưởng.
+ Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa!
+ Câu cảm thán và cấu trúc đảo → ngạc nhiên, ngỡ ngàng như khám phá ra một chân lí, một điều kì lạ giữa
cuộc đời bình dị.
30
+ Bếp lửa ấy luôn hiện diện cùng bà – với vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại và đầy yêu thương → nhớ về bếp lửa,
nhớ về bà, nhớ về cội nguồn → Cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao mà tình nghĩa.
6. Tình cảm của cháu dành cho bà, dù đã khôn lớn (khổ cuối)
– Khổ thơ cuối là lời tự bạch của người cháu khi đã trưởng thành
– “Giờ cháu đã đi xa” + dấu chấm giữa dòng thơ → khoảng cách về không gian thời gian.
– Điệp ngữ “có” + biện pháp hoán dụ “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả”
→ cuộc sống đủ đầy, hiện đại.
– Câu hỏi tu từ thể hiện nỗi nhớ khôn nguôi với niềm hi vọng thiết tha, đau đáu về bà – bếp lửa – quê hương
– đất nước.
→ Khẳng định nỗi nhớ bà – nhớ về nguồn cội. Bà và quê hương yêu dấu là điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần
vững chắc cho cháu trên mỗi bước đường đời. Đó là đạo lí thủy chung cao đẹp của con người Việt Nam
được nuỗi dưỡng trong mỗi tân hồn từ thuở ấu thơ và trở nên bất diệt.
II. BÀI TẬP
1. Phân tích ý nghĩa nhan đề
2. Phân tích nội dung từng khổ
3. Ý nghĩa của hình ảnh bếp lửa
4. Tình bà cháu trong bài thơ “Bếp lửa”
I. ÁNH TRĂNG (NGUYỄN DUY)
1. Tác giả:
- Nguyễn Duy (1948) quê ở Thanh Hoá.
- Ông thuộc thế hệ nhà thơ quân đội trưởng thành trước cuộc chiến chống Mỹ cứu nước.
- Sau chiến tranh, Nguyễn Duy vẫn say sưa và tiếp tục con đường thơ của mình. Thơ ông ngày càng đậm
đà, ổn định một phong cách, một giọng điệu “quen thuộc mà không nhàm chán”.
- Thơ Nguyễn Duy có giàu chất triết lý, thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở, day dứt, suy tư.
- Các tác phẩm chính: Cát trắng (thơ 1973), ánh trăng (1978), Mẹ và em (thơ 1987)…
- Tác giả đã được nhận các giải thưởng: Giải nhất thơ tuần báo “Văn nghệ (1973); Giải A về thơ của hội
nhà văn Việt Nam (1985).
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ ra đời năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh. (Ba năm sau ngày kết thúc
chiến tranh, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước).
b. Khái quát nội dung, nghệ thuật:
* Nội dung:
- Bài thơ là lời nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên
nhiên, đất nước, bình dị, hiền hậu.
- Từ đó, gợi nhắc người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ.
* Nghệ thuật:
- Giọng điệu tâm tình, tự nhiên kết hợp giữa yếu tố trữ tình và tự sự.
- Hình ảnh giàu tính biểu cảm: trăng giàu ý nghĩa biểu tượng.
c. Bố cục của bài thơ:
* Mạch vận động cảm xúc: Bài thơ là câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian từ quá khứ đến
hiện tại với các mốc sự kiện trong cuộc đời con người. Dòng cảm xúc của nhà thơ cũng được bộc lộ theo
mạch tự sự. Theo dòng tự sự ấy mạch cảm xúc đi từ quá khứ đến hiện tại và lắng kết trong cái “giật
31
mình” cuối bài thơ.
* Bố cục: Bài thơ chia làm 3 phần:
- 3 khổ thơ đầu: ký ức về vầng trăng trong quá khứ của tác giả và trong hiện tại.
- Khổ 4: tình huống bất ngờ khiến hồi ức lùa về.
- 2 khổ cuối: sự hối hận của tác giả vì đã lãng quên vầng trăng.
d. Nhận xét về sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình:
- Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ, một lời tâm tình kể theo trình tự thời gian. Dòng cảm hứng
trữ tình của nhà thơ men theo mạch tự sự đó. Ở quãng thời gian quá khứ đã có một sự biến đổi, một sự
thực đáng chú ý: bắt đầu từ hồi ức về “hồi nhỏ”, “hồi chiến tranh” sống gần gũi, gắn bó với thiên nhiên,
với vầng trăng: “ngỡ không bao giờ quên – cái vầng trăng tình nghĩa”. Tiếp đó là sự đổi thay của hoàn
cảnh hiện tại: “Từ hồi về thành phố”, con người sống với những tiện nghi hiện đại mà quên đi vầng trăng:
“vầng trăng đi qua ngõ – như người dưng qua đường”.
- Trong dòng diễn biến theo thời gian, sự việc bất thường ở khổ thơ thứ tư: “Thình lình đèn điện tắt”
chính là bước ngoặt để tác giả bộc lộ cảm xúc, thể hiện chủ đề tác phẩm. Vầng trăng tròn ở ngoài kia, trên
kia đối lập với “phòng buyn-đinh tối om”. Chính vì xuất hiện đột ngột trong bối cảnh ấy, vầng trăng bất
ngờ mà tự nhiên đã gợi ra bao kỷ niệm nghĩa tình.
3. Câu chuyện về mối quan hệ giữa nhà thơ và vầng trăng:
a. Hai khổ thơ đầu, tác giả đã gợi lại những kỷ niệm đẹp, tình cảm gắn bó giữa con người và vầng
trăng trong quá khứ.
- Bốn câu thơ gắn với giọng kể thủ thỉ, tâm tình “hồi nhỏ”, “chiến tranh” đã gợi lại một quãng thời gian
dài từ thời niên thiếu đến lúc trưởng thành và nhất là trong những năm tháng gian lao thời chiến tranh. Cả
một quãng thời gian dài có biết bao kỷ niệm đẹp với trăng. Khổ thơ mở ra một khoảng không gian, thời
gian bao la:

“Hồi nhỏ sống với đồng


Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỷ”

- Cuộc sống vất vả gian lao nhưng gần gũi với thiên nhiên: “với đồng”, “với sông”, “với bể”, “ở rừng”.
- Trong dòng hồi tưởng, tác giả đã khái quát vẻ đẹp của cuộc sống bình dị, vô tư, hồn nhiên và khẳng định
tình cảm gắn bó bền chặt của con người với vầng trăng là “tri kỷ”, “tình nghĩa”.
+ Trăng là người ban chia sẻ mọi vui buồn, trăng đồng cam cộng khổ, xoa dịu những đau thương, nham
nhở của chiến tranh bằng thứ ánh sáng mát dịu…
+ Trăng là người bạn đồng hành trên mỗi bước đường gian lao nên trăng hiện diện như là hình ảnh của
quá khứ, là hiện thân của ký ức chan hoà tình nghĩa…

“Trần trụi với thiên nhiên


hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”

- Ở đây vầng trăng được nhân hoá để trở thành người bạn tri kỷ với nhân vật trữ tình của bài thơ. Với sự
gắn bó tình nghĩa ấy nhà thơ đã từng tâm niệm “không bao giờ quên”. Giọng thơ hồi tưởng đều đặn
32
nhưng từ “ngỡ” như báo hiệu trước sự xuất hiện của những biến chuyển trong câu chuyện của nhà thơ.

b. Khổ thơ thứ ba đưa người đọc trở về hiện tại với những đổi thay trong mối quan hệ của nhà thơ
với vầng trăng:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”

- Tác giả đã tạo ra sự đối lập về hoàn cảnh sống của con người trong hiện đại với quá khứ. “Ánh điện của
gương” là cách nói hoán dụ tượng trưng cho cuộc sống đầy đủ, tiện nghi, khép kín trong những căn phòng
hiện đại, xa rời thiên nhiên. Trước đây con người sống với sông, đồng, bể, rừng, thiên nhiên, còn giờ đây
lại sống với những tiện nghi đầy đủ: ánh điện, cửa gương, phòng puyn-đinh.
- Từ đó nhà thơ diễn tả sự đổi thay trong tình cảm của con người lãng quên vầng trăng từng một thời là tri
kỷ. Cái bạc bẽo vô tình đến với người ta từ từ, kín đáo, khó nhận ra: “Vầng trăng tri kỷ, tình nghĩa” trở
thành “người dưng qua đường”. Vầng trăng vẫn “đi qua ngõ” nhưng con người hờ hững, thờ ơ, không còn
nhận ra trăng đã từng là người tri kỷ, tình nghĩa một thời. Con người trong cuộc sống đầy đủ, hạnh phúc,
ấm êm dễ vô tình hay cũng có thể là cố tình quên đi quá khứ gian khổ, đau thương. Tâm lý ấy không phải
là cá biệt. Thế nên người ta vẫn thường nhắc nhở nhau: “ngọt nbùi nhớ lúc đắng cay”, để không bao giờ
quay lưng lại với quá khứ cao đẹp đầy tình người.
- Câu chuyện tâm tình được kể rất giản dị, mộc mạc, giọng thơ thì thầm như đang trò chuyện, giãi bày
tâm sự, lời thơ trữ tình, sâu lắng, qua đó tác giả đã thể hiện những cảm xúc hết sức chân thành. Nhịp thơ
chậm, những chữ đầu câu thơ không viết hoa diễn tả dòng suy nghĩ miên man của nhà thơ.

4. Khổ thơ thứ tư là một tình huống bất ngờ xảy ra làm chuyển mạch cảm nghĩ của tác giả:
- Lãng quên vô tình có thể là mãi mãi nếu không có một bất ngờ. Hoàn cảnh bài thơ được đẩy đến bước
ngoặt mới khi “thình lình đèn điện tắt - phòng buyn-đinh tối om”. Đây là một tình huống rất quen thuộc,
rất thực nhưng cũng tình huống ấy đã tạo nên bước ngoặt để tác giả bộc lộ cảm xúc, thể hiện chủ đề tác
phẩm.
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn"
- Bốn câu thơ với hai từ "thình lình, đột ngột” được đảo trật tự, tạo nên nhịp thơ nhanh, nhấn mạnh sự
việc bất thường: “đèn điện tắt, phòng tối om” > < "Vầng trăng tròn" toả sáng. Tình huống bất ngờ đã tạo
nên sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối. Nơi thành phố hiện đại với ánh điện, cửa gương khiến người ta
chẳng mấy khi cần và ít chú ý đến ánh trăng, chỉ đến khi tắt điện thì mới lại có dịp đối diện với "vầng
trăng tròn". Và trong khoảnh khắc bất ngờ từ bóng tối bước ra ánh sáng, người ta không khỏi ngỡ ngàng,
bàng hoàng khi nhận ra vầng trăng vẫn tròn như xưa, đẹp đẽ, đầy đặn, vẹn nguyên không mảy may sứt
mẻ. Việc "bật tung cửa sổ" chỉ là một việc làm theo thói quen. Nhưng khi người và trăng mặt nhìn mặt thì
tình xưa nghĩa cũ dâng trào lên trọn vẹn, đủ đầy - một sự tình cờ mà như được sắp đặt. Dường như vầng
trăng "tròn vành vạnh" vẫn luôn đứng bên cửa sổ chờ đợi. Trăng xuất hiện đột ngột đã có sức rung động
mạnh mẽ làm thức tỉnh những cảm xúc và đánh thức lương tâm con người.
- Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ toàn bài. Chính cái khoảnh khắc bất ngờ ấy đã tạo nên bước
33
ngoặt trong mạch cảm xúc của nhà thơ.
- Trăng thiên nhiên không phải chỉ khi đèn tắt mưới "đột ngột" xuất hiện. "Đột ngột" diễn tả trạng thái
cảm xúc thảng thốt, bất ngờ của nhà thơ khi nhận ra trăng vẫn tròn, vẫn toả sáng, vẫn đồng hành cùng con
người.

5. Hình tượng vầng trăng và cảm xúc, suy ngẫm của nhà thơ
a. Khổ thơ thứ năm diễn tả sự xúc động mãnh liệt của nhà thơ.
"Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng về bể
như là sông là rừng”
- Nhà thơ lặng lẽ đối diện với trăng trong tư thế lặng im có phần thành kính: “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Từ
“mặt” cuối câu thơ là từ nhiều nghĩa, tạo nên sự đa dạng nghĩa của ý thơ.
+ Nhà thơ đối diện với mặt trăng, người bạn tri kỷ mình đã lãng quên, vầng trăng đối diện với con người
hay nói cách là quá khứ đối diện với hiện tại; thuỷ chung tình nghĩa đối diện với bạc bẽo, vô tình và lãng
quên để tự thú về sự bội bạc của mình.
+ Đối diện với trăng nhà thơ làm thức tỉnh tình cảm, lương tâm con người: như nhìn thấy cả mặt trong đó
và tư vấn lương tâm, hổ thẹn, ân hận về sự thay đổi của mình.
- Cuộc sống đối thoại không lời trong khoảnh khắc ấy đã làm nhà thơ “rưng rưng” xúc động vì quá khứ
vất vả gian lao nhưng tràn ngập niềm vui cùng với trăng, với thiên nhiên bấy lâu tưởng đã lãng quên bỗng
ùa về trong nỗi nhớ. “rưng rưng” nhưng muốn khóc mà cứ nghẹn ngào…
- Cuộc sống hiện tại như ngừng lại để con người soi vào quá khứ, vào một thời họ đã lãng quên - soi vào
chính mình. Có quá khứ xa và gần, đất nước và quê hương, thiên nhiên và cuộc sống, lao động và chiến
đấu, tập thể và cá nhân. Trăng còn gợi lên hình ảnh của hiện tại, sự giàu đẹp, nỗi gian lao vất vả còn phải
phấn đấu, niềm tin và hy vọng, sự hùng vĩ của thiên nhiên và sức mạnh của con người trong cuộc sống
thông qua một loạt các điệp từ “như là” cùng nhịp thơ dồn dập, các hình ảnh liệt kê: “như là đồng là bể –
như là sông là rừng”. Tất cả làm cho người đọc thực sự xúc động và hoà chung cảm xúc với trữ tình của
bài thơ.
b. Khổ thơ cuối thể hiện những suy ngẫm sâu sắc và triết lý nhân sinh của nhà thơ qua hình tượng
trăng.
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
- Trong cuộc gặp lại không lời này trăng và người như có sự đối lập. Trưng đã trở thành biểu tượng cho
sự bất biến, vĩnh hằng không thay đổi. “Trăng cứ tròn vành vạnh” biểu tượng cho sự tròn đầy, thuỷ
chung, trọn vẹn của thiên nhiên, quá khứ, dù cho con người đổi thay “vô tình”.
- Ánh trăng còn được nhân hoá “im phăng phắc” không một lời trách cứ, gợi liên tưởng đến cái nhìn
nghiêm khắc mà bao dung, độ lượng của người bạn thuỷ chung, tình nghĩa, nhắc nhở nhà thơ và mỗi
chúng ta: con người có thể vô tình quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt.
- Tình cảm của trăng, tấm lòng của trăng chính là tình cảm của những người đồng chí đồng đội, của đồng
bào, của nhân dân. Sự im lặng ấy làm nhà thơ “giật mình” thức tỉnh, cái “giật mình” của lương tâm nhà
thơ thật đáng trân trọng, nó thể hiện sự suy nghĩ, trăn trở tự đấu tranh với chính mình để sống tốt hơn.
Giật mình để không chìm vào lãng quên. Giật mình để không đánh mất quá khứ. Con người giật mình
34
trước ánh trăng lặng lẽ là sự thức tỉnh của nhân cách trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp.
- Dòng thơ cuối dồn nén biết bao niềm tâm sự, lời sám hối ăn năn dù không cất lên nhưng chính vì thế
càng trở nên ám ảnh, day dứt.
- Qua đó Ngutyễn Duy muốn gửi đến mọi người lời nhắc nhở về lẽ sống, về đạo lý ân nghĩa thuỷ chung.
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy gây nhiều xúc động bởi cách diễn tả bình dị như lời tâm sự, lời tự thú, lời
nhắc nhở chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ mới lạ.
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy gây nhiều xúc động bởi cách diễn tả bình dị như lời tâm sự, lời tự thú, lời
nhắc nhở chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ mới lạ.
“Ánh trăng” có ý nghĩa sâu sắc, khái quát bởi lời nhắn nhủ không chỉ dành riêng cho những người lính
chống Mỹ mà nó có ý nghĩa với tất cả mọi người, mọi thời – trong đó có chúng ta.
6. Kết cấu và giọng điệu của bài thơ
“Ánh trăng” không chỉ thành công ở triết lý sâu xa của nhân vật trữ tình mà còn thành công ở nghệ thuật
kết cấu, giọng điệu:
- Là sự kết hợp hài hoà, tự nhiên giữa tự sự và trữ tình. Sự việc trong tự sự dẫn mạch cho cảm xúc trữ
tình, làm cho cảm xúc chân thành, tha thiết.
- Thể thơ 5 chữ phù hợp với chất tự sự được thể hiện bằng giọng điệu tâm tình, thấm thía. Cách trình bày
các chữ đầu dòng thơ làm cho các sự việc diễn ra liền mạch về ý tưởng cũng như về hình ảnh thơ.
- Nhịp thơ khi trôi chảy, tự nhiên, nhịp nhàng theo lời kể; khi ngân nga thiết tha cảm xúc; lúc lại trầm
lắng đầy ắp suy tư.
Kết cấu, giọng điệu thơ làm nổi bật chủ đề của tác phẩm tạo nên tính chân thực, chân thành sức truyền
cảm sâu sắc cho tác phẩm, gây ấn tượng mạnh với người đọc.
II. BÀI TẬP
1. Phân tích ý nghĩa nhan đề bài thơ
2. Phân tích mối quan hệ giữa người và trăng trong quá khứ (Khổ 1,2)
3. Phân tích mối quan hệ giữa người và trăng ở hiện tại (Khổ 3)
4. Phân tích tình huống bất ngờ làm chuyển mạch cảm xúc (Khổ 4)
5. Phân tích sự suy ngẫm của tác giả (Khổ 5,6)
6. Phân tích khổ cuối
K. LÀNG (KIM LÂN)
I. LÝ THUYẾT
1. Tác giả
- Kim Lân có tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài (1920 - 2007), quê ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
- Ông là cây bút chuyên viết truyện ngắn và đã có sáng tác đăng báo trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Vốn là người gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống ở nông thôn. Kim Lân thường viết về sinh hoạt làng quê
và cảnh ngộ của người nông dân.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm:
Truyện ngắn “Làng” được viết trong thời kỳ đầu của kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu tiên trên tạp
chí Văn nghệ năm 1948.
b. Khái quát nội dung và nghệ thuật

35
*Nội dung chính: Tình yêu làng quê và lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân phải rời
làng mình đi tản cư đã được thể hiện chân thực, sâu sắc và cảm động ở nhân vật ông Hai trong truyện
“Làng”.
*Nghệ thuật: Kim Lân đã thành công trong việc xây dựng tình huống truyện, trong nghệ thuật miêu tả tâm
lý nhân vật.
3. Tóm tắt
Câu chuyện kể về ông Hai Thu, người ở làng Chợ Dầu. Khi kháng chiến chống Pháp bùng nổ, theo lời kêu
gọi của cụ Hồ Chí Minh, toàn dân tham gia kháng chiến, kể cả hình thức tản cư. Do hoàn cảnh, ông Hai đã
cùng vợ con lên tản cư tại Bắc Ninh dù rất muốn ở lại làng mình chiến đấu. Ở nơi tản cư, tối nào ông cũng
sang nhà bác Thứ bên cạnh để khoe về làng mình rằng làng ông có nhà cửa san sát, có đường thôn ngõ xóm
sạch sẽ. Ông khoe về cái phòng thông tin, cái chòi phát thanh và phong trào kháng chiến của làng, khi kể
về làng mình, ông say mê, háo hức lạ thường. Ở đây, ngày nào ông cũng đều ra phòng thông tin để nghe
tin tức về cuộc kháng chiến, ông vui mừng trước những chiến thắng của quân dân ta. Nhưng rồi một hôm,
ở quán nước nọ, ông nghe được câu chuyện của một bà dưới xuôi lên tản cư nói rằng làng chợ Dầu của ông
theo giặc. Ông vô cùng đau khổ, xấu hổ, cúi gầm mặt đi thẳng về nhà, suốt ngày ông chẳng dám đi đâu,
chẳng dám nói chuyện với ai, chỉ nơm nớp lo mụ chủ nhà đuổi đi. Buồn khổ quá, ông đã tâm sự với đứa
con út cho khuây khoả. Ông chớm có ý định sẽ về làng để xác minh sự thật nhưng lại tự mình phản đối vì
nghĩ về làng chính là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ bởi làng ông đã theo Tây mất rồi. Thế rồi một hôm có ông
chủ tịch xã lên chơi cải chính tin làng ông theo giặc. Ông lão sung sướng, đi khắp làng khoe khắp làng rằng
nhà ông đã bị đốt nhẵn. Tối hôm ấy, ông lại sang nhà bác Thứ kể về chuyện làng mình.

4. Tình huống truyện


- TH1: Ông Hai trong truyện là người rất yêu cái làng chợ Dầu của mình, luôn hãnh diện khoe về làng
mình, thế mà ông lại phải nghe cái tin làng ông theo Tây từ miệng những người tản cư dưới xuôi lên.
- Nhận xét: Tình huống ấy khiến ông đau xót, tủi hổ, day dứt, có sự xung đột giữa tình yêu làng quê và tình
yêu nước, mà tình cảm nào cũng mãnh liệt, thiết tha. Đặt nhân vật vào tình huống gay gắt ấy, tác giả đã làm
bộc lộ sâu sắc cả hai tình cảm nói trên ở nhân vật và cho thấy tình yêu nước, tinh thần kháng chiến bao
trùm lên tình yêu làng, nó chi phối và thống nhất với mọi tình cảm khác trong con người Việt Nam thời
kháng chiến.
- TH2: Khi nghe tin cải chính về làng
- Nhận xét: đây là tình huống hợp lí, giúp mở nút, góp phần thể hiện đầy đủ, sâu sắc chủ đề của tác phẩm.
5. Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai
a. Trước khi nghe tin dữ:
Ở nơi tản cư, tình yêu làng được hòa nhập với tình yêu nước.
- Xa làng, ở nơi tản cư ông Hai nhớ làng mình da diết. Nỗi nhớ làng ấy, khiến ông thay tâm đổi tính: “Lúc
nào ông cũng thấy bực bội trong người, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm, hơi một tí là gắt, hơi một
chút là chửi”.
- Khi được nói chuyện về làng chợ Dầu của ông, ông vui đến lạ thường “Hai con mắt ông sáng hắt lên, cái
mặt biến chuyển hoạt động”.
- Ông quan tâm đến tình hình chính trị thế giới, đến các tin chiến thắng của quân ta.
+ Tin một em bé trong ban tuyên truyền đã xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cầm quốc kỳ trên tháp
Rùa.
+ Có một anh trung đội trưởng sau khi giết được 7 tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng.

36
+ Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người mua hàng đã bắt sóng được tên quan hai bốt ngay giữa chợ mà
“Ruột gan ông lão cứ múa cả lên”, đó là niềm vui của một con người biết gắn bó tình cảm của mình với
vận mệnh của toàn dân tộc, đó là niềm vui mộc mạc của một tấm lòng yêu nước chân thành.
b. Khi nghe tin làng Dầu theo giặc:
+ Nỗi bất hạnh lớn đã đổ sụp xuống đầu ông Hai, ông lão đã sững sờ khiến “cổ ông lão nghẹn đắng lại, da
mặt thì tê rân rân ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được”. Khi ông trấn tĩnh được phần nào, thì ông
còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá rồi, lại khẳng định họ “vừa ở
dưới ấy lên”, làm ông không thể nào không tin.
+ Từ lúc ấy, trong tâm trí ông chỉ có cái tin dữ ấy xâm chiếm hết, nó thành một nỗi ám ảnh, day dứt. Nghe
tiếng chửi bọn Việt gian, ông chỉ biết “cúi gằm mặt xuống mà đi”. Về đến nhà, thì ông “nằm vật ra giường”,
rồi tủi thân khi nhìn đàn con của mình, “nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ làng Việt gian
đấy ư? Chúng nó sẽ bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư?”.
+ Nỗi tủi hổ ấy khiến ông không dám ló mặt ra ngoài. Lúc nào cũng nơm nớp, hễ thấy đám đông nào tụ tập
nhắc đến hai từ “Việt gian”hay “Cam nhông” thì ông lại tự nhủ với bản thân mình “Thôi lại chuyện ấy rồi”.
=> Tác giả đã diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong nhân vật ông
Hai cùng với nỗi đau xót, tủi hổ của ông trước cái tin làng mình theo giặc.
+ Khi nghe tin làng Dầu theo giặc, thì tình yêu làng và tình yêu nước của ông Hai đã có một cuộc xung đột
nội tâm gay gắt. Ông Hai đã dứt khoát chọn lựa theo cách của mình “làng thì yêu thật nhưng khi làng đã
theo Tây thì phải thù”, tình yêu làng, yêu nước đã rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm với làng. Nhưng dù
xác định như thế, ông Hai vẫn không thể dứt bỏ được tình cảm với làng quê, vì thế mà càng đau xót, tủi hổ.
+ Khi mụ chủ nhà biết chuyện làng ông và có ý muốn đuổi khéo gia đình ông đi, ông Hai đã rơi vào tình
trạng tuyệt vọng, bế tắc hoàn toàn. Đi đâu bây giờ? Chẳng ai muốn chứa chấp dân của cái làng Việt gian
đâu. Ông chợt thoáng có ý nghĩ “hay là sẽ trở về làng”. Tuy nhiên ông đã gạt bỏ ý nghĩ ấy bởi “Làng ông
giờ đã theo Tây, về làng cũng có nghĩa là rời bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống nô
lệ”. Nỗi mâu thuẫn trong nội tâm và tình thế của nhân vật như đã thành sự bế tắc, đòi hỏi phải được giải
quyết.
+ Tuy đau khổ, nhưng ông không biết tâm sự cùng ai ngoài đứa con bé bỏng. Yêu làng Dầu, ông muốn
khắc sâu vào trái tim bé nhỏ của con tình cảm với làng, với kháng chiến, với Cụ Hồ, đó cũng là tấm lòng
thuỷ chung “trước sau như một” với cách mạng của ông. Đây là một đoạn văn diễn tả rất cảm động nỗi lòng
sâu xa, bền chặt và chân thành của ông Hai - một người nông dân - với quê hương, đất nước, với cách mạng
và kháng chiến. Ngần ấy tuổi đầu rồi mà nước mắt ông cứ ròng ròng khi nghĩ về làng. Nỗi đau ấy giờ mới
đáng trân trọng làm sao bởi đó là nỗi đau của một con người danh dự của làng như chính bản thân mình.
Qua những lời tâm sự với đứa con nhỏ, thực chất là lời tự nhủ với mình, cũng chính là tự giãi bày nỗi lòng
mình, ta thấy rõ ở ông Hai:
+ Đó là tình yêu sâu nặng với làng chợ Dầu (Ông muốn đứa con nhỏ, thực chất ghi nhớ câu Nhà ta ở làng
Chợ Dầu).
+ Là lòng thuỷ chung với kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng chính là cụ Hồ (Anh em đồng chí có
biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu, trên cổ xét soi cho hai bố con ông). Tình cảm ấy sâu nặng, bền vững
và vô cùng thiêng liêng (Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao
giờ dám đơn sai).

c. Khi tin đồn được cải chính:

37
+ Thái độ của ông lúc ấy thay đổi hẳn “cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Ông lại
tiếp tục chạy đi khoe khắp nơi “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa lên đây và
cải chính cái tin làng Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả”.
→ Vui mừng tột độ, tự hào, hãnh diện khi làng không theo giặc, cũng đồng thời thấy được tình yêu làng,
yêu nước của người nông dân như ông Hai.
6. Đánh giá nghệ thuật xây dựng nhân vật của Kim Lân
+ Truyện đã khắc hoạ thành công nhân vật ông Hai, một người nông dân có tình yêu làng và yêu nước tha
thiết.
+ Đặc biệt, với việc đặt nhân vật vào tình huống cụ thể góp phần thể hiện tính cách, diễn biến tâm trạng
nhân vật.
+ Ngôn ngữ nhân vật có lúc đối thoại, có lúc độc thoại mang đậm chất nông thôn, nhuần nhuỵ mà đặc sắc,
gợi cảm.
Đó là chân dung sống động, đẹp đẽ của người nông dân thời kỳ đầu kháng chiến.
7. Nhận xét tài năng nghệ thuật miêu tả tâm lý và ngôn ngữ nhân vật của tác giả thông qua nhân vật
ông Hai?
- Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật ông Hai
+ Tác giả đặt nhân vật vào tình huống thử thách bên trong để bộc lộ chiều sâu tâm trạng.
+ Tác giả miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua các ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ, đặc biệt, diễn
tả rất đúng và đã gây ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật ông Hai. Điều đó
đã chứng tỏ Kim Lân am hiểu sâu sắc người nông dân và thế giới tinh thần của họ.
- Ngôn ngữ nhân vật: Ngôn ngữ trong truyện rất đặc sắc, đặc biệt là ngôn ngữ nhân vật ông Hai. Những
điểm nổi bật trong ngôn ngữ của tác phẩm:
+ Ngôn ngữ mang đậm tính khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói của người nông dân.
+ Lời trần thuật và lời nhân vật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu, do truyện được trần thuật chủ yếu
ở điểm nhìn của nhân vật ông Hai (mặc dù vẫn dùng cách trần thuật ở ngôi thứ 3).
+ Ngôn ngữ của nhân vật ông Hai vừa có nét chung của người nông dân, lại mang đậm cá tính của nhân
vật nên rất sinh động.
II. BÀI TẬP
1. Phân tích ý nghĩa nhan đề
2. Phân tích tính huống truyện
3. Phân tích diễn biến tâm trạng của ông Hai theo các giai đoạn
4. Phân tích nghệ thuật miêu tả tâm lý và hành động nhân vật ông Hai

38

You might also like